Chương 5
Đông qua xuân đến, chẳng mấy chốc đã đến Tết, không khí cũng nhuốm một màu vui mừng. Tôi nhìn sạp quán bày đồ Tết rực một màu đỏ, hai bên đường là những nhành đào nở rộ được bày bán, tiếng người mua người bán nhộn nhịp ồn ã.
Tôi chậm rãi bước đi qua những con đường quen thuộc, ngắm nhìn khung cảnh tấp nập mà năm nào tôi cũng nhìn một lần, thật quen thuộc, nhưng cũng lạ lẫm vô cùng. Quen thuộc vì tôi đã trải qua hơn hai mươi cái Tết, xung quanh là những cảnh vật đã khắc sâu trong trí nhớ. Thế nhưng lại lạ lẫm bởi vì lúc này tôi chỉ có một mình lạc lõng giữa dòng người xô bồ.
Năm nay là năm đầu tiên anh xa nhà, và cũng là năm đầu tiên tôi đi mua đồ Tết một mình. Những năm trước đều là ba hoặc Vũ dẫn tôi đi, họ phụ trách mua đồ, còn tôi chỉ phụ trách nêu ý kiến và ăn vặt. Nếu nói ra sẽ khiến người khác cười chê, nhưng chỉ cần có ba và anh, tôi vĩnh viễn chỉ là một đứa trẻ trong mắt họ, dù cho tôi đã hơn hai mươi và đã làm thầy giáo.
Tôi quen đường quen nẻo đến một sạp bày đồ Tết, nhìn những món đồ mà Tết năm nào nhà tôi cũng mua. Có vẻ thím bán hàng cũng nhận ra tôi, thím lập tức vui cười niềm nở hỏi han.
"Thằng An đấy hả? Sao năm nay đi mua đồ muộn thế?"
"Dạ vâng, con có chút việc bận nên giờ mới rảnh rỗi để mua ạ."
Tôi vừa nói vừa để ý thấy thím đang nhìn ngó xung quanh, hình như đang tìm ai đó. Tôi còn chưa hiểu chuyện gì đã nghe thím hỏi: "Ủa, anh trai con đâu, thằng Vũ ấy? Năm nay nó để con đi một mình vậy hả?"
Tôi ngẩn người, mấy năm trước thím cũng từng hỏi câu như thế này: "Năm nay ông Tám không dẫn con đi mà để anh trai dẫn đi thế này hả?", lúc ấy anh đã trả lời thế nào nhỉ? À, đúng rồi, anh nói: "Ba con mất hồi tháng sáu rồi thím ạ, từ giờ sẽ là con thay ông ấy chăm An."
"Anh Vũ vào nam rồi thím ạ, giờ nhà chỉ còn mình con."
Thím giật mình, kinh ngạc nhìn tôi, rồi dường như thím nhớ tới chuyện gì đó, mắt thím đỏ lên, quay người đi lau giọt nước mắt lăn dài trên má. Lúc quay lại đối diện với tôi, ống tay áo thím đã ướt một mảng, giọng thím trở nên nghèn nghẹt.
"Thế à, vậy con muốn mua gì để thím lấy cho."
Tôi chọn vài món giấy đỏ dán trước cửa, trước khi đi tôi ngoái đầu nhìn thím, trong đôi mắt già nua ấy vẫn còn đọng lại những giọt nước mắt mặn đắng. Túi đồ trong tay tôi chưa bao giờ nhẹ đến thế, bỗng dưng tôi lại chẳng muốn mua thêm đồ Tết nữa, đêm giao thừa tôi chỉ có một mình cô đơn thì làm gì còn Tết nữa đâu.
Tôi đi ngược lại với dòng người, tấp vào một quán chè bánh ven đường, mua của bà cụ bốn cái bánh chưng bé, và ngồi uống nước ngắm cây đào gần đó đương lúc nở hoa. Ngồi ở đây tôi vẫn có thể nhìn thấy thím bán hàng rong vừa rồi, tôi buột miệng hỏi bà cụ bán nước về thím ấy.
Bà khẽ nheo mắt nhìn về hướng tôi chỉ, đến khi nhìn rõ được là ai, bà im lặng một lúc rồi chóp chép miếng trầu trong miệng, lặng đi một lúc bà mới kể.
"Con bé ấy à, tên Hương, nhà ngay gần đây thôi, đúng khổ! Chồng với con trai nó đi bộ đội hồi năm 1960, đi một lèo tám năm trời, một mình nó ở quê lo nhà lo cửa, rồi lại lo chạy thuốc, lo ma chay cho mẹ chồng. Đợt cuối năm 67, người ta gửi thư của chồng nó về, thấy bảo sau Tết sẽ về thăm nhà. Con bé nó mừng lắm, gói mấy cái bánh chưng to bự, trang trí nhà cửa đâu ra đấy."
Bà dừng lại một chút rồi thở dài một hơi, tôi cảm nhận được sự bi thương trong ánh mắt bà.
"Cứ tưởng là gia đình đoàn tụ, có dè đâu, sau Tết người ta lại gửi cho nó hai tờ giấy báo tử của chồng con nó."
Bà nói đến đấy rồi quay người lau nước mắt, còn tôi đã lặng người đi từ bao giờ, tôi không ngờ đằng sau nụ cười niềm nở chào hàng của thím lại là nỗi đau mất chồng mất con. Rốt cuộc, khi nhận được tin, thím đã đau thế nào, và làm cách nào mà thím vẫn còn gượng chống được đến tận bây giờ khi mà về nhà lại chỉ có một mình quanh quẩn trong góc bếp.
Đến tận khi về đến nhà, tôi vẫn chưa thể thoát ra khỏi câu chuyện đau thương của thím ấy, tôi ngồi thẫn thờ dưới hiên nhà nhìn mặt trời lặn. Khi trời đã tối om, tôi mới lững thững quay vào bếp, đơm một bát cơm nguội rồi ăn với muối lạc dưới ánh đèn mờ.
Chỉ một bát cơm vơi mà tôi ăn thật lâu, từ khi mặt trăng mới nhú đến khi trăng đã treo cao đỉnh đầu. Sau khi xong xuôi hết cả, tôi đặt chiếc đèn dầu lên bàn làm việc, mở cuốn sổ kẹp bức thư đã viết được một nửa, tôi đặt bút viết tiếp những câu chữ còn đang dang dở.
"...
Tết về đến quê mình rồi đấy anh, người ta đi sắm đồ nhiều lắm, em cũng mua một ít giấy đỏ về cắt trang trí, em mua của thím mà mọi năm chúng mình hay mua ấy, thím vẫn còn nhớ em. Em cũng vô tình nghe được câu chuyện của thím ấy, buồn lắm, nhưng em sẽ không kể anh nghe bây giờ đâu, đợi bao giờ anh về rồi em kể.
Năm nay trong nhà chỉ có một mình em nên cũng không sắm gì nhiều, không có anh không có ba thì nhà mình cũng chẳng còn Tết, em chỉ coi như đây là một kì nghỉ để thư giãn sau một năm vất vả.
Em đợi anh về gói bánh chưng cho em, chứ em vụng lắm, học các cô các thím gói thì chẳng đi đâu về đâu, chỉ thêm vướng bận tay chân. Thế nên em đành mua bốn cái bánh chưng nhỏ ngoài chợ để thắp hương, hi vọng ba không giận em.
...
Cây đào trong sân nhà mình ra hoa rồi, đẹp lắm anh à, tiếc là năm nay không có ai ngồi trước hiên ngắm cùng em. Nó nở đẹp đến mấy cũng chẳng có tác dụng gì, vì chẳng có người nào thưởng thức cả.
...
Em hái cho anh bông đào nở sớm nhất đấy, nhớ giữ gìn cẩn thận nhé, trong nam không có mà ngắm đâu. Đợi hoà bình rồi em cũng muốn vào nam ngắm hoa mai vàng mà ngày xưa ba hay kể.
Thôi thì, em đợi anh.
..."
Nét bút cuối cùng được viết xong, tôi nhìn trời cũng đã quá nửa đêm, bèn gấp gọn lá thư lại, lấy một bao thư rỗng từ trong ngăn kéo ra, cẩn thận nhét lá thư vừa ráo mực vào. Tôi lật đến trang cuối cùng của quyển giáo án, nhẹ nhàng cầm bông hoa đào được ép khô từ giữa những trang giấy ra kẹp vào bức thư. Trước khi dán bao thư, tôi bất chợt nhớ đến xấp giấy đỏ mình vừa mua chiều nãy, thế là lập tức đứng dậy lấy kéo và giấy mang lại bàn.
Dưới ánh đèn dầu mờ mịt, tôi tỉ mẩn cắt tờ giấy đỏ thành hình chiếc đèn lồng Tết, do lâu lắm rồi chưa làm nên thành quả có chút xấu, vết cắt xiêu xiêu vẹo vẹo, tôi tự bật cười với tay nghề của chính mình.
Nhìn bức thư đã được dán tem trên bàn, xung quanh là đống giấy đỏ vụn rải rác khắp mặt bàn, tôi lại bần thần lúc lâu mới đứng dậy dọn dẹp để đi ngủ.
Một đêm không mộng cứ thế trôi qua.
Sáng sớm, gà vừa gáy tôi đã vội vã ra gốc đa đầu làng đứng đợi xe bò của chú Thiệu, tôi muốn gửi thư cho anh trước khi bưu điện đóng cửa nghỉ Tết. Rất nhanh đã thấy chiếc xe bò lộc cộc chạy tới, tôi lập tức vẫy tay gọi chú. Đến khi yên vị sau xe chú thì tôi mới giở nắm xôi vừng ra ăn, gió lạnh đầu xuân phả vào mặt khiến tôi rùng mình, cũng may hơi nóng của gói xôi đã sưởi ấm bàn tay lạnh buốt của tôi.
Lần này, hai chú cháu chẳng nói chuyện gì với nhau, có lẽ ai cũng có những suy nghĩ và bận lòng của riêng mình. Chú thì có lẽ phải nghĩ làm sao bán hết đống đồ để sớm có tiền ăn Tết, còn tôi thì nghĩ bao giờ thư của mình mới gửi đến được cho anh.
Tiếng bánh xe va vào sỏi đá vang vọng trên con đường sáng vắng vẻ, sau một hồi cũng đến cổng huyện, tôi chào chú rồi đi đến bưu điện cách đó không xa. Lần trước tôi đi gửi thư đã là chuyện của cuối thu năm ngoái, thời gian trôi qua thật mau.
Lúc tôi đến, bưu điện vẫn chưa mở cửa, tôi đành siết chặt áo khoác trên người, ngồi xổm dưới gốc cây ở lề đường, nhìn vài người lác đác qua lại. Đến tận khi mặt trời nhô ra khỏi chạc cây mới có người đến mở cửa bưu điện bắt đầu một ngày làm việc. Tôi nhanh chóng bước vào làm thủ tục gửi thư đi, xong xuôi bước ra khỏi bưu điện, tôi lại một lần nữa chờ mong.
Vốn định trở lại chỗ chú Thiệu để chờ, tôi bỗng nhìn thấy hiệu sách mới khai trương ngay đối diện bưu điện, tôi tò mò bước vào. Cả căn phòng tràn ngập mùi giấy, tôi say mê nhìn những quyển sách được xếp gọn gàng trên giá, mãi một lúc mới có một giọng nói già nua đánh thức tâm trí tôi.
"Cậu trai trẻ, mua sách hả?"
Hoá ra là tiếng của ông lão chủ tiệm, tôi lễ phép chào ông rồi bắt đầu tìm sách. Tôi nhìn thấy tập "Từ ấy" của Tố Hữu bèn mua hai quyển, một quyển cho tôi, một quyển cho anh.
Ôm theo vài quyển sách ra khỏi tiệm, tôi lại vòng trở lại bưu điện, nhờ người ta đóng gói bức thư chung với tập thơ gửi cho anh. Bởi vì anh rất thích thơ, thường hay đọc ké thơ trong sách của tôi. Có vài bận tôi bảo anh mua một tập thơ mà đọc nhưng anh lại xua tay bảo thôi, anh nói:
"Anh bận từ sáng đến tôi làm gì có thời gian mà đọc, thi thoảng đọc ké của em hoặc nghe em đọc là được rồi, mua sách về mà lại bỏ không đấy thì tiếc lắm."
Nói thì nói vậy, nhưng tôi biết anh không nỡ mua vì muốn dành dụm tiền mua sách cho tôi đi học. Sau đó thì anh bận thật, tôi lại không có nhà nên cũng chẳng ai nhớ đến chuyện anh thích thơ. Hôm nay vô tình gặp nên tôi lại nhớ mấy chuyện cũ.
Gửi cho anh tập thơ ấy, tôi hy vọng những lúc rảnh rỗi anh có thể thư giãn một chút, cũng hy vọng những vần thơ có thể làm vơi đi một chút nỗi nhớ quê trong anh.
Và, trong tập thơ ấy cũng ẩn chứa một chút tư tâm của tôi, hy vọng mỗi lần lật từng trang thơ tôi tặng, anh có thể nhớ tôi nhiều hơn một chút.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip