Kỳ 2: Những chuyện không thể quên - hồi ký của bác Tichtuongnhule - Phần 2

   Nhớ lại, Cuối năm 1971, lúc đó chúng tôi đã huấn luyện tân binh xong. Đơn vị đang ở Đông Du, Hà Bắc. Anh em trong mấy tiểu đoàn sinh viên đang chờ các đơn vị thuộc binh chủng kỹ thuật về lấy quân. Suốt ngày chỉ có đi chơi lêu lổng ra đường 18 rồi chui vào quán nước ven đường. Quán nước này là của cụ chủ nhà mà tiểu đội tôi đóng quân. Kẹo lạc, kẹo bột, kẹo vừng và kẹo dồi cụ chủ đều làm lấy. Không phải kẹo nấu từ đường kính trắng hay đường hoa mai, cũng không phải từ đường phên mà toàn từ mật. Tôi rất ngạc nhiên. Mật có màu nâu xẫm, khi nấu thành nước kẹo vẫn có màu như vậy nhưng sau đó đem quật lên xà nhà và kéo dài ra, chập lại, rồi lại kéo dài ra. Cứ như vậy nhiều lần, không khí chui vào trong đường mật thành các lỗ xốp. càng kéo nhiều và nhanh kẹo càng trắng. Nhiều lần tôi cũng tham gia kéo kẹo với cụ nhưng không đạt yêu cầu vì tôi không chịu được nóng như cụ. hai bàn tay cụ chịu đựng sức nóng của đường nấu chảy thật là tài. Cụ cũng chỉ cho tôi cách thử đường kẹo đến lúc nào là được. Xểu một giọt nước mật trong chảo nhểu vào bát nước. Nếu nó chìm xuống đáy thành giọt hình tròn (hình cầu), vớt lên cắn thấy giòn tan là được. Phải thử liên tục. Nếu để quá lửa thì kẹo sẽ đắng. Đấy là cụ chỉ bảo cho tôi và cho làm thử, còn cụ chẳng cần thử kiểu ấy. Cụ chỉ cần xêu một ít vào ngón tay rồi đưa vào răng cắn cắn là biết.

Chơi mãi cũng chán, tôi nảy ra ý định tranh thủ trốn về nhà. Bốn thằng cùng lớp đại học lại cùng ở Hà Nội rủ nhau. Chuồn 4 ngày liền. Lúc lên đến đơn vị, Thấy mọi người bảo tối hôm kia lúc điểm danh, đại trưởng đọc "giấy truy nã" bốn "quân nhân đào ngũ".


CHUYỆN XIV TỪ PHÚ LỘC ĐẾN HUẾ

Cuộc luồn sâu "thất bại" ở Hòn Vượn. Chúng tôi mất hai anh em. Đinh Văn Tư lính trinh sát xê hai mươi chúng tôi và Quý (tôi không biết họ của anh) là trinh sát của mặt trận B5. Thằng Mào bị một viên AR-15 găm vào phần mềm ở ngực. Đúng theo kế hoạch, sau khi làm hồ sơ căn cứ Hòn Vượn và Chóp Nón, chúng tôi từ cứ của biệt động Huế luồn rừng ngược lên miền tây Huế. Lúc đi, đoàn trinh sát của chúng tôi gồm có 12 người:
1. Anh "Già", tham mưu trưởng của e95 (tôi không còn nhớ tên, chỉ nhớ biệt hiệu).
2. Quý, trinh sát mặt trận B5.
3. Một trinh sát nữa của mặt trận B5 (không nhớ tên).
4. Hổ, trinh sát binh địa của e95.
5. Chinh, trinh sát binh địa của e95.
6. Một trinh sát e95 (không nhớ tên).
7. Toàn, trinh sát f325.
8. Tư, trinh sát f325.
9. Mào, trinh sát f325.
10. Duyên, trinh sát ảnh f325.
11. Lâm, trinh sát binh địa f325.
12. TichTuongNhuLe, trinh sát binh địa f325.

Đoàn cùng xuất phát một lúc, đến quá nửa đường mới chia làm hai toán, một toán đi Hòn Vượn và toán kia đi Chóp Nón. Toán đi Chóp Nón do một trinh sát mặt trận dẫn đường, xong việc đã về trước. Toán Hòn Vượn chúng tôi có Quý dẫn đường. Quý hy sinh, chúng tôi phải tự lần đường về. Từ Hòn Vượn về đến điểm xuất phát ở đầu nguồn sông Bồ, giống như lúc đi, bây giờ chúng tôi trở về cũng mất hai ngày. Phải nghỉ đêm ở điểm dừng chân là một cứ biệt động Huế ở rất sâu trong lòng địch. Còn lại anh Già, Hổ, Toàn, Duyên, Mào (bị thương) và TichTuongNhuLe. Rất may mào chỉ bị dính một viên AR-15, viên đạn chỉ găm ở bên ngoài, sượt từ bên nách và nằm lại trong tí, không xuyên vào lồng ngực. Tôi là thằng đi đầu, sát sau tôi là Hổ. Thỉnh thoảng tôi phải dừng lại để trao đổi đường đi với Hổ. Đang lội suối, bất chợt tôi nhìn thấy một đám rau đay mọc rất tốt, rất đều, thân tía đỏ mảnh mai, lá xanh mơn mởn. Chúng tôi dừng lại tranh thủ hái rau để tối đến có rau ăn. Tôi đề nghị mọi người không nghỉ lâu vì mình không thạo đường, sợ không về kịp cứ của biệt động trước lúc trời tối. Chừng 5 giờ chiều, chúng tôi đã về được cứ biệt động. Đây cũng chính là điểm dừng hôm chúng tôi đi vào.

Cơm nước xong, trời tối, mọi người mắc võng nghỉ sớm, chỉ cử một người gác rồi thay phiên. Nhưng không ai ngủ được ngay. Mọi người kể lại chuyện đụng địch ở Động Ngang và chuyện bị thám báo phục kích "nhầm". Rồi chuyện biệt động Huế đánh bọn thám báo đó tơi tả.

Suốt nhiều ngày om chân trong đôi giày ngụy, nước gần như thường xuyên òm ọp trong giày, hút nước vào rồi phọt nước ra qua mấy cái lỗ. Tôi bị nước ăn chân qua hết lần da này đến lớp da khác rồi ăn vào thịt. Đôi chân tôi sưng tấy, mấy chỗ da toang hoác, thịt đỏ lòm, ứa máu. Đi lại đã đau rồi nhưng mà dừng lại nghỉ mới chết. Sau khi dừng lại nghỉ ngơi, lúc bắt đầu đi rất đau. Phải mất mươi mười lăm phút mới quen với cái đau để bước đi vững chãi được.

Hôm sau chúng tôi dậy và đi rất sớm, mỗi người chỉ ăn một thanh lương khô. Cơm nắm từ tối hôm qua sẽ để đến trưa. Thằng Mào bị thương nhưng chảy rất ít máu, thay băng cho nó thấy vết thương đã khô và miệng vết thương đã kín lại, đóng vảy. Có lẽ lúc mới bị thương nó hơi hoảng nên trông mặt mày tái mét. Bây giờ nó cũng quen nên trở lại bình thường. Nó đi nhanh cũng không thua gì mấy so với mọi người. Đến gần trưa thì chúng tôi đã ra đến sông Bồ. Từ đây về điểm dừng chân ban đầu đường đi dễ hơn, cứ việc bám theo đường mòn ven sông Bồ mà đi là đến. Chỗ này lại là vùng ta kiểm soát nên cũng thoải mái hơn.

  Về đến vùng do ta kiểm soát mọi người đi rất nhanh không theo hàng ngũ đội hình gì ráo. Mạnh ai nấy đi. Ai đi nhanh thì vượt lên trước. Chân tôi càng ngày càng đau. Mỗi bước đi là một bước đau. Đến một tảng đá, tôi ngồi phịch xuống, tháo giày ra xem cái thằng chân nó làm sao. Hai bàn chân bợt hết. Những chỗ loét máu chảy rim rỉm. Tôi buộc hai chiêc giày lại, nhét đôi tất vào trong rồi vắt qua cổ. Đi chân đất may ra khá hơn chăng. Quả thật thấy có vẻ dễ chịu hơn vì không còn bị giày và tất cò cưa vào vết đau. Nhưng tôi đã nhầm. Được một hai bước đã không chịu nổi vì các tảng đá rất nóng. Chân thường đi trên đó đã bỏng, nói gì các vết đau đã mất hết da. Cuối cùng cũng tìm ra được một cách là thêm đôi tất vào. Mất lớp da dầy ở chân rồi, các dây thần kinh chạm vào đá nóng không chịu nổi. Thế mới biết tạo hóa sinh ra các thứ trên con người ta cái gì cũng quan trọng cả.

Tôi bị tụt lại sau cùng. Càng ngày đi càng chậm. Tôi không còn có thể nhảy tanh tách từ tảng đá này sang tảng đá khác mà phải dò dẫm từng bước. Có lúc tôi phải đi vòng vèo để tránh những tảng đá lởm chởm vì nếu bước vào đó, đá sẽ chọc vào chân.

Nước sông bồ xanh ngắt chảy rì rào qua đá. Bên kia bờ sông vách đá nhấp nhô thẳng đứng. Bờ bên này đang là bãi đá. Những tảng đá lớn nhỏ lô xô tuyệt đẹp. Nhưng mà ! Mặt trời đang thiêu đốt trên đỉnh đầu. Dưới chân tôi là một bãi đá nung. Hơi nóng bốc lên từ mặt đá lấp lóa rần rật. Không biết mọi người đã đi đến đâu rồi. Anh em đừng có nghĩ là tôi cảm thấy buồn vì bị mọi người bỏ rơi lại phía sau trong khi chân thì đau như vậy. Lính trinh sát chúng tôi quen đi lẻ từng tốp một. Rất nhiều khi luồn rừng, lạc nhau đi một mình là bình thường. Tôi chỉ khó chịu vì cái chân đau và vì không theo kịp được mọi người.

Đi mãi, đi mãi cũng chẳng thấy ai. Cũng có thể mọi người nghĩ tôi đi trước rồi vì vốn là lính binh địa thì đi trước dẫn đường mà. Thôi kệ ! muốn đến đâu thì đến. Đi tất không, vết thương cũng không chịu nổi sức nóng của đá. Thỉnh thoảng tôi phải rẽ xuống nước, nhúng chân vào nước cho nó dịu bớt đau và cho tất ướt xũng thì mới đi tiếp được.

"Đi thì sẽ đến !" Đến một đoạn có mấy cây lúp xúp khá rậm rạp tôi nhìn thấy Duyên đang nằm trong đó, hai chân thò ra ngoài nắng. Duyên thấy tôi, liền nói:

- Tôi tưởng anh đi trước rồi. Tôi mệt quá, có lẽ bị say nắng.
- Chân tôi đau quá anh ạ ! Anh còn đôi tất nào không ?

Bây giờ Duyên mới nhìn tôi cẩn thận, cái cách mà tôi bước đi từng bước, với đôi giày treo trên cổ. Lão ngạc nhiên vì tôi không đi giày:

- Không đi giày thì nóng chết, làm sao mà dẫm lên đá được. Anh xỏ giày vào đi !
- Anh xui dại tôi đấy à ! Anh nhìn chân tôi này.

Tôi lột tất ra để lão nhìn thấy chân tôi.

- Chậc ! chậc ! Sao anh không nói. Bị từ bao giờ thế ?
- Mấy hôm rồi. Chỉ là nước ăn chân thôi. Anh còn đôi tất nào không ?

Vốn tính cẩn thận, đúng là lão ta có hai đôi tất thật. Duyên lấy đôi tất từ trong gùi đưa cho tôi. Tôi lồng cả hai đôi tất vào chân. Chắc là sẽ khá hơn. Bây giờ tôi mới nhìn kỹ Duyên. Mặt hắn đỏ dừ. Chiếc khăn mặt ướt chùm lên đầu, dưới cái mũ tai bèo. Duyên bị say nắng nhưng thế này còn khá. Nếu say nắng đến lúc mặt tái dại đi, mắt lờ đờ và sùi bọt mép thì mới đáng sợ. Tôi chui đầu vào dưới gốc cây bên cạnh cái cây của Duyên.

- Lúc đụng nhau ở Động Ngang, tôi lo quá không biết anh sống chết thế nào. Thằng Mào thì bị thương. Tôi mới thằng Toàn phải dìu nó đi đường khác để về một cứ của biệt động. TichTuongNhuLe à ! Tôi chỉ sợ anh chết hay bị thương, trong lòng không yên tý nào. Nhỡ anh bị thương, lại có một mình. Cứ nghĩ thế thì tôi mới thằng Toàn chỉ muốn quay lại ngay chỗ đó để tìm. Nhưng rồi sợ bọn nó giăng bẫy phục kích. Sáng hôm kia khi quay lại tìm anh, thấy thằng Tư và thằng Quý nằm úp mặt chết dưới suối. Tôi đinh ninh là anh rồi vì lúc nào anh cũng đi trước. Tôi vừa khóc vừa tiến lại (tính lão này hay nói chuyện kiểu "cảm động", ngược với tính tôi, có khóc bạn cũng không bao giờ kể). Lúc lật thằng lên, thì là thằng Quý, rồi đến thằng Tư. Vẫn biết là thương thằng Quý và thằng Tư cũng như thương anh thôi nhưng mà anh mà chết thì tôi sẽ day dứt cả đời. Bọn tôi đã bỏ anh một mình, rồi anh chết thì làm sao mà tôi yên được.

- Này ! Tôi chết thì khó đấy. Bọn nó đông nhưng tôi nhanh lắm chứ ! Một mình tôi luồn trong rừng thì làm sao mà chúng lùng bắn được tôi. Thú thực tôi cũng có cảm giác là bỏ rơi bọn anh để an toàn một mình. Tôi áy náy mãi cho đên khi gặp lại cả ba người đấy. Thôi bỏ đi ! chỉ thương thằng Tư và thằng Quý chết thay tôi.

(Chuyện Tư và Quý hy sinh xin khất anh em kể trong chuyện khác).

  - Bọn nó ở đâu mà nhanh thế ? Hơn một phút sau đã thấy nó bắn cối săn đuổi anh. Nó bắn cối tức là không đi càn nhưng tôi lo anh dính đạn cối. May quá, cuối cùng anh vẫn không sao.

- Đã bảo bỏ đi mà .

- Ừ ! Thôi . . . !

Tôi lại tháo tất ra hơ chân ra ngoài nắng cho khô. Hai thằng nằm im, không ai nói chuyện nữa. Nhìn qua kẽ lá thấy hút đi rất xa là những mảng da trời xanh thăm thảm, không một gợn mây. Lạ thật ! Sứ Huế ? Mưa ngày này qua ngày khác, bầu trời và mặt đất lúc nào cũng nghìn nghịt nước, nước chui vào trong hơi thở, bịt bùng ! Thế mà cái nắng mùa đông sao lại quá gắt gao, soi vào từng thớ thịt, khét đắng !

Chừng mười lăm phút thôi, để chết lặng đi . . . Rồi không ai bảo ai, Duyên và tôi cùng nhào dậy một lúc. Tôi xọc chân vào hai đôi tất. Bất giác cả hai cùng thở dài rồi xốc gùi lên vai bước đi. Tôi cắn răng chịu đau và tự nhủ: "Rồi sẽ quen và bớt đau thôi ! Cố gắng bám kịp Duyên đấy nhé !" Hai thằng bước đi lặc lè như người mang vác nặng vậy nhưng không phải là những bước đi nặng và chắc của người vác nặng mà là những bước chân dặt dẹo, gắng gượng. Hai thằng người và hai cái bóng đã hơi chếch về phía sau cứ lầm lũi dấn lên, theo những quỹ đạo cong queo kỳ lạ.

Càng đi, cái nắng rát càng chiếu xiên vào mặt. Có lẽ đến 4 giờ chiều rồi, nắng càng gắt tệ. Đoạn đường cuối cùng tôi bị tụt lại khá xa làm cho Duyên phải đứng lại chờ. Lúc này, cũng như mọi khi, tôi rất khỏe, nắng này chẳng ăn thua gì, mồ hôi chỉ hơi rịn ra một chút nhưng quần áo và toàn thân bốc ra mùi khét lẹt – mùi lính.

Thủ trưởng Bùi Đức Ngoan (tham mưu phó sư đoàn) đang quát nạt và chửi bới rất to. Không biết cụ mắng chửi từ bao giờ mà tôi tụt lại rất xa, bây giờ đến nơi còn nghe chửi:

- Trinh sát chúng mày như cứt ! Súng phát cho chúng mày làm củi à. Sao không thằng nào bắn được một phát.

Chắc là cụ xót ruột vì bị mất lính lại còn dẫn một thằng bị thương về nữa chứ, mà cái đám lính trinh sát thì không thằng nào bắn lại địch, làm gì cụ chẳng điên. Chúng tôi cúi đầu nghe cụ mắng chửi một hồi lâu nữa. Tôi nhìn ngó xung quanh thì thấy mọi người đã đi hết, chỉ còn lại bốn thằng trinh sát xê hai mươi của sư đoàn. Anh "già" và Hổ đã đi rồi. À ! thì ra cụ Ngoan đang sốt ruột chờ chúng tôi.

Sau này tôi mới biết, khi chúng tôi luồn vào Hòn Vượn và Chóp Nón, ở nhà A12 liên tục canh đài theo dõi điện đàm của địch để nắm tình hình chúng tôi. Họ biết thám báo đang phục kích ở cửa động của biệt động Huế mà không có cách gì thông báo được cho biệt động hay cho chúng tôi. Bọn nó phục kích biệt động chiều tối sẽ từ cứ đi ra, để vào Huế. Không ngờ, chiều tà chúng tôi lại từ phía Huế chui vào cứ.

- Thôi, chúng mày lên xe nhanh đi. Thằng Mào bị thương sẽ về quân y của ba linh tư nhá !
- Vâng !

Chiếc Xe Com-măng-ca "đít vuông" mở bạt đằng sau chở 6 người. Cụ Ngoan ngồi trên còn bốn thằng tôi chia nhau hai ghế sau. Con đường rừng ngoằn nghoèo, lắc lư như đánh võng. Công binh chỉ phát cây sơ sài, rồi xe đi mà nên đường. Vả lại con đường này mấy khi có xe đi dâu. Lính có đi thì toàn đi bộ. Lương thực, thực phẩm thì được thả trôi theo sông Bồ suốt từ đầu nguồn, giữa đoạn A Sầu, A lưới. Bất chợt cụ Ngoan quay lại hỏi tôi:

- Thằng Như Lệ chân cẳng mày làm sao ? Tuấn, đưa nó lọ thuốc đỏ. Chúng mày hay đi như thế mà không biết lo lấy thân. Mày mà uốn ván, cưa chân thì bỏ mẹ mày.

Tôi chờ cụ quay lên mới lột tất ra. Thằng Toàn mở bi đông, dốc nước cho tôi rửa mấy vết loét. Tôi lôi cái quần đùi trong gùi ra thấm sạch sẽ rồi bôi thuốc. May mà thuốc đỏ nó mát, chỉ hơi xót một tý chứ nếu bố Ngoan mà cho tôi lọ i-ốt thì chắc phải xót nhảy lò cò lên mất.

Tôi nhìn cụ Ngoan mà nhớ bố tôi, thương con mà rất nóng tính. Bố tôi cũng hay quát mắng bọn tôi nhưng hễ đứa nào làm sao thì cụ rất xót.

   Đường xấu quá, chiếc xe lắc qua lắc lại dữ dội. Mấy thằng phải bám chặt tay vào khung xe. Thỉnh thoảng những cành cây rào rào quất vào hai bên bạt xe. Đột nhiên cụ Ngoan bảo dừng xe lại:

- Mấy thằng xuống, trèo lên kia cắt lá dong đi !

Toàn và Duyên nhanh nhẹn nhảy xuống. Tôi cũng đi tất, xỏ giày, nhảy xuống xe. Cụ Ngoan quát:

- Thằng này thì thôi !
- Em hết đau rồi thủ trưởng ạ !

Tôi cũng trèo lên dốc theo Duyên và Toàn. Mấy con dao găm phạt tới tấp. Những chiếc lá dong cứ thế rơi phầm phậm cắm xuống đất. Chỉ một loáng mỗi thằng đã ôm một ôm lá to chạy xuống.

- Thôi đủ rồi ! - Cụ Ngoan nói.
- Chốc nữa qua chỗ nào có giang, thủ trưởng dừng xe, em xuống chặt mấy ống giang.
- Ừ ! đi thôi.

Lúc lên xe rồi cụ Ngoan mới bảo:

- Hôm nay là 30 tết. Chúng mày có thằng nào biết gói bánh không ?
- Có ạ ! – Duyên và Toàn đồng thanh trả lời.
- Tao nói là gói bánh chưng. Thằng Toàn, dân Vĩnh Linh nhà mày thì chỉ gói bánh đòn. Mày rửa lá,
vo gạo đãi đỗ thôi.

Xe chạy một đoạn thì dừng lại để thằng Toàn xuống lấy giang. Nó phạt một cây giang khá to lấy ba ống giang rồi nhảy lên xe. Chiếc xe lại gật gù, oằn oại lao đi.

Không biết cụ Ngoan đưa chúng tôi đi đâu. Bọn tôi không ai biết mà cũng không ai dám hỏi. Một lúc sau, chiếc xe thoát khỏi con đường nhỏ và rẽ về bên trái, nhập vào "đường mòn Hồ Chí Minh". Đoạn này ở phía bắc A Lưới. Cũng chỉ là đường đất nhưng rộng rãi và êm ái hơn rất nhiều. Chiếc xe đi thêm một đoạn dài rồi rẽ về bên phải. Một doanh trại với rất nhiều nhà cửa. Những cái nhà lá cọ nằm dưới rừng cây rậm rạp, mặt đất bằng phẳng sạch sẽ thoáng mát. Cụ Ngoan bảo:

- Đây là dê hai bốn của ba linh tư. Thằng Mào vào đây điều trị. Lúc nào khỏi thì tự tìm đường mà về
đơn vị.

Chúng tôi xuống xe bắt tay thắng Mào. Nó có vẻ không muốn đi viện. Mào là một đứa cao gày, đẹp trai, lúc nào cũng bẽn lẽn như con gái. Thằng Toàn dẫn thằng Mào theo cụ Ngoan vào trong một ngôi nhà còn chúng tôi chờ bên ngoài. Chỉ mấy phút sau đã thấy Cụ Ngoan và thằng Toàn đi ra. Chúng tôi lên xe đi tiếp. Ngoái lại thấy thằng Mào đang dơ tay vẫy theo.

Từ cái chiều 30 tết đó, chia tay Mào, tôi chưa lần nào gặp lại.

Ba mươi tết sang năm Tân Mão 1975

  Xe tiếp tục chạy về phía nam. Chúng tôi không biết thủ trưởng Ngoan đưa đi đâu. Rồi chiếc xe rẽ về bên phải, đi chừng vài bốn cây số nữa thì dừng lại trước một doanh trại. Xe dừng lại tại trạm gác, cụ Ngoan vẫy vẫy vài cái rồi xe qua. Một doanh trại rất tề chỉnh. Các ngôi nhà lá cọ được làm rất cẩn thận, cách xa nhau, bám vào các chân đồi thấp. Bây giờ cụ Ngoan mới nói cho biết đây là sư đoàn bộ của 304. Rất vắng vẻ, dường như sư đoàn đã di chuyển đi. Sau này mới biết lúc đó sư 304 đã lên đường hành quân vào phía trong theo đường mòn Hồ Chí Mính.

Vẫn còn một số rất ít người ở lại. Chúng tôi cùng vào một căn nhà ven đồi, cây cối che rợp trên đầu. Trong nhà ánh đèn điện le lói hắt ra sân. Ánh đèn làm tôi nhớ Hà Nội quá. Một thủ trưởng của 304 có vẻ như đã chờ từ lâu ra bắt tay từng người. Chúng tôi được cụ Ngoan giới thiệu nhưng bây giờ không còn nhớ. Chúng tôi được chỉ tới một căn nhà bỏ không ở gần đấy, cũng áp sát chân đồi. Tôi lia chiếc đèn pin và tìm được công tắc đèn. Chỉ là một bóng đèn tròn nhưng có cảm tưởng cả căn phòng sáng choang. so với ánh lửa đỏ đèn dầu thì ánh sáng điện vàng trở nên sáng trắng hơn bao giờ. Thích thật !. Bốn chiếc giường kê ở bốn góc nhà, ở giữa lại còn có bàn ghế tiếp khách. Chúng tôi ra cái giếng ở sau nhà, sát một lạch nước đang chảy róc rách. Thằng nào thằng nấy múc nước giếng tắm gội ào ào. Nước mát quá, thấm vào từng thớ thịt. sảng khoái và tỉnh táo vô cùng ! Sao các cụ bảo chỉ có "tứ khoái" thôi nhỉ ? Có lẽ phải có "ngũ khoái" mới đúng.

Bọn tôi tắm giặt xong về phòng đã thấy có một mâm cơm để sắn trên bàn.

- Toàn ơi, mày đi mời các thủ trưởng ăn cơm đi.

Thằng Toàn chạy lên phòng thủ trưởng, rồi thấy nó chạy về luôn:

- Thủ trưởng bảo ba thằng cứ ăn đi, các thủ trưởng ăn với nhau ở trên nhà rồi.
- Ừ! thế càng hay, lính tráng ăn uống với nhau cho nó tự nhiên thoải mái. Mà chắc các thủ trưởng có
nhiều chuyện để nói với nhau. Có lính ở đó không tiện.

Ba thằng chúng tôi đang đói ngấu. Một mâm sáu người chén bay, chỉ còn thừa có tí cơm. Chúng tôi ăn xong thì thấy một cậu chạy vào, một tay xách phích nước, tay cầm ấm trà với gói trà Thanh Hương. Cậu ta nhanh nhẹn dọn mâm cơm bê đi và nói:

- Thủ trưởng bảo anh Toàn theo em lấy đồ gói bánh chưng. Các anh muốn xuống bếp luộc bánh thì xuống mà thích luộc ngay ở đây thì phải mang nồi về. Mọi người đi hết rồi, chứ mọi khi ở đây nghiêm lắm, không được thổi nấu gì đâu. Nghe nói bọn anh là trinh sát vừa đi luồn sâu về hả.

- Cảm ơn nhé ! Tốt quá !
- À ! các anh làm nhanh nhé, chín rưỡi tắt đèn đấy !

Chắc các thủ trưởng quí nhau nên bọn tôi cũng được sướng lây. Duyên sướng lắm vì được uống trà Thanh Hương. Nhu yếu phẩm của lính chẳng bao giờ có trà đừng nói gì đến Thanh Hương hay Ba đình. Tốt lắm thì được thuốc lá vụn với giấy vụn của nhà máy thuốc lá Thăng Long còn chủ yếu là thuốc lào. Mấy thằng lính nằm mơ mà được hưởng tiêu chuẩn tiếp khách của sư đoàn. Lúc bấy giờ tôi chưa bao giờ hút một điếu thuốc nào nên chè cháo cũng chẳng có nghĩa gì. Duyên và Toàn đều nghiện thuốc. Có chè mà không có thuốc chắc chúng nó thèm lắm.

Thằng Toàn đi một lúc thì mang về một cái xoong hai mươi, mấy cái xong 8, dăm cân gạo nếp, một hai cân đỗ với một miếng thịt lợn. Lại còn có gói hạt tiêu nữa. Thế là đủ vị. Chết nỗi, đỗ xay nhưng chưa ngâm. Tôi nhớ, hồi ở nhà khi gói bánh thiếu đỗ, mẹ tôi ngâm đỗ với nước sôi, chỉ một hai tiếng sau là được. Tôi liền hiến kế với mọi người cho đỗ vào luộc, lúc nào nước sôi thì bắc ra ngâm.

- Mày quên lấy muối rồi. Chạy xuống bếp lấy đi. Lấy cả củi nữa nhé !

   Mỗi người vài việc, rửa lá, chẻ lạt, vo gạo, đãi đỗ, thái thịt, nhóm bếp . . . linh tinh xòe một hồi rồi nồi bánh cũng được bắc lên bếp. Vừa hay đèn tắt. Nhanh thật, cha Duyên này thế mà gói bánh khéo, chẳng cần khuôn khiếc gì mà bánh rất vuông. Còn thừa mỗi thứ một tý lại còn làm hai cái "bánh mụn". Tay này đúng là ông trưởng của nhà Nguyễn Đức có khác, bánh mụn là cho trẻ con cho chúng nó sướng. Không khéo nửa đêm mấy thằng trẻ con này lại tranh nhau bánh mụn chửa biết chừng !

Mấy thằng ngồi quanh nồi bánh bắt đầu sôi. Trà Thanh Hương thơm phức hương vị ngày tết được rót ra ca bi đông, ba thằng uống chung.

- Thế này mà không có thuốc có phí không !
- Tôi thèm quá. Mấy hôm ở cứ của Hương Trà còn được hút ghé mấy tay biệt động. Rặt những Hà
Tây, Thái Bình, Bắc Thái, Hà Bắc, . . . cấm có tay nào đồng hương tôi . . . Hì hì . . . "chín củ thành
mười" có phải hay không.
- Mấy ông đi từ năm sáu sáu. Ghê thật, ở mãi đây thành thổ dân mất rồi còn gì.
- Chân anh thế nào rồi ?
- Khỏi rồi !
- Gì mà nhanh thế ?
- Tôi đỡ nhiều rồi. "Chó liền da, gà liền xương" mà.

Ba thằng xòa lên cười vui vẻ.

Bỗng ánh đèn pin loang loáng từ phía trước nhà, vòng qua đầu hồi, rồi chiếu vào bọn tôi. Thằng Toàn nhanh mồm:

- Thủ trưởng chưa đi ngủ ạ ?
- Để một thằng trông bánh thôi, hai thằng đi ngủ đi rồi thay nhau. Đây ! đứa nào hút thuốc thì hút.
- Chà chà ! Tam Đảo hả thủ trưởng ? Em xin ! Em đang ước gì có thuốc hút thì đúng là bụt hiện ra đấy
thủ trưởng ạ ! (Tay Duyên này khéo thật. Ăn nói với các thủ trưởng đúng là nhất hắn).
- Cái thằng này, chỉ được cái khéo nịnh. Tao cho chúng mày mượn đài mà nghe ca nhạc đón giao
thừa. Cấm nghe BBC đấy !
- Thủ trưởng ơi, quá 10 giờ thì hết BBC rồi ạ.
- Ơ cái thằng này, mày lại còn thạo giờ đài địch à ?
- Ngày nào mà bọ Luyến bên ban chúng em chả mở.
- Thôi chúng mày thích đón giao thừa thì đón mà không thì đi ngủ đi. ở đây không phải gác,
có vệ binh rồi
- Em chào thủ trưởng ạ !

Cụ Ngoan khoanh một tay trước ngực, một tay soi đèn bước về phía trước nhà. Dáng cụ đậm, chắc, bước đi bệ vệ. Mặt cụ lúc nào cũng như đang suy nghĩ gì đó rất lung. Lúc nói chuyện hay quát tháo lính thì nét mặt cụ rất sinh động, đầy biểu cảm chứ không như một số thủ trưởng khác. Tôi thấy có thủ trưởng nói năng rất nhẹ nhàng, nghe có vẻ dễ chịu nhưng nét mặt lúc nào cũng rất lạnh.

Cụ Ngoan tham gia bộ đội từ thời chống Pháp. Tôi nghe bọ Luyến nói, nếu cụ không bị một lỗi lầm vô tình thì bây giờ cũng phải đại tá hay tướng rồi?! Một thủ trưởng sâu sát, tận tụy và thương lính như con.

   Ba thằng đùn đẩy nhau đi ngủ để rồi cùng thức đón giao thừa.

Về đêm, trời mát mẻ, nghe âm âm trong tai tiếng rừng. Hương núi thấm đẫm không gian. Sao mà núi có hương nhỉ ? Chỉ có ai ở rừng núi lâu mới cảm nhận được. Có phải là hơi sương từ nóc rừng tỏa xuống cùng với hơi đất ẩm và lá mục bốc lên từ nền rừng quện vào nhau, tràn ngập ? Dù cho trong đêm không có tiếng chim từ qui rúc "chót, chót . . .", tiếng róc rách chảy của suối hay tiếng gì khác, ban đêm ở rừng, ta vẫn nghe được thứ tiếng rừng đêm i . . . i . . . văng vẳng không biết từ đâu. Tiếng rừng đêm tĩnh lặng không mà có !

Ba thằng đã hồi lâu nín lặng, ánh lửa bập bùng hắt lên thành ba cái bóng rập rờn trên tán lá. Những đôi mắt lính bơ thờ bất động đang thả hồn về nơi xa xôi nào đó, mỗi người một cõi . . . một chốn quê hay một chốn thị thành. Nhớ về một nơi nào đó hay một thời khắc nào. Nhớ mà không, không mà nhớ !

Thỉnh thoảng trong đám lửa phát ra những tiếng nổ lép bép lẫn trong tiếng ù ù của lửa cháy. Từ đuôi của những cành củi vạt chéo sùi lên những đám bọt trắng lẫn với màu nâu anh ánh của nhựa. Tôi nhớ bà tôi bảo bị chốc mép mà lấy bọt củi bôi vào là khỏi. Tôi nhớ cái "BÌA GIA ĐÌNH" trong đó có ô phiếu củi. Nhớ những lần xếp hàng củi ở Ngõ Trạm hay ở ngõ Yên Thế. Những ngày gần Tết, hàng củi còn bán cả lá dong. Mua lá dong cũng cắt một ô. Những ngày gần Tết cũng là những ngày "xếp hàng cả ngày". Cả nhà như một đàn kiến, mỗi con tỏa đi một hướng. Người thì xếp hàng mua gói hàng tết, một túi bóng với mứt, kẹo, chè, thuốc lá, bóng, miến, . . . Người xếp hàng gạo nếp, đỗ xanh, người xếp hàng mua thịt. Những con kiến chạy đi chạy lại, tha về tổ thứ này thứ khác. Đầu chợ nhà tôi có hai nhà xay vỡ đỗ xanh bằng cối đá rất đông khách làm không hết việc thành ra có lần nhà tôi phải tự vỡ đỗ bằng chai và thớt.

Vất vả nhất là xếp hàng làm bánh quy ở những lò bánh "Qui gai xốp". Nhà tôi làm bánh ở ngõ Kỳ Đồng, một đường ngõ rải đá (về sau này đổi tên thành phố Tống Duy Tân cho đến bây giờ). Lò bánh ngày tết đông nườm nượp. Một cái hàng xếp rồng rắn những người là người. Hai tay người nào cũng xách nào bột, nào đường, nào trứng, nào sữa. Có nhà còn cho nước quế hay dừa nạo. Va-ni thì ông chủ cho, không phải mua, trừ khi không thích thì phải bảo trước. Lò bánh lớn thì rất đông thợ, mỗi người một việc. Xếp hàng đến lượt mà được đưa các thứ cho thợ thì mới thở phào một cái. Rồi sau đó cứ đi theo từ thợ này sang thợ khác để xăm soi xem người ta có ăn bớt của mình không, từ lúc đập trứng nhào bột, rồi cán bột. Cán bột xong người thợ mới hỏi mình thích hình gì để cho tùy chọn, bánh tròn hay vuông hay sáu cánh. Người thợ cầm cái khuôn dập phầm phập xuống bột và nhả bánh vào cái khay nướng. Bánh nướng xong còn phải ngồi mà quạt cho nguội rồi mới cho vào túi bóng. Có khi đi làm bánh suốt từ trưa đến 10 giờ tối mới về đến nhà.

- Bật đài đi sắp đến giao thừa rồi.

Tiếng một tràng pháo nổ giòn giã, rồi sau bài Quốc ca, tiếng Bác Tôn đọc lời chúc mừng năm mới: " Nhâng dựp năm mới, thay mặc . . ."

Chúng tôi ngồi nghe chương trình ca nhạc năm mới.

- Duyên ơi, vớt bánh mụn đi.
- Ừ !

Duyên vớt hai chiếc bánh mụn để trên cùng rồi thả vào cái xong nước lã. Một lúc sau, hai chiếc bánh đã được bóc và cắt làm tư rất khéo. Những lúc như thế tôi có cảm tưởng Duyên như người chị trong nhà. Thằng Toàn đã pha ấm trà mới. Chúng tôi vừa ăn bánh vừa nói chuyện phỏng đoán công việc ngày hôm sau. Sao cụ Ngoan lại đích thân vào tận sông Bồ mà đón mấy thằng chúng tôi. Đâu có phải là chuyện đón đi ăn tết hay đón giao thừa. Chẳng biết đằng nào mà lần nhưng chăcc là phải có chuyện gì chứ ?!

  Năm giờ sáng thủ trưởng Ngoan đã sang gọi chúng tôi chuẩn bị lên đường. Tôi giật mình tỉnh dậy, cứ ngỡ đến phiên canh nồi bánh. Thì ra Toàn và Duyên để cho tôi ngủ, hai người đã thay nhau canh đến khi thủ trưởng gọi. Bánh được vớt ra, thả luôn xuống lạch nước. Chúng tôi vệ sinh sáng xong thì xách bánh trưng lên xe. Thủ trưởng 304 ra tận xe tiễn, dường như hôm qua hai thủ trưởng cũng chẳng ngủ được nhiều. Xe ra đến đường thì rẽ phải, được một đoạn thì đến thị trấn A lưới. Trời vẫn chưa sáng, thị trấn vắng vẻ, thưa thớt vài cái nhà, vẫn đang chìm trong giấc ngủ. Ánh đèn xe hoe hoe sang hai bên đường. Con đường đất đỏ mấp mô, thấp thoáng cây bám đầy bụi.

Chừng vài cây số, chiếc xe đột ngột rẽ sang trái , xiên vào đường núi nhỏ hẹp. Chiếc xe bắt đầu lắc lư dữ dội. đoạn lên dốc làm ánh đèn hắt lên trời không còn nhìn thấy đường đâu nữa. Cụ Ngoan nhắc Tuấn cứ từ từ, đường mới chưa biết thế nào, không cần vội. Vậy là qua A Lưới một đoạn thì rẽ về phía đông. Tôi không có bản đồ miền tây Huế ở đoạn này nên cũng đành chịu, không biết chính xác đây là đoạn nào. Như đoán được băn khoăn của chúng tôi, cụ Ngoan bảo:

- Đường này đi Nam Đông. Nhưng mà còn xa đấy.
- Vâng ! Hôm qua thủ trưởng có ngủ được không ạ ?
- Bọn tớ nói chuyện mãi mới ngủ. Tớ vẫn ngủ ít mà, bình thường thôi. Mấy thằng thanh nên chúng
mày, đặt lưng là ngủ, sướng thật.

Tôi hiểu là thủ trưởng luôn có nhiều việc để suy nghĩ. Tham mưu sư đoàn đi cùng trinh sát thế này chắc chắn là chuẩn bị chiến dịch rồi. Trong lòng tôi tự nhiên cảm thấy thanh thản hơn rất nhiều vì sư đoàn không chọn Hòn Vượn làm mục tiêu chiến dịch nữa. Thật là may mắn !

Hòn Vượn là một căn cứ lớn, có hàng trung đoàn chiếm giữ trên đó với đầy đủ hỏa lực pháo binh, xe tăng và trực thăng. Nó ở trên một nọn núi được mệnh danh là "con mắt Huế", rất đắc địa cho việc phòng thủ, với vách núi xung quanh dựng đứng, được phát quang rất rộng, công sự địch rất kiên cố. Hòn vượn cũng là điểm cao nhất so với xung quanh. Trinh sát chúng tôi không có cách gì để nhòm được lên mặt trên của căn cứ trừ khi phải bò lên tận nơi. Mà bò thì chúng tôi chưa bò. Nếu đánh Hòn Vượn thì hỏa lực của ta khó có thể phát huy hiệu quả. Sau đó, bộ binh mà lên thì không khác gì kiến bò lên dốc cát. Khi trinh sát ở đây, đã bao lần tôi băn khoăn: "Bao nhiêu xương máu sẽ nhuộm đỏ chỗ này đây – mà liệu có ăn thua gì không? – Khó quá !"

Bây giờ được đánh chỗ khác, có khó đến mấy cũng không thể sánh với đánh Hòn Vượn. Không biết Có phải vì lý do đó mà các thủ trưởng quyết định chuyển hướng ? Dù thế nào, tôi thấy trong lòng rất nhẹ nhõm.

Chừng gần bảy giờ, cụ Ngoan cho nghỉ giải lao, lấy bánh trưng ăn sáng. Không biết cụ đang nghĩ gì rất nhiều mà chẳng nói chuyện, thỉnh thoảng chỉ hỏi thăm mấy câu chẳng có gì là quan trọng, chẳng có câu nào là câu chúng tôi đang cần nghe.

Chiếc xe tiếp tục lên đường, càng vào sâu, con đường càng xấu, có đoạn rất ngoằn nghoèo, cua tay áo mấy đận dể lên hay xuống một con dốc. Chừng một tiếng sau, chiếc xe bắt vào một con đường nhựa. Chắc trước đây đường rất đẹp. Bây giờ nhiều đoạn là đường đất nhưng rất bằng phẳng, đoạn nào có nhựa thì phẳng lỳ. Xe chạy chừng mười lăm phut nữa thì tấp lại bên đường. Cụ Ngoan nói:

- Đây là nông trường Hải Đông. Từ đây các cậu phải đi bộ, sẽ có trinh sát các cậu ra đón. Cứ chờ ở
đây.

Cụ Ngoan chia tay mấy thằng tôi rồi lên xe đi tiếp, chiếc xe rẽ vào rừng rồi mất hút vào trong.

Bản đồ dưới đây là đường chúng tôi đã đi từ A Lưới đến Nông trường Nam Đông. Trên bản đồ, từ Nông trường đi vào còn có đường xe kéo pháo và đường bí mật cho xe tăng.

  Chẳng phải chờ lâu, đại đội tôi cử một người ra đón. Đó là một lính thông tin 2W của tiểu đội thông tin. Bây giờ tôi không còn nhớ tên nên tạm gọi là Đoàn. Chỉ là không nhớ tên thôi còn tôi vẫn nhớ như in cậu ấy quê Thanh Hóa, người thấp, mũi không to nhưng hơi tòe một chút, mồm hơi doe một tý. Cậu ấy mồm doe nhưng khi nói lại không mở miệng to nên tiếng nói lè nhè, thoát ra từ kẽ răng. Được cái nói chuyện hay cười, mồm đã doe sẵn nên khi cười mồm rất rộng sang hai bên trông như trăng lưỡi liềm.

- Thông tịt sao không ở nhà mà tạch tè ?
- Thất nghiệp rồi, báo vụ không có việc làm, chỉ cần một thằng viết điện thôi. Đánh điện thì toàn bộ
nhờ đơn vị nào ý. Hình như người của quân khu Trị Thiên Huế hay sao ý.
- Sao lại phải thế ?
- Báo vụ phát điện thằng nào cũng có tật. Nếu bọn tôi đánh điện thì chúng nó biết ngay là trinh sát
325 ở đây thì lộ hết. Nghe nói cả sư mình đều nhờ ở đây họ đánh điện để đảm bảo bí mật.
- Ừ ! Chuyện này hay nhỉ ! Thế mình có để lại ai ở lại Quảng trị để đánh điện nghi binh không ?
- Có, hai thằng ở lại. Mí lị đại đội mình vẫn còn một số chưa vào. Nhiều lính mới lắm.
- Lính ở đâu thế ?
- Tinh bọn Hải Hưng, nhưng toàn ở Hải Dương thôi. Lính cũ chuyển đi đơn vị khác nhiều lắm. Tiểu đội
ông cũng bị đi gần hết.

Chúng tôi đi trong rừng, men theo suối, trèo lên núi. Càng đi càng vào sâu trong rừng già. Cây cối rất rậm rạp, nhiều tầng. Có những cây rất to vươn tít trên cao. Các cây tầng trung lá xum xuê che phủ kín trên đầu. Con đường rất rộng rãi vì được công binh san khá bằng phẳng để làm đường cho xe kéo pháo và đường cho xe tăng. Hôm nay trời không có nắng. Chín mười giờ rồi mà vẫn đẫm hơi sương. Chắc hẳn trên Bạch Mã hôm nay, mây phủ kín, giăng giăng đến lưng sườn núi.

Đến gần trưa thì con đường đưa chúng tôi đến ven một con suối lớn mà sau đó tôi mới biết là đầu nguồn sông Truồi. Tiếng thác đổ ầm ào xen với tiếng chảy luồng luỗng, luồng luỗng của dòng nước xiết qua đá. Biết bao nhiêu lần hành quân, biết bao nhiêu lần mệt mỏi mà bỗng nghe tiếng suối chảy thì ai nấy như tỉnh ra, khỏe lên. Âm thanh của dòng chảy vấn vít bên tai, bụi nước tràn ngập vào trong hơi thở. Ấy là sự sống động nhất của rừng. Nó thấm vào từng mạch máu của những người lính.

Đại ngàn bao giở cũng làm cho người lính cảm thấy mình nhỏ bé nhưng rất đỗi thân thiết và gần gũi. Xa là nhớ da diết, mà chỉ cần đến gần thôi là thấy rất đỗi bồi hồi !

   Bỗng nhiên rừng khỏa ra một trảng sáng rộng. Ồ ! Suối. . . Một con suối rất lớn với ngững tảng đá to, hòn nọ hòn kia lô xô. Dòng nước trong vắt uốn lượn, lúc ẩn lúc hiện ngoắt ngoéo lách trong đá. Ngước nhìn lên phía tiếng động ầm ào, ta thấy một thác nước khá lớn, dòng nước trắng xóa cứ hối hả nối đuôi nhau đổ xuống mặt đá bên dưới. . . tung lên màn bụi nước li ti. Giá mà có nắng suôi chiều, hẳn là sẽ nhìn thấy cầu vồng nho nhỏ, muôn sắc lung linh. Cây gì kia, không biết, sao cứ lắt lẻo ngay trên vách đá, cành lá phần phật trong dòng thác. Một cái cây có sức sống kỳ lạ. Dòng thác cứ quật lên quật xuống mà nó vẫn xanh tươi, nô giỡn ngày này qua ngày khác.

Chúng tôi ngồi nghỉ trên các tảng đá ngay trên lòng suối.
- Chén bánh chưng đê !
- Ử ! Đói quá ! Mà ở đại đội có gói bánh không Đoàn ?
- Có. Thằng Dõi nó lo gói bánh từ trước tết mấy ngày. Mỗi thằng có một cái. Hết rồi còn đâu.
- Đây, bọn tôi có bánh cụ Ngoan đơi . . . Tôi tưởng bọn ông không phát điện nhưng vẫn phải thu điện
chứ ?
- Tất nhiên rồi. Thu điện thì vẫn thu. Đến giờ lên sóng, dò đúng sóng, thấy nó gọi tên mình rất lâu rồi
nó mới phát. Chỉ việc thu và dịch là xong.
- Thế phải có tên mới à ?
- Tên mới là do bọn tôi đặt chứ đâu. Cả tiểu đội có bốn cái tên thôi. Thằng nào thu chả được.
- Không phải phát điện thì mất cái trò gõ boòng . . . boòng . . . lên mặt máy nhể ? Mà, sao ở đây lại có
ngã ba đi đâu thế ?
- À ! Công binh mở đường này để kéo pháo lên núi, còn đường kia thì san tương đối bằng phẳng thôi,
cây to họ chỉ cưa gần đứt chưa cho cây đổ. Khi nào xe tăng đi sẽ tự húc đổ. Hình như đường bí mật
cho xe tăng làm sát tới tận đồng bằng.
- Hay nhể ! Bây giờ tôi mới biết đường bí mật cho xe tăng họ làm như thế.

Chúng tôi chén hết hai chiếc bánh trưng, đang chuẩn bị đi tiếp thì nghe tiếng ầm ầm và tiếng xạch xạch rít lên của xích sắt xe tăng đang ngày càng gần. Mấy thằng ngưng lại để xem xe tăng cái đã. Một lúc sau thì thấy thấp thoáng bóng xe lẫn trong cây. Thì ra là xe xích đang kéo pháo. Phía sau chiếc xe là khẩu pháo 85 ly nòng dài. Đoạn này hơi dốc nhưng chiếc xe phải gầm lên rất dữ mới kéo được khẩu pháo qua. Đi theo khẩu pháo là rất đông lính để chèn và giữ pháo. Rồi chiếc xe đột ngột tắt máy. Đám lính nhào tới xung quanh, mấy người chèn bánh, mấy người đang gỡ pháo khỏi xe xích.

Hóa ra chúng tôi đang ở vị trí tập kết của pháo. Từ đây, pháo kéo lên núi phải dùng sức người.

  Sáng hôm kia, vừa tỉnh dậy, bỗng nhớ ra cái cậu thông tin dẫn chúng tôi về đơn vị tên là Trung. Trung là người dạy tôi cách dò sóng trên máy 2 oát, nó cũng dạy tôi gõ tạch tè các chữ cái và con số. Bây giờ tôi quên hết rồi, nhưng hồi đó học rất nhanh, cũng chỉ là để biết thôi chứ chưa bao giờ phải dùng.

Chúng tôi qua suối, có một đoạn phải lội, vẫn là con đường công binh làm để kéo pháo. Hôm nay là mồng một tết, ngày dương là 11/2/1975. Vừa đi được một đoạn thì gặp công binh đang làm đường.

- Đơn vị nào đới ?
- Bọn tôi trinh sát sư.
- Trính sát còn đi sau công binh bọn này nhớ .
- Vâng. Bên công binh không có thím bộ đội nào à ?
- Thím bộ đội thì chỉ có bên tuyên văn thôi. Có hai thím Kiều Oanh, gì nhể ? à, Thu Lý nhớ. Ở đây chỉ
toàn đực rựa thôi.
- Các anh làm đường kéo pháo à ?
- Ừ ! Mà bọn tôi còn làm đường cho xe tăng nữa.
- Đường ngoằn ngoèo quá nhỉ ?
- Không được chặt cây to mà lị.
- Đường xe tăng cũng thế à ?
- Không. Đường tăng thì chỉ cưa các cây to gần đứt thôi, cây nhỏ không phải chặt. Tăng nó đi tự nó
làm đổ cây.
- Bọn tôi cứ tưởng bên công binh có mấy thím làm chị nuôi, em nuôi gì chứ ?
- Hề . . . hề . . . Có mà đến Tết!
- Hì . . . hì . . . Hôm nay là tết mà . . .

Chào nhau xong, chúng tôi tiếp tục đi, một con đường mòn khá lớn có vẻ rất mới nhưng đã khá nhiều người đi qua. Chừng hai tiếng sau, chúng tôi đến khu vực của sư đoàn bộ. Chúng tôi đi qua trạm gác vệ binh rồi leo ngược lên men theo bờ sông. Khung cảnh thật náo nhiệt suốt một vạt rừng bên bờ phải (hữu ngạn) một chi lưu sông Truồi, bám theo sườn động Lưỡi Cái. Công binh đang làm nhà âm và đào hầm cho các thủ trưởng. Đoạn này sườn núi rất dốc che chắn toàn bộ hỏa lực pháo của địch. Trung dẫn chúng tôi vào ban 2. Một tốp năm bảy lính trinh sát chúng tôi cũng đang đào hầm và làm nhà âm cho ban. Bọ Luyến ngồi trên cái giường chõng mới làm đang xem bản đồ. Thấy bọn tôi đến, bọ nghênh mặt lên nhìn từng đứa và đưa tay ra bắt. Bọ Luyến là phó ban trinh sát sư đoàn, người đậm, chắc, to ngang với chiếc cằm vuông. Ngày nào bọ cũng cạo râu mà trông râu quai nón của bọ vẫn xanh rì. Đôi mắt sâu lõm xuống dưới cái trán dồ hẳn ra đằng trước. Đôi lông mày rất rậm chặn ngang dưới trán làm cho đôi mắt càng có vẻ sâu hơn. Một đôi mắt nom rất dữ và đầy mưu mô. Bọ Luyến có cái hàm dưới đưa ra phía trước, cằm thì lại vuông, đầy râu nên trông càng ghê gớm. Khi nhìn ai, bao giờ cái mặt bọ cũng nghênh nghênh, trông rất có vẻ dò xét và khiêu khích. Tôi đã nhiều lần ở cùng với bọ thì thấy tính cách hoàn toàn không giống với vẻ bề ngoài. Một thủ trưởng gần gũi lính, khá điềm đạm và ôn tồn, hay cười mỉm và hay trêu trọc lính.

Bọ Luyến bảo:

- Thôi, mấy thằng này về đi ! – Bọ lại đưa tay cho chúng tôi bắt. Khi bắt tay tôi, bọ còn vỗ vỗ vào cánh tay tôi, giọng hơi dịu xuống:

- Thằng Như Lệ binh địa về nghỉ hai hôm rồi lên đây.

Tiểu đội trinh sát kỹ thuật ở ngay gần ban nên Duyên ở lại còn ba thằng tôi đi tiếp. Chúng tôi ra khỏi sư đoàn theo đường cũ rồi đi xuôi xuống phía dưới khoảng 30 phút thì về đến "nhà". Đại đội tôi cũng ở cùng ven chi lưu sông Truồi như sư đoàn nhưng chúng tôi ở trên cao chứ không làm nhà sát sông.

Thế là về đến nhà, không nhớ chính xác sau bao nhiêu ngày . . . !

   Tiểu đội tôi có nhiều thay đổi. Bây giờ tiểu đội phó là Vương Lâm, người Đông Triều, Quảng Ninh. Lâm to cao hơn tôi một chút, có đôi má bầu bĩnh, rám đỏ. Lâm là a phó a1 chuyển sang a2 chúng tôi. a2 bây giờ toàn lính mới Hải Dương bổ sung về lúc tôi đi vắng nên tôi chưa biết. Lâm phải giới thiệu từng đứa.

Lính cũ tiểu đội tôi, thằng Thìn, thằng Sự, thằng Hưởng "đầu bồng đít vịt", thằng Cam đều bị chuyển đi đơn vị khác. Thằng Thìn chuyển sang tiểu đoàn vận tải, thằng Cam chuyển sang đại đội xe c26. Thằng Sự, thằng Hưởng chuyển về bộ binh. Lính cũ tiểu đội còn thằng Tiến chuyển sang trung đội khác, thằng Tính thì bị chuyển sang anh nuôi. Không riêng gì tiểu đội tôi, tình hình trong cả đại đội đều như vậy. Tôi vừa buồn vừa tức. Đại trưởng, đại phó đều mới. Anh Ánh xê viên phó thì không thể làm việc này rồi. Chỉ còn có mỗi một người làm việc đó. Không biết thời lính, lão là lính tráng kiểu gì. Lão không có tình thâm gì với lính tráng. Đã không biết động viên anh em trong đơn vị thì chớ mà hiểu biết về tình hình cũng kém. Ai cũng biết, hai năm ngừng bắn để ta chuẩn bị thực lực và đã đến lúc phải đánh lớn rồi. Nhìn thấy lính trong đơn vị liên tục đi trinh sát, luồn sâu chuẩn bị chiến trường mà không biết, lại cho "thay máu" đơn vị vào thời điểm này. Nhẫn tâm và không có gì ngu hơn thế !

Xin lỗi anh em, máu tôi hơi điên mỗi khi nghĩ đến chuyện này !

Lính mới rất trẻ, mười bảy, mười tám, nhập ngũ tháng 10 năm 1974. Tôi không có gì phải phàn nàn về anh em mới. Đều là những đứa em dễ thương và chịu khó, chịu khổ cả. Mọi người đang làm hầm và làm nhà. Anh em phải đi khá xa để chặt cây to làm hầm chữ A rồi cây làm nhà nữa, rất vất vả.

Nghĩ lại nhiều lúc cũng thấy mình tệ. Tôi nhớ tên mọi người rất nhanh nhưng vài tháng sau đã quên gần hết. Tôi cũng không nhớ là mình đã làm gì cho cái a2 của tôi. Một phần thì do bị điều đi lẻ cùng với anh em cũ ở tiểu đội khác liên tục cho đến tận ngày 30/4. Phần nữa thì tôi không còn nhớ tại sao mình lại không quan tâm gì mấy đến anh em mới. Mọi việc của tiểu đội đều bỏ mặc cho Lâm. Tôi đi lẻ bao giờ cũng chỉ có một chiếc gùi bé tí tẹo đủ dùng cho việc trinh sát. Các thứ khác đều để lại ở "nhà". Mà đồ đạc của tôi cũng khá lủng củng vì các loại giấy vẽ và bản đồ, lại còn thêm một đống sách vở. Đơn vị đi đâu, anh em đều phải thồ giúp.

Anh Nhạ (Trương Thế Nhạ), đại trưởng mới, nguyên là đại trưởng trinh sát của trung đoàn 101 được điều về đại đội tôi và tôi chưa có dịp tiếp xúc nhiều. Đang làm hầm thì anh Nhạ tới kiểm tra và báo cho tôi rằng hoãn việc lên ban 2. Ngày mai tôi sẽ đi địa hình cùng anh Nhạ.

    Khoảng bảy giờ sáng, tốp đi địa hình chúng tôi xuất phát từ cứ của c20. Tốp có anh Nhạ, một người nữa và tôi. Người kia bây giờ tôi không nhớ là ai. Chúng tôi đi theo con đường mòn mới trong rừng. Chắc hẳn nhiều lính tráng đã đi theo đường này để lên các điểm cao mà ta đang chốt giữ trên dãy Lưỡi Cái. Qua vài bốn lần lội suối lớn nhỏ, chúng tôi phải leo dốc khá cao. Con đường rất quanh co và có đoạn rất dốc. Hôm nay, trời mù, càng lên cao mây càng dày đặc. Hơi thở ngàn ngạt ẩm. Những giọt nước ly ti, dày đặc, bay lên, bay xuống, đôi khi nhảy múa ngay trước mặt. Phía trước, đường dốc ngược lên. Ngoái lại nhìn xuống phía sau chỉ thấy được một đoạn. Không còn nhìn thấy khu vực cứ của sư đoàn và c20.

Khoảng hai tiếng sau chúng tôi mới leo lên được điểm cao 694. Đây là một điểm cao nằm trên sườn của dãy Lưỡi Cái. Chúng tôi dừng lại nghỉ. Ba người đều chu mồm thổi phù . . . , phù . . . Một đám đất không lớn nhưng khá bằng phẳng. Một chỗ nghỉ chân thật tuyệt. Chắc ai đi đến đây cũng phải dừng lại nghỉ. Những mảnh giấy lương khô trắng, ẩm sịu, vương vãi trên đám đất. Lại còn mấy cái lá bánh trưng còn rất mới.

- Cậu là người Hà nội à ?
- Vâng ! Anh quê ở đâu ạ ?
- Mình, quê Hà "Bốc" chính khựa.

Vừa nói, anh Nhạ vừa vén hai ống quần lên. Hai bàn tay anh, cứ thế cào khắp hai ống chân. Không biết anh bị bệnh ngoài da gì mà sau này tôi vẫn thấy anh Nhạ luôn luôn là như vậy, thành một "phong cách riêng". Mỗi khi có thể được, thỉnh thoảng anh lại gãi ống chân, lúc thì bằng một tay, khi thì bằng cả hai tay. Bây giờ nghĩ lại, có lẽ anh bị phơi nhiễm chất độc của thuốc rụng lá cây.

Anh Nhạ, người đậm thấp, chắc nịch và trắng trẻo. Anh mới về thay anh Dụ đại trưởng cũ khi tôi đi vắng. Chỉ cần một lần tiếp xúc thôi là thấy ngay một con người gần gũi, dễ chịu, sống tình cảm, đôn hậu và chu đáo với mọi người. Tốt rồi, có một thủ trưởng như thế thì lính có thể yên tâm. Nói thế thôi, anh Nhạ cũng là người hay suy nghĩ và khá sâu sắc. Sự dễ chịu của anh không phải hời hợt bên ngoài mà xuất phát từ sự sâu sắc bên trong.

Bản đồ dưới đây có thể hiện điểm cao 694. Trên bản đồ còn thể hiện một số điểm cao khác do địch đang chốt giữ và các cao điểm đặt đài quan sát của c20. Một số địa danh không có sẵn trên bản đồ cũng được điền thêm vào.

   Nghỉ ngơi một lúc, chúng tôi tiếp tục đi. Chừng nửa tiếng sau, chúng tôi mới lên tới đài quan sát nằm trên điểm cao 769. Mọi người lại thi nhau "thổi lửa" phù phù. Tôi rút ống nhòm khỏi gùi và khoác lên cổ.

- Trời mù thế này thì còn làm ăn gì. Nhìn bằng mắt thường cũng chỉ được một đoạn, ống nhòm của cậu
cũng coi như vất đi.

Anh Nhạ mở bản đồ. Chúng tôi cùng xác định điểm đứng nhưng cũng chả ăn thua gì vì trời mù quá, không nhìn thấy các điểm cao xung quanh. Giá mà trời không mù, gióng thẳng tới mũi Mũi Né là được một tia. Gióng thêm thằng 650 nữa là giao hội chính xác ngay được vị trí đứng. Đành chấp nhận đây là 769. Nhưng mà rất yên tâm vì đây là điểm đặt đài của đại đội.


Mấy đứa trong đài thấy tiếng chúng tôi lao xao liền nhảy ra xem. Chúng tôi bắt tay nhau. Hai thằng này và tôi đã lâu không gặp nhau nên tay bắt mặt mừng lắm. Thế mà rất tệ, bây giờ tôi không nhớ là hai thằng nào – hai thằng lính cũ. Một cậu nữa là lính mới, tôi được giới thiệu tên mà ngay sau đó cũng chẳng nhớ.

- Không đứa nào ra quan sát hử ? – Mấy đứa gãi đầu gãi tai ra chiều bối rối.

Thực ra thì anh Nhạ nói câu đó có vẻ là một câu hỏi nhiều hơn là một câu nhắc nhở. Trời mù như thế này chỉ cần canh gác cảnh giới thôi chứ có quan sát được gì. Chúng tôi cùng chui vào đài. Một cái nhà âm có nắp dày được ngụy trang cẩn thận giống như cây cối xung quanh. Đứng trong đài nhìn qua một dải khe quan sát nằm ngang có thể bao quát toàn bộ phía trước. Cái đài này rất tuyệt. Đạn bắn thẳng thì không làm gì được đã đành mà đạn pháo bắn rất khó trúng vì nó nằm sát dệ sau của đỉnh núi hẹp.

Sau khi trao đổi tình hình địch trên bản đồ với "nhà đài", chúng tôi đi tiếp lên đài 843. Đường từ 769 lên 843 đi dọc theo đỉnh của một dãy núi. Đường cứ thế đi lên, hơi dốc một chút và khá thẳng, chỉ lượn qua lượn lại đôi chút. Dãy núi này khá dài nhưng mỏng, hai bên rất dốc. Hèn chi được gọi là Lưỡi Cái. Trên đài 843 có anh Nguyễn Thế Dân, trung đội trưởng trung đội ba. Anh Dân lên trung trưởng thay cho bác TràLiênTây từ hồi bác này bị thương và không trở lại đơn vị nữa. Anh Dân là người mà tôi đã viết trong chuyện "Lương khô" với tên là Ng T D. Anh Dân chỉ huy chung cả ba đài 769, 843 và 762.

Anh Dân báo cáo rất chi tiết binh tình địch trên các điểm cao đang chốt giữ. Điểm cao nhất của địch trong khu vực này chỉ là đỉnh 560. Thành ra, từ đây mà quan sát, không khác gì nhìn vào lòng bàn tay. Anh Dân cũng báo cáo tình hình xe cộ đi lại trên đường 1, đoạn từ đèo Phú Gia (Mũi Né), qua Phú Lộc đến đèo Phước Tượng. Số lượng xe cộ được đếm hàng ngày và thống kê theo từng giờ trong ngày.

   Ông Dân quê Bình Lục, Hà Nam, chính gốc "dân cầu tõm" hay "dân chín củ". Mỗi khi nói chuyện lúc nào mặt lão cũng đỏ lựng, lúng túng ngượng nghịu như con gái. Được cái lão cao ráo, đẹp trai. Lão này đặc biệt có cái môi dưới hơi trề ra một tý nên rất gợi cảm với em út. Tính tình thì cực kỳ dễ chịu và thoải mái nên anh em ai cũng quý. Sau khi báo cáo tình hình xong, gã mới quay sang hỏi chuyện thằng Tư chết ở Hòn Vượn thế nào, thằng Mào bị thương ra sao. Rồi chuyện 6971 và TràLiênTây có gửi thư không, bây giờ đang làm gì . . . Rồi, như bất chợt nhớ ra điều gì quan trọng Dân gọi giật tôi:

- À, này ! Có, có, có thằng đồng hương cùng phố ông đấy (thỉnh thoảng Dân hay nói lắp từ đầu của
một câu). Nó ở bên trinh sát pháo kia kìa. – Rồi Dân bảo một trinh sát mới:
- Ề, thằng này ! Chạy sang gọi thằng Thanh sang đây.

Chả là, ở đại đôi tôi, như đã nói ở trên, nhiều người nhớ địa chỉ nhà tôi, cả số nhà và tên phố mặc dù chưa mấy người đến. Một loáng đã thấy Thanh chạy sang, nét mặt rất hồ hởi:

- Em nghe mấy anh nói anh ở số 60. Em ở số 172 đây.
- Ngay bến xe Kim Mã à ?
- Vâng. Em nghe nói anh là sinh viên tổng hợp lý. Em cũng vừa có giấy gọi vào tổng hợp lý thì đi bộ đội.

Chúng tôi bắt tay nhau rất chặt. Thanh lắc mạnh tay tôi và giữ tay hơi lâu. Bàn tay này thật rắn và mạnh. Vẻ mạnh mẽ, nhanh nhẹn, nhiệt tình, tốt bụng và nghiêm chỉnh toát ra ngay từ vẻ bề ngoài của Thanh. Hắn cao to, nước da ngăm đen, đẹp trai với khuôn mặt vuông bầu bầu, cương nghị, đầy nam tính. Chúng tôi hàn huyên với nhau về phố xá, chuyện sơ tán, chuyện xếp hàng ở máy nước công cộng "rồng rắn lên mây". Bố mẹ thanh đã già. Hai ông bà có quán nước ở trong nhà, bán nước chè 2 xu một chén, kẹo lạc, kẹo bột, kẹo gôm xanh đỏ với kẹo dồi. Vẻ giản dị, chân thật của hắn thật dễ mến. Thanh là trinh sát pháo của trung đoàn 164.

Đã nhìn thấy ánh nắng xuyên qua những đám mây mù, hắt ánh vàng loang lổ trên vạt rừng xanh thẳm phía dưới. Mây dường như loãng hơn, thỉnh thoảng thủng ra từng đám lớn. Đã có lúc nhìn rõ từng khúc của đường 1với nhộn nhịp xe cộ chạy ra chạy vào. Gió bắt đầu thổi từ hướng biển vào rồi thốc mạnh lên theo sườn núi làm cho hơi mây nhanh chóng bị đuổi lên cao. Gì nhỉ ? À ! Gió này là một loại "gió địa lý" có tên gọi là "gió biển", một hiện tượng thấy ở các vùng núi gần biển vào ban ngày. Ngược với gió biển là "gió núi", thổi từ núi ra biển vào ban đêm.

Lúc chúng tôi ăn trưa thì Thanh cũng chạy về ăn trưa ở đài của hắn, ngay gần đấy, cùng trên điểm cao 843.

  Ăn trưa xong, chúng tôi nằm nghỉ một lúc. Dân và tôi chẳng ngủ được tý nào, nằm nhớ lại chuyện ở sông Nhùng. Nhắc đến chuyện cân lương khô, Dân đỏ mặt nói:

- Ông biết không ? Lúc ấy tôi tưởng tôi chết. Bây giờ nghĩ đến vẫn còn sợ. Dại thật! không có gì dại
bằng.

Chúng tôi tiếp tục đi lên đài 862 (ở cái bản đồ đã đưa lên lúc trước, tôi viết nhầm là 762). Đây là đỉnh cao nhất của dãy Lưỡi Cái. Sau lưng dãy Lưới Cái là Động Bạch Mã có đỉnh cao 1450 mét.

Trời ơi ! Đẹp tuyệt !

Sau lưng tôi - Bạch Mã,
Trời thiên thanh,
mây trắng,
núi thẳm.
Trước mắt tôi – Đầm Cầu Hai,
vụng Chân Mây,
bãi cát lô xô,
biển biếc.
Xung quanh tôi – rừng đại ngàn,
nhấp nhô,
trùng điệp,
xanh ngăn ngắt.

Chưa bao giờ tôi thấy cảnh đẹp mê hồn đến vậy – nguy nga, diễm lệ và hoành tráng. Một cảm giác nao nao lòng . . . khó tả. Bất giác, lệ rơi trên má . . .

  Khi tôi đang dùng ống nhòm quan sát các điểm cao ở gần chúng tôi nhất thì anh Nhạ lấy trong ba lô ra một cái ống nhòm "đại tướng", ống nhòm Đức kiểu 10x50 (độ bội giác 10 lần và đường kính vật kính 50 mm). Ống nhòm của tôi cũng là của Đức nhưng chỉ là kiểu 6x30.

- Anh kiếm đâu ra của quý thế ?
- Bí mật.
- Chắc bọ Luyến, trưởng ban đồng hương với anh chứ gì ?
- Bọ Luyến cũng chẳng có.
- Thế thì cụ Ngoan rồi, đúng không anh ?
- Tớ phải lên phòng tham mưu mượn cụ Ngoan đấy. Cụ cũng chỉ cho mượn đợt này thôi.
- Chắc trước kia anh là đại trưởng trinh sát của 101, là con cưng của trung đoàn trưởng Ngoan nhỉ ?
- Ác chữ lị.
- Anh dòm xong, cho em dòm mấy chỗ xa xa, bên núi Bông, Mũi Né mới lại Lương Điền nhé !
- Thì cậu phải dòm là chính, chứ còn gì.
- Vâng, hay quá !

Trời chiều lòng chúng tôi, không khí trong veo vẻo, nắng đẹp, lại xuôi chiều, nhìn mọi thứ cứ rõ một một. Ống nhòm thì đại tướng. Quá sướng đi ! Anh Nhạ quả là dễ chịu, vừa vui vẻ, cởi mở, vừa tạo điều kiện tốt cho anh em làm việc.

Tôi cứ thế lia ống nhòm, suốt một lượt các điểm cao vừa trao đổi với anh em ở đài đã theo dõi địch từ mấy ngày nay. Tôi ghi từng tọa độ vị trí địch, lực lượng địch để mai về còn vẽ lên sơ đồ. Các điểm cao của địch bây giờ không nhớ hết. Ngay ở dãy Lưỡi Cái có 520, 494, 363, 356, và 560. Mom Kim Sắc có 310, 312, 329. Mũi né là điểm cao 139. Đường 1 nằm kẹp giữa điểm cao 139 của Mũi Né và cao điểm 230 Đá Bạc. Chỗ Bạch Thạch là điểm cao 120. Lương Điền có điểm cao 162. Núi Bông là một dải cao khoảng 150.

Thật may là sư đoàn chúng tôi chuyển hướng tấn công về đây. Mình ở trên cao, địch ở dưới thấp. Quả thật, nếu kéo pháo lên cao như thế này thì không còn gì phải bàn nữa. Nghĩ lại, nếu đánh Hòn Vượn hay Núi Gió (Chóp Nón) thì rất kinh . . .

   Khoảng 3 giờ chiều, chúng tôi xuống núi. Khi đi qua 843 đã thấy Thanh chờ sẵn chúng tôi ở đó. Chúng tôi chia tay nhau, Thanh còn hẹn gặp lại chúng tôi ở Huế. Anh Dân với cái vẻ bẽn lẽn vốn có thì bắt tay từng người. Chúng tôi còn dừng lại ở dài 769 để quan sát kỹ hơn một lần nữa các cao điểm 520, 494, 363, 356 và 560 mà buổi sáng ở gần nhưng trời mù chưa quan sát được.

- Anh Nhạ này, các đài báo cáo tình hình về nhà thế nảo ?
- Ba đài ở đây có 2 thông tin, một máy 2 oát nhưng chưa được dùng. Hàng ngày cậu Dân vẫn viết
báo cáo vào giấy căn ke (giấy than) thành 2 bản rồi một cậu chạy bộ về nộp cho mình. Mình lại cho
người nộp lên ban một bản. có gì cần thông báo cho đài thì mình viết trả lời về đài.
- Vất vả quá anh nhỉ ?
- Bao giờ sư đoàn cho phép mới được sử dụng thông tin vô tuyến. Trên sư đoàn bây giờ toàn dùng hữu
tuyến và lính truyển đạt. Để bí mật mà. Này ! Tớ thấy cậu hiền thế mà lại bảo ở Hà Nội một mét vuông
mấy thằng ăn cắp là thế nào ? Lúc ở trường lục quân ra, tớ được về phép, đi qua Hà Nội chơi hãi bỏ
mẹ, tay cứ giữ khư khư cái ví ở mông đít này này.
- Chắc mấy thằng ăn cắp nó nhìn mặt anh buồn cười lắm nhỉ. Nhưng nhìn mặt anh, nó đoán anh sắp đi
bê nên nó tha thôi, chứ không, dao lam nó rạch đít anh rồi.
- Thế hử ?
- Thì nhìn anh mua bánh mỳ của con phe thì chỉ có bộ đội đi phép về quê mới mua bánh mỳ làm quà.
Thế mà thời buổi này mà lính lại đi phép thì có phải là sắp đi bê không ?
- Thế hử ? Thế thì ăn cắp Hà Nội nó cũng thương lính đi bê bọn mình nhảy ? Ra là ăn cắp nó cũng yêu
nước nhảy ?

Khi anh Nhạ nói chuyện đó, tôi không biết là anh nói thật hay nói đùa. Có lúc anh nói đùa như thật mà có lúc thật như đùa. Thành ra tôi nói chuyện với anh theo kiểu "tào lao chi khươn" cho vui thôi.

Chúng tôi xuống núi rất nhanh, những đoạn dốc cứ thế mà theo đà chạy xuống. Chả mấy chốc đã về đến nhà. Anh Nhạ nói sáng mai tôi hoàn thiện sơ đồ rồi lên chỗ anh xem lại để tôi mang lên ban cùng với điện của anh gửi cho ban.

Mấy đứa lính mới có vẻ rất kính nể tôi, chắc không phải vì tôi là tiểu đội trưởng mà vì nghe đồn tôi đi luồn sâu địch hậu liên tục như đi chợ. Có biết đâu rằng, tôi lại rất kính nể biệt động thành Huế, du Kích Hải Lăng và trinh sát Mặt trận. Họ đi vào đi ra vùng địch như đi trong nhà của mình vậy. Họ có hẳn các vòm cứ ngay trong lòng địch. Địch thì biết rõ mười mươi mà không làm gì được.

Hầm và nhà của đại tôi đã xong. Công việc ngày mai là đi kéo pháo và gùi đạn pháo mãi từ đầu sông Truồi lên núi Lưỡi Cái. Mọi công việc của đại đội và tiểu đội, tôi không phải tham gia. Chiều mai tôi lên ban 2 để đắp sa bàn cho sư.

   Hoàn thành xong sơ đồ, tôi lên ban chỉ huy đại đội thì thấy đang có cuộc họp nên tôi phải ngồi chờ. Bây giờ không nhớ hết những người trong cuộc họp lúc đó. Tôi nhớ, có anh Nhạ, Duyên – trinh sát ảnh, Quách Lâm – binh địa, một vài tay súng nữa và hình như là hai hay ba trinh sát của trung đoàn 101. Nhóm đang họp để chuẩn bị đi trinh sát căn cứ Lương Điền. Lần này anh Nhạ đích thân chỉ huy nhóm trinh sát. Yêu cầu của ban 2 là làm binh yếu địa chí căn cứ Lương Điền, được nghi là căn cứ của một trung đoàn (lâu ngày không còn nhớ là trung đoàn nào). Nếu Bạch Thạch có địch thì làm luôn cả điểm này. Nhóm cũng được yêu cầu kiểm tra xem hầm đường sắt qua đèo Mũi Né địch có pháo đặt trong đường hầm hay không đồng thời nắm địch ở Mũi Né.

Khi tôi đến thì mọi người đang bàn phương án tiếp cận mục tiêu. Nhóm quyết định sẽ luồn rừng men theo Mom Kim Sắc, đi dưới chân cao điểm 312, đến chân cao điểm 560 và 494 xuống thẳng đường 1. Đường đi đoạn sau là rừng cây lúp xúp mà khi ở đài quan sát đã thấy không có địch đóng quân, chỉ có ít lính tráng đi lại từ các điểm cao xuống đường một theo hai con đường hai bên điểm cao 494. Vậy là phải vượt qua đoạn này vào ban đêm, lúc đó địch hoàn toàn không đi lại nên mình có thể vượt qua tương đối tự do. Sau khi vượt qua đường một có thể do thám được hầm đường sắt và địch ở Mũi Né. Sau đó, đi dọc theo phía đông đường 1 lên phía bắc tiếp cận căn cứ Lương Điền. Ở phia đông đường 1 địch ít để ý, có thể chui rúc trong cái rẻo hẹp của ruộng lúa giữa đường 1 và Đầm Cầu Hai. Ban đêm sẽ di chuyển để tiếp cận địch. Vậy là ban ngày phải tìm chỗ trú bên phía đông đường 1. Ban đêm di chuyển đến vị trí lựa chọn thích hợp, kín đáo để quan sát. Nhiều khả năng phải chui vào cống hoặc gầm cầu nhỏ có nhiều cây cối rậm rạp trên đường 1.

Nhóm bàn thảo kỹ càng và chuẩn bị thêm một ngày để chiều mai xuất kích. Họp xong, anh Nhạ mới ngồi viết báo cáo gửi lên ban. Lúc nãy ngồi ngoài, nghe hết nên bây giờ tôi đoán được anh Nhạ viết gì gửi cho ban. Đường đi và hoạt động của nhóm trinh sát được thể hiện trên bản đồ dưới đây.

  Nhớ lại sáng nay, tôi ngồi phóng bản đồ thành sơ đồ trên giấy tờ rô ki (troki) mà bây giờ gọi là giấy A0. Tôi xem rất kỹ cái bản đồ 1:50.000 của khu vực này, dò lại con đường 1 suốt từ Lương Điền về Mũi Né. Trên bản đồ này không thể hiện các cống trên đường. Hồi ở Quảng Trị tôi có đủ cả bản đồ tỷ lệ 1:50.000 và 1:25.000. Bản đồ sau, nếu là vùng đồng bằng thì vẽ chi tiết hơn nhiều, thậm chí có cả cây độc lập, chùa, miếu, cống, . . .

Nhưng chắc chắn đường 1 ở đoạn này phải có rất nhiều cống chảy qua đường vì ở đây núi sát biển. Rất nhiều đường tụ thủy trên núi xuống đường 1 mà không có thể hiện cầu cống gì. Các cống này không phải bao giờ cũng có nước chảy. Chúng thường để thoát nước của những trận mưa lớn. Nếu cửa cống có cây cối rậm rạp thì ban ngày là chỗ lý tưởng để làm đài quan sát. Tuy nhiên ở ngay sát đường, xe cộ hoạt động suốt ngày, địa hình thì trống trải nên không thể di chuyển ban ngày được. Mỗi ngày chỉ có thể ở một chỗ, ban đêm mới di chuyển được.

Một khó khăn nữa là khi vẽ sơ đồ, cảnh đồ hay chụp ảnh Lương Điền, Đá Bạc, Mũi Né mình toàn ở dưới thấp, không thể biết toàn cảnh địch ở trên cao điểm. Nhất định sẽ phải quan sát vong quanh mấy mặt. Một toán trinh sát khá đông thì việc xóa dấu vết cũng khó hơn, nhất là khi lội ruộng. Tuy biết anh Nhạ là trinh sát kỳ cựu, nhưng nhất định tôi sẽ nói chuyện này với anh.

Vì khu vực tổng thể khá rộng nên mãi đến trưa tôi tôi mới xong công việc. Các vị trí địch chốt trên các điểm cao, lực lượng tiểu đội hay trung đội, đại đội đều được thể hiện, chỉ thiếu mỗi phiên hiệu.

Anh Nhạ viết điện xong thì quay ra xem cái sơ đồ tôi vẽ. Anh góp ý mấy chỗ rồi đưa bức điện cho tôi chuyển lên ban 2. Tôi cũng nói với anh mấy ý đã suy nghĩ từ nãy.

  Chuyện đắp sa bàn trên sư đoàn thì tôi đã kể trong chuyện "Bắt Tù Binh" ở topic "Những Chuyện Không Thể Quên – Cười Ra Nước Mắt (phần 1)", trang 28.

Những ngày đắp sa bàn, chúng tôi ở ban 2, ngay cùng nhà âm với bọ Luyến. Các thủ trưởng trong ban cũng hay trao đổi qua lại tình hình chuẩn bị chiến dịch của sư đoàn nên tôi cũng nắm được sơ sơ. Tôi nhớ, một hôm bọ Luyến đi họp trên phòng tham mưu về cứ cằn nhằn: "Sao mấy thằng ngu thế, mấy thằng này chủ quan quá ! . . .". Rồi bọ Luyến trao đổi với bọ Kim chuyện sư đoàn lo lắng, sợ lộ ý đồ chiến dịch. Anh em kéo pháo lên Lưỡi Cái chủ quan, hò hét quá to. Rồi chuyện một khẩu lựu 122 ly bị lăn xuống vực, không thể kéo lên được. Mà nếu có kéo lên thì cũng hỏng hết rồi không thể dùng bắn được nữa. Anh em cứ nhìn kỹ trên bản đồ mà xem. Hai bên sườn của dãy Lưỡi Cái rất dốc. Đường kéo pháo tuy được công binh làm nhưng là đường bí mật vì địch vẫn dùng máy bay L19 bay lượn trinh sát ở tít trên cao. Nếu nghi vấn, chúng sẽ xăm soi và phát hiện ra đường là lộ ý đồ đánh lớn.

Rồi chuyện lộ cũng không tránh khỏi. Không rõ là do máy bay hay là do thám báo phát hiện. Chuyện này tôi chưa có dịp hỏi lại anh em a12 - trinh sát nghe lén điện đàm. Hồi đó mà thám báo tìm ra, sẽ báo cáo về phía sau và anh em sẽ nghe lén được. Chỉ sợ anh em cũng quên rồi. Vấn đề ở chỗ, hết ngày này qua ngày khác, mười mấy anh em a12 phải liên tục căng tai ra nghe địch liên lạc với nhau để lấy thông tin. Rồi còn chấm tọa độ của địch đến tận từng tiểu đội của chúng. Quá nhiều, thành ra không nhớ.

Địch bắt đầu cho L19 lượn loanh quanh phía trên đầu dãy Lưỡi Cái suốt ngày, rồi OV10 cà rà, nghi đâu là gọi A37 tới rồi bắn pháo khói chỉ điểm. Pháo của địch liên tục bắn vào những chỗ nghi vấn. c3/d1/e101 của bác Lê Xuân Tường bị pháo đich bắn đúng vào chỗ trú quân bị thương vong rất nặng (theo bác Tường nói là coi như xóa sổ ?!). Rất nhiều anh em bị thương vong trên đường tải đạn pháo.

Mặc dù vậy, việc kéo pháo vẫn có kết quả. Từng ngày, tôi vẫn được nghe chuyện các thủ trưởng nói pháo kéo được đến đâu. Ta kéo cả pháo mặt đất và cao xạ 37 ly lên Lưỡi Cái. Vì để giữ bí mật nên cao xạ không nổ súng bắn máy bay và pháo mặt đất của ta cũng không bắn trả pháo địch. Tôi không được nhìn tận mắt việc kéo pháo. Cao xạ 37 ly thì tôi và các bạn tôi đều nhớ. nhưng pháo mặt đất kéo lên núi người thì nhớ là pháo 122, người thì bảo là pháo 85. Hay là có cả hai loại không biết ? Lính trinh sát cựu chúng tôi không ai tham gia kéo pháo và tải đạn vì phải chia đi các mũi để trinh sát địch ở các điểm cao và dò thám tìm các đường để dẫn bộ đội tiến xuống đường 1.

Chỉ có anh em trẻ tham gia vác đạn. Giá mà họ cũ một tý như chúng tôi thì nhìn đạn pháo là biết, mà nếu không biết thì hỏi. Lính trẻ đâu có dám hỏi. Mới huấn luyện xong tân binh được 2 tháng thì bổ xung vào đơn vị tôi, đúng lúc lên đường từ Quảng Trị vào Huế chuẩn bị chiến dịch. Lúc đó ở hậu phương đói hơn lính tráng chúng tôi ở Quảng Trị. Chúng tôi được dưỡng quân gần 2 năm rồi. Trông lính mới vào, rõ ràng sức lực kém hơn hẳn lính cũ. Họ ngơ ngác chưa biết gì, trông lại càng thương.

Tôi mất thằng bạn thân nhất khi nó đang trên đường vác đạn pháo . .

  Sau khi hiệp định ngừng bắn có hiệu lực vào 7 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, một số điểm vẫn còn giao tranh. Ở Quảng trị lúc đó còn diễn ra trận Cửa Việt. Ở Như Lệ và Tích Tường, địch vẫn đang cố hết sức đẩy nốt các chốt của ta ở bờ nam Thạch Hãn. Chiến sự cực kỳ ác liệt. Tuy nhiên và dù sao Quảng Trị cũng là nơi gần với hậu phương lớn miền bắc nhất. Do đó địch cũng nhận ra là ở đây, tốt nhất nên ngừng bắn và phòng thủ chặt. Vì vậy sau ngày 28/1 khoảng mươi ngày, toàn tuyến Quảng Trị về cơ bản im tiếng súng.

Các toán trinh sát của đại đội tôi, tốp trước tốp sau, lần lần, lục tục tập trung về đại đội. Khi tôi từ Như Lệ về đến nơi thì đại đội tôi đã chuyển từ suối La La ở bãi Tân Kim về làng Quất xá. Lúc đầu chúng tôi ở nhà dân. Đồ đoàn của tôi cũng dược anh em ở nhà mang hộ về đây. Lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi vào Quảng Trị, đại đội mới có dịp tập trung khá đông tuy rằng chưa đầy đủ vì còn một số anh em vẫn đang làm nhiệm vụ ở các đài quan sát quan trọng. Cũng là lần đầu tiên, tiểu đội tôi được tập trung và lần đầu tiên tôi là tiểu đội trưởng thực thụ, ở cùng anh em trong tiểu đội – Gọi là tiểu đội hai.

Ở đơn vị tôi, cứ sau một thời gian lâu lâu thì tổ chức biên chế lại, cho nên về sau chúng tôi gần như cùng tiểu đội với rất nhiều anh em. Bây giờ khó mà nhớ được cùng tiểu đội với ai trong thời gian nào. Nhưng cái tiểu đội hai đầu tiên sau ngừng bắn thì tôi nhớ. Lúc đó, chúng tôi có đủ 9 đứa, không có đứa nào nằm đài. Chín đứa bốn quê. Thằng Sự, thằng Tiến - Hưng Yên; thằng Tính - Diễn "Chu", Nghệ An; thằng Hưởng - Đức Thọ, Hà Tĩnh; thằng Ngữ - Nam Định; Bốn thằng Hà Nội là thằng Thìn, thằng Hùng, thằng Cam và tôi. Gọi là Hà Nội nhưng cũng là chỉ ba đời trở xuống chứ quê tổ thì cũng ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ.

Phạm Xuân Sự và tôi cùng ở tiểu đội 2 lâu nhất. Chúng tôi ở với nhau mãi từ lúc đó cho đến cuối năm 1974. Sự người thấp đậm, hai má bầu bĩnh với nước da ngăm đen. Hắn rất ít nói nhưng lại rất hay cười. Lúc hắn cười, hai đuôi mắt nheo lại, hai cái má phính nhích lên cao trông rõ là hiền. Tuy lùn thế thôi nhưng hắn là libero số một của đại đội trên sân bóng chuyền.

Ở Quất Xá một thời gian rất ngắn, sau đó đại đôi tôi chuyển về thôn Trà Liên Tây cho gần tuyến trước hơn. Làng Trà Liên nằm sát ngay sông Thạch Hãn. Sau khi làm Nhà mới ở Trà Liên. Thằng Hùng chuyển sang a12 ở cùng với ban 2, ngay sư đoàn bộ đóng tại Tân Vĩnh, sát sông Vĩnh Phước. Chúng tôi ở Trà Liên đến khoảng tháng 2/1974 thì chuyển về Nại Cửu. Lúc này đã bắt đầu các vụ luồn nông, luồn sâu ở các cao điểm 367 và Hải Lăng. Vì vậy đại đội phải ở xa dân để đảm bảo bí mật các hoạt động của đơn vị.

Sự và tôi rất quí nhau nhưng không ai nói ra điều đó. Những lúc có hai đứa, đôi khi nó rủ rỉ nói chuyện thày bu và mấy đứa em nó ở nhà. Sự chỉ kém tôi có mấy tháng nhưng có lẽ do tôi là tiểu đội trưởng và một phần nữa nó cũng hơi nể vì tôi là sinh viên còn nó mới hết lớp 10 (lúc đó phổ thông trung học chỉ đến lớp 10 là hết) nên nó gọi tôi bằng ông xưng tôi, còn tôi gọi nó bằng tên và xưng mình.

Tôi được bác TraLienTay dạy bơi từ lúc ở chân cao điểm 108. Lúc ở với sông nước Thạch Hãn tôi đã là tay bơi khá. Thằng Sự bơi rất khỏe nhưng chỉ biết "bơi chó", tốc độ chậm và rất tốn sức. Thế là tôi được dịp dạy nó cách bơi ếch đúng kiểu, vừa nhanh lại không mệt. Lúc đó mà bơi ếch thì có thể bơi cả ngày được. Bây giờ thì chịu rồi.

   Thằng Sự vốn tính cẩn thận sạch sẽ. hàng ngày khi rút quần áo khô vào bao giờ nó cũng vuốt rất phẳng, gấp cẩn thận, ép chặt, để trong ba lô cho có nếp. Nó thường gấp luôn cả quần áo của tôi và để lên đầu giường tôi. Những ngày được nghỉ, tôi với nó hay đi chơi cùng nhau sang chợ Thuận hay chợ Đại Áng. Thỉnh thoảng còn ra Đông Hà đi chợ Đông Hà, vào hiệu sách và ăn sen dừa.

Hôm đi chợ Đại Áng, hai thằng mua 2 cái mùi xoa với cả hai hộp sữa đặc "Thống Nhất". Dọc đường về, hai thằng vừa đi vừa tu sữa. Tôi chỉ chơi được nửa hộp. Thằng Sự thì chỉ một loáng là hết. Đùn đẩy nhau một hồi cuối cùng nó mới chịu hỗ trợ nốt phần sữa của tôi. Mà cũng chỉ một loáng là hết.

Ở Trà Liên, chúng tôi trồng rau để nộp cho anh Thắng "quản" theo qui định đầu người và để có rau ăn thêm. Chúng tôi phân công mỗi ngày hai đứa tưới rau. Tôi với thằng Sự một cặp. Nhiều hôm có việc họp hành hay hội ý gì đó sau giờ tập, về đến nhà thì nó đã tưới xong rau ngon lành rồi. Những hôm nó đánh bóng chuyền về muộn thì tôi cũng làm thay nó. Tôi mà làm một mình thì thằng Ngữ thể nào cũng nhảy vào làm cùng. Nó chẳng chơi gì chỉ chăm sóc tiểu đội như người chị cả.

Suốt thời gian ở Trà Liên rồi chuyển lên Nại Cửu, chúng tôi chỉ toàn tập tành các "ngón nghề" của trinh sát từ đi khom, chui rào, gỡ mìn, làm hầm bí mật, tập võ thuật, . . . Rồi học cách sử dụng ống nhòm, địa bàn, cách đo và ước lượng cự ly, cách sử dụng bản đồ, luồn rừng băng ruộng, lội sông "cắt phương vị", . . . Tập ban ngày thuần thục rồi thì chuyển sang tập ban đêm. Tập trên bãi tập tốt rồi thì tập trên thực địa. Lấy hàng rào căn cứ Ái tử mà tập. Có lần gỡ được mìn thật ở Ái Tử. Chuyện này 6971 đã kể rồi.

Ở tiểu đội tôi, trong sinh hoạt cũng như tập tành, thường tôi chẳng cần phải nói gì. Mọi người đều tự giác vào công việc. Thằng Sự vốn khỏe lại có năng khiếu thể thao nên mấy trò tập tành nó rất nhanh thạo. Nếu thấy nó trễ nải lúc tập thì tự tôi hiểu là nó "ngọc thể bất an" nên không bao giờ nhắc nhở hay đốc thúc gì nó. Thường thì chính tôi cũng đầu têu việc trốn tập. Hễ nhãng cán bộ đại đội và trung đội là cho anh em tranh thủ nghỉ ngơi. Miễn sao lúc kiểm tra tốt là được. Nếu bất thình lình mà đại đội xuống kiểm tra thì mọi người cứ thản nhiên mà nghỉ. Lúc đó tôi sẽ báo cáo thủ trưởng anh em tập căng một tiếng rồi, tôi vừa cho nghỉ giải lao. Thế là thủ trưởng cũng không bắt bẻ được gì.

Tập tành cũng không mấy chuyện hay. Ngày này qua tháng khác, rất chán.

   Hai lần làm hầm bí mật thì thằng Sự và tôi đều làm cùng một cái. Lần ở Trà liên, tiểu đội tôi có 8 đứa phải làm 3 cái hầm bí mật, mỗi hầm 2 thằng. Hai thằng còn lại coi như dân làng. Nắp hầm được đóng trước bằng gỗ. Mỗi tiểu đội phải làm hầm bí mật trong một khu vực qui định. Trung đội và đại đội không được xem mà ngồi chơi ở đâu đó. Có khi các thủ trưởng ngồi đánh tiến lên với nhau ?! Khi nào làm hầm ngụy trang xong thì báo cáo để các thủ trưởng đi tìm. Thật cứ như chơi chốn tìm. Rất hồi hộp. Khó nhất là làm sao không để lại dấu vết vận chuyển đất đổ đi.

Tiểu đội tôi đào hầm ở khu vực gần rặng tre. Chúng tôi lên phương án là cả ba hầm đều đào dưới ruộng, sát rặng tre. Đất đào được không phải vận chuyển đi đâu cả, cứ đổ ngay trên ruộng. Ống thông hơi thì cho xiên từ hầm vào trong rặng tre. Sự và tôi thay nhau đào. Những lúc Sự đào thì tôi tranh thủ chạy sang các hầm khác để xem anh em làm. Chúng tôi đã có mưu rồi. Làm rất nhanh vì không phải vận chuyển đất và cũng không lo làm rớt đất lúc vận chuyển. Làm xong hầm, 6 thằng chui xuống. Hai thằng ở trên mượn sẵn bừa của dân, bừa đi bừa lại vài lượt. Quả nhiên, các thủ trưởng tìm mãi không thấy hầm. Chúng tôi đã hoàn thành nhanh nhất. Thằng Ngữ ở trên, bấy giờ mới gõ gõ vào thân tre báo cho chúng tôi, đội hầm chui lên.

Lần khác, ở Nại Cửu, tiểu đội tôi cũng làm xong nhanh nhất và ít vất vả nhất. Mưu của chúng tôi lần này là làm hầm ở bờ suối. Chỗ này bờ lở, vách đứng, phía trên có cây lúp xúp và lau sậy. Thực chất, chúng tôi không đào từ trên xuống mà đào từ suối vào. Đất cứ thế mà trôi theo suối. Sau khi làm hoàn chỉnh hầm ở bên dưới mới đào phần nắp ở bên trên. Tất cả đất đều cho rút hết xuống suối, không vận tải tí đất nào trên mặt đất. Phần nắp hầm còn trồng cả lau lách lên trên. Bây giờ chúng tôi mới gác cây que và đắp bùn và đất để che cái sườn hầm ở dưới suối, để lại lỗ thông hơi và ngụy trang cẩn thận. Lần này các thủ trưởng cũng chịu thua vì không ai lội xuống suối để tìm hầm cả. Lần này Sự và tôi cũng làm chung một cái hầm.

Một lần, Sự và tôi đi lấy thực phẩm cho đại đội cùng với mấy đứa khác. Chúng tôi đi sau cùng. Trên đường về, khi đi qua một đơn vị bộ đôi nào không biết, có một chú chó con cứ đi theo hai thằng. Đuổi nó mấy lần, một lúc sau lại thấy nó lẽo đẽo đi theo. Con chó ấy sau này theo tiểu đội tôi đi khắp nơi. Nó quí thằng Sự nhất rồi đến tôi. Thỉnh thoảng tôi phải đi công tác. Lúc thì đi Cửa Việt, lúc đi Gio Linh, Cồn Tiên Dốc Miếu, lúc thì lên ban 2. .

Cho phép em gọi như vậy vì em đã muốn gọi như thế đã lâu rồi. Anh em mình sống với nhau lâu nhất và em rất hiểu anh gần gũi và thương yêu mọi người như thế nào. Rồi những ngày anh đi luồn sâu liên tục. Chắc anh có thể hiểu em rất lo cho anh. Không biết một khi nào đó anh có ra đi như thằng Sơn Trọc không. Người đi thì chẳng lo lắng gì, có biết đâu người ở nhà mới lo. Em lo anh, nhỡ có chuyện gì . . .

. . . Em biết có thể em không xứng đáng làm em của anh nhưng em luôn mong anh là anh trai của em. Được như vậy thì còn gì bằng nữa.

Anh ạ ! Những ngày anh đi vắng em rất lo đã đành, mà em cũng tự trách mình rất nhiều. Sao lúc ở gần nhau em đã không xin làm em trai của anh. Nhưng mà, thực sự em thấy lúc nào anh cũng đối xử với em như người anh ruột đối với em trai vậy. Không biết anh có thấy em quý anh như anh trai không ? Nếu thế thì kể ra cũng chẳng phải nhận anh em cũng được vì mình đã sống với nhau như anh em rồi . . .

Lúc anh đi em mới thấy nhớ và em đã quyết tâm, lúc nào anh về, em sẽ nói ra và xin được làm em trai của anh.

. . . Bây giờ em chuyển đi bộ binh rồi, chẳng biết bao giờ mới được gặp lại anh. Đợi khi nào gặp thì biết đến bao giờ. Em viết thư này để xin làm em của anh.

Có được không anh ?

. . . Em xuống bộ binh vẫn mạnh khỏe như thường. Nhưng mà rất buồn. Về đơn vị mới chẳng quen ai lại phải liên tục hành quân. Rồi liên tục đào hầm, vác đạn. . .

. . . Hôm nay trời mưa quá, lại nhớ ngày ở Trà Liên nước lũ. Hai anh em ở trên giường suốt ngày. Cơm nước cũng thổi trên giường. Em nhớ cái hôm trời rét quá, đốt lửa dưới gầm giường. Đang đêm giật mình tỉnh dậy, lưng nóng rát. Cài tấm gỗ dán dầy thế mà cháy đen một đám tròn ở bên dưới.
. . .

Thôi nhé ! Anh nhớ viết thư và kể chuyện ở đơn vị mình nhé !

Anh nhớ giữ gìn sức khỏe !

Em – Phạm Xuân Sự "

   Tôi đọc thư thằng Sự mà trong lòng rưng rưng. Thực tình tôi chỉ nghĩ tôi và nó thân nhau và đối xử với nhau như ruột thịt. Tôi không bất ngờ vì tình cảm chúng tôi dành cho nhau nhưng bất ngờ vì nó đã nói ra. Vậy là tôi có thêm một người em. Có lẽ tôi còn hiểu Sự hơn những đứa em tôi ở nhà. Hàng ngày sống cùng nhau nó vẫn trông chừng và chăm sóc cho tôi còn hơn những đứa em khác.

Đọc thư xong, trong lòng tôi cảm thấy rất buồn và không yên tâm về thằng Sự. Nó vốn sống tình cảm, bây giờ về đơn vị mới sẽ rất bơ vơ và chán chường. Sắp tới đây 101 sẽ đánh xuống Phú Lộc, mà cuộc chiến chắc còn lâu dài. Liệu có hay không ngày gặp lại ? Hay lá thư nó gửi cho tôi là sự chia tay vĩnh viễn. Có cái gì đó làm tôi cứ khắc khoải mà không biết là cái gì.

Sau đó, chúng tôi ai cũng mải miết vì công việc chuẩn bị chiến dịch bộn bề. Chắc thằng Sự đang phải kéo pháo, gùi đạn hay cùng đơn vị nó chuẩn bị trận đánh xuống đường 1. Tôi thì vắt chân lên cổ làm cho xong cái sa bàn, rồi lại đi địa hình lần nữa và chuẩn bị xuống núi trinh sát dẫn đường cho bộ binh . . .

Tôi không nhận được thêm tin tức gì của Sự nữa. Cho đến một ngày . . . .

Hôm ấy là ngày 26/3/1975, sau khi chúng tôi luồn sát nách thành phố Huế để tìm đường đánh vòng cho bộ binh thì trưa 25/3 chúng tôi được tin xe tăng và bộ binh đã vòng đường khác và đã giải phóng thành phố Huế. Chiều 25/3 chúng tôi vào Huế rồi ngay sáng hôm sau chúng tôi quay trở lại về phía Đà Nẵng. Trên đường quay lại, chúng tôi gặp một toán trinh sát đại đội tôi ở gần Phú Bài. Có ai đó trong toán nói với chúng tôi là gặp mấy mấy đứa đi 101. Tất cả chúng nó không sao ngoại trừ thằng Sự.

Cái tin thằng Sự làm cho tôi choáng váng và đau đớn. Tôi không thể đi cùng mọi người mà tụt lại phía sau để mặc sức cho sự đau đớn dày vò. "Sao lại thế ?" "Có thật không em hay là người ta nhầm lẫn ?" "Sao em lại viết cho anh lá thư như vậy chứ ?" "Em ơi ! khoảnh khắc đó như thế nào vậy ? Em có kịp nhận ra ánh chớp chói lòa ác nghiệt đó không ? Có ai ở bên em giây phút đó không ?" - Cái đất này làm cho tôi rơi nước mắt vì đẹp thì bây giờ lại làm tôi rơi nước mắt một lần nữa vì đau đớn . . .

Sự bị pháo khi đang vác đạn lên Lưỡi Cái. . .

Sao lại thế chứ ? Sự ơi !

Thì ra lá thư cuối cùng mà em viết là lá thư này đây. Có phải lá thư em viết cho anh là một điềm báo trước làm cho lòng anh khắc khoải không yên suốt những ngày qua ? Tại sao em lại ra đi trước lúc bình minh này chứ ? Tại sao ?

Nỗi khắc khoải đó cứ ám ảnh tôi suốt bao nhiêu năm qua. Chưa một lần nào tôi nói ra chuyện này. Chỉ có hai người đã đọc lá thư đó là thằng Dũng và thằng Luân lúc chúng tôi chuẩn bị đánh vào Phan Rang.

Lần đầu tiên kể chuyện Sự sau mấy chục năm thì cũng vẫn đau đáu, khắc khoải y như ngày ấy. Không bao giờ có thể cất đi được hay vợi nhẹ đi chút nào . . . !

   Sau khi làm xong sa bàn (chuyện đắp sa bàn cho sư đoàn tôi đã kể trong chuyện "Bắt tù binh"), tôi được về đại đội. Lần này đi địa hình cùng với c phó Triêm. Anh Triêm, người Hà Tĩnh, mới ở "luộc quân" ra, người rất cao, dễ có đến mét tám chứ không ít. Cái ảnh dưới đây chúng tôi chụp ở trong căn cứ Nước Trong, sau ngày 30/4/75. Tôi phải đứng lên bao cát cũng vẫn thấp hơn nhiều so với anh Triêm. (Lúc này anh Nhạ c trưởng đang luồn sâu cùng với Lâm binh địa, Duyên ảnh, . . . mà tôi đã nói ở trên). Lần này tôi là người dẫn đường cho anh Triêm.

Việc kéo pháo ầm ỹ làm cho việc chuẩn bị chiến dịch dường như bị lộ. Địch liên tục pháo kích vào những chỗ khả nghi. Trên các cao điểm mà chúng tôi đặt đài quan sát cũng không được nhởn nhơ như trước. Mặc dù địch chưa phát hiện ra các đài quan sát nhưng chúng có thể đoán ra và bất cứ lúc nào cũng có thể ăn pháo. Ngặt một nỗi, để đảm bảo bí mật trước giờ G, trên vẫn chưa cho phản pháo và cũng không cho bắn máy bay. Việc này thật sự là cần thiết vì như sau này ta biết, nhiệm vụ của sư đoàn là phải đánh chia cắt địch giữa Huế và Đà Nẵng. Cho nên, pháo kéo lên núi không phải đơn giản là để chọi pháo với địch, cũng không phải bắn máy bay mà là sẽ bắn thẳng xuống đường 1.

Có lẽ địch cũng biết ta có chuẩn bị đánh từ động Truồi xuống nhưng có thể chúng không biết ta sẽ đánh lớn với đầy đủ binh chủng hợp thành. Mặt khác, lúc này chiến dịch Tây Nguyên đã bắt đầu. Địch đang lo đối phó ở Tây Nguyên, một địa bàn chiến lược quan trọng như người ta nói "Ai chiếm giữ được Tây Nguyên thì người đó có cả miền Nam này". Thời điểm này Nguyễn Văn Thiệu rất lo lắng cho Sài Gòn và đã rút sư đoàn Dù về trấn thủ Phan Rang và sài Gòn. Chắc lúc đó, ông Thiệu đã có ý thả lỏng địa bàn Huế, Đà Nẵng ??

Thật không may, hôm nay trời mù quá. Từ trên các điểm cao 769 và 843 quan sát các chốt của địch ở gần nhất như 520, 363 cũng bị mây mù che phủ. Chúng tôi đành giở bản đồ ra và trao đổi tình hình với anh Dân. Lúc này tôi mới được biết, sư đoàn sẽ kéo pháo lên sườn điểm cao 769 và bố trí trận địa liên hợp giữa các loại pháo mặt đất, pháo phòng không 37 và 12 ly 7.

    5 giờ 45 phút sáng ngày 8 tháng 3, sư đoàn 324 bắt đầu tấn công căn cứ Mỏ Tàu, các điểm cao 75, 76, 224, 273 và 303 ở Tây Nam Huế. Mặc dù ở khá xa nhưng ở trên cao trong núi rừng yên tĩnh, chúng tôi có thể nghe rõ tiếng pháo của ta bắn vào các căn cứ của địch. Trong khi đó, việc chuẩn bị của sư đoàn chúng tôi (325) vẫn chưa xong. Các thủ trưởng sư đoàn có vẻ rất sốt ruột. Những ngày chúng tôi đắp sa bàn ở đó, thấy các thủ trưởng đi qua đó rất vội vàng tất bật, họ chỉ nhìn lướt qua chỗ chúng tôi làm việc chứ không ai dừng lại hay hỏi han gì. Phía ban 2 thì liên tục thúc ép chúng tôi làm nhanh. Chắc là các thủ trưởng sợ chậm chân thì sư 324 sẽ chiếm được Huế và 325 trở thành vô ích.

Thì . . . Ngày 18 tháng 3, các đơn vị thuộc Quân khu Trị Thiên đồng loạt tấn công. Ở cánh Bắc, tỉnh Quảng Trị quân ta đã đánh chiếm được toàn bộ lúc 18 giờ 30 phút ngày 19 tháng 3. Sư đoàn tôi vẫn yên ắng. Tin tức càng làm cho không khí chuẩn bị thêm khẩn trương. Toán trinh sát của đại trưởng Nhạ gồm anh em trính sát sư và trung đoàn 101 cũng đã về báo cáo tình hình với ban 2. Ảnh của Duyên chụp thì tôi không được xem nhưng cảnh đồ của Lâm thì tôi xem và góp ý. Lâm cứ khẳng định đi khẳng định lại rằng nó quan sát thấy xe tăng ở căn cứ Lương Điền. Thấy nó cứ nói đi nói lại làm cho tôi đâm nghi ngờ rằng nó không nhìn thấy.

Cảnh đồ của Lâm vẽ rất đẹp. Bố Lâm là họa sỹ và được giải thưởng Quốc Tế về tranh áp phích về chủ đề "Hòa Bình" tại Nhật. Lâm cũng học vẽ từ bé. Đi đâu trên ba lô của nó cũng có một tấm gỗ dán. Dừng đâu là nó vẽ ký họa ở đó, lúc thì ở chợ Đông Hà, lúc thì vẽ mấy người dân Vân Kiều với trang phục dân tộc hoặc quần áo bộ đội, áo bỏ ngoài quần, nước da đen cháy, tóc xoăn, lúc thì ký họa thằng này thằng kia trong đơn vị. Quách Ngọc Lâm, một gã trai Hà Nội, ở phố Lê Văn Hưu, dáng cao, mặt đẹp sương gió, lãng đãng chất nghệ. Không biết cố tình hay một cách tự nhiên, trông hắn có vẻ "gạo cội" (như từ bây giờ người ta dùng).

Lâm ít tham gia thật sự vào những câu chuyện tào lao lính tráng. Khi cùng với mọi người, Lâm có cái cười dễ dãi và ánh mắt thì không bao giờ ăn nhập với nụ cười. Nhìn mắt hắn, sẽ biết rõ là một thái độ nghe chuyện lơ đễnh. Có lẽ hắn đang nghĩ chuyện gì khác sâu xa hơn, nội tâm hơn, hay là đang mơ về một nơi nào khác. Ai mà biết được. Một đôi khi hắn nói chuyện thật sự thì không phải là chuyện tào lao mà là chuyện nghiêm túc, có gì đó suy tư rất lâu để nói ra vài từ. Tuy nhiên những từ đó không phải bao giờ cũng đắt và thường làm cho điều muốn nói trở nên khó hiểu. Về sau này tôi mới biết Lâm không biết nhiều chuyện của đơn vị và những người xung quanh và vì cách nói năng cầu kỳ nên có lẽ làm cho Lâm trở thành khó diễn đạt lời nói của mình.

Cảnh đồ rất đẹp, "bay bướm" hơn cảnh đồ chúng tôi vẽ nhất là khi tả cỏ cây, hoa lá. Sau khi vẽ xong cảnh đồ bằng chì, Lâm hỏi tôi có nên vẽ màu vào không. Tôi biết Lâm hỏi như vậy thì hắn sẽ làm chứ không phải hỏi thật. Quả thật sau khi đưa màu vào, trông cảnh đồ đẹp như tranh phong cảnh (chỉ thiếu bố cục). Tôi tỏ ý nghi ngờ Lâm không nhìn thấy xe tăng thì Lâm càng khẳng định là nhìn thấy rõ ràng. Có lẽ, lúc bấy giờ trong đầu Lâm cũng bị dao động ?! Tại sao tôi nghi ngờ ? Đó là vì cảm nhận của tôi khi đối thoại với Lâm làm cho tôi nghi ngờ và để ý kỹ mấy cái xe tăng mà hắn vẽ. Xe tăng tập trung chĩa nòng pháo về phía biển làm gì chứ ? Mình có thể tấn công từ biển lên đâu. Vậy, nếu ở Lương Điền có xe tăng thì cũng không bố trí như thế mà phải để chỗ nào đó dễ cơ động và hành quân ứng cứu chỗ này chỗ khác. Mãi về sau này tôi mới biết rằng Lương Điền là căn cứ pháo binh của địch và không có xe tăng.

  Sau khi đi địa hình, chúng tôi trở về c20. Các toán trinh sát chuẩn bị sẵn sàng dẫn bộ binh cùng với trinh sát trung đoàn 101 và trung đoàn 18. Sư đoàn 325 còn có trung đoàn 95, bấy giờ được điều đi phối thuộc với ở phía nam Tây Nguyên. Hai toán trinh sát dẫn đầu là những trinh sát đã đi luồn sâu xuống đường 1, có nhiệm vụ cùng trinh sát 101 và 18 dẫn bộ binh xuống đường 1. Một toán dẫn 101 đánh ngược từ đường 1 ra Huế. Toán kia dẫn 18 đánh về phía bạch Thạch, Phú Lộc, cầu Thừa Lưu và bịt chặt cửa Tư Hiền, không cho địch thoát ra biển. Đến giờ G, pháo binh sẽ nã pháo vào các điểm cao 520, 560, 494, 329, 312, 310, . . . Bộ binh các trung đoàn 101 và 18 sẽ đánh chiếm các điểm cao đó. Trong khi đó, Các mũi khác sẽ đánh thọc sâu thẳng xuống đường 1 để chia cắt Huế với Đà Nẵng. Toán chúng tôi là thê đội 2, sẵn sàng nhận nhiệm vụ luồn sâu, tìm đường dẫn bộ binh đánh vòng nếu đường tiến của ta bị chặn lại đâu đó trên đường tiến đánh Huế dọc theo đường số 1.

Lúc bấy giờ sư 324 vẫn đang phải chiến đấu rất ác liệt tại điểm cao 224, núi Nghệ và một số điểm khác. Có những vị trí chiến đấu giằng co cả tuần lễ. Địch vẫn cố chống trả và tìm cách tái chiếm các vị trí đã mất để cản đường tiến của ta cắt ngang xuống biển. Trong khi đó, một lực lượng của sư 324 cũng đang được chuẩn bị để tấn công chiếm lại điểm cao 224, đánh chiếm điểm 303 và núi Bông cùng lúc với sư 325 – gọi là đợt 2 của chiến dịch.

Các đơn vị bộ binh của 101 và 18 đã áp sát các mục tiêu. Lực lượng xung kích thẳng xuống đường 1 cũng đã áp sát chân cao điểm 312 và sẵn sàng xuất kích. Ngày N là 21/3 1975 và giờ G là 5 giờ 40.

Dưới đây là bản đồ tác chiến, có lạm dụng một chút, đưa thêm vào các hoạt động của c20 phục vụ chiến dịch của sư đoàn.

   Đúng 5 giờ 40 phút sáng 21 tháng 3, ánh chớp lửa dữ dội từ các trận địa pháo trên dãy Lưỡi Cái. Các trận địa pháo khác ở phía sau cũng nhất loạt khai hỏa. May mắn thay hôm nay trời không có nhiều mù, đã có thể nhìn rõ các mục tiêu của địch trên các điểm cao. Pháo binh cứ thế mà chĩa thẳng nòng mà bắn. Cự ly gần, bắn thẳng. Không có gì có thể chịu đựng được kiểu bắn như vậy, thật là "táng đởm kinh hoàng" cả về mặt hủy diệt mà nhất là về tinh thần. Các căn cứ của địch không chịu đựng được bao lâu, chắc không quá 15 phút. Cha con nhà lính cứ thế hết điểm cao này đến điểm cao khác nhất loạt tháo chạy. Không biết phía địch thương vong bao nhiêu nhưng chỉ một lúc sau quân ta đã tràn ngập các điểm cao 310, 312, 329, 494, 520, 560, đồi yên ngựa và Mom Kim Sắc. Trận đánh pháo thực sự là một cơn bão khủng, nhanh chóng quét sạch hết cả.

Trời đã sáng rõ. Pháo 85, 122 và cao xạ 37 bắt đầu chuyển hướng bắn chúc (tà âm) xuống dòng xe cộ đang nhốn nháo tháo chạy trên đường số 1. Có bao giờ ae lại được xem pháo binh bắn tỉa không ? Thật là quá uy lực ! Pháo 122 với sơ tốc đạn 515 (m/s), pháo 85 với sơ tốc đạn 793 (m/s). Pháo cao xạ 37 ly là pháo phòng không, chắc có sơ tốc đầu đạn rất lớn bây giờ lại thành pháo mặt đất bắn liên thanh thì thật là kinh. Chỉ một lúc sau, cha con nhà lính lại quẳng xe cộ mà chạy tháo thân. Đường số 1 từ Đà Nẵng đi Huế bị cắt đứt hoàn toàn. Không còn chiếc xe nào dám liều mạng chạy nữa.

Chúng tôi không chứng kiến tận mắt pháo bắn nhưng tiếng pháo nổ rền vang làm nức lòng những người lính. Bao nhiêu ngày giờ chờ đợi. Đúng hơn là bao nhiêu năm tháng đợi chờ mới có một ngày. Cái ngày mà pháo binh ta làm chủ hoàn toàn trên chiến trường. Pháo binh địch không có sự phản kháng nào. Địch cho máy bay A37 đánh vào trận địa pháo ta. Thật đúng là chờ sẵn. Pháo cao xạ 37 ly rồi 12 ly bảy và tên lửa vác vai hợp đồng tác chiến hất ngược bọn máy bay lên khiến chúng không thể đánh vào trận địa pháo của ta. Chưa bao giờ nghe pháo binh mặt đất và cao xạ bắn giòn giã như thế. Thảy mọi người đều thấy náo nức, rộn ràng hơn bao giờ hết. Chúng tôi bị bom pháo của địch vùi dập bao nhiêu năm tháng rồi. Bây giờ mình mới được chơi. Một cuộc chơi pháo tưng bừng, náo nhiệt. Một trận dập vùi đáo hận. Một sự hận ròng, canh cánh trong lòng, với biết bao hình bóng đồng đội ngã xuống tơi bời trong những ánh chớp lửa kinh hoàng. Chưa bao giờ người lính được chứng kiến sự gì hơn thế kể cả trận Phan Rang hay trận cuối ngày 30 tháng tư sau này.

Bên sư đoàn 324 cũng tấn công Núi Bông cùng lúc với sư đoàn chúng tôi. Núi Bông ở gần chỗ chúng tôi hơn căn cứ Mỏ Tàu nên nghe tiếng pháo bắn ì ùng bên đó rất rõ.

Chiều hôm đó cánh quân xung kích xuống đường 1 xuất kích. Họ men theo chân các điểm cao 312, 329, 560, 494 và cao điểm 44 rồi chọc thẳng xuống đường. Đêm 21 tháng 3, trung đoàn 18 bắt đầu tấn công các cụm địch trên đường số 1. Đến 10 giờ sáng 22 tháng 3, họ đã cắt đứt đường số 1 và chiếm một đoạn 4 kilômét từ Ràng Bò Đến Bạch Thạch. Cầu Thừa Lưu cũng bị đặc công nước K5 đánh sập.

Ngày 21 tháng 3 cũng là ngày ta tấn công căn cứ Truồi. Động Truồi là nơi chúng tôi ở để chuẩn bị chiến dịch. Đầu nguồn Truồi là nơi chúng tôi tắm trong tiếng thác đổ rì rào. Động Truồi cùng với Bạch mã là hai ngọn núi cao nhất của Thừa Thiên. Vậy mà căn cứ Truồi thì tôi không nhớ tí gì cả (có lẽ do sư đoàn chúng tôi không đánh ở đó). Như vậy toàn bộ tuyến phòng ngự của địch ở phía tây đường số 1 suốt từ Phú Lộc đến căn cứ Truồi đã bị đánh sập.

   Về sau này tôi mới biết, sáng 23/3 75, sư đoàn 324 bắt đầu đánh vu hồi và vòng qua điểm cao 303 Mỏ Tầu để tiến về phía đông, phía đường 1, ở tây bắc cầu Truồi. Nhưng đến ngày 24/3, khi chúng tôi vượt qua cầu Truồi, chọc theo đường 1 lên cầu Nông (chúng tôi vẫn gọi là Nong) thì vẫn chưa thấy f 324 xuống đến đường 1. Tiếng pháo và các loại súng vẫn nổ rất rộ. Không biết sao f 324 gặp phải khó khăn như vậy. Lúc đó tôi vẫn tưởng f324 chưa giải quyết xong núi Bông. Nhưng theo bác Lixeta thì ngày 23 núi Bông cũng được giải quyết ?!

Sáng 23/3/75, trung đoàn 18 của 325 bắt đầu đánh chiếm Mũi Né. Thực sự là tinh thần của địch đã không còn nên mất sức chiến đầu và dễ dàng tháo chạy khi bị ta đánh. Được đà e18 tiến đánh qua Phú Lộc và đến chiều thì chiếm được đèo Phước Tượng. Một lực lượng của e18, vòng theo bờ Đầm Cầu Hai để chặn địch tại cửa Tư Hiền. Lực lượng chính chuẩn bị tiến đánh đèo Phú Gia và Lăng Cô. Một toán trinh sát của chúng tôi đi trước, cùng đi theo e18 đánh hướng này.

Trong khi đó, trung đoàn 101/f325 tiến ngược ra phía Huế và 16 giờ 30 ngày 23/3 đã đánh chiếm căn cứ Lương Điền. Toán trinh sát thứ hai của chúng tôi được lệnh xuất phát. Toán này có trung trưởng Bùi văn Thắng, trung phó Dương Chí Lục, thằng Quynh a trưởng, một thông tin 2 oát, hai tay súng AK bảo vệ thông tin và tôi là người cầm bản đồ, sẵn sàng cắt đường dẫn bộ binh đánh vòng nếu hướng tấn công dọc đường 1 bị chặn ở đâu đó.

Chúng tôi xuất phát từ cứ của c20 và khoảng 2 giờ chiều thì đến sát chân Mom Kim Sắc. Khoảng 4 giờ, chúng tôi xuống đến Bạch Thạch. Bạch Thạnh là một vị trí của Địch đã bị ta đánh chiếm từ đêm 21/3. Lâu ngày ở trên rừng, bây giờ được đặt chân lên đường nhựa, trong lòng ai nấy đều cảm thấy rất bồi hồi. Tuy trận đánh ở đây là đêm hôm kia rồi nhưng vẫn còn thấy mùi chiến trận. Mùi thuốc pháo vẫn còn phảng phất làm trực giác những người lính tởn lên một cảm xúc lạ mà quen. Không khí căng thẳng của những ngày nào đó ùa về cùng với sự thảnh thơi khi nhìn cảnh chiến trận vừa đi qua đan xen lẫn lộn.

Ai đó thốt lên " Có mùi !". Tôi ngó dớn dác xung quanh và nhìn thấy một chiếc thuyền úp ngược. Một chiếc thuyền gỗ, chắc là của dân đánh cá trong Đầm Cầu Hai, người ta đã kéo nó từ biển lên, kéo qua đường 1 và cất ở đây. Tôi và một đứa nào đó (bây giờ không nhớ) đi lại phía chiếc thuyền. Chiếc thuyền úp và được kê cao, có thể chui vào ngồi ở dưới được. Không ai bảo ai, hai thằng đều cúi xuống nhìn vào trong. Phía dưới, ở giữa chiếc thuyền là một đống củi gỗ, loại củi mà dân ở đây thường đào hố cho xuống để đốt lấy than hoa. Hai thằng tôi đều "Ồi !" lên cùng lúc. Trên đống gỗ, dưới chiếc thuyền úp ngược là một cái xác lính địch. Cái xác được đặt nằm ngửa, hai tay đặt trên bụng, đầu quay về hướng bắc rất ngay ngắn. Thì ra "có mùi" là từ đây. Chắc hẳn thằng này có thằng bạn thân, không kịp chôn cất chiến hữu nên giấu tạm vào đây hy vọng sẽ quay lại. Ừ ! cũng là tình bạn vào sinh ra tử mà. Nghĩa cử của anh ta trong đêm bị đối phương tấn công quyết liệt như vậy kể cũng đáng trân trọng.

Chúng tôi qua đường 1 thì cũng là sát bờ biển của Đầm Cầu Hai. Cả toán, người ngồi, kẻ nằm tất cả đều hóng ra biển đón gió, nghỉ ngơi trước khi đi tiếp. Tiếng súng vẫn đang rộ lên ở phía căn cứ Lương Điền.

  Mới có bốn rưỡi mà đã tắt nắng, một phần vì Mặt Trời bị khuất sau động Truồi và Bạch Mã, nhưng chính vì hôm nay trời nhiều mây. Mây đã buông xuống đến lưng chừng núi. Từng cơn gió mát nhè nhẹ thổi từ biển vào. Nhìn ra xa trên Đầm Cầu Hai trời cũng mù nên không nhìn tới được cửa Tư Hiền. Làn nước bàng bạc chỉ lăn tăn chứ không có sóng vỗ vào bờ rì rào, cũng không có tiếng gió vi vút qua rặng phi lao như thường thấy. Trên đầm không thấy có bóng dáng một con thuyền nào. Chúng tôi cũng không nghe thấy có tiếng súng phía ngoài đầm. Phía căn cứ Lương Điền tiếng súng cũng đã im. Xung quanh chúng tôi vắng lặng như tờ, không một bóng người, không một tiếng chim kêu. Suốt cả một đoạn đường dài cũng không nhìn thấy một chiếc xe nào cho dù là xe hỏng hay xác xe trúng đạn. Một chiều hoang vắng, . . . không có cái chết mà dường như cũng chẳng có sự sống. Một Đầm Cầu Hai ảm đạm, vô hồn.

Chúng tôi đi tiếp dọc theo đường 1 về phía căn cứ Lương Điền. 7 người lính lặng lẽ bước, người nọ cách xa người kia đi đan nhau hai bên đường. Tôi cầm bản đồ đi trước rồi đến anh Thắng, rồi thằng Quynh. Sau thằng Quynh là hai đứa kẹp cậu thông tin ở giữa. Anh Lục đi sau cùng. Đoạn này chúng tôi phải cảnh giác, có thể gặp tàn quân địch với những thằng ngoan cố. Tuy vậy, suốt quãng đường từ Bạch Thạch tới Lương Điền chúng tôi cũng chẳng gặp một ai. Khi qua thôn Bát Sơn, một thôn nhỏ nằm ngay ven đường thì làng xóm cũng quạnh quẽ không một bóng người mà cũng không thấy một bóng gia súc lợn gà hay chó mèo gì. Có lẽ người dân ở đây đã đi chạy giặc từ lâu và đem theo tất cả.

Khoảng 5 rưỡi, chúng tôi đến Lương Điền. Một tiếng trước đây chỗ này là trận chiến mà sao có vẻ như không có gì nhiều. Chúng tôi không nhìn thấy lính chết, cũng không nhìn thấy xe tăng hay pháo của địch, hay xe cộ vứt lại ngoài căn cứ để bỏ chạy. Mấy cái lô cốt đầu cầu bằng đất đỏ và bao cát gần đường 1 vẫn còn nguyên. Có thể trận đánh chỉ rộ lên vì tiếng súng của ta và địch thấy lực lượng ta từ xa đang cơ động trên đường đã báo động cho nhau bỏ chạy hết. Hẳn là còn nhiều thứ nguyên vẹn nhưng phải leo hẳn lên điểm cao 162 của căn cứ mới thấy. Trời đã xẩm tối, vả lại chúng tôi không ai có ý định lên đó làm gì. Chúng tôi phải đuổi theo bộ binh của trung đoàn 101.

Khoảng gần 6 giờ, trời đã tôi tối, chúng tôi vẫn chưa bắt kịp bộ binh. 7 rưỡi tối thì chúng tôi đến thôn Tế Xuân. Phía trước kia khoảng trăm mét là cầu Truồi rồi, vì vậy lúc đó chúng tôi gọi thôn này là thôn Truồi. Đến đây chúng tôi mới gặp Bộ binh 101. Phía trước của đơn vị đã áp sát cầu và đang trinh sát nắm địch để chuẩn bị đánh qua cầu.

Chúng tôi rẽ vào làng tìm một ngôi nhà. Trời rất tối nhưng bên kia là địch nên chúng tôi phải lần mò trong đêm tối để tìm. Cuối cùng mọi người quyết định nghỉ lại đêm trong một ngôi nhà gần sát với sông Truồi nhưng ngược từ cầu lên cỡ 200 mét. Cái bếp quay vuông góc với bờ sông và rất nhiều cây cối che chắn nên chúng tôi vẫn thổi cơm nấu nước đàng hoàng. Cơm nước xong, anh Thắng cắt gác và yêu cầu mọi người đi ngủ. Khi nào ta nổ súng thì chúng tôi sẽ dậy và bám theo sau bộ binh.

  Chúng tôi giật mình tỉnh dậy vì tiếng đạn cối nổ liên hồi ở phía cầu Truồi. Một lúc sau nghe rộ lên tiếng súng AK và các loại B. Anh Thắng thúc chúng tôi dậy nấu cơm ăn sáng. Chắc hôm nay sẽ vượt qua cầu Truồi nhưng không biết trong ngày nay có tiến qua cầu Nong được hay không. Trong đêm, chúng tôi vẫn chưa nghe thấy xe tăng của ta từ trên núi xuống. Nếu bộ binh tiến nhanh quá mà không có hỏa lực mạnh cũng rất nguy hiểm vì từ đây đến Huế chẳng còn bao xa. Địch bị dồn ép vào một vùng chật hẹp như vậy sẽ chống trả đến cùng. Trận đánh qua sông Truồi chỉ thấy có tiếng súng cối, không thấy có pháo của trung đoàn 84 lên tiếng. Chắc pháo của ta đang vận động từ trong rừng xuống đường 1?!

Chúng tôi men theo bờ sông Truồi. Con đường này thật là đẹp với hàng dừa lớn nghiêng mình xuống dòng sông. Đoạn này dòng chảy nhè nhẹ, mặt nước phẳng lặng. Một cái làng trù phú với rất nhiều cây cối xanh tốt um tùm. Bờ sông bên kia là thôn Xuân Lai cũng cây cối xùm xòa. Chắc địch đã bỏ chạy khỏi Xuân Lai, ngôi làng yên tĩnh không ánh đèn hay lửa khói. Chúng tôi ra đến đường 1 thì trời vừa sáng. 101 đã vượt qua cầu Truồi một đoạn xa rồi.

Cầu Truồi khá dài và vẫn nguyên vẹn. Qua Truồi mới thấy cảnh cây cối và đường xá bị đạn cối bắn. Đây đó là những đám cháy. Mùi khét của thuốc đạn, mùi hăng của nhựa cây tươi và mùi khói quện vào nhau thành một thứ gì đó kiến những người lính cảm thấy rạo rực. Nó kích thích vào cái bản năng sống, đưa con người vào một trạng thái cuồng say cao độ, đánh thức mọi sự tinh nhạy của giác quan. Các lò xo phản xạ được dồn nén và chờ . . . sẵn sàng bật lên bất cứ lúc nào. Ấy là bản năng thành thục của người lính.

Chúng tôi bám ngày càng gần bộ binh 101 phía trước. Tạm thời không tiến gần hơn nữa và giữ khoảng cách vài trăm mét. 101 tiến đánh khá chậm vì địch trụ ở các làng hai bên đường và chống cự lại. Ta đánh đến đâu chắc đến đó. Trinh sát trung đoàn bám địch, nắm tình hình rồi đơn vị mới tiến đánh tiếp.

Tầm 2 giờ chiều, chúng tôi mới đến thôn Xuân Hồi. Làng Xuân Hồi nằm rải hai bên đường. Lác đác đây đó là một vài cửa hàng, hiệu may, hiệu tóc, nơi bán xăng lẻ cũng có biển hiệu Shell với hình cái vỏ sò hay Esso, . . . chủ yếu phục vụ bà con và khách nhỡ độ đường hết xăng. Chúng tôi rẽ vào một ngôi nhà ven đường để nghỉ và ăn cơm nắm. Ngôi nhà có mảnh sân phía trước láng xi măng khá rộng. Nhà bốn mái, lợp tôn rất sạch sẽ, không có cảm giác bụi bậm của những nhà ven đường thường thấy. Hai cây vú sữa lớn che gần hết mái làm cho trong nhà rợp mát.

Ăn trưa xong, tôi và anh Lục đi dạo trên đường và xục vào những nhà ở phía trước. Có một căn nhà rất đẹp, cũng bốn mái nhưng xây vuông vức và quét ve xanh nhạt. Một chái nhà được xây nhô ra trước với một cái cửa mở đón ra hành lang dưới mái hiên. Hẳn là nhà công chức, có tiền. Tất cả các nhà đều không có dân ở lại nhưng đồ đạc còn nguyên vẹn và cửa thì không khóa. Trong một cái ngăn kéo không khóa chúng tôi lấy ra một cuốn album rất lớn. Cuốn album chụp hình một đám cưới. Chú rể là một phi công trong không lực VNCH. Bộ quân phục không quân bên cạnh áo dài trắng làm thành một thứ đẹp trong cảnh binh đao. Một số ảnh chụp tại ngôi nhà và một số ảnh chụp ở thành phố, có lẽ là Huế. Tất cả các bức ảnh đều là ảnh màu. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy ảnh màu thực sự rất đẹp chứ không phải ảnh tô màu. Ở Hà Nội lúc đó chỉ có ảnh tô màu. Người thợ dùng bút lông tô màu nước lên ảnh đen trắng. Khi ta vào hiệu ảnh "Quốc Tế" hay "Phương Đông" ở phố Hàng Khay bao giờ cũng bị gạ làm ảnh màu. Quyển AlBum cũng rất "xịn". Bìa dày, có lớp mút êm êm bên trong. Chỗ dán ảnh cũng rất lạ, có những đường kẻ ngang song song nhau, chỉ cần đặt ảnh lên là dính, mà nhấc ảnh lên không có keo dính theo. Anh Lục và tôi cứ ngắm nghía, trầm trồ mãi. Đúng là . . . "nhà quê ra tỉnh".

  Chỉ còn hơn hai cây số nữa là đến cầu Nong. Lúc này bộ binh gặp phải sự kháng cự khá quyết liệt của địch. Phải nói là suốt từ cầu Truồi đến cầu Nong, ta cứ tiến được một đoạn lại gặp địch kháng cự. Dừng lại giờ lâu rồi lại đánh và tiến cứ như là ăn cơm có nhiều sạn phải nhằn liên tục chứ không thể nhai ngon lành được.

Khoảng 4 giờ chiều, giao tranh quyết liệt khu vực gần cầu Nong. Rồi cuối cùng địch cũng phải rút qua cầu Nong. Chúng án ngữ bên kia cầu, liên tục bắn đạn cối và đại liện để không cho ta vượt qua cầu.

Xẩm tối, hai bên đã ngừng tiếng súng. Anh em bộ binh đang củng cố lực lượng, hơi lùi về phía sau, dùng hỏa lực để khống chế đầu cầu. Toán trinh sát chúng tôi lần ra cầu để nắm địch. Mùi thuốc nổ khét lẹt. Trên cầu một đám lửa cháy rần rật ngày càng lớn. Chúng tôi không biết tại sao trên cầu cũng là mặt đường nhựa dày như vậy mà chúng lại có thể bắn cháy ở trên mặt cầu. Trời tối, địch ẩn nấp nên chúng tôi không quan sát thấy chúng. Thỉnh thoảng chúng mới câu cối lên cầu và đường. Có vẻ như chúng muốn nói rằng "tao vẫn đang ở đây, Vi Ci đừng có mà tiến . . .". Phía cầu đường sắt địch cũng chặn ở phía bên kia. Chốc chốc đại liên lại bắn cầm canh. Rất có thể, bên kia hai cây cầu chúng bố trí mìn định hướng Claymo.

Đám lửa cháy trên cầu rất sáng nhưng chúng tôi cũng không quan sát thấy địch bên kia cầu. Trên mặt cầu và trên đường, nhìn rõ những thứ vương vãi, đống này đống kia. Có lẽ lính địch vừa rút qua cầu vừa vứt bỏ bớt đồ đạc cho nhẹ để sẵn sàng chạy cho nhanh ?! Lúc chúng tôi chạy qua chạy lại từ bên này đường sang bên kia, chắc hẳn là chúng nhìn thấy chúng tôi nhưng không thấy bắn đuổi theo. Đêm hôm đó ta bị chặn lại, không tiến qua cầu được. Mấy hôm sau, khi tôi từ Huế quay về Đà Nẵng thì mới biết cầu Nong bị đánh sập. Chúng tôi phải vòng lên đi cầu đường sắt để qua sông. Đồ rằng địch sợ ta tấn công bằng xe tăng nên phá sập cầu đường bộ mà không phá cầu đường sắt, hoặc là chúng không phá được cầu đường sắt ?!

Lúc này toán trinh sát sư đoàn mới phải làm nhiệm vụ. Sau khi nắm địch và điện về ban 2, chúng tôi nhận được điện của ban ra lệnh tìm đường vòng sang phía đông. Nếu ngày hôm sau mà ta không vượt được cầu Nong thì chúng tôi phải dẫn bộ binh đi vòng, bỏ qua cầu Nong, đánh thẳng về Huế.

  Toán trinh sát bàn nhau tìm đường vượt qua sông Nong. Nó là một con sông nhỏ, rất có thể lội qua được. Nếu phải bơi qua sông thì sẽ rất khó cho bộ binh của 101. Sau khi xem xét kỹ trên bản đồ, chúng tôi quyết định, trước hết là cứ tiến về phía đông chừng năm bảy trăm mét, cách xa cầu Nong, nơi địch đang chốt giữ để nếu trung đoàn có hành quân lực lượng đông thì vẫn bảo đảm bí mật. Sau đó sẽ dò tìm đoạn nào lội được để qua sông.

Tôi cầm bản đồ và chiếc đèn pin để dò đường đi. Sau lưng tôi là Quynh rồi đến những người khác. Trong tay tôi chỉ có bản đồ tỷ lệ 1:50.000. Như thế cũng tốt rồi. Bản đồ Quảng Trị thì trong ba lô tôi, để ở cứ của c20, có đủ bộ với tỷ lệ 1:25.000, bây giờ chẳng có tác dụng gì. Chúng tôi cứ men theo bờ sông. Đoạn này là thôn An Nông IV. Đường đi có lúc dễ, có lúc rất khó vì vướng cây cối rậm rạp. Chừng được 500 mét, chúng tôi gặp một nhánh sông với một chiếc cầu nhỏ. Chiếc cầu nối giữa thôn An Nông IV và An Nông III. Cầu này mới chỉ giúp chúng tôi qua được một nhánh của sông, vì có một ngã ba của sông Nong ở đoạn trên. Đến đây dòng nước bị chia ra làm hai ngả. Lượng nước ở mỗi nhánh sẽ bớt đi. Nhánh bên phải thì tan biến dần trong cánh đồng thành các con rạch tưới tiêu. Nhánh bên trái lớn hơn sẽ đổ vào sông Cống Quan rồi đổ ra đầm Cầu Hai. Tôi dò được một chỗ trên bản đồ thấy có đường mòn qua nhánh sông này. Chắc hẳn chỗ này phải lội được. Sau khi qua cầu, đường đi có vẻ dễ dàng hơn. Chỉ một lúc sau, chúng tôi tìm được đường mòn đó.

Chúng tôi lội sông theo đường mòn. Lòng sông là cát pha chút bùn, rất dễ lội, nước sâu nhất chỉ lên đến đùi. Sau khi qua sông, tôi dừng lại để chờ mấy người lội sau và để nói với anh Thắng tọa độ điểm lội qua sông mà viết điện báo cáo về ban. Từ đoạn này trở đi, tôi bắt đầu nhắm hướng đi theo phương vị, cứ thế mà lội ruộng thẳng tiến. Khổ cho mấy đứa đi dép. Tôi nhớ có hai đứa phải đeo dép vào xanh tuya và lội chân đất. Đôi dày lính ngụy của tôi đã sẵn có mấy cái lỗ, tôi còn đục thêm vài cái nữa. Giày cao cổ, dây giày quấn vài vòng quanh cổ giày, buộc chặt, lội ruộng rất ngon lành. Nước vào rồi nước lại ra, xì xà xì xoạp.

Gần đến thôn Tô Đà, chúng tôi gặp một con đường đất nối từ thôn Tô Đà ra bờ sông Cống Quan. Anh Thắng cho dừng lại nghỉ. Điểm này theo đường đất vào làng chừng một cây số và ra đến bờ sông cũng khoảng một cây. Khoảng 10 giờ mà phía thôn Tô Đà rất im ắng, cũng không có ánh đèn, ánh lửa gì. Không biết trong thôn có dân ở lại hay đã chạy hết rồi ?! Trên bản đồ, tôi thấy có một con đường nhựa loại 2 bắt từ đường 1 ở thôn Phú Bài III chạy vào thôn Tô Đà. Qua thôn là đường đá. Chúng tôi sẽ tránh con đường này vì lực lượng của mình ít mà nhiệm vụ là tìm đường chứ không phải đánh nhau.

Chúng tôi ngồi trên con đường đất, vừa uống nước vừa dõi nhìn về phía thành Huế. Một vầng sáng mưng mưng trên nền trời ở phía đó. Nó làm tôi nhớ ngày học cấp hai, năm sáu tư, sáu lăm, ở nơi sơ tán gần ngã tư Vác. Lúc đó, tối đến anh em tôi lên bờ đê nhìn về phía Hà nội cũng thấy một quầng sáng như thế này. Mặc dù Mỹ đánh phá, nhưng ở Hà Nội vẫn thắp đèn điện. Chỉ khi nào báo động mới tắt đèn. Tôi cũng nhớ cái ngày sơ tán ở Thái Nguyên, vùng đồi núi trung du, chúng tôi cũng trèo lên chỗ cao để mà vươn dài cổ tìm Hà Nội. Nhớ chiều hôm đó, năm sáu sáu, máy bay Mỹ bay rất nhiều qua chỗ chúng tôi rồi ném bom ở phía Hà Nội. Rồi bỗng một cột khói đen kịt bốc lên từ Hà Nội. Phải là cháy rất lớn thì ở tận đây mới nhìn thấy cột khói như vậy. Vài ngày sau chúng tôi mới được biết chúng đánh trúng vào kho xăng Đức Giang.

  Tôi mô tả đường đi bằng các tọa độ trên bản đồ để anh Thắng điện về cho ban 2. Trên đường chúng tôi đã vận động qua không hề có địch vì đây là phía đông đường 1. Địch không có căn cứ nào ngoại trừ sân bay Phú Bài. Bộ đội có thể vận động cùng với hỏa lực của trung đoàn. Đêm tối không thể làm các nghiệp vụ xác định tọa độ bằng cách ngắm nghía các địa vật nhưng rất may mắn chúng tôi có các địa hình sông và đường. Có hai cái đèn đỏ rất cao là đèn ở sân bay Phú Bài và của đài phát thanh. Hay nhất là cái đài phát thanh Huế với cột ăng ten rất cao, có đèn đỏ nhấp nháy. Do đó việc xác định điểm đứng khá chính xác. Đài phát thanh nằm phía tây tây bắc quận lỵ Hương Thủy, ở góc một ngã ba đường, đi từ trong nam ra, qua quận lỵ chừng 1 cây số.

Mọi người có vẻ mệt mỏi, riêng tôi thì không. Có thể tôi là người dẫn đường còn mọi người bị động đi theo nên rất mệt. Việc này giống như khi chúng tôi hành quân từ bắc vào Quảng Trị, giao liên mang vác cũng nặng mà cứ đi phăm phăm, rồi phải đứng lại chờ chúng tôi. Trông họ chẳng thấy mệt gì, còn mình thì chỉ muốn nghỉ. Chúng tôi ngồi nghỉ khá lâu, chờ anh Thắng gửi điện đi và nhận điện lại từ ban 2. Điện từ ban động viên "Tốt" và yêu cầu tiếp tục tìm đường vượt qua luôn cả quận lỵ Hương Thủy.

Chúng tôi tiếp tục băng ruộng, tiến về phía tây bắc. Các ruộng lúa đang thì con gái mà chúng tôi cứ thế đạp qua mà đi. Lúa chưa làm đòng, chưa thấy mùi thơm của sữa đòng nhưng mùi lúa thơm thì lúc nào cũng thoang thoảng. Mỗi khi gặp hương lúa thoảng bay trong gió là sức lực con người dường như được tăng lên một phần. Hít căng lồng ngực mùi lúa thơm, để cho mùi lúa tràn vào từng huyết quản. Sức trai trẻ cảm thấy cường tráng hơn bao giờ hết.

Tờ mờ sáng, chúng tôi vẫn đang băng đồng. Xa xa là các làng mạc vẫn đang im lìm chìm trong màn sương mỏng nhẹ giăng mờ. Bình minh sắp đến rồi. Nếu cứ tiếp tục đi như thế này, giữa đồng không trống trải mà ở đâu đó có địch thì có thể chết vì đạn cối M79. Bất chợt tôi nhìn thấy phía trước có một đoàn lính, lờ mờ, khoảng ba chục người đang chạy khá nhanh từ phía trong thôn Lương Văn (3). Họ chạy hàng một, súng ống đầy đủ, chéo qua phía trước mặt chúng tôi, cách chừng hai trăm mét. Mọi người lập tức nằm rạp xuống lúa. Đoàn lính không phát hiện ra chúng tôi và vẫn chạy một cách bình thản. Họ chạy về phía bắc, hướng ra biển còn chúng tôi đang đi theo hướng tây bắc, về phía thành phố Huế. Anh Thắng bật ra:

- Có lẽ 101 đấy.
- Không thể thế được, nếu đêm qua 101 vượt qua cầu Nong rồi thì tiến vào Huế chứ chạy ra biển để làm gì. Mà có thấy đánh đấm gì đâu mà truy quét về phía này. Địch đấy anh ạ ! – Tôi nói.

Thực lòng, tôi cũng không chắc chắn lắm và chỉ suy luận. Không có lẽ trinh sát 101 nhanh thế và họ dẫn đơn vị nhỏ vào nơi có địch mà lại chạy ào ào như thế sao? Hơn nữa, nếu có thì ban 2 phải báo cho chúng tôi biết chứ. Nghĩ vậy, nhưng ai mà biết được cha con 101 có thể làm gì. Đã vào trận thì chuyện gì cũng có thể xảy ra.

  Đợi đoàn lính chạy xa, chúng tôi tiếp tục tiến. Khi đến con đường mà đoàn lính vừa chạy qua, nhìn dấu giày thấy toàn vết giày lính ngụy. Con đường đất này là một con đường mòn trên bản đồ. Con đường sẽ gặp bờ sông Đại Giang và nối tiếp qua bên kia sông. Có thể đoạn sông đó lội được hay có đò?!

Trời đã hơi sáng, tôi phảy tay ra hiệu cho mọi người tăng tốc. Phía trước là bờ sông Đại Giang, chúng tôi phải tìm cách qua sông. Có một con đê nhỏ chỉ cao tới ngực chạy dọc ven sông. Chúng tôi men theo con đê và đi thêm khoảng non một cây số nữa thì trời sáng. Mọi người cúi lom khom và tiến tiếp. Bất chợt tôi nhìn qua bên kia sông và thấy có một đám người rất đông đang tụ tập dưới gốc một cây đa. Nơi đó có một cái miếu nhỏ. Vậy thì chắc là họ cũng đã nhìn thấy những cái đầu nhấp nhô của chúng tôi rồi. Tôi vẫy tay rồi chỉ sang bên kia sông để mọi người biết. Mọi người có vẻ lúng túng, anh Thắng cũng chưa biết nên xử lý thế nào. Tôi nói:

- Theo tôi, đằng nào cũng lỡ rồi, đằng sau mình toàn đồng trống, chẳng chui vào đâu được, ta cứ tiến đến ngang đoạn sông đó. Nếu cần đánh nhau thì mình chủ động vẫn hơn.

Nói xong, tôi tiếp tục tiến. Mọi người, không còn cách nào khác là phải tiến theo. Khi đến ngang đoạn sông có miếu, chúng tôi dừng lại, ai nấy sẵn sàng. Tôi nhô đầu lên quan sát, thấy toàn sắc dân. Không biết trong miếu và phía sau có lính hay không. Nếu chỉ có dân, mình nấp ở đây thật là vô lý và lỡ mất thời gian. Nếu có địch thì mình nấp ở đây cũng không ổn. Chỉ trong tích tắc, tôi đã quyết định.

Tôi nhảy lên đê, đứng thẳng người, chĩa súng qua sông và quát rất lớn:

- Chúng tôi là giải phóng. Yêu cầu bà con đứng yên tại chỗ ! Yêu cầu anh em lính hạ súng đầu hàng ! Anh em sẽ có con đường sống và được về với gia đình.
Các đồng chí chuẩn bị sẵn sàng nổ súng !
- Mấy ông giải phóng ơi, ở đây không có lính, đừng bắn ! - Tiếng một người đàn ông nói vọng qua.
- Bà con không được che giấu lính. Chúng tôi sẽ để anh em lính được về nhà. Bà con và anh em yên tâm, chúng tôi không nói sai.
- Tui nói thiệt đó ông giải phóng ơi. Bà con dân lành hết, không có ai lính mô.
- Bây giờ một người đưa thuyền qua sông chở bộ đội giải phóng qua.

Một ông già lật đật đi về mép nước, nơi có chiếc thuyền nhỏ đang cột ở đó. Vẫn là ông già vừa nói vọng qua sông với chúng tôi. Ông lấy thuyền và chèo qua sông. Thực ra, gọi là sông Đại Giang mà đoạn này khá nhỏ, chỉ như một con kênh lớn. Chúng tôi chia làm hai tốp, một tốp lên thuyền và một tốp tiếp tục cảnh giới. Tôi trèo lên thuyền đầu tiên rồi đến ba anh em khác. Anh Thắng, cậu thông tin và một cậu nữa đi chuyến sau. Chúng tôi vẫn rất cảnh giác, súng lăm lăm hướng sang bờ bên kia.

Khi lên đến bờ, bốn đứa chúng tôi tản ra, đảo một vòng quanh cái cồn đất rồi kiểm tra trong miếu. Đúng là toàn ông bà già, phụ nữ và trẻ con. Khi cả bảy chúng tôi đã sang cồn đất thì mọi người mới hết căng thẳng và ngồi xuống trò chuyện hỏi thăm tình hình bà con. Bà con cũng tíu tít cho biết đã chạy ra đây được mấy hôm, mang theo gạo và thực phẩm. Họ sợ hai bên đánh nhau, tên bay đạn lạc, mà đạn thì đâu có mắt.

Cái cồn đất này khá rộng và cao hơn so với ruộng. Cây đa to, tán lá xum xuê. ngoài ra còn rất nhiều cây khác nhưng nhỏ hơn nhiều. Có mấy cái võng mắc vào những cái cây nhỏ đó, còn lại bà con trải chiếu nylon bên trong miếu và xung quanh để nghỉ ngơi. Ta cứ tạm gọi cái miếu này là "Miếu Cây Đa" (Cái miếu này trên bản đồ cũng có và trên hình tôi vẽ một cái khác to hơn đè lên trên để nhìn cho rõ). Một bà nào đó rót nước trà xanh và đưa cho chúng tôi mỗi người một bát. Cái đoạn nghệ thuật dân vận thì anh Thắng là nhất rồi. Anh hỏi đủ thứ chuyện của bà con và hỏi tình hình lính địch hoạt động ở xung quanh. Chuyện gỉ chuyện gì thì tôi không nhớ nhưng bà con nói xung quanh đây không có lính. "Bà con chỉ nghe nói lính chạy nhiều lắm ở trên lộ nớ, chạy tuốt ra ngoài Cửa Thuận tề !"

Nghỉ chừng 15 phút rồi chúng tôi đi tiếp. Bây giờ chúng tôi cứ hiên ngang mà đi, vừa đi, vừa quan sát nghe ngóng. Được một đoạn, chúng tôi rẽ theo một con kênh dẫn nước rất thẳng. Hai bờ kênh đều lác đác có nhà dân. Đây chắc hẳn không phải là một cái làng, những cái nhà có lẽ được cất lên hai bên kênh để dãn dân trong làng. Người ta gọi cái xóm này là ấp Lợi Nông. Anh Thắng nói sẽ nghỉ lại ở ấp này. Chúng tôi tìm hai cái nhà gần nhau để xin nghỉ nhờ. Anh Thắng, cậu thông tin, một người nữa và tôi nghỉ ở một nhà. Lục, Quynh và người còn lại ở một nhà. Việc đầu tiên là báo cáo tình hình về ban 2. Tôi đọc liên tục các tọa độ trên đường đi cho anh Thắng viết điện. Chỗ miếu, có vẽ trên bản đồ, lại có cây đa "độc lập" nữa nên rất thuận tiện để nhận ra. Chỗ này là ấp Lợi Nông với con kênh thẳng tắp cũng rất dễ. Từ đây có thể đánh dọc theo kênh vào đến An Cựu mà cũng có thể qua cầu, chưa đến hai cây số là đài phát thanh Huế.

Tôi nghĩ chúng tôi chỉ nghỉ lại đây một ít phút rồi đi tiếp. Vì vậy sau khi anh Thắng điện xong tôi giục anh đi tiếp. Tôi hơi bực mình vì thái độ chần chừ của anh. Mãi sau anh mới à ê rằng để nấu cơm ăn đã.

  Tôi bực mình lắm vì anh Thắng không cho tiến tiếp mà lại đi nấu cơm. Một mình tôi ra khỏi nhà đi dọc con kênh. Cả ấp vắng tanh vắng ngắt. Người dân có lẽ chạy dạt hết cả rồi khi nhìn thấy chúng tôi từ xa tiến lại phía ấp. Bỗng tôi nghe tiếng ì ì từ rất xa, có lẽ ở phía cầu Nong. Tiếng xe tăng của ta. Mặc dù tiếng xe khá nhỏ nhưng rõ là tiếng gầm của xe tăng ta. M41 và M48 của địch tiếng máy êm hơn và chạy trên đường cũng không có tiếng rít của xích sắt. Xe của Mỹ có guốc cao su dày, chạy trên đường nhựa không để lại vết. Không biết 101 giờ đang ở đâu, có tiến đánh cùng xe tăng không ?

Về sau này tôi mới biết 101 đã vượt qua cầu Nong, tiến thẳng vào tới An Cựu và vào Huế. Cầu Nong bị đánh cháy và sập từ đêm hôm trước. Xe tăng phải đi vòng nên đã vào Huế sau vài tiếng.

Nghe tiếng xe tăng, lòng tôi rất rạo rực, chỉ muốn tiến lên cùng các đơn vị bạn. Khi tôi nói với anh Thắng, không hiểu sao anh ấy rất chần chừ. Hay là ban 2 đã ra lệnh cho chúng tôi dừng lại ?!

Quãng 12 giờ trưa ngày 25/3/75, có mấy người dân chạy từ Huế về, nói ta đã giải phóng Huế rồi. Thế là chúng tôi trở thành người đi sau. Nghĩ lại thấy chuyện trinh sát mò suốt đêm, rồi quát tháo, dọa nạt mấy người dân lành. Thật là buồn cười ! Giá như anh Thắng cho đi tiếp luôn từ bảy giờ sáng, có lẽ chúng tôi sẽ gặp bộ binh 101, hoặc nếu rẽ ra đài phát thanh và chốt lại thì cũng làm ra một chuyện gì đó?! Hoặc là chúng tôi bị tiêu hết cũng nên ?!

Cả chiều hôm đó, chúng tôi nghỉ lại ở ấp Lợi Nông. Mãi đến 5 giờ 30 chiều, toán trinh sát mới lên đường đi Huế. Chúng tôi qua cầu của con kênh thì gặp anh em du kích mặc áo đen quây lấy. mọi người đều rất vui mừng. Một người dân nhanh nhẹn nói để anh về lấy xe đưa chúng tôi vào Huế. Xe của anh là một chiếc xe lam, cả bẩy người chúng tôi đều lên xe. Du kích, dân và chúng tôi ầm ỹ tiễn biệt nhau, rồi chiếc xe giật giật tiến lên. Ra gần ngã ba, tôi ngước cổ nhìn lên cái cột ăng ten của đài phát thanh, nơi cái đèn đỏ vẫn đang nhấp nháy. Nhờ nó chỉ đường mà đêm qua chúng tôi mò đi rất thuận lợi.

Khi đến gần An Cựu, đã thấy các nhà dân hai bên đường lên đèn. Chúng tôi vừa vượt qua cầu An Cựu thì có ai đó bảo xe dừng lại vì phát hiện ở phía trước có người của c20. Chúng tôi xuống xe, tay bắt mặt mừng. Một toán trinh sát khác của chúng tôi cùng đi với 101 và đến Huế từ trưa. Họ được lệnh sáng mai phải quay lại Đà Nẵng ngay. Vì vậy mới quay ra đây sẵn để sáng mai đi sớm. Chúng tôi cảm ơn anh xe lam rồi vào nhà. Mọi người ồn ào nói chuyện, ai nấy như mở cờ trong bụng. Tôi lững thững đi lại phía cây cầu. Đường nhựa và ánh điện trong nhà xây của thị thành làm tôi nhớ nhà quá !

Sau này thấy nhiều tài liệu nói khác nhau về giờ cắm cờ ở Phu Văn Lâu. Chẳng biết ai đúng ai sai.

"Thượng tướng Nguyễn Hữu An - nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, viết: "Sau khi giải phóng Phú Bài và Hương Thủy, Trung đoàn 101 , tiếp theo là Trung đoàn 3 bộ binh có xe tăng đi cùng, được nhân dân địa phương giúp phương tiện... vận chuyển tiến rất nhanh vào nội đô Huế. Đúng 13 giờ ngày 25 tháng 3, Tiểu đội phó Tiểu đội trinh sát Nguyễn Văn Phương đã cắm cờ chiến thắng lên Phu Văn Lâu.""

"Đồng chí Vũ Thắng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên- Huế viết: "Ngày 25-3-1975, từ hai hướng Nam và Bắc Huế, các lực lượng đi đầu của Tiểu đoàn 8, bộ đội địa phương Quảng Trì, được tự vệ dẫn đường tiến vào nội thành Huế. Đúng 10 giờ 30 phút ngày 25 tháng 3 năm 1975, lá cờ giải phóng được cắm trên đỉnh Phu Văn Lâu. Thành phố Huế đã được giải phóng.""

Chẳng lẽ đã có cờ của K8 tỉnh đội Quảng Trị cắm trên cột rồi, Nguyễn Văn Phương, tiểu đội phó trinh sát của 101 lại tháo cờ xuống cắm lại lá khác ?!

Tôi cũng đã xem tranh luận này trên Quân Sử rồi. Nhưng chắc chuyện tranh cãi sẽ chẳng đi đến đâu !

. . . (Hết chuyện "Từ Phú Lộc Đến Huế")

  CHUYỆN XV QUA ĐÈO HẢI VÂN

6 giờ sáng ngày 26/3/1975, cả hai toán trinh sát chúng tôi đã ăn cơm xong và lục tục quay từ Huế ngược trở lại phía Đà Nẵng. Cả đoàn đi thảnh thơi dọc theo đường số 1. Không có pháo và máy bay của địch. Lúc này ta đã giải phóng được Quảng Trị và Thừa Thiên Huế ở phía bắc Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi ở phía nam. Địch co cụm lại Thành Phố Đà Nẵng và quyết tâm tử thủ. Địch bố trí phòng thủ Đà Nẵng thành hai tuyến. Lúc đó chúng tôi chỉ biết là mau chóng đuổi theo trung đoàn 18 của f325 để tấn công Đà Nẵng.

Oái oăm thay, nhiệm vụ giao riêng cho tôi và một lính trinh sát nữa là phải làm "binh yếu địa chí" sân bay Phú bài. Thế là phải đi sau mọi người một lần nữa. Chúng tôi hành quân bộ qua lại cái đài phát thanh Huế, qua quận lỵ Hương Thủy, qua quân trường Quang Trung. Tất cả hầu như nguyên vẹn. Quân trường Quang Trung có mặt tiền quay ra lộ số 1, có tường xây và rặng phi lao xanh tốt dọc theo đường. Cái cổng quân trường rất lớn và biển doanh trại cũng rất lớn, màu đỏ. Ở đoạn này chúng tôi gặp pháo 85 của trung đoàn 84 đang kéo trên đường. Họ đang làm động tác quay xe và quay pháo. Cả xe và pháo rất dài nên họ phải tháo pháo ra quay xe, còn pháo thì anh em phải xúm lại để đẩy và quay pháo. Công việc có vẻ khó. Nói vậy thôi còn dễ hơn nhiều lần khi kéo pháo ở trên rừng núi.

Tôi hỏi thăm trinh sát pháo Thanh, người cùng phố tôi và được anh em chỉ cho. Thanh cũng đang tham gia kéo pháo. Chào nhau, hỏi thăm dăm ba câu rồi chúng tôi nhanh chóng ai về việc nấy. Đến gần và sờ vào khẩu pháo 85 và thấy nó rất dài. xe và pháo đều được ngụy trang lá um tùm. Không biết có phải khi tuyển quân người ta chọn lính pháo to con hơn lính bộ binh không mà tôi thấy, nói chung lính pháo béo tốt và cao to hơn chúng tôi. Chắc là không phải vậy. Khi chúng tôi huấn luyện tân binh xong, những đứa được tuyển đi pháo binh cũng tầm vóc như chúng tôi thôi. 18 tuổi vẫn đang lớn vì những năm tháng đó toàn đân tộc thiếu đói nên trẻ con phát triển chậm. Lúc hết phổ thông, khi khám sức khỏe, tôi chỉ nặng có 33 cân và đang lớn như nhiều đứa khác. Gần bốn năm lính bộ binh, đi bộ, vác nặng, ăn đói, thiếu chất đã làm chúng tôi gày gò và không lớn thêm được bao nhiêu thành ra thấp bé so với lính pháo. Tôi chưa thấy ai so sánh chuyện này, nhưng chắc hẳn nguyên nhân là như vậy ?!

Đến cửa sân bay, bắt tay với toán trinh sát xong, hai thằng tôi rẽ vào sân bay. Việc đầu tiên là chúng tôi trèo lên đài kiểm soát không lưu để quan sát toàn bộ sân bay. Cái đài này không cao lắm nhưng cao hơn tất cả các chỗ khác trong sân bay và quan sát được khá xa ra mọi hướng. Tầng trên cùng của đài, xung quanh toàn kính, có tám mặt hay sáu mặt (bây giờ không nhớ chính xác). Mặt kính vát và loe ra ở phía trên. Bạn tôi vẫn luôn cảnh giới cho tôi vì sợ nhỡ có thằng điên nào đó ở lại đây để chết với Việt Cộng?! Sau khi quan sát toàn bộ sân bay. Tôi thấy công việc thật là nhiều, chắc phải mất rất nhiều thời gian đây.

Chợt tôi nảy ra một ý hay. Hai thằng bắt đầu đi lục lọi, kiếm tài liệu sẵn có của địch để lại. Ở khu sân bay này, các nhà cho lính và nhà làm việc đều là nhà kiểu lắp ghép nhanh bằng khung. Sau đó được thưng gỗ dán rất dày. Cửa phòng cũng bằng gỗ dán. Trần nhà đều rất thấp, nhảy lên có thể với tới. Bạn tôi có vẻ hăng hái đi lục lọi lắm nhưng tôi nói hãy cẩn thận, nhỡ chúng nó gài lựu đạn. Lúc bấy giờ tiếng Anh của tôi rất "ây bi xi" nên không biết biển đề trên các cửa phòng có nghĩa gì. Tất cả các biển phòng đều là tiếng Anh. Thế mới cú !

Chúng tôi lục thấy rất nhiều hồ sơ, tài liệu, gần như nguyên vẹn. Bọn địch không kịp mang theo và cũng không kịp hủy tài liệu. Các khu nhà này thì chỉ cần một mồi lửa là tất cả sẽ thành tro hết. Chúng tôi lục lọi tất cả các phòng, phòng nào khóa thì nhảy lên cho một cú song phi là bật ra hết. Không có mìn hay lựu đạn gài lại ở bất cứ chỗ nào trong sân bay.

Cuối cùng thì chúng tôi cũng tìm được thứ mình cần. Đó là toàn bộ sơ đồ sân bay cùng với tài liệu kèm theo. Rồi chúng tôi tìm thấy ở nhiều phòng khác cũng có tài liệu này. Tất cả đều được vẽ trực tiếp bằng tay (không phải vẽ máy) và được in thủ công (héliographie) mà lúc đó dân kỹ thuật ngoài bắc vẫn gọi là "in nắng" ("Héliographie" dịch sang tiếng Việt cũng không tìm được từ nào đắt hơn từ "in nắng"). Các bản in có màu nâu-tím nhạt hoặc màu xanh "Cửu Long" nhạt. Người ta vẽ bản gốc trên giấy can (còn gọi là giấy bóng mờ hay giấy căn ke), sau đó đặt lên trên một tờ giấy có tẩm thuốc. Mang ra đặt lên bàn giữa trời nắng và đặt một tấm kính đè lên trên. Một lúc thì mang bản giấy tẩm thuốc vào cho vào dung dịch định hình. Rồi phơi ra nắng cho khô là thu được một bản in. Khi ở Việt Nam chưa có photocopy khổ A0 thì khi in bản in lớn, người ta vẫn dùng cách này.

Các bản sơ đồ và tài liệu chúng tôi thu được có màu nâu-tím nhạt. Ánh nắng bắt đầu đứng bóng nhưng chúng tôi vẫn chưa lục soát hết. Hai thằng chui vào một phòng ngồi nghỉ ăn cơm nắm với ruốc mặn. Đây là một phòng làm việc. Nắng chói làm cho không khí trong phòng rất ngột ngạt. Tôi nhìn thấy một cái máy khá to bên trên cửa sổ phía sau mà mãi về sau tôi mới biết đó là máy điều hòa. Mà giả sử chúng tôi có biết đó là máy điều hòa thì lúc đó trong sân bay cũng không có điện.

  Buổi chiều 26/3/75, chúng tôi vẫn lục lọi tiếp các nhà trong sân bay.Khu sân bay rộng mênh mông mà chỉ có hai đứa chúng tôi. tất cả chìm trong nắng và sự tĩnh lặng. Dường như cũng không có lấy một bóng chim sẻ, giống chim thường làm tổ trên các mái nhà có người ở. Cũng không thấy bóng dáng một con chuột nào, cái giống luôn bám theo người để ở và kiếm ăn. Một cái sân bay hoang vắng lạ lùng. Lục lọi mãi cũng không thêm được gì vì có nhiều giấy tờ sổ sách khác không liên quan đến công việc của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi mới nghĩ chuyện đi kiếm cái ăn. Thể nào ở sân bay cũng có kho tàng, sẽ có rất nhiều hàng hóa và đồ ăn. Lúc đó chúng tôi không hề nghĩ đến các thứ hàng hóa hay đồ đạc gì. Nếu có lấy gì đó thì chỉ tìm đồ ăn hay thuốc hút thôi.

Nhưng rồi chiều đang đến mà tôi thì đang muốn đảo một vòng xung quanh sân bay xem xét thực địa có gì khác trong sơ đồ để bổ sung thêm vào tài liệu. Chúng tôi chỉ lượn được một phần của sân bay vì nó quá rộng. Nếu muốn đi hết và xem xét hết bố trí phòng vệ và bố trí hàng rào chắc phải vài ngày. Trong sân bay, không có một chiếc máy bay nào. Chắc hẳn địch đã tận dụng tất cả các máy bay để chạy rồi. Hay là còn những chiếc máy bay hỏng nằm trong kho. Khu vực nhà để máy bay chúng tôi chưa đi tới nên không rõ.

Quãng năm rưỡi chiều, hai thằng trong cái sân bay mênh mông làm cho chúng tôi thấy lẻ loi và chán. Chẳng ai thiết nghĩ đên việc ti tìm đồ ăn nữa. Tôi đã có đầy đủ tài liệu để nộp cho sư đoàn rồi. Hai thằng nhanh chóng rời sân bay rồi đi về phía cầu Nong.

   Chợt nhớ ra tên người đi cùng tôi là Hồng. Hồng thấp hơn tôi một chút, dáng người đậm và nước da đỏ, hơi đen. Hắn cũng chuyển từ d19 đặc công về. Hồng ở tiểu đội 3, cùng trung đội với tôi. Hắn vốn ít nói và thích sống chìm sau người khác, một tính cách rất dễ chịu. Quê hắn ở Vĩnh Phú, hình như là Yên Lãng thì phải. Hai thằng đi cùng nhưng thỉnh thoảng tôi cứ phải bảo hắn đi ngang hàng lên nói chuyện cho vui:

- Có lẽ tìm một nhà nào đấy, nghỉ lại, còn cơm nước không có tối mất.
- Ừ !
- Ông để ý tìm nhà nhé, tôi xem cái Trại Con Ó một tý. Trại này trước kia của biệt kích Mỹ đấy. Không biết Mỹ rút rồi thằng nào đóng ở đây ?
- Đến làng còn xa.
- Ừ mình chọn cuối làng Phú Bài đi, làng này theo đạo Phật, có chùa đây này.

Tôi đưa bản đồ cho Hồng và chỉ vào cái ấp Phú Bài VI. Chúng tôi sẽ chọn một cái nhà ven đường, ở cuối ấp. Lúc đó, khi nghỉ lại ở đâu chúng tôi thường chọn làng theo đạo Phật. Mọi người vẫn ngại những cái làng theo Thiên Chúa vì ở đó vẫn phải cảnh giác và phải gác đêm cẩn thận.

Tôi vừa đi trên đường 1 vừa dùng ống nhòm ngoái lại quan sát sân bay Phú Bài và trại Con Ó (Camp Eaggle). Các trại này, trước đây là căn cứ biệt kích của Mỹ. Lực lượng vật chất cho chiến tranh ở khu vực Phú bài thật là khổng lồ. Sao địch lại có thể bỏ chạy một cách dễ dàng như vậy, với sự kháng cự hầu như bằng không ? Bây giờ nghĩ lại, những người lính vẫn thấy có gì tiếc nuối. Những người lính thực sự đánh nhau, đổ xương máu hầu như không lấy gì ở những đống vật chất khổng lồ đó. Con đường của họ ở phía trước. Họ đi và tiếp tục chiến đấu, tiếp tục đổ máu. Thế mà những đống vật chất đó, ở phía sau họ, sau đó bị tàn phá tơi bời, phí phạm một cách hoang đàng . . . Thật là chua xót !

Đến cuối ấp Phú Bài VI, chúng tôi rẽ vào một cái nhà nhỏ ven đường. Trong làng, lác đác đã có những người dân trở về, những nhà khác vẫn bỏ không. Có thể người dân chưa yên tâm trở về nhà. Một số nhà khác chắc sẽ không có người trở về, họ đã chạy tuốt vào Sài Gòn rồi.

   Sáng 27/3/75, tôi bừng tỉnh dậy thì thấy ánh nắng đã xiên chéo vào nhà thành một vệt dài lên đến tường. Trên tường còn có ánh phản chiếu lấp lóa, rung rinh, hắt lên từ mặt nước ở chỗ nào đó. Thì ra Hồng đã dậy từ lúc nào. Nó đang nấu cơm dưới bếp. Tôi đánh răng, rửa mặt xong, rồi ra đứng ở sân mà ngắm ra đường và ra Đầm Cầu Hai. Con đường 1 vắng lặng không một bóng xe cộ hay người qua lại. Phía bên kia đường là cánh đồng trống, tít tắp cho đến tận bờ đầm. Nhìn ra biển phải lấy tay che "ánh nắng non" buổi sớm. Thì ra ánh sáng lấp lóa được phản chiếu từ mặt ruộng lỗ chỗ xen trong đám lúa đang thì. Hơi ẩm sương đêm vẫn còn luẩn quẩn quanh mảnh sân và mảnh vườn bên chái nhà. Hồng thấy tôi đứng ngắm cảnh, nó cũng từ bếp chạy ra:

- Hôm nay nắng chết ông ạ !
- Ừ ! Hôm nay mình sẽ đến quãng Bạch Thạch. Có thể gặp chúng nó từ trên núi xuống, đi cùng cho đỡ buồn.
- Cơm được rồi, chiến đi !
- Ông nhập ngũ năm nào thế ?
- Mười hai bảy mốt, tôi đi sau ông mấy tháng, hết tân binh xong thì được tuyển đi đặc công 305 rồi cả tiểu đoàn
bổ sung cho 325. Bọn tôi bị giải tán, lúc đầu về đây chán lắm. Tôi thấy đi luồn sâu chỉ một vài thằng, lạnh gáy ghê !
Bọn tôi cũng đi lẻ từng phân đội nhưng dù sao cũng đông người, lại trang bị thủ pháo, lựu đạn, đạn mấy băng yên
tâm hơn nhiều. Các ông đi lẻ, nói dại, có làm sao thì chẳng ai biết.
- Quen hết mà ! Tôi mà đi cùng bộ binh hay đặc công là ngại lắm. Đông người, dễ lộ. Bọn tôi đi lẻ, khỏe ăn. Cốt sao
không được lộ và để lại dấu vết, gặp địch thì mình tránh, ít người trốn cũng dễ. Nếu "tao ngộ chiến" thì bắn vài loạt
rồi ù té. Bọn nó đuổi theo đâu có dễ.

Cơm nước xong, hai thằng tôi tiếp tục đi về phía Đà Nẵng. Chừng nửa cây số thì gặp cầu Phu. Đây là cây cầu ngắn bắc qua sông Phu. Bây giờ nhiều người gọi là cầu Phú Bài vì nó nằm gần ấp Phú Bài VI, ấp Phú bài I và II lại nằm xa đường một chút và ở hai bên của một nhánh sông Phu. Nắng non cuối xuân còn khá mát mẻ, hai thằng đơn lẻ hăng hái bước dồn. Mong sao gặp lính ta trên đường từ đây đến cầu Nông (Nong – theo cách mà lúc bấy giờ chúng tôi vẫn gọi).

Không khí sớm mai, lòng thanh thản không khỏi làm ta trạnh nhớ đến những địa danh mà ta đang đi qua, được kết vào lời bài hát "Bình Trị Thiên Khói Lửa". Đây đúng là đoạn " . . . Văn Xá, Truồi, Nong . . .". Nghe nói, ở cái làng nhỏ Văn Xá nằm ven sông Bồ, có một nàng thiếu nữ "sắc nước hương trời", "một hai nghiêng nước nghiêng thành" được Vua Gia Long rất yêu chiều và được cưới làm vợ thứ hai (tức là Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu - mẹ vua Minh Mạng)

   Đi tiếp chừng cây số nữa, chúng tôi đến cầu Cổ Nông. Bên phải đường là xóm Cổ Nông, bên trái là cánh đồng lúa. Có một bãi đất phẳng và cao ở bên trái đường, nằm trơ trọi trên đó là nhà thờ Cổ Nông.

Thêm một cây số nữa, chúng tôi tới cầu Nong. Cầu Nong đường bộ đã bị hỏng. Đây là chiếc cầu không dài lắm được làm bằng gỗ thông dầu ngâm hắc ín đen xì. Các cây thông dầu rất dài, đường kính đến 40 cm được đóng xuống lòng sông. Bên trên các cọc gỗ là một dàn gỗ cũng là gỗ thông ngâm hắc ín. Mặt cầu vẫn đổ bê tông nhựa. Cây cầu không bị sập do bị đánh mìn mà bị cháy. Dàn gỗ bị cháy xịu xuống lòng sông. Các xà gỗ chưa cháy hết xiên lên lởm chởm. Người và xe không thể qua lại được nữa.

Chúng tôi vòng lên cầu đường sắt ở ngay gần đấy để qua sông. Cầu đường sắt làm bằng dàn sắt, không dùng để đi bộ. Chúng tôi qua cầu phải chăm chú bước cho đúng nếu không có thể bước vào chỗ hổng. Lúc qua cầu, thỉnh thoảng chúng tôi phải dừng lại để nhìn cái cầu đường bộ đang hỏng. Tới đây tôi mới gặp năm bảy lính, không biết của đơn vị nào. Họ cũng đã vượt qua cầu đường sắt như chúng tôi nhưng đi trước một đoạn.

  Đến gần cuối cầu, tôi dừng một lần nữa để nhìn lại con đường mà 24/3 chúng tôi đi mò trong đêm. Thật là buồn cười, có một con đường đàng hoàng đi từ đường 1 vào thôn An Nông IV thì chúng tôi không đi, lại chui bờ, chui bụi ở ven sông đi cho nó khó . . . hì hì . . . Chắc chắn con đường này cũng dẫn đến cây cầu nhỏ giữa hai thôn An Nông III và An Nông IV. Tôi nói với Hồng chuyện buồn cười đó thì nó bảo:

- Thì đêm tối như vậy, ông làm sao mà biết có con đường.
- Đáng lẽ tôi xem kỹ bản đồ thì có thể đoán ra. Nhưng mà tôi cứ lao bừa đi "hùng hục như trâu húc mả", làm mọi người
bở hơi tai. Mãi 7 giờ sáng chúng tôi mới đến ấp Lợi Nông, ở đây này – Tôi chỉ trên bản đồ và đưa cho Hồng xem.
- Một đêm mà đi mò được từng này đường thì ghê quá !
- Thế bọn ông qua cầu Nong lúc nào ? – Tôi hỏi
- Mãi bảy giờ tối, ban 2 mới ra lệnh điều một toán đi xuống cầu Nong. Bọn tôi đã chuẩn bị sẵn nên đi được ngay. Mãi đến
10 giờ chúng tôi mới đến gần cầu Nong và gặp lính 101.
- Thế mấy giờ mình mới đánh qua cầu ?
- Khoảng năm rưỡi (sáng 25/3), 101 họ vòng lên trên, vượt qua sông. Rồi đồng loạt nổ súng với đơn vị ở cầu. Chúng tôi
chỉ đi theo sau thôi, vượt qua cầu đường sắt.
- Chúng nó không kháng cự à ?
- Qua cầu Nong một đoạn, mới thấy địch bắn trả. Có cả xe tăng M41, M48, M113. Chúng nó vừa giật lùi vừa bắn, không
cho mình đến gần. Bọn nó sợ bê bốn mươi, bốn mốt lắm.
- Thế mình có bắn cháy chiếc nào không ?
- Nó vừa chạy, vừa bắn, xa quá, bắn không trúng. 101 đánh cũng gấu, giống như trận Cửa Việt ấy. Bọn tăng mà để vào
gần thì chỉ có chết. Chắc bọn này đã đánh nhau ở Cửa Việt, bây giờ đụng nhau với 101 thì "són đái ra quần".
- Bọn nó chạy hết vào Huế à ?
- Chẳng biết nữa. Có cả mấy chiếc tăng với xe lội nước nó cũng vứt và chạy dạt đi đâu không biết.
- Sao lúc mình đi ngược lại không thấy nhỉ ?
- Có mấy xe lội nước chạy ra ruộng, lúc quay lại tôi cũng không để ý xem còn không. Nhưng mà lúc ở Huế, tôi nhìn thấy
tăng của bọn 203 có cả M48, có khi họ lấy của chúng nó và dùng luôn.
- Hay nhể ! Thế mấy giờ thì vào đến Huế ?
- khoảng 11 giờ chứ mấy.
- Nhanh thật đấy. Bộ binh mà tiến đánh nhanh thế. Chỉ 5 tiếng rưỡi, suốt từ cầu Nong đến Huế, 25 cây số. Vừa đi vừa
đánh nhau. Quá nhanh ! – Tôi nói.
- Này ! Giá mà 101 đi theo bọn ông, 7 giờ đã đến gần lắm, chỉ còn năm sáu cây là đến Huế rồi. Thì ! Có khi 9 giờ đã
xong rồi.- Hồng mói.
- Ừ . . . Ừ . . . Nhưng mà cũng khó. Họ đánh suốt đến cầu Nong, cũng phải nghỉ ngơi chứ. Thành ra hướng chúng tôi chỉ
là phương án 2 thôi.
- Tôi nghĩ, 101 đánh thì chỉ một bộ phận thôi, còn đoạn đi sau được nghỉ ngơi rồi. Tôi mà là tư lệnh là tôi cho triển khai
cả hai mũi cùng một lúc. Có mũi vu hồi như thế thì địch nó mới khiếp, không biết đằng nào mà lần. Có khi nó sợ quá mà
chạy tuốt không còn kháng cự gì. – Hồng nói.
- Đấy là bây giờ mình nói thế, chứ lúc đó ai biết được địch nó lại hoảng loạn như vậy, cho nên phải chờ xe tăng và 324
phối hợp tác chiến chứ. Các cụ cũng không nghĩ một mình 101 có thể giải quyết xong đến tận Huế.
- Nhưng mà 101 đánh cũng nên có một mũi vu hồi chứ ! – Hồng cự lại.
- Họ không cho ông đi học sỹ quan kể cũng phí một "thiên tài quân sự". - Tôi nói.
- Ông cứ bôi bác tôi, ấy là tôi thấy rõ mười mươi thì nói đại thôi. (Từ "bôi bác" lúc đó chúng tôi dùng có ý là "nói diễu")

Cứ tưởng Hồng nói năng khó khăn. Thì ra . . . không phải. Những lúc máu lính bốc lên, nói năng cũng luyến thoắng ra phết. Những người lính trinh sát cựu của chúng tôi là như vậy đấy. Mỗi thằng một tính, ít nói, nói nhiều hay tếu táo thì lúc vào trận cũng rất nhanh nhẹn và hiểu biết. Chúng tôi đi với nhau, chẳng cần nói nhiều, cũng hiểu ý và phối hợp rất nhịp nhàng. Rất ăn ý và yên tâm.

  Bám theo toán lính phía trước nhưng không quá gần, chúng tôi tiếp tục đi bộ về phía Truồi. Họ đi khá nhanh và chúng tôi còn nhẹ hơn. Hai thằng tôi đều để ba lô ở cứ của c20. Trên lưng mỗi thằng chỉ là chiếc gùi toòng teeng vài cân gạo, một khẩu báng gấp với hai băng đạn và hai trái lựu đạn M26 (US – còn gọi là da láng). Tôi thì thêm ống nhòm, địa bàn, bản đồ, giấy vẽ và hồ sơ của sân bay Phú Bài.

Chúng tôi qua cầu Truồi, một cây cầu khá dài. Thôn Truồi đây rồi, một ngôi làng trù phú và bình yên. Tôi không nhận thấy ngôi nhà của BìnhYên bị cháy như nói trong quân sử. Có lẽ nhà bác ấy ở xa đường nên không nhìn thấy, cách đường những 200 mét mà cái làng thì lớn, cây cối um tùm, tốt tươi. Nước sông Truồi bấy giờ rất trong và chảy êm đềm. Thật là thanh bình. Qua ga Truồi một quãng thì hai thằng ngồi nghỉ lại. Chẳng có quán xá gì. Nhiều người dân đã trở về nhà nhưng dường như không thấy làng xóm hoạt động gì cả. Có vẻ như chó cũng không dám sủa. Những người dân vẫn e ngại Việt Cộng, mà đến chó của họ cũng sợ.

Tôi nhớ lại "anh xe lam" chở chúng tôi từ ấp Lợi Nông ra đến An Cựu. Vừa lái xe anh ấy vừa lấy làm hãnh diện và thể hiện rằng mình rất liều lĩnh một cách thông minh. Cái cách mà anh ấy giải thích rằng không sợ Việt Cộng là: "Em nghe chính quyền nói Việt Cộng đi đến đâu là giết hết bà con đến đó, man rợ, khát máu. Đàn bà mà bôi móng thì bị lấy kìm rút hết móng. Việt cộng xanh như tàu lá vì ở trong rừng, thiếu đói, rất thảm hại. bảy Việt cộng đeo một cọng đu đủ không gãy. Em thấy mấy ông giải phóng trắng trẻo, to lớn, trông hiền lành. Vậy là em không tin. Em tin là dù bên nào thì cũng phải có dân chứ làm sao lại giết hết dân. Hết dân thì ở với ai ?" Một lời giải thích vừa nôm na vừa dài dòng nhưng mà nó cho chúng tôi hiểu, dân bị tuyên truyền về Việt Cộng như thế nào. Một kiểu nói mãi cũng nhiều người phải tin (theo kiểu Gơ-ben). Dân họ sợ giải phóng cũng phải thôi.

Nghỉ chừng 15 phút, rồi chúng tôi đi tiếp. Một đoạn thì gặp toán lính đi trước chúng tôi, họ đang ngồi nghỉ.

- Hai đồng hương đơn vị nào thế ?
- c20 đây. Các đồng hương có phải 101 không?
- 101 đây.
- Lính của bọ Ngoan à ? Bây giờ bọ Ngoan là thủ trưởng của chúng tôi
(lúc đó phiên hiệu đầy đủ của chúng tôi là c20, phòng tham mưu, sư đoàn 35, gọi là sư đoàn 35
chứ không gọi là 325 và . . . thực ra thì gọi thế nào cũng được).
- Hai đồng Hương có ai Nam Hà không ?
- Đồng hương này Vĩnh Phú xin xà phòng, còn tôi Hà Nội chuồn đây.
- Tiếc nhể, không có ai cầu tõm nhảy !
- Các đồng hương đi sau nhá !
- Cho gửi lời thăm bọ Ngoan nhá !

Bọ Ngoan, trước là e trưởng 101, bây giờ là tham mưu trưởng sư đoàn. Bọ lên sư đoàn một thời gian thì kéo theo anh Nhạ c trưởng c20 của 101 lên làm c trưởng c20 chúng tôi. Chuyện này, có lẽ tôi đã kể rồi thì phải.

Toán lính của 101 có lẽ mệt hơn chúng tôi nhiều vì họ mang đầy đủ đồ đoàn, đầy đủ cơ số đạn và ruột tượng gạo. Chỉ một lúc sau chúng tôi đã mất hút trong tầm mắt của họ.

  Bây giờ qua căn cứ Lương Điền chúng tôi mới có dịp nhìn kỹ. Ngay gần đường, lại sát ngay đầm Cầu hai mà có căn cứ trên điểm cao 162 mét. Xung quanh nó là bằng địa. Căn cứ này thật là lợi hại. Nó có thể quan sát và khống chế được một vùng rộng. Địch đóng ở trên cao. Ngay gần chân cứ điểm, chúng tôi nhìn thấy đường đất cho xe chạy vòng quả đồi để lên đỉnh. Ngay sát đường, không có lô cốt hay ụ chiến đấu hoặc công sự cho xe tăng.

Tôi nhớ lại cái cảnh đồ Lâm vẽ. Thì ra, vì quan sát không được rõ nên mọi người phán đoán và vẽ ra. Chắc cây gì đó làm mọi người tưởng là nòng pháo xe tăng nên vẽ luôn xe tăng. Và, để cho hợp lý thì vẽ luôn cả hầm cho xe tăng. Lúc đó, tôi thấy việc "vẽ bịa" ra như thế không hay lắm. Nhưng sau này tôi lại nghĩ: "thôi thì cũng được, thừa còn hơn thiếu", dù sao thì 101 đánh đến đây cũng phải chuẩn bị phương án đánh xe tăng địch, không có xe tăng thì càng dễ chứ sao. Có lúc tôi lại nghĩ, biết đâu lúc đó có xe tăng địch nó đậu ở chỗ đó thì sao ? Thật vô lý, vì xung quanh không có biểu hiện gì là có trại lính cả. Thôi kệ !

Qua Lương Điền gần cây số thì con đường đã đi sát ngay bờ đầm. Sau đó, cả một đoạn dài qua khu vực thôn Bát Sơn thì có một phần làng che khuất đầm. Qua thôn Bát Sơn thì sẽ gặp con đường mà chúng tôi từ cứ trên thượng nguồn Truồi bên sườn Bạch Mã đi xuống. Không biết có gặp đứa nào của c20 chúng tôi từ trên núi xuống không ?

   Quãng gần 11 giờ, chúng tôi mới đi qua thôn Bát Sơn. Đoạn này đường bộ nay sát ven đầm, có chỗ chỉ cách một thửa đất nhỏ, có đoạn là đám ruộng lúa hẹp. Chợt chúng tôi nhìn thấy mấy toán lính ta đi trên đường ở phía trước. À ! Đây là đầu con đường từ trong cứ ra. Các lực lượng ở phía sau và các lực lượng đảm bảo bây giờ đang lục tục kéo từ trên núi xuống. Nhưng thấy rặt anh em đi bộ, chưa thấy một chiếc ô tô nào. Mọi người đang phải thồ rất nặng.

Mỗi toán đi riêng, vài ba người. Họ không cùng đơn vị với nhau nhưng tất cả đều di chuyển theo một hướng. Đi về phía Đà Nẵng.

Hai thằng dừng lại hỏi thăm tình hình trên cứ mới biết ở trên đó các đơn vị đảm bảo và sư đoàn bộ đang rục rịch di chuyển. Cơ quan sẽ di chuyển bằng cơ giới. Các đơn vị tiểu đoàn và đại đội trực thuộc sư đoàn thì vẫn phải hành quân bộ. Anh em mà chúng tôi hỏi thăm là những người đi tiền trạm cho đơn vị và họ phải mang toàn bộ quân tư trang và lương thực theo nên người nào cũng vác nặng. Chúng tôi hỏi thăm c20 thế nào thì không ai biết cả.

Chắc anh em sẽ thắc mắc rằng hai thằng tôi đi nhẹ toòng teeng như thế có mang vác hộ anh em mang vác nặng không. Thật sự là không. Kể cũng tệ !

Hai thằng chào họ rồi đi vượt lên. Gần trưa rồi nên con đường cũng vắng vẻ chứ chắc buổi sáng nay người xuống núi phải nhiều hơn?! Chúng tôi vừa đi vừa ngó chừng kiếm chỗ nghỉ trưa. Thế mà mãi gần đến ngọ chúng tôi mới tìm được cái nhà ven đường ở thôn Bạch Thạch. Trước đây tôi cứ nghĩ Bạch Thạch và Đá Bạc là hai thôn khác nhau vì trên bản đồ thấy có ghi hai địa danh Đá Bạc và Bạch Thạch ở gần nhau nhưng là hai chỗ khác nhau. Hóa ra là cái bản đồ 1/50000 nó ghi một chỗ là "Thôn Bạch Thạch" và chỗ kia là "Da Bac Heliport" (nghĩa là sân bay trực thăng Đá Bạc). "Bạch Thạch" là tiếng Hán Việt nghĩa là "Đá Trắng" hay "Đá Bạc". Thì ra là như vậy.

Khu vự Bạch Thạch này cũng khá rộng nằm dọc theo đường 1 quãng bốn năm cây số, cả ở hai bên đường. Một bên là Đầm Cầu hai, bên kia là núi. Bên phía đầm là rẻo đất hẹp, chỗ nào hơi dày một chút thì có năm ba nóc nhà. Bên núi nhiều nhà hơn và cũng có những thẻo ruộng lúa ngoằn ngoèo gọi là cánh đồng, còn lại là đất đồi. Dăm ba chỗ trên đất đồi có trồng chè, trông không được quy mô cho lắm. Trời tuy nắng gắt nhưng có gió từ đầm thổi vào nên không khí mát mẻ và ráo mồ hôi. Không ai bảo ai, hai thằng tôi, từ lúc nào đã mở mấy cái cúc áo để đón gió. Bình thường, khuy áo trên cùng tôi không hay đóng, hai tay áo sắn cao và quần thì sắn lên đến đầu gối. Mỗi lần đi luồn sâu về bao giờ hai cẳng tay và hai ống chân cũng nhằng nhịt những vết cỏ tranh và gai góc cào xước, vết mới chồng chéo lên vết cũ. Thành quen rồi, thả ống quần xuống thấy rất vướng víu.

Một căn nhà nhỏ, nằm trên vỉa đất cao ngay bên đường. Mái nhà được lợp tôn, xung quanh thưng bằng lá gồi, vài cái cây không to lắm nhưng có tán lá. Cái vẻ mát mẻ của nó thực ra là vì có gió biển thồi thốc từ đầm thẳng vào nhà. Hai thằng ăn cơm nắm xong, nằm vật ra ngủ ngay tức thì.

   Hai giờ chiều hai thằng mới choàng dậy. Tôi lấy bản đồ ra, hai thằng xem và ước lượng đường đi trong buổi chiều. Bây giờ qua dốc Mũi Né sang đến huyện lỵ Phú Lộc. Nếu đi qua đèo Phước Tượng sang bên Nước Ngọt là vùng công giáo mà ngủ lại thì không thoải mái lắm. Mà đi tiếp thì phải đi rất xa. Bàn đi tính lại, cuối cùng chúng tôi quyết định chỉ đi thêm chừng chục cây số nữa và sẽ chọn thôn Trung An ở chân đèo Phước Tượng để nghỉ lại.

Khi leo đến đỉnh đoạn đèo Mũi Né, tôi dừng lại để xem cái hầm đường sắt Mũi Né. Lúc tôi ở trên ban 2 đắp sa bàn, thấy các thủ trưởng cứ băn khoăn không biết có phải địch giấu pháo trong đường hầm này không. Nếu không biết, bất ngờ, pháo nó kéo ra bắn thẳng phản pháo với ta trên dãy Lưỡi Cái thì cũng là vấn đề. Cũng có thể pháo ra, sẽ khống chế đoạn đường mà e18 tiến đánh từ Bạch Thạch về Phú Lộc và cản bước tiến của ta đi Đà Nẵng.

Tôi nhớ bọ Luyến có yêu cầu c20 chúng tôi phải dò thám cái hầm này. Sau đó tôi không có dịp được biết có xác định được cái gì ở trong hầm không. Từ trận địa pháo của ta trên Lưỡi Cái không khống chế được cái hầm này vì nó chui vào giữa đèo, hai bên là đồi. Một quả đồi trên bản đồ có chữ "Da Bac Heliport", còn quả kia là cao điểm 139 của Mũi Né.

Đứng từ trên đường bộ ngắm cái hầm đường sắt đi thấp phía dưới với bờ "ta luy" khá cao. Đúng là không thể bắn pháo vào đây được. Nhưng ngược lại, nếu đưa pháo vào đây thì cũng khó mà phát huy được hỏa lực. Muốn bắn, vẫn phải kéo ra chỗ trống trải ở khá xa. vả lại kéo vào kéo ra ở cái hầm đường sắt chật hẹp này sẽ rất bất tiện. Có chăng, chỗ này chỉ có thể đặt pháo phòng thủ bờ biển thì còn hợp lý.

Các cụ lo xa, đề phòng nhưng không biết thực hư ra sao. Thế mới bảo trinh sát là tai mắt cho các cụ. Đôi khi trinh sát không thể nghe nhìn được hết mà cũng chỉ phán đoán. Có khi cứ báo cáo theo phán đoán. Khi vẽ sơ đồ hay cảnh đồ cũng vậy, cứ thêm thắt vào những thứ không nhìn thấy cho nó hợp lý. Chuyện này hồi đó chúng tôi có một từ rất đắt. Đó là chữ "tạc-mọc". "Tạc" ra lô cốt, pháo, xe tăng . . . và "mọc" ra cây cối, nhà cửa, hầm chỉ huy, . . . Đúng là "Trinh sát nhà nghề . . .?!"

Gọi là thị trấn Phú Lộc nhưng nhà cửa rất lèo tèo và phân tán. Không có cảnh phố xá tấp nập hay cơ quan văn phòng, ủy ban hoành tráng như bây giờ. Lúc đó tôi còn không thấy "phố huyện" như thường thấy ở ngoài bắc.

Vòng xuống cầu đường sắt để qua cái cầu Thừa Lưu đã bị đặc công nước đánh sập. Quả thật, bây giờ tôi không nhớ quang cảnh cầu này bị sập như thế nào. Đối với tôi, nó không để lại một dấu ấn gì cả.

Khoảng bốn rưỡi chiều chúng tôi đã đến thôn Trung An. Hai thằng tìm chỗ nghỉ lại qua đêm để mai đi sớm.

  Sáng 28/3/75, chúng tôi dậy sớm cơm nước và lên đường đi tiếp. Đèo Phước Tượng buổi sớm rất đẹp. Đứng trên đỉnh đèo bên này có thể nhìn thấy toàn bộ đầm Cầu Hai vẫn còn đẫm trong sương. Đi thêm một đoạn sang đầu dốc bên kia thì nhìn thấy một dải đồng bằng khá rộng, cây cối tốt tươi. Đó là khu vực Nước Ngọt. Rồi bên phải là núi cao xanh, bên trái kia là vịnh Chơn mây cũng xanh ngăn ngắt, mờ trong sương. Một con đường thẳng tắp hàng chục cây số đến tận đèo Phú Gia. Trên bản đồ chúng tôi đã hình dung ra cảnh đẹp nơi này, nhưng khi nhìn thấy mới thật sững sờ. Đoạn vườn dừa kia khi hành quân mệt mỏi mà được dừng chân nghỉ lại chắc là tuyệt. Động Nhựt, với đỉnh cao trên 500 mét, và triền của có là núi Vĩnh Phong có đỉnh cao 482 nằm sát ngay biển. Cái động này sừng sững chắn phía tây của vụng Chơn Mây. Dải núi đá Chân Mây uốn thành cái móc câu che chắn phía đông của vịnh. Núi rừng, đồng lúa, vườn dừa, biển xanh . . . Tuyệt sắc, mê hồn!

Khi đi qua "Vườn Dừa" (chúng tôi gọi như vậy vì không biết chỗ này gọi là gì), bạn không thể không dừng lại. Vườn cây rợp bóng, gió reo xào xạc trên ngọn cây. Trưa hè mà mắc võng giữa những cây dừa ở đây thì thật không gì bằng.

Hồng và tôi tạt vào vườn ngồi nghỉ khá lâu. Chẳng còn muốn đi tiếp nữa. Khi nhổ rễ được thì hai đứa vẫn còn có vẻ tiếc rẻ lắm.

Sáng nay hai thằng đi rất hăng, được rất nhiều đường đất. Trên đường cũng nhìn thấy rất nhiều lính tráng đi cùng chiều, phía trước và phía sau. Hai thằng mải miết đi, vượt qua khá nhiều toán lính. Họ đều là lính của sư đoàn chúng tôi. Mãi vẫn chưa gặp đứa nào cùng đơn vị. Đến khoảng 10 giờ, khi chúng tôi đi tới thôn Phú Gia, hai thằng định ngồi nghỉ một lúc thì thằng Hồng bỗng kêu lên:

- Hình như thằng Ngữ kia kìa.
- Ừ ! giống lắm. Thằng Ngữ, a phó anh nuôi đã đến đây rồi cơ à. Thế thì đơn vị mình họ đi trước hết rồi cũng nên?

Thằng Ngữ đang đứng chơ vơ giữa đường có ý chờ ai đó. Khi chúng tôi tới, Thằng Ngữ reo lên. Nó không ngờ gặp chúng tôi ở đây. Nó tưởng chúng tôi đã qua đây từ trước rồi. Ngữ nói:

- Tôi tưởng bọn ông ở đâu rồi chứ.
- Bọn mình phải làm binh địa cái Phú Bài.
- Thôi, vào nhà đi. Bọn mình ở cái nhà ngay đầu làng. Tôi còn phải chờ mấy thằng. Tất cả tập kết ở đây. Bao giờ đủ hết thì đi.

Từ đường 1, chúng tôi phải đi xuống dốc vào đường làng. Đầu làng cách đường trên trăm mét. Mấy thằng thông tin, anh nuôi, và mỗi trung đội còn một hai đứa. Nhiều thứ đã vứt lại trên cứ nhưng vẫn rất nặng. Ngay từ sáng 26/3, những anh em ở lại cứ đã phải vòng đi vòng lại thồ hết đồ đạc của đơn vị xuống núi. Mỗi thằng hai ba lô, lại còn đồ đạc khác, nồi niêu xoong chảo, . . . Bọn nó đã phải thồ chuyến này là chuyến thứ hai mới hết. Họ phải đi theo kiểu sâu đo. Có người quay về cứ đi chuyến khác, có người thồ tiếp đi phía trước rồi lại quay về đón phía sau. Một cậu lính mới 74 nói:

- Bọn anh may rồi. cũng chỉ chờ mấy đứa nữa đi nốt một chuyến thôi. Sáng nay vừa chuyển một chuyến đi Lăng Cô rồi và không quay lại. Bọn em ở đây là vét đấy. Có gì, bọn anh cũng chỉ cần đỡ bọn em một ít thôi.

Thế là bọn tôi ở lại nhập bọn "thu dung". Phía Đà Nẵng, chiến dịch đang quyết liệt. Toán thu dung vét hết anh em thì sẽ đi tiếp. Cả hội được nghỉ ngơi, tắm giặt thoải mái. Vẫn là mấy cái nhà dân không có người.

  Mấy đứa thay nhau ra trực ở đường suốt buổi chiều hôm đó mà chưa đón thêm được ai. Chúng tôi nghỉ lại Phú Gia ngày 29/3.

Mãi đến chiều có ba đứa khật khừ thồ nặng đồ đạc ra tới nơi. Đây là ba đứa cuối cùng của đại đội tôi. Chiều rồi nên mọi người quyết định nghỉ lại để sáng mai đi sớm. Ngay chiều đó, chúng tôi nhận được điện của đại đội thông báo đã giải phóng Đà Nẵng. c20 chúng tôi tập kết tại làng Kim Liên, ngay gần chân đèo Hải Vân ở phía Đà Nẵng. Mọi người ai nấy đều phấn khởi. Thằng Ngữ cho mở ngay mấy hộp thịt để bữa chiều liên hoan. Thằng Ngữ là cái thằng mà tôi đã có dịp kể. Nó vẫn thế, lúc nào cũng như người chị cả trong nhà.

Sớm ngày 30/3, bọn tôi chia đồ đạc để thồ đi Đà Nẵng. Từ đây, qua đèo Phú Gia, qua Lăng Cô, qua đèo Hải Vân cũng khoảng bốn chục cây số. Toán người thồ nặng, không biết đến tối có đến được Kim Liên không, hay là ngủ lại trên đèo Hải Vân ? Sao cũng được, cứ phải đi thôi !

Toán chúng tôi chỉ có chín mười đứa. Tôi không phải khiêng nồi quân dụng nhưng phải mang hai ba lô, một cái đeo trước ngực một cái sau lưng. Hì hục hàng tiếng đồng hồ mới qua được đèo Phú Gia. Ở chân đèo lại là một cái đầm, đầm Lập An. Lúc đi từ trên dốc xuống mới có dịp ngắm cảnh. Đầm Lập An Nước cũng trong xanh in bóng mây trời. Đường bộ đi qua một dẻo đất hẹp, một bên gần biển, một bên sát bờ đầm. Đường sắt đi vòng ở phía bên kia đầm. Phía xa trược mặt là sừng sững Hải Vân, "biển và mây". Tôi và một đứa (không nhớ là ai) phấn chí chạy xuống dốc. Đến thôn Lập An sẽ nghỉ giải lao ngắm cảnh cho thỏa.

Bất chợt, tôi nhìn phía bên trái dường, ở dưới cái ruộng kia, có chiếc xe GMC của địch vứt lại.

- Chúng mày ơi, kiểm tra chiếc xe kia đi ! Biết đâu lại có gì hay thì chết với bọ ! Nghỉ ở đây nhé !

Vừa nói, tôi vừa vứt phịch hai cái ba lô xuống bên đường. Nhẹ cả người. Thằng chạy cùng tôi cũng quẳng đồ xuống. Hai thằng đi tới chỗ chiếc xe, chắc mẩm thể nào cũng có gì. Thế mà kiểm tra mãi cũng chả có gì. Chiếc GMC chở quân, không căng bạt. Chiếc bạt được vứt trên thùng xe. Hai thằng lục lọi khắp cabin cũng chẳng kiếm được gì. Cái xe GMC hay xe Doge có cái mùi hôi đặc trưng của nó, không lẫn đi đâu được. Không biết có phải là mùi dầu máy hay mùi sơn, hay mùi gì đó. Sau này tôi dùng xe Jeep không thấy có mùi này.

Phát chán! Tôi ngồi phịch xuống cái ghế của lái xe. Bây giờ mới để ý thấy chiếc chìa khóa xe vẫn đang cắm trong ổ khóa điện. Không nhớ lúc đó tôi xoay khóa điện hay rút cái nút đề. Chiếc xe khạc khạc và nổ máy.

Bình sinh, tôi chưa bao giờ cầm vô lăng, kể cả xe com-măng-ca chứ chưa nói gì đến cái xe GMC cồng kềnh thế này nên khi máy nổ, tôi có cảm giác hơi ngợp ngợp. Mất vài giây tôi mới chấn tĩnh lại. Tôi nhớ lại tất cả các thao tác lái xe mà tôi đã nhiều lần quan sát khi đi cùng bố tôi hay cùng các chú trong đơn vị của bố. Khi hành quân từ bắc vào nam, chúng tôi đi xe ca từ Hà Nội đến Diễn Châu tôi cũng rất tò mò nói chuyện lái xe với bác tài. Tôi hỏi từ cách đạp côn, ngớt ga, vào số, rồi từ từ nhả côn tăng ga như thế nào. Khi chuyển từ số nọ sang số kia, lái xe giỏi là bao giờ cũng phải sang số hai nấc đi qua số không ra sao, . . .

Tôi đánh liều, đạp côn, ngớt ga và vào số 1. Rất may là ngay trên block trước mặt hay là ngay trên quả đấm có sơ đồ số (lâu ngày không còn nhớ). Khi tôi nhả côn và tăng ga thì chiếc xe chồm lên giật giật một chút rồi tiến tới một cách êm ái. Chiếc xe khỏe thật và lội ruộng ngon lành. Có lẽ nó lội ruộng không bị lún nhiều hay bị Ba-ti-lê là nhờ có 10 bánh. Thằng đi cùng tôi sợ quá nhảy vội xuống ruộng và chạy lên đường.

Cứ để số 1, tôi từ từ cho xe lội đến bờ và leo lên đường. Lên đến đường, thấy đi số 1 chậm và ỳ quá, tôi mới nghĩ chuyện lên số 2. Hoàn toàn chưa có một "sợi" phản xạ nào về lái xe. Tôi cứ dậm ga nhè nhẹ, rồi nhìn sơ đồ số, rồi nhẩm lại thao tác để chuyển dần lên số cao hơn. Thế là, hơn một trăm mét đường đất đã trôi qua phía sau và tôi đã đưa được xe ra đến đường 1. Tôi cho xe dừng lại ngay giữa đường. Mấy thằng đang ngồi nghỉ, tíu tít bám vào xe, dồn đập hỏi:

- Ông biết lái xe à ?
- . . . . . ?
- Ừ !

Bây giờ tôi đã thấy thoải mái hơn, không còn căng thẳng như lúc đầu ở dưới ruộng. Mọi người nhao nhau khuân đồ lên thùng xe rồi tất cả trèo lên thùng. Chỉ có một đứa (không nhớ đứa nào nữa) chui vào cabin ngồi cạnh tôi. Chiếc xe từ từ lăn bánh. Thực sự, lúc đó tôi không có cảm giác mình liều lĩnh hay lo sợ gì mà chỉ tò mò và thích thú (phải mấy chục năm sau thỉnh thoảng mới thoáng nghĩ là "liều").

  Tôi không dám tăng ga chạy nhanh. Chiếc xe cứ chạy rù rù trên đường. Quãng Lăng Cô rất đẹp. Một doi cát mảnh bề ngang không quá nửa cây số. Rất nhiều dừa và lác đác đây đó là các quán. Chắc đó là những quán giải khát phục vụ xe cộ dừng lại nghỉ trước khi leo đèo. Đoạn này đẹp thật. Gió thổi lồng lộng từ biển vào làm xôn xao rừng dừa rồi vắt qua con đường sang một cái đầm lớn để trườn lên núi. Đoạn cuối doi cát có một cái làng đông đúc toàn dân chài. Có vẻ như biển ở chỗ này khá nông. Hàng loạt cọc tre đóng nhấp nhô trên biển. Có lẽ những cái cọc đó dùng cho việc chài lưới gì đó.

Nói vậy thôi, đang tập trung hết vào việc lái xe nên tôi đâu có nhìn thấy gì hai bên đường. Phải đến cuối con đường, trước khi qua cầu Lăng Cô, tôi mới cho xe dừng lại nghỉ và ngắm cảnh. Mọi người nhảy xuống xe. Mấy đứa rủ nhau vào nhà dân xem có gì ăn uống được không. Một lúc sau thấy chúng trở lại, hai tay mỗi thằng đều lủng lẳng một trái dừa. Chẳng có ai có tiền. Dân thấy bộ đội khát thì cho, hay là muốn cho dừa để bộ đội đi chỗ khác cho nhanh không biết. Lúc bấy giờ bộ đội rất nghiêm chỉnh, không có chuyện lấy của dân hay làm phiền gì. Nhưng dân chưa hiểu nên rất e sợ. Chỉ có một số vùng có cách mạng hoạt động thì dân mới quí bộ đội ngay lần gặp đầu tiên.

Chiếc xe từ từ qua cầu. Cầu hẹp nên tôi phải lái cẩn thận hơn. Thế mà, thằng ngồi cạnh tôi ngó ra ngoài và bảo tôi lái sát bên đó quá. Chắc là như vậy, vì tôi chưa biết căn đường chính xác phía bên phải. Rồi chiếc xe cứ thế rù rù tiến lên đèo. Lúc đó tôi không có ý thức gì về sự nguy hiểm khi leo đèo. Lái thì cứ lái thôi. Vì leo lên, nên tôi cứ để số 2 cho xe bò. Chẳng đi đâu mà vội, đi số cao nhỡ nó tụt thì chắc gì đã xử lý kịp. Thế này là tốt bằng mấy leo bộ. Tôi rất tập trung vào con đường đèo trước mặt nên không nhìn cảnh đẹp trên đèo, không ngắm xuống biển, cũng chẳng nhìn được con đường đèo ngoằn nghoèo ở xa phía trước. Hồi đó con đường đèo nhỏ hẹp hơn bây giờ nhiều. May cho tôi, lúc này không có chiếc xe nào khác chạy trên đèo.

Đến đỉnh đèo, Tôi cho xe dừng lại. Mọi người nhảy xuống "giải quyết vấn đề". Mấy đứa còn chạy lại mấy cái lô cốt để xem xét. Mấy cái lô cốt này rõ ràng có từ thời Pháp, tường xây cũ, rêu phong. Đoạn này đường phình ra rất rộng thành bãi đỗ xe. các sườn núi đất xung quanh chỉ thoai thoải dốc. Những tảng đá rất to, hòn đứng, hòn nằm, mầu nâu, và rất sạch. Tôi chạy sang bên kia đỉnh đèo, trèo lên một tảng đá để nhìn Đà Nẵng. Hùng vĩ thật ! Biển đó, xanh thẳm. Núi đây, chập trùng xanh biếc. Con đường đèo quanh co uốn lượn, rất bé, như lằn chỉ vương trên núi. Và kia, Đà Nẵng . . . Đẹp thật !

Chiếc xe nổ máy chạy xuống đèo. Tôi chỉ dám lên số 3. Xe xuống núi, lịm ga. Chân tôi lúc nào cũng rà rà trên bàn đạp phanh. Tôi còn bảo thằng thằng ngồi cạnh tôi, lúc nào thấy nguy hiểm thì kéo phanh tay. Xe chạy xuống đèo có phần nhanh hơn nhưng vẫn chỉ là đi chậm. Chậm cho nó chắc !

Xuống đến kho xăng Liên Chiểu, nhìn thấy mấy cái bồn xăng trắng toát gần ngay bên đường đèo. Có một cái biển khá lớn ngay gần đó: "Esso". Chiếc xe đã xuống đến chân đèo. Làng Kim Liên đã ở phía trước chúng tôi, chỉ còn khoảng một cây số. Vượt qua một chiếc cầu sắt nhỏ được một đoạn thì bỗng chiếc xe khật khừ một quãng thì chết máy dừng lại. Tôi đề đi đề lại mấy lần vẫn không nổ được. Chắc là hết dầu rồi.

- Xuống xe nhá ! hết tiền rồi !

Mọi người rỡ đồ xuống. Tôi vẫn ngồi lái và hô mọi người đẩy cái xe vào lề đường. Mọi người tạm nghỉ ở đây. Hai đứa người không, đi trước tìm đơn vị và bảo mọi người ra đón.

May quá ! đơn vị chúng tôi đúng là ở làng Kim Liên, ngay ga Kim Liên. Chúng tôi chỉ phải đi bộ có vài trăm mét, vượt qua mấy cái đường tàu trong ga là vào đến đơn vị. Cái ga này cũng lạ, chẳng thấy có hàng rào xung quanh, mà trong ga cũng chẳng có cái toa nào như thường thấy. Mấy cái đường sắt ở đây có vẻ như cũng lâu lâu không có tàu chạy qua thì phải.

   Làng Kim Liên là một làng bán nông nghiệp vừa làm ruộng ở vùng bán sơn địa vừa làm chài lưới. Một cái làng nghèo. Tất cả các nhà trong làng đều lợp tôn, vách thưng bằng loại cây gì đó như cây đót hoặc bằng lá gồi. Trong làng không có cây gì đáng kể ngoại trừ phi lao. làng cũng không có đường làng. Từ nhà này sang nhà khác muốn đi lối nào thì đi toàn cát pha và lá phi lao rụng.

c20 chúng tôi ở đó một vài hôm thì quân đoàn 2 xin được đi chiến đấu tiếp, lập nên cánh quân duyên hải.

Thằng Toàn, người Vĩnh Linh là cây đập bóng chuyền số một của đại đội tôi. Ngoài cách đập thông thường, nó còn có kiểu riêng là đập quai, đánh bóng vòng qua đầu làm đối phương rất khó chắn. Toàn cao to, trắng trẻo, đẹp trai, tính tình cới mở. Không biết nó kiếm đâu ra một chiếc bình bịch, loại xe đam (xe nam) mầu đỏ xậm, hiệu Honda (mãi sau này tôi mới biết là xe Honđa "67"). Hai bên bình xăng có biểu tượng cánh phượng hoàng bạc, lóng lánh. Cả đại đội chưa thằng nào biết đi bình bịch. Mấy thằng đạp cái cần số mãi không được. Loay hoay một hồi cũng về được số không rồi đạp nổ máy. nhưng cứ vào số là xe chồm lên và tắt máy. Thằng toàn chạy sang tôi vì nghĩ chắc là tôi lái được ô tô thì phải đi được bình bịch.

Đúng là tôi biết về xe máy rất rõ. Từ những năm 60, bố tôi đã đi làm bằng bình bịch, loại xe Simpson Spart của Đức, xe MZ, rồi xe gì rất to của bộ đội có hai xi lanh, hai ống xả, tiếng nổ rất chậm rãi bùng . . . boằng . . . bùng . . . boằng . . ., loại xe có thể lai thêm cái thùng ở bên cạnh gọi là mô tô ba. Nói thế, nhưng tôi cũng chỉ được ngồi đằng sau thôi, chưa bao giờ cầm lái. Tuy vậy cách bóp côn vào số tay hay đạp số chân thì tôi rất rõ. Hồi học trinh sát ở tiểu đoàn 74 ở Sơn Tây, ở gần đó có đơn vị huấn luện lái mô tô. Tôi rất hay xem họ tập. Bài khó nhất là dừng xe giữa dốc. Mô tô không có phanh hãm như ô tô nên lúc dừng xe giữa dốc muốn đi tiếp phải tăng ga, nhả côn và nhả phanh kết hợp với nhau. Không cẩn thận là xe tụt xuống dốc hoặc chết máy. Sau này khi lái xe Jeep tôi áp dụng khá ngon.

Tôi chạy ngay sang chỗ Toàn. Xe của Nhật chỉ khác xe của các nước XHCN là cần khởi động nằm ở bên phải, ngồi lên rồi mới đạp. Tôi bóp côn, về số không rồi đạp cho máy nổ. Toàn vội trèo ngay lên ngồi sau. Thế là, "không tiền khoáng hậu", hai thằng vù đi chơi Đà Nẵng. Mặc dù không mang theo bản đồ hay thứ gì khác nhưng tôi vẫn còn nhớ được các con đường đã xem trên bản đồ từ trước. Qua cầu Nam Ô một đoạn dài là bãi tha ma. đường rất vắng, thỉnh thoảng mới có xe máy chạy ngược chiều. Thêm một đoạn nữa thì nhìn thấy bức tượng trắng rất lớn ở trên đồi cao, bức tượng Phật ngồi trên tòa sen. Bây giờ tôi không còn nhớ chính xác nó ở chỗ nào. Qua ngã ba Huế, tôi cho xe chạy thẳng vào thành phố. Vào đến thành phố mới thấy rất nhiều xe máy chạy rầm rập. Tôi chạy xe khá nhanh, cũng lạng lách ra trò như ngày nào lạng lách xe đạp trên đường Hà Nội-Hà Đông để vượt qua xe buýt Karosha (xe Tiệp) và xe Lvov (của Liên Xô). Nhiều lần cái Yến "béo" và thằng Quát "điên" đi xe buýt đến lớp nhìn thấy tôi trên đường phải kêu trời vì tôi đi quá nhanh.

Đủ các kiểu xe máy trong thành phố. Ngay từ ngày đó, xe máy đã nhiều hơn xe đạp. Chúng tôi cứ dông thẳng dọc thành phố. Được một lúc thì thấy đường phố vắng vẻ hơn. Trước mặt tôi là một cây cầu thép, giàn thép nổi vồng lên thành từng múi, từng múi, trông khá hoành tráng. Đó là cầu Trịnh Minh Thế. Sang bên kia cầu, đường rất vắng vẻ. Thế là hết vui rồi ! (Lúc đó ở bên kia cầu rất vắng vẻ và hết thành phố rồi).

Tôi vòng xe, quay lại. Hai thằng lợn lờ các phố cho biết. Thành phố rất nhiều biển quảng cáo. Nhiều biền rất lớn và treo rất cao. Tôi nhớ nhất cái biển quảng cáo đen trắng "Hinos" với hình đầu tây đen nhe hàm răng trắng. Đó là kem đánh răng đầu tây đen. Lòng vòng một hồi rồi hai thằng quay về đơn vị. Đang chạy thì bỗng có hai quân cảnh thuộc ban quân quản của thành phố chặn xe chúng tôi lại hỏi giấy tờ. Nói dối loanh quanh một hồi, cuối cùng vẫn bị họ thu mất xe. Chúng tôi nói với họ sẽ về đơn vị lấy giấy tờ và ghi lại biển số xe..

Thế là hai thằng phải lóc cóc đi bộ. Chết cha ! xa quá ! Đoạn này chưa ra đến ngã ba Huế. Hai thằng bàn nhau vẫy tay đi nhờ. Mãi rồi cũng có người nhận cho đi nhờ và chở luôn cả hai thằng. Ông ta tầm trung niên cũng chạy chiếc xe đam và chỉ đi đến Nam Ô. Nhưng ông ấy chở chúng tôi đến tận Kim Liên rồi mới quay xe lại.

Rồi chúng tôi bàn nhau xin ban 2 cho giấy đi lấy lại xe. Bọ Luyến suy nghĩ một lúc rồi đồng ý cho giấy và giao nhiệm vụ cho hai thằng đi lấy xe về và đưa lên ban 2 để sử dụng cho ban "đi công tác". Thật là "không có cái dại nào bằng cái dại nào". Bố sư khỉ !

   Ban 2 còn cử thêm anh Vinh, tiểu đội trưởng trinh sát kỹ thuật, đi lấy xe cùng. Ba anh em ra đường bắt xe bộ đội đi nhờ. Khi vào đến chỗ giữ xe máy, tôi đi vòng một lượt bãi để xe. Rất nhiều xe, cả môt bãi mênh mông. Ngắm nghía chán thì tăm được một cái xe ưng ý. Ba thằng lại lộn ra ngoài. Tôi rút giấy của phòng tham mưu sư đoàn đề nghị trả xe cho đơn vị làm nhiệm vụ. Trong giấy có ghi số xe của chiếc "67". Tôi rút bút ghi thêm một số xe nữa vừa tăm được. Chúng tôi trình giấy cho quân cảnh và lấy ra hai chiếc xe. Chiếc xe lấy thêm là chiếc Vespa 150 Spring. Xe này rất nổi tiếng ở Hà Nội hồi đó. Tiếng nổ nghe phành . . . phành . . . từng phát một gọi là "đếm tiếng". Những lão anh chị ở Hà Nội vẫn bảo xe này rất dễ nổ, chỉ cần chim bay qua thả một bãi trúng cần khởi động là nổ.

Tôi ngồi lên chiếc xe Vespa, nổ máy rồi hướng dẫn anh Vinh cách vào số tay. Số 1 xuống, số hai lên, số ba lên tiếp. Cái số tay cũng rất hay, nếu không bóp côn thì không chuyển số được nên muốn chuyển số, kiểu gì cũng phải bóp côn, chỉ cần nhả côn từ từ là được. Anh Vinh đi Vespa còn tôi đèo thằng Toàn bằng xe "67". Thế là mất một xe, bây giờ lại được hai xe. ban 2 lấy chiếc vespa còn bọn tôi vẫn giữ chiếc "67".

Xăng thì khỏi lo. Hết xăng là phi lên kho xăng Liên Chiểu xin. Thủ kho mới là bộ đội của mình cả, vô tư. Được hai hôm thì được lệnh hành quân. Chúng tôi hành quân bằng xe của "559" trong cánh quân Duyên Hải. Chiếc xe máy được đưa lên ô tô đi cùng mãi vào tận Sài Gòn.

(hết chuyện XV)

  CHUYỆN XVI TRÀ LIÊN TÂY

Sau khi làm khu "Resort" ở Quất Xá, c20 phải di chuyển đi nơi khác. Lính tráng rất tấm tức vì nghe nói phải nhường lại cho các thủ trưởng sư đoàn ?! Về sau này chúng tôi mới biết là không phải. Sư đoàn bộ di chuyển từ chân cao điểm 544 về Tân Vĩnh ven sông Vĩnh Phước và đóng ở đó đến đầu 1975.

c20 chuyển về ấp Tân Định, cách Quất xá khoảng 2 cây số. Cái ấp Tân Định cũng nằm ven sông Cam Lộ nhưng thế đất ở đây không đẹp bằng. Các nhà được làm ven một khu đồi thấp. Đất đồi có vẻ rất cằn cỗi. Cây cối trong làng có phần xơ xác. Nhiệm vụ của đơn vị là cắt và đánh tranh để nộp lên trên. Nghe nói để lợp nhà cho khu nhà của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam cũng ở gần đấy, cách chừng mấy cây số. Việc thứ hai là tăng gia trồng sắn và cấy lúa. Đám ruộng thấp để cấy lúa và đất đồi để trồng sắn. Chúng tôi chẳng có công cụ gì trong tay. Cả đại đội được triển khai ở nhờ nhà dân. Mượn được dân dụng cụ gì thì dùng nấy, liềm, cuốc, xẻng, vồ đập đất. . . . Liềm để cắt tranh, dao găm thì chặt tre làm hom. Ruộng và đất đồi đều phải cuốc bằng tay.

Giai đoạn ở đây là thời gian không đọng lại trong trí nhớ mọi người được bao nhiêu. Tôi thuộc bộ phận tăng gia. Hàng ngày vác cuốc và vồ lên đồi để cuốc đất. Sau đó dùng vồ đập tơi đất và lên luống trồng sắn. Tôi còn nhớ, thằng Thìn và tôi phải làm một đám đất khá rộng. Tưởng rằng tay lính chai sạn lắm, thế mà lúc làm đất, tay hai thằng phồng rộp lên, chảy nước. Trời cuối năm mà sao nắng gắt vậy chứ. Cứ giữa nắng mà cuốc, mà đập, người dâm dấp mồ hôi. Được cái ăn no thoải mái nên thằng nào cũng rất khỏe. Kho hậu cần của c20 vẫn để ở Quất Xá. Chúng tôi có rất nhiều gạo. Cách đây không lâu, lúc mới ngừng bắn, chúng tôi đã ra đường bắt 2 xe Giải Phóng chở đầy gạo và chất đầy kho chỗ anh Thắng "quản".

Một buổi chiều, ngủ dậy, Thìn và tôi vác đồ "lên nương" làm đất, bất ngờ trên đường làng đụng phải một út rất xinh, đội một chiếc nón "bài thơ" mới tinh, làm cho hai thằng nhìn dớn dác muốn nổ đom đóm mắt. Thằng Thìn nhanh mồm:

- Nón cũng xinh nữa hè !

Cô gái ngượng nghịu dạt sát vào bờ tre khi hai thằng đi qua.

- Thìn à ! Sao ông không nói cả vế trước của câu ?
- Nói thế mới hay chứ !
- Ông có biết các cụ có câu gì không ?
- Câu gì ?
- Người xinh . . .
- Không biết. Các cụ nói gì ?
- "Người xinh cái ấy cũng xinh,
Người giòn cái tỉnh tình tinh cũng giòn."

Hai thằng phá lên cười, ầm ỹ cả đường làng

  Chúng tôi ở Tân Định được một tuần thì được lệnh di chuyển. Không biết di chuyển đi đâu, chỉ biết là đi về phía trước. Sáng sớm, chào tạm biệt chủ nhà rồi lục cục đồ đào hành quân. Cả đại đội đi thành một hàng dọc theo đường 9 về phía đông. Hai tiếng sau thì thì tới Đông Hà. Vượt qua đường xe lửa một đoạn thì đến chỗ khúc ngoặt thứ nhất. Đi thêm đoạn nữa thì gặp lại cái lô cốt có tháp canh nằm ở một góc ngoặt thứ hai. Một chiếc M41 và một chiếc M48 được kéo về để ngay dưới chân tháp làm thành cái biểu tượng chiến thắng của Đông Hà. Đường 9 bắt vào đường một ở ngã ba, lúc đó gọi là ngã ba Đông Hà.

Chúng tôi đi theo đường 1 về phía nam. Con đường sẽ dẫn chúng tôi đến cầu Quảng Trị. Bên kia sông là địch kể từ sau ngày 16/9/1972. Đây là lần đầu tiên tôi được đi trên con đường 1 ở đoạn này. Con đường còn rộng và đẹp hơn đường 9. Sau khi qua cầu Lai phước một đoạn chừng 2 cây số, bất ngờ đoàn lính rẽ sang ben trái đườn nhằm vào chỗ sân bay Ái Tử. Nhưng chúng tôi không vào sân bay mà vào làng Tả Kiên. Qua làng Tả Kiên thì đến thôn Trà Liên Tây. Một cái làng lớn, trù phú, nằm sát ven sông Thạch Hãn.

Mỗi trung đội đã có một b phó đi tiền trạm, nên nhanh chóng chóng tôi được đưa về các nhà dân. Thằng Ngữ, thằng Hưởng và tôi ở cái nhà cuối cùng, xa nhất.Thìn và Hùng ở nhà bên cạnh có một út 16 17 tuổi tên Nữ. Nữ có khuôn mặt khá xinh đang là học sinh trung học. Bọn tôi thường trêu gán ghép Thìn với Nữ làm cho cô gái nhiều phen đỏ mặt. Phải cái ông già Nữ rất khó tính và có vẻ ủng hộ quốc gia chứ không thích Việt Cộng. Ông vẫn để giờ theo giờ Sài Gòn. Lúc đó giờ Hà Nội và giờ Sài Gòn chênh nhau 1 tiếng. Ông già có cái đài bằng cục gạch và hễ vắng mặt mấy đứa là mở đài Sài Gòn. Ông luôn để mắt đến cô con gái, canh chừng không cho thân mật với mấy thằng lính Việt Cộng chúng tôi. Lúc đầu ông có thái độ khinh khỉnh, nghĩ rằng bộ đội là những đứa dốt nát, hung dữ, chớ có giây vào. Dần dà vài hôm, lính giở bài dân vận, quét nhà cửa, sân sướng, nọ kia; lại còn nói chuyện học hành chữ nghĩa với út Nữ. Thì ra mấy thằng này toàn có học thức và hiểu biết. Thái độ của ông già bớt kinh khỉnh, dè chừng nhưng vẫn luôn giữ khoảng cách cho đến lúc chúng tôi chuyển đi. Chắc là ông như cất được một gánh nặng. Chúng tôi chuyển đi sau khi tự làm nhà xong, vẫn ở Trà Liên nhưng không ở nhà dân nữa. Các nhà khác thỉnh thoảng chúng tôi vẫn vào chơi, còn nhà ông già và em Nữ thì không.

Mỗi tiểu đội chọn một cái nền nhà bỏ không dọc trên đường làng để làm nhà. Hàng ngày, chúng tôi ra sân bay Ái Tử kiếm vật liệu để làm nhà. Tất cả thứ gì cần, từ cột nhà, xà nhà, tôn, ván thưng xung quanh, ván làm giường và làm bàn ghế đều khiêng về từ sân bay. Một sự tàn phá ghê gớm. Không những chúng tôi mà rất nhiều đơn vị khác ở gần đấy đều ra sân bay khai thác. Không những lính mà cả dân ở xung quanh cũng ra kiếm đồ. Cuối cùng thì ghi sân bay cũng bị rỡ hết. Ghi sân bay bằng hợp kim nhôm (gọi là đuya-ra) sơn màu rêu còn được vận chuyển về sư đoàn bộ để làm hội trường của sư đoàn. Các tấm ghi này rất dài, khoảng 4 mét, chiều ngang mỗi tấm 60 phân. Đầu tấm ghi và hai bên sườn đều có các gờ để lắp ráp vào nhau thành sân phẳng. Tấm ghi rỗng, khi cắt ra thấy nhiều đường gân chịu lực ở bên trong. Lúc đầu chúng tôi còn khênh đồ trên vai từ sân bay về. Sau, nảy ra sáng kiến, thả nổi những tấm ghi trên sông làm bè cho trôi trên sông Thạch Hãn về và chỉ việc vớt lên là xong không phải khuân vác nữa.

  Nhà tôi ở có hai ông bà già mà chúng tôi gọi là ba và má. Con ông bà đều chạy vào phía trong hết chỉ còn lại một đứa con trai út. Thằng bé sáu bảy tuổi gì đó. Tên thật của nó tôi không còn nhớ. Ông bà vẫn gọi nó là thằng Chót. Thằng Chót suôt ngày chỉ mặc quần đùi và áo cộc. Trên đầu nó là chiếc mũ nan hình chóp nhọn (bây giờ không thấy người ta làm loại mũ ấy). Tay nó cầm cái cành tre, trên đầu buộc một túm lá chuối. Nó đi chăn ngỗng và cũng không cao hơn mấy con ngỗng là mấy. Trông nó rất xinh và rất buồn cười. Mỗi khi nhìn thấy nó như vậy là tôi và Hùng "côn" lại bật cười. Trông nó cực giống chú Pinôkiô (Buratinô).

Chiến tranh làm cho gia đình ông bà già tan đàn xẻ nghé. Ông có chiếc xe đạp tàng tàng nhưng dùng tốt. Ngặt một nỗi là xăm lốp không kiếm đâu ra. Một lần ông ra sân bay Ái Tử kiếm được mấy mét tuy-ô bằng cao su rất dầy. Ông già chế thành "lốp liền xăm" cho xe đạp. Ông tâm đắc lắm thỉnh thoảng lại khoe sáng kiến đó với chúng tôi. "Cái bánh ni nỏ cần bơm chi hết, nỏ lủng chi hết nữa hề !". Hàng ngày vẫn thấy ông già èng èng chiếc xe đạp trên con đường làng.

Lâu rồi tôi không còn nhớ tên ông bà già. Cả hai người đều rất hiền lành dễ chịu và hay cười. Bà già thì có cái gì cũng mời bộ đội ăn cùng rất xởi lởi. Cơm của chúng tôi lúc đó chỉ có canh lõng bõng, lương vương vài sợi thịt hộp, lơ vơ vài lá rau dền gai hái ở bờ bụi trên đường làng. Cho nên má cứ phải liên tục bổ sung thêm món đặc sản Quảng Trị "rau lang mắm ruốc" ngọt lịm. Ông già có cái mũ phớt, hễ đi đâu ra khỏi nhà là nó nằm ngay ngắn trên đầu ông rồi. Rất đặc trưng, của riêng ông, ở cái làng quê Trà Liên này. Ông chỉ có một cái tính khó chơi là hơi "ki ki".

Khi có nhà riêng rồi, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn rẽ qua chơi với ông bà và thằng Chót. Một trận nói cười thoải mái rôm rả.

Quãng mươi ngày gì đó thì nhà cửa làm xong. Từng tiểu đội chuyển về nhà mới. Mỗi tiểu đội một căn. Ba cái nhà của bê 3 ở đầu làng. Ba cái nhà của xê bộ và y tá, a thông tin rồi a anh nuôi ở giữa làng. Ba nhà của bê 1 cách đó một quãng. Ba cái nhà cuối cùng của bê 2 ở xa nhất. Cả Xê Hai Mươi ở dọc hai bên trục đường làng kéo dài khoảng trên 300 mét. a 12 thì vẫn ở trên ban hai cùng sư đoàn bộ mãi trên Tân Vĩnh. Họ đặt đài trinh sát kỹ thuật trên cao điểm 58.

Nhà tiểu đội tôi (a2 của bê 1) nằm ngay bên đường làng, trên một cái nền nhà cũ đã bỏ không từ lâu. Khung nhà hoàn toàn bằng gỗ với mộng mẹo thì ít mà đinh thì nhiều. Đủ các loại đinh to gỡ ra từ các công trình ở sân bay. Mái nhà lợp tôn và đóng đinh luôn vào đòn tay. Trên mỗi cái mũ đinh còn cẩn thận đắp lên một cục keo làm từ xốp trộn với xăng để chống giột. Xung quanh nhà chúng tôi thưng gỗ dán. Những tấm gỗ dán rất dày, chiều dài hai mét, chiều ngang mét hai cứ thế mà phệt đinh vào. Một cửa ra vào ở giữa, hai cửa sổ hai bên và hai cửa sổ hai đầu hồi nữa. Bốn cái giường, mỗi cái là bốn cọc gỗ đóng chặt xuống đất và đặt tấm gỗ dán lên, rồi, . . . lại phệt đinh vào. Chưa ở đâu có kiểu giường đơn giản như thế và cũng chưa có giường ở đâu lại chắc như thế. Hai cái giá ba lô dài suốt chiều ngang nhà và đặt trên cao ở hai đầu hồi. Giá súng đăt chính giữa sát vách phía sau. Cuối cùng là bàn và hai cía ghế băng hai bên được đặt chính giữa nhà.

Về sau khi đóng các đồ lặt vặt chúng tôi có sáng kiến là lấy đinh gỡ ra từ quả pháo đinh. Những chiếc đinh đều tăm tắp, dài ba phân, mỗi chiếc đều có bốn cánh đuôi hơi xòe ra một chút. Mỹ nó làm kiểu vũ khí này đều thật, pháo nổ trên cao mỗi chiếc đinh trở thành một mũi tên phóng xuống gây sát thương cho những người ở trên mặt đất rất hiệu quả. Lúc đầu chúng tôi còn hơi e dè vì đinh bó chặt có hàng lối trong ruột quả pháo trộn lẫn với một thứ bột đỏ. Không biết bột này có phải là chất độc không ?! Về sau dùng thử, thấy không sao nên cứ thế mà phệt. Một thứ đinh rất cứng không bao giờ bị quằn.

   Nhắc đến chuyện Trà Liên Tây là tôi lại nhớ Phạm Xuân Sự. Nó là đứa ở cùng tôi lâu nhất ở cái tiểu đội 2 này. Thời gian chúng tôi ở với nhau nhiều nhất cũng là trong căn nhà này.

Mãi đến sau ngày Giải phóng 30/4, tôi mới ghi lại địa chỉ của nó và tên cụ thân sinh theo trí nhớ:

"Phạm Xuân Sự:
thôn An Đỗ, xã Bắc Sơn, huyện Ân Thi, Hải Hưng,
con ông Phạm Văn Cửu."

Tôi biết Sự hy sinh ở trên núi như thế, đơn vị chôn cất xong là đánh trận ngay. Sau đó 325 còn sang K, rồi chuyển về Hà Bắc. Chưa ai quay lại Bạch Mã. Cho nên muốn về quê Sự gặp bố mẹ mà chẳng dám. Không biết người ta đã báo tử những gì. Tôi rất sợ! Tôi nhớ một lần đi tìm mộ Nguyễn Thế Dân một mình ở Bà Rịa. Một nơi rất thuận lợi để tìm được. Tôi đã tìm đến đúng khu vực chôn cất. Nhưng rồi thật đáng buồn là địa phương đã quy tập về nghĩa trang và trở thành một trong hàng ngàn mộ "Vô danh" ( hồi đó người ta viết trên bia như vậy, bây giờ mới viết là "Chưa biết tên").

Mãi mấy chục năm sau tôi mới tìm đường về nhà Sự. Tôi hỏi thăm đúng người cháu họ nên được đưa vào tận nhà. Đây là ngôi nhà của cậu Kim, em trai Sự. Cửa khóa, không có ai ở nhà. Tôi đứng ngoài sân chờ cậu cháu đi tìm chủ. Không tìm thấy Kim, cậu cháu đưa tôi sang nhà người em trai út. Khi tôi đến sân thì cậu em trong nhà bước ra. Tôi cứ thế đứng ngẩn ra một thoáng hay chừng như là rất lâu ?! mắt đăm đăm nhìn cậu em trai.

- Mời anh vào nhà !
- Anh vào nhà đi ạ !

Hai người phải mời mấy lần tôi mới bước vào nhà được:

- Giống quá !
- Anh bảo gì ạ !
- Giống . . .

Trong khi cậu cháu đi tìm Kim và chuẩn bị cơm nước, tôi và cậu út thủ thỉ nói chuyện với nhau.

"Hôm ấy, vào tháng 12 năm bảy mốt, sau khi huấn luyện xong tân binh, anh em tập trung ở ga Cẩm Giàng. Ông ấy xin phép đơn vị về nhà và được phép đi trong ba tiếng. Từ ga Cẩm Giàng về nhà em mười hai cây số, anh bảo, thế là anh ấy chạy, cứ thế cắm cổ chạy.
Hôm ấy đẹp giời lắm anh ạ ! Máy bay nó bay ầm ầm ở trên giời, lúc ấy em còn bé tý, mới có 8 tuổi. Em sợ quá, cứ ruộng lúa em rúc vào, úp mặt xuống ruộng, người thì run chứ lại ! Không biết bao nhiêu là đỉa bâu đầy vào mặt em, đầy cả chân tay. Kinh quá anh ạ ! Thế nào mà, ông Sự ông ấy chạy tắt qua đám ruộng nên mới nhìn thấy em. Ông ấy kéo em dậy, cứ thế hai tay ông ấy cào cào, không biết bao nhiêu là đỉa. Ông ấy cứ cào cào thế này này. Bây giờ nghĩ lại em vẫn còn kinh. Ông ấy lôi em về nhà, cứ muối với xà phòng ông ấy xát khắp từ trên đầu, trên mặt xuống đến tay chân. Bây giờ em vẫn còn nhớ. Ông ấy chỉ vào nhà có một lúc là đi ngay. Bố mẹ em bảo cần gì thì anh ấy bảo nhờ người chạy ngay đi mua một cân thuốc lào. Có thế thôi, rồi ông ấy quay đi và lại chạy. Đấy anh ạ ! lần cuối cùng em gặp anh em là anh ấy tắm cho em đấy."
" Anh ạ! lúc đấy nhà em không ở đây đâu mà ở ngoài trại Bãi Sậy cơ. Nhà em chuyển ra trại từ năm sáu tám, mãi năm bẩy hai mới chuyển về đây. Nhà nghèo lắm, có gì đâu, chỉ có cái nhà tranh thôi. Em cũng biết người ta báo tử là chôn cất ở Phú Lộc, nhưng mà đánh nhau ác liệt như thế, bom dạn như thế. Bây giờ muốn tìm thì chỉ có người nào trực tiếp chôn cất thì may ra, còn làm sao mà tìm được."

Câu chuyện lắng đi một lúc rồi cậu út lại thủ thỉ nói tiếp, giọng nó cũng thủ thỉ như giọng thằng Sự.

"Lúc nãy, em thấy anh đứng ngẩn ra nhìn em ghê quá ! Thì ai cũng bảo là em giống ông Sự nhất mà. Để em kể chuyện báo tử anh em . . ."

  Lúc này chúng tôi đã sang nhà Kim. Sau khi chào hỏi nhau dăm ba câu. Kim và Mẻ (tên cậu cháu) xuống bếp cơm nước. Cậu Vàng (tên cậu em út) thủ thỉ kể tiếp.

"Anh ạ ! Một hôm gia đình thắp hương cúng cụ và khấn vái cầu cho hai anh em đi bộ đội được may mắn tránh được hòn tên mũi đạn, mẹ em khấn thế. Bất ngờ bát hương bốc cháy đùng đùng. Bố em bảo nhiều hương quá. Bát hương hóa rồi, lấy gio mới thay đi. Chúng em đổ tro xuống ao, rửa sạch sẽ bát hương rồi thay gio nếp mới vào. Vừa châm mấy nén hương mới thì nó lại cháy đùng đùng. Anh bảo thế có lạ không ?"

Vừa lúc đó Kim ở dưới bếp lên thêm vào câu chuyện: " Mà em thấy nó cháy từ dưới lên, đùng đùng, bát hương thì đã rửa sạch, nguội chứ có phải nóng đâu."

Vàng tiếp lời một cách từ tốn : " Hai hôm sau, huyện đội đưa giấy báo tử anh Công em. Anh bảo có lạ không ? Mẹ em choáng quá, ngất xỉu. Rồi cụ còn khóc vật vã nhiều ngày sau nữa. Đừng nói gì thì thôi, hễ động nói gì thì lại khóc. . . . Bàn thờ nhà em có thêm tấm ảnh anh Công em với bằng Tổ Quốc Ghi Công. . . . Rồi mấy tháng sau một hôm đang thắp hương anh Công thì bát hương lại hóa đùng đùng. Lần này rửa kỹ để nguội, đốt gio mới cũng để nguội rồi mới đổ vào bát hương. Thế mà vừa châm mấy nén hương nó lại hóa anh ạ. Hai hôm sau huyện lại đưa giấy bảo tử anh Sự em. Lần này phải đưa mẹ em đi cấp cứu rồi đưa xuống bệnh viện Việt Tiệp. Quê ngoại em ở Hải Phòng mà. Anh bảo, trong mấy tháng, hai cái bảo tử của hai đứa con trai lớn thì làm sao cụ chịu đựng được. Bàn thờ nhà em lại thêm một cái bằng Tổ Quốc nữa. Anh Sự chẳng có cái ảnh nào, anh ấy có bao giờ chụp ảnh đâu."

" Anh Sự em là chịu khó nhất nhà đấy. Nhà đông con. Lúc em còn bé, anh ấy chưa đi bộ đội. Ông ấy theo mẹ em xuống bà ngoại ở Hải phòng. Không phải đi chơi đâu anh. Ông ấy đi đẩy riu. Nhiều tôm tép lắm. Đến trưa là mẹ em phải quẩy đầy một gánh riu lên chợ bán. Chiều lại một gánh nữa. Anh nói đúng đấy, tính ông ấy chăm chỉ, ít nói lại hay cười."

Tôi nói:

- Thì tính nó thế. Mà chắc chưa cầm tay con gái bao giờ.
- Vâng, nói chuyện với con gái là đỏ mặt rồi anh ạ !

Phạm Xuân Sự hy sinh ngày 22 tháng 3 năm 1975, đúng một hôm sau ngày khai hỏa của sư đoàn từ dãy Lưỡi Cái.

   Nhà của a2 chúng tôi có một mảnh sân trước nhà khá rộng. Sát đường là dãy hàng rào bằng rặng trúc, bên phải nhà cũng là hàng rào trúc ngăn cách với một con đường nhỏ rẽ từ đường làng vào. Bên trái nhà là khoảng đất trống xa khoảng trăm mét mới có nhà. Phía sau nhà cũng khoảng bốn chục mét là đất trống. Phía trước nhà là con đường làng, qua đường làng một trăm mét đất trống thì đến sông Thạch Hãn. Thành thử, cái nhà của tiểu đội chúng tôi là một cái nhà độc lập.

Khoảng đất trống bên kia đường làng tiểu đội tôi tha hồ tăng gia. Lúc đó đại đội khoán rau và củi theo đầu người. Anh Thắng "quản" đã tốt nghiệp Đại Học Nông Nghiệp nên nghĩ đến việc cử người ra Hà Nội mua giống rau. Đầu tiên, chúng tôi trồng rau muống gieo bằng hạt. Giống rau Trung Quốc, trắng, thên mỏng và mềm, lớn nhanh như thổi. Tiểu đội tôi có tiểu đội phó là thằng Ngữ, rất chịu khó. Nó bón cả phân bắc và nước giải cho rau nên rau rất tươi tốt. Nộp khoán xong chúng tôi vẫn còn rất nhiều, tha hồ cải thiện thêm. Sau vụ trồng rau muống, chúng tôi còn được phát hạt giống cải củ. Đất phù sa của Trà Liên rất tốt, lại được tưới tắm đầy đủ, củ cải chúng tôi trồng rất to. Củ ngắn cũng phải dài 30 phân còn củ dài thì trên 40 phân. Củ rất thẳng, không còng quèo tí nào, mà lại không hề bị bấc. Khi chúng tôi ở Việt Yên, Hà Bắc, cũng là đất trồng rau chuyên nghiệp nhưng đất cũng không tốt bằng đất phù sa Trà liên.

Lúc bấy giờ, chúng tôi được phát cả nhu yếu phẩm và phụ cấp. Lính binh nhì được phụ cấp 5 đồng một tháng. Tiểu đội tôi, có tôi là trung sỹ, còn lại là hạ sỹ và binh nhất. Ngày nghỉ, chúng tôi đi chợ Thuận ở bên kia sông. Mỗi lần mua 1 đến 2 cân thịt. Lúc đầu giá thịt lợn là 5 đồng, sau đó tăng dần lên đến 7 đồng một cân. Tiền thì phát riêng cho từng người còn việc mua đồ ăn thêm cho tiểu đội thì tùy, ai mua thì mua, không bao giờ tính đếm. Đồ đã mang về nhà rồi thì là của chung, không có ai "tắc lẻm" riêng. Chúng tôi vẫn sống với nhau như những ngày còn ác liệt đạn bom của năm 72 vậy.

Đêm 30 tết Quí Sửu (1973), đại đội tổ chức đón giao thừa chung ở hội trường. Hội trường của đại đội được làm ở gần nhà các thủ trưởng c20. Tôi nhớ tiểu đội tôi cũng phải góp công xây dựng và góp hai cái ghế băng. Hùng "côn", sinh viên xây dựng, thiết kế ghế băng vừa đơn giản, vừa chắc chắn. Có "hàm lượng lý thuyết kết cấu" mà lị ! Lấy một cái cây có cấu trúc cành như cành đào, tuốt gần hết lá rồi đính hoa đào cắt bằng giấy, nhuộm mực đỏ. Vậy là có cây đào đón xuân. Trên cây đào còn đính nhiều lá phiếu để hái hoa dân chủ. Nội dung các lá phiếu thường là hát một bài, kể một chuyện, . . . và được thưởng gì đó như bánh kẹo hay điếu thuốc lá. Tác phẩm này là của bác TraLienTay đấy. Bây giờ kể lại, thấy buồn cười nên có khi bác ấy không nhận đâu và có khi bác ấy cũng quên thật rồi !

Thằng Cam, tiểu đội tôi và tôi, hai thằng phải canh gác cho trung đội. Thằng Cam kiếm đâu ra một lít rượu đựng trong cái chai huyết thanh. Vì thiếu đồ nhắm, tìm mãi cũng chỉ thấy đường (thật may không phải là ớt) nên hai thằng đã uống hết lít rượu với đường.

  Năm 73 và nửa năm 74, chúng tôi ở Trà Liên Tây. Thôi thì đủ các thứ tập tành. Nào thì tập lăn lê bò toài như tân binh, rồi tập tiềm nhập cởi trần trùng trục bôi nhọ như ma lem khắp người trong đêm tối. Tập vượt qua các kiểu hàng rào, tập dò gỡ mìn ngay trong thực địa của căn cứ Ái Tử. May mà chỉ có vài lần đụng mìn thật và gỡ mìn thật, không ai bị sao. Mệt nhất là tập võ thuật, suốt ngày quật nhau ngoài nắng, tối về đau dừ hết các "cơ quan đoàn thể". Thằng nào làm không đúng động tác, ghì không chắc mà nó quật mình không khéo thì gãy toi xương sườn hay xương sống. Chuyện thục đầu gối hay cùi chỏ vào bụng hay vào mạng mỡ là thường tình. Méo mặt !

Lại gì nữa đây ? Tập hành quân vác nặng rèn luyện thể lực, thật là kinh. Còn chuyện làm hầm bí mật và ăn ở dưới đó một ngày đêm thì tôi đã kể rồi.

Vậy chứ, ngày nghỉ thì làm gì, những tối không phải sinh hoạt thì làm gì?

Buổi tối ở Trà Liên Tây hồi đó cũng chẳng có gì để chơi. Đèn thì chỉ có đèn dầu lù mù. Chơi tiến lên, thằng bét phải đeo 2 ba lô, thằng ba thì đeo một cái. Hết ba lô thì đeo xanh tuy đạn, hết xanh tuy thì đeo súng, . . . Chơi uống nước thì mỗi ván về bét uống 2 bát "bê năm hai". Uống nước nhiều quá, cứ phải đứng lên ra ngoài liên tục, gọi là "rô bi nê". Đeo ba lô hay uống nước mãi cũng chán. Chỉ có mấy đứa cưa cẩm em út là vui nhất. Chẳng biết chuyện chúng nó có đi đến đâu không, nhưng 9 giờ tối là phải điểm danh rồi. Không điểm danh đại đội thì điểm danh trung đội. Về sau này, chúng tôi cũng không nghe thấy nói có chuyện tai tiếng gì của c20 với các út ở Trà Liên Tây.

Có một chuyện mà bác 6971 đã kể. Dịp 27/7/2009, chúng tôi về thăm lại Trà Liên Tây. Nghe một người dân nói, có chú bộ đội về đây dự đám cưới con gái, chắc là bộ đội đơn vị 20. Về sau tôi nghĩ là không phải. Nếu bộ đội 20 mà có "sản phẩm" thì phải cách đó 35 năm rồi, không phải là đứa con gái mới lớn lấy chồng vào năm 2008. Chỉ có hai chuyện thật. Nhất là, xê phó Thêm yêu một chị giáo viên người bắc dạy mãi dưới Cửa Việt. Sau năm 75, hai người là vợ chồng. Nhị là, xê viên phó Ánh thì yêu út Trà xinh đẹp trắng trẻo, lại còn cao hơn cả bọ Ánh nữa. Sau này, bọ Ánh về quê ở Bình Định, hai người đứt liên lạc từ đó. Nghe nói út Trà cũng không còn ở Trà Liên mà ở Bình Dương thì phải.

Cái căn cứ Ái tử bị phá hết nhưng chúng tôi vẫn còn mót được nhiều thứ. Một trong những thứ đó là áo giáp Mỹ. Bỏ lớp vải bên ngoài ra, bên trong là nhiều lớp bố dầy, dệt bằng sợi nylon trắng bóc và cực dai. Tháo lấy sợi đó, rồi nối từng đoạn với nhau, mỗi đoạn chỉ dài chừng 40 đến 50 phân. Riêng cái đoạn nối nút dẹt, vòng sợi đánh ngoằng một cái rồi rút hai đầu là được một nút nối vừa bé, vừa chắc là tôi đã chịu rồi, rất mất thì giờ. Sau đó lại còn dùng đèn dầu để hơ và vê tròn cho mối nối khỏi tuột. Chưa hết đâu, mấy thằng còn làm cả cái sa để xe sợi. Cứ ba sợi mắc lên sa, chiều dài mỗi sợi khoảng năm chục đến trăm mét, giăng dọc theo đường làng. Thấy quay quay một hồi, ba sợi cùng xoắn theo một chiều. Sau đó chập ba sợi đã xoắn lên sa và cho xoắn theo chiều ngược lại để kết thành một như kiểu bênh thừng. Đem dây cuộn lại thành một cục to như quả bưởi con là đủ đan một chiếc võng.

Chúng nó lấy thuốc pháo khói để nhuộm sợi. Ở sân bay Ái Tử rất nhiều đạn pháo khói. Chỉ cần cẩn thận với những quả pháo có sơn viền vàng thì đừng có bổ ra. Đấy là pháo bắn chất độc hóa học. Không biết có bao nhiêu màu, nhưng thấy mọi người thường nhuộm màu lá cây xậm, màu đỏ và màu tím xẫm. Rồi còn làm cái thước bằng tre để lấy cữ. Thước to thì đan võng thưa, thước nhỏ thì đan võng mau. Đầu tiên là tính số mắt võng theo chiều ngang, tôi không nhớ, hình như lấy bốn mươi sợi dài bằng nhau. Túm chặt một đầu rồi dùng thước làm cữ và bắt đầu đan. Thực ra là buộc các sợi cạnh nhau vào làm một nút, thành từng đôi một, ở mép võng là sợi đôi. Tôi chịu khoản đan võng, giá có ai cho thì lấy chứ đan thì thôi.

Lão Tất y tá đại đội tôi là một trong những tay làm võng đẹp. Mấy tháng trước lão ở Vũng tàu ra, gặp nhau, nhắc chuyện đan võng, lão vẫn còn sướng, cười phá lá, ngất ngây ("con gà tây") ! Cái võng nhuộm tím của lão, vo tròn đút túi quần, tiện đâu là mắc lên nằm rất mát.

  Tiểu đội 1 ở gần chúng tôi, ngay sát nhà mụ Tiệu. Mụ Tiệu tầm 30 tuổi, người nhỏ nhắn, khuôn mặt khá xinh. Mụ nói, quê gốc của mụ ở Huế nên mấy món nữ công gia chánh có vẻ thạo. Thỉnh thoảng mụ làm bún theo kiểu Huế. Gạo ngâm rất lâu, thay nước hàng ngày. Cách làm bún thì cũng như thằng Ghi, thằng Quế làm trên cao điểm 108 nhưng bún của mụ tiệu sợi to hơn, hơi trong trong và rất dai, rất giòn. Lúc nào chúng tôi muốn ăn bún thì báo cắt vài suất cơm nhà bếp lấy ít gạo nhờ mụ làm cho. Mụ tiệu cũng hay làm mấy món bánh ít kiểu Huế. Bánh làm bằng bột lọc nhân đậu xanh, . . .mặn hoặc ngọt. Chúng tôi hỏi mụ: "thế có bánh nhiều không?" thì mụ bảo "bánh nhiều là bánh gai của mấy chú ngoài bắc đó, nhưng trong ni làm nhỏ như bánh ít". Rất chịu khó và quí các chú bộ đội. Có khi mụ làm rất nhiều bánh rồi gọi cả a1 và a2 chúng tôi sang ăn. a1 còn bở hơn vì thỉnh thoảng mụ còn mang đồ ăn sang cho, trong những bữa cơm khô khan mà anh em lĩnh từ nhà bếp về.

Ở Trà Liên Tây vào những ngày mưa lũ, nước sông Thạch Hãn tràn ngập khắp làng, tràn vào tận nhà. Nhà của chúng tôi, nước lên gần đến mặt giường. Nước cứ ngập thế trong năm bảy ngày mới rút. Nước lũ đỏ ngầu phù sa như nước sông Hồng và làm cho đất đai làng Trà màu mỡ, cây cối làng Trà tốt tươi. Những ngày lụt, hay nhất là không phải tập tành gì. Từng tiểu đội lĩnh gạo và thực phẩm về tự nấu ăn, vui như hội. Tiểu đội tôi phải nấu cơm trên giường. Lót một tấm tôn lên ván giường, đổ lên trên một lớp đất khô rồi kê ba hòn gạch là thành bếp. Củi ướt, khói nghi ngút, nấu được bữa cơm thì dàn dụa nước mắt nước mũi, nhưng rất vui. Lần lụt đầu tiên cũng là lần đầu tiên tôi được biết món chuột luộc ép lá chanh và chuột chiên giòn.

Nước lụt làm lũ chuột túa ra rất nhiều. Chúng chạy cả vào nhà, chúng leo lên cây. Bờ trúc phía trước và bên cạnh nhà chúng tôi rất nhiều chuột trèo lên lánh nạn. Mấy đứa Hưng Yên được dịp trổ tài bắt chuột. Con nào ở dưới thấp thì bị đập, con ở cao thì bị rung lắc cho rơi xuống. Giống chuột bơi chậm, cứ tõm xuống nước là bị bắt sống. Chuột làm lông sạch, trắng nõn, mổ bụng, vứt ruột rồi cho vào nồi luộc. Luộc xong, banh phẳng ra, đặt vào giữa hai tấm ván mà ép với lá chanh. Ép chừng một tiếng, cho ráo nước rồi chặt miếng cho lên đĩa (nắp xong). Món này chấm muối tiêu ớt. Sơi, . . . chắc cũng được. Món chuột chiên giòn có vẻ hay hơn. Chuột làm sạch, banh ra tẩm lá chanh, muối, ớt, tiêu (lúc đó chỉ có thế, giá như bây giờ thì đủ các thứ gia vị hành, tỏi, húng lìu, giềng, xả, . . .), rồi cho vào chảo có mỡ rán vàng sậm lên, bốc mùi thơm như chả nướng vậy. Vì là lần đầu tiên nhìn thấy món chuột nên tôi vẫn có cảm giác hơi ghê ghê, chỉ dám nếm một tý món chiên sau khi được động viên, chào mời mấy lần. Mấy đứa Hưng Yên được bữa tưng bừng, rõ là rất khoái khẩu lắm.

Từ trong nhà nhìn ra, thấy nước ngập mênh mông. Nước trong làng chỉ chảy lờ đờ, nhưng nước ngoài sông thì hăm hở chảy, cuồn cuộn, dậy sóng. Nhìn dòng nước chảy cuốn theo nhiều cây cối từ thượng nguồn về, những cây gỗ rất to phăng phăng chạy theo dòng nước. Bất chợt làm cho thằng Thìn và tôi cùng nghĩ đến chuyện kiếm củi. Hai thằng cởi phăng đồ, buộc lại dải rút rồi lội ra đường làng bất chấp mấy thằng can ngăn.

Hai đứa lội dọc theo đường làng lên đến đầu làng, qua cả khu vực đơn vị đóng quân. Chúng tôi lội ra bờ sông. Hai thằng đứng nhìn dòng nước chảy để chọn gỗ. Thằng Thìn nhắm một cây rất to. Tôi tham hơn, nên nhắm một cây còn to và xa hơn. Hai thằng nhào ra ôm gỗ và cố gắng bơi đẩy vào bờ. Cũng không ngờ nước chảy lại nhanh đến thế. Khi chúng tôi đưa được gỗ vào bờ thì đã bị trôi rất xa, qua cả làng Trà một đoạn. Hai thằng lội nước kéo gỗ về sân nhà. Mấy thằng ở nhà đón gỗ, khênh vào buộc ở hông nhà. Thằng Thìn và tôi rút kinh nghiệm, lần này lội hẳn sang thôn Tả kiên rồi mới lao ra vớt gỗ. Thế mà chuyến này cũng không về đúng chỗ tiểu đội tôi nên vẫn phải lội nước kéo gỗ một đoạn. Chúng tôi làm vài chuyến nữa. Được rất nhiều củi. Chẳng còn lo khoán củi nữa. Hôm nào lấy củi, hai thằng tha hồ đi chơi.

   Lụt làng Trà là chuyện thường niên. Dân làng đã quen, chỉ có đơn vị 20 là không biết trước. Nước sông ngập tràn, đỏ quạch phù sa. Chẳng kiếm đâu ra nước sạch để nấu ăn và nấu nước uống. Dân làng Trà không ai làm nghề chài lưới, thế mà những ngày lụt thỉnh thoảng thấy có người bơi thuyền đi trên đường làng. Chúng tôi hiểu ra rằng chuyện này là bình thường ở đây. Vậy phải có cách lấy nước sạch chứ. Quả vậy, nhà dân đều có đồ trữ nước sạch, nước lên đến đâu, họ khênh nước lên đến đó. Vài ngày đầu chúng tôi còn xin nước sạch của dân nhưng mấy hôm sau, không dám xin nữa vì họ cũng chỉ tích nước để đủ dùng. Nhưng dân lại cho bộ đội phèn để về đánh nước. Phèn chua giã nhỏ, thả vào nước, khuấy mạnh. Phèn tan trong nước tạo thành keo, cuốn theo các hạt đất phù sa, rồi lắng xuống. Đợi một lúc là có nước tương dối trong có thể làm nước nấu ăn được. Tốt chán ! Lính tráng chúng tôi, ai chẳng đã từng uống nước sống dưới hố bom, hố pháo. Chuyện dùng nước hố bom đến cạn đáy mà thấy xác chiến sỹ đơn vị nào đó hay xác lính địch cũng không phải là chuyện hiếm.

Đọc "Nhật Ký Viết Lại" của SauChiBayMot mới biết thời điểm làng Trà bị lụt năm 73 là đầu tháng 7. Lúc đó, 6971 và tôi đang biệt phái sang lớp binh địa của sư đoàn. Chắc hẳn những ngày lụt lội, 6971 và tôi đều về tiểu đội của mình nên mới có chuyện tôi đi vớt củi cho tiểu đội và được nếm thịt chuột.

Nước rút đến đâu chúng tôi khoắng nước phù sa và quét ra ngoài đến đó, từ trong nhà ra đến thềm rồi xuống sân. Nước rút, lại hết những ngày vui chơi thoải mái. Tôi lại trở về lớp binh địa.

Chuyện tổ chức lớp học binh địa thì bác 6971 đã kể rồi. Nghĩ lại thấy, hồi đó chúng tôi cũng hăng. Bác 6971 và tôi thay nhau lên lớp lý thuyết, bắt đầu từ ống nhòm, địa bàn, rồi bản đồ. Tôi còn nhớ, tôi phải lên lớp về bản đồ. Nói thực, dùng thì được chứ phải lên lớp bài bản lại là chuyện khác. Rất may chúng tôi được sư đoàn cho mượn tài liệu "Binh yếu địa chí", sách in hẳn hoi và khá dầy. Chúng tôi đã được học ở d74, đã sử dụng bản đồ khá nhiều, nhưng phải dạy, phải đọc lại, mới thấm, từ cách chia mảnh bản đồ, cách ký hiệu mảnh trên bản đồ, lưới tọa độ, độ lệch của hướng bắc bản đồ so với hướng bắc của địa bàn. Thế mà F48 là gì bây giờ lại quên sạch sẽ rồi.

Hai thằng 6971 và tôi bắt mình phải cố gắng đã đành lại còn "hành" anh em ra phết. Có 4 tiểu đội của lớp binh địa, cũng bày đặt trực ban, luân phiên các tiểu đội trưởng. Hàng ngày trung đội tập hợp thì trực ban phải điều hành trung đội. Sau khi tập hợp xong, các tiểu đội báo cáo quân số cho trực ban. Trực ban hô anh em "Nghiêm" rồi báo cáo " Báo cáo đồng chí giáo viên, trung đội có mặt đầy đủ. Xin mời đồng chí làm việc !" Sau mỗi buổi lên lớp, trực ban lại hô anh em "nghiêm" và báo cáo giáo viên cho nghỉ. – Oai quá ! Lúc đó tôi thấy chuyện đó cũng bình thường nhưng có vẻ như không phải là hai thằng tôi tự nghĩ ra cái kiểu như ở trường sỹ quan "luộc quân" như thế mà phải do đại trưởng Ngơi dạy dỗ rồi.

Thế nhưng hai thằng cũng bắt mọi người phải làm mỗi người một cái giá vẽ cơ động. Trông học viên binh địa đi vẽ trên thực địa cứ như là những sinh viên trường ĐH Mỹ Thuật. Cũng có kế hoạch giảng dạy,chia lịch học tập lý thuyết, thực hành, cũng vẽ dã ngoại, căn cứ địch này nọ, cũng tập sử dụng bản đồ ban ngày, ban đêm, bắt chước như hồi chúng tôi học ở d74. Bài vẽ phải nộp cho giáo viên, bốn thằng giáo viên chia nhau mà chấm.

Tôi đi công tác miền đông trong thời gian lớp binh địa. Vừa về đến nhà thì xảy ra vụ "nổ bom nguyên tử" do học viên lớp binh địa gây ra. Lúc đó, tôi là người ngoài cuộc lại biết rất rõ ai là thủ phạm. Nhưng tôi hoàn toàn không biết đại đội lại tìm ra một thủ phạm khác cho đến khi đọc "Nhật Ký Viết Lại" của 6971 kể lại trên Quân Sử (Trong "Nhật Ký Viết Lại" đã in thành sách không nói rõ chuyện này). Thủ phạm thực sự là Chinh. Thấy bác 6971 nói lại là Chinh đã kể là đốt liều phóng gần đống đầu đạn 175. Đống đầu đạn ở trận địa pháo Ái tử thì nhiều người biết. Tôi cũng biết đống đạn đó. Chiều hôm bị nổ, tôi được anh em đi vẽ về kể lại. Chinh nó dựng ngược một quả đạn pháo lên và gày mãi thuốc đạn mới cháy. Thuốc nổ TNT đốt cháy không phải dễ, phải đủ nóng và đủ lâu nó mới cháy và cũng cháy bình thường thôi chứ không mãnh liệt lắm. Sau khi cháy mấy đứa còn thưởng thức chán rồi mới bỏ đi. Thật tệ là, trước khi bỏ đi, có một đứa đạp đổ quả đạn pháo. Ai đạp đổ quả pháo cháy đó thì không thấy ai nói mà tôi cũng không hỏi. Pháo cháy làm cháy lan sang đám cỏ và khi mọi người đã đi một đoạn xa nó mới cháy vào đến đống đạn. Chắc hẳn trong đó có ngòi nổ (ngòi nổ pháo, trước khi bắn mới lắp vào đạn).

Bác 6971 bảo, Chinh nó đốt liều phóng là không phải đâu. Liều phóng thì chỉ xoẹt một cái là đi hết. Người đốt không cẩn thận thì cháy xém mặt mũi, lông mày, lông mi đi sạch, tóc cháy quăn vàng như châu Phi ngay. Cháy xoẹt như thế mà phun vào chỗ có ngòi nổ thì không ai còn kịp chạy nữa. Thế thì gần bốn mươi năm nay làm gì còn "Chinh Lốp".

   Hôm đại đội đi lấy củi, khoán mỗi người 30 cân củi trong một ngày. Mọi người tỏa đi khắp nơi để kiếm củi. Dễ nhất vẫn là ra sân bay Ái Tử kiếm những mảnh gỗ hay cây cọc còn xót lại. Cột điện bằng gỗ thông ngâm hắc ín ở căn cứ Ái Tử đã được cưa hết về xẻ ra làm nhà và làm hầm rồi. Những cái cột đã cưa hay chặt để lấy phần trên, bây giờ còn đoạn ngắn thì phải bổ, thậm chí phải đào.
Nhớ lại, những cây cột rất to và rất cao cũng được cưa và để nguyên cây về làm cột cho hội trường của sư đoàn. Hội trường sư đoàn làm rất to, nóc nhà cao đến bảy, tám mét, cột đen xì. Mái hội trường được lợp tôn cũng được lấy từ căn cứ Ái Tử. Một cái hội trường rất rộng, hoàng tráng. Khi khánh thành, mọi người đều rất phấn khởi. Chưa bao giờ sư đoàn có cái hội trường to như vậy. Đại hội "Chiến Sỹ Quyết Thắng" toàn sư đoàn cũng họp được đủ trong hội trường.

Đến mùa mưa lũ bắt đều có chuyện. Các thủ trưởng đang họp thì mưa rào đổ xuống, ầm ầm trên mái tôn như hàng trăm chiếc thùng rỗng cùng khua lên một lúc, không còn nghe thấy gì nữa. Thế là những đơn vị trực thuộc phải lăn ra cắt và đánh tranh. Sư đoàn cũng khoán cho đại đội tôi một số lượng tranh khá nhiều. Tranh nộp lên phải đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, chiều dài 2 mét, đánh dầy và phải là tranh già và dài. Được cái, chúng tôi đã từng đánh tranh làm nhà cho Chính Phủ rồi nên về kỹ thuật không khó. Nhưng chúng tôi ở Trà Liên rất xa nơi có cỏ tranh. Đại đội tôi lại khoán tiếp xuống chúng tôi. Cha con phải dắt díu nhau đi rất xa để cắt tranh rồi kiũ kịt gánh về.
Mái hội trường lợp tranh không còn bị mưa làm ồn nữa mà lại mát. Những tưởng thế là xong. Ai ngờ, một ngày bão đến làm tốc hết mái. Lại phải đánh tranh bổ xung. Rồi ai đó nghĩ ra việc chống tốc mái bằng lưới chống B40. Vậy là phải đi kiếm lưới nộp lên. Tất cả những việc đó tiểu đoàn công binh phải làm. Chúng tôi chỉ là những người đóng góp nguyên vật liệu.

Trở lại chuyện lấy củi. Riêng tiểu đội tôi, cứ việc cưa đám gỗ mà thằng Thìn và tôi vớt hôm lũ cũng được vài lần cho cả tiểu đội. Thằng Thìn và tôi không phải làm gì. Kệ chúng nó làm thế nào với nhà bếp thì làm. Nhà bếp mà kêu củi to quá thì chúng nó phải bổ ra. Nếu lựa đến lúc thằng anh nuôi nào dễ tính mà nộp ào đi thì thoát. Hai thằng tôi qua đò sang chợ Thuận chơi.

Trước khi về c20, thằng Thìn là lính 12 ly 7 của tiểu đoàn 1. Ở khu miềm đông ác liệt này hồi đó nó đã từng lăn lóc, may mà không dính miểng nào.Nhưng nó lại dính bom bi ở Quất Xá khi đã về đại đội tôi. Nó dính đúng một viên. Viên bi xuyên vào đùi nó từ phía sau. Nó cũng chảng phải đi viện hay băng bó gì và vẫn làm việc bình thường.

Rồi một hôm chúng tôi đang tắm ở sông Thạch Hãn (ở làng Trà). Thằng Thìn thấy ngứa ngứa ở chân nên thò tay gãi. Nó gãi bật cả da và gẩy ra được viên bi ở phía trước đùi để lại một lỗ hình cầu đúng khuôn của viên bi. Không chảy máu chút nào vì cái lỗ đó đều có da non phủ kín hết rồi. Bi xuyên vào đùi nó ở phía sau, mà nó lại gẩy được bi ra ở phía trước. Đùi thằng Thìn là cái đùi to nhất đại đội tôi, thế mà viên bi xuyên gần qua. Không biết có phải vậy không, hay là cơ thể thấy vật lạ nên đẩy dần ra ngoài ? Về sau này thằng thìn có lúc cân nặng trên 90 ký, rất to con và cao. Nó bị bị tiểu đường, giảm ăn chất bột đi nên thụt cân xuống còn 87 ký.

Hai thằng đi một vòng qua chợ. Cái chợ Thuận này nằm ở ngã ba đường ủa một con đường đất. Một nhánh chạy ra bờ sông Thạch hãn rồi bám theo bờ sông. Hai nhánh còn lại đều chạy vào đường 560 chạy từ thị xã Quảng Trị về Cửa Việt. Chợ Thuận nằm giã hai thôn, thôn Phúc lộc và thôn Trúc Thuận. Không biết trước kia như thế nào nhưng vào năm 73, cái chợ chỉ toàn những lều lán lụp xụp. Hàng hóa cũng rất nghèo nàn nhưng cũng có thịt, cá, rau, quả, củ. Nhiều nhất là ruốc khô, cá khô.

Thằng Thìn và tôi dừng lại trước một lều bán tạp hóa, rất nhiều thứ lặt vặt. Thằng Thìn cúi xuống nhặt một bao thuốc lá. Bây giờ tôi không nhớ là thuốc lá gì vì hồi đó tôi không hút thuốc. Một loại tuốc lá gia công, đóng bao, có hình vẽ đơn giản bên ngoài (in lưới). Không biết có phải thuốc "Con Gà" không? Bà già rất đắt hàng và bán cũng rất đắt. Nhân lúc mấy người khác vào mua hàng, Thìn nhấc lên đặt xuống mấy bao thuốc rồi cuối cùng mới hỏi giá và trả tiền một bao. Lúc đi khỏi hàng bà già thăng Thìn móc hai bên túi quần cho tôi xem. Mỗi bên 2 bao. Thằng này nhanh thật. Tôi hỏi:

- Ông lấy của người ta à ?
Thằng Thìn vừa cười vừa trả lời:
- Lấy của bà bóp mà mày.

Tôi mua một cân thịt lơn mông, giá 7 đồng rồi hai thằng quay về Trà Liên.

  Đang ở lớp binh địa thì tôi nhận nhiệm vụ đi tuyến miền đông. Tôi phải vẽ sơ đồ toàn tuyến miền đông, từ Bích La, An Lộng, Long Quang, Lệ Xuyên, Thanh Hội, Tám làng, Tám cát,. . . Lâu ngày quá không nhớ nổi tên các chốt của e101 mà tôi đã lên từng chốt để vẽ sơ đồ sao cho liền tuyến giữa ta và địch. Các thông tin để vẽ đều do anh em ở các chốt cung cấp. Lúc bấy giờ đã sau ngừng bắn được nửa năm rồi nên hai bên không còn giao lưu ở nhà liên hợp như ban đầu nữa. Bên nào biết bên đó và giữ vững phần đất của mình. Có những vùng lõm, chốt của ta nằm sâu trong đất của địch và ngược lại. Bấy giờ việc thương thảo giữa hai bên để đổi những vùng lõm đã giải quyết xong. Toàn tuyến tuy "cài răng lược" nhưng bên nào ra bên ấy. Nhà liên hợp, lúc đầu còn là nơi gặp gỡ của hai bên. Bên ta thì phần lớn đưa xê viên lên đó, còn bên địch lại đưa sỹ quan tâm lý chiến lên. Chủ yếu là tuyên truyền lẫn nhau, bên nào nói hay về bên đó và tìm điểm dở của nhau để nói qua nói lại, so sánh chế độ và kêu gọi về với chính nghĩa Cách Mạng hay "hồi chánh" về với "chính nghĩa Quốc Gia".

Lúc mới ngừng bắn, trinh sát chúng tôi còn phải học tất cả các loại quân hàm, quân hiệu binh chủng của địch từ cấp tiểu đội đến cấp trung đoàn để đi tuyến nắm địch, . . . Loa tuyên truyền của hai bên chĩa về phía nhau, ngày đêm nói xa xả để tuyên truyền. Cả hai bên đều lấy tinh thần dân tộc ra để tuyên truyền.

Tôi nhớ, có một khẩu hiệu rất lớn nằm ở đầu cầu Quảng Trị, ở bờ bên ta, quay dòng chữ sang phía địch ghi "Tình cốt nhục, nghĩa đồng bào, . . .". Loa của mình ở bờ bắc cầu Quảng Trị, công suất lớn, chĩa sang bờ bên kia, suốt ngày phát Đài Tiếng nói Việt Nam, chương trình ca nhạc, thời sự. Thỉnh thoảng còn có những bài kêu gọi, nhắm vào nỗi xa quê hương hay xa mẹ già, vợ dại, con thơ, . . . Tôi luồn sâu ở Hải Lăng, gần nhà thờ La Vang bên kia sông, sau lưng địch khá xa mà sáng Chủ Nhật còn được nghe ca nhạc theo yêu cầu (chuyện này tôi đã kể trong chuyện "Một Chuyến Luồn Sâu Xè Xè").

Chuyến đi miền đông của tôi chỉ để lại một ấn tượng, thật là khó quên. Đó là bọ chét. Khi ở làng Tám (Tám Làng), chúng tôi đi vẽ ban ngày, tối về ở nhà dân. Nhà ở làng Tám cũng như những nhà dân chài ở vùng khác, rất nhỏ và sơ sài. Nền nhà với ngoài sân hay ngoài làng, ngoài bãi như nhau cả. Toàn cát là cát. Đi trên cát lẫn với lá phi lao rụng và xác vỏ hến, vỏ ốc li ti. Nếu trời không nắng gắt thì tốt nhất là đeo dép vào xanh tuya mà đi đất. Từng bước đi trên cát, sụt xuống, rất mất sức. Giữa nắng mà đi trên cát thì rất bỏng chân, ánh nắng lấp lóa, chói chang, rất nhức mắt.

Đêm đầu, mãi chúng tôi không ngủ được vì bọ chét cắn nhoay nhoáy. Nhói, nhói, hết con đốt chỗ này, lại con đốt chỗ khác. Bọ chét từ dưới đất búng lên rất cao, bám vào quần áo và vào võng, rồi luồn đi khắp nơi mà đốt. Hai thằng trinh sát chưa quen nên không biết làm cách nào mà ngủ được. Chẳng thấy dân kêu gì. Họ vẫn nằm trên giường và ngủ đều. Cuối cùng, hai thằng nghĩ ra trò mắc võng tít lên sát nóc nhà, rồi giũ sạch võng, nhảy xuống đất. Cởi hết đồ rồi vừa nhảy tưng tưng cho bọ chét nó chạy đi vừa giũ sạch lấy chiếc quần đùi, mặc vội vào rồi trèo ngay lên võng. Còn vài con nấp đâu đó thì rình cho nó cắn rồi đập chết hết. Mãi, chúng tôi mới ngủ được.

Ở Trà Liên, một lần tôi còn quay lại hai căn cứ Cồn Tiên và Dốc Miếu để làm lại binh yếu địa chí ở đó. Lâu ngày quá không còn nhớ lại bao nhiêu. Để tôi hồi tưởng lại, sẽ kể về hai cái căn cứ quan trọng trong hệ thống hàng rào điện tử McNamara của Mỹ tại khu phi quân sự DMZ.

   Đêm 27/1/1973, trước giờ ngừng bắn, địch bắn pháo rất nhiều khu vực các chốt của ta dọc theo bờ biển. Trong khi đó, xe tăng của chúng bò theo mép nước xâm nhập vào tận cảng Cửa Việt. Sau ngày ngừng bắn rồi, ta mới "vi phạm hiệp định" và đánh tan thiết đoàn xe tăng này và đẩy chúng lui trở về tám Cát. Bây giờ, sát mép nước ở tám cát, ta dựng lên một hàng rào gồm rất nhiều mìn chống tăng. Đặc biệt là loại hàng rào chưa từng có. Đó là các tấm ghi sân bay chôn sâu dưới đất dầy dặc lớp lớp theo chiều sâu, chĩa tua tủa về phía địch để chống xe tăng. Không biết hiệu quả chống tăng thế nào nhưng trông thật hùng vĩ. Tôi nhìn cái hàng rào này và nghĩ chắc cũng chẳng ăn thua vì xe tăng rất nặng, nó có thể đè lên ghi và bẻ gục tấm ghi. Tuy nhiên tăng không thể tiến nhanh được dễ bị vướng phải mìn và bị các loại B bắn tỉa ngon.

Chuyến đi miền đông của tôi chỉ còn đọng lại hai thứ là bọ chét và hàng rào chống tăng ở mép nước trên bờ biển. Một thứ hàng rào có một không hai, không theo một bài vở nào. Bài cắm cọc dưới lòng sông thời Ngô Quền hay thời nhà Trần là cắm dưới lòng sông để chống tàu thuyền. Cọc ghi sân bay để chống tàu bò chắc chưa bao giờ và cũng không có ở đâu.

Không nhớ là năm 73 tôi phải làm binh yếu địa chí hai căn cứ Dốc Miếu và Cồn Tiên vào lúc nào. Căn cứ Dốc Miếu tôi cũng không còn nhớ được bao nhiêu. Còn Cồn Tiên thì thật là Hoành tráng, Đây là hai căn cứ chắn "Cộng sản Bắc Việt" tràn từ phía bên kia giới tuyến sang và là sáng kiến của bộ trưởng quốc phòng McNamara. Rất nhiều tiền của đổ vào cái lá chắn này. Tất cả những thiết bị điện tử quân sự mới nhất được trang bị cho hai căn cứ. Một lá chắn được mện danh là "Hàng rào điện tử McNamara". Hai căn cứ này cũng được trang bị hỏa lực rất mạnh lực lượng lớn lính Mỹ và lính Việt. Tôi xin trích lại một đoạn trong trang web "Văn Hóa Quảng Trị" dưới đây:
"Căn cứ quân sự Dốc Miếu và hàng rào điện tử Mc Namara

Căn cứ quân sự Dốc Miếu nằm ở phía Đông Quốc lộ 1A thuộc địa phận thôn Gia Phong cách thị trấn Gio Linh 3 km về phía Bắc.

Dốc Miếu là đồi đất đỏ bazan, nơi đây, từ năm 1947 thực dân Pháp đã đóng chốt quân sự để án ngữ Quốc lộ 1A, được gọi là đồn Ba Dốc.

Sau năm 1954, đặc biệt từ khi đế quốc Mỹ đổ quân vào miền Nam, địch đã tập trung xây dựng Dốc Miếu thành một căn cứ quân sự lớn nhất vùng Gio Linh với tổng chi phí hơn 800 triệu USD.

Trong những năm 1967 – 1970, để đối phó với tình hình bất lợi cho chúng và nuôi hy vọng có thể ngăn chặn mọi sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, đế quốc Mỹ đã xây dựng phòng tuyến hàng rào điện tử McNamara (mang tên Bộ trưởng bộ Quốc phòng Mỹ).

Trên phòng tuyến này, địch đã bố trí nhiều căn cứ quân sự mạnh từ bờ biển thuộc thôn 8 Gio Hải lên đến đồi 51, đồi 28, Bến Ngư, Dốc Sỏi, Dốc Miếu, Cồn Tiên cùng một loạt chốt phụ làm thành hành lang ngăn chặn từ Cồn Tiên kéo qua căn cứ Bái Sơn, Đông Tròn, nối với Tân Lâm, Đầu Mầu và phòng tuyến bảo vệ Đường 9 lên biên giới Việt Lào.

Tuy nhiên, do điều kiện chiến trường lúc đó mà Mỹ chỉ xây dựng hàng rào quy mô lớn từ bờ biển lên căn cứ 31 với chiều dài trên 3 km để bảo vệ cảng Cửa Việt.

Hàng rào điện tử McNamara gồm 12 lớp kẽm gai chồng nhau cao 3m, trên mặt hàng rào cài mìn tự động, phía dưới hàng rào là bãi mìn dày đặc rộng hàng trăm mét. Ngoài ra, địch còn rải hệ thống (cây nhiệt đới) là loại phương tiện thông tin nhạy bén nhằm phát hiện mọi vi phạm trong phạm vi phòng tuyến. Ở các cứ điểm có hệ thống đèn pha cực mạnh để kiểm soát chống mọi sự xâm nhập vào ban đêm. Cùng với hệ thống (mắt thần điện tử) là đội ngũ binh lính (hồn ma biên giới) - bọn biệt kích được huấn luyện công phu, thiện nghệ, thường xuyên len lỏi vào hành lang của ta để chống phá mọi hoạt động của du kích.

Dốc Miếu được coi là cứ điểm quan trọng nhất của phòng tuyến McNamara. Ở đây địch xây dựng những hệ thống hầm nhà ván, hệ thống lô cốt di động bằng bê tông, có trận địa pháo mặt đất thường bắn phá ra bờ Bắc sông Bến Hải, có trận địa phòng không 37, trung tâm điều khiển bảo vệ hàng rào, chi đội thiết giáp tuần tra cùng nhiều đại đội hỗn hợp Mỹ - ngụy. Xung quanh căn cứ, ngoài các hàng rào kẽm gai ken dày bom mìn là hệ thống máy móc báo động chống xâm nhập.

Tuy là một căn cứ hiện đại nhưng hàng rào điện tử này đã bị dần dần vô hiệu hóa bởi những hoạt động của ta. Trước hết, đó là sự tấn công phá hủy từng đoạn để đưa lực lượng và vũ khí vào chiến trường. Ở Trung Sơn, Trung Hải, du kích ta ngày đêm khống chế không cho địch tự do hoạt động bằng cách vây ép bắn tỉa...

Trong những ngày đầu quân ta nổ súng trên chiến trường Quảng Trị năm 1972, du kích Trung Giang, Trung Hải, Trung Sơn đã vây chặt và bắn hàng trăm quả đạn DKB, A2 và bom phóng vào căn cứ trong suốt 3 ngày, buộc địch phải tháo chạy vào đêm 31 tháng 3, kéo theo sự tan rã của căn cứ Quán Ngang."  

   Đại đội lại cử hai đứa đi Dốc Miếu và Cồn Tiên để làm lại toàn bộ sơ đồ. Hai thằng đi bộ qua Đông Hà rồi đi tiếp dọc theo đường 1 để đến Dốc Miếu. Nhìn sang hai bên đường, đất Gio linh là một vùng cát trắng mênh mông, nhất là về phía biển. Có thể nhìn thấy trên bản đồ, tất cả các làng của Gio Linh ở gần giới tuyến đều ghi là đã bị phá hủy. Địch dồn 13 000 dân ở đây về Cam Lộ. Tháng 3/1972 ta đã đánh pháo dữ dội và tiến đánh Dốc Miếu làm căn cứ bị phá hủy một phần. Sau ngày ngừng bắn, dân trở về làm lại nhà cửa thì vật liệu đều khai thác từ các căn cứ. Trong đó Dốc Miếu là gần nhất nên bị đào bới nhiều nhất kể từ bao cát, cọc hàng rào, các tấm ghi làm trần của lô cốt, . . . Tôi không thể tưởng tượng được tại sao dân mình lại có thể vượt qua được rất nhiều loại mìn được chôn và cài đặt bài bản ở Dốc Miếu. Tất cả hầu như không còn gì ngoại trừ lô cốt xây từ thời Pháp và xác những chiếc tăng và pháo. Lúc đó chưa có việc khai thác kim loại để bán ve chai và người ta chỉ kiếm vật liệu để làm nhà hay làm vật dụng khác. Chắc hẳn chiếc xe tăng còn sót lại ở Dốc Miếu đã có lệnh cấm dỡ và được bảo vệ nên mới thành di tích ở đây ngày hôm nay. Cũng vì thế mà căn cứ Dốc miếu tôi không còn nhớ được bao nhiêu ngoài ấn tượng về sự liều lĩnh của dân. Âu cũng là bấn quá phải liều ! Hai căn cứ Dốc Miếu và Cồn Tiên là hai căn cứ độc lập và nằm khá xa nhau và nằm trong hệ thống hàng rào điện tử McNamara. Đó là một hệ thống các căn cứ chạy suốt từ bờ biển qua Dốc Miếu, Cồn Tiên, lên đến Tân Lâm, Khe Sanh, Lao Bảo,. . . Không hiểu sao, trong bài viết của trang web "Văn Hóa Quảng Trị" lại nói rằng Dốc Miếu là căn cứ lớn nhất. Có tài liệu khác lại nói Cồn Tiên và Dốc Miếu là một căn cứ.

Tôi chẳng biết mình đánh giá có đúng không nhưng trực tiếp bằng mắt thấy căn cứ pháo binh Cồn Tiên của lính thủy đánh bộ Mỹ đồ sộ hơn Dốc Miếu. Khoảng 500 lính thủy đánh bộ Mỹ thường trực ở đây, không kể lính ngụy và những lúc tập trung lực lượng trong những trận càn lớn. Khi tới Cồn Tiên, cảm giác đầu tiên của chúng tôi là lạc vào một vùng đất đỏ hoang vu. Một vùng đất rất rộng, dốc thoai thoải ra xung quanh với đỉnh cao 158 ở trung tâm. Rất nhiều lô cốt, hầm chỉ huy được dựng rất kiên cố. Nóc hầm và lô cốt đều lót đà sắt và ghi sân bay, bên trên chất bao cát rất dầy, ít nhất cũng khoảng một mét, có chỗ dầy đến hai mét. Nhìn cái lô cốt thấy ngán ngẩm vì muốn đánh sập chắc phải cần đến bom. Thế mà Cồn Tiên cũng là một trong những nơi khốc liệt đối với lính Mỹ. Pháo từ bờ bắc hàng ngày giã vào Cồn Tiên, có ngày lên đến 3000 quả (phía Mỹ đáp trả bờ bắc có ngày lên đên 20 000 quả).

Theo thiết kế chuẩn của lớp ngăn chặn ở Cồn Tiên có độ sâu 600 mét, đặc biệt có chỗ lên đến 1000 mét. Được nghe kể, cứ sau mỗi lần hàng rào bị pháo ta phá hủy thì ngày hôm sau lính Mỹ làm lại. Một số tài liệu nói có 12 lớp hàng rào mỗi lớp cao 3 mét. Có lẽ gần đúng như vậy nhưng không phải hoàn toàn đúng. Thường chỉ có hàng rào bùng nhùng "ba" thì cao khoảng 2 mét, hàng rào bùng nhùng "năm" cao gần ba mét. Các hàng rào khác như hàng rào mái nhà, hàng rào cũi lợn, hàng rào đơn cũng thấp như bình thường. Có thể các lớp hàng rào được bổ xung liên tục sau thiết kế ban đầu. Tôi nhớ, hai thằng đếm đi đêm lại số lớp hàng rào nhiều nhất mãi vẵn nhầm. Đếm được trên hai chục lớp vẫn chư hết. Tôi nói : Thôi cứ viết vào báo cáo là ba chục lớp ở chỗ này đi. Quả thật có máu nghề nghiệp trinh sát đến đâu mà nhìn thấy đoạn này thì cũng "xỉu". Một đêm, dưới ánh đèn pha xenon và mìn tự động dầy đặc, cùng với mìn điều khiển chắc cũng chỉ có thể vượt qua được mười lớp. Rồi để sáng hôm sau nó ra tóm sống hay liều chết bắn vài phát AK chờ pháo nó giã lên đầu là xong.

Từ năm 2006, Tỉnh Quảng Trị đã huy động lực lượng tìm mộ 173 chiến sỹ đặc công, sau một đêm đã bị mắc kẹt lại và hy sinh. Cho đến bây giờ mới chỉ tìm được 6 hay 7 mộ.

Cứ sau nhiều lớp hàng rào lẫn mìn lại đến một "vành đai" trống khá rộng. Chắc chắn dưới đó chôn nhiều mìn điều khiển bằng điện. Hệ thống điện tử để phát hiện xâm nhập gồm rất nhiều thứ: Đèn pha xenon, Cảm biến phát hiện chấn động từ đất, cảm biến âm thanh, cảm biến hồng ngoại, thiết bị quan sát ban đêm bằng ra đa AN/PPS-5, AN/PP-6, Thiết bị cảm biến cân bằng áp suất, . . . hễ phát hiện được thì địch bắn pháo ra hay đánh mìn điện. Ban ngày, xe tăng và thiết giáp chạy trên vành đai trống để tuần tra và kiểm tra các lớp rào bảo vệ. Chúng tôi vẫn còn nhìn rõ vệt đường của xe chạy nhiều trên các vành đai này. Hai thằng tôi không đứa nào dại gì đi thử trên những chỗ trống đó mà chỉ đứng ở lô cốt gần đó, tia ống nhòm ra quan sát.

Ở Cồn Tiên vẫn còn nhiều lô cốt và hầm chỉ huy nguyên vẹn nên tôi có dịp vẽ thiết đồ một vài cái tiêu biểu. Bản đồ dưới đây cho thấy căn cứ pháo binh của lính thủy đánh bộ Mỹ rất rộng. Chỉ cần tính từ đường bình độ 100 trở lên, mỗi chiều đã là 3 cây số. Lính Mỹ gọi căn cứ này là "Đồi của các thiên thần"(Hill of Angles).

  Trong năm 1967, căn cứ Cồn Tiên liên tục bị pháo của ta trần cho tơi bời. Lúc đó tôi tôi mới 15 tuổi nhưng đã nghe ba địa danh nổi tiếng là Cồn Tiên, Dốc Miếu ở bên kia giới tuyến và Vĩnh Linh ở bờ bắc. Đài của ta luôn đưa tin thời sự về các nơi này. Đó là những cuộc đấu pháo giữa hai bên, rất quyết liệt.

Năm 1971, Cồn Tiên được bàn giao cho quân ngụy. 31/3/1972, ta đã đánh chiếm được hai căn cứ Cồn Tiên và Dốc Miếu trên đường giải phóng Đông Hà và Quảng Trị.

Khi tôi đến đây đã là hơn một năm sau rồi nên những gì đã xảy ra chỉ nghe qua báo chí và đài mà chủ yếu là đài của ta. Đọc bài báo của Al Hemingway [1] trên báo Time mới thấy phía Mỹ mô tả sự ác liệt của các trận đánh ở Cồn Tiên. Tôi xin tóm tắt nội dung các bài viết để anh em cùng đọc.

"ConThien dịch thoáng từ tiếng Việt sang tiếng Anh là "nơi ở của các thiên thần". Nhưng bất cứ ai đã từng chiến đấu tại Cồn Tiên sẽ cho bạn biết không có thiên thần cư ngụ ở đó. Đó là một ngọn đồi đất đỏ có đỉnh cao 158 mét. Đại tá Richard B. Smith, chỉ huy lữ 9 thủy quân lục chiến nhận xét: Nếu đối phương chiếm được Cồn Tiên, họ sẽ nhìn xuống Đông Hà như nhìn xuống cổ họng của chúng tôi.
Tờ mờ sáng ngày 05/8/1967, hai tiểu đoàn cộng sản đã tấn công Cồn Tiên. Lần đầu tiên trong chiến tranh, quân Bắc Việt sử dụng cả súng phun lửa. Các tiểu đoàn 1 và 4 của thủy quân lục chiến đã chiến đấu cận chiến (hand – to – hand) với cộng quân. Đến khi trời sáng họ mới đẩy được địch ra khỏi căn cứ. Nhưng cái giá phải trả là rất cao: 44 thủy quân lục chiến bị giết và 110 người khác bị thương.

Thủy quân lục chiến tiến hành một loạt các hành động để đẩy quân Bắc Việt ra khỏi khu vực căn cứ pháo binh quan trọng nhất. 700 loạt đạn pháo 105mm và 155mm nã xuống các công sự ở gần làng Phú An. Máy bay thả bom 750 và 1000 pound, tràn ngập một thứ chất lỏng napalm. Các lữ 9 và 26 thủy quân lục chiến đã chiến đấu với quân Bắc Việt trong ánh chớp của pháo gần khu phi quân sự (DMZ).

Thủy quân lục chiến đã bị chặt nhỏ. Một số được xe tăng M48 hỗ trợ, số khác phải chiến đấu giáp lá cà với quân Bắc Việt. Tính đến cuối tháng, 142 thủy quân lục chiến bị chết và 896 bị thương.

Trong khi đó, Hà nội quyết định dùng pháo hạng nặng làm cho Cồn Tiên rơi vào tình trạng hỗn loạn để họ "chơi trò mèo vờn chuột" suốt năm 1967. Thời gian này được lính tráng ở Cồn Tiên gọi là "bị quay trong thùng" hay là "máy xay thịt". Vùng DMZ trở thành "vùng thủy quân lục chiến chết" ("Dead Marine Zone")

Tồi tệ nhất là vào ngày 02/7/1967. Trong một trận càn gọi là Buffalo, Đại đội A và đại đội B của tiểu đoàn 1, lữ 9 thủy quân lục chiến càn một khu vực phía bắc Cồn Tiên dọc theo đường 561. Đại đội B bị quân Bắc Việt chia cắt ra từng mảnh. Khi lực lượng cứu trợ đến nơi, một trung sỹ của đại đội B báo cáo: "Thưa ngài, đây là đại đội, hay là những gì còn lại". Chỉ còn lại 27 lính Thủy quân lục chiến không bị thương vong."

Vào năm 1967, lực lượng đặc công của ta cũng đã luồn qua lớp lớp hàng rào của Cồn Tiên để tập kích vào căn cứ. Trong đó có một lần 173 chiến sỹ đã hy sinh. Cho đến nay vẫn chưa có một tài liệu xác đáng nào nói về trận đánh đó. Dưới đây tôi xin trích lại một bài viết trên "Xa Lộ Tin Tức" với nhan đề:

"Cuộc tìm kiếm 173 chiến sỹ đặc công hy sinh tại chân đồi Cồn Tiên (Quảng Trị)"
"Việc tìm kiếm kể trên đã được tiến hành trước đó, vào ngày 20/6/2006, theo một bản thông báo của Hội Cựu chiến binh Mỹ cung cấp cho phía Việt Nam về vị trí chôn 173 thi hài quân giải phóng. Họ hy sinh trong trận tấn công vào cứ điểm đồi Cồn Tiên năm 1967.
Đại uý Nguyễn Đức Ti cho biết thêm, đến nay chưa tìm thấy bất kỳ tư liệu nào nói đến sự hy sinh của 173 chiến sĩ đặc công trong trận huyết chiến với kẻ thù năm đó tại căn cứ đồi Cồn Tiên. Tuy nhiên, theo lời kể của người dân địa phương, cũng như sự phân tích của các nhà Quân sự, thì cuối năm 1967 là thời điểm chúng ta ráo riết chuẩn bị cho Chiến dịch Mậu Thân 1968, nhằm giải phóng các tỉnh miền Trung.
Do vậy, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu bấy giờ là phải chọc thủng bằng được tuyến hàng rào điện tử McNamara. Đồng thời làm được điều đó chỉ có thể là Bộ đội đặc công.
Sau khi đột nhập qua khỏi "con mắt thần" của Mỹ - quân đội Sài Gòn (tuyến hàng rào điện tử McNamara), lực lượng này đã bí mật vây ráp căn cứ đồi Cồn Tiên. Theo một vài nhân chứng là dân quân du kích xã Hải Thái làm nhiệm vụ dẫn đường lúc đó hiện còn sống kể lại, căn cứ đồi Cồn Tiên năm 1967 được Mỹ - quân đội Sài Gòn bố trí lực lượng canh gác rất nghiêm ngặt, cùng với 9 lớp hàng rào gai kẽm bùng nhùng vây kín quanh chân đồi.
Trước lúc tiến đánh, các chiến sĩ trinh sát đặc công đã đột nhập vào sát chân đồi, vẽ lại toàn bộ sơ đồ và đếm được số lớp hàng rào gai kẽm bùng nhùng kể trên. Tuy nhiên, công tác trinh sát dường như bị bại lộ, phía địch đã bí mật giăng thêm 7 lớp hàng rào.
Do vậy, kế hoạch của ta đến 4h sáng là cắt xong 9 lớp hàng rào, thành ra đến lúc đó, hàng rào vẫn còn nhiều. Trong tình huống đó, phía ta rút không được, dùng cây khô làm chỗ đứng chân bắc ngang qua hàng rào, cảm tử tiến lên.
Địch đã lợi dụng tình huống này, nhả đạn từ đỉnh đồi xuống, đồng thời gọi pháo từ các căn cứ của chúng như đồi A1 - Quán Ngang và đồi Mới, xã Gio Bình (Gio Linh) nã đạn vào vùng chân đồi. Do thế lực không cân bằng, các cán bộ, chiến sĩ đặc công của ta đã anh dũng hy sinh."

Những trận đánh rất ác liệt ở Cồn Tiên mà phía ta là bên tấn công. Thương vong chắc rất lớn. Chiến sỹ ta đã chiến đấu với lòng dũng cảm và chí khí kiên cường ở đây. Họ thật xứng đáng là "Các Thiên Thần".  

  Còn ít ngày nữa là được hai năm trong quân ngũ. Thế mà mới chỉ có hai năm. Hai năm biết bao nhiêu là sự, đi biết bao nhiêu là đường đất, ở biết bao nhiêu nơi chốn. Biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn, bao nhiêu cười và bao nhiêu lần rơi lệ. Đời lính cứ xuyên qua ngày tháng, mải miết đi. Mấy khi ngoái lại nhìn những con đường dài đã đi qua, mấy khi nhìn thật xa về phía trước mà thấy ngày về. Ngày trở về, phải là ngày mà cuộc chiến này đã thắng. Biết là năm năm hay mười năm, . . . Thường thì chẳng khi nào hỏi mà cũng không bao giờ có câu trả lời. Nhưng mà ngày đó sẽ đến. Bất luận là lúc đó như thế nào mỗi người lính đều góp sức thúc đẩy nó đến gần hơn. Có thể biết và không biết mình có còn đến ngày đó hay không - Một triết lý tự nhiên đối với mỗi người lính - không lo lắng, không đợi chờ.

Đại đội tôi có 5 đứa cùng nhập ngũ một ngày – ngày 6/9/1971. TraLienTay hết năm 2 ĐHSP, Hà Văn Tất hết năm 2 ĐHY, Trần Văn Việt hết năm1 ĐHY. SauChinBayMot và tôi vừa hết năm một ĐHTH. Hai thằng học cùng lớp và theo nhau suốt từ ngày nhập ngũ đến nay, chuyển qua nhiều đơn vị khác nhau nhưng lúc nào cũng có đôi. Năm thằng tụ lại c20 từ tháng 1/1972 đến giờ. TraLiênTay có sáng kiến họp nhóm 6/9/71 để kỷ niệm hai năm. Ban ngày phải tập tành. TraLienTay là bê trưởng, Tất và Việt là y tá của đại đội, SauChinBayMot và tôi là a trưởng, không thể bỏ anh em để tổ chức kỷ niệm riêng được. Chúng tôi chọn buổi tối, sau giờ điểm danh để gặp nhau. Tôi đưa ra ý kiến là họp mặt trên thuyền thả trôi trên sông Thạch Hãn cho nó bí mật và lãng mạn. Tôi được phân công lo "món" thuyền. TraLienTay thì lo viết giấy mời 3 vị khách. Đó là Hùng "côn", An "đen" và anh Thắng "quản". Tất cả là 8 "nhân khẩu". Đồ liên hoan thì mỗi người đóng góp một ít, ai có gì góp nấy, chỉ là đồ ngọt, nhẹ nhàng.

Giữa hai thôn Trà Liên Tây và Trà Liên Đông có một bến đò. Người chèo đò là cha con út Túy ở gần nhà tiểu đội 2 của tôi. Tôi đã nói chuyện với ông già để mượn thuyền và ông già vui vẻ cho mượn ngay vì ông rất biết tôi. Mỗi lần có dịp qua sông bao giờ tôi cũng chèo đò thay cho ông hay thay cho út Túy. Lần đầu, ông già phải dạy tôi từng động tác "bát", "cạy" và chỉ một lần qua sông là tôi đã biết cách chèo thuyền. Nhiều lần qua sông, tay chèo tôi đã vững nên ông già rất yên tâm. Ông già có hai con thuyền, một con thuyền bằng gỗ cũ ông vẫn chở bà con sang sông bao nhiêu năm nay. Sau ngày ngừng bắn, ông kiếm được ở Ái Tử một con thuyền bằng đuya-ra sơn màu cứt ngựa. Con thuyền này có vẻ như là một chiếc xuồng máy của lính Mỹ nhưng không còn máy gắn trên đó. Được cái nó cũng rất nhẹ và lướt tốt.

Cái giấy mời mà TraLienTay làm rất cầu kỳ, bay bướm. Ngày giờ mời khách còn được cho vào một câu đố có tính chất toán học. Chả gì cũng là lính sinh viên mà lỵ. Chuyện này bác 6971 đã kể trong chuyện "Nhật Ký Viết Lại".

Sau giờ điểm danh, mọi người đi ngủ cả. 5 thằng 6/9/71 và anh Thắng "quản" đã có mặt ở bến đò. Trăng đã mọc ở phía bên kia bờ sông. Đêm nay là một đêm gió mát nhưng nhiều mây. Tuy vậy nhờ có trăng nên đêm khá sáng. Chúng tôi có thể nhìn ra rất xa. Làng Trà Liên Đông đen thẫm những rặng tre in hằn lên trên nền trời bàng bạc. Mặt sông cũng sáng mờ mờ, lấp lóa sóng nước. Nhìn về phía Trà Liên Tây, ánh trăng muộn đang lên nhuộm một màu xám mờ ảo. Làng xóm đã chìm vào giấc ngủ, không một tiếng gà gáy hay tiếng chó sủa. Gió hiu hiu thồi, những cây tre đung đưa, khe khẽ phát ra tiếng kêu kẽo kẹt làm cho cảnh đêm càng thêm thanh vắng.

Chờ mãi không thấy Hùng và An đến. Mọi người quay sang phía TraLiênTay lo lắng sợ câu đố toán có làm cho hai thằng đó tính toán sai ngày giờ không. Bác TraLienTay cứ giãi bày mãi là cái bài toán ấy cho nó vui thôi chứ ai mà chằng giải ra được. Chờ lâu vẫn không thấy khách, mọi người mới trèo lên thuyền. Tôi đẩy con thuyền ra khỏi bờ rồi nhảy lên sau cùng. Tôi chèo thuyền ra đến giữa sông và thả cho thuyền trôi tự do. Đã qua mùa lũ, nước sông Thạch Hãn chỉ chảy chầm chậm.

Cũng dòng sông này, một năm trước đây đã dậy sóng ngày đêm bởi pháo kích, nhấp nhoáng lửa, ùng oàng đạn nổ và đỏ ngầu mặt nước. Doanh, bạn tôi đã bị trúng pháo đúng cái đêm 16/9 năm ngoái khi vượt từ bên Thành sang bờ Nhan Biều. Bạn đã trôi đi đâu ? Bạn về với biển ? Hay bạn nằm lại đâu đó dưới đáy sông ?. . . chơi vơi ! Mẹ đã đi tìm bạn. Nắm đất ven bờ, nơi Thành Cổ, thấm máu, giờ trở thành ngôi mộ - Trịnh Thúc Doanh.

  Con thuyền lãng đãng trôi trên dòng Thạch Hãn. Mọi người ôn lại những kỷ niệm từ ngày nhập ngũ. Rồi chuyện Thành Cổ, Tích Tường Như lệ, Nhan Biều, Xuân An, Ái Tử, cao điểm 108, cao điểm 20, Phương Thúy, Tanh Lê, Tân Kim, Quất Xá. Thôi thì Nhã Nam, Yên Thế, Việt Yên Hà Bắc đến Kỳ Sơn, Kỳ Anh Hà Tĩnh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Lệ Thủy, Bãi Hà, Bến Hải, . . . Tranh nhau nói, tưởng như không bao giờ cho hết.

Khi thuyền đã trôi đến quá thôn Trà Liên đến khúc sông rộng đã quá nửa đường tới ngã ba sông Cam Lộ (Hiếu Giang), mọi người mới bất chợt bừng tỉnh. Tôi vội chèo thuyền, ngược dòng một đoạn rất dài. Mọi người vẫn tiếp tục chuyện trò rôm rả. Không ai để ý xem con thuyền đã ngược đến đâu.

Rồi lại bất chợt, ai đó giật mình tỉnh giấc mộng mà kêu lên rằng: "Chết rồi ! Có khi gần đến An Mô rồi ! Chỉ tẹo nữa thôi là đến vùng địch đấy !" Ai nấy đều hú vía, thót tim. Nếu tôi quá tay chèo tí nữa thì xong. Địch mà thấy thuyền đi giữa sông thì trên bờ chúng nó choang chết ngay tắp lự. Kinh Thật ! Chỉ có mình tôi là biết thuyền đang ở đâu. Nhưng mà tôi chẳng nói gì. Cứ kệ cho mọi người nghĩ thế. Sau này, chuyện đêm đó "xuýt" đi chơi vào vùng địch được ghi vào nhật ký của bác SauChinBayMot và nhiều lần ôn lại kỷ niệm này thấy vẫn hay. Ngay cả khi chỉ có hai đứa SauChinBayMot và tôi, bác ấy nhắc lại, tôi vẫn "im thin thít như thịt nấu đông". Cứ để như vậy cho câu chuyện thêm phần thú vị. Còn với riêng tôi, lại có cái thú vì mọi người tá hỏa lên. Cớ sao phải cải chính làm gì cho mất hứng của câu chuyện nhỉ ?

Nhưng gần 40 mươi năm rồi cũng đến lúc nói ra sự thật. Sự thật cũng chẳng làm ai mất hứng nữa !

Lúc đó mọi người mải nói chuyện nên không nhìn ra xung quanh. Lúc giật mình mới tá hỏa lên tưởng đã gần địch lắm. Thật ra, con thuyền chưa đến khúc sông quẹo ở đoạn Tả Kiên. Đoạn này, sông ngoặt gấp, lòng sông có nhiều đá, khá nông và nước chảy nhanh hơn nhiều. Đến đoạn này cũng còn chán mới tới chỗ địch. Phải qua một đoạn trống dài của sân bay Ái Tử mới đến chỗ địch. Dù sao thì việc nhầm đó đem lại cảm xúc cho mọi người chứ có gì đâu mà phải đính chính. Đến bây giờ đính chính cũng đâu có muộn.

Tôi sẽ mô tả vị trí con thuyền đêm đó trên bản đồ dưới đây.

Trên bản đồ, chúng tôi xuất phát từ điểm A, Để cho thuyền trôi đến điểm B. Chèo thuyền từ B đến C. Điểm D là điểm ngoặt ở thôn Tả Kiên, chỗ này nước chảy xiết hơn, dưới đáy có đá. Khi bơi lấy củi các lần thứ hai trở đi trong trận lụt hai tháng trước đó, tôi đều phải lội dọc theo đường làng đến gần điểm D mới lao ra sông. Nếu đi ngược dòng một chút nữa là chạm vào khu vực Ái Tử. Đến đây, bên bờ sông phía tây không còn làng mạc cây cối gì nữa. Lúc bơi thuyền đến điểm C mọi người tá hỏa lên. Tôi cứ để vậy cho máu lính nó bốc lên đầu một tý. Xúc cảm ấy vẫn còn giữ gần 40 năm sau mỗi khi nhắc lại.

Bây giờ mới nói ra sự thật là, . . . còn xa địch lắm !

Bác SauChinBayMot và TraLienTây tha cho tôi tội im lặng nhé ! Cái tội im lặng - "không chết người" !

  Sau khi ngừng bắn, tôi mới biết đại trưởng mới là anh Đinh Ngọc Ngơi và chính trị viên mới Nguyễn Văn Phi. Anh Ngơi người Ninh Bình, tôi đã có lần ở gần anh vài ngày trên ban 2, còn anh Phi người Thái Bình. Xê viên phó vẫn là anh Đặng Ngọc Ánh và đại phó vẫn là anh Võ văn Thời. Anh Thời, quê ở Tam Hiệp, Núi Thành, Quảng Nam. Tôi chưa lần nào đi công tác lẻ với anh Thời. Khi tôi học binh địa ở d74 về đến đại đội thì anh Thời đang ở Nhan Biều. Anh Thời người rất gày, có giọng nói "nguyên chất Oẳng Nơôm – Khó kheeng, Kheéc phuục". Anh là người cao tuổi thứ nhì đại đội tôi (1941), sau anh Ngơi (1940).

Cách đây vài tháng, anh Khâm, xê viên đầu tiên của xê 20 của chúng tôi thông báo đã tìm ra địa chỉ và số điện thoại của anh Thời. Chúng tôi ai nấy đều rất phấn khởi. Cách đây mươi ngày, anh Khâm từ Nha Trang ra và cho biết, anh đã đến nhà anh Thời ở thôn 4, Quế Phong, Quế Sơn, Quảng Nam. Anh em gặp nhau mừng lắm. Rất nhiều chuyện anh Thời kể lại mà trước đây chúng tôi chưa hề biết. Cái ngày ở Trà Liên Tây, thấy anh hiền lắm, chân chất, từ trước đến nay vẫn vậy. Nghe nói anh đã mấy lần dũng sỹ! Nhưng mà nghe chuyện anh kể, mới thấy anh rất "gấu".

Cái ngày đang giành giật nhau ở Thành Cổ. Lệnh từ ban 2 xuống cho toán của anh Thời là phải đưa anh em đặt đài trên cái nhà 2 tầng để quan sát và nắm địch. Trên ban còn chỉ định rõ tên từng người trong đó có Bùi Văn Thắng lên đặt đài ở đó. Anh Thời phản ứng lại: " Yêu cầu chúng tôi đặt đài là việc tui nhận nhiệm vụ với ban, còn chuyện điều người là thuộc quyền của tui." Vị trên ban tức lắm nhưng không làm được gì. Sau đó, biết việc đặt đài trên cái nhà tầng đó là chắc chết vì bất cứ lúc nào cũng có thể bị bắn chết ngay lập tức. Nghĩ thương anh em phải chết vô ích, anh Thời cứ lẳng lặng không cử người lên làm đài ở nhà tầng. Chuyện này, một lần nữa bị ai đó ghi nhớ là "chống lệnh".

Thì, . . . ngay ngày hôm sau một trận pháo đã cho bay mất cái nhà tầng.

Gì thì gì chứ chuyện chống lệnh, dù đúng hay sai, mình anh phải chịu và anh Thời bị ghi nhận như là một tay "rắn mặt". Thể nào cũng có lúc bị "dằn mặt" cho biết. Nhưng lúc đó đang ác liệt, không thể rút anh Thời về được. Chuyện cứ để đấy đã.

  Đầu tháng 11/1972. Đã là tháng rưỡi kể từ ngày "mất thành". Địch bí mật vượt sông Thạch Hãn. Chính tên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 hay tiểu đoàn 9 Thủy quân lục chiến chỉ huy dẫn quân vượt sông. Tất cả các đài quan sát của c20 ở gần bờ Thạch Hãn đều quan sát ngày đêm động tĩnh của địch bên kia sông, đếm tất cả số lượng pháo mà địch bắn tại mọi điểm để báo cáo cho ban 2. Đó là công việc thường ngày của họ.

Về phía địch, chúng chọn chỗ vượt sông ở đoạn Thành Cổ Quảng Trị. Hai đại đội tăng cường với đầy đủ trang bị, vượt sông bí mật vào ban đêm. Không biết chúng vượt sông trong một đêm hay mấy đêm. Sở dĩ chúng chọn đoạn này vì chỗ đó lòng sông hẹp, phía địch, bờ đông là bờ lở, rất cao. Các hầm chốt kiên cố của địch dày đặc ở đó có thể dễ dàng không chế toàn bộ mặt sông và bờ phía tây. Địch bố trí nhiều xe tăng, dàn hàng ngang ở bờ sông để dùng hỏa lực mạnh bắn thẳng của xe tăng không chế toàn bộ các chốt của ta ở bờ tây.

Bên ta ở bờ tây, sát bờ là bãi cát với địa hình thấp và trống trải nên các chốt của ta phải lùi sâu về phía sau một đoạn khá xa. Ta cũng dễ dàng khống chế bãi trống thấp ở phía trước.

Vấn đề đối với thủy quân lục chiến là bí mật. Và chúng đã làm được điều đó. Hai đại đội địch đã vượt sông và đào công sự cá nhân trong đêm rất bí mật. Ban ngày chúng nằm im bất động. Chắc hẳn đến giờ nào đó theo hợp đồng tác chiến, địch sẽ ồ ạt bắn pháo, ném bom, dùng pháo tăng bắn thẳng. Chúng sẽ đánh tan các chốt của ta bằng hỏa lực rồi lính thủy đánh bộ tràn lên chiếm lĩnh trận địa của ta. Khi có được đầu cầu, xe tăng và xe lội nước cùng lực lượng lớn hơn ở phía sau sẽ vượt sông. Lực lượng đột kích mạnh của thiết giáp sẽ chọc sâu và triển khai đánh vào sau lưng các vị trí tiền tiêu của ta.

Bên ta, không phát hiện được động tĩnh gì của địch cho đến ngày 31-10-72. Lúc đó, đài quan sát do anh Thời chỉ huy ở khá gần vị trí vượt sông của địch. Không may cho chúng là mấy lính trinh sát mắt tinh đã phát hiện ra có dấu hiệu khả nghi. Hai ống nhòm dương lên dò xét từng mét đất, từng bụi cỏ nơi khả nghi và đi đến kết luận rằng, cỏ ở khu vực này có vẻ hơi héo hơn các khu vực xung quanh. Soi cẩn thận hơn thì phát hiện ra có dấu vết mới của cỏ và đất cát. Anh Thời quyết định báo cáo với ban 2 là địch đã vượt sông sang khu vực bãi cát Nhan Biều 1 và đã đào hố cá nhân, ẩn nấp kín vào ban ngày. Đề nghị sư đoàn cho triển khai đánh địch.

Mãi đến bây giờ khi nghe chuyện anh Thời kể lại, tôi mới biết rằng trinh sát chúng tôi là những người đầu tiên phát hiện ra địch vượt sông và chuẩn bị tấn công ta.

Khu vực chốt giữ của ta ở đây là tiểu đoàn 8, trung đoàn 18 sư đoàn chúng tôi. Sau này tất cả các tài liệu nói về trận đánh diễn ra ngày 02 và 03/11/1972 đều nói rằng ngày 01/11/1972, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B5 thông báo: "Địch có ý định vượt sông Thạch Hãn tấn công Nhan Biều, Ái Tử".

Chúng tôi vẫn biết Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B5 có nhiều nguồn tin, đặc biệt là của trinh sát kỹ thuật (lực lượng trinh sát kỹ thuật chuyên nghe lén thông tin vô tuyến của địch, sau đó phòng quân báo phân tích và phán đoán tình hình cùng với thông tin từ trinh sát mặt đất). Trận đánh tiêu diệt hai đại đội thủy quân lục chiến và nhiều xe tăng, . . . sau đó là một mẫu mực về phòng ngự và đánh địch. Từ đó địch không còn dám có ý đồ vượt sông tấn công nữa.

Mọi chuyện đã qua lâu rồi, chiến thắng là chiến thắng chung, chẳng cần phải kể công rành mạch làm gì. Bây giờ nói lại để biết những đóng góp thầm lặng của các chiến sỹ trinh sát, đã không một lần được nhắc đến.

Dưới đây tôi xin trích dẫn một đoạn trong bài viết của bác Nguyễn Đức Huy, trung đoàn trưởng e18/f325 lúc đó:

"Cuối tháng 10-1972, sau khi chiếm được Thành cổ Quảng Trị, quân địch tiếp tục vượt sông Thạch Hãn đánh chiếm tiếp Ái Tử, Đông Hà nhằm khôi phục lại tuyến phòng thủ đường 9 như trước ngày 30-3-1972.
Phía ta, Trung đoàn 18, Sư đoàn 325 sau khi rút khỏi thị xã, được giao nhiệm vụ tổ chức phòng ngự bắc sông Thạch Hãn, khu vực đối diện với Thành cổ Quảng Trị. Chính diện trận địa phòng ngự khoảng 5km, chiều sâu hơn 4km, bao gồm các làng Trung Kiên, Nhan Biều 1, 2, 3, các cao điểm 20, 21, làng Ái Tử, sân bay Ái Tử, Xuân An.

Ngày 1-11-1972, Bộ Tư lệnh Mặt trận B5 thông báo: Địch có ý định vượt sông Thạch Hãn tấn công Nhan Biều, Ái Tử. Trung đoàn lệnh cho các đơn vị sẵn sàng chiến đấu, đồng thời cử đồng chí Lâm, Trung đoàn phó xuống tăng cường chỉ huy tiểu đoàn 8 trên hướng phòng ngự chủ yếu của Trung đoàn. Đêm hôm đó trời mưa, rét, rất tối, 4 giờ sáng 2-11-1972, Trung đoàn trưởng Nguyễn Đức Huy đi kiểm tra tình hình các đơn vị. Tiểu đoàn 8 báo cáo không có gì xảy ra, nhưng khoảng 30 phút sau, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 báo cáo gấp có khoảng 2 đại đội địch bí mật vượt sông sang chiếm bãi cát Nhan Biều 1, trước khu vực chính diện của đại đội 5 và đại đội 7. Đây là tình huống bất ngờ, trung đoàn trưởng lệnh cho kiểm tra lại thì được biết địch bí mật vượt sông khoảng 1 giờ ngày 2-11-1972. Trung đội của đồng chí Thiều Chí Đinh phát hiện được nhưng nghĩ là quân thám báo, nên chỉ cử 1 tổ ra đánh và không báo cáo với tiểu đoàn. Nhưng thực tế, địch đã đưa được 2 đại đội và cơ quan chỉ huy tiểu đoàn 6 thuỷ quân lục chiến qua sông, chiếm toàn bộ bãi cát trước mặt thôn Nhan Biều 1 (dài khoảng 300m), có nơi chúng vào sâu chỉ cách đường số 1 khoảng 50m- 60m, mở đầu cuộc hành quân mang tên "Sóng thần 9".

Ban chỉ huy trung đoàn hội ý nhanh và nhận định đây là lực lượng đi đầu đánh chiếm đầu cầu, tiếp theo sẽ là lực lượng chủ lực sang tiếp ứng để tiến công Nhan Biều 1 và Ái Tử. Vì vậy, Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 8 phải kiên quyết chiến đấu không để địch chiếm được đường số 1. Đặc biệt là trung đội của Thiều Chí Đinh phải giữ bằng được khu lô cốt, dùng hoả lực chặn không cho địch vượt sông; các đơn vị còn lại triển khai chiến đấu theo kế hoạch.

Mờ sáng ngày 2-11-1972, pháo địch từ các trận địa trong thị xã Quảng Trị, La Vang, Hải Lăng bắn hàng trăm quả vào trận địa phòng ngự của 2 tiểu đoàn 8, 9. Cùng lúc, hàng chục máy bay phản lực đánh bom vào thôn Nhan Biều 1 và Ái Tử, các cao điểm 20, 21, sân bay Ái Tử. Máy bay B52 được điều tới ném bom rải thảm 2 đợt vào trận địa phía sau của trung đoàn.

Được chi viện hoả lực mạnh của pháo binh và không quân, khoảng hơn 7giờ, địch tổ chức tiến công trên 2 hướng: một hướng tập trung đánh chiếm chốt lô cốt do trung đội của Thiều Chí Đinh phụ trách; một hướng (chừng một đại đội) chia làm 2 mũi đánh vào đại đội 5. Bộ đội ta dựa vào các công sự đã chuẩn bị, chờ địch vào thật gần tới 20m - 30m mới nổ súng. Cuộc chiến đấu diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt ở khu vực lô cốt địch cố chiếm bằng được. Nếu chiếm được nơi đây sẽ là bàn đạp tiến công vào đường số 1 và bảo đảm cho lực lượng tiếp tục vượt sông thuận lợi. Bộ đội ta chiến đấu rất ngoan cường, súng cối 60, cối 82 ly bắn trực tiếp vào đội hình địch trên bãi cát; cối 160 ly, hoả tiễn BM14 đánh trúng đội hình tập kết ở bờ nam sông, nên địch không thể vượt sông sang tiếp ứng. Sau chừng 30 phút tiến công, địch bị thiệt hại nặng, phải lui về phía bãi cát và mép sông để củng cố, đồng thời yêu cầu pháo binh, kể cả pháo hạm Mỹ bắn mãnh liệt vào trận địa của ta.

Gần 9 giờ, địch lại tổ chức tiếp đợt tiến công nhưng bị bẻ gãy. Khoảng 10 giờ, Trung đoàn trưởng Nguyễn Đức Huy xuống thôn Nhan Biều 1 gặp tiểu đoàn phó tiểu đoàn 8 Trần Minh Thiệt nắm tình hình và giao nhiệm vụ tổ chức phản kích tiêu diệt toàn bộ quân địch đã vượt sông.

Thời gian tổ chức hoả lực chuẩn bị cho phản kích là 15 phút. Trong thời gian đó, cối 60 ly, cối 82 ly bắn trực tiếp vào đội hình địch ở phía trước, 2 đại đội cối 120 ly bắn chặn địch ở mép sông sang ứng cứu. Tiểu đoàn ĐKB bắn vào thị xã. Pháo binh của mặt trận và sư đoàn chế áp các trận địa pháo của địch, súng 12,7 ly và cao xạ khống chế máy bay địch, bảo đảm cho đội hình phản kích. Xe tăng ở trận địa dự bị nổ máy thật to để uy hiếp địch.

Sau 15 phút hoả lực chuẩn bị, nhiều tên địch đã bị tiêu diệt, đại đội 5 và đại đội 7 đồng loạt xung phong. Quân địch chống trả quyết liệt, chỉ còn chừng 30-40 tên chạy ra mép sông, lợi dụng địa hình để co cụm chống cự. Một số tên nhảy xuống sông định chạy về thị xã. Lúc này hoả lực pháo binh địch cũng bắn mạnh vào đội hình xung phong của ta làm một số bị thương vong. Để hạn chế tổn thất, bộ đội ta lui về trận địa phòng ngự.

Sáng 3-11-1972 ta sử dụng cối 82 ly, cối 60 ly chi viện cho lực lượng của đại đội 5 và đại đội 7 thực hành phản kích tiêu diệt nốt số quân địch co cụm.

Sau 2 ngày chiến đấu, ta đã diệt gọn 2 đại đội và cơ quan chỉ huy tiểu đoàn 6 thuỷ quân lục chiến, trong đó có cả tên thiếu tá tiểu đoàn trưởng, thu rất nhiều vũ khí, trang bị, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội ở nam sông Thạch Hãn.

Trong trận đánh này, ta bị hy sinh 7 đồng chí (có 1 chính trị viên đại đội, 1 trung đội trưởng), bị thương 13 đồng chí.

Điều đáng nói, với chiến thắng này, ta đã bẻ gãy hoàn toàn cuộc hành quân mang tên "Sóng thần 9" của địch. Sau chiến thắng, bộ tư lệnh mặt trận B5 đánh giá: "Đây là trận chiến đấu phòng ngự xuất sắc nhất, mở ra kinh nghiệm đánh tiêu diệt gọn bằng sức mạnh hiệp đồng trong phòng ngự". Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi điện khen và đánh giá: "Trận chiến đấu phòng ngự của trung đoàn 18 thắng lợi, đã góp phần đánh bại ý chí của địch phản công lấy lại vùng đất đã mất sau 30-3-1972 tại bắc Quảng Trị". Với chiến công này, Trung đoàn 18 đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

Nhân kỷ niệm 33 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, để ghi nhớ công ơn của các liệt sĩ và nhân dân địa phương xã Nhan Biều, huyện Triệu Phong (Quảng Trị), Sư đoàn 325 đã làm thủ tục đề nghị xây dựng một bia tưởng niệm nhằm tôn vinh, lưu giữ và giáo dục truyền thống, đáp ứng nguyện vọng của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ sư đoàn. Địa điểm xây dựng ở khu vực xã Nhan Biều.
Nguyễn Đức Huy"

Đăng bởi Tôi cũng có nhiều tài liệu khác nói về trận đánh này. Địch bỏ lại 120 xác chết, bị bắt 1 tên. Ta phá 5 thuyền, bắn cháy 5 xe tăng, xe bọc thép, 8 ô tô (ở bên kia sông). Thu hàng trăm súng, . . . (Theo Ban Liên Lạc Truyền Thống Bạn Chiến Đấu Bảo Vệ Thành Cổ Quảng Trị Hè 1972).

Anh Thời kể lại, vì phát hiện được địch vượt sông chuẩn bị tấn công nên tha cho anh tội chống lệnh. Gọi là có công chuộc tội – "coi như hòa".

  Cuối năm 1973, đại đội nhận nhiệm vụ từ sư đoàn chuẩn bị luồn sâu, trinh sát trong vùng địch. Nhóm luồn sâu có mật danh A74 được thành lập. Vì là lần đầu tiên nên việc lựa chọn cán bộ, chiến sỹ rất cẩn thận. Những ngày sau đó, nhóm luyện tập theo bài bản rất cẩn thận. Chuyện này đã được bác 6971 kể trong "Nhật Ký Viết Lại".

Sớm 7/1/1974, nhóm lên đường làm nhiệm vụ. Để nghi binh, đơn vị cũng đồng thời báo động, hành quân dã ngoại. Việc nghi binh là cần thiết vì chúng tôi ở trong làng Trà Liên Tây, có thể có tai mắt của địch. Mà trinh sát mà biến mất khỏi chỗ đóng quân thì đi đâu ? Câu trả lời có vẻ không khó đoán.

Một vài ngày sau khi nhóm A74 đi làm nhiệm vụ. Chúng tôi bàng hoàn nhận được tin tai nạn ở dốc 365. Trong đó Ngạc hy sinh tại chỗ, hầu hết anh em bị thương. Khi thấy chiếc xe bị trơn và từ từ trượt khỏi mặt đường, chỉ có hai người nhảy ra kịp là Tất (y tá) và Chinh (trinh sát e95).

Chính trị Viên Phi có vẻ rất buồn khi thông báo tin tức trong cuộc họp cán bộ từ a trưởng trở lên. Anh Phi động viên và dặn dò mọi người về phổ biến cho anh em biết nhưng giữ bí mật không nói chuyện lung lung cho dân.

Việc luồn sâu của trinh sát để chuẩn bị chiến trường vẫn phải tiếp tục, "người trước ngã xuống người sau tiến lên". Nhưng nếu cứ ở Trà Liên Tây mà tổ chức các đợt luồn sâu trinh sát thì không khác gì "lậy ông, tôi ở bụi này !". Xê 20 mươi đành tạm biệt bà con Trà Liên và chuyển địa điểm đóng quân khác.

Chúng tôi được phép chia tay và cảm ơn bà con làng Trà đã giúp đỡ bộ đội trong thời gian đóng quân ở đây. Chúng tôi cũng được yêu cầu không nói địa điểm đóng quân mới cho dân biết, sợ việc đi lại quân dân có thể tạo điều kiện cho chỉ điểm lấy tin tức về đơn vị. Nếu dân có hỏi chuyển đi đâu thì chỉ nói chuyển lên miền thượng.

Sư đoàn hỗ trợ ô tô cho chúng tôi chuyển quân. Nhà thì để lại, chỉ mang theo đồ đạc như giường, bàn ghế, . . . Chúng tôi chuyển về ở thôn Nại Cửu 2. Đây là chỗ ở cũ của đơn vị bạn. Nhà cửa đã có sẵn, đủ cho đại đội tôi, mỗi tiểu đội một nhà.

Gọi là thôn Nại Cửu theo địa danh trên bản đồ chứ thực ra chẳng có làng mạc gì ở đây. Chắc hẳn dân ở vùng đồi này đã bị dồn về đồng bằng từ lâu rồi. Chỗ này ra căn cứ Ái tử chỉ một, hai cây số.

Địa danh Nại Cửu cũng lạ. Có những bốn thôn Nại Cửu. Một thôn Nại Cửu ở sông Vĩnh Định phía bắc Thành Cổ Quảng Trị và phía Đông sông Thạch Hãn. Ba thôn Nại Cửu 1, 2, 3 lại ở phía tây sông Thạch Hãn như trong bản đồ dưới đây. Trong bản đồ có ghi chú thích dưới thôn Nại Cửu 1 và Nại Cửu 3 chữ "đã bị phá hủy" (destroyed). Thực ra, thì cả Nại Cửu 2 cũng bị phá hủy từ lâu rồi, chắc Mỹ nó quên không ghi vào bản đồ. Đến năm 1972 thì cả thôn Nại Cửu ở phía đông cũng bị tàn phá hết. Nơi này bác LeXuanTuong chiến đấu, bị thương và bác ấy biết rất rõ.

  Trước khi chuyển lên Nại Cửu, tôi đã ghé chào ông bà già nhà cu Chót. Khi ông già hỏi chúng tôi có chuyển đi xa không ? Thỉnh thoảng ghé chơi. Lúc đó, tôi nhớ là tôi đã trả lời một câu, đại loại là, bọn con chuyển lên sống cùng với người Thượng (người Thượng là tiếng địa phương Quảng Trị chỉ đồng bào dân tộc). Tôi cũng qua chào cha Cò, mụ Miến. Vẫn cái lối vào đi qua vườn, vẫn cái cây lê ki ma và cây vú sữa phía trước sân, vẫn là cái giường bằng ván gỗ dầy lên nước đen bóng, vẫn cha Cò, râu tóc bạc, dáng khòng khòng. Ông mặc bộ bà ba sáng màu, vẫn là ngồi gõ tay lên tấm phản gỗ. Mụ Miến lật đật cái chân tập tễnh từ dưới bếp đi lên. Hai ông bà hỏi chuyện tôi rất vui vẻ. Rồi hai người còn hỏi thăm 6971, "răng lâu không thấy chú T.?". Tôi bịa ra là 6971 đi công tác rồi và gởi lời hỏi thăm cha, mụ . Hai ông bà già, không đủ sức "chạy giặc" sống tựa vào nhau, lụm cụm, khắc khoải. Tôi không nhớ là chân bà mụ làm sao mà tập tễnh. Có thể tôi quên mà cũng có thể hồi đó, tế nhị không dám hỏi. Trông cảnh hai ông bà già yếu ớt trong ngôi nhà tối âm âm, rất sạch đến mát lạnh và quạnh quẽ - ai nhìn thấy cũng phải xót xa. Tôi bùi ngùi chia tay hai cụ rồi đảo qua chào mụ Tiệu.

Tạm biệt Trà Liên ! Biết có ngày trở lại.

35 năm sau, tôi mới có dịp lần đầu về thăm lại làng Trà, một buổi trưa cuối tháng bảy năm 2009. SauChinBayMot, Hùng "Côn" và tôi nhảy xuống xe ở cuối căn cứ Ái Tử, nơi bắt vào con đường - con đường xưa. Con đường ngày nào chúng tôi đã đi để vào căn cứ khai thác vật liệu làm nhà, để tập dò gỡ mìn và chui hàng rào của căn cứ. Vậy mà đã ba mươi lăm năm.

Chúng tôi đi qua một trảng cát lẫn với đá sạn đỏ và những cây dứa dại, giữa buổi trưa chớm sang chiều. Một buổi trưa hè Quảng Trị nắng gắt và nhột nhạt. Làng Tả Kiên vẫn như xưa, vẫn con đường ngoằn ngoèo đất cát pha trộn với sạn đỏ. Vẫn những cái cây tả tơi như ngày xưa. Vẫn những ngôi nhà nhỏ, mái tôn với những đụn rơm đầu ngõ.

Khi bắt vào làng Trà, cảnh vật thay đổi hẳn bởi cây cối xanh um tùm. Con đường làng bây giờ dường như nhỏ lại vì cây cối rậm rạp hai bên, không tỉa xén. Ba thằng đi dọc đường làng vắng lặng. Hầu như không gặp ai mà cũng chẳng có con mắt nào, ở đâu đó, trong các căn nhà thấp nhỏ núp dưới bóng cây dõi theo chúng tôi. Làng Trà vẫn nghèo như ngày nào. Dường như tất cả mọi vật đều ầm ầm chuyển động, chỉ có cái làng này đứng lại, tĩnh lặng trong thế giới riêng bất biến, không suy tư, không nhòm ngó - bàng quan và thẫn thờ.

Chắc hẳn, từ cái ngày đơn vị hai mươi rời khỏi đây thì làng Trà lại chìm đắm vào cái vốn có của nó như trước những ngày có bom rơi đạn nổ trên mảnh đất này - như từ bao đời nay, vẫn vậy !

. . . hết chuyện Trà Liên Tây.

  CHUYỆN XVII ANH Ở ĐÂU ?

Sáng sớm, một ngày tháng sáu năm chín lăm. Tôi lục cục dắt chiếc xe "tám hai, năm mươi phân khối" ra khỏi nhà rồi nổ máy lao ra đường từ chung cư của một công ty vận tải đường sắt. Mới có sáu rưỡi mà con đường Cách Mạng Tháng Tám đã rầm rập xe cộ. Tôi lao xe ngang qua đường vào một quầy bánh mỳ vỉa hè trước cửa công viên Lê Thị Riêng. Vừa ăn bánh mỳ, vừa ngắm dòng người xe như một đàn kiến, đông đúc, ngược xuôi trên đường, tôi vừa suy nghĩ xem phải làm những gì.

Tôi vừa đi vừa hỏi thăm đường đến sở thương binh xã hội thành phố. Cũng không thể vội được. Lạ gì, cho dù giờ làm việc có là 7giờ30 thì cũng phải quá 8giờ guồng máy mới bắt đầu khởi động.

Lúc đó tôi mất chứng minh thư nên không có giấy tờ tùy thân gì nên tôi đến đây để xin cái giấy đi đường lên tận Long Khánh và đi Bà Rịa. Được cái, gặp mấy bác cựu chiến binh nhiệt tình, thành ra chỉ mươi phút sau, tôi đã có giấy đi đường. Trong giấy còn ghi rõ, có mang theo thẻ Thư Viện Quốc Gia (trong thẻ có ảnh).

Khoảng 8 rưỡi tôi bắt đầu phóng xe. Tôi đi qua đường Điện Biên Phủ, đi tiếp đường Hà Nội ra thành phố Biên Hòa. Qua biên Hòa rồi đến đoạn qua khu dân cư của "người bắc di cư năm năm tư". Nghe nói có những xứ đạo Bùi Chu, Phát Diệm, . . . Càng gần long Khánh thì dân cư hai bên đường càng thưa thớt. Thay vào đó là những cánh rừng cao su bạt ngàn, trùng điệp. Con đường 1, lúc lên dốc, lúc xuống đèo, hai bên xanh mướt rừng, trông thật đẹp.
Tôi cứ thế chạy hết tốc lực. Cái xe 50 phân khối, cố lắm cũng chỉ lên được tốc độ 60. Qua thị xã Xuân Lộc, tôi bắt đầu đi chậm lại và dò xét từ đó.

Vừa đi tôi vừa cố gắng nhớ lại. . . . Chiều 22/4/1975, Xuân Lộc vẫn đang ác liệt. Địch ngoan cố chống trả quyết liệt. Chúng còn thả hai quả bom ngạt, loại bom đã bị quốc tế cấm sử dụng. Chúng tôi từ Phan Thiết chạy theo đường 1, vào đến gần Xuân Lộc thì phía trước mặt là một căn cứ địch trên điểm cao gọi là Núi Chứa Chan án ngữ đường tiến quân vào Sài Gòn. Chúng tôi được lệnh rẽ về phía trái (phía biển). Sẽ bỏ qua Xuân Lộc, đi vòng để đánh từ phía Bà Rịa vào Sài Gòn. Xe chúng tôi là chiếc xe "Giải Phóng", chở mười mấy lính trinh sát sư đoàn. Đây là chiếc xe dẫn đầu "cánh quân duyên hải". Sau xe của chúng tôi là chiếc xe Jeep, chiến lợi phẩm mà chúng tôi kiếm được ở Phan Thiết. Anh Nhung, bê phó b1 của chúng tôi lái chiếc xe này. Trên xe có anh Kim "còi", trợ lý ban 2 và hai lính trinh sát nữa. Đoàn xe của trung đoàn 101, rồi xe tăng ở mãi phía sau. Họ chưa chạy theo xe của trinh sát. Chúng tôi còn phải đi trước dò dẫm đường, mà nếu cần thì chiến luôn, theo kiểu "trinh sát chiến đấu cơ động".

Vừa chạy xe, vừa quan sát mấy cái ngã ba. Hai chục năm rồi, cảnh vật quá đổi thay. Vậy mà cuối cùng tôi cũng quyết chọn được một con đường đất và quẹo xe vào đường đó. Đường đi, là lạ mà cũng có lúc thấy quen quen. Con đường này bây giờ là đường đi của nông trường cao su nào đó. Hầu như không có xe cộ hay người đi lại trên con đường. Nhưng đây vẫn là con đường xe chạy, ít nhất là xe của nông trường nên con đường không phải là bỏ hoang. Phải chạy năm bảy cây số mới thấy có vài ba nóc nhà, chắc là nhà của các nhân viên nông trường. Chẳng có hàng quán mà cũng chẳng có ai gặp trên đường để có gì còn hỏi thăm.

Trời nắng trong rừng cao su, sao mà im ắng và lặng gió đến kỳ lạ. Cái nắng trong rừng cao su không gắt gao mà sao rất khó chịu. Tuy nhiên, điều đó cũng không làm cho tôi bận tâm. Càng đi trong rừng, tôi càng cảm thấy đây đúng là con đường mà 20 mươi năm trước tôi đã đi qua. Lúc đó, rẽ vào rừng từ đường 1 đã là khoảng 5 giờ chiều nên một lúc sau chúng tôi đi trong đêm tối. Vậy mà vẫn có cảm giác mình đi đúng con đường ngày đó. Thật là lạ! Anh em cũng biết rằng đường trong rừng cao su thì nhiều lắm, chỗ nào cũng là đường, các con đường quanh co, ngoằn nghoèo giữa các lô cao su. Đến gần trưa thì tôi gặp một chiếc xe tải của nông trường. Hình như chiếc xe đỗ ở đó để chờ thu mủ cao su do các nhân viên từ các lô cao su xung quanh mang đến giao nộp. Tôi chỉ hỏi thăm rằng con đường này có đi về Cam Mỹ được không. Và đây đúng là con đường sẽ gặp đường tỉnh lộ số 2 (bây giờ là Quốc lộ 56) ở Cẩm Mỹ.

Hồi năm 1975, tôi có bản đồ nên đi đến đâu là biết đó. Cẩm Mỹ (lúc đó trên bản đồ chúng tôi thấy ghi là Cam Mỹ) là địa điểm mà chúng tôi từ trong rừng ra bắt gặp đường số 2 đi Bà Rịa. Bây giờ tôi chỉ đi theo trí nhớ chứ không có bản đồ. Sau khi hỏi thăm, tôi yên tâm hơn và tăng tốc chạy nhanh trong đường rừng. Được cái con đường này cũng tương đối bằng phẳng, lên dốc xuống đèo cũng không cao lắm. Đường đất, tuy không êm nhưng cũng không đến nối nào.

  Ra đến đường số 2 (bây giờ là Quốc lộ 56), tôi dừng xe, trong lòng bồi hồi nhớ lại. Đêm hôm đó, 22/4/1975. Chúng tôi từ trong rừng ra đến đoạn này thì rẽ trái đi về hướng Bà Rịa. Hai chiếc xe tạm dừng gần ngã ba. Tôi lấy bản đồ rồi nhảy xuống xe. Anh Triêm, từ trong cabin cũng nhảy xuống. Chúng tôi quay lại phía chiếc xe Jeep lúc đó vẫn đang bật đèn. Đèn xe cũng đã được che chắn gần hết, chỉ để lại một quầng sáng hắt chéo xuống đất. Chúng tôi cùng soi đèn vào bản đồ và xác định điểm này đúng là vị trí ngã ba Cam Mỹ giao cắt với đường 2. Bọ Kim nói gì đó, bây giờ không còn nhớ chính xác.

Chúng tôi được thông tin là Xuân Lộc đã được giải phóng. Như vậy, đại quân sẽ không đi theo đường rừng, nhưng vẫn rẽ từ Xuân Lộc đi theo đường 2 về phía này. Chúng tôi vẫn tiếp tục trinh sát "chiến đấu". Cứ xông thẳng. Gặp địch ở đâu thì đánh nhau và sẽ biết là địch ở đó rồi chốt lại chờ bộ binh lên.

Tôi thấy lạ là có có hai lính trinh sát kỹ thuật A12 đi cùng xe bọ Kim chứ không phải hai lính trinh sát mặt đất. Vừa đi trên xe, mấy đứa vừa liên lạc bộ đàm với ban 2 ở phía sau. Lần này thì máy PRC-25 có lắp miệng nói hẳn hoi. Thế là hai thằng A12 thành lính thông tin. Không biết các cụ có dùng mật ngữ gì không ? Rất có thể không cần, mình có liên lạc với nhau bằng PRC-25 thì địch cũng chẳng biết là ai vì đã có khi nào lên sóng đâu. Vả lại, nếu đợi viết điện, rồi dịch, rồi tạch tè, rồi chờ nhận điện lại thì sẽ rất chậm, có thể lỡ mất thời cơ.

Bọ Kim yêu cầu chúng tôi đi chậm và chú ý có địa phương ra đón, cẩn thận, không được bắn ẩu. Tôi thấy giỏi thật. Chúng tôi từ Đà Nẵng dông thẳng một mạch vào đây, thế mà lại bắt liên lạc được với địa phương luôn thì các cụ cũng tài.
Bây giờ hồi tưởng lại lúc đó, thấy cần phải đi thêm cỡ năm bảy cây nữa thì sẽ đến chỗ tôi cần tìm. Hai mươi năm rồi, mọi thứ đổi thay không biết liệu tôi có tìm được không ?

Có cái may là trong giấy chứng thương của tôi có ghi rõ nơi bị thương: "Cách thôn Đồng Cùng 2 km, xã Ngãi Giao, Châu Đức, Bà Rịa". Cũng may nữa là tôi lười, chưa đi khám thương lần nào nên vẫn còn nguyên giấy cũ. Nếu khám rồi, bị thu giấy thì có thể chưa chắc tôi đã nhớ được. Nếu không nhận ra địa hình xưa thì hỏi thăm theo địa chỉ là sẽ đến được.

Cái đêm đó đụng địch, chúng tôi mất hai người, một số bị thương. Mong sao hai cái mộ vẫn còn ở đó. Đó là mộ của Nguyễn Thế Dân, bê trưởng bê 3 và Ngô Thanh Nhật bê 1. Càng gần đến nơi, trong lòng tôi càng như có lửa đốt. Giá mà có thể cầu xin Trời Phật mà được thì tôi mong Trời Phật cho tôi tìm được hai người.

Khi tôi đến thôn Đồng Cùng (Trên bản đồ đọc ra như thế. Một cái tên rất khó hiểu nên xê viên của chúng tôi có khi gọi là "Đồng Cúng", có khi hài hước lại gọi là "Đường Cùng"), tôi tạt vào một quán ven đường và hỏi thăm chuyện mộ. Người này, chạy đi hỏi người khác. Một lúc sau đã có dăm bảy người xúm lại. Trao đi đổi lại, cuối cùng không ai biết về hai ngôi mộ.

  Mọi người rất nhiệt tình nhưng không ai biết gì. Cuối cùng ai đó đưa ra ý kiến hãy đến thương binh xã hội của xã và còn mách tên chị phụ trách thương binh xã hội, bây giờ tôi không còn nhớ nên tạm gọi là chị Bình. Thôn Đồng Cùng nằm mé tây đường tỉnh lộ 2, Ủy ban xã lúc đó nằm ở mé đông và chỉ cách đó vài trăm mét. Gọi là ủy ban mà chỉ có mỗi một cái nhà cấp bốn dài với nhiều phòng. Sân ủy ban cũng chỉ là sân đất nhưng khá rộng. Khi tôi đến xã hỏi thăm thì được biết chị Bình đã đi họp trên huyện rồi, chắc bốn năm giờ mới về.

Tôi tạt vào một quán và ăn một thứ gì đó. Đợi mãi cũng chán, tôi cho xe chạy chầm chậm ngắm cảnh dọc đường 2. Chiếc xe chạy về hướng Bà Rịa. Hai bên đường là nhà dân ở rất thưa thớt. Đi một quãng nữa thì hai bên là những quả đồi trồng cây. Tôi thấy rất nhiều cọc gỗ trồng tua tủa, thẳng đứng. Thì ra dân trồng hạt tiêu. Hạt tiêu quấn vào và mọc vươn lên xung quanh cây cọc. Chắc trồng hạt tiêu hay hơn cao su nên các hộ dân đều trồng hạt tiêu.

Quãng 3 rưỡi chiều, tôi quay lại ủy ban xã và ngồi chờ. Đứng lên ngồi xuống, đi ra đi vào rất sốt ruột. Tầm bốn giờ, cái ủy ban vốn đã vắng lại càng vắng hơn, vì chỉ có vài người thôi mà lại đang lục tục ra về. Khi về, ai cũng hỏi thăm tôi và động viên cứ chờ tiếp. Nếu 5 giờ mà chưa thấy thì hỏi thăm đến nhà chị ấy, cũng ở trong thôn này thôi.

Mấy phút sau, có một phụ nữ đi xe đạp phóng vào sân ủy ban, xuống xe rồi dắt xe dựng vào đầu hè. Tôi đến gần và hỏi:
- Chị có phải là Bình, phụ trách thương binh xã hội không ạ ?
- Vâng ! Anh hỏi gì em ạ ?
Tôi kể về việc đi tìm mộ đồng đội thì chị Bình trả lời là không biết gì vì chị ấy cũng mới lên thay chú Hoàng về nghỉ được có mấy tháng. Chị bình dẫn tôi đến nhà chú Hoàng để hỏi xem có biết gì về hai ngôi mộ.

Chúng tôi đi bộ mấy trăm mét rồi rẽ vào làng. Nhà ông Bình ở ngay ven đường làng. Ông rất nhiệt tình khi tôi nói chuyện đi tìmm mộ. Ông kể, ông thấy hai xác liệt sỹ chết mấy hôm rồi, nhìn không đặng nên ông đã gọi mấy người cùng ông chôn hai liệt sỹ. Ông kể, Một người ở trên xe bị cháy và một người ở dưới đường. Hai cái mộ được chôn ngay ven đường. Không những thế, sau này ông còn thỉnh thoảng tảo mộ và hương khói suốt nhiều năm.

  Ông Hoàng tước đây cũng tham gia du kích. Vì sức yếu nên sau ngày hòa bình ông cũng chỉ tham gia những công việc nhẹ nhàng ở thôn và ở xã. Hồi ông phụ trách thương binh xã hội xã thì có việc qui tập mộ liệt sỹ về nghĩa trang huyện. Lần này ông phụ trách việc di chuyển mộ liệt sỹ, trong đó có mộ của Dân và Nhật. Vị trí hai cái mộ đó ông nhớ rất rõ.

Tôi rất mừng. Trong bụng đang nghĩ đến chuyện thông báo cho gia đình như thế nào. Tôi nói:

- Thế thì may quá rồi ! Hôm nay cháu đi chỉ một ngày mà đã tìm được đồng đội. Rất cảm ơn chú !

Ông Hoàng chép chép miệng vài cái. Trông nét mặt ông, tôi thấy có gì không ổn. Tôi sốt ruột hỏi:

- Thế nghĩa trang huyện có gần đây không ạ ?
- Anh cứ uống nước đi.
- Vâng ! Có phải ở nghiã trang Châu Đức mình không ạ ?
- Tụi tui đưa hai anh về nghĩa trang Châu Đức. Bây giờ hổng biết nói với anh thế nào.
_ Ông ngần ngừ một đẫn rồi nói tiếp:

- Cách đây mấy năm, tỉnh qui tập các mộ liệt sỹ về nghĩa trang Châu Thành. Lúc đầu đấy cũng chỉ là
nghĩa trang huyện nhưng tỉnh quyết định mở rộng làm nghĩa trang liệt sỹ của toàn tỉnh.
- Cũng không sao chú ạ ! Nhưng mà . . . , cháu hỏi chú, thế trên mộ hai anh ấy bia ghi thế nào? Nhất định cháu sẽ tìm thấy.

Ông Hoàng chậm rãi, giọng như có lỗi:

- Lúc tụi tui chôn cất hai ảnh thì hổng biết tên tuổi gì hết trơn, mà trong người mấy ảnh cũng đâu có
giấy tờ gì. Chúng tui cũng chỉ chôn rồi đắp thành mộ thôi, hổng có bia. Rồi họ chuyển từ huyện về tỉnh
thì tui đâu có theo, nên giờ có xuống đó thì cũng hổng biết ai với ai gì ráo.

Ông Hoàng cảm thấy có lỗi ghê gớm, ông ngồi im không nói thêm câu nào. Còn tôi, đang khấp khởi hy vọng bỗng xịu xuống, cũng không hé răng được nữa. Chị Bình, theo dõi câu chuyện từ đầu đến giờ thì thở dài thất vọng. Cả ông, cả chị Bình và tôi đều cảm thấy có lỗi rất lớn với các anh. Tôi trách mình sao mãi đến bây giờ mới đi tìm. Giá mà đi tìm sớm hơn . . . !

Một lúc lâu, ông Hoàng mới cất giọng:

- Phải chi, lúc đó tui làm một cái bia, ghi tạm một cái tên gì đó, hay ghi ngày và nơi hy sinh thì bây giờ
đỡ rồi. . . . Cũng tại tui không nghĩ ra.

Tôi ngồi kể lại chuyện chúng tôi đụng địch hôm đó. Từ trên xe nhảy xuống, mỗi người tìm lấy một vị trí, ẩn nấp và nổ súng. Chiều hôm đó tập trung tại rừng cao su để nghe mệnh lệnh về chiến dịch Hồ Chí Minh thì ba người vắng mặt từ sáng vẫn không thấy. Chúng tôi chấp hành mệnh lệnh, lên xe hối hả vượt rừng cao su chạy về hướng Long Thành.

Sau ngày 30/4, thằng Đọ bị lạc từ đêm đó mới mò được về đơn vị. Nó không còn nói được ra tiếng, chỉ khào khào trong cổ họng. Sau đó, mấy đứa bị thương nhẹ từ viện trở về, chúng tôi mới biết Dân và Nhật hy sinh như thế nào.

Tôi hỏi thăm chú Hoàng đường đi nghĩa trang Châu Thành. Chia tay chú Hoàng và chị Bình, lúc đó đã là 6 giờ. Tôi chạy xe về Sài Gòn, đi thẳng theo đường số hai ra Xuân Lộc để bắt vào đường 1.

  Sau đó một tuần, cũng vào ngày Chủ Nhật, tám người chúng tôi đi một xe 7 chỗ từ Sài Gòn chạy thẳng một mạch đến nghĩa trang Châu Thành, Tỉnh Bà Rịa. Vì đi muộn, nên mãi mười rưỡi chúng tôi mới đến nơi. Chúng tôi đỗ xe trước cổng nghĩa trang, dớn dác tìm người quản trang. Thì ra cái phòng để trông coi nghĩa trang lại nằm phía bên kia đường. Ông quản trang rất nhiệt tình đưa hết sổ danh sách các mộ trong nghĩa trang cho chúng tôi tìm. Có đến ba cuốn sổ lớn và dày ghi lại tên các liệt sỹ, một hay hai dòng trích ngang cho mỗi người. Sổ sách làm bằng tay nhưng rất qui củ. Chúng tôi chia nhau tìm hết ba cuốn sổ mà không thấy tên Dân và Nhật. Phần lớn trong danh sách đều ghi "Vô danh".

Để lại mấy người kiểm tra kỹ một lần nữa, một người và tôi ra thẳng nghĩa trang và bắt đầu đi tìm trực tiếp. Chúng tôi hy vọng, biết đâu có gì đó ghi trên bia mà không ghi vào sổ sách, biết đâu có dấu ghi nguồn gốc mộ chuyển từ đâu đến thì sao. Đúng là phần nhiều các mộ "Vô danh" thật. Trời nắng rất gắt, đi hết ô này đến ô khác mà vẫn chỉ thấy "Vô danh" và "Vô danh". Một lúc sau, mấy người còn lại cũng vào cuộc tìm tên trên các mộ.

Cái nghĩa trang rất rộng, hình vuông, mỗi chiều rộng sáu bảy trăm mét. Rất nhiều mộ được xây có qui hoạch thành hàng lối.

  Mất gần hai tiếng đồng hồ, tám thằng tôi mới tìm gần hết, còn lại vài ô. Bạn bè đi cùng tôi, người kém, người hơn tuổi tôi, tất cả đều là dân sự và chưa bao giờ cầm súng kể cả làm lính "Việt cộng" hay lính "Quốc gia" nhưng ai nấy rất tận tình. Một mình tôi thẫn thờ quay lại cổng nghĩa trang. Tôi ngồi dựa lưng vào cổng mà mắt đăm đăm nhìn các hàng mộ. Các đồng đội xếp hàng tề chỉnh, thẳng hàng ngang, thẳng hàng dọc, thẳng hàng chéo, như một đội quân đang duyệt đội ngũ. Mắt tôi nhìn mà như không nhìn vào những chữ "Vô Danh". Tưởng như hàng ngàn cặp mắt "không tên" đó đang chiếu vào tôi, vây lấy tôi, . . . làm tôi bất động, nghẹn thở, . . . bơ thờ.

Về sau này, nhiều lần đi thăm các nghĩa trang liệt sỹ ở Quảng Trị, tôi vẫn hay ngồi thu vào một xó, bất lực như vậy, mà trâng trâng nhìn các ngôi mộ . . . "Chưa biết tên".

Sau ngày ba mươi tháng tư, xê viên đại đội tôi, cùng đi với hai người nữa, đã đến thôn Đồng Cùng để làm công tác tử sỹ. . . . Mà sao không làm một cái bia ? Một mẩu gỗ chứ mấy ! Hay chí ít thì cũng là một cái lọ Pênixilin chứ ? Sao mấy người "làm qui tập" lại không ghi chép đầy đủ ? Chỉ cần một dòng thôi chứ bao nhiêu ! Sao tôi đã không đi tìm hai người sớm hơn chứ ?

Mọi người đều dường như chẳng có ai có lỗi thì phải ?! Phải vậy không . . .?

  CHUYỆN XVIII NGÃI GIAO – CHÂU ĐỨC

Ngày 21/4/1975, cánh quân Duyên Hải đã chạm tới Xuân Lộc. Đúng lúc đó thì "cánh cửa thép Xuân Lộc" cũng vừa phá được. Cánh quân chia làm hai ngả, một ngả tiến đánh dọc theo đường số 1 và một ngả rẽ trái đánh qua Long Thành, Nước Trong để tiến vào Sài Gòn qua sông đồng Nai tại Cát Lái. Sư 325 (thiếu e95) của chúng tôi tiến theo hướng này.

Cũng trong ngày hôm đó, hai chiếc C-130 đã thả hai quả bom Daisy Cutter, mỗi quả 7 tấn xuống Xuân Lộc. Ngoài sức mạnh công phá của thuốc nổ, khi nổ, nó còn làm cháy hết dưỡng khí trong một phạm vi lớn, gây ngạt thở và chết người. Sử dụng loại bom này là một tội ác giết người hàng loạt. Bước đường cùng chúng đã "chơi đến cùng", bất chấp tất cả. Loại bom này cũng còn một số quả nữa nhưng hình như không có ngòi nổ nên chúng không thả thêm được. Sau này ta đã thu được như trong hình ảnh dưới đây (ảnh này hình như trong Quân Sử đã đưa lên rồi). Trận đánh Xuân Lộc đã có rất nhiều tài liệu của hai phía viết và trên Quân Sử cũng có rồi.

Chiều 21/4, trinh sát chúng tôi đi trên 2 xe. Một xe "Giải Phóng" chở mười mấy tay súng. Một xe Jeep chúng tôi kiếm được ở Phan Thiết. Chiếc xe Giải Phóng do một lính xế của đường dây 559 lái. Anh Triêm, xê phó chỉ huy ngồi trong cabin. Trên thùng xe là đủ các thành phần bê trưởng, bê phó, a trưởng , lính tráng. . . lẫn lộn cả các bê khác nhau trong đại đội và có thêm cả Duyên, lính trinh sát kỹ thuật nữa. Chiếc xe Jeep chạy sau một quãng do anh Nhung bê phó bê 1 lái. Trên xe có "bọ" Kim (trợ lý ban 2) , một lính trinh sát kỹ thuật sử dụng điện đàm PRC-25 và một tay súng AK (không nhớ là ai). 

  Khi nhận lệnh lên đường. Tham mưu trưởng Ngoan và "bọ" Luyến thúc dục và động viên chúng tôi tiến thật nhanh, gặp địch đâu là đánh, vừa tiến vừa đánh và chốt giữ chờ bộ binh và xe tăng lên đánh tiếp. Không cần thiết phải dò dẫm trinh sát hay luồn sâu như mọi khi nữa. Trinh sát chúng tôi trở thành mũi chọc sâu. Đã là rất gần Sài Gòn rồi. Chắc hẳn tất cả các đơn vị đều muốn là đơn vị đầu tiên vào Dinh Độc Lập. Mục tiêu cuối cùng của sư đoàn tôi cũng vậy. Có một sự ganh đua giữa các đơn vị. Tôi hiểu được tâm trạng của các thủ trưởng của chúng tôi lúc đó là như vậy. Lính trinh sát 20 cũng "máu". "Máu" ấy được truyền từ các thủ trưởng sư đoàn và ban 2.

Hai chiếc xe quẹo vào rừng cao su ở đoạn Núi Môn. Chúng tôi sẽ dẫn đầu trong hướng tấn công của sư đoàn. Nếu như ngày hôm nay Xuân Lộc chưa được giải phóng thì cánh quân sẽ đánh vòng qua Xuân Lộc để vào Sài Gòn. Khi đó thì Xuân Lộc sẽ bị cô lập hoàn toàn và chẳng cần đánh cũng phải tan. Lúc này, địch rút lui từ Xuân Lộc về phía Sài Gòn theo đường số 1 và rút về phía Bà Rịa theo liên tỉnh lộ số 2 để lập phòng tuyến mới (đường liên tỉnh số 2 trước đây, bây giờ là Quốc lộ 56).

Khi chúng tôi luồn vào rừng rồi , ngoái lại phía sau, không thấy có xe nào theo. Đại quân vẫn nằm ở đường 1, khá xa chỗ chúng tôi rẽ vào rừng. Không biết đại quân đi đường khác hay có kế hoạch đi sau chúng tôi một quãng xa. Chúng tôi phải độc lập mà xoay sở. Mười mấy lính trinh sát xông lên độc lập không khác gì lao vào bầy ong vỡ tổ. Chúng tôi chỉ có súng AK báng gấp, một khẩu M79 lấy được từ Phan Thiết và hai khẩu K59 mà lại chạy nghênh ngang giữa đường số 2 để xông vào địch thì thật là . . . liều ! Tuy vậy không có ai nao núng cả. Vấn đề là ở chỗ làm sao giữ được bí mật, phát hiện ra địch trước và không để lộ lực lượng của mình. Nếu chúng tôi để lộ lực lượng ít ỏi của mình trước "bầy ong vỡ tổ" ấy thì . . . "ôi xương tan, máu rơi !".

Về sau này tôi mới biết, địch rút từ Xuân Lộc về phía Sài Gòn thì bị ta đánh tơi tả nhất là bọn dù. Còn lực lượng rút khỏi Xuân Lộc chạy theo đường số 2 này hoàn toàn trọn vẹn. Chúng có tổ chức, có phương tiện và vũ khí mạnh. Dọc đường địch rút không có lực lượng nào của ta ở phía này truy quét. Lực lượng đó của địch rút về Bà Rịa và Vũng Tàu và có thể là lực lượng chủ yếu sau này đảm bảo cho Mỹ và các lực lượng di tản khác ra đi khỏi Vũng Tàu.

  Trời bắt đầu tối, chiếc xe giải phóng phải lên đèn để chạy. Ánh đèn phòng không xòe ra một vạt sáng hẹp và cắm khá gần phía trước mặt. Xe chạy rất chậmvì đường rừng gập ghềnh và quanh co. Liên tục là những ngã ba, ngã tư mà mỗi lần gặp lại phải giảm tốc độ để chọn đường. Nếu là ban ngày, chắc không khó phân biệt giữa đường chính và các đường nhánh rẽ vào các lô cao su. Anh Triêm và tôi là hai người có bản đồ. Tôi đứng trên thùng xe sát cabin phía bên phải và liên tục theo dõi đường đi trên bản đồ. Thỉnh thoảng xe phải dừng hẳn lại để anh Triêm và tôi trao đổi với nhau và chọn đường. Có lúc phải nhảy hẳn xuống xe để xem vết bánh xe trên đường tìm ra đường chính và đường nhánh.

Đa số anh em trên xe bắt đầu ngủ gà ngủ gật. Mọi người cứ ngả dần, ngả dần xuống để gối đầu vào ba lô hay gối vào chân người khác. Suốt từ trước hôm đánh Phan Rang đến nay, chưa ai được ngủ bữa nào cho đẫy cả. Trên thùng chỉ có vài người thức. Tôi thức vì phải theo dõi đường đi. Mà, tính tôi đã đi xe là không bao giờ ngủ, dù chỉ là chợp mắt hay ngủ gật một tý cũng không. Như thế, chắc chắn trên xe lúc nào cũng có ba người theo dõi đường đi là lính xế, anh Triêm và tôi.

Rồi chúng tôi cũng bắt được vào một con đường nhựa. Đây đúng là đường số 2 mà chúng tôi đang cần tới. Xe chúng tôi dừng lại để trao trao đổi với "bọ" Kim xem tiếp tục hành quân như thế nào. "Bọ" Kim dặn chúng tôi hết sức cẩn thận quan sát địch, có thể vẫn còn nhiều địch đang rút từ Xuân Lộc theo đường này. "Bọ" cũng dặn phải chú ý quan sát có du kích địa phương ra đón.

Hai chiếc xe tiếp tục bám theo nhau. Mọi người căng mắt ra theo dõi mặt đường phía trước và xung quanh. Đèn xe chỉ chiếu được một đoạn rất ngắn gần mũi xe mà trời hôm nay lại âm u nên rất tối. Mọi cảnh vật chỉ là những cái đám đen đen.

Được một quãng chừng cây số, bất ngờ thấy một ánh đèn pin từ trong rừng phía trước chiếu vào xe chúng tôi. Ánh đèn quay vòng tròn ba vòng. Thật may quá, đúng là ám hiệu chúng tôi đang mong chờ. Anh Triêm mở cửa xe và cũng huơ đèn pin ba vòng đáp lại. Khi chúng tôi đến gần thì nhận ra một người mặc quần áo đen. Anh bảo chúng tôi rẽ vào một còn đường đất ở mé tây đường. Anh đi bộ và dẫn hai chiếc xe vào một cái ấp hay một cái trại lính thì phải. Tối quá, chẳng nhìn được xa, nhưng tôi thấy anh nhấc một cái cự mã bằng gỗ chăng dây thép gai đúng chỗ một cái cổng chào để cho xe chúng tôi đi qua.

Người du kích bảo dừng xe và tắt hết đèn. Chúng tôi xuống xe trao đổi tình hình với anh du kích. Thì ra suốt từ trưa đến giờ lính địch liên tục đi trên con đường này. Chúng rút từ Xuân Lộc về Bà Rịa. Tuy bây giờ đã vãn nhưng thỉnh thoảng vẫn có những tốp lính đang rút qua. Phía trước, về phía Bà Rịa thì du kích cũng không nắm được là địch đóng quân ở đâu hay là chốt ở đoạn nào. Từ đây đến xã Ngãi Giao cũng chỉ chừng dăm cây số nữa. Hai bên đường toàn rừng cao su không có nhà dân nào. Mấy cái đèn pin lia trên bản đồ. Nhưng cũng chả thêm được thông tin gì. Địa phương đã hoàn thành nhiệm vụ là đón xe chúng tôi. Anh du kích chào chúng tôi rồi rút vào rừng cao su bên kia đường.

   Hai chiếc xe dò dẫm tiến lên. Chúng tôi căng mắt soi đường phía trước. Vẫn chỉ có mấy người thức. Anh em khác lại chìm vào giấc ngủ, chập chờn.

Đột nhiên tôi nhìn thấy có gì đó đen đen, loang lổ trên mặt đường phía trước. Đúng lúc tôi đập tay vào nóc cabin thì chiếc xe cũng phanh đứng lại. Tài xế và anh Triêm cũng thấy có gì đó trên đường. Bất ngờ, đèn pha của xe bật lên, sáng chói quãng đường phía trước. Trên mặt đường, có đến hàng cây số lính địch nằm ngủ ngổn ngang. Đồ đoàn, súng ống vật vạ khắp cả mặt đường. Có thằng nào đó tưởng là xe của bọn chúng liền quát lên:

- Tắt đèn đi mấy cha ơi !

Tôi chưa biết phải phản ứng như thế nào, chỉ biết quát lên nho nhỏ thúc mọi người dậy:

- Dậy mau, có địch, có địch !

Đồng thời lúc đó, anh Triêm mở cửa xe, đứng trên bậc lên xuống xe và hô rất dõng dạc, bây giờ tôi không nhớ chính xác, chỉ còn nhớ đại khái:

- Chúng tôi là Quân Giải Phóng. Yêu cầu tất cả anh em binh lính hạ súng đầu hàng !
Chúng tôi để anh em tự do về với gia đình. Nếu ai chống cự sẽ bị bắn !

Sự việc xảy ra quá nhanh, thoáng trong đầu tôi một ý nghĩ: "Lão Triêm, cũng được đấy !". Tôi bật chốt an toàn và hướng súng về phía địch, sẵn sàng. Mấy anh em khác cũng vùng dậy và sẵn sàng nổ súng.

Quá nhanh và bất ngờ, lính địch chưa kịp phản ứng gì. Chúng tôi đang chờ đợi phản ứng của họ. Ánh đèn pha chói lọi trong đêm tối chiếu hắt vào địch. Chắc chắn chúng không thể nhìn thấy chúng tôi. Tôi cứ chắc mẩm mọi việc diễn ra sau đó là thấy bọn lính hạ súng giơ tay lên đầu hàng. Có thể lắm chứ ! Chúng đâu có biết lực lượng chúng tôi như thế nào, lại còn bị đèn pha chiếu vào, có động cựa gì sẽ bị bắn chết.

Nhưng sự việc lại không diễn ra như vậy. Sau này nhiều lần nhắc lại chuyện đó, anh Triêm vẫn còn tức lắm. Địch thì chẳng hàng mà anh em còn bị thương mấy người và hy sinh 2. Thế có điên tiết không chứ !

Địch không hàng, không phải vì chúng dũng cảm hay ngoan cố mà lại chính vì lính trinh sát chúng tôi quá kém. Thật chán hết chỗ nói !

  Mọi người nín thở chờ đợi . . .

Bỗng một loạt đạn AK bắn xéo về phía trước. Bọn địch xô nhau chạy dạt và lăn xuống hai bên đường. Trên xe, mọi người cũng nhảy ào xuống. Lái xe rất nhanh tay, tắt đèn pha và nhảy xuống. Tất cả tối xập lại. Có vài tên địch bắn AR15 về phía chiếc xe. Ta và địch hoàn toàn không nhìn thấy nhau. Phải một lúc sau mới nhìn thấy ánh đèn gầm hoe hoe vàng. Ánh sáng đó trở thành mục tiêu cho mấy tay cối cá nhân của địch. Chúng nó không bắn đạn thẳng nữa mà cứ cối cá nhân bắn vào chiếc xe. Cối bắn làm cho chúng tôi phải dạt vào bờ đường, nơi có rãnh thoát nước và phải lùi lại một đoạn.

Chúng tôi cũng có một khẩu M79. Khẩu này thằng Quynh nó cầm, không biết khi nhảy xuống có mang theo không. Như trả lời câu hỏi của tôi, thằng Quynh bắt đầu bắn M79 về phía địch, từng phát một. Tiếng địch kêu lên "đù mé !đừng bẵn nữa, vào đầu bọn tao rồi". Thì ra chúng tưởng khẩu M79 này cũng do chúng nó bắn.

Bắn nhau một hồi rồi chúng tôi tổ chức lại đội hình và bò lên chỗ xe để tấn công. Thằng Quynh, límh xế, thằng Hồng và một thằng nữa ở bên trái đường. Anh Ương, thằng Lâm, Tôi và mấy đứa nữa ở bên phải đường. Có vẻ như bọn địch đã lùi về phía sau, chúng tôi tiến lên. Tôi ghé sát mắt xuống mặt đường để quan sát thì vẫn thấy những đống đen nằm giữa đường nhưng bất động. Chỉ là ba lô và đồ đạc của địch thôi. Tiếng đầu nòng cối cá nhân ngày càng xa dần. Bọn nó đã chạy rồi.

Khi chúng tôi tiến qua chỗ chiếc xe vài bước, thì bất ngờ một quả cối cá nhân bắn đúng chỗ chúng tôi. Một ánh chớp lóe lên kèm theo một luồng gió ràn ràn thốc lên từ đó. Tôi thấy rát ở đầu và ở đít nhưng không thấy đau. Tôi đang định tiến lên tiếp thì nghe tiếng kêu của anh Ương ngay sau lưng tôi:

- Như Lệ ơi ! anh bị thương rồi.

Ánh đèn gầm của xe hắt xéo lên, tôi thấy anh Ương hai tay đang ôm bụng. Tôi hỏi anh bị thương thế nào để em băng cho thì chỉ thấy tiếng anh Ương rên rỉ kêu đi kêu lại:

- Anh bị thương rồi, Như Lệ ơi.

Thấy anh bị thương, tôi vừa xót ruột vừa bực mình và phản ứng lại, tôi ghé vào tai anh:

- Anh có im đi được không. Em cũng bị thương đây này. Không sao đâu, anh đừng kêu to như thế
nó bắn tiếp vào đây bây giờ.

Anh Ương đã im thì Thằng Lâm, phía bên phải tôi lại nói:

- Ông Như Lệ ơi, tôi bị vào bụng.
- Chịu được không ?
- Được.

Nói ra thì bảo rằng tôi "máu lạnh" nhưng thực tình lúc đó đầu tôi nghĩ rất nhanh. Quả cối gần tôi nhất nhưng do tôi cúi rất thấp nên bị một mảnh vào đầu và một mảnh vào đít. Mảnh cối cá nhân thì có gì đâu mà phải hoảng lên thế. Tôi hỏi anh Ương và Lâm có tự đi được không thì lùi về phía sau. Hai người ngoan ngoãn lùi lại. Toán chúng tôi trước đó có sáu bảy đứa, Ương và Lâm lùi lại. Thế mà bây giờ còn có 2 . Không biết mấy đứa nữa chạy đi đâu. Mấy thằng đó đâu có bị thương. Bên này đường còn lại một đứa nữa và tôi. Bên kia đường chắc chắn có thằng Quynh vì vẫn thấy M79 nổ đều đặn về phía địch.

Tất cả sự việc chỉ xảy ra trong thời gian đủ để lắp một quả đạn M79. Và, quả đạn tiếp theo đến liền sau đó. Lần này rất chính xác, trúng ngay chiếc xe. Chắc là trúng vào chỗ nào đó có xăng nên chiếc xe bắt đầu cháy. Đám cháy bốc lên ngày càng to, làm tôi cảm thấy nóng rát.

Rồi không còn thấy bắn nữa. Chỉ còn tiếng M79 bên thằng Quynh vẫn đều Đặn. Tôi đứng thẳng lên nhìn chiếc xe rần rật cháy. Thú thực, lúc đó tôi rất bực mình. Lính trinh sát kém quá ! Không biết thằng nào mắt nhắm mắt mở lại lia một loạt AK chứ ! Chắc là thằng lính mới (thoáng nghĩ thôi, không biết có đúng không. Sau này không ai nhận đã bắn loạt đạn ấy). Bị thương chút xíu có ăn thua gì mà đã kêu toáng lên làm mất tinh thần mấy cậu lính mới. Bây giờ cháy xe rồi, có mà đi bộ. Đồ cháy hết rồi, gạo, lương khô, cháy hết lấy gì ăn. Riêng tôi còn tiếc mấy cái bản đồ Huế và Quảng Trị. Nghĩ đến bản đồ, tôi sờ xuống bụng. Cái bản đồ vùng đang tham chiến vẫn nằm ở đó (tôi quen giắt bản đồ vào cạp quần mỗi khi xem xong để hai tay được rảnh). Tiếc nhất là toàn bộ nhật ký tôi viết từ ngày đầu nhập ngũ đến giờ, thế là ra tro hết. Tôi quát sang phía Quynh:

- Quynh ơi ! thôi đừng bắn nữa. Chúng nó rút xa rồi.

Tôi và thẳng Vân (có lẽ thế, vì bây giờ không nhớ) thẳng lưng đi sang chỗ Quynh. Thì ra bên này cũng chỉ có hai thằng, Thằng Quynh và lính xế. Anh lính xế Trường Sơn Thì lại quá được. Hóa ra những quả cối cá nhân, cả thằng Quynh và lính xế thay nhau bắn. Anh ấy, đâu có bỏ chạy. Anh ấy rất bình tĩnh và chính xác từ lúc dừng xe, bật đèn pha rồi tắt đèn pha đúng lúc, lại còn trụ lại đây cùng chúng tôi và bắn cối nữa.

Khi chúng tôi tổ chức lại để tấn công có Anh Ương chỉ huy và khá đông lính. Anh Triêm, Duyên và hai lính thông tin không tham chiến. Thế mà bây giờ trơ lại có lính xế và ba thằng tiểu đội Trưởng. Tôi không trách gì anh em lính mới, lần đầu tiên nghe tiếng súng của địch thì như thế cũng không có gì là lạ. Nhưng mà, đơn vị trinh sát chiến đấu như thế, bảo có chán không ?

Bốn thằng chúng tôi lui lại một quãng cho đỡ nóng vì lửa cháy của chiếc xe và nằm phục hai bên đường cho đến lúc trời gần sáng.

  Trời gần sáng. Không còn thấy động tĩnh gì. Chiếc xe của chúng tôi thì đã cháy rụi rồi. Bốn thằng lếch thếch quay lại phía sau tìm mọi người, cứ thẳng lưng mà đi giữa đường. Phải đến 500 mét mới tới chỗ mọi người đang nghỉ ngơi trong rừng cao su, cách đường không xa lắm. Chúng tôi đi vào chỗ mọi người.

Tôi bỏ mũ ra, không nhớ ai đó thấy trên đầu tôi máu vẫn còn rim rỉm nên làm một vòng băng trắng quấn quanh, giống như vòng khăn tang vậy. Khi tôi ngồi xuống mới giật thót người vì đau ở đít. Một vết trúng vào mông bên phải, chắc rất nhỏ nhưng không ngồi lên nó được. Tôi kê hai chiếc dép và ngồi xuống trên một bên mông. Chúng tôi cử người cảnh giới và lùng sục xung quanh. Số còn lại lấy nước và lương khô ra nhai. Mà cũng chỉ có dăm bảy đứa còn lại ở đây. Một số anh em khác đã lùi hẳn về phía sau.

Một lúc sau, hai thằng đi lùng sục vớ được hai tên lính liền bắt và trói nghiến lại. Chúng được dẫn về chỗ chúng tôi ngồi nghỉ và bị trói mỗi đứa vào một gốc cây.

Toán lùng sục cũng tìm thấy vòm của du kích ở sâu trong rừng. Ngồi mãi cũng chán, tôi rủ anh Triêm vào chỗ du kích chơi "xem có gì hay". Vòm của du kích ở ngay cạnh một lạch nước nhỏ, cây cối um tùm. Mọi người cũng đang đi công tác hết, chỉ có hai người ở nhà. Họ toàn mặc quần áo đen. Thấy chúng tôi đến họ mới ngồi dậy trên võng. Du kích huyện Châu Đức phần lớn là lính bắc. Các anh lớn tuổi hơn chúng tôi, nhập ngũ quãng sáu lăm, sáu sáu. Du kích sống chui lủi trong rừng, ban đêm mới xuống cơ sở để hoạt động. Nguồn sống của các anh chủ yếu dựa vào dân. Ăn uống rất kham khổ, nhiều lúc rất đói do địch bố ráp các ấp không thể về được. Tiền được phát cũng phải nhờ dân mua hộ lương thực, thực phẩm rồi dấu ở đâu đó để đến đêm các anh đến lấy.

Bọn địch thường xuyên tổ chức đi càn, các anh lại phải chạy luồn rừng để thoát thân, không mấy khi đánh trả lại được. Cũng có nhiều anh em hy sinh và bị thương. Hy sinh thì đành chịu rồi, nhưng cực nhất là bị thương. Các anh chỉ có thể tự cứu chữa cho nhau, nhờ dân mua thuốc "trụ sinh" để chống nhiễm trùng. Không thể đưa đi bệnh viện để chữa vết thương được.

Quá dài lâu ! Thư từ, báo chí không bao giờ có. Chẳng bao giờ có thể mơ đến một ngày nào đó thắng lợi hay được về quê hương. Đằng đẵng . . ., năm này qua năm khác . . ., "tăm tối không thấy ánh Mặt Trời", hy vọng cũng chẳng có lấy một tia. Cứ như vậy, "sống không ai biết, chết chẳng ai hay".

Làm sao trụ mãi được đây ?

Nhiều anh đã lấy vợ địa phương nhưng vẫn không dám lộ diện. Một số anh em đành qui hồi để về với vợ con và miễn cưỡng trở thành chỉ điểm. Mỗi lần như thế, họ lại phải di chuyển khu vực hoạt động đi nơi khác.

Chúng tôi băn khoăn hỏi:

- Sao bị thương, các anh không đi ra bắc ?
- Biết đường nào mà đi. Mà có đi thì làm cách chi mà không đụng địch.

Có anh bị thương cụt một chân, vẫn phải ở lại đây, trong đội du kích này và vẫn hoạt động.

Tôi ở Quảng Trị, quả thật có ác liệt vì bom pháo. Nhưng người lính ở đây phải chịu đựng hơn nhiều, bền bỉ hơn nhiều. Làm sao giữ cho tinh thần không nao núng, làm sao có thể hy vọng vào một ngày chiến thắng. Thật là rất khó ! Thấy các anh như vậy mới biết mình "chưa là cái gì".

Chúng tôi xin ngả mũ chào ! Bái phục ! Bái phục !

   Chiều đến, chúng tôi được lệnh bỏ đướng số 2, chuyển hướng vào rừng cao su tiến đánh Long Thành. Chỉ còn lại sáu bảy người, cứ thẳng đường số 2 tiến ngược về phía Xuân Lộc để tìm ngã ba rẽ đi Long Thành. Hai tù binh được thằng Quynh giải đi phía trước. Chỉ thấy một thằng có vẻ hơi nhùng nhằng gì đó. Tôi không nghe thấy thằng đó và thằng Quynh nói gì với nhau, liền sau đó là một loạt đạn AK. Bắn song, thằng Quynh đạp nó lăn xuống rãnh ven đường. Khi anh Triêm tới chỗ tên lính bị bắn chết, anh quát thằng Quynh về tội bắn tù binh. Thằng Quynh có giải thích gì đó với anh Triêm. Anh Triêm làu bàu:

- Cái thằng, làm ăn thế này !

Nói rồi, anh lấy dao cắt dây trói tay tên lính, rút hết dây và ném đi chỗ khác.

Chuyện này tôi thấy chẳng hay chút nào nhưng cũng không hỏi thằng Quynh một lần nào về chuyện đó. Tên tù binh còn lại chắp tay xin:

- Xin các ông giao con cho bộ đội chủ lực. Các ông đừng giao cho du kích hay bộ đội địa phương !
Con xin các ông ! Các ông mà giao cho du kích thì chi bằng cứ bắn con như thằng đó cho xong.

Lời cầu xin và thái độ sợ hãi của tên lính làm chúng tôi càng hiểu thêm sự ác liệt của du kích nơi đây. Du kích sẽ không tha cho bọn này, có thể có trả thù vì bọn địch đã càn quét và giết chóc nhiều người.

Đi được một đoạn thì thấy chiếc xe Jeep quay lại đón. Anh Triêm nói với anh Nhung chở tôi đi viện. Rồi quay về phía tôi, anh nói:

- Ông phải đi viện thôi, thế này không được.

Quay sang tên tù binh, anh nói tiếp:

- Bây giờ chúng tôi thả anh, cho về nhà. Muốn đi đường nào thì đi. Về đến nhà phải ra trình diện
quân giải phóng. Không được quay lại làm lính nữa. Rõ chưa ?
- Dạ, con đâu dám. !

Tên tù binh được thả, còn tôi lên xe để đi viện.

Trên xe chỉ có anh Nhung và tôi. Chiếc xe này tôi cũng đã lái ở Phan Thiết rrồi. Bây giờ nó hỏng tiếp điểm đề. Anh Nhung phải moi dây sau taplô ra phía trước. Mối lần đề, cho chập hai đầu dây với nhau, máy nổ thì nhả ra. Tôi phải kê bàn tay cho cao để ngồi trên một bên mông. Gần đến đường 1, gặp rất nhiều xe chở bộ binh của sư đoàn đi ngược chiều lại, khí thế lắm. Chiếc xe Jeep rất khó khăn để chạy theo chiều ngược với đoàn quân. Tôi nói với anh Nhung:

- Thôi quay lại đi anh ạ !
- Mày cứ đi đi, cũng sắp xong rồi. Cứ đi viện cho nó an toàn.
- Quay lại đi anh !

Ỳ xèo, . . . đôi co với nhau một hồi, cuối cùng, tôi nói:

- Anh không quay lại, em nhảy xuống xe đây ! – Nói rồi, tôi nhảy xuống xe.

Chiếc xe buộc phải quay lại và chạy theo dòng. Được vài cây số, đoàn xe bắt đầu chạy vào rừng cao su. Tôi không nhớ chính xác con đường rẽ vào rừng, nhưng sau đó c20 chúng tôi có trinh sát phối thuộc với trinh sát e18 và e101 để đánh ấp Bình Sơn.

  Chiếc xe khật khưỡng chạy vào rừng cùng rất nhiều xe của e101 và e18. Quãng gần tối thì chúng tôi bắt kịp đơn vị. Đại đội tôi lúc ấy trú dưới một vạt rừng. Đám rừng này là đám rừng tự nhiên. Tuy cây không to lắm nhưng khá rậm rạp. Không biết tại sao khu vực này chưa trồng cao su. Đại đội cũng chỉ có khoảng hơn một nửa số người. Số còn lại đã đi trinh sát phối thuộc cùng các trung đoàn. Một số ít nữa chắc đang ở phía sau.

Anh Nhạ đại trưởng tập trung đại đội và đọc quyết định về "Chiến Dịch Hồ Chí Minh". Sau đó anh phát cho chúng tôi, mỗi người một dải vải đỏ. Băng vải đỏ được buộc lên cánh tay trái. Đó là hiệu lệnh của chiến dịch, cũng là một cái gì đó làm cho khí thế của chiến sỹ rất cao, ai nấy đều rất náo nức. Mục tiêu cuối cùng của sư đoàn chúng tôi là Dinh Độc Lập. Cờ Giải Phóng được phát cho một số đơn vị để sẵn sàng cắm trên dinh này. Đối với chúng tôi, thời điểm 22/4 là thời điểm bắt đầu chiến dịch. Không còn xa Sài Gòn, nhưng không biết bao lâu nữa chiến dịch mới hoàn toàn thắng lợi.

Riêng tôi, tự cảm thấy may mắn vì đã quyết định không đi viện mà quay lại và được tham gia vào trận đánh cuối cùng.

Chúng tôi lục tục chuẩn bị cơm nước cho bữa tối. Bất chợt có tiếng gọi tôi từ phía sau. Ngoảnh lại, thì ra là thằng Cam tiểu đội tôi. Bây giờ nó chuyển sang đại đội xe của sư đoàn. Từ trên xe nhảy xuống, nó chạy lại bắt tay tôi rất chặt:

- Ông bị thương có nặng không ?
- Xoàng ý mà, vỏ chấu của cối cá nhân thôi.
- Xoàng gì mà phải băng đầu thế ?
- Để tôi xem, nếu không chảy máu nữa thì tôi bỏ băng luôn. Tôi ngại băng đầu có vẻ khác người quá.

Tôi đưa tay sờ lên vết thương, thấy máu đã khô hết mà cũng chẳng đau mấy trừ lúc bắt đầu đội mũ thì phải cẩn thận một tý, có gì đâu. Đeo băng trắng trên đầu mà đi đánh nhau, "ra cái vẻ ta đây" như thế này thì tôi cảm thấy ngượng lắm. Tôi từ từ rỡ mấy vòng băng xuống để thằng Cam thấy là không có gì nghiêm trọng cả. Tiếng còi xe thúc thằng Cam. Chúng tôi bắt tay nhau. Xe thằng Cam đang chở đạn cho pháo, nó không thể nấn ná được. Chuyện tôi gặp thằng Cam và tháo băng tôi không nhớ. Mới gần đây, gặp nhau ở nhà thằng Sự, thằng Cam kể rất nhiều chuyện trong đó có chuyện gặp tôi chiều hôm đó trên đường đi ấp Bình Sơn, và tôi đã tháo băng, vứt cái băng vào gốc cây cho nó xem để nó yên tâm.

Anh Nhạ đi kiểm tra và động viên các tiểu đội. Anh đến tiểu đội tôi:

- Tháo băng rồi à ?
- Vâng, khỏi rồi anh ạ. Đại đội thế nào anh ?
- Chỗ các cậu gặp tàn quân đêm qua hai đứa chết đấy. Cậu Dân bê trưởng và cậu Nhật lính mới.
- Thế mà em chẳng biết gì.
- Đấy là anh em họ báo cáo thế. Mấy đứa ở gần mới biết còn ngay ông Triêm cũng không biết cơ mà.
Dân nó nhảy xuống xe rồi mới bị trúng đạn, còn cậu Nhật thì bị chết ngay trên xe. Điểm lại, vẫn còn
thiếu cậu Đọ. Không biết nó hy sinh hay có bị thương nằm ở đâu không.

Cả anh nhạ và tôi bất giác cùng thở dài. Thế là bỏ đồng đội ở lại, không ai chôn cất. Trong lòng tôi cảm thấy bứt rứt vô cùng. Thật vô tâm quá. Lẽ ra lúc trời sáng, chúng tôi phải quay lại kiểm tra chỗ chiếc xe. Lúc đó nào có địch gì đâu, chúng tôi đã thẳng lưng mà đi giữa đường kia mà. Thật không ra gì cả. Trinh sát gì mà vừa đụng địch đã tá hỏa lên bỏ chạy đến nỗi quên cả đồng đội. Thực sự, chúng tôi rất kém. Ừ thì lính mới, trận đầu có thể hoảng khi thấy có đồng đội hy sinh, nhưng sao không đứa nào nói gì chứ. Sao lính cựu như chúng tôi cũng không nghĩ đến việc có thể có ai đó bị thương hay bị chết lúc "tao ngộ chiến" chứ ! Sao mà cả anh Triêm cũng không nghĩ đến việc quay lại kiểm tra nữa. Thật quá tệ !

. . . Hết chuyện XVIII.

  CHUYỆN XIX LONG THÀNH

Khoảng một nửa c20 nằm lại phía sau, chỉ có một nửa đang cùng các e101, e18 và e46 (của quân khu 3 phối thuộc với sư đoàn). Sáng 24/4, xe tiếp tục chở chúng tôi tiến trong rừng cao su. Đến khu vực ấp Bình sơn thì chúng tôi xuống xe. Những chiếc xe của 559 được đem đi ngụy trang và cất dấu. Rất nhiều bộ đội tập kết ở khu vực này. Đây đều là những đơn vị phía sau, sẵn sàng trợ chiến và các đơn vị bảo đảm khác. Pháo binh đã vòng xuống phía nam Long Thành về khu vực xã Long An để chuẩn bị hợp đồng tác chiến với xe tăng và bộ binh.

Ngày 25/4, địch phát hiện việc tiến quân của ta và bắt đầu bắn chặn. Trong chuyện kể của các thủ trưởng không thấy nói đến đoạn trước khi đánh Long Thành, lực lượng của ta trong rừng cao su bị máy bay A37 ném bom và pháo của địch bắn rất dữ dội. Rất nhiều anh em bị thương và hy sinh. Có một đại đội nào đó (lâu không còn nhớ phiên hiệu) của e101 bị bom và pháo mất quá nửa quân số.

Chúng tôi chưa kịp đào hầm để tránh bom pháo nên mạnh ai tìm được khe ránh nào thì lăn nhào xuống. Hết đợt này đến đợt khác máy bay liên tục ném bom vào đội hình. Thấy tiếng máy bay trực thăng phành phạch bay từ xa lại, tôi hét anh em trong tiểu đội tìm những gốc cây to, hy vọng có thể ẩn nấp được khỏi đạn bắn thẳng. Mấy chiếc HU1A cứ quần đi quần lại trên đầu.

Đây là lần đầu tiên lính trinh sát bị trực thăng nó quần. Chưa ai có kinh nghiệm, chỉ biết chạy và nấp theo bản năng. Hễ máy bay vòng đi thì di chuyển tìm nơi ẩn nấp tốt hơn, khi nó vòng lại thì nấp im tại vị trí. Có lẽ vì ta quá đông nên địch cũng không tìm diệt một mục tiêu cụ thể nào. Chúng cứ vừa rà trên đầu vừa bắn đại liên. Về phía ta, 12 ly 7 và cao xạ 37 hay súng bộ binh của chúng tôi không ai được phép bắn trước giờ sư đoàn bắn pháo mở màn chiến dịch. Những lực lượng ở phía trước đang chuẩn bị trận đánh lại hoàn toàn không bị những trận bom pháo này.

Sau này cũng không thấy thống kê những trận bom pháo này đã làm bao nhiêu anh em bị thương vong. Chắc hẳn sư đoàn biết nhưng lính tráng chúng tôi không biết. Tôi chỉ thấy rất nhiều bạn bè ở các đơn vị đều kể về trận bị đánh tả tơi và thương vong trong rừng cao su trước khi đánh Long Thành. Sau này tôi mới biết, hướng tấn công của sư 325 vào Long Thành rất hiểm, chọc sườn địch. Hướng tấn công này cũng là mở màn cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Vì vậy địch dùng khá nhiều máy bay và pháo để đánh chặn. Kể cũng lạ C20 không có ai bị thương hay hy sinh.

Mãi sáng ngày 26/4, đại đồi cử thêm một toán làm nhiệm vụ bám địch. Toán có năm tay súng AK và một lính thông tin 2W do anh Thắng b trưởng chỉ huy,. Tôi là thằng cầm bản đồ dẫn đường cho cả nhóm.

Nhiệm vụ của chúng tôi là bám theo 101. Sau khi họ đánh vào Long Thành thì nhanh chóng vượt lên trước làm nhiệm vụ trinh sát dọc theo tỉnh lộ 25 đi Phú Hội, Nhơn Trạch.

  Năm giờ chiều 26/4/75, pháo của sư đoàn dồn dập nên xuống chi khu Long Thành và trận đại pháo 105 của địch ở An Lộc. Rất nhiều pháo, chưa bao giờ bắn nhiều và cấp tập như vậy. Liên tục trong nửa giờ đồng hồ. Trung đoàn 18 đánh vào ấp Bình Sơn, trong khi đó xe tăng và bộ binh 101 chọc thẳng đường vào ngã ba Long Thành.

Pháo binh của địch bắt đầu bắn chặn đường tiến quân của ta vào Long Thành. Chúng tôi ở phía sau thấy pháo hai bên bắn dữ dội. Sau này tôi mới biết có một trận phản pháo của ta vào pháo binh địch ở Bến Sắn làm cho pháo binh địch bị thiệt hại nặng. Vì vậy xe tăng và bộ binh ta dễ dàng tiến vào Long Thành. Tôi cũng nghe kể lại khi ta tiến vào sâu, bộ binh địch chống trả rất quyết liệt từ trong các ngõ ngách của thị trấn . Một ổ đại liên địch từ trên tháp nước rất cao của thị trấn bắn rát, không cho bộ binh ta tiến quân. Mãi sau, xe tăng mới chỉnh pháo bắn vào tháp nước và tiêu diệt ổ đại liên này. Nghe nói, cả ba thằng cùng súng đại liên bị rơi từ trên tháp nước xuống.

Bộ binh và tăng của ta tràn vào thị trấn Long Thành, rẽ phải, vận động bao vây quận lỵ Long Thành. Trời tối, không còn nhìn rõ các mục tiêu. Tiếng súng, ánh lửa đạn bộ binh nhoang nhoáng bay qua bay lạinhư đan lưới. Thỉnh thoảng bùng lên bụm lửa của đạn pháo và các loại đạn B40, B41. Vì địa hình thị trấn phức tạp nên trong đêm 26/4 ta chưa dứt điểm được Long Thành. Hai xe tăng của ta bị súng chống tăng của địch bắn cháy ở gần quận lỵ, các anh em của xe bị hy sinh.

Trận đánh lúc đầu tưởng chừng thuận lợi nên anh em có phần chủ quan. Mặt khác xe tăng cũng muốn bảo toàn các nhà dân nên để địch lợi dụng đánh lén từ trong các căn nhà và các ngõ ngách. Trong đêm tối việc triển khai tấn công rất khó khăn. Trận đánh phải kéo dài sang ngày hôm sau. Chúng tôi vẫn nằm chờ phía sau, chưa xuất kích được.

Mãi sáng hôm sau, nhóm trinh sát mới tiềm nhập vào Long Thành. Địch vẫn liên tục bắn nhỏ lẻ từ mọi nơi nên rất khó cho xe tăng và bộ binh đánh nhanh. Chúng tôi cứ lần theo các căn nhà cho đến khi vào được thị trấn. Chúng tôi không đi về hướng chi khu mà rẽ trái đi về ngã ba Long Thành - Phú Hội. Khoảng 9 giờ sáng 27/4, đang đi men theo các căn nhà trên phố thì pháo địch nã tới. Nhóm chúng tôi nhanh chóng nhảy vào một căn nhà xây mái bằng để tránh pháo. Tuy trong nhà không có một cái hầm nào nhưng an toàn hơn ngoài đường rất nhiều vì sẽ không bị dính mảnh pháo, trừ khi đạn rơi trúng nóc.

Dân trong thị trấn đã chạy hết. Có lẽ họ chạy ra ngoài cánh đồng hay chạy về phia Vũng Tàu để tránh bom đạn. Đúng là "vườn không, nhà trống". Tuy nhiên chỉ là "trống" không có dân thôi, họ chỉ chạy lấy người chứ không mang theo gì, đồ đạc của dân vẫn còn nguyên.

  Pháo vẫn bắn nhưng không tập trung vào một chỗ. Lúc không còn pháo bắn vào chỗ chúng tôi, mọi người lục tục chuẩn bị đi tiếp. Vì tò mò, chúng tôi xem xét toàn bộ căn nhà. Nhà cũng khá, có ti vi, có tủ lạnh, có cả catset. Có đứa nào đó lấy băng catset ra xem rồi lôi ruột ra, một đống băng mỏng màu nâu, rối tung, phất phơ trước gió. Xem chán rồi, có đứa cầm vào nắm tủ, giật giật để mở, nhưng tủ đã khóa.

Một anh khác (không tiện nói tên) liền rút ngay dao găm:

- Dễ không mà. Để tớ ! – nói rồi, nó cắm ngay dao găm vào khe cánh tủ.

Cũng rất nhanh, tôi nắm lấy cổ tay nó và nói nhỏ:

- Đừng anh !
- Có gì đâu, xem một tý thôi.
- Đừng ! – Tôi nói và trừng mắt nhìn vào mắt nó.

Việc đó chỉ là do sự tò mò vô ý thức thôi chứ không ai có ý định lục lọi hay lấy gì cả. Tôi nói làm cho hai anh mới giật mình và có ý thức trở lại. Những người lính chiến thực sự, lúc đói chỉ kiếm cái ăn, không ai có ý lấy cái gì của dân. Cũng không thấy đứa nào dấu gì đó vào "đáy ba lô" theo kiểu vơ của. Lấy mà làm gì, nay sống biết mai thế nào mà mang theo các thứ cho nặng vào xác. Mà nhỡ có chết, mọi người sẽ thấy có đồ trong ba lô thì xấu hổ lắm. Có vài người còn thêm mê tín thì càng không thể lấy gì. Ấy là 99% như thế. Một phần trăm còn lại ở c20 thì tôi chưa gặp.

Chiến lợi phẩm là những thứ thu được của địch. Chúng tôi có lấy. Anh em thường lấy thuốc lá, đồ hộp, gạo sấy, bi đông Mỹ, xẻng Mỹ, xanh tuya Mỹ, Màn tuyn, chăn thám báo, giầy cao cổ, lưỡi lê, lựu đạn US M-26, . . . Toàn những thứ hay hay và rất thiết thực. Nói đến chuyện này, tôi sực nhớ, từ khi mò vào Hòn Vượn đến giờ tôi toàn đi giày ngụy. Trước đó tôi cắt lấy đế rồi xâu quay dép. Nhưng từ lần Hòn Vượn, tôi đi nguyên cả giày, chỉ dùi thêm vài cái lỗ cho thoáng và thoát nước nhanh. Đôi giày ngụy đó tôi đi vào tận Sài Gòn ngày 30/4 đấy.

Sau khi xem lại bản đồ và bàn bạc, chúng tôi tiếp tục tiến. Hết quãng có nhà của thị trấn mới thấy trời nắng quá. Không khí cứ hừng hực bốc lên từ mặt đường. Đâu đó phía sau chúng tôi vẫn thấy đạn pháo nổ và tiếng súng bộ binh đánh nhau ở chi khu Long Thành. Đến ngã ba giữa QL15 và TL25, chúng tôi quẹo phải để đi Phú Hội.

  Trên đường liên tỉnh 25 (LTL25) qua một đoạn cánh đồng trống trống, thấy la liệt trên đường là quần áo lính ngụy và những đồ lính khác. Bọn này khôn đấy, thấy pháo bắn và bị ta đánh chúng đã nhanh chóng tự bỏ chạy. Trút bỏ đồ lính để chạy trốn hoặc đi về quê cho thuận tiện. Có thể nhiều đứa đã kịp lấy quần áo của dân để mặc. Nhưng nhiều đứa chắc chỉ còn đồ lót trên người.

Ở phía này thì như vậy, sao ở phía chi khu Long Thành tiếng súng bộ binh vẫn không ngớt. Chắc hẳn đánh nhau giằng giật từng đoạn phố và từng đoạn hào trong chi khu. Trận chiến ác liệt đó sau này tôi mới được nghe kể lại.

Đến đoạn rừng cao su gần Phú Hội, chúng tôi đi tản ra, vừa tiến vừa quan sát. Theo như trên bản đồ, phía trước có cao điểm 30, rất có thể có lính địch chiếm giữ chỗ đó. Toán trinh sát bí mật tiến lên rất chậm. Có mấy thằng lính trinh sát lèo tèo làm sao có thể nhổ chốt của địch. Vì vậy chúng tôi chỉ cố gắng bí mật tiến lên càng xa bao nhiêu càng tốt và chờ bộ binh. Đến gần điểm cao, chúng tôi không quan sát thấy địch nhưng cũng không dám tiến lên thêm nữa. Mọi người tìm chỗ ẩn nấp hai bên đường. Chúng ăn lương khô trong khi chờ bộ binh tới.

Khoảng 2 giờ chiều (27/4), bộ binh của trung đoàn 46 vận động bộ theo đường TL25 tiến về phía chúng tôi. Long Thành vẫn chưa giải quyết xong nhưng một hướng tấn công mới chạy dọc theo đường này. Chúng tôi bàn giao tình hình cho bộ binh, còn họ thì chuẩn bị tổ chức tấn công về phía trước.

Nghĩ cũng chán, trinh sát kiểu này thì có nắm được địch ở phía trước đâu. Chỉ có chạm súng ở đâu thì biết địch ở đó. Vẫn cứ ào ào tiến lên, lúc nào đụng địch thì dừng lại chờ. Có khi chỉ cảm thấy có địch là dừng lại rồi. Cũng không biết chúng tôi trinh sát kiểu đó có được tích sự gì không. Thôi thì cứ cho rằng bộ binh yên tâm vận động, ở phía trước có trinh sát rồi. Bao giờ gặp trinh sát, biết tình hình mới phải chiến. Nghĩ vậy thì cũng được "an ủi cho nó đỡ tủi" mấy chú trinh sát. Đúng là từ trận Phan Rang đến giờ, mọi việc đều theo kiểu "thần tốc".

   Sau ngày 30/4/75. Lúc đầu, riêng c20 chúng tôi độc chiếm căn cứ Cát Lái. Chúng tôi có một xe Jeep và môt Honda 67. Anh Nhung và tôi thay nhau lái xe Jeep đưa anh em đi chơi Sài Gòn.

Không may cho tôi, ngay sau 30/4 hai ngày tôi đã bị cử đi công tác lẻ. Toán trinh sát chỉ có hai đứa. Lại là thằng Hồng và tôi. Chúng tôi có nhiệm vụ làm lại hồ sơ Thành Tuy Hạ và chi khu Long Thành. Hai thằng chỉ mang toòng teeng ít đồ. Tôi thì mang đồ đạc để xẽ và bản đồ. Thằng Hồng thì mang mấy hộp đồ ăn của Mỹ lấy ở Cát Lái và một bao tượng gạo.

Chúng tôi qua phà Cát Lái. Sau khi xong hồ sơ Thành Tuy Hạ, chúng tôi phải đi bộ đến Long Thành. Hai thằng vào nhà dân ngủ nhờ một đêm. Sáng hôm sau, chúng tôi gửi đồ ở nhà dân và đi vẽ. Chúng tôi vẽ trận địa pháo Long Thành trước vì nó đơn giản. Xong trận địa pháo hai đứa mới vào chi khu. Đầu tiên là lục lọi hồ sơ. Chẳng thu được gì. Có thể trước khi rút chạy, quận trưởng Hà Văn Sáu đã cho hủy hết hồ sơ. Tôi đành phải vẽ lại toàn bộ sơ đồ chi khu. Chỉ trong hai tiếng buổi sáng là đã khoắng nháp xong sơ đồ và thiết đồ lô cốt. Về nhà tôi sẽ hoàn thiện nốt.

- Hồng ơi, xong rồi. Đi Vũng Tàu đi !
- Đi !

Hai thằng ra đường, mỗi đứa khoác một khẩu báng gấp trên vai. Chúng tôi vẫy xe đò. Thấy xe đò từ xa, thằng Hồng chỉ vẫy vẫy mấy cái là xe dừng lại ngay. Chiếc xe không đóng cửa, lơ xe nhiệt tình nhảy ngay xuống đón khách. . . hay là sợ mấy ông lính có AK thì không biết.

- Cho chúng tôi đi nhờ đến Vũng Tàu !
- Dạ, mời hai ông.

Chiếc xe còn chưa đầy hết chỗ nên hai thằng kiếm được hai chỗ ở ghế sau cùng.

- Này anh, đừng gọi chúng tôi là ông nữa đấy !
- Dạ ! Thế tui kêu hai ông bằng gì ạ !
- Cứ gọi chúng tôi bằng anh thôi.
- Dạ !

Lần đầu tiên đi xe khách của miền nam, tôi rất ngạc nhiên vì nhiều chuyện lạ. Xe khách và xe buýt ở miền bắc chỉ đỗ đúng bến, không đón khách dọc đường. Tôi rất lạ khi thấy lơ xe đứng ở cửa xe. Hễ thấy có người nào đứng bên đường hay đang đi bộ là rà rà đến gần. Tay lơ xe chỉ bám cửa một tay, một tay và một chân giang ra sẵn sàng đón khách bước lên bậc mồm thì liên tục hô lên đê . . . đê . . . Anh ta rất nhiệt tình, xốc nách các bà, các chị lên xe, trong khi chiếc xe chỉ chạy chậm lại chứ không dừng hẳn.

Tôi cũng rất ngạc nhiên vì lơ xe thu tiền trực tiếp chứ không có vé và còn ngạc nhiên hơn khi thấy có mà cả giá tiền. Thường thì nói bao nhiêu, khách trả bấy nhiêu nhưng cũng có khi khác mặc cả ít hơn vẫn được đồng ý. Đặc biệt, nếu hai bên không đồng ý thì đuổi khách xuống.

Chiếc xe tôi đi là một chiếc xe chạy dầu khá lớn, ống khói của nó ở phía sau và ngóc lên tận nóc xe. Tôi không nhớ hiệu xe, có lẽ là DESOTO thì phải.

Bến xe vũng Tàu rất sạch sẽ và quy củ. Chiếc xe vào trả khách trong bến. Thực ra chỉ còn lại vài người, trong đó có hai thằng lính. Không phải vì chúng tôi muốn đi xa nhất mà vì đối với chúng tôi thì xuống đâu cũng như nhau thôi.

Hai thằng bắt đầu đi bộ dọc theo các con phố. Phải nói, lúc đó Vũng Tàu Rất sạch. Thành phố này cũng nhiều cây xanh, rất nhiều phượng vĩ và phi lao. Thành phố có vẻ rất yên tĩnh và rất vắng vẻ. Tôi có cảm giác đi trên những con đường của Hải Phòng thời sơ tán.

Càng về trưa, trời càng nắng. hai thằng chọn những con đường có bóng cây rợp mát để đi. Không còn nhớ chúng tôi đã đi qua những con đường nào. Rồi hai thằng lại đi loằng ngoằng theo những con đường khác để về bến xe.

Tại sao lại quay về bến xe sớm thế ? Là vì tôi nói với Hồng:

- Tôi đói quá ông ạ !
- Tôi cũng thế.
- Nếu biết thế này thì đã mang theo đồ ăn.
- Ừ ! Ông chả bảo tôi trước.
- Tôi vẽ xong mới nảy ra ý định đi xuống đây chứ đâu có định trước.
- Tôi đói run chân tay rồi ông ạ.

Hai thằng lếch thếch lê bước quay về bến xe. Trong túi không có một hào nào. Giá mà có vài hào thôi cũng được. Nhớ lại, hôm 30/4 ở Sài Gòn, mấy đứa có một đồng hay mấy hào cũng đổi được cái đồng hồ Seiko hay Orient. Người hiếu kỳ chỉ cần có được tiền bắc trước tiên để đi khoe là sướng rồi.

Vào đến bến xe, tìm xe đi Sài Gòn xuất bến đầu tiên rồi lại đến hỏi đi nhờ. Không còn nhớ Vũng Tàu Sài Gòn 15 phút hay 30 phút một chuyến. Đại khái là như thế. Khác hẳn với ngoài bắc, một ngày chỉ vài chuyến. Chiếc xe mà chúng tôi lên cũng là một xe lớn. Ghế của nó được đan bằng những dải sợi nylon xanh và trắng thành hình carô, vừa bền vừa sạch lại vừa thoáng mát.

Trên xe cũng chỉ có vài người. Khi xe ra khỏi bến tôi lại ngạc nhiên lần nữa vì nó đi ngược vào thành phố. Nó chạy chậm rà qua rất nhiều phố để bắt khách. Chúng tôi đã đói, lại càng sốt ruột. Mãi rồi chiếc xe cũng rời thành phố và chạy nhanh về hướng Long Thành.

. . . (hết chuện Long Thành)

To be continued...   

   

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip