Mùa đông năm nay tới sớm, cơn gió lạnh ùa qua khung cửa sổ thổi bay trang giấy đã ngả màu úa vàng. Ngọn nến nhỏ lung lay như sắp tắt, trong phòng tràn ngập mùi khói hương, tôi thẫn thờ ôm tập thơ đã cũ ngồi trên giường. Trên bàn thờ nhỏ có thêm một khung ảnh, người trong ảnh còn rất trẻ, như mới vừa qua tuổi đôi mươi, nhưng lại đã trải qua sinh tử khổ đau. Mỗi lần lơ đãng nhìn qua khung ảnh ấy, tôi lại bật khóc, đó là anh tôi, là người yêu của tôi.
Từ ngày nhận tin dữ, tôi đã không ra ngoài, mặc kệ các chú thím khuyên bảo thế nào cũng không mang di vật của anh đi an táng. Lúc đó, lần đầu tiên tôi lớn tiếng trước mặt người lớn, giọng tôi đã khàn đặc đi vì khóc:
"Con không chôn, chừng nào anh Vũ về con mới để chúng nó an táng cùng anh. Còn nếu anh Vũ chưa về thì đừng hòng ai động vào di vật của anh ấy!"
"An à, nghe lời thím, thằng Vũ đã hy sinh, đồng chí Trịnh cũng đã nói không tìm được... nó. Con ngoan, nghe lời thím, an táng di vật của Vũ đi, để nó được an yên." Thím Thiệu đã cố gắng khuyên tôi, nhưng dù có thế nào tôi cũng quyết không buông những thứ duy nhất anh để lại cho tôi.
"Thím Thiệu, con xin thím, đừng ép con phải vứt bỏ những kỷ vật mà anh ấy gửi cho con nữa mà. Chúng nó không phải di vật, chúng nó là kỷ vật, kỷ vật thím à!"
Tôi nức nở gào khóc.
"Những ký ức cuối cùng của con về anh Vũ đều nằm trong chiếc hộp sắt này, con không thể... không thể đâu thím à!" Tình yêu của chúng tôi đều chất chứa trong đó, làm sao tôi nỡ chôn nó xuống nền đất lạnh lẽo đây!
Thím Thiệu biết có lẽ chẳng thể khuyên nổi tôi, nên chỉ đành an ủi tôi và ở lại chăm sóc tôi vài ngày. Vợ chồng chú thím cùng với hàng xóm láng giềng giúp tôi lo chuyện buồn. Những ngày đó tôi chẳng khác gì một con rối vô hồn, chỉ biết ôm lấy di ảnh của anh mà lặng lẽ rơi nước mắt, chiếc hộp sắt mà tôi trân quý cũng luôn bên tôi không rời.
Khi mọi thứ đã lo liệu xong, tinh thần tôi cuối cùng đã kiệt quệ, tôi ngất lịm đi trong hương nhang mới thoang thoảng. Lúc tỉnh lại, tôi đã nằm trong trạm xá, mùi thuốc xua tan hết mùi nhang trong trí nhớ mơ hồ. Thím Thiệu bón tôi ăn từng miếng cháo, đút tôi từng ngụm nước.
Tôi nghĩ, từ sau khi ba Tám mất, vợ chồng chú Thiệu giống như cha mẹ thứ hai của chúng tôi, thay ba Tám quan tâm hai anh em chúng tôi, giờ lại chăm sóc tôi giống như một đứa con trong nhà. Tôi biết ơn chú thím rất nhiều, lại không biết có cơ hội trả lại ơn này hay không.
Có lẽ, tôi lại làm phiền chú thím thêm một lần nữa, tôi cố gắng gượng ngồi dậy, tựa người vào thành giường cứng ngắc, cầm lấy đôi tay chai sần của thím Thiệu, thì thào nhờ vả thím.
"Thím Trang, con có việc quan trọng muốn nhờ thím và chú."
Tên thật của thím Thiệu là Trang, sau khi lấy chú Thiệu người ta hay quen mồm gọi "vợ thằng Thiệu", nên bọn trẻ con cũng học theo gọi thím là thím Thiệu. Tôi cũng thế, một lần gọi là gọi hai mấy năm. Có lẽ lâu rồi thím cũng chưa nghe thấy ai gọi tên trước khi lấy chồng của mình nên có chút giật mình, nhìn tôi chằm chặm.
"Cảm ơn thím với chú giúp đỡ anh em tụi con nhiều năm qua, nhưng con lại chẳng thể đền đáp chú thím, thậm chí còn muốn nhờ hai người giúp con."
Tôi không để thím kịp nói cái gì mà lập tức nói tiếp.
"Đợi khi mọi công việc đều sắp xếp ổn thoả con muốn vào Quảng Trị một chuyến, thăm nơi anh đã hy sinh, cũng thắp cho đồng đội anh nén hương, hy vọng bọn họ giúp con chăm sóc anh Vũ."
"Con không biết lúc đấy đã kịp hòa bình hay chưa, dù chưa con cũng phải đi. Con muốn nhờ thím, nếu chẳng may xảy ra bất trắc, chú với thím giúp con hương hỏa cho ba con, sách vở và kỷ vật của con cùng anh Vũ thím giúp con cất gọn, đừng mang đi an táng. Đợi khi anh Vũ được trở về quê thì hẵng đem đi đốt. Còn nếu anh không bao giờ trở về thì thím cứ cất gọn ở đó, thi thoảng giúp con dọn dẹp. Con nhờ thím, được không thím Trang?"
Tôi nói một hơi thật dài, nhìn vào đôi mắt đã có thêm vài nếp nhăn của thím Thiệu. Tôi nhìn thấy thím khóc, khóc một cách im lặng. Tôi luôn biết thím là một người phụ nữ nhạy bén và thấu hiểu rất nhiều, có lẽ thím biết tôi nghĩ gì, muốn gì.
"Được, thím sẽ giúp con, nhưng thím hi vọng con vẫn sẽ trở về."
Tôi cảm ơn thìm rồi nhìn bóng lưng thím khuất dần sau cánh cửa trạm xá, tôi nằm xuống, mỏi mệt chìm vào giấc ngủ chẳng mấy an ổn.
...
Mọi nỗi đau rồi cũng phải lắng lại, tình yêu đã qua cũng chỉ đành chôn chặt dưới đáy lòng. Cuộc sống của tôi vẫn còn đó, trách nhiệm của một người thầy giáo vẫn cần tôi tiếp tục thực hiện.
Tiếng tập đọc, tiếng hát hồn nhiên của trẻ thơ lại vang lên trong căn lớp nhỏ, kéo tôi trở lại với thực tại còn đang tiếp diễn. Nhìn đám trẻ ngây ngô hỏi tôi đây là chữ gì, câu thơ này đọc ra sao, hay bài hát này có thể dạy cho nó không, tôi bỗng nhận ra quyết định trong lúc bi thương của mình mới thật bồng bột làm sao!
Nếu tôi không ở thì ai sẽ dạy lũ trẻ đọc sách viết chữ đây? Ít nhất mấy năm nữa cũng sẽ chẳng có ai chấp nhận xuống vùng quê nghèo này dạy học. Không có tôi thì bao công sức học tập mấy năm nay của bọn trẻ đều đổ sông đổ bể.
Thôi thì tôi sẽ gác lại chuyện riêng để tập trung cống hiến cho sự nghiệp giáo dục. Đợi khi tôi không thể dạy được nữa, hoặc có ai đó thương vùng quê nghèo chúng tôi mà về dạy, lúc ấy tôi sẽ vào Quảng Trị thăm anh sau.
Nhưng rồi, mỗi đêm tôi đều lặng lẽ ôm tập thư đã sờn cũ vào lòng mà nghĩ ngợi, để nỗi đau bao trùm lấy tâm trí. Đôi khi sẽ lẩm bẩm lầu bầu một mình, tựa như đang nói cho bản thân nghe, lại tựa như đang kể cho ai đó. Bức thư cuối cùng anh gửi cho tôi cũng bị tôi đọc đi đọc lại thật nhiều lần, dù cho đó là lời từ biệt chẳng thể gặp lại.
"Tường An, khi em nhận được bức thư này có lẽ anh đã hy sinh, không còn có cơ hội trở về quê nhà.
...
Xin lỗi vì đã thất hứa với em, rõ ràng hứa thật nhiều rồi lại để em thất vọng thật nhiều.
Xin lỗi em!
...
Đừng khóc, đừng nhớ anh, hãy sống thật tốt Tường An à!
Anh yêu em!
..."
Tôi sẽ không khóc nữa, nhưng sẽ không bao giờ thôi nhớ anh. Tôi sẽ sống thật tốt, cố gắng sống thay cả phần của anh.
Đứa trẻ nào rồi cũng phải lớn, tôi cũng nên kiên cường hơn, tự lập khi đã chẳng còn ai chở che.
...
Cuối năm, thời tiết càng rét hơn, tôi nhìn lũ trẻ ngồi sát vào nhau, bàn tay nhỏ nhắn xoa liên tục, giọng nói cũng có nhút cứng nhắc vì lạnh. Nhưng cái lạnh chẳng thể nào ngăn được tinh thần học tập của bọn trẻ con, tôi nhìn chúng cười, chúng cũng nhìn tôi cười.
Hôm nay tôi giảng cho bọn nhỏ về đất nước, dạy chúng đọc thơ. Tiếng thơ vang lên khắp cả một khoảng không gian vắng lặng quanh lớp học nhỏ của chúng tôi.
"Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.
Cánh cò bay lả rập rờn,
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.
Quê hương biết mấy thân yêu,
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau."
Bỗng, một tiếng gầm rú kinh hoàng cắt ngang tiếng thơ non nớt, tôi lập tức bủn rủn cả tay chân, mặt trắng bệch cả đi. Tôi biết nó là gì, thứ quái vật bọn đế quốc dùng để tàn sát đồng bào tôi, máy bay ném bom của bọn chúng. Lũ trẻ cũng bị tiếng động lớn làm cho hoảng sợ, đứa khóc, đứa hoảng hốt muốn chạy ra ngoài.
"Không được ra ngoài, tất cả nghe thầy nói, các em là những đứa trẻ ngoan đúng không nào?"
Nghe thấy tiếng tôi, bọn trẻ mới dần thôi hoảng loạn, nhưng vẫn có vài đứa thút thít khe khẽ. Tôi hít sâu một hơi, dẫn lũ trẻ vòng ra khu sau của trường học, đi thật nhanh tới phòng kho. Trong đó có một hầm trú bom tương đối an toàn.
Tôi lùa hết chúng vào, cả một lớp có hơn mười lăm đứa trẻ, căn hầm vừa đủ chỗ cho chúng tôi lánh qua kiếp nạn này. Đột nhiên, một đứa trẻ hoảng sợ nói với tôi:
"Thầy ơi, hình như Minh đi ra ngoài chưa về, em không thấy em ấy đâu cả."
Tôi giật thót, trái tim lập tức treo cao, trong lòng loạn thành một mớ bùi nhùi. Tiếng bom ầm ầm từ đằng xa vang vọng lại đây, tôi dặn dò lũ trẻ ở yên trong đó rồi lập tức đóng sập cửa hầm lại. Sau đó tôi chạy như bay trở lại lớp học, trái tim nặng nề đập khiến tôi phát đau nhưng cũng không dám dừng lại. Minh là đứa bé nhất trong lớp, cũng là đứa nhát gan nhất, tôi phải tìm được em ấy trước khi máy bay đi qua đây.
Khi đến gần cửa lớp, tôi đã thấy thằng bé Minh ngồi khóc thút thít trước cửa lớp, tôi phi lại đó ôm chặt lấy thằng bé, đang định quay lại phòng kho thì đã thấy từ xa, vài đốm đen mang theo tiếng gầm rú bay về phía chúng tôi.
Tôi biết, chẳng còn kịp nữa rồi.
Tôi ngay lập tức quay lại trong lớp, dùng hết sức đẩy bàn giáo viên ra, bên dưới là một căn hầm trú bom. Căn hầm này lúc trước đã từng bị tàn phá, chưa được sửa lại, diện tích cũng nhỏ, không thể chứa quá nhiều người, nhưng hai chúng tôi lại vừa đủ.
Tôi ôm đứa trẻ nhảy xuống căn hầm chật hẹp, cửa hầm cũng theo đó mà đóng sầm lại. Tôi ôm chặt đứa trẻ trong ngực, cố không để đất đá cứa thương nó. Dù mồ hôi đã đầm đìa, áo sơ mi trắng cũng nhiễm không ít vết máu vì sỏi đá cắt vào da thịt, tôi vẫn nhẹ nhàng an ủi đứa trẻ đang khóc thút thít.
Tiếng máy bay càng lúc càng gần, tiếng bom nổ ầm ầm vang dội chấn đau màng nhĩ, tôi run rẩy bịt kín tai của Minh. Thế rồi, một trận bom trút xuống, có lẽ ở ngay cạnh lớp học của chúng tôi, nền đất rung lên, mọi thứ ầm ầm sụp xuống, trong đó có cả căn hầm chúng tôi đang trú.
Căn hầm tồi tàn cuối cùng cũng không thể chịu được sức công phá của bom đạn, nó sụp. Đất đá cũng theo đó ào ào đổ xuống, tôi ghì chặt đứa trẻ trong ngực, chặn lại những tảng đá đang rơi xuống.
Cơn đau lan tràn từ đỉnh đầu xuống tới chân, tôi mơ hồ nhìn thấy máu rơi trên khuôn mặt nhỏ trắng bệch của Minh, bên tai là tiếng khóc sợ hãi của thằng nhỏ. Tôi chợt nhớ đến đám trẻ còn lại, không biết chúng có sợ hãi hay không, có bị đá đè trúng hay không? Tôi tự hỏi như thế rồi lại muốn giơ tay xoa đầu Minh, an ủi nó đừng khóc nữa, nhưng, tôi đau quá!
Mọi thứ trước mắt dần trở nên mơ hồ, hơi thở cũng dần trở nên nặng nhọc, mọi thứ tiếng đã không còn rõ ràng chỉ còn lại cơn ù ù nhức nhối.
Tôi mệt quá, đau quá, tôi muốn ngủ một lát.
Trước khi chìm vào giấc ngủ thật dài, tôi đã nghĩ, hy vọng trong giấc mơ sắp tới tôi có thể gặp anh, người tôi yêu.
...
Buổi chiều đông của một ngày cuối năm, con quái vật mang theo hàng tá tấn bom bay ngang qua bầu trời trong xanh của làng quê nghèo, phá huỷ cuộc sống vốn dĩ bình yên ở nơi đây. Ngôi trường chẳng mấy khang trang cũng sụp đổ trong trận bom đó.
Khi tiếng bom ngừng vang, tiếng động cơ máy bay cũng đã đi xa, mọi người từ trong hầm trú bom chui ra, tất cả cùng chạy nhanh về phía ngôi trường đổ nát. Ở nơi đó, khi máy bay ngang qua, con của họ vẫn còn đang cần mẫn đọc sách.
Tiếng mẹ gọi con, tiếng khóc của những người cha người mẹ vang lên trong khung cảnh hoang tàn. Người ta cứ đào bới trong đống đất đá với một niềm hy vọng nhỏ nhoi rằng những đứa trẻ còn sống, còn có thể cười vui vẻ gọi cha gọi mẹ.
Bỗng, một người reo lên đầy vui mừng:
"Đám trẻ ở đây, chúng đang ở đây!"
Mọi người chạy ùa tới phòng kho xập xệ, đẩy ra nắp hầm đã bị bịt kín, tiếng khóc vỡ oà của bọn trẻ con lập tức vang vọng. Trong căn hầm tối tăm, hơn chục đứa trẻ co ro ngồi rúc lại với nhau, mặt mũi chân tay đều tím bầm, nhưng, chúng đều còn sống.
Cha mẹ ôm lấy con của họ mà khóc nức lên, nỗi vui mừng khi mất mà tìm lại được khiến họ không còn quan tâm điều gì khác nữa, con của họ còn bình an sống sót mới là điều tuyệt vời nhất.
Khi đứa trẻ cuối cùng được bế ra ngoài, mới có người phát hiệu điều không đúng. Chú Thiệu cũng thế, mặt chú tái đi, run giọng hỏi đứa trẻ lớn nhất đang được mẹ nó ôm chặt trong ngực:
"Thầy An đâu con, sao chú không thấy thầy ấy đâu?"
Đứa trẻ vốn đã nín lại khóc nấc lên, còn khóc to hơn trước, mếu máo:
"Không thấy Minh đâu cả nên thầy An quay trở lại lớp tìm thằng nhỏ, sau đó... sau đó chúng con không thấy thầy quay lại!"
Mọi người nhìn nhau, chú Thiệu lập tức gọi vài người lao về phía lớp học, bọn họ nhớ ở đó cũng có một căn hầm tránh bom. Trong lòng ai nấy cũng cầu nguyện, mọi người hợp sức đẩy hết đám gạch đá nặng nề, để lộ bàn ghế đã nát tươm, căn hầm trong góc bị những mảnh vỡ của bàn giáo viên chặn lại. Lúc đến gần, chú Thiệu nghe thấp thoáng tiếng trẻ con nỉ non, chú vui mừng quá đỗi, lập tức mở cửa hầm.
Khi cánh cửa mở ra, ánh sáng từ bên ngoài lọt vào, người ta chỉ thấy chiếc áo sơ mi của người thầy giáo trẻ đã dính đầy máu và bụi bẩn, trong lòng là đứa trẻ được bao bọc kín mít đang khóc nức nở. Còn cậu lại an tường ngủ say, trên khuôn mặt trắng bệch còn treo một nụ cười nhẹ. Mặc kệ đứa trẻ gọi to gọi nhỏ "thầy ơi...", cậu vẫn không tỉnh, cứ im lặng bảo vệ nó như thế, không để gạch đá làm nó bị thương.
Các thím đã bụm chặt miệng khóc không thành tiếng, chú Thiệu ôm lấy thân thể đã lạnh của An, hai hàng nước mắt chảy dài trên gò má sạm màu của chú. Đứa trẻ mà cậu bảo vệ cũng đã lịm đi trong vòng tay thím Trang.
Người thầy giáo trẻ đã dùng thân mình bảo vệ một cây non non nớt không bị giông tố vùi dập. Ai nói chỉ những người lính xông pha nơi tiền tuyến mới là anh hùng, mà những người ở lại cũng là anh hùng, chống đỡ một hậu phương vững chắc, bảo vệ và gieo mầm những hạt giống tương lai của Tổ quốc.
...
Sau ngày hôm ấy, trong ngôi nhà nhỏ ở giữa làng, hương khói lại nghi ngút. Từ đây, trong nhà đã chẳng còn cậu thanh niên ngày ngày lật sách đọc thơ, chẳng còn tiếng giấy bút loạt soạt vang, cũng chẳng còn ai ngồi ở hiên nhà chờ một người...
Sau ngày hôm ấy, bên cạnh ngôi mộ đã phủ đầy cỏ xanh của ông Tám lại có thêm một tấm mồ mới, trên di ảnh là một cậu thanh niên đang cười thật tươi, tựa như mặt trời rạng rỡ trên cao.
...
Vài năm sau, trong một chiều của ngày hoà bình rực rỡ, một chàng lính trẻ tập tễnh đi trên đường làng, quen thuộc trở về ngôi nhà mà anh đã sống biết bao năm. Chỉ tiếc, cổng đã khoá, cửa cũng khép chặt, không có ai lao ra đón anh. Thím Thiệu đi chợ về nhìn thấy một bóng hình quen thuộc đứng trước cổng mà sững sờ, rổ rau rơi xuống đất chẳng ai quan tâm, thím nghẹn ngào hỏi anh:
"Thằng Vũ đấy hả con? Có đúng là thằng Vũ đấy không?"
"Dạ vâng, con về rồi đây ạ! Thím có biết An đang ở đâu không?"
Tiếng anh đáp nhẹ nhàng hoà vào trong cơn gió.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip