Chương II. Con Cáo Tuyết và Chiếc Nón Lông Đỏ

Hàng đàn chuồn chuồn phát quang bay lượn theo quỹ đạo riêng, dần kết thành những chòm tinh tú lấp lánh trên trần nhà cao vút của sảnh đường. Dưới ánh nến, dòng nước được các anh học việc điều khiển bay lơ lửng như dải lụa, lấp lánh như thủy tinh, kéo vào sảnh. Mỗi cử động tay là một phép màu nhỏ, ban cho đám hoa bảy sắc dưới chân rướn mình đón cơn mưa nhẹ đầu ngày. Đâu đó vẳng lại tiếng bước chân nhộn nhịp của một nhóm chừng chục cô cậu thiếu niên khoác áo xanh lam nhạt xếp thành hàng dài bước vào. Họ đồng thanh ca tụng Nữ Thần Mặt Trăng, rồi ngay ngắn ngồi vào chỗ của mình. Tiếng lật sách sột soạt nghe rõ mồn một. Xung quanh bỗng im bặt khi có tiếng tằng hắng khàn khàn của một cụ già cất lên.

Ngài pháp sư Keemar đang đứng trên bục giảng. Ông ấy trông cao lớn, không phải vì vóc người mà là vì những thứ xa hoa mà ông khoác lên mình: một chiếc mũ chóp nhọn cong vút khảm đầy thứ đá quý xanh đỏ lấp lánh, chiếc áo chùng lụa bóng hới đính đầy những hoa văn, cổ tự thêu tinh xảo. Và không thể thiếu được những thứ khiến người ta nhận ra ngay một pháp sư Iragerath quyền lực và tinh thông ma thuật: hàng tá dây chuyền bằng tinh thể đủ loại rũ dài từ ngang ngực đến quá gối xếp chồng lên nhau, và cả những chiếc vòng tay và nhẫn đeo đầy mười ngón. Bên dưới lớp đá quý đeo kín cả người, chẳng ai thấy được gì ngoài khuôn mặt hầm hầm và đôi mày lúc nào cũng nhíu lại của ông. Lũ học trò không khỏi liên tưởng đến một con cá nóc bảy màu...

- "... Mỗi viên tinh thể lại mang một thuộc tính ma lực khác nhau. Vậy mà bọn Lục địa cứ gọi chúng ta là lố lăng. Ôi chao! Quê mùa!"

Ông vừa nói, vừa cười khanh khách bằng cái giọng ồm ồm quen thuộc. Ông chậm rãi gỡ một chiếc nhẫn vàng to tướng có đính viên đá màu đỏ trên ngón út ra. Một đứa học trò giơ tay, đứng dậy ngay:

- "Thưa, là hồng ngọc. Hỏa hệ."

Ngài pháp sư gật gù. Ông nhẹ nhàng cầm một tờ giấy đưa lên trước mặt, tay kia khẽ nâng chiếc nhẫn hồng ngọc.

- "Flama-rubikta-philis."

Viên hồng ngọc phát sáng, rồi bất ngờ bắn ra một tia lửa làm tờ giấy bốc cháy thành tro. Có vẻ như bọn học trò chẳng lấy làm lạ lắm, những thứ ma thuật sơ đẳng này chúng được chứng kiến hằng ngày.

- "Đá lam ngọc. Thủy hệ." - cô học trò reo lên.

- "Thạch anh tím thuộc linh hệ ạ." - một cậu bạn khác nhanh nhảu chen vào.

- "Mắt mèo đen là... tà hệ ạ..."

Chúng thi nhau nêu tên từng viên đá một.

Đôi khi có những thứ đá xa hoa mà lũ học trò chưa được thấy bao giờ, vì chúng quá đắt hay đơn giản là bị cấm. Vậy mà hàng năm, vẫn có những kẻ buôn lậu đá cấm tuồn ra chợ đen ở Ra'Silquar hàng tấn huyền thạch và đá xà cừ từ Glorierk.

Khi đã chán chê với đống đá quý trên người, ngài pháp sư già lại đổi chủ đề:

- "Ngoài tinh thể ra, các pháp sư còn có thể dẫn ma thuật từ đâu nữa?"

Cả lớp bàn tán xì xào. Ở đất Iragerath này, phần lớn con người ta dẫn ma pháp từ các loại đá, rẻ tiền có, đắt tiền có. Đá đã qua nhiều lần làm phép, nứt vỡ, chuyển màu xám tro, bán lại giá hời cũng có. Thành ra những kẻ nghèo hèn không mua nổi một mụn đá phải sống tạm bợ nơi rìa các phố thị, làm việc bằng chân tay thì kiếm miếng ăn đã khó, kiếm được chỗ trú nơi xa hoa như thành phố là điều không tưởng.

- "Hãy nhìn các Hóa thú sư quanh thành phố này xem. Họ có cần nhiều trang sức không? Hay là bẩm sinh đã hóa thân được?" - lão Keemar ôn tồn hỏi - "Linh thú của họ, phép thuật của họ từ đâu ra?"

- "Từ linh hồn ạ!"

Một giọng nói lạ đầy tự tin vang lên giữa phòng. Chẳng ai để ý cho đến khi họ nhận ra đó chỉ là một anh quét dọn sảnh đường.

- "Các pháp sư mang ma lực bẩm sinh có thể vận phép từ chính linh hồn của họ. Mỗi linh hồn lại mang một thuộc tính khác nhau, cứ như các viên đá vậy." - anh chàng không ngần ngại nói tiếp - "Nhưng nếu vận phép nhiều quá mà không kịp nghỉ ngơi hay hồi phục, linh hồn của họ sẽ vỡ ra từng mảnh và trôi tuột vào Cõi Vô Định."

Đám học trò chỉ biết ồ lên một tiếng, rồi lại xì xào to nhỏ. Ông pháp sư đứng ngây ra không nhúc nhích, trố mắt nhìn. Không ai hiểu tại sao ông ấy chẳng đuổi cổ anh quét dọn ra như những kẻ khác mà chỉ đứng đấy nhìn anh trai đang cười khoái trá.

Bỗng nhiên, đâu đó vọng đến tiếng bước chân huỳnh huỵch kéo vào từ ngoài sảnh. Tất cả mọi người trong phòng tò mò hướng mắt ra ngoài cửa chính. Một toán binh lính bước vào, đứng gọn thành hai hàng. Nhìn thấy những thanh đao kiếm khảm ngọc đeo trên mình, lão Keemar nhận ra ngay đó là lính hoàng gia.

Tên cầm đầu bước lên trước và chào hỏi ông pháp sư. Bộ giáp ánh bạc lấp lánh có đúc hình vầng trăng mà gã đang mặc cũng không thể lấn át được chiếc đầu hói bóng loáng của gã.

- "Đức Mẹ phù hộ, ngài Keemar. Ngài có thấy một kẻ lạ mặt khoác áo chùng của tu sĩ Nguyệt Đài chạy vào đây không?"

Cả lớp học nháo nhào lên, bàn tán sôi nổi. Lão Keemar nhẹ nhàng hắn giọng, ra hiệu cho đám học trò ổn định lại. Xong xuôi, ông mới bảo:

- "Đức Mẹ phù hộ anh. Và không. Ta không thấy người nào mặc áo tu sĩ cả. Chẳng hay anh có việc gì mà lại hối hả vậy?"

Như chạm đúng dây thần kinh nói, gã tướng bắt đầu run lên, Hắn ôm lấy ngực, hai mắt long lanh, mếu như khỉ ăn ớt:

- "Chỉ trong một đêm mà có biết bao nhiêu chuyện xảy ra! Thật làm cho nhà vua của xứ sở phép thuật khổ tâm hết sức. Một bậc quân vương - ngài Vul'ratha - thức giấc trước cả vầng dương. Khi mặt trời chỉ mới ló rạng đằng sau những mái ngói lợp xanh đỏ, khi chim muông chỉ mới cất tiếng hót gọi nhau đầu tiên, ngài đã chuẩn bị khăn áo nghiêm trang để đích thân đến Nguyệt Đài cầu nguyện cho thần dân của mình được an lành."

Nói đoạn, gã bật khóc như diễn tuồng. Cả lớp bụm miệng cười. Vài anh thích chí, mặt đỏ cả lên. Gã tướng thấy ngượng, vội lấy tay lau nước mắt, nói tiếp:

- "Ấy vậy mà lại có tên mắc ôn mắc dịch nào đấy dám lập mưu ám sát ngài, cả gan giả trang thành một tín đồ trong Nguyệt Đài rồi nhân lúc chẳng ai để ý mà ra tay. Nhưng may có thần linh chứng giám! Ngài Vul'ratha chỉ bị cắt vào tay và chảy máu một chút thôi. Đức Mẹ phù hộ!"

Nghe đến đây thì cả sảnh đường không nhịn được mà hét lên inh ỏi. Tin này mà để lan ra ngoài thì phải gọi là chấn động bốn bể! Nhưng lão Keemar chưa kịp trấn an cả lớp thì gã tướng quân bất ngờ gầm lên:

- "NÀY! Ngươi! Đứng lại đó."

Cả lớp im bặt, nhìn theo. Gã chỉ tay về phía anh chàng quét sảnh, lúc này đã lặng lẽ quét đến cuối lớp.

- "Quay mặt qua đây cho ta xem!"

Anh chàng không nhúc nhích. Tên tướng hậm hực chạy lại gần, túm lấy cổ áo của anh chàng. Vừa lúc ấy, trong tà áo anh phát ra một ánh sáng xanh lam, rồi vút một cái, anh hóa thành một con cáo tuyết, phóng đi.

XOẢNG!

Tên tướng chạy ra hướng cửa sổ vỡ, thò đầu nhìn ra. Con cáo giờ lại hóa thành người: chính anh chàng quét sảnh ấy giờ đây đang mặc chiếc áo chùng của tu sĩ Nguyệt Đài, hí hửng trượt từ mái nhà xuống đường phố, chuồn mất.

- "Báo cho trinh sát Mendir. NGAY!"

***

Sáng sớm, người dân Iragerath được một phen náo động, từ khắp các ngõ ngách trong kinh đô Ra'Silquar đang truyền tai nhau vụ bốn, năm chiếc thuyền cá của người Victora bị đánh chìm ở ngoài biển phía nam. Chết thật! Chúng nó đồn rằng người Iragerath truyền bệnh cho chúng, rồi giờ lại mò đến? Ai nấy cũng đều lo lắng, trộm nghĩ nếu lỡ có nhiều con thuyền khác mang theo dịch bệnh đến cho họ thì họ phải xử lí như thế nào cho phải. Nhưng còn một chuyện khác mà người ta tò mò hơn cả, chính là bọn nhân ngư đã đánh chìm những chiếc thuyền đó. Lần đầu tiên sau hàng ngàn năm, chúng dám bén mảng đến lãnh thổ của Iragerath. Người ta dự rằng sắp có chuyện gì đó chẳng lành.

- "Tôi chưa bao giờ nghĩ chúng lại đi xa Bắc Hải đến vậy."

- "Có khi nào chúng đang âm mưu gì đó không? Làm đắm thuyền để thị oai?"

- "Thách cả họ nhà chúng nó cũng chẳng dám làm gì chúng ta nữa. Ông cũng biết bố tôi là ai mà."

- "Ông đừng có mà lơ là..."

Mấy người đi chợ xì xầm với nhau trên đường về.

Cả kinh đô bổng như nổ tung, vừa hết tin kinh thiên này lại đến tin động địa khác. Người người ùa ra đường xem quân lính đuổi bắt tên sát thủ. Họ đứng nườm nượp khắp lối đi trên phố, bàn tán không ngớt.

- "Biết tin gì chưa? Đức vua mới vừa bị ám sát đấy."

- "Trời, thật ư?"

- "Thật. Nghe đâu ổng bị cắt tay, giãy đành đạch đành đạch trên lễ đường ấy, chết queo luôn."

- "Ghê vậy ta."

- "Ừ, chuyện này tôi nghe người ta kể lại, chính xác mười phần trên mười luôn. Nói điêu làm chó. Tôi còn nghe người ta nói..."

- "Ủa linh thú của ông là chó mà..."

Mấy người đi chợ xì xầm với nhau trên đường về.

Tên sát thủ nọ vẫn còn mặc bộ đồ của tu sĩ Nguyệt Đài, phóng như bay qua biển người đông nghẹt trên đường. Hắn khẽ nhìn lọ máu nhỏ đang giữ chặt trong tay, ngoái đầu lại trêu chọc bọn người đang hớt hãi đuổi theo. Đấy là toán lính cận vệ Hải âu mà người dẫn đầu không ai khác chính là tay cung thủ cừ khôi trung thành của đức vua - Feliath Mendir. Ông ta lao nhanh vun vút về phía trước, mái tóc dài màu bạch kim lất phất sau lưng. Ông giương cây cung to tướng của mình lên vừa nhắm vừa rượt theo sau tên sát thủ.

Nhưng tên ấy cũng ranh ma lắm, hắn lách vào những chỗ đông người làm Mendir không dám bắn, lại nhảy lọt tỏm vào cửa sổ của mấy ngôi nhà có giăng bẫy phép rồi bất thình lình phóng ra ngoài bằng một cái lỗ nào đấy trên tường. Xem cái cách hắn nhảy ra nhảy vào nhẹ nhàng mà thoăn thoắt cứ như một con sóc vậy, trong khi ông Mendir thì chật vật né mấy cái bẫy giăng nghịt dưới chân. Ông không trông chờ gì bọn lính Hải âu mà mình dắt theo lúc nãy nữa, chúng đã bị bỏ lại phía sau một đoạn xa tít.

Người dân cũng mong có một lần lập công, đặc biệt với tội trạng ám sát nhà vua thì ắt hẳn sẽ được thưởng lớn lắm. Một bà già nào đấy vung đũa phép vào tên sát thủ, kết quả là đánh bay hàm răng giả bằng pha lê màu hường long lanh của một ông già nào đấy khác đang hóng chuyện. Lại một ông già lọm khọm nọ chà chà chiếc nhẫn ma thuật của mình rồi thổi phép vào tên sát thủ, nhưng hắn lại né được, vậy ra bộ đầm tím lịm của bà già hóng chuyện bên kia đường cũng bay tuột ra rồi bốc lửa nổ lóc bóc như đốt pháo. Cả đường phố nháo nhào lên, ai có tay dùng tay, ai có đũa dùng đũa, không có đũa thì dùng nhẫn, sách, dây chuyền... Hễ cứ cái gì dùng làm phép được thì họ đều vung ra hết, vậy mà tên sát thủ vẫn chuồn mất còn lão Mendir thì khốn đốn vượt qua đống bùa chú hỗn tạp giăng đầy đường đi của mình.

Toán quân Hải âu cuối cùng của Mendir đã tách ra từ trước giờ đang đón đường tên sát thủ. Hắn vượt ra khỏi con phố, phóng thẳng vào khu rừng bạch đàn tối om dẫn ra bờ biển. Nhưng Mendir vẫn không chịu thua, ông ta nhảy lên mái nhà cao nhất gần đấy, đưa đôi mắt sắc lẹm của mình dõi theo những chuyển động của tên sát thủ. Ông dẫn phép từ mặt dây chuyền cẩm thạch to tướng trước ngực, rồi giương cung: mũi tên lao ra, xé gió cắm phập vào thân cây bạch đàn cạnh hắn và phát nổ, tỏa ra ánh sáng màu lục kì dị làm rực lên một góc khu rừng. Ông lại nhanh tay bắn mũi tên thứ hai, và cũng như lần trước, suýt thì trúng đích nhưng hắn vẫn né được. Bọn binh lính đuổi theo ra sức niệm thần chú, từ trong bàn tay những tia lửa xoẹt ra xé toạc cả những thân cây tội nghiệp. Mải rượt đuổi, bọn chúng có tên thì vấp phải đá, có tên mắc phải cành cây té bổ nhào. Cho đến cuối cùng chỉ còn lại vài tên mệt lử dám đuổi theo.

Mặt trời lên cao soi nắng vào khu rừng, ánh sáng xuyên qua những thân cây bạch đàn cao lớn in bóng trên mặt đất thành những đường vân vàng đen xen kẽ dễ khiến người ta hoa mắt. Tên sát thủ vẫn bình tĩnh chạy đi thật nhanh. Hắn bỗng đưa tay làm mấy động tác ma thuật, ánh sáng màu xanh lam phát ra từ bàn tay tạo thành một cái khiên chắn phép. Hắn vừa đưa lên che đầu thì mũi tên của Mendir từ trên lao xuống ghim thẳng vào cái khiên. Hắn bất ngờ hất nó ra phía sau, mũi tên phát nổ làm bọn lính đang đuổi theo phải choáng váng.

- "... hai trăm hai mươi ba, hai trăm hai mươi bốn, hai trăm hai mươi lăm... còn nửa đoạn đường mới đến gốc cây năm trăm năm mươi... Ủa...?"

Hắn vừa chạy vừa đếm từng cây bạch đàn trên con đường mòn, và như đã tính toán từ trước, hắn vứt lọ máu của vua Vul'ratha vào một gốc cây có làm dấu. Đến bìa rừng là một cái dốc đầy những hòn đá to nhọn hoắt dẫn ra bờ biển, nơi những con thuyền neo ở đó đang đón ánh dương rực rỡ. Từ trong người hắn phát ra ánh sáng màu xanh với những kí tự ma thuật vây xung quanh, hắn nhảy xuống cái dốc, xoay người một cái. Trong chớp mắt hắn biến thành một con cáo tuyết trắng muốt, nhanh nhẹn nhảy qua bãi đá hiểm hóc, chạy mất. Bọn lính đến sau cũng biến thành những con hải âu bay lảo đảo khắp nơi để dò tìm nhưng chẳng thấy bóng dáng hắn đâu cả. Ông Mendir cùng bọn lính đành để mất tên tội phạm.

***

- "Lão già đó sẽ điên lên mất." - tên sát thủ tự nói với mình, cười khoái chí.

Bơi vào bờ một hòn đảo hoang, hắn lột bỏ bộ đồ tu sĩ để phơi khuôn mặt điển trai của mình ra nắng sớm, lấy tay ép lại mái tóc đen ngắn bị gió thổi dựng ngược lên rối bù. Hắn thay bộ áo quần mới vào. Từ bên mõm đá xa xa có tiếng chửi léo nhéo:

- "Mày tới trễ. Mày tới trễ."

Một con vẹt xanh nhỏ thó bay lại gần, chửi bâng quơ. Nghe có vẻ như nó rất sỏi tiếng người.

- "Tao phải lấy máu của Vul'ratha, là vua Nacrica Vul'ratha đó, đâu phải dễ." - hắn cáu - "Bọn chúng còn gán cho tao cái tội ám sát nữa chứ, nhưng tao chỉ muốn lấy máu thôi. Chạy khỏi bọn hải âu phiền phức đó cũng nhọc lắm, còn mày thì ở đây luyên thuyên chả được tích sự gì."

Con vẹt đấy vỗ cánh phành phạch trên đầu, chửi:

- "Ai bảo mày ngu quá. Mày mà bị bắt chắc tao cười sáng đêm khỏi ngủ luôn."

- "Tao đang thèm món chim nướng đó, mày liệu hồn." - hắn thở dài - "Sao sư phụ lại mua cho một con gà xanh lắm mồm như mày đi theo tao nhỉ."

- "Mày nghĩ tao muốn theo mày lắm chắc? Cũng vì đồng tiền bát gạo cả thôi, lão mua tao với giá hai rương vàng đó. Đâu có như mày bị sai vặt không công..."

Con vẹt không biết "học vẹt" này có thể hiểu và nói như người, vì vốn y là người đấy! Xưa kia y là một học giả đoản mệnh, vì thiếu tiền đánh bạc mà bị tẩm quất đến nỗi hồn bay thoát xác. Còn mắc nợ hội pháp sư Nguyệt Đài tiền học phí, vậy nên mới bị bắt hồn rồi nhốt vào xác một con vẹt khốn khổ và lắm mồm như hiện tại. Những con vẹt kiểu ấy không hiếm ở Iragerath, người ta cứ hồi sinh những kẻ mắc nợ đời để ngày ngày đọc kinh sách mà trả, hay là làm nhiệm vụ khác tùy chủ. Nhưng tuyệt nhiên các phép hồi sinh người chết vào thân thể khác lại bị cấm, thật lắt léo! Hắn cứ mặc con vẹt ấy, chăm chú quan sát xung quanh hòn đảo thật kĩ càng.

Hòn đảo hoang này, thực ra gọi là "hoang" cũng không đúng, vì thỉnh thoảng vẫn có người lui tới để lập đàn cúng tế hay làm mấy lễ hiến sinh gì đó, lâu dần ám đầy tà khí nên chẳng ai thèm sống ở đây nữa. Tên sát thủ bắt gặp một xác người nằm kẹt trong khe đá bên bờ, tay vẫn nắm chặt cái gì đó trong như cái nón vải có đính một chiếc lông màu đỏ rực. Chắc là người dân vượt biển bị đắm thuyền đêm qua. Hắn lại gần xem, đưa tay lên mũi kiểm tra.

- "Còn thở, nhưng hơi yếu." - hắn tự nhủ.

- "Ai rảnh đâu mà cứu, mất thời gian." - con vẹt nói - "Ê đi lên kia chơi."

- "Sao mày vừa xấu chim vừa xấu nết nữa vậy hả, Parrick?"

Hắn túm lấy mỏ con vẹt, quyết định để người đàn ông lại đó một lát, còn mình tìm chỗ kín để nấp. Đúng như dự đoán, bọn lính Hải âu thăm dò qua nơi này, nhưng chúng chẳng tìm được một sợi lông cáo nào mà chỉ thấy cái xác bên bờ kia. Để khỏi vướng bận phiền phức, chúng lờ đi như chưa thấy gì, hóa thành chim rồi bay về. Đến trưa, khi đã hoàn toàn khuất bóng bọn hải âu, tên sát thủ mới cẩn thận nhóm một đống lửa nhỏ rồi kéo gã đàn ông kia lên cạn.

Sau khi bắt được vài con gà hoang, hắn trở lại thì thấy anh chàng nọ đã tỉnh, bần thần ngồi nhìn chiếc nón vải trên tay không rời mắt. Hắn xốc cái túi vải cũ kĩ đựng đầy những viên đá nhỏ đủ màu sắc, lựa ra một viên màu đỏ, ném vào đống lửa sắp tàn. Lửa bùng lên.

- "Ừm, chào..." - hắn hạ giọng - "Anh ổn chứ?"

Một lát sau người kia mới nhìn lên, rồi lại nhìn xuống cái nón, ngơ ngơ như người mất hồn.

- "Đây là đâu?"

- "Iragerath. Sẵn tiện, tôi là Zeft. Anh vừa bị một cú choáng phép thuật khá nặng đấy, nhưng đừng lo, anh sẽ sớm khỏe lại thôi."

Hắn vò nát đống cỏ thuốc vừa hái được, đưa lên gần miệng rồi lẩm nhẩm gì đó. Một làn khói sáng mờ mờ bay ra, hắn thổi vào người anh chàng kia.

- "Anh là người Victora à? Anh tên gì nhỉ?" - hắn hỏi vu vơ, đặt con gà lên đống lửa.

Người kia gầm mặt xuống, không trả lời.

Trong thoáng chốc, anh bỗng khựng lại, nhìn quanh. Cảm giác tội lỗi choáng ngợp trong tâm trí làm anh đau khổ tột cùng. Lẽ ra anh không nên đưa mọi người đến Iragerath, lẽ ra họ đã có cơ hội để sống tiếp, lẽ ra...

Mãi sau Zeft mới moi ra được tên anh chàng tội nghiệp kia là Will. Trông anh cọc thế, cứ lăm lăm nhìn cái nón nọ, mà hai mắt cứ long lên giận dữ, rồi nước mắt như chực trào ra...

- "Họ... họ chết hết rồi... đúng không?"

- "Ai cơ?"

Zeft bấy giờ vẫn còn loay hoay với con gà nướng, bỗng chưng hửng. Hẳn là Will hỏi về những người trên đoàn thuyền. Zeft cố lờ đi vì không biết phải nói thế nào. Quả thật là sáng nay tin từ ngoài biển truyền vào nói rằng không có một người nào được tìm thấy quanh đống đổ nát của mấy con thuyền, có lẽ nếu thoát khỏi bọn Nhân ngư thì họ cũng bị bão cuốn đi hay bị cá mập xử rồi. Anh chàng cố tìm ra một lời an ủi sao cho thật dễ nghe, dễ đi vào lòng người, kiểu như...

- "Chết sạch rồi!" - con vẹt nói oang oang.

- "Parrick! Con chim chết tiệt này."

Zeft bốc một viên đá màu xanh trong túi ném vào con vẹt để đuổi nó đi. Viên đá nổ lóc bóc, nước bắn lên tung tóe cùng tiếng kêu la thảm thiết của con vẹt ướt át. Anh quay sang vội đánh trống lảng để "chữa cháy":

- "Lông chim hỏa điểu đấy, trên cả quý hiếm." - Zeft chỉ vào chiếc lông đỏ trên cái nón, đọc vanh vách một câu từ trong sách - "'Những chiếc lông từ loài chim tưởng chừng chỉ có trong thần thoại giúp người cầm chúng không bao giờ bị chìm xuống nước.' Anh mua ở đâu vậy? Hay nhặt được?"

Vậy ra thứ này đã khiến Will không chết đuối mà sống đến tận bây giờ. Nhưng con gái anh, vợ anh, cả những dân làng vô tội nguyện ý đi theo anh thì không. Will run lên tức giận, nắm tay đấm huỳnh huỵch xuống đất mà gào trong buồn tủi.

Zeft lê mông ngồi xa ra một chút vì hơi sợ. Trông Will giờ đây như một con thú dữ vậy, dù bị thương nhưng vẫn còn dữ. Anh chàng khá lo cho kẻ lưu lạc tội nghiệp này, mất đi cả gia đình quả là một trải nghiệm khủng khiếp. Cũng may cho Zeft, anh làm gì có gia đình để mà mất đâu? Chỉ là anh mất trí nhớ, được sư phụ mang về dạy cho phép thuật, có lẽ gia đình duy nhất Zeft có bây giờ là ông ấy và con vẹt khó ưa kia... Anh chàng đưa mắt nhìn sang con chim xanh bé nhỏ, đôi mắt đen bỗng đượm buồn lo lắng, rằng lỡ một mai anh mất đi gia đình nhỏ của mình, mất đi con vẹt lắm mồm đó, anh sẽ phải sống ra sao...

- "Nhìn gì, thằng ăn hại?" - nó dí cái phao câu vào mặt Zeft.

- "Tao giết mày!"

Zeft xé cái đùi gà nướng to nhất, phủi phủi mấy chỗ bị khét, rồi quăng cho Will. Cái đùi gà thơm phức khó cưỡng, nhưng anh không chụp, nó rớt lăn quay xuống đất.

- "Tao xí trước à nha." - Parrick quặm lấy, ì ạch lôi đi.

Will vẫn thất thần, nhìn cái nón vải không rời mắt. Zeft cũng chẳng biết nói gì hơn, ngồi nép vào một bên để tránh tầm nhìn của Will. Zeft vừa nhâm nhi con gà nướng vừa trông chừng Will như thể sợ anh mọc cánh bay mất ấy. Lát sau, như thể sợ sẽ làm kinh động đến anh chàng tội nghiệp, Zeft thỏ thẻ:

- "Đi Victora không?"

Will vẫn im lặng, đăm chiêu nhìn chiếc nón. Zeft cũng thôi không nói gì nữa, mà lọ mọ tìm chỗ khác ngồi, thỉnh thoảng liếc nhìn. Mãi một lúc sau, Will mới lên tiếng, vẻ mệt mỏi:

- "Nơi đó chẳng còn lại gì cho anh đâu, phù thủy ạ."

- "Ừm, 'pháp sư' mới đúng nhé." - Zeft liếm mép - "Tôi có nghe nói về dịch bệnh ở bắc Baly, nhưng tôi định đi vào nam cơ."

Will chợt cười khinh khỉnh, lắc đầu:

- "Afridien xây thành chặn ngang Baly rồi, không ai vào được cả. Có khi phải đi vòng xuống Glorierk..."

- "Úi, chuyện đó tôi lo được, chỉ là..."

Zeft thong thả ngoạm miếng thịt gà. Anh mút mút mấy ngón tay:

- "... chỉ là tôi muốn có người đi cùng thôi, với lại tôi cũng cần người dẫn đường nữa. Tôi chưa đến đó lần nào... Thật ra đây là lần đầu tiên tôi được ra khỏi thư viện của thầy tôi." - Zeft nói.

- "Tôi sẽ không đi đâu cả." - Will nói, nắm tay siết chặt - "Thà rằng anh đừng cứu tôi..."

Zeft khép nép ngồi lại, im bặt. Will lại nghĩ đến chuyện hôm trước, lại buồn. Mà mỗi lần buồn thì Will lại điên lên. Người ta quả có nhiều cách để cho người khác biết họ đang buồn nhỉ. Zeft cũng hay buồn nhưng chưa nổi điên với ai bao giờ, ngoài việc đọc thêm sách hay nhốt con Parrick trong nhà xí thì anh chả biết làm gì khác để giải khuây cả. Anh cũng chẳng quan tâm lắm, chỉ là anh thấy tội nghiệp Will thôi. Trước mắt còn có nhiệm vụ phải làm cho sư phụ, nên nếu anh ta muốn ở lại thì tùy, Zeft sẽ đi một mình vậy.

- "Anh muốn sao cũng được. Nhưng tôi cứu anh không phải để anh chết lần nữa đâu nhé. Chết đi rồi anh sẽ không bao giờ trả thù được cho người của mình..." - Zeft đứng dậy, vươn vai.

- "Trả... thù...?" - Will lầm bầm.

Zeft trợn mắt nhìn Will, ngộ ra mình đã nói gì đó không nên. Anh vứt miếng xương gà xuống đất, rón rén chuồn đi mất.

Trời khuya, trăng đã lên cao soi sáng hòn đảo hoang từ lúc nào. Miếng gà mà Zeft chừa phần cho Will vẫn còn đó, lạnh tanh. Anh nhắm nghiền mắt, lắng nghe từng tiếng sóng vỗ vào bờ đá, từng tiếng một dồn dập. Bấy giờ trong lòng anh đầy rẫy những suy nghĩ mông lung, có khi dữ dội, có khi mơ hồ khó tả. Mọi chuyện xui xẻo xảy ra với anh như một trò đùa của đấng bề trên giáng xuống vậy. Nhưng anh vẫn cảm thấy tội lỗi, tự trách.

Zeft đã đi mất tăm mất tích từ chiều tối đến giờ, rồi bất ngờ trở lại cùng một con thuyền buồm cỡ vừa. Anh thay bộ quần áo mới, vắt hai con dao ngắn bên hông, xong xuôi lại cập vào bờ tìm Will. Con Parrick đậu trên vai anh vừa khi anh nhảy xuống, trong miệng vẫn còn ngậm miếng bánh nhỏ. Thấy Will ngồi thẩn thờ, anh rón rén bước lại gần:

- "Thuyền tôi mới chôm... ừm... tìm được này, anh nhìn xem cũng ngon lành đấy chứ! Tiếc là tôi không tìm được chiếc tàu bay nào phù hợp, thôi thì đi bằng đường biển vậy." - anh ghé mắt nhìn Will xem có đang nghe không - "Tôi sắp đi rồi đấy, anh..."

- "Làm sao để trả thù? Bọn Nhân ngư ấy." - Will đứng phắt dậy.

Zeft giật lùi lại. Anh có hơi sợ người đàn ông trước mặt mình lại nổi điên.

- "Cái đó... tôi không chắc, nhưng... Tôi có quen biết một chuyên gia buôn... thịt nhân ngư ở Silvary ấy..."

Zeft thấy hối hận vì thứ mình vừa cố bịa ra. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, anh không nỡ để Will chết khô ở cái xó này, mặc cho anh ta là ai đi nữa. Biết đâu chừng, anh ta sẽ đền đáp mình bằng một thức quà gì quý giá chăng? Vàng? Đá quý? Trông anh ta nghèo bỏ mẹ. Hay là... cái lông chim đo đỏ kia chẳng hạn...

- "Vậy nếu gặp phải chúng giữa đường thì sao?" - Will hỏi.

- "Chuyện đó anh khỏi phải lo. Tôi là pháp sư mà." - Zeft trả lời.

- "Được, tôi đi cùng anh." - Will dứt khoát, không nói gì thêm.

Anh đã như chết một lần rồi, thêm lần nữa cũng chẳng sao! Nghĩ vậy, anh trèo lên chiếc thang dây, nhảy một mạch lên thuyền, đáp xuống bằng cả hai chân làm một tiếng huỵch rất lớn. Zeft ngớ người ra, trông anh ta cứ như là một kẻ khác vậy, khác hoàn toàn với cái gã ủ rũ cả ngày hôm đó.

- "Ê, con gà nướng thằng đó bỏ lại kìa." - Parrick kêu.

- "Mày chỉ biết có ăn thôi." - Zeft thở dài - "Tao đoán trong đầu hắn giờ chỉ toàn ý nghĩ đâm chém, ôi... Ước gì tao không ngỏ ý mời hắn lên thuyền..."

- "Mày sợ à?"

- "Người đầy lòng hận thù có khác người điên là mấy đâu. Tao cũng đâu có quen biết gì người này."

Con Parrick có vẻ suy tư. Nó lặng im một lát rồi hỏi:

- "Vậy chắc mày có thù hận với ai đó nhiều lắm hả?"

- "Không. Sao mày hỏi vậy?"

- "Trông mày điên bỏ mẹ."

Nó bay đến miếng gà nguội lạnh, rỉa rỉa. Zeft vuốt mặt nhìn nó, rồi cũng lên thuyền.

Đây hẳn là con thuyền Zeft vừa chôm được của tay lái buôn xui xẻo nào đó. Nhổ neo rồi đi xuống khoang, ấy là một căn phòng nhỏ ấm cúng với những ngọn nến lung linh chiếu sáng mập mờ, xung quanh trang hoàng bằng những băng vải đỏ vàng đẹp mắt. Ở giữa là một chiếc giường gỗ be bé chạm khắc hoa hòe tinh xảo, xa xa bên cửa sổ có một cái chum bằng bạc to to. Zeft mở nắp chum, mùi hôi bốc ra từ những viên đá vụn xám xịt đựng ở trong đấy.

- "Đó là gì vậy?"

- "Tinh thạch đấy." - Zeft chìa cái túi đựng đầy những viên đá đủ màu nhưng đục ngầu xám xịt bên hông ra - "Mỗi một loại đá sẽ có một công dụng phép thuật khác nhau. Mấy viên đen đen trong cái chum này là để cho thuyền chạy..."

Zeft đậy nắp lại, vẩy vẩy tay làm mấy động tác phép thuật kì lạ. Con thuyền bỗng rung lắc dữ dội, cái chum sáng lên, rồi đùng một cái, chiếc thuyền lao đi như đang lướt trên sóng, lướt rất nhanh, nhanh hơn bất cứ con thuyền nào khác mà Will đã từng gặp dù buồm của nó vẫn chưa hề được căng. Là dân đi biển thường xuyên, nhưng lúc này Will bỗng thấy trong bụng lộn nhộn, trời đất xoay xoay.

- "Anh cứ nghỉ ngơi ở đây nhé, tôi sẽ ra ngoài kia."

Zeft lửng thửng bước lên bậc thang ra ngoài. Đây sẽ là chuyến phiêu lưu đầu tiên của anh rời khỏi Iragerath (dĩ nhiên ngoại trừ những chuyến phiêu lưu khác khi anh chưa mất trí nhớ, nếu có). Một cuộc hành trình thú vị của anh pháp sư trẻ với một gã điên tội nghiệp và một con vẹt lắm mồm... Khoan đã, con Parrick đã lên thuyền chưa nhỉ?

Zeft bước lên trên, đóng cửa khoang lại. Will ngồi lên giường, ngã lưng xuống, cố gắng quên đi mọi thứ không hay đã xảy ra gần đây. Nhưng anh cứ trằn trọc mãi...

Những tiếng thét trong đầu Will càng lúc càng rõ ràng hơn như có ai đó đang rít bên tai. Hai mẹ con đang ôm lấy nhau, họ nhìn Will bằng ánh mắt tuyệt vọng đầy căm hận. Tất cả như những mũi dao xoáy thẳng vào anh. Rồi họ từ từ chìm vào sau ngọn lửa xanh lục gào thét... Will mở mắt ra, trán đẫm mồ hôi, thở dốc. Cảm giác tội lỗi lại ùa về, càng muốn quên lại càng khó quên. Cảm giác ấy như một con đỉa bám theo dai dẳng hút dần sự sống của anh. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ, trời vẫn còn tối, rõ ràng anh chưa chợp mắt được bao lâu. Cầm lấy cái nón vải của đứa con gái, Will suy nghĩ vẩn vơ, nước mắt chực trào ra mà không kìm lại được. Anh tìm thấy một cái túi nhung đựng đầy những thỏi vàng, đổ ra rồi lùa hết sang một bên, cất cái nón vải vào. Nhìn ra ngoài cửa, hòn đảo Iragerath sáng lấp lánh ma mị như những con đóm trong đêm khuya, vừa sáng vừa xa. Anh thở dài...

Zeft hì hục cột một đồng xu vàng có hình chiếc đinh ba vào dây rồi ném xuống nước như lời thầy dặn. Ông bảo rằng đồng xu này là lá bùa để xua bọn Nhân ngư khỏi thuyền. Anh tin vào từng lời mà thầy nói, chắc mẩm rằng đêm nay anh sẽ đánh một giấc ngon lành chứ không bị chúng "làm thịt".

Zeft đến bên cái bánh lái, bẻ nó qua trái. Con thuyền từ từ chuyển hướng. Ngáp dài một tiếng, anh trải tấm vải mỏng trên sàn rồi nằm xuống, đóng quyển sách đang đọc dở lại kê lên đầu. Con Parrick cũng đã mệt, nó im lặng hẳn, rúc vào gáy anh. Từng tiếng ngáy phì phò của nó cất lên đều đều bên tai. Zeft bỗng ngộ ra một chân lý: may ra chỉ có thuốc ngủ hạng nặng dùng cho heo mới làm nó câm miệng lại được...

Tai Zeft nghe thấy tiếng vo vo đang lúc ngủ chập chờn, anh mơ mng nhớ lại những buổi học về cảm ứng tâm linh với thầy mình. "Ngươi có phải là một pháp sư không? Một pháp sư giỏi sẽ cảm nhận được sự đổi khác của nguồn phép thuật quanh mình". Zeft bừng tỉnh, nhỏm dậy, dáo dác nhìn quanh trong vô thức. Anh có thể nghe thấy tim mình đang đập ong ong bên tai. Một luồn năng lượng xoẹt qua sống lưng làm anh sởn cả gai ốc.

Bỗng đâu Zeft nghe một tiếng nổ lớn đến váng óc vọng lại. Một cột ánh sáng dựng thẳng lên trời phát ra từ đền thờ Mặt Trăng ở Ra'Silquar. Nó chói lòa một ánh tim tím, lao vun vút lên cao và tuôn trào mạnh mẽ như một con thác đổ ngược.

- "Cái gì vậy!?"

Vẫn chưa kịp hoàn hồn, bỗng đâu cánh tay trái của Zeft nóng lên làm anh đau điếng. Zeft bất giác nghiến răng thật chặt, quỳ rạp xuống, ôm cánh tay trong lòng, nén cơn quằn quại.

Trong thoáng chốc, tia sáng như đã chạm đến nơi tận cùng của trời cao, nó lan ra thành một vòng tròn lớn, luồn vào mây đen, tỏa ra đến tận đường chân trời. Có cái bóng đen bay vút lên, rồi cả nó và cột sáng đều biến mất.

Đến khi mồ hôi đã đầm đìa trên trán và cánh tay thôi đau như lửa đốt, anh mới đưa bàn tay hãy còn run lẩy bẩy của mình vạch tay áo lên. Một cổ tự phép thuật kì lạ phát ra ánh sáng xanh lam lờ mờ hiện ra. Cả con vẹt cũng thấy hiếu kì, nó nhảy lên vai anh, chăm chú nhìn. Hai con ngươi của Zeft rực lên một ánh màu lam. Anh bối rối đưa mắt nhìn trở lại chỗ cái cột sáng lúc nãy rồi lại nhìn xuống cánh tay mình. Lúc này Will cũng hớt hải mở tung cửa khoang thuyền, nhưng chẳng ai hiểu cái chuyện vừa rồi từ đâu mà ra.

- "Có chuyện gì vậy?"

Will nhìn Zeft đang ôm bụng quỳ rạp dưới sàn. Bất giác, hình ảnh tên thị trưởng lúc trước vụt qua trong tâm trí. Con dao anh cắp sau lưng, đề phòng.

Lát sau, Zeft từ từ ngồi dậy, rồi lại nằm lăn ra, thở phì. Thấy Will nhìn mình chằm chằm với nắm tay siết chặt, Zeft vội đứng dậy ngay, tươi tắn cười một nụ cười giả trân như chưa có chuyện gì xảy ra:

- "Tôi... Quả thực là tôi không biết nữa. Chắc là người ta phát hiện có thuyền bị mất trộm thôi, hì... Thuyền của ai đó thôi ý mà."

Trông Will còn có vẻ nghi ngờ. Zeft ngó ngang ngó dọc, rồi đột ngột tươi cười như thể vừa nhớ ra điều gì quan trọng lắm:

- "À... tôi nhớ ra rồi! Chắc là mấy đền thờ họ hay... bắn pháo sáng vào buổi đêm ấy mà! Để... để xua tà khí gì đó."

Anh cười khà khà. Nhưng cánh tay thì vẫn giấu ra sau lưng.

Zeft lúng túng nhặt quyển sách của mình lên phủi phủi, liếc nhìn Will. Mặc dù thấy lạ nhưng rồi anh cũng quay về khoang, khóa trái cửa. Lát sau, chỉ còn lại Zeft và con vẹt.

- "Tao nghĩ... Tao vừa thấy gì đó." - "Zeft thì thầm.

- "Có đui mới không thấy! Cái dấu trên tay mày phát sáng kìa. Nó là gì đấy?" - Parrick nói oang oang.

- "Suỵt!" - Zeft giãy nảy - "Không phải cái đó. Ừ thì tao không biết nó là cái gì... Nhưng mà tao không nói tới cái đó..."

Zeft cứ lắp bắp mãi, nói không ra hơi. Một đôi mắt tím sắc lạnh nhẹ lóe lên trong ký ức.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip