9
Harry viết thư.
Trước giờ anh mới chỉ viết thư đúng hai lần, cả hai lần đều nhằm vào thời gian ông Auguste đi công chuyện. Sự thật là Harry không giỏi khoản sắp đặt ngôn từ cho lắm. Tất cả những hồi âm cho ông Auguste đều có sự góp sức đáng kể của Malfoy. Hai người cũng chẳng viết gì nhiều, chủ yếu là hỏi thăm sức khỏe, báo cáo tình hình tiệm, mấy chuyện lông gà vỏ tỏi trong thị trấn. Lần này Harry cũng tránh không dông dài kể lể. Cẩn trọng đề tên ông Auguste ngoài bì, rồi đặt bút lên tấm giấy đã ố vàng, anh bắt đầu viết.
"Gửi ông Auguste.
Cháu xin lỗi vì đã đột ngột biến mất. Với cả, vài giờ nữa là Năm Mới rồi. Ginny và mọi người ở Hang Sóc chắc chắn sẽ phản đối nếu cháu nói muốn trở lại thăm trấn này, nên cháu lén họ trốn khỏi nhà. Nãy cháu ghé ngang tiệm thì không thấy ông đâu cả. Mong là khi cháu để bức thư này trên quầy thu ngân thì ông sẽ đọc được.
Malfoy hiện giờ đang nằm trên giường cháu. Cậu ta đã hạ sốt rồi nhưng vẫn còn mê man bất tỉnh. Triệu chứng này giống hồi trước nên cháu cũng không gặp mấy trở ngại. Nhưng ông biết không, đầu cháu đang rối tung cả lên. Cháu chẳng biết mình nên làm gì tiếp theo, vì vốn dĩ cháu cũng không có cách nào tiến lên hay lùi bước. Cháu đoán mình sẽ mắc kẹt ở tình trạng khủng hoảng về ý nghĩa tồn tại này một thời gian nữa. Ông Auguste, ông ở trong giới phù thủy, hẳn ông cũng biết cháu đang nói về chuyện gì rồi đó. Cháu tin ông có lí do riêng để giữ cháu trong bóng tối cả mấy năm trời. Nhưng cháu cần lời khuyên từ ông. Nếu được, xin ông hãy hồi âm sớm nhất có thể.
Cảm ơn và chúc ông một năm mới an lành.
Harry James Potter."
Nắp chiếc bút mực đóng vào cái tách. Đã lâu rồi Harry mới có cảm giác chật vật khi ngồi trước cái bàn học cũ sơ sài đến thảm thương. Anh ngoái đầu nhìn sang, nơi gã trai tóc bạch kim đang nằm vùi dưới lớp chăn bông với hàng mi nhắm nghiền. Cũng đã lâu rồi anh mới có cảm giác ngồi bên giường và trông nom cậu. Anh vẫn còn nhớ dạo Malfoy hay mắc cảm, cứ vào độ giao mùa là thể trạng yếu ớt của cậu ta lại không đề kháng nổi. Nó luôn diễn ra bằng việc Harry phát hiện Malfoy nằm vật ở đâu đó với vầng trán nóng hầm hập, anh sẽ hốt hoảng dìu cậu ta vào phòng vì cậu ta chẳng còn đủ tỉnh táo để nghe anh gọi, bà Céleste sẽ đem gì đó từ dưới nhà lên giải cảm và Harry sẽ ngồi canh Malfoy với thau nước mát để sẵn dưới chân giường cho đến khi cậu ta lờ mờ có ý thức. Người bình thường sẽ phải coi việc chôn chân một chỗ để thời gian chết dần chết mòn là phiền phức, nhưng Harry chẳng hiểu sao lại thấy nhẹ nhõm. Anh thích ngồi trên ghế bập bênh trong căn phòng tối mờ, bên cạnh một Malfoy say ngủ đến bất động và thời gian thì cứ như ngừng lại. Khoảnh khắc đó cho phép anh thoát khỏi mọi suy nghĩ trên thế gian này, kể cả những điều nhỏ nhặt. Những gì anh cần tập trung là chờ cho đến khi hàng mi nhạt màu của Malfoy khẽ rung động. Khi môi cậu ta từ từ hé mở và đôi mắt xám chậm chạp hướng về phía anh, để rồi anh sẽ hỏi cậu ta có cần thêm gì không. Vậy nên anh vẫn thường có thói quen nhìn đăm đăm vào cậu ta, đến mức cẩn mật nghiên cứu từng đường nét trên gương mặt ấy. Malfoy có gương mặt mà Harry đã luôn coi là đẹp. Tuy nhiên, giờ anh mới để ý cái đẹp của cậu khác với cái đẹp của bất cứ người nào. Ginny có hương sắc rực rỡ nồng nàn khiến anh bị thu hút, Hermione có vẻ sắc sảo thông thái khiến anh thấy nghẹt thở mỗi lần nhìn vào đôi mắt kiêu hãnh của cô nàng. Nhưng vẻ đẹp của Malfoy chẳng dấy lên trong anh cảm giác gì. Nó chỉ đơn thuần là đẹp, chỉ có thế. Có lẽ phản ứng mãnh liệt nhất cũng chỉ là Harry sẽ âm thầm phản đối nếu có ai đó chê cậu ta xấu xí và kì quặc thôi.
Khi một người đang ở trong trạng thái không ý thức, đó là bản thể nguyên sơ nhất có thể thấy ở họ. Một người ngủ suy cho cùng cũng chẳng thể đeo lên lớp mặt nạ nào khác lên mặt mình. Malfoy cũng không phải ngoại lệ. Ngay lúc này, Harry không thấy nơi cậu ta một gã trai vui vẻ giúp đỡ hàng xóm và sẵn sàng làm mấy trò xuẩn ngốc như bê một cái máy hát chẳng biết từ đâu về trang trí tiệm sách, cũng chẳng phải con người lạ lẫm với vẻ góc cạnh u tối và tản mác trong không khí mùi hương của nước thấm vào đất. Là Malfoy đơn thuần nhất. Ý nghĩ đó làm Harry thấy yên lòng. Bởi khi cậu ta tỉnh dậy, anh sẽ không biết phải đối mặt với đôi ngươi của thằng kia như thế nào. Nếu chịu quan sát kĩ sẽ dần dần nhận ra màu mắt của Malfoy có thể biến đổi khôn lường tùy từng hoàn cảnh. Có thể là sắc xanh lam tựa như bầu trời giăng trên thị trấn vào những ngày cuối xuân, trong vắt không một gợn mây. Cũng có thể là gam xám trầm hơn màu mắt bình thường của cậu ta, gam màu của mảng trời mùa đông khi anh đi lang thang trên những con đường hun hút gió may, nặng nề ẩn khuất sau lớp sương mù dày đặc. Khi Malfoy hướng đôi mắt ấy về phía Harry, người đã biến mất suốt một thời gian và có thể cậu ta đã đoán được chuyện gì đang xảy ra với anh, không biết sắc màu nào sẽ trỗi dậy trong đó. Nhưng trên hết, anh sợ cái viễn cảnh phải quan sát cậu ta bằng ánh nhìn ngờ vực và xấu xí, sợ sẽ không giải thích được phức cảm vướng mắc trong lòng. Rằng anh nên thù ghét cậu ta hay yêu cậu ta như cái cách anh đã từng. Rằng Harry Potter nửa vời này sẽ có cảm giác gì đối với một người có tới hai bản thể.
Anh chần chừ, rồi dứt khoát đứng dậy. Có lẽ đã đến lúc phải ra về. Malfoy đã hạ sốt, nhịp thở cũng trở về đều đặn, cậu ta sẽ biết tự chăm sóc mình khi tỉnh dậy. Vả lại anh đã nhờ Cha xứ - người duy nhất gần nhà anh không cùng con cháu rời trấn đón Giáng Sinh – đến tầm tảng sáng sẽ sang kiểm tra tình trạng của cậu ta. Tất nhiên, đó chỉ là biện cớ cho sự trốn chạy hèn nhát của anh. Nhưng Harry chưa kịp cất bước thì chợt bên ngoài gióng lên những hồi chuông. Mười hai tiếng chuông ngân dài, cổ kính và vang vọng, phá vỡ khoảng thinh lặng tịch mịch của thị trấn đã chẳng còn mấy ai ngụ lại. Bên ngoài cửa sổ, bóng đêm lạnh cứng vẫn bao trùm lên tất thảy. Vậy là năm đầu tiên của anh và Malfoy đã trôi qua.
***
Hang Sóc không thức đêm để đón Giao thừa. Khi anh trở về, mọi người vẫn đang say ngủ. Anh loáng thoáng nghe được tiếng Rose khe khẽ nấc lên rồi lại im bặt. Harry định vào phòng ngủ tiếp – họ vẫn tưởng anh ở trong đó suốt từ tối – nhưng rồi cái đầu vô cùng tỉnh táo của anh lại phản đối. Thay vào đó, đôi chân dẫn anh hướng về phía bếp. Đó là nơi cái máy hát Muggle duy nhất được trưng trong nhà. Khi nãy ở căn hộ đường Willow, anh đã kịp thấy chiếc máy quay đĩa mới toanh trên bàn phòng khách (chẳng biết cái cũ đã biến đi đâu) cùng với một đĩa nhạc đề Waltz Đệ nhị của Dmitri Shostakovich. Anh ngẫm nghĩ, rồi thó lấy đĩa nhạc bỏ vào áo khoác. Anh lại nhớ đến đĩa giao hưởng vỹ cầm Malfoy giấu ở thư viện, bấy giờ đang nằm trong ngăn kéo bàn học, và quyết định mang cả nó đi theo. Lấy đồ của người khác trước khi hỏi xin là không phải phép, nhưng Harry chỉ tính mượn một lúc thôi. Hermione sẽ dùng phép thuật nào đó đưa chúng về nơi cũ khi anh muốn trả về.
Trước giờ Harry chỉ nghe đúng một loại nhạc, đó là jazz. Jazz đối với anh cũng là một khái niệm mơ hồ, bởi anh chỉ biết jazz qua Louis Armstrong, qua những đĩa nhạc lẻ tẻ của David Blume và Jonas Gwangwa, hay giọng ngâm nga chậm chạp của Billie Holiday. Nên khi nhìn thấy cái tên Dmitri Shostakovich, Harry có thể chắc chắn mình chưa từng biết đến bản nhạc này. Dựa vào họ nhạc sĩ anh biết đó là người Nga, dựa vào cái tên Waltz Đệ Nhị anh biết đó là một bản giao hưởng. Chỉ có giao hưởng mới phù hợp cho khiêu vũ cổ điển.
Harry cắm dây điện cái máy hát rồi ấn nút bật. Cái đĩa chầm chậm xoay tròn và đầu kim nhẹ nhàng đặt xuống rãnh âm thanh. Những âm dạo nhịp nhàng của saxophone vang lên, để rồi nối tiếp sau là tiếng vỹ cầm réo rắt. Anh thả mình xuống một trong số những ghế gỗ đặt xung quanh bàn ăn, vừa lắng tai nghe vừa nhìn những lọ gia vị ẩn khuất trong bóng đêm đặt im lìm trên chạn bát. Harry không biết mình thích âm thanh nào hơn nữa – saxophone trầm thấp hay vỹ cầm sắc sảo, nhưng vì việc ấy cũng chẳng quan trọng nên anh quyết định mình sẽ cùng lúc thích cả hai. Nốt cuối cùng vừa ngân lên, anh đứng dậy khỏi ghế, đặt lên máy đĩa nhạc còn lại. Reflections. Giao hưởng vỹ cầm cổ điển của một nhà soạn nhạc người Nhật, ra đời cách đây không lâu, chỉ có người thường xuyên lui đến thính phòng mới biết đến. So với khi nãy, nó không đạt đến độ phức tạp tinh xảo của một bản nhạc kinh điển, và tâm tư cá nhân chất chứa trong đó là phần nhiều. Harry mường tượng ra cảnh Malfoy ngồi lặng trong thính phòng tranh sáng tranh tối, hai mắt nhắm hờ để từng làn sóng thanh âm chạm đến tai mình. Khi ấy cậu đã từng nghĩ gì. Chắc không phải mấy thứ chuyện lông gà vỏ tỏi cậu ta rỉ tai anh khi họ ngồi nghe ban nhạc sống dạo khúc Arrivée des camionneurs trong quán bar tồi tàn đâu nhỉ.
Harry liếc nhìn chiếc khăn quàng anh vừa vắt trên lưng ghế. Tấm khăn kẻ sọc màu lục-xám, trước đó còn mang mùi táo xanh đặc trưng của Malfoy, bây giờ đã bắt đầu lưu vấn hương xả vải của Hang Sóc. Từ ngày hai thằng có thể tự nhiên hôn nhau kể cả là ở nhà hay tiệm sách, việc dùng chung quần áo dần trở thành lẽ thường tình. Vào đêm lễ hội diễn ra, anh cũng tiện tay lấy khăn của cậu ta mà quàng ra ngoài. Harry đã ngạc nhiên biết bao khi Ginny có thể nhận ra nó thuộc về Malfoy ngay từ lần chạm mắt đầu. Về sau này cô bé mới kể, phu nhân Malfoy là một người rất chiều con, bà sẽ không để bé Malfoy chịu thiệt khi cậu ta phụng phịu giận dỗi vì đến khăn len cũng phải dùng đồng phục. Một Malfoy luôn muốn mình nổi trội, là độc nhất vô nhị. Bởi thế nên bà đã tự tay thêu dòng chữ nắn nót A Malfoy's glory shall never cease bằng chỉ vàng kim lên tấm khăn để con trai hài lòng. Suốt năm năm học đầu, Malfoy luôn cố tình để mép khăn đó lộ ra bên ngoài, phô trương đến mức ai cũng nhớ kĩ chi tiết nhỏ ấy. Thậm chí sau bao lâu không gặp, Ginny vẫn có thể nhìn ra ngay.
Nếu vậy thì Malfoy hẳn sẽ nghĩ về những tháng ngày còn nhỏ rồi, khi Reflections vang bên tai như anh lúc này. Đó là thời cậu ta luôn tắm mình trong ánh hào quang êm dịu, niềm vui khắc dấu trên cả tấm khăn len, vừa được ẩn trong lớp vỏ an toàn của mẹ cha, vừa có bao kí ức thanh bình đẹp đẽ. Ginny kể nhà cậu ta có một căn Phủ rộng lớn ở Wiltshire, vùng thôn quê đẹp và thanh bình mà bất cứ người Anh Quốc nào cũng muốn trú chân ít nhất một lần trước khi chết. Harry nhớ anh từng thấy nơi đó đôi lần trên tivi hay trong sách báo, những cánh đồng cải dầu và lúa mạch, những rặng đồi xanh nối nhau trải dài trên nền trời bất tận. Con đường quê quanh co dọc những căn nhà xây từ gạch vôi cát, trước bậu cửa là thục quỳ và lài tây mọc thành luống nở tung những cánh ngọt ngào. Thảo nguyên với đàn ngựa thung thăng qua lại mở rộng đến cuối chân trời, sự bao la thách thức bất cứ cơn gió nào chạy ngang đó. Có lẽ tuổi thơ của Malfoy đã luôn ngập đẫm những thước phim tuyệt diệu như thế. Cậu ta sẽ ngồi trong khu vườn trồng đầy hoa hồng và ly trắng, cùng cha mẹ thưởng trà chiều trong khi phóng tầm mắt về phía dãy núi xanh đục mờ xa. Ánh nắng vàng kem phủ những hạt bụi lên khung cảnh ấy làm cho mọi thứ như nhuốm màu thời gian, và từng tiếng gió thì thầm trong lá cây, từng nhấp trà đưa lên miệng, từng hương thơm ngọt ngào của hoa và cỏ, tất thảy sẽ ùa về trong tâm trí Malfoy khi bên tai cậu ta vang lên tiếng nhạc. Harry không hiểu biết về cổ điển, nhưng theo cảm quan của anh, thứ nhạc này làm người ta dễ hoài niệm về những điều tươi đẹp đã qua. Anh ngạc nhiên khi mình lại chìm đắm trong mảnh kí ức cũ kĩ có lẽ từng thuộc về Malfoy thay vì hồi tưởng lại góc nào đó trong quá khứ của mình. Lại càng bàng hoàng khi ước gì mình đã từng là cậu ta, từng trải qua phần đời chẳng mấy dễ dàng ấy.
Phủ ở Malfoy ở Wiltshire sẽ tráng lệ dường nào khi hiện lên trong tầm mắt. Những món quà Malfoy được nhận mỗi dịp lễ lạt xa xỉ lộng lẫy bao nhiêu để cậu ta luôn hếch mũi lên kiêu căng với bạn bè. Cảnh sắc xung quanh căn nhà hiện lên trong trí nhớ Malfoy khi cậu ta sống lại trong những chuyến đi dạo. Bữa sáng lúc bảy giờ, bữa trưa mười hai giờ, bữa trà năm giờ và bữa tối bảy giờ rưỡi, đều đặn như tiếng kính coong của đồng hồ quả lắc.
Nhưng rồi viễn cảnh êm đềm tựa giấc mộng ấy dần rạn nứt ngay lúc cụm từ mười sáu tuổi hiện hữu trong đầu Harry. Mười sáu tuổi. Năm thứ sáu của Malfoy. Bà Molly đã đề cập đến giai đoạn đó trong câu chuyện của mình. Đó là năm cậu ta thay cha trở thành Tử Thần Thực Tử. Thằng bé gầy nhom, da sạm hẳn đi, mắt thì có quầng thâm và dáng vẻ lúc nào cũng ủ dột. Molly vừa nói vừa chép miệng. Bác không có gặp trực tiếp thằng bé, nhưng mấy đứa có kể cho bác, và bác biết nó phải trải qua quãng thời gian khó khăn chừng nào. Chỉ trong tích tắc, căn Phủ ngập tràn ánh nến rực rỡ đã bị bao phủ bởi bóng tối, hương thơm của sáp, cỏ xạ hương và những dĩa thức ăn bị át đi bởi mùi tanh tưởi của máu và xác người. Malfoy ngạo nghễ và vô tư lự ngày nào bị áp lực đè nặng lên an nguy của gia đình đánh gục.
"Con..." Harry cắt ngang lời người phụ nữ tóc đỏ. "Con chưa từng biết tên của cậu ấy."
Bà Molly ngạc nhiên, rồi mỉm cười nhũn nhặn. "Giờ bác mới biết. Ginny nói nó sẽ không bao giờ nhắc đến tên thằng bé nữa cho đến cuối đời. Vậy ra Malfoy không nói cho con biết hả?"
"Cậu ta luôn giấu con về bản thân mình." Anh vò tóc. "Con đã cố lờ đi sự thật rằng đến tên cậu ta con còn không biết. Nhưng mà..."
"Nhưng mà chúng ta nên tôn trọng quyết định đó, phải không nào." Bà Molly gỡ bàn tay đang chuyển động điên cuồng khỏi mớ tóc rối bù của anh. "Bác tin là mọi người trong Hang Sóc sẽ đều nghĩ như bác. Nếu Ginny không hấp tấp kể cho con về Malfoy, bọn ta sẽ suy xét cẩn thận trước khi tuồn ra bất cứ thông tin gì. Giờ thì chỉ còn mỗi tên thằng bé là con chưa biết thôi. Bác không muốn phải lấy đi quyền tiết lộ cuối cùng đó của Malfoy."
"Hãy chờ đến khi tự thằng bé nói với con, nhé?"
Nhạc dứt. Harry ngẩng đầu khỏi hai bàn tay lạnh toát, nghển đầu nhìn xung quanh. Vẫn là căn bếp nhờ nhờ tối với hàng dài những hũ gia vị. Máy quay đĩa đã ngừng, nhưng chẳng hiểu sao âm hưởng của nó vẫn còn đâu đây đọng lại. Giống như bóng ma của Malfoy mười sáu tuổi lưu vấn trong bóng đêm đen đặc, hướng đôi mắt lạnh lẽo và mệt mỏi về phía anh. Có khi nào cậu ta cũng nghĩ về quãng thời gian tăm tối ấy khi ở trong thính phòng không. Có đấy, cậu ta nhợt nhạt cười. Mày hãy tưởng tượng cảm giác thế nào khi vừa mới sống lại những buổi chiều xinh đẹp nơi khu vườn sau Phủ rợp nắng, chốc sau đã bị đưa về gian phòng tanh tưởi cuồng loạn nơi Tử Thần Thực Tử thống trị. Âm nhạc đôi khi cũng là một con dao hai lưỡi. Nên thay vì nhớ về quá khứ, tao muốn thử một luồng gió hoàn toàn khác xem sao.
Phải rồi. Ra đó là lí do cậu ta nghe jazz, thích jazz và điên đến mức tối nào cũng luyện jazz trên cây saxophone để hàng xóm kéo đến phàn nàn. Ra cậu ta phải giấu đĩa nhạc cổ điển này trong hộc tủ để đôi khi trở về với con người trước đây của mình. Ra cậu ta tuy ép mình vào một guồng quay mới để thanh thản mà sống tiếp, nhưng cậu ta chưa bao giờ thôi nhớ nhung những kí ức đẹp đến nao lòng, chưa bao giờ thôi ám ảnh những vết nhơ thời thiếu niên để lại. Vậy mà bây giờ Harry mới biết. Vậy mà bây giờ Harry mới chịu lắng nghe những thanh âm thật sự của cậu ấy, những thanh âm thác loạn giông tố ẩn sau lớp vỏ tĩnh lặng tựa như tàn dư của một thứ âm hưởng bập bềnh. Harry đã luôn ảo tưởng rằng Malfoy thật sự muốn mình, nhưng thì ra cậu ta chỉ tìm đến anh như một sự an ủi. Một cái gì đó mang vẻ ngoài gợi nhắc cậu ta về quá khứ, nhưng cũng đủ mới để cậu ta không bị ám ảnh với nó.
Đợi đã. Có giọng nói trong đầu anh cự cãi. Nếu cậu ta thật sự không yêu mày, tại sao cậu ta lại hôn mày, và đáp trả tất cả những nụ hôn của mày sau đó. Tại sao cậu ta lại chấp nhận để hai thằng trở thành tình nhân.
Nhưng nếu thực sự yêu thì sẽ không giấu giếm như mèo giấu mỡ đúng không. Lại một giọng nói nữa phản lại. Cậu ta chẳng hề hứng thú với mày đâu, Harry Potter. Cậu ta chỉ thích thú khi thằng chả mình ghét đột nhiên bị bay sạch kí ức thôi. Và cậu ta làm thế chỉ để duy trì mối quan hệ giữa hai thằng. Để mày không nghi ngờ. Và đúng là mày đã ngu ngốc tin cậu ta trong một thời gian dài, Harry ạ.
Anh gay gắt chẹn chặt tay lên đôi tai mình. Trong thoáng chốc, những giọng nói vụt biến mất. Ổn rồi. Ổn rồi. Harry lẩm bẩm, tự trấn an bản thân. Mày vẫn ở trong cái hộp. Mày được an toàn. Chỉ có một mình mày ở đây, nên mày không cần lo nghĩ gì hết.
Chờ cho thằng bé tự mình nói với con, nhé?
Harry lia mắt qua gã trai tóc bạch kim gầy gò ngồi đối diện.
Sẽ không có lúc đó nữa đâu, anh thì thầm.
***
Ginny và vợ chồng Weasley trẻ cãi nhau. Bằng một cách nào đó, cô bé phát hiện anh chị mình đã biết từ trước chuyện Harry bị phong ấn phép thuật. Sáng hôm đó, vừa mở mắt tỉnh dậy, anh đã nghe thấy tiếng hét đến lạc giọng của Ginny vang lên từ dưới tầng.
"Hai người coi em là trẻ con hay gì? Tại sao lại phải giấu giếm em như thế?"
"Ginny, bình tĩnh đã-"
"Ginny!"
Có một khoảng lặng dài. Rồi Ron tiếp tục rít lên phẫn nộ.
"Nếu em biết ngay từ đầu, em sẽ khăng khăng đòi phải đưa Harry về đây với ba cái viện cớ vớ vẩn là sẽ có cách hạn chế khả năng bộc phát năng lượng thô! Việc em tìm thấy cậu ấy cũng hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của bọn này!"
"Nhưng ít ra, anh phải nói em biết không còn cách chữa trị cho anh ấy..."
"Anh chị bảo vậy- em có tin không? Hay mọi chuyện vẫn sẽ xảy ra như này - em sẽ lao đầu vào sách vở và các Lương Y - cho đến khi chính miệng một ai đó từng tham gia chữa trị cho Harry đưa em về sự thật? Thậm chí mười Lương Y duy nhất biết về tình trạng của Harry Potter còn phải lập Lời Thề Bất Khả Bội rằng sẽ không tiết lộ ra bên ngoài cho đến khi Bộ chính thức xóa bỏ lời thề. Chỉ trừ có anh, chị Hermione với ông Auguste, bởi bọn anh được tin tưởng. Lạy Merlin, càng ngày anh càng muốn bắt chước lũ Slytherin rồi đấy. Đồ Gryffindor não phẳng!"
"Nói như vậy..."
"Phải, bà Lương Y đó qua đời ngay sau đêm Giáng Sinh! Mặc dù trong di thư bả bảo mình không còn sống được quá mấy tháng nên quyết định chết không vô ích, nhưng đó là một mạng người, Ginny!"
Không ai nói gì sau đó nữa. Còn Harry thì ngồi thụp xuống đất, lưng dựa vào cánh cửa, nghển đầu tự hỏi liệu có tốt hơn không nếu ngay từ đầu anh không đến Hang Sóc.
***
"Harry, bồ vừa nói gì cơ?"
Hermione tròn mắt kinh ngạc. Ron thì làm rơi cả chồng tài liệu xuống sàn nhà.
"Tớ bảo là... tớ muốn đi làm." Hai tay Harry vặn vào với nhau. "Tớ không muốn ăn nhờ ở đậu mọi người."
"Bọn tớ đâu có phiền!" Cậu chàng tóc đỏ phản bác. "Mình là người một nhà mà Harry, sao bồ phải khách sáo chứ!"
Harry thở dài. "Tớ biết mọi người không phiền, nhưng tớ thì có. Ở trong nhà mãi cũng ngột ngạt lắm. Tớ muốn trở lại cuộc sống bình thường trước đây."
"Nếu ra ngoài người ta sẽ phát hiện ra bồ, bồ không lo hả?" Hermione dịu giọng thuyết phục. "Chỉ một bất cẩn nhỏ là tên cậu sẽ lên đầu Nhật Báo Tiên Tri ngay hôm sau đó."
"Tớ chỉ là muốn sống bình thường thôi, Hermione. Với tư cách là chính bản thân tớ hiện giờ. Bên cạnh đó" – anh ngập ngừng – "chẳng phải tớ không còn cách nào để quay lại như cũ sao. Chờ đợi còn có ích gì chứ."
Bà Molly là người đầu tiên đứng lên ủng hộ Harry. Đừng trói buộc thằng bé nữa, bà thẳng thừng với hai đứa con, hãy để nó sống tự do. Vả lại nơi này cũng neo người, nếu Harry di chuyển trong một phạm vi nhất định sẽ không đụng mặt phù thủy. Ron và Hermione tranh nhau phân trần rằng sẽ không ổn nếu cánh nhà báo để mắt đến anh. Cộng đồng này sẽ hỗn loạn ra sao, và quyền riêng tư của Harry cũng sẽ gặp nguy hiểm. Hai bên mất cả một buổi sáng Chủ Nhật để cãi cọ. Cuối cùng, hai người bạn phải đồng ý cho Harry ra ngoài theo ý thích, với điều kiện là anh phải cẩn trọng và không được phép trở lại thị trấn ngay lúc này.
Harry thất vọng. Anh đã muốn trở về tiệm sách, nơi bức thư gửi ông Auguste hẳn vẫn còn để trên quầy thu ngân. Anh nhớ các bà trong Hội Phụ Nữ, nhớ đám trẻ con kéo nhau la liệt đến quầy sách thiếu nhi, nhớ cái máy hát luôn văng vẳng những điệu jazz du dương và dây đèn màu nhấp nháy giăng trên cửa sổ. Khi anh mất thứ gì rồi thì mới nhận ra nó giá trị đến dường nào. Harry gần như có thể nghe thấy bà Pam phàn nàn thế bên tai mình với đôi tay khoanh lại nghiêm nghị, và anh lại nhớ về cái hồi mình còn ngượng ngập không muốn đụng chạm thân thể với Malfoy. Giờ thì anh còn nhớ nhung cả giai đoạn đáng xấu hổ đó nữa. Nhưng Harry không thể trái lời hai người bạn thân mà quay về thị trấn. Anh quyết định sẽ kiếm công việc làm thêm ở tiệm cà phê cách Hang Sóc mười lăm phút xe buýt, một nơi hẻo lánh và tĩnh lặng nằm ở rìa thành phố, quan trọng là vừa đủ để gã ghét tiếng ồn như anh có thể thích nghi được. Bên cạnh đó họ chỉ tuyển nhân viên tạm thời, đến tầm hai tháng sau là có thể xin nghỉ. Cái chốn này đến với anh khá tình cờ - anh thấy tin tuyển dụng trên báo địa phương mà nhà Weasley gọi là báo Muggle, trong một lần rảnh rỗi chẳng biết làm gì nên mới lôi ra đọc.
Tiệm cà phê nhận anh vào làm gần như ngay lập tức, bởi đợt tuyển nhân viên đó ngoài anh và một bà già ra chẳng còn ai ứng cả. Harry không gặp người chủ tiệm vào hôm phỏng vấn – người tiếp anh hôm đó là một ông bác luống tuổi. Chỉ đến khi anh đến làm việc buổi đầu, cô gái trẻ với mái tóc nâu được tết thành hai bím dày mới chạy ra đón tiếp anh với nụ cười niềm nở.
"Tôi đoán đúng mà." Giọng nói nhỏ nhẹ của cô tựa những hồi chuông trong ngần. "Anh đúng là Harry Potter rồi."
Harry sửng sốt, và anh lùi lại cảnh giác. Cô gái này biết anh – hẳn cô cũng có dính dáng đến Cộng đồng Phù thủy. "Ôi thôi nào, đừng căng thẳng thế chứ. Nhìn qua tôi đã biết tỏng anh bị vấn đề gì đó về trí nhớ." Cô gái tóc nâu vuốt nhẹ mép váy. "Được rồi, vậy mình làm quen từ đầu nhé. Tôi là Daphne Greengrass, chủ tiệm cà phê."
"Greengrass." Harry cẩn trọng trong từng lời nói của mình. "Sao cô biết tôi?"
"Tôi từng học cùng khóa với anh. Vả lại, ai mà không nghe qua cái tên Harry Potter vĩ đại chứ."
Anh chỉ muốn quay đầu và bỏ chạy ngay lập tức. Hermione, Ron và cả Harry đều đã quá chủ quan khi cho rằng một phù thủy sẽ không thể nào mở tiệm cà phê ven vùng ngoại ô buồn bã được. Cô gái vẫn quan sát anh một cách kín đáo – cái nhìn như xoáy sâu vào bụng dạ người đối diện y hệt Malfoy – rồi thở dài một hơi.
"Anh có thể yên tâm. Tôi sẽ không tiết lộ bất cứ thông tin nào về nhân viên của mình ra ngoài. Vả lại, cống nạp anh lên Bộ giờ chẳng có ích lợi gì. Có khi tôi còn bị vướng vào mấy tra vấn rắc rối."
"Cô biết mọi chuyện về tôi?" Harry gằn.
"Đừng to tiếng khi quán đang mở cửa đón khách." Greengrass tựa người vào quầy pha chế. Giờ anh mới để ý đến chiếc áo cardigan khoác ngoài váy len pha nhạt màu cô đang mặc. Trang phục toát lên sự trang nhã, giống như cách sắp xếp đồ đạc gọn gàng sau quầy."Tôi chỉ đoán thôi. Harry Potter, đột ngột biến mất sau chiến tranh thay vì trở thành Thần Sáng tiềm năng của Bộ. Không có lí nào một người hùng trọng nghĩa trọng tình như anh lại vô cớ rũ bỏ trách nhiệm bảo vệ thế giới phù thủy này. Chỉ có hai khả năng: hoặc là anh bị bắt cóc, hoặc là anh đã trở thành một sinh vật nguy hiểm đến mức người ta phải giấu nhẹm đi." Nói đến đây, cô ngừng lại, cố che đi nụ cười. "Chính thái độ của Bộ củng cố thêm cho lập luận của tôi – mặc cho báo chí có rầm rộ về sự mất tích của Harry Potter thế nào, họ vẫn tỏ ra bàng quan và cố trấn tĩnh người dân bằng mấy phát ngôn dở người kiểu Cứu Thế Chủ muốn có thời gian nghỉ ngơi sau chiến tranh và này nọ. Nói tóm lại, tôi đi đến kết luận Bộ đã giam cầm anh vì một lí do nào đó. Giờ nếu tôi là người phát hiện ra Harry Potter bị thả rông và đem rêu rao khắp chỗ, họ sẽ căm tôi đến tận xương tủy. Mà tôi thì đã lụi bại lắm rồi."
Harry lặng người. Anh hấp tấp lôi bình giữ nhiệt đựng trà trong túi xách ra, hớp lấy hớp để nhằm lấy lại bình tĩnh. Rõ ràng là cô gái đứng trước mắt đã làm anh choáng ngợp bởi mớ lập luận sắc sảo kia.
"Cô có thể đoán ra như vậy, hẳn nhiều người ngoài kia cũng đặt nghi vấn rồi." Anh nhìn cô ngờ vực. "Làm sao đến giờ mọi chuyện vẫn yên ổn được."
"Ai mà biết, có lẽ vì tôi là một Slytherin Thuần huyết." Greengrass nhún vai. "Chúng tôi sinh ra để nhìn thấu bản chất mọi sự trên thế gian này. Đúng như anh nói, sẽ rất nhiều người cũng suy đoán như tôi, nhưng họ đủ thông minh để lường trước hậu quả nếu mình lên tiếng."
"Đáng lẽ cô nên tỏ ra không biết tôi mới đúng."
"Vậy nếu một gã Gryffindor từng là bạn của anh băng ngang tiệm và đúng lúc anh đang trưng bộ mặt quý báu của mình trước cửa kính, anh có phiền nếu cô chủ quán không hề biết việc anh là Cứu Thế Chủ đột ngột lôi anh ra sau quầy không?"
Quả là Slytherin. Không chỉ ánh nhìn xét nét, lối ăn nói của cô cũng giống Malfoy y hệt –
tuy trong đó không mang nhiều ý móc mỉa bằng. Harry ngần ngừ, cuối cùng cũng dè dặt đặt túi xách xuống quầy pha chế.
"Cô biết việc chứa chấp tôi nguy hiểm đến mình mà. Sao cô vẫn tuyển tôi vào làm việc?"
Greengrass nhẹ nhàng đón lấy cái túi và xếp nó gọn gàng lên kệ. "Tôi đã bắt đầu tuyển nhân viên từ hồi đầu đông nhưng chẳng ai chịu đến đây ứng cả. Anh và bà Magnus là hai người đầu tiên đến đây sau mùa tuyết. Bà Magnus rất đáng mến, nhưng bà ấy đã quá yếu. Tiệm này có trụ tiếp được không phụ thuộc vào anh."
Harry tính mở miệng hỏi thêm, nhưng rồi im lặng. Anh biết cuộc sống sau chiến tranh của những gia đình dính dáng đến Chúa Tể Hắc Ám đều chật vật. Malfoy là một ví dụ điển hình của tấn bi kịch – gia sản bị tịch thu, nhà cửa mất, cha mẹ qua đời trong đau khổ. Greengrass nói mình là Slytherin Thuần huyết – hẳn cô cũng từng trải qua điều tương tự, và nơi lụp xụp này là nguồn kiếm sống duy nhất của một phù thủy đã bị ruồng rẫy. Giờ thì Voldemort có hồi sinh và đến xin làm nhân viên pha chế chắc cô cũng nhận vào nếu thấy lợi nhiều hơn hại.
Ở tiệm cà phê thư giãn hơn Harry tưởng. Nơi này dù nhỏ bé nhưng được bài trí xinh xắn, với tông màu xanh lá – xám bạc làm chủ đạo, kết hợp cùng gam nâu trầm của gỗ khiến không khí trong tiệm không lạnh lẽo mà ấm cúng hơn. Trước cửa ra vào là những đốm nụ tím thiên thanh của bụi thụy hương, tuy Greengrass nói rằng mới hôm trước thôi nó còn suýt chết vì lạnh. Công việc của anh cũng đơn giản – chỉ mất một hai ngày để học pha chế đồ uống, phục vụ khách và giải quyết mâu thuẫn nếu có ai đó phàn nàn. Chốn này chẳng có mấy dân cư trú ngụ, khách hàng chủ yếu là những nhân viên công sở tạt ngang để dùng bữa trưa hoặc tìm chỗ ngồi nghỉ. Vừa hay ga tàu lại chỉ cách đấy vài bước đi bộ. Vào những ngày nhất định, khi lượng hành khách đi tàu tăng lên đột ngột, thể nào tiệm cũng chật ních người và mùi mồ hôi quyện cùng nước hoa rẻ tiền sẽ xâm lấn đến từng ngóc ngách. Cô gái tóc nâu giải thích từng ấy thứ một cách nhanh gọn và rành rẽ, rồi yêu cầu anh theo cô ra sau quầy để học cách sử dụng máy pha cà phê. Harry hơi chần chừ trong bước chân, nhưng suy đi tính lại vẫn chẳng thấy ở gian phòng ngập hương thơm của cà phê rang và kem sữa béo này sẽ có tổn hại gì đến mình cả. Huống chi anh lại đang muốn thoát khỏi hàng rào gỗ với tầm ma bao phủ của trang trại Hang Sóc. Nơi này có lẽ là lựa chọn tốt hơn hết.
"Phải rồi." Greengrass lia đôi mắt tối màu về phía anh, nhẹ giọng thắc mắc – câu hỏi đầu tiên mà không phải đến từ phía Harry. "Trước đây anh từng có kinh nghiệm làm ở tiệm sách, đúng không nhỉ?"
Những ngày Harry đi làm thêm, Ginny ở nhà đã bình tĩnh lại. Tuy hai người vẫn chưa có cuộc trò chuyện nào cho ra cuộc trò chuyện, cô bé đã chịu ra khỏi phòng và cùng mọi người dùng bữa. Thời tiết cũng dần ấm lên sau những trận bão tuyết nối tiếp nhau, đem lại sức sống cho Hang Sóc và vạt rừng phía sau trang trại. Thi thoảng Ginny lại dè dặt gõ cửa phòng anh vào sáng sớm và hai người sẽ cùng nhau đi dạo. Harry thích nhìn cô bé trong chiếc áo khoác bông màu rêu và tà váy lụa xếp ly chạm mắt cá chân, mái tóc đỏ được cột gọn gàng bằng sợi ruy băng – mỗi ngày một kiểu, tùy theo sở thích của cô bé hôm đó. Cô thường dẫn anh xung quanh hồ nước, kể từ lúc màn đêm với một vài ngôi sao vẫn còn chưa lụi tắt trên những rặng cây phía bên kia hồ cho đến khi bình minh dần lên nơi đường chân trời. Harry vẫn nhớ như in chuyến đi dạo đầu tiên của hai người – ánh mặt trời tỏa nhè nhẹ sau dãy núi xa thẳm, khiến làn nước từ một mặt phẳng xám mờ tịch mịch đột ngột biến đổi thành vô vàn màu sắc – nghệ tây, hồng ửng, đỏ tía và thiên thanh lộng lẫy. Tiếng rì rào trong những bụi hoa dại dưới chân Harry hòa cùng khúc hát ngọt ngào của những đàn chim trở về sớm từ phương Nam sau đợt tránh rét, tựa âm thanh của vạn vật đang chuẩn bị cựa mình trỗi dậy. Gió mơn man những sợi tóc mai để thả của Ginny, tà váy của cô cũng theo đà đung đưa. Harry chưa bao giờ thấy cô bé dịu dàng đến vậy. Ấy thế mà ngay cả khi sóng bước cùng Ginny bên cạnh, anh vẫn nhớ nhung những chuyến đi bộ trong rừng. Không gian không rộng mở và nhiều màu sắc như này, nhưng nghĩ lại thì hai thằng mới chỉ đến đó đôi lần vào khoảng hạ - thu. Nếu là một khu rừng mùa xuân, không biết sẽ ra sao. Hẳn màu xanh cũng đang bắt đầu phủ trùm lên đó rồi.
Khi ấy, Malfoy sẽ chụp cho anh một tấm ảnh chứ?
Lần một lần hai, Harry và cô bé tóc đỏ vẫn giữ im lặng một cách ngượng ngùng. Nhưng dần dà Ginny bắt đầu mở lòng trong trò chuyện. Cô bé tuyệt nhiên không nhắc gì đến chuyện của anh và chỉ kể về những thứ lông gà vỏ tỏi vui tai. Harry biết ơn cô vì nỗ lực đó.
"Anh không biết tay Brookwhistle đó dai dẳng thế nào đâu." Vào chuyến đi dạo buổi sớm thứ tư của họ, Ginny vừa cười vừa vung tay cao hứng – thật tốt khi thấy tâm trạng cô đã khá hơn. "Thư cú nhiều đến phát bực. Anh ta còn mua cho em cà phê nữa chứ. Điểm tốt duy nhất của ảnh chắc là ưa nhìn với cả tặng em cà phê thay vì hoa hồng thôi."
"Cho anh xem ảnh của tay đó được không?" Harry nheo nheo mắt.
"Tất nhiên rồi, để anh biết cái mặt dương dương tự đắc ấy khó coi đến mức nào..."
Ginny im bặt. Rồi cô nhỏ nhẻ cất lời, đôi mắt lia về phía khác.
"Anh ạ. Em đã giết người."
"Không phải lỗi do em đâu." Harry vội vã nắm lấy tay cô bé trấn an. Tất cả là do anh, đó là phần anh giữ lại.
Harry không kể với Ginny, hay bất cứ ai trong Hang Sóc, về cô gái tên Daphne Greengrass. Anh cho cái việc ấy là không cần thiết. Nhất là khi Greengrass đối đãi anh hoàn toàn dựa trên mối quan hệ nhân viên và chủ tiệm, bên cạnh đó là không khí trong gia đình Weasley đã khá hơn đáng kể so với mùa tuyết vừa rồi. Ginny bắt đầu lăng xăng chạy xuống bếp phụ mẹ việc nhà cửa. Công việc của ba người đi làm cũng dần thư thả, tạo điều kiện cho họ dành thời gian chơi với nhóc Rose. Con bé dạo này hay được ba mẹ dắt đi chơi, tập xe, thậm chí là thử tiếp xúc với cán chổi. Lập Xuân dần dà chạm ngõ cùng với tiếng sinh hoạt ồn ào lấp đầy căn nhà nhỏ chắp vá. Đôi lúc, khi đứng tựa vào gốc thông và dõi theo gia đình sáu người đang ngồi trên thảm dã ngoại phía xa đằng kia bãi đất, Rose lấy hoa dại cài lên đầu ông nội và tất cả cùng phá lên cười, Harry lại tự dặn bản thân không được xen vào hạnh phúc của họ. Không ai có nghĩa vụ phải quan tâm anh cảm thấy thế nào cả, ganh tị hay cô độc, bởi suy cho cùng cũng chỉ còn mỗi Harry trong thế giới của mình. Vả lại, sự hiện diện của anh chỉ làm mọi thứ vừa mâu thuẫn vừa mệt mỏi. Và rồi anh lại đưa hai tay lên úp vào tai, chầm chậm. Chẳng còn âm thanh nào ngoài những luồng nhiễu sóng.
Xét về độ thoải mái, ngạc nhiên là tiệm cà phê của Greengrass lại chiếm phần hơn. Ở đó Harry không cần phải để ý việc mình có làm phiền người khác không – tất cả những gì anh bận tâm là tiếp khách và cố gắng theo kịp khóa huấn luyện của cô gái tóc nâu thấp hơn anh một cái đầu. Greengrass vẫn chưa vội tin tưởng giao cho anh việc pha chế. Thực ra Harry thấy mình xoay sở khá tốt với máy pha cà phê, nhưng người chủ tiệm chỉ nhìn anh mà thở dài thườn thượt.
"Tôi đã lầm khi tính toán rằng anh chỉ cần một hai ngày là thạo việc. Dạy anh sẽ vất vả đấy." Cô gái trượt tay trên mặt kim loại đã cũ kĩ. "Dù sao cái máy này không được hiện đại cho lắm, điều chỉnh áp suất nhiệt độ cũng khó."
Harry đảo mắt. "Cô không dùng đũa phép hả?"
"Tôi không đem đũa đến đây. Nếu đem nó ra trước mặt Muggle là dọa chết khiếp người ta luôn, đã thế tôi còn có nguy cơ bị bắt."
Có lẽ khía cạnh này của Greengrass cũng là một phần nguyên nhân làm Harry thấy dễ chịu nữa. Cô ít nói về quá khứ, càng hiếm nhắc đến những người ở giới phù thủy, có lẽ là sợ việc mình lỡ đánh thức đâu đó trong trí nhớ Harry sẽ gây phiền phức. Cô không vẩy đũa phép để di chuyển tách chén và thức ăn như bà Molly, đến dọn sàn cũng lau thủ công bằng chổi. Việc lau dọn đã được bổ lại cho Harry khi cô thấy anh không phải một nhân viên tiềm năng để đảm nhận bưng bê hay pha đồ uống cho khách hàng. Thay vào đó, anh sẽ phải ở lại tiệm sau giờ làm để học từng bước căn bản. Mỗi loại cà phê đều cần nguyên liệu, áp suất, nhiệt độ cũng như thời gian chiết xuất khác nhau. Cũng chẳng phải chỉ cần cho bừa tất cả vào máy rồi ấn hai ba nút là xong, ngoài ra còn phải kè kè bên cái máy cũ dở người đó để nén cà phê hoặc xả nước nếu cần thiết. Harry vẫn nhớ món đầu tiên Greengrass hướng dẫn anh pha là espresso, một thứ cà phê đậm vị cần áp suất lớn. Sau này cô còn dạy anh nhiều thức uống khác, ấy vậy mà hương vị espresso đọng trong vòm lưỡi Harry chiều hôm ấy vẫn để lại ấn tượng hơn cả. Malfoy đã đúng khi chê ỏng chê eo món cà phê vừa nguội vừa nhạt phèo của tiệm nước trong trấn. Phải cần sự tỉ mỉ chính xác thì mới cho ra một tách cà phê vừa vặn được.
"Cũng na ná như nướng bánh vậy." Greengrass nói bâng quơ khi sắp xếp mấy túi bột cà phê lên kệ. "Anh cần chú trọng đến cả tỉ lệ các nguyên liệu trong hỗn hợp và canh thời gian để bọt khí không bị vỡ. Trước giờ tôi chưa thấy nam phù thủy nào thành công trong việc này cả - họ toàn đổ việc nấu ăn cho vợ mình."
Harry thoáng nghĩ đến món bánh táo thơm và giòn rụm của Malfoy, nhưng anh quyết định không đề cập đến cậu ta. "Cô biết làm đồ ngọt."
"Mẹ tôi dạy. Bà bảo mỗi quý cô Thuần huyết cần phải độc lập và tự biết chăm sóc bản thân mình thay vì dựa vào Gia tinh phục vụ."
"Gia tinh. Nghe nói ngày xưa tôi cũng có một người bạn là Gia tinh thì phải."
"Tôi thì, chà, không rõ về đời tư của anh lắm."
Giá như anh biết rõ hơn về con Gia tinh tên Dobby ấy, về những chuyện đã xảy ra trước cái chết của nó để có thể kể rành rẽ cho cô gái nghe. Harry lắc đầu, xua đi ý nghĩ thoáng qua. Anh ngần ngừ nhìn cái tay vắt bám đầy bã cà phê trên tay mình.
"Cô dạy tôi được không?"
"Dạy?"
"Nướng bánh ấy."
Thực ra Harry không cần thiết phải học nướng bánh – nhiệm vụ của anh chỉ có pha chế thôi. Với cả, nếu bị bỏ đói như Malfoy nói, anh cũng có công thức của bánh mì nướng bơ rồi (mặc dù anh không chắc mình có thể nấu đàng hoàng, vì lần trước vẫn phải để Malfoy hỗ trợ). Anh chỉ là có cảm giác muốn trở về điểm xuất phát và bắt đầu lại. Từ trước đến giờ anh chưa một lần tự mình làm nên chuyện; nấu ăn dở, mắt thẩm mỹ kém, dọn dẹp chỉ để phòng ốc bớt bám bụi một tí, đến những cái lẻ tẻ vụn vặt như ngâm nước quả mơ và học một nhạc cụ nào đó cũng chẳng xong. Có lẽ Greengrass sẽ giúp anh cải thiện khay bánh gừng xẹp lép mà ai cũng phải công nhận là thất bại hoàn toàn.
"Anh có chắc không vậy?" Cô chủ tiệm nhíu mày nghi hoặc.
"Tôi khá chắc là, ừm, có."
"Nếu thế thì anh phải ở lại tiệm muộn hơn nữa. Tôi sợ anh không kịp dùng bữa tối với nhà Weasley."
"Trong trường hợp đó", anh vội nói, "tôi sẽ ăn ở đây luôn."
Greengrass liếc anh. Quá trình dò xét và thấu suốt lại diễn ra, và anh đoán cô biết anh đang nghĩ gì rồi.
"Nếu đó là những gì anh muốn." Cuối cùng Greengrass nhún vai, còn Harry thì thở phào.
***
Sau giờ học làm bánh ở tiệm, Harry không về nhà vội. Anh lảng vảng đến mấy quầy đĩa nhạc, lưu luyến một lúc chỗ kệ jazz cho đến khi dứt khoát tìm thể loại cổ điển trong tiệm. Phần nhiều chỗ đó là nhạc của Mozart, Beethoven, Bach, Chopin, Schubert hay Vivaldi, những cái tên anh đã nghe đến mòn tai. Anh quyết định thử giả vờ làm Malfoy, lui đến những thính phòng nhỏ, chọn những bản nhạc mình chưa từng biết đến. Harry nhìn tới nhìn lui một hồi, cầm lên một đĩa nhạc đề tên Blue Night Waltz của Ilya Shatrov. Ngắm một lúc nữa rồi lấy thêm The carnival of the animals-The Swan của Camille Saint-Saëns (lí do duy nhất khiến anh chọn nó là vì anh từng thấy cái tên này trên cuộn băng cát-xét của bà Céleste, hôm anh giúp bà chữa cái đài hỏng). Do chỗ tiền anh mang theo có hạn nên anh chỉ vác hai đĩa nhạc ấy về nhà.
Harry lịch sự hỏi bà Molly liệu anh có được mang cái máy hát lên phòng. Tất nhiên bà đồng ý, còn hỏi anh có muốn mua một cái đài hẳn hoi không. Nhưng anh chỉ cần máy hát thôi. Không cần lén lút chờ mọi người ngủ say, giờ đây Harry có để phát nhạc bất cứ lúc nào anh muốn. Blue Night Waltz được anh cho lên quay đĩa vào lúc tảng sáng (thiết nghĩ cái tên với khoảng thời gian không ăn nhập với nhau lắm), còn The Swan thì vang vọng khắp phòng khi anh vùi đầu đọc cuốn tiểu thuyết Greengrass cho mượn, Fahrenheit 451 của Ray Bradbury, vào một chiều Chủ Nhật trời âm u. Bản nhạc đầu có âm hưởng na ná với Waltz Đệ Nhị (chắc do cùng là hai ông người Nga sáng tác, người Nga soạn nhạc nghe cứ như dành cho quân đội hoàng gia vậy). Bản sau thì nhẹ nhàng hơn, dòng cảm xúc êm ả giống như con thiên nga nhẹ nhàng lướt trên mặt nước, điều đó khiến Harry khá bất ngờ bởi trước giờ anh luôn coi cổ điển là thứ nhạc gì đó hoặc trầm trọng, hoặc đau buồn. Nhưng dù sao thì chúng cũng đều mang lại cho anh những cảm giác nặng nề. Kể cả những đĩa nhạc sau này anh mang về, Dance of the Sugar Plum Fairy, Piano concerto 2 in C minor, Op. 18, Caprice 24, Hungarian Rhapsody hay Nocturnal Waltz, không có bản nào trong số chúng khiến anh thấy nhẹ nhàng như những buổi chiều đượm nắng ở căn hộ với Waltz for Debby hay Someday My Prince Will Come du dương bên tai. Thay vào đó, chúng làm Harry liên tưởng tới một tòa lâu đài tăm tối, những chùm đèn vỡ nát, rèm cửa rách rưới, rượu vang đổ tràn, và một dáng người dong dỏng cao với màu tóc bạch kim đang nằm sóng soài trên sàn gạch lạnh lẽo, áo sơ mi trắng nhuộm đỏ màu máu. Những lúc như thế, anh đều vội vã vươn tay rút điện cái máy hát, mồ hôi lạnh túa ra trên lưng.
Có một đêm, Harry bật nhạc rồi ngủ quên. Giấc mơ tìm đến anh như trước giờ vẫn vậy; một khung cảnh tối nhờ nhờ, hương gỗ thông và lá mục của khu rừng, tiếng lá xào xạo dưới chân anh hệt như những chuyến đi vào khu rừng ven thị trấn. Anh mơ hồ nghe tiếng một giọng hát. Cũng không hẳn là giọng hát, nó cứ âm ư hoài như tàn dư thanh âm trầm bổng, thứ Harry cảm nhận được khi ở cạnh Malfoy. Có điều, những xung động trong thanh âm ấy rõ ràng hơn, khiến tim anh đập thình thịch chẳng vì lí do gì. Chân anh tự động đi về hướng mà anh cho rằng phát ra giọng hát. Càng đi sâu, tiếng hát càng rõ. Một chất giọng mộc mạc và thanh thuần nhất, không có nhạc cụ phối trợ, cũng không phải thứ giọng được khuếch đại bởi micro. Ấy thế mà nó vẫn vang vọng khắp khu rừng tựa một loại sức mạnh thần bí. Harry đi mãi, đi mãi, nhưng chẳng thể tìm thấy một bóng người nào giữa hàng nghìn thân cây im ắng lạnh lùng. Bóng tối chừng như nuốt chửng lấy anh, dấy lên trong anh nỗi sợ mơ hồ. Quay về thôi. Harry tự nhủ. Nhưng trước sự kinh ngạc của anh, đôi chân anh vẫn tiếp tục cất bước.
Chỉ thế, và Harry đột ngột bừng tỉnh. Trên máy hát, Dies Irae không ngừng cào cấu màn đêm tựa sự nổi giận của các vị thần. Những mảng màu ấm áp của giấy dán tường và nội thất gỗ gụ đã khuất bóng hẳn, chỉ còn màu đen đặc choán lấy tầm nhìn. Anh nhớ đến giấc mơ vừa rồi và bổ nhào ra rút phích cắm điện. Chưa lấy lại bình tĩnh, anh lần mò trong đống đĩa nhạc bản Autumn Leaves - Harry đã mua nó khi không thể kiềm được nỗi nhớ những giai điệu từng tràn ngập căn hộ trên đường Willow. Điệu nhạc êm đềm làm anh yên lòng lại.
Giờ thì anh đã hiểu cảm giác của Malfoy, khi cậu ta giấu nhẹm mấy đĩa nhạc cổ điển và cố chìm đắm mình vào cây saxophone cùng đống jazz.
***
Xưa lắm rồi, có một chiếc lá rơi khỏi nhành hoa cầm trên tay thiên thần, nó rơi từ vườn Địa Đàng xuống khu rừng nơi trần thế. Chiếc lá lập tức bén rễ thành một cái cây có hoa nở thơm ngát và từ đấy, ánh sáng nhẹ nhàng tỏa ra cùng điệu nhạc của thiên đường văng vẳng. Nhưng tất cả các cây khác đều không muốn nhận loài cây ấy làm đồng loại mình, chúng cho rằng nó thật tầm thường và ngu xuẩn.
Duy chỉ có một cô bé nghèo khổ, với trái tim được soi sáng bởi tình thương từ Chúa, là rung động trước vẻ đẹp của cây thần. Cô muốn hái một đóa hoa tuyệt đẹp, nhưng hoa rồi sẽ sớm tàn, nên cô chỉ hái một chiếc lá nhỏ kẹp vào giữa cuốn Kinh thánh của mình để nó vĩnh viễn giữ được sắc xanh. Vài tuần sau, cô bé qua đời với nét mặt thanh thản và bình tâm khi cuối cùng cũng được trở về với Đấng Vô Tận, gối đầu cô trong cỗ quan tài là cuốn Kinh thánh cũ mục đã một đời soi đường chỉ lối cho cô.
Một anh chăn lợn đi ngang qua, vì sự ngu dốt của mình, vô tình gom cây thần vào đống củi khô và đốt nó thành tro bụi. Mà đồng thời khi ấy, nhà vua đang mắc chứng bệnh buồn chán, hay tin cây thần có thể chữa bệnh cho mình thì vô cùng vui sướng, khi vào rừng thấy cây đã biến mất lại rơi vào trầm luân. Ngài cho rào khu đất ấy lại bằng hàng rào vàng và cho lính canh gác trước sự ngạc nhiên của toàn dân chúng - ai cũng không ngờ đó là một thứ cây quý giá.
Anh chăn lợn lấy làm xấu hổ vì sự thiếu hiểu biết của mình - ít ra anh ta tự biết nhận lỗi lầm, còn nhà thực vật học nọ lại dựa hơi cây thần mà ca tụng, thu về cả tiền tài lẫn danh vọng. Nhà vua vẫn mãi buồn phiền, còn những tên lính gác trong rừng vẫn ngáp dài ngáp ngắn cho qua ngày. Giữa cuộc đời đầy sự ngu xuẩn và những bụi trần thế tục, cây thần đã vĩnh viễn chẳng còn tồn tại để người ta chiêm ngưỡng. Chỉ còn đó mảnh lá bên trong cỗ quan tài của người con gái không ai biết đến, mãi mãi xanh tốt và trong trắng tựa trái tim thiện lành của cô.
Khi Harry đọc mẩu truyện cổ ấy cho mấy đứa nhóc trong tiệm sách, Malfoy đã vừa giả vờ lau bụi kệ sách vừa dỏng tai lên nghe. Đó là trước sinh nhật năm ngoái của anh một ngày. Chẳng biết Malfoy nghe được cái tin đó ở đâu mà chiều hôm sau đi làm về đã thấy cậu ta bày biện hoa bánh lên bàn. Năm bông ly trắng cắm trong cái lọ cao cổ và bánh tart hoa quả đặt trên dĩa cùng kem tươi. Anh hỏi cậu ta có phải đây là dành cho anh không, và cậu ta lấp liếm bảo rằng hoa là bà Céleste đem cho, còn bánh mua ở tiệm đầu trấn.
"Cảm ơn nhé." Anh vừa cười vừa vỗ vỗ tóc cậu ta, trong khi Malfoy nhăn nhó càu nhàu đã bảo không phải cậu ta làm rồi.
Tối đó họ dùng bữa trong hương thơm tản mác của ly trắng và tráng miệng bằng món tart ngọt ngào. Tính ra hai người chẳng làm gì được coi là chúc mừng sinh nhật, bởi cuộc đối thoại vẫn diễn ra bình thường, Harry kể mấy chuyện tủn mủn ở tiệm còn Malfoy than vãn về chỉ số IQ của nam nữ chính trong cuốn sách bìa màu hồng phấn cậu ta đang đọc. Có khác thì chắc chỉ là việc họ thắp nốt chỗ nến dự trữ để phòng mất điện thay vì chong đèn như mọi ngày thôi - Malfoy vẫn bảo cậu ta thích ánh nến hơn, thứ ánh sáng bình thản và ấm áp, chứ không tua tủa như ánh đèn điện sáng trưng. Nhưng khi đụng đến bánh, anh nhìn mắt gã kia có vẻ hồi hộp dữ lắm. Hẳn cái bánh này là cậu ta tự làm chứ chẳng phải mua ở đâu cả.
"Ngon không?" Malfoy hỏi, hai tay vặn xoắn vào với nhau.
"Ngon." Harry trả lời gần như ngay lập tức, nghĩ thế nào còn bồi thêm câu nữa. "Cái bánh ngon nhất tôi từng ăn đấy."
Ở bên này bàn, anh thấy Malfoy cố giấu một nụ cười. Anh sẽ chẳng bao giờ nhận ra nếu không ở cùng cậu ta trong một thời gian dài. Có thể nói Malfoy đã ảnh hưởng khá nhiều đến tính cách của anh - Harry trước thì anh không biết, nhưng qua lời kể của mọi người, chắc chắn gã sẽ không biết cách quan sát và đoán được tâm trạng của đối phương. Malfoy chẳng hề tỏ ra mình là người tinh tế, ấy thế mà anh vẫn thầm lặng học được từ cậu ta kĩ năng đó. Đầu tiên là nhìn thẳng vào mắt đối phương, khiến họ bối rối trong việc che giấu cảm xúc thật của mình. Ánh mắt cũng nói lên nhiều điều, nếu chịu khó phân tích sự giãn mở của đồng tử, sự thay đổi của màu mắt, thời gian từ lượt chớp mắt này đến lượt chớp mắt sau, có thể rút ra họ đang suy nghĩ điều gì. Vậy nên Harry biết Malfoy vui vì lời khen ấy, dù môi cậu ta vẫn mím lại thản nhiên và hành động duy nhất của cậu ta là cầm cốc nước lọc lên uống một ngụm.
"Tại sao lại là hoa ly?" Anh hỏi một câu vô thưởng vô phạt.
"Thì nghe giống cái hoa hôm qua cậu đọc nên tiện tay mua về." Malfoy trả lời, để rồi bịt miệng khi nhớ ra hồi chiều cậu ta đã nói mình nhận đống hoa từ bà Céleste. Anh phá lên cười ha hả và nhận một tập khăn giấy bay thẳng vào mặt.
"Ý cậu là hoa thần? Truyện cổ tích cho trẻ con thôi mà, với cả nếu muốn hàng thật phải bay lên Thiên đường mới tìm thấy đó."
Bất ngờ, Malfoy rẽ sang một chủ đề chẳng liên quan mấy. "Không biết cái lá kia đến giờ còn tồn tại không?"
"Chừng nào trái tim cô bé kia còn trắng trong nguyên vẹn thì ừm, nó vẫn còn ở đấy. Suy cho cùng thì cái lá là minh chứng cho sự tồn tại của cô bé mà."
***
"Ba, ba."
"Đúng rồi, là ba đấy."
Dạo này Rose đang tập đọc chữ. Arthur bảo thế có hơi sớm quá, nhưng Hermione thì khá hào hứng với việc con bé cầm những tấm bảng gỗ khắc chữ và ghép chúng thành từ hoàn chỉnh – cô nàng luôn muốn biến con thành một bản sao thông thái hệt mình. Do tần suất ăn ngoài của Harry ngày càng nhiều nên anh không kịp về nhà trước chiều muộn – khoảng thời gian vợ chồng Granger-Weasley dành ra để dạy Rose học – thành ra thi thoảng lắm anh mới có dịp quan sát con bé bập bẹ đọc chữ. Điều may mắn là Rose không còn tỏ ra quá thù ghét anh như ngày trước nữa, tuy con bé vẫn tỏ ra lạnh nhạt và hiếm khi bắt chuyện với anh.
Harry không phủ nhận mình nhớ Rose. Anh đã luôn có thiện cảm với trẻ con, huống chi Rose còn là một đứa bé xinh đẹp. Đôi mắt màu nâu hạt dẻ của nó to và trong vắt, gò má bầu bĩnh, đôi môi nhỏ ươn ướt lúc nào cũng chu lên, đọc từng chữ to và rành rọt. Còn nhỏ mà con bé đã tò mò hỏi người lớn trong nhà đủ thứ chuyện khó nghĩ đến ở tầm hai tuổi, từ việc tại sao hoa chuông chỉ nở vào mùa xuân đến Bùa Hâm Nóng được thực hiện thế nào. Bà Molly cứ lo cháu gái mình trưởng thành trước tuổi. Ấy thế mà trẻ con cũng vẫn chỉ là trẻ con mà thôi. Rose thích được Harry ru ngủ – nó làm bộ làm tịch không đòi hỏi, nhưng hễ mà anh đến bên nôi trước khi nó ngủ là lại có những đốm sao ánh lên trong mắt nó – trong khi Ron không hiểu có gì hấp dẫn ở giọng nam vừa trầm vừa khàn của anh nữa. Harry lâu dần biết thói của con bé, nên cứ về đến nhà là anh sẽ trở ngay vào phòng ngủ nơi Rose đang nằm ôm sách tranh phù thủy trong nôi. Hermione sẽ nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên trán nó và ra khỏi ghế bành để nhường chỗ cho anh.
"Hawwy." Đôi lúc Rose lại muốn làm nũng, và nó níu ngón tay anh. "Tối nay Hawwy không được đi."
"Được rồi." Harry mỉm cười, nhẫn nại lặp lại yêu cầu của con bé. "Tối nay Harry không đi đâu hết."
Nực cười là chỉ có đúng một bài ru anh biết. "Ngôi mộ dưới gốc táo xanh", Harry tạm đặt tên cho bài hát Malfoy dạy anh như vậy. Để thay đổi, anh cũng thử ngâm nga mấy bài jazz anh vội vàng học được từ đống đĩa của Malfoy, hoặc đánh bạo chọn chỗ nhạc cổ điển anh vẫn thường nghe hằng đêm, cơ mà Rose chỉ tỏ ra thích thú với khúc ru thôi. Bất kể là lặp lại bao ngày nó cũng chẳng mất lâu để chìm vào giấc ngủ. Trẻ con đơn giản thật, Harry nghĩ thầm. Nhưng anh cũng chẳng khác gì một đứa trẻ khi nhận ra mình đã mê mẩn những lời ca ấy tự lúc nào.
Trời đêm có trăng,
ban ngày có nắng...
"Ồ?" Tay nhào bột của Greengrass dừng lại khi cô nghe được tiếng anh lẩm bẩm. "Anh cũng biết đến nó à?"
"Ý cô là bài tôi vừa hát? Chỉ là hát ru trẻ con thôi mà."
"Hát ru? Vậy là anh học phải dị bản rồi." Harry nhướn mày nhìn cô gái, người đang tự nhoẻn cười với ảnh phản chiếu của mình trong kính cửa sổ. Những lúc như vậy là cô lại đang chuẩn bị giảng giải về điều gì đó – Greengrass vốn thích sắm vai bà giáo, dù cô không thừa nhận điều đó. "Nguyên gốc của nó là một giai điệu của phù thủy cổ xưa. Nghe đâu là bài ca gọi bầy, phụ nữ thường hát để dụ bò từ đồng xa về. Sau này chỉ có vài gia tộc Thuần huyết là còn giữ được bốn năm khúc, người soạn thành giao hưởng, người thêm lời, chỉnh thành hát ru như anh vừa nói, nhưng âm cao của nguyên bản đã bị mai một dần. Cũng phải, đâu thể tru lên khi ru một đứa trẻ ngủ yên, vả lại giờ này chẳng phù thủy nào ở Anh chịu khó ra giữa đồng gọi bò về nữa. Gốc gác của nó cũng chẳng phải từ Anh quốc, mẹ tôi nói là ở Thụy Điển cơ."
Harry ậm ừ. "Cái này, bài ca gọi bầy này... có từ trước cả khi nhạc cổ điển ra đời à?"
Cô gái tóc nâu thở dài bất lực. "Lũ Gryffindor các anh trừ Hermione Granger ra đúng là
chẳng được gì ngoài cái can đảm thừa thãi. Nhạc cổ điển bắt nguồn từ truyền thống tế lễ và không được đặt cho cái tên cổ điển trước tận thế kỉ 18. Bài hát gọi bầy ra đời từ rất, rất lâu trước đó. Ấy là loại âm nhạc khởi nguyên."
Có tiếng lò nướng kêu tinh. Greengrass khoát tay ra hiệu cho anh ra mở. Harry cầm găng lót, chầm chậm bước đến bên lò mà mũi không dám thở mạnh. Cứ mỗi lần kiểm tra thành phẩm là anh lại hồi hộp như muốn rớt tim ra ngoài. May cho anh, lần này mẻ bánh bông lan đã chín vừa đủ. Que gỗ cắm vào không bị cứng hay nhũn mềm, mùi cũng không bị đặc sệt hương trứng như lần đầu. Mái đầu màu nâu ngó sang, đăm đăm soi xét một hồi, rồi cuối cùng cũng gật đầu tán thưởng.
"Không tệ. Ta ăn thử xem."
Vẫn chưa hết mùa đông nên trời còn mau tối. Lúc quán đóng cửa mới năm giờ chiều mà mặt trời đã lặn, mây mù nặng nề tản bớt để tràn ánh tà dương đỏ lên khắp không trung. Gian bếp ẩn sau tiệm cũng nửa tối nửa lại chìm ngập trong sắc màu rừng rực kia, những hạt bụi trong suốt hiện lên rõ nét trên nền tối của chạn tủ gỗ gụ, khiến Harry chợt nhớ về câu nói nào đó trong cuốn huyễn tưởng anh từng đọc – vũ trụ đang trở nên già nua và chết dần chết mòn. Đó là khi hoàng hôn. Bình minh thì lại khác. Mặt trời lên, đêm chuyển thành ngày, vạn vật lại xoay vần trong một vòng tuần hoàn mới. Là khúc ca khởi nguyên của sự sống.
Greengrass đẩy về phía anh một đĩa bánh vừa cắt. Miếng bánh vàng ươm và thoang thoảng hương chiết xuất vani. Chẳng nói chẳng rằng, Harry bỏ một dĩa nhỏ vào miệng. Không quá ngon nhưng chắc chắn là đỡ thảm hại hơn cái bánh gừng xẹp lép ngày trước. Nếu Malfoy ở đây, cậu ta có phá lệ mà khen anh một câu không. Hồi Malfoy mới ngâm xong nước mơ, Harry đã thắc mắc liệu anh đã tự tay làm được gì trong phần đời mới của mình, vậy mà nhìn này, giờ anh đã tự làm được một cái bánh có vẻ đàng hoàng. Với tư cách là người bất lực khi thấy anh chẳng nấu nướng được gì ra hồn, hẳn cậu ta cũng phải tự hào một tẹo chứ nhỉ.
Sau một thời gian, khi Harry đã thạo pha chế những món cà phê đơn giản và biết sơ sơ về kĩ thuật nướng bánh, cùng lúc mối quan hệ giữa hai người trở nên thoải mái hơn, Greengrass ngỏ ý mời Harry về nhà chơi. Bấy giờ họ đang ngồi rảnh rang trước quầy – sáng đó là thứ Bảy nên thưa khách, chỉ có vài người chạy bộ tạt ngang mua chai nước suối rồi lại rời tiệm. Harry liếc nhìn tấm lịch. Cũng sắp đến lúc anh nghỉ làm ở đây rồi.
"Anh có thể ở lại đó ăn trưa luôn. Đằng nào hôm nay cũng chẳng buôn bán được gì." Người chủ tiệm cởi bím tóc tết, để những lọn tóc nâu rơi xõa trên hai vai. "Với cả bạn gái tôi nói muốn gặp anh."
"Cô có bạn gái hả?"
"Tôi đâu có nghĩa vụ phải kể với anh, đúng chứ? Và anh có thể yên tâm, cô ấy là Á Phù Thủy và sống hoàn toàn như một Muggle, sẽ không bêu riếu gì về anh đâu."
Họ đến nhà Greengrass bằng xe buýt. Căn nhà cũng không cách tiệm xa lắm, nhưng lại khá gần với rìa thành phố nên việc di chuyển mua sắm thuận lợi hơn. Khoảnh khắc đầu tiên nhìn thấy căn nhà nhỏ hai tầng với đầu hồi phóng tầm mắt ra khoảng sân trước, Harry đã ngay lập tức cảm thấy có gì đó ấm áp len lỏi trong tim mình. Những bụi thụy hương – không mang sắc tím như ở tiệm mà có màu đỏ và trắng – mọc xen kẽ hoa sao mùa xuân và cúc cánh hồng, tán dẻ đỏ lòa xòa hai bên phủ bóng lên lối vào nhà lát bằng gạch vôi xù xì. Trên bậc thềm có kê bàn tròn cao thanh nhã cùng hai cái ghế uốn hoa văn – nơi Harry đoán đôi uyên ương vẫn thường ngồi tại đây thưởng trà chiều. Anh ngoái đầu, nhìn con kênh chảy trước nhà bấy giờ vẫn đang lờ mờ ẩn hiện trong màn sương màu lam đục. Nếu sau này Harry phải gắn bó với một nơi đến tận khi chết, có lẽ đây sẽ là nơi hoàn hảo.
"Odora*! Sao nay em về sớm vậy?" Một cô gái tóc ngắn màu vàng cát ra mở cửa cho bọn họ, nụ cười nhiệt thành hơn mức cần thiết. Cô kéo Greengrass lại cho một nụ hôn lên má rồi đánh mắt về phía Harry. "Úi chao! Đây có phải chàng phù thủy Harry Potter nổi tiếng đó không?"
"Phải, và tém tém cái miệng chị lại đi, Lea." Greengrass nghiêm nghị nhìn cô gái tên Lea, nhưng Harry chắc sự trìu mến trong đôi mắt kia sẽ chẳng dành cho ai khác ngoài bạn gái mình. "Potter, đây là Lea. Lea đã luôn phát cuồng lên kể từ khi tôi kể cho chị ấy rằng anh đến tiệm tôi làm việc."
"Chẳng phải rất hấp dẫn à? Một anh hùng bốc hơi khỏi giới phù thủy, đột ngột trở thành cấp dưới của Odora! Tôi có thể viết hẳn một cuốn tiểu thuyết về chuyện đó!" Lea cười ha hả, rồi kéo tay Harry vào một hành lang ấm cúng. "Quên không nói, tôi là một nhà văn. Không ăn khách lắm nhưng vẫn đủ kiếm nhuận bút. Anh phải biết cuốn tôi xuất bản gần đây nhất..."
Harry nghĩ mình đã hiểu tại sao hai cô gái này lại hợp nhau. Thói giảng giải đến say sưa về những chuyện chẳng liên quan đến người nghe cõ lẽ là lí do họ tìm thấy nơi nửa kia sự đồng điệu. Anh thoáng hồi tưởng về Malfoy, liệu họ có điểm chung gì không ngoài cùng phải vất vưởng giữa thế gian mà không có người thân bên cạnh? Ai ở thị trấn cũng nhận xét hai người là hai cực đối lập. Harry lóng ngóng, vụng về, còn Malfoy thì tinh tế đến từng cử chỉ. Nhưng đâu nhất thiết phải có điểm chung thì mới ở bên nhau được. Nghĩ rồi anh lại xấu hổ, thật chẳng khác gì trẻ con khi tự bào chữa cho mối quan hệ của hai người như thế.
Hai cô gái vừa đẩy anh ngồi xuống đi-văng vừa bảo phiền anh đợi một lúc. Lát sau từ trong bếp chỉ có mình cô gái tóc nâu đi ra. Cô rót trà vào chén cho anh, rồi vớt lấy bã trà trút vào chậu dương xỉ đặt trên nóc tủ búp-phê. Bức chân dung treo ngay trước tủ chợt nháy mắt với cô khiến Harry giật mình.
"Ồ, xin lỗi. Tuy nhà tôi tiết kiệm đến tối giản việc sử dụng ma thuật nhưng bức chân dung này là tôi mang từ nhà cũ. Không phải sợ đâu, bà ấy thân thiện lắm." Greengrass nhẹ nhàng mỉm cười với bà lão đã móm mém. "Lea, đũa phép của em để ở đâu ấy nhỉ? Ngăn kéo thứ hai hả? Cảm ơn nha, dạo này em đãng trí quá." Cô gái lôi từ hộc tủ ra một cái hộp dài, bên trong đựng cây đũa phép thanh mảnh trơn nhẵn, na ná giống cái của bà Molly. "Potter, anh có phiền nếu tôi luyện kéo đàn không? Lea khăng khăng đòi chuẩn bị bữa trưa một mình, nhưng nếu muốn anh có thể vào bếp."
"Không sao. Tôi ở đây với cô." Harry nhìn chằm chằm vào cây đũa phép. "Mà cô nói... cô định làm gì cơ?"
"Cũng không có gì đặc biệt, tôi chỉ tập đàn thôi." Greengrass vẩy đũa và lẩm bẩm niệm chú, luồng ma thuật kéo một cây vỹ từ trên lầu bay xuống. "Trong lúc đó anh có thể ngắm nghía cây đũa này một lúc, tôi không phiền đâu."
Cây đũa phép được đặt vào tay Harry, nhẹ bẫng và mát lạnh. Anh sờ dọc thân nó, tưởng tượng bản thân mình trước kia cũng đã từng cầm một cây như thế và tung ra vô số bùa chú ngay giữa chiến trường. Ginny bảo rằng đũa phép chọn chủ, và một phù thủy chỉ thực sự hợp với cây đũa nào đó khi cảm thấy luồng sức mạnh trong máu thịt truyền vào lõi đũa, tạo thành những luồng phép thuật sáng chói hắt ra xung quanh. Harry tự hỏi cảm giác đó như thế nào. Có lẽ Harry mười một tuổi đã sung sướng vô cùng khi sở hữu cho mình một cây đũa ma thuật. Giờ thì anh đã quá tuổi để nhảy cẫng lên như một đứa trẻ, nhưng anh rất sẵn lòng muốn khám phá sự hài lòng ấy ra sao.
Tiếng vỹ cầm cất lên, cắt đứt dòng suy nghĩ của Harry. Greengrass đang đứng tựa người bên bậu cửa sổ cao, một tay nâng đàn, một tay cầm vĩ, đôi mắt nhắm nghiền như say sưa trong bản nhạc. Điều khiến Harry bận tâm là giai điệu đang văng vẳng bên tai dấy lên trong anh cảm giác quen thuộc. Anh đã từng nghe nó ở đâu nhỉ? Harry nhớ hầu hết tất cả những bản nhạc anh từng nghe qua, hiếm hoi lắm mới quên vài khúc anh không thực sự thích thôi.
Phải rồi.
Đây là bản nhạc đêm đó Malfoy chơi trên ban công để ăn mừng nước mơ của cậu ta đã ngấm đủ.
"Greengrass?" Harry cất giọng hỏi khi cô gái tóc nâu buông vĩ xuống. "Bản cô vừa chơi tên là gì?"
"Tôi không ngờ anh quan tâm đến âm nhạc như vầy." Greengrass trông có vẻ thán phục. "Đây là We have all the time in the world của John Barry, nguyên gốc của nó là jazz cơ. Bản nhạc này đến với tôi khá là tình cờ đấy. Hồi còn ở London, có lần tôi thấy người quen cũ chơi vỹ cầm trên phố nên mới nán lại xem. Hôm đó hội của anh ta chơi bài này. Giờ thì nó thành một trong số yêu thích nhất của tôi rồi."
Anh có cảm giác đang lờ mờ thấy một mối liên kết nào đó với gã trai tóc bạch kim. "Người quen cũ? Bạn học của cô à?"
"Ừ, một tên công tử bảnh chọe. Nhưng không thể phủ nhận dáng anh ta chơi vỹ cầm rất đẹp, y hệt nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đem ra so sánh thì tôi còn lâu mới bằng anh ta."
Harry ngần ngừ nhìn xuống dưới chân. Tại sao Malfoy luôn ở ngoài tầm với của anh. Tại sao cậu luôn tiến về phía trước, hoặc đứng yên, nhưng ở một nơi xa xăm anh chỉ có thể thấy lờ mờ. Trước giờ Harry vẫn luôn muốn biết về cậu ta, muốn có gì đó vững chắc hơn để mối quan hệ nhập nhằng của họ có thể dựa vào, nhưng có lẽ nếu cậu ta có thẳng thắn với anh thì anh cũng không thể hiểu hết được – và điều đó còn tệ hơn là không biết ngay từ đầu.
Nắng mùa này vẫn còn xuất hiện khá ít, và chiều nay là một trong những chiều hiếm hoi mây tản bớt để rải ánh dương quang xuống vùng ngoại ô u buồn. Bên xấp bản thảo còn dang dở, Lea đã ngủ gục. Greengrass vén sợi tóc mai lòa xòa trên trán cô gái, khóe môi cong lên một nụ cười kín đáo. Lọ hoa nhài đặt trên bàn trà tản vào không trung thứ hương ngan ngát. Từ phía này, trông họ chẳng khác gì một đôi vợ chồng già, nhưng rõ ràng là họ đang hạnh phúc. Harry thở dài, tựa đầu vào bậu cửa dẫn ra đầu hồi. Có lẽ ai yêu nhau cũng thế. Có lẽ anh và Malfoy cũng từng như vậy trong căn hộ ở thị trấn, khi họ còn bên nhau vào những tháng ngày rất cũ. Có lẽ đó là cảm giác khi anh ngửa đầu ra và nghe thấy tiếng thở nhè nhẹ của Malfoy ngay sau gáy, nhưng lại chẳng buồn quay lại để nhìn mặt cậu ta một cái – chỉ riêng ý thức được rằng cậu ta đang hiện hữu ngay đó đã khiến anh chẳng cần phải lo nghĩ thêm.
"Potter." Chẳng biết Greengrass đã đến gần từ bao giờ. Có vẻ cô đang định vào nhà, Harry liếc nhìn về phía đầu hồi, sau khi đã đắp tấm chăn mỏng lên mình Lea. "Trông anh không được vui nhỉ."
"Cô không định ăn nốt chỗ bánh bích quy kia à?" Anh lật đật đứng dậy.
"Giờ tôi có việc phải làm." Greengrass cột tóc lên cao bằng dải ruy băng màu tía. "Đến Lea cũng không biết đâu, hôm nay là ngày giỗ của em gái tôi, nhưng vì anh cũng mất người thân rồi nên tôi nghĩ anh có thể xem thử."
"Giỗ hả. Tôi cứ tưởng ngày giỗ chỉ cần đi viếng mộ thôi chứ."
"Chà, đó là nghi thức truyền thống của nhà Greengrass. Bằng cách này tôi có thể liên lạc với người đã khuất, và họ sẽ chỉ cho tôi biết cuộc đời tôi tiếp theo phải đi lối nào. Tôi tin em gái tôi – nó thường coi trọng tình cảm, cái lối sống ấy đã cứu cả gia tộc Greengrass khỏi cảnh tù ngục."
Greengrass trở vào bếp, chốc sau lấy ra một rá xơ đậu. Cô vẩy đũa, niệm bùa chú khiến lửa trong lò sưởi phòng khách bùng lên rồi hất tất chỗ xơ đậu vào. Xơ đậu bị những lưỡi lửa ngốn lấy, đượm cháy rừng rực. Cô đưa tay phải ra và lấy que kim chọc cho ra ít máu. Giọt máu đào ấy được nhỏ vào chỗ xơ đậu đang cháy. Greengrass trỏ đũa thẳng hướng đám lửa, miệng lẩm bẩm những câu chú anh chẳng nghe ra. Cùng lúc đó đồng hồ quả lắc trong nhà điểm sáu tiếng chuông. Ánh lửa trong lò chợt bừng sáng rực rỡ, len tới từng góc tối của căn phòng.
Sáu giờ chiều, nhập nhoạng, là thời điểm giao hòa giữa đêm và ngày. Là lúc những người nông dân trở về từ cánh đồng còn chưa đặt chân tới ngưỡng cửa. Là lúc một thiếu nữ lang thang ngơ ngẩn trên triền đê vắng lặng, đôi mắt dõi theo từng khoảnh khắc mặt trời đỏ lặn xuống dãy núi phía xa. Là lúc con người cho phép bản thân nghĩ về những điều mình muốn nghĩ, dù là chúng có bị chôn giấu khỏi ánh nhìn của người ngoài sâu mức nào đi chăng nữa.
Ai đó đã từng nói thế, hình như trong một tập phim truyền hình cũ rích mà anh còn chẳng nhớ rõ tên - mọi câu chữ cứ thế ùa về trong kí ức Harry khi anh lặng người chứng kiến ánh sáng chói lòa của ngọn lửa xanh lam. Anh không hiểu vì sao lửa lại có thể mang màu biếc xanh lạnh lẽo, nhưng Greengrass trông chẳng hề nao núng khi nhìn vào tâm lửa; ngược lại còn có vẻ đăm chiêu kì lạ. Có lẽ cô đang nghe thấy những lời thì thầm đến từ thế giới bên kia, hoặc thậm chí, là gương mặt hiện về của người đã khuất. Vào khi con người ta là bản thể trần trụi nhất mà không phải lúc ngủ, ranh giới sẽ không còn tồn tại, và những linh hồn đồng điệu sẽ có thể liên lạc bằng cách này hay cách khác.
Mất một lúc lâu để Harry tìm lại được khả năng phát ra âm thanh. "Cô thấy gì?"
"Những ngôi sao", cô gái nhẹ nhàng hồi đáp, "kéo đến vô tận. Giống như luồng sáng của một con tàu", và rồi ánh lửa xanh tàn lụi.
***
Harry chạy. Chạy, chứ không phải đi bộ. Cây rừng phía trên đầu anh, thân gỗ xung quanh anh, cỏ cùng lá mục gãy răng rắc dưới chân anh. Lại là giọng hát đó. Nhưng anh không chỉ đuổi theo giọng hát, anh còn muốn trốn khỏi cái bóng đang theo sát gót mình. Luôn có một âm thanh của người chạy tồn tại song song với nhịp bước của anh, dù rằng rất có thể đó chỉ là tiếng vọng - trong khu rừng này, dù chỉ là xao động nhỏ nhất cũng có thể bị khuếch đại. Tuy nhiên, quan trọng nhất là cái cảm giác bị theo dõi chằm chặp. Cảm giác có một luồng nhiệt độ ấm áp bám theo ngay sau lưng. Ấy thế mà giữa đêm xuân mờ mịt, anh chẳng thể tìm thấy cho mình một điểm dừng.
Đột ngột, một cái bóng lờ mờ hiện lên nơi khoanh đất không bị tán cây che phủ. Ánh trăng dát lên thân người ấy vầng hào quang mơ hồ màu bạc. Harry khựng lại; dường như tiếng hát lúc này nghe rõ ràng hơn bao giờ hết. Cái bóng đuổi theo anh cũng như tan vào thinh không mà lặng lẽ biến mất.
Harry chậm chạp tiến về phía trước. Nghe tiếng động, bóng người kia ngoái đầu lại, và thật kì lạ, hắn mang gương mặt của Harry Potter.
Đừng chạy nữa. Chẳng phải dù cậu có chạy cũng không thể trốn khỏi chính mình sao. Chẳng phải, giọng nói ấy xuất phát từ chính bên trong cậu sao.
***
Thư của ông Auguste bất ngờ đến vào một đêm thứ Sáu mưa bụi. Khi ấy Harry mới trở về nhà từ tiệm, áo khoác vẫn ám mùi cà phê rang cháy cùng hương bánh ngọt phảng phất vị trà xanh. Anh nhìn thấy bức thư được gài trong hòm nhà Weasley – bà Molly đã lắp thêm nó trước cổng khi hội bạn muốn thử cách trao đổi thư từ của người phàm. Harry đem hồi âm lên phòng nhưng chưa mở vội. Anh nằm xoài người trên nệm, ánh mắt lơ đãng quét nhìn trần nhà sơn xanh. Nếu là ở căn hộ cũ của anh, trần nhà sẽ lát gỗ xập xệ, đôi lúc còn có bụi gỗ bị mọt ăn rơi lả tả. Và rồi chẳng hiểu nguồn cơn nào khiến anh nghĩ về những chuyến tàu Greengrass nhìn thấy nơi tâm lửa hôm nọ. Điều đó có ý nghĩa gì chứ? Harry vẫn luôn nhớ về đoàn tàu anh và Malfoy cùng thấy khi anh hôn lên trán cậu dưới tán phong đỏ rực, cũng luôn mơ tới chuyến tàu sẽ đưa anh đến một vũ trụ khác, về phương Nam, về vùng biển, hoặc thậm chí một hành tinh xa lạ, miễn là ở nơi đó anh có thể thoải mái sống mà không cần cầu khát bất cứ điều gì, không cần băn khoăn những cảm xúc mơ hồ không lời giải là gì. Những chuyến tàu vẫn thường đi qua về lại trên con đường anh đi làm, những chuyến tàu anh không biết điểm xuất phát cũng như điểm dừng, nối nhau ngày qua ngày như những luồng sáng bất tận, đôi lúc chỉ thoáng vụt qua tâm trí mà cũng có khi ám ảnh anh cả trong giấc mộng.
"Đừng đi đâu hết. Cứ ở lại đây thôi."
Harry nhắm mắt, rồi bóc tấm phong bì còn hơi ướt nước mưa.
***
"Gửi cậu Harry.
Tôi đã nhận được thư của cậu vào ngày mùng hai. Không cần phải xin lỗi, tôi biết lí do cậu đột ngột rời trấn này. Cô trẻ Weasley thậm chí đã theo dõi tôi vài lần nên tôi biết cậu đang được an toàn ở Hang Sóc. Cũng không cần phải lo cho Malfoy, hôm trước tôi ghé thăm cậu ta vẫn bình thường, mặc dù sắc mặt có hơi nhợt nhạt.
Về câu hỏi của cậu, thật tiếc là tôi không thể trả lời được, bởi chính tôi cũng chưa rút ra được ý nghĩa tồn tại cho riêng mình. Lắm lúc tôi tự hỏi vì sao mình đã trải qua gần hết cuộc đời mà vẫn mông lung vô định hệt một đứa trẻ. Như cậu đã biết thì tôi không phải một ông chủ tiệm sách hiền lành đã cưu mang cậu – tôi chỉ là một phù thủy hèn nhát trốn chạy thế giới nơi rừng hoang vắng vẻ thôi. Phải đến tận khi Bộ báo với tôi tình trạng của cậu, tôi mới quay lại giúp họ một tay. Bởi tôi tin cậu cũng lâm vào tình cảnh như tôi. Nếu tôi đảm nhận việc trông chừng cậu, có lẽ cậu sẽ bớt khủng hoảng hơn tôi ngày trẻ. Hẳn cậu ý thức được tầm quan trọng của mình đối với thế giới này. Chữa lành vết thương tâm lí cho Harry James Potter và đưa cậu ta trở về là ưu tiên số một.
Nhưng nếu phải đưa ra một hồi đáp, tôi sẽ không cho cậu lời khuyên như thường làm, mà tôi sẽ kể cho cậu một câu chuyện. Câu chuyện đó tất nhiên không phải của tôi. Đó là những gì tôi chứng kiến ở hai đứa trẻ người Ấn, những đứa trẻ đã trú ngụ ở nhà tôi suốt một mùa hè.
Chuyện bắt đầu vào những năm một nghìn chín trăm sáu mươi. Thuở ấy tôi vẫn còn là một phù thủy trẻ, ấy vậy mà tuổi già đến sớm làm tôi không chịu đựng nổi những trách nhiệm và kì vọng đặt lên vai mình. Tôi cho xây một căn nhà gỗ giữa rừng, lui về đấy ở ẩn, và việc duy nhất tôi làm qua ngày là chế mấy thứ dược chữa cúm cho Bệnh viện để kiếm sống, nghiên cứu sách vở và nghĩ xem tối nay ăn gì. Cho đến ngày đầu hè nọ, bỗng trước cổng nhà tôi xuất hiện hai đứa trẻ lạ lẫm. Một thằng bé và đứa em gái của nó. Màu tóc đen, da vàng và nét châu Á không lẫn vào đâu được trên gương mặt cho tôi biết xuất xứ của chúng là từ Ấn Độ. Dạo ấy có một làn sóng những lao động nghèo Ấn di cư trái phép đến Anh – có lẽ hai đứa trẻ này vô tình đi lạc trong khi di chuyển cùng đoàn người.
Mới đầu tôi bối rối không biết phải đối xử với chúng thế nào, vì chúng không giao tiếp được bằng tiếng Anh. Chỉ khi đứa bé gái đột ngột òa lên khóc tôi mới vội lôi chúng vào nhà. Tôi đưa chúng một ít súp nấm và bánh mì, chúng vồ vập ăn lấy ăn để như thể bị bỏ đói. Ngay từ lúc đó tôi quyết định sẽ cho chúng trú tạm ở đây. Ít ra ở cùng tôi, chúng sẽ được ăn, có chỗ để ngủ, và tuyệt đối an toàn.
Tối đó tôi định cho chúng ngủ trên giường phòng mình, mai sáng sẽ đặt một cái giường vào căn phòng ngủ còn trống sau, nhưng thằng trai lại chỉ vào đống rơm góc nhà và nói bằng thứ tiếng Anh vụng về:
"Cái đó."
Rồi nó ngẫm nghĩ một lúc xong mới tiếp:
"Ngủ, tốt."
Khi chúng đã ngủ say trên nùi rơm, tôi mới dám rút đũa phép ra để thực hiện Chiết Tâm Trí Thuật. Đó là một công việc vô bổ, bởi dù có thấu được suy nghĩ thì cũng không tìm người thân thích của chúng được. Tôi thấy một vùng quê nóng bức ở bờ biển Tây Ấn Độ, một gia đình ba thế hệ sống trong căn chòi lụp xụp và những bữa cơm đạm bạc chỉ có cà ri và bánh mì làm từ lúa xấu. Nhưng trong kí ức của chúng, đó là những tháng ngày tươi đẹp. Ông bà chúng rất yêu thương chúng, lượm được đồng tiền nào là lại vội vã trở ra chợ để mua bánh trái đem về. Bạn bè trong làng chúng toàn là những đứa trẻ đen đúa, gầy nhẳng như nhau, đến chiều lại hò hét ngoài bãi cát đến khản cổ. Khổ nỗi là cha mẹ chúng chỉ biết làm nghề đánh cá ven biển. Có lẽ vì thất bát mà họ theo đoàn người di cư trái phép từ Ấn Độ sang đây để làm lao động. Không biết ông bà nhà đó thế nào, nhưng hai đứa trẻ cũng bị cha mẹ kéo theo. Họ đi ngang qua đây thì gặp kiểm lâm, ai cũng hốt hoảng bỏ chạy, để lại chúng đứng trơ trọi ngoài bìa rừng. Khi tôi xem được đến đó, có tiếng đứa bé gái thút thít khóc.
Về sau này tôi mới biết nó là một đứa trẻ mít ướt. Nó rơi nước mắt ngay cả khi tôi chịu khó ra phố mua cho chúng vài thứ đồ ngọt. Nhưng chỉ cần thằng anh ôm nó vào lòng và khẽ vuốt dọc lưng, tiếng sụt sịt inh tai sẽ nhỏ dần. Hai đứa trẻ chẳng mấy khi giao tiếp bao giờ. Mà hễ khi nào chúng nói với nhau gì đó, tôi lại nghe ra thứ ngôn ngữ cách xa mình hàng nghìn dặm.
Rì rầm rì rầm.
Thường là những âm điệu bập bềnh như vậy.
Suốt mùa hè, tôi và hai đứa trẻ người Ấn cứ thế mà duy trì bầu không khí kì lạ. Tôi cho chúng thức ăn và quần áo, những thứ vật chất mà chúng không thể chi trả. Bởi vậy chúng luôn tránh làm phiền tôi nhất có thể. Đến cả khi khóc đứa gái cũng cố gắng nẹn chặt tiếng nức nở trong cổ họng. Tôi lại không thể giao tiếp bằng tiếng Ấn Độ, vậy nên thay vì tiếp cận, tôi mặc chúng thích làm gì thì làm và chú tâm hơn vào việc nghiên cứu.
Ấy thế mà có lần đứa bé gái đứng nhìn tôi trơ như phỗng. Tôi đảo mắt quanh quất, thấy xung quanh chẳng có gì đáng để con bé chú ý ngoài chính bản thân mình. Nó cần gì à? Tôi cố thực hiện Chiết Tâm Trí Thuật mà không dùng đũa, và thấy bên trong tâm trí con bé là gương mặt tươi cười của một người phụ nữ. Đôi ngươi xanh tím ấy, lạ một nỗi, trông y hệt màu mắt tôi.
"Mẹ sẽ luôn bên con."
Lần đầu tiên tôi nghe thấy một đoạn hội thoại bằng tiếng Anh. Tôi chưa từng đoán được gốc gác của người phụ nữ kia, nhưng có điều chắc chắn ấy là mẹ của hai đứa trẻ.
Dạo đó tôi thường có cảm giác như mình đang đứng trước biển. Giọng nói khe khẽ trong đêm của hai anh em rì rầm tựa tiếng biển, và đôi khi, tôi lại lơ đễnh giương đũa lên nhìn trộm vào giấc mơ của chúng. Giấc mơ ấy thường có màu xanh ngút ngàn và hương nồng mặn của muối. Hẳn nơi đó là một thế giới hoàn toàn khác so với nơi rừng rú chật hẹp này. Hẳn, nếu tôi là chúng, tôi sẽ nhớ nơi ấy rất nhiều. Bởi khác với những thân cây ken dày, vùng nước mênh mông kia đem lại cảm giác bình yên lạ kì. Huống chi biển còn là nơi chúng sinh ra và lớn lên. Đứa bé gái đã thôi không còn khóc nữa, nhưng hai đứa cứ chiều tà là lại ngồi ngẩn người trên thân cây mục ruỗng, ánh mắt trống rỗng và vô hồn.
Cho đến mãi một buổi sớm nọ sau cả đêm mưa rào, tôi tỉnh dậy thì không thấy hai đứa trẻ trên nùi rơm đâu. Tôi chạy ra ngoài và thấy chúng đang đứng trước một vạt rừng thưa, nơi nhìn xuống một khe nứt rộng. Ánh nắng hồng còn nhợt nhạt trong khi sương vẫn phủ khuất dưới vực thẳm, tia sáng rọi chiếu xuống làn sương dày đặc tạo thành sắc xanh lam. Đứa con trai cõng em gái trên lưng, vừa chỉ xuống vực vừa kiên nhẫn bập bẹ từng chữ tiếng Anh.
"Là, biển, đấy."
Tôi vẫn nhớ mình từng đọc trong một cuốn sách Muggle thế này. Từ trong cửa sổ toa tàu, chị bất thần trông thấy một cánh rừng bạch dương thưa thớt với một lưới mạng nhện mùa thu ánh lên trong nắng và thế là chị muốn nhảy ngay ra giữa lúc tàu đang chạy để được ở lại cánh rừng ấy. Nhưng con tàu cứ đi qua. Chị nhoài người ra ngoài cửa sổ và nhìn lại những cánh rừng, những bãi cỏ rộng, những con ngựa, những nẻo đường làng đang vùn vụt chạy về phía sau và chị nghe thấy một tiếng reng reng mơ hồ. Vật gì kêu, chị không biết. Có thể là rừng hay không khí, hay tiếng rít của những dây điện thoại. Mà cũng có thể đó là tiếng reo của những thanh ray khi tàu chạy. Cái đó chỉ ánh lên trong khoảnh khắc nhưng ta nhớ mãi suốt đời. Chẳng lâu sau màn sương sẽ tan đi, nhưng vào chính cái phút chốc nhỏ nhoi khi màu xanh lam phủ trùm lên đáy vực, lũ trẻ đã nhận ra điều chúng muốn. Vân vũ của cơn mưa rào tản đi, ngày chuyển sang đêm, và đêm chuyển thành ngày. Đôi khi kết thúc là một khởi đầu mới, và những gì trân quý trong quá khứ sẽ luôn theo bước ta trên chặng đường mới mẻ kia.
Trưa đó hai đứa trẻ không ùa vào bếp nhận bữa trưa, và chúng đã chẳng bao giờ quay trở lại. Tôi nghĩ dù đang ở đâu, chúng vẫn đều ổn cả.
Thật nực cười khi tôi đã từng này tuổi rồi mà còn mù mờ hơn cả những đứa trẻ. Nhưng ở chúng, tôi thấy phảng phất bóng hình cậu và cậu Malfoy. Hai cậu lớn tồng ngồng rồi mà tâm trí vẫn chẳng khác gì con nít, vẫn lạc lối và chật vật trong việc tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc. Nhưng tôi biết hai cậu sẽ sớm tìm ra câu trả lời. Đặc biệt là cậu Malfoy – khi tôi cùng cậu ta đứng trên vách núi vào sớm hôm Giáng Sinh, tôi thấy trong mắt cậu ta một sự thay đổi. Nói nghe nực cười, nhưng mắt cậu ta chẳng phải màu xám xịt, cũng không còn là sắc xanh lam như thường lệ. Tôi không thể miêu tả tổ hợp sắc màu ấy ra làm sao. Tôi chỉ biết, cậu Malfoy đã tìm được đường quay về. Quay về, chứ không phải bước tiếp. Bởi bản chất của con người chẳng bao giờ thay đổi. Cậu Malfoy có thể nói rằng chiến tranh và biến cố đã làm nên con người cậu ta hiện tại, một bản thể hoàn toàn khác, nhưng khi dùng Chiết Tâm Trí Thuật nhìn vào sâu bên trong cậu ta, tôi vẫn thấy dáng dấp một đứa trẻ. Ai cũng vậy. Họ đổ tại quá khứ làm thay đổi họ, nhưng bản chất vẫn là bản chất; những gì xảy ra trong óc họ, những gì họ thể hiện ra bên ngoài, tất cả chỉ là lớp lông lá cuộc đời gắn thêm bên ngoài cái lõi kia. Họ vẫn chỉ là họ thôi, bản thể nguyên sơ nhất.
Bởi vậy cậu Harry, đừng sợ không biết mình là ai. Cậu vẫn là Harry Potter trước kia. Sau này, dù có chuyện gì xảy ra, cứ nhớ rằng tuy cậu không thể thay đổi cách số phận định đoạt cậu – nhất là khi cậu là một gương mặt quan trọng trong giới phù thủy và thậm chí là vợ chồng Granger-Weasley cũng không biết sau này chuyện gì sẽ xảy ra với cậu, nhưng cậu vẫn có quyền lựa chọn những gì quan trọng với mình. Và cậu có thể yên tâm rằng, Harry Potter trong quá khứ sẽ hoàn toàn hài lòng với quyết định của cậu.
Chân thành,
Auguste."
Chợt Harry nhận ra, anh chưa từng bắt một chuyến tàu trước đây.
***
Ron và Harry cùng đưa Rose đi thăm nhà ba mẹ Hermione vào một ngày trời ấm hơn. Họ bắt tàu, bởi Ron sợ việc dùng Độn Thổ sẽ làm ông bà bị sốc và đột quỵ, còn Harry thì khăng khăng đề nghị họ đi bằng tàu hỏa. Cũng chỉ mất hai giờ đồng hồ. Ron không phản bác gì cả.
Đã lâu lắm rồi Harry mới có cảm giác gần gũi với gia đình Weasley như vậy. Toa tàu họ đi chẳng có ai khác ngoài một bà lão lẩm cẩm. Ron và Rose ngồi phía băng ghế đối diện, đứa bé ngồi trong lòng ba, liên tục chỉ tay vào những vật trên toa tàu và gọi tên chúng. Harry chống cằm lên bậu cửa sổ, ngắm nhìn vẻ mặt hạnh phúc của hai cha con tóc đỏ. Anh tự hỏi cảm giác ấy là như thế nào.
Cảnh vật lướt qua hai bên anh, lờ mờ hiện lên ngoài dãy dài các ô cửa kính. Những tòa nhà dần khuất khỏi tầm mắt, dãy núi dài phủ tuyết trắng hiện lên, trôi nổi điệp trùng trên nền trời màu lam đục. Đôi lúc bên ngoài lại ánh lên sắc đỏ của bụi dâu đông dại giữa sắc đen của rừng cây, có khi là bóng dáng lờ mờ của những căn chòi nhỏ giữa cánh đồng lúa mạch đã bị gặt hết. Ron bảo nhà ba mẹ Hermione hiện giờ đang ở nằm trên một thửa đồi cách đường bờ biển vài chục cây số. Người dân sống dựa vào việc trồng trọt trên quả đồi ấy – lần cuối Ron đến thăm họ đang trồng nhụy hoa nghệ tây – nhưng không biết mùa đông giá này có trồng trọt được gì không.
"Nếu đứng trên đỉnh đồi có khi nghe được cả tiếng biển không chừng."
Một vạt rừng bạch dương vụt qua trước mắt Harry, và hệt cái đêm Malfoy thổi bản saxophone hoàn chỉnh đầu tiên cho anh nghe, những kí ức ùa về trong đầu anh như một thước phim cũ kĩ chạy dọc.
Cái đó chỉ ánh lên trong khoảnh khắc nhưng ta nhớ mãi suốt đời
Mùa xuân năm Harry hai mươi lăm tuổi. Một cơn mưa bụi đột ngột, một chuyến tàu xé gió ngang con hẻm. Malfoy ngồi khuất trong bóng tối, tay ôm chiếc saxophone đặt gọn trên đùi, hoài nghi và hoảng sợ, nhưng cuối cùng cũng lẽo đẽo theo Harry về nhà.
Mùa hè năm Harry hai mươi lăm tuổi. Cơn sốt lần đầu của Malfoy làm Harry cuống cuồng. Cậu ta ngâm nước mơ và lôi saxophone ra tập, còn anh thì vẫn đi về xuôi dọc con đường từ căn hộ đến tiệm sách của ông Auguste. Cánh rừng cùng bóng áo Malfoy hiện lên trong ánh nắng. Harry nhận ra hai thứ: sự tồn tại của Malfoy là thứ tàn âm anh không thể dứt bỏ, và Malfoy thích táo xanh.
Mùa thu năm Harry hai mươi lăm tuổi. Malfoy đột ngột ra khỏi vỏ bọc lười biếng và bắt đầu quan tâm đến chuyện không phải của mình. Harry thích nhìn cậu ta cười, một nụ cười đơn thuần. Buổi giảng đạo ở nhà thờ làm Harry thấy lạc lõng và anh quyết định gã trai tóc bạch kim sẽ là người mình có thể bấu víu vào ngay khoảnh khắc đặt một nụ hôn lên trán cậu ta.
Mùa đông năm Harry hai mươi lăm tuổi. Malfoy hôn anh. Anh hỏi Malfoy cho nụ hôn thứ hai, và cậu ta không từ chối. Anh đặt tên cho mối quan hệ giữa hai người.
Cứ đặt cho nó cái tên cậu muốn.
Radio trên tàu đột ngột chuyển bài hát. Tiếng vỹ cầm rè rè qua hệ thống phát thanh chất lượng kém hòa cùng saxophone trầm lắng, kết thành giai điệu quen thuộc êm tai. Là gì nhỉ? Hình như Greengrass đã từng nói với anh. Phải rồi, We have all the time in the world. Giờ Harry mới để ý, trong khi Malfoy bảo đây là bài hát của Louise thì Greengrass lại khẳng định tác giả là John Barry. Nhưng giọng hát đang vang lên tai anh bây giờ không thuộc về một người đàn ông. Ai cũng được. Một nữ ca sĩ anh, và có lẽ cả Malfoy, chưa từng biết.
***
"Potter này, có lẽ sắp đến lúc anh nghỉ việc chỗ tôi rồi."
Vào ngày ghé thăm nhà Daphne, cô đã bảo anh như vậy. Ánh sáng nhàn nhạt đổ hắt qua ô cửa sổ, dập tắt những tàn lửa biếc xanh còn lưu vấn trong không khí.
"À, ừ." Harry gãi đầu. "Cũng hai tháng rồi nhỉ."
Daphne mỉm cười, cô vẩy đũa cho vài đồ vật bị xê dịch bởi đám cháy vừa rồi về chỗ cũ. Có tiếng lục cục ngoài hiên – hẳn Lea vừa dậy và đang thu dọn trà bánh rồi.
"Cô sẽ làm gì?"
Ánh nhìn cô gái tóc nâu lia qua Harry có vẻ bất ngờ, rồi đuôi mắt cô lại kéo lên đầy trào phúng – đúng chất Slytherin, Ron sẽ bảo thế.
"Có xóa trí nhớ thì anh vẫn là một gã Gryffindor tận gốc. Bản chất anh hùng chả bao giờ thay đổi."
Không để Harry kịp bác lại, cô tiếp với một nụ cười.
"Lea sẽ cùng làm việc với tôi. Thời gian qua chị ấy muốn toàn tâm toàn ý hoàn thành tiểu thuyết, nên tôi mới tuyển anh vào. Chứ ngay từ đầu đã là hai bọn tôi cùng quản lý tiệm cà phê này."
"Potter, làm việc với anh rất vui. Cảm ơn anh."
Hai bàn tay Harry xoay vần. Anh không hiểu vì sao hai người đột nhiên lại xa cách đến lạ. Rõ ràng chỉ mới hôm trước, Greengrass còn cho anh một nơi trú ẩn khỏi Hang Sóc, vậy mà giờ đây anh lại có cảm giác hai người chuẩn bị phải nói lời tạm biệt. Ánh mắt Greengrass nhìn anh bằng sự thờ ơ và tôn trọng nhất định, như thể muốn nói rằng Anh sắp sửa trở lại thành Cứu Thế Chủ của chúng tôi rồi, và vì anh ở địa vị quá tầm với so với tôi, chúng ta sẽ chẳng bao giờ như thế này nữa. Gì chứ, anh làm gì còn có hi vọng trong chuyện đó. Gió đung đưa những tán lá bên ngoài, tiếng xào xạc hòa lẫn vào điệu nhạc du dương Lea vừa đặt lên máy hát. Bản Que reste-t-il de nos amours, anh nghĩ. Đôi khi những đĩa nhạc của Greengrass, kể cả mấy bản cô phát đi phát lại ở tiệm cà phê, lại làm Harry như trở về căn hộ đường Willow ngày ấy.
"Phải rồi Greengrass, tôi hỏi cái này có hơi riêng tư nhưng mà..." Anh ngập ngừng, phân vân không biết có nên mở miệng hỏi. "Làm sao cô biết mình yêu Lea?"
***
Ron dẫn Harry lên một thửa đồi cách ga tàu chỉ năm phút đi bộ. Giữa những mảng tuyết loang lổ, sắc vàng rực của hoa thạch thảo sáng lên rỡ ràng. Thấp thoáng phía đỉnh đồi là đôi ba mái nhà thấp nhỏ, nơi ba mẹ của Hermione đang ở. Hôm nay cô ấy bận việc đột xuất nên không đi cùng được, ba người cúi đầu hối lỗi trước cửa nhà họ, để rồi nhận được cú đánh thật mạnh vào lưng và nụ cười niềm nở mời vào trong nhà cho đỡ lạnh. Nhìn hai ông bà già nhấc bổng Rose lên xoay vòng vòng cùng Ron đứng bên cạnh che miệng khúc khích, anh tự hỏi mình đã thiếu thốn tình cảm đến nhường nào. Và câu trả lời là, từ khi anh còn mang hình hài một đứa trẻ. Đứa trẻ lớn lên không cha không mẹ. Thậm chí những người thân thuộc của nó cũng mất dần. Cho đến bây giờ, Harry Potter vẫn chẳng thay đổi gì.
Cả chiều hôm đó Harry hì hục trong bếp giúp bà Granger làm bánh sừng bò. Anh thử cố gắng nướng một chiếc bông lan gừng dựa trên kí ức về những lời hướng dẫn của Greengrass, nhưng thành phẩm vẫn chưa được quá tốt. Ron thậm chí còn nhăn mũi khi thử miếng bánh đầu tiên. Chỉ đến chiều muộn khi rổ bánh sừng bò đã sạch trơn, bà Granger mới dắt Rose ra ngoài. Harry xin phép đi cùng. Chưa đến mép đồi thoải nơi trồng thạch thảo, con bé đã kêu mỏi chân đòi bế. Anh bồng nó lên tay, thong dong thả bước bên bà lão mặc áo len họa tiết argyle cũ sờn. May mắn là lần này con bé không phản kháng gì cả.
"Thú thật, lần này là lần thứ hai cháu làm bông lan gừng rồi." Harry cười trừ. "Có lẽ cháu thực sự không có duyên với nướng bánh."
"Ồ, cậu trai trẻ, không ai là không có khả năng nướng bánh. Ta thậm chí đã nướng hỏng mười mẻ bánh sừng bò trước khi thành công." Bà Granger phẩy tay. "Cứ kiên nhẫn chờ đợi thôi. Từng chút một, rồi sẽ đến thời điểm thích hợp."
Chạng vạng. Ánh mặt trời le lói dần khuất dạng sau triền núi xa xăm. Nắng cuối ngày trải dài trên mặt tuyết và những đóa thạch thảo vàng ươm, óng lên thứ màu vàng kim tương phản hoàn toàn so với sắc đen của cây cối và những thửa đồi gần đó. Trong ánh chiều mờ tối, cái gì cũng như nhuốm màu hư hư ảo ảo. Đường chân trời phía xa mở rộng, những dải mây ửng màu xen kẽ nhau chạy đến điểm vô cùng. Gió chạy dọc triền đồi, thì thào trong bụi cỏ trước khi thốc đến và làm rối tung những lọn tóc của Harry. Không gian đặc quánh và tĩnh lặng, chẳng còn âm thanh gì khác ngoài tiếng rì rầm gần xa. Có lẽ là tiếng biển, như Ron nói. Hoặc cũng có thể là giọng hát giống như giấc mộng đêm ấy, giọng hát đến từ chính bên trong anh. Thời điểm đó. Anh nghĩ thầm, và tiến thêm một bước.
Rose trỏ ngón tay ngắn ngủn của nó về phía mặt trời sắp tắt. "Hoa", nó nói, rồi nhíu mày. "Không phải hoa. Là người yên khuất."
Kìa nhân gian sắp sửa chìm trong bóng tối
Hãy về thôi, hỡi đứa con của ta
Về ngọn đồi nơi có gốc táo lòa xòa
Nơi ta sẽ bảo vệ con khỏi thú dữ và bom bay đạn lạc.
Xéo khỏi nơi này, sói
Trở về chuồng rơm, trâu
Trong thời khắc ngày đêm nhạt màu
Ta sẽ đem hoa về, nên xin con hãy yên ngủ.
Kết thúc là khởi đầu. Ngày chuyển thành đêm, và đêm chuyển thành ngày. Vào khi chiều tàn, có ai đứng bên thung lũng cất cao tiếng hát gọi bầy. Về thôi. Về thôi nào. Sục sôi, giã giục. Là khúc ca khởi nguyên của sự sống.
***
Harry mở cửa bước vào bếp. Hôm đó là ngày cuối anh làm ở tiệm cà phê nhưng thay vì lấy cớ ở lại tiệm, anh quyết định về ăn tối với mọi người. Trong ánh chiều xuyên suốt một màu, bóng lưng Ginny dần hiện lên sau cánh cửa. Cô bé mặc chiếc đầm lụa nâu đất điểm xuyết những đốm sao li ti, mái tóc đỏ được búi cao – hôm nay là ruy băng xanh lam – và đôi tay thoăn thoắt xới tung rau diếp trong tô salad trứng luộc. Nhác thấy Harry, cô mỉm cười.
"Anh về rồi à."
Anh không trả lời, mà thay vào đó đến gần nơi Ginny đang đứng. "Làm gì thế?"
"Ờ thì, em thử công thức mới." Cô chun mũi, miệng chép một tiếng duyên dáng. "Trông có vẻ không ổn lắm. Anh thấy thế nào?"
"Anh thấy cũng được mà."
Cô gái tóc đỏ bất ngờ lặng hẳn đi, đôi mắt nâu chòng chọc nhìn anh. Chốc sau, cô nhón chân, đặt lên môi anh một nụ hôn vội vã.
Họ không nói gì sau đó.
"Em biết ngay." Nụ cười lại trở về trên khóe miệng Ginny. "Vào lần đầu hôn anh ấy, em cứ nghĩ mình phải sung sướng thế nào cơ. Ấy thế mà chẳng như em mong đợi gì cả."
Harry có cảm giác muốn bật cười theo cô gái. "Và?"
"Và như anh thấy đấy, sau một thời gian dài chẳng làm nên chuyện gì ra hồn, cộng với vài tuần suy nghĩ trong nhà và cuối cùng là sự kiểm chứng vừa rồi, em nhận ra mình đã quá bồng bột." Giọng nói Ginny mềm hơn, và có vẻ bối rối. "Harry, em yêu anh, nhưng không phải theo cách em từng nghĩ. Có lẽ anh hợp làm anh trai em hơn là người yêu đó."
"Trùng hợp ghê." Lần này thì Harry thật sự bật cười. "Anh cũng thấy vậy."
Nửa đêm, Harry trốn khỏi nhà với một chai rượu. Anh nhớ bữa tối hôm đó với gia đình Weasley cứ như thể một ngày lễ kỉ niệm. Vừa húp súp, Harry vừa nghĩ đến ngày đầu ở trong cái hộp, khi anh nằm gác chân giữa bãi đất trống khô cằn và đầu thì nghĩ miên man đủ thứ về tình yêu. Anh thận trọng quan sát từng gương mặt bên kia bàn ăn – ông Arthur chậm chạp, bà Molly niềm nở, Ron và Hermione thi nhau chùi nước sốt dính bên mép con gái, Ginny che miệng khúc khích. Đúng như những gì anh từng sợ ngày ấy, anh chẳng thể nào yêu họ. Ấy thế mà qua họ, anh nhìn thấy được Harry Potter của trước kia. Và Chúa ơi, anh muốn trở về với gã biết bao. Muốn trải nghiệm những gì hắn trải qua, muốn biết hắn thật chất là người thế nào. Suy cho cùng, hắn vẫn từng lớn lên như một người bình thường, chứ không đầy khiếm khuyết như anh bây giờ.
Anh nghĩ đến cái hộp. Một nơi trú ẩn bình yên và an toàn. Lại nghĩ đến bãi đất trống năm nào, nơi khởi đầu của mọi chuyện. Anh đã cứ hoài luẩn quẩn bên trong bốn bức rào sắt chọc trời ấy. Cho dù là khi anh chuyển về thị trấn, anh cũng chỉ sợ sệt núp lùm trong cái hộp. Anh đã chẳng đi đâu xa cả. Nhưng việc đó làm anh mệt mỏi. Sâu tận đáy tâm can, những giọng nói vẫn còn tồn tại. Bản chất con người không bao giờ thay đổi. Harry không thuộc về cái hộp; không một ai thuộc về cái hộp. Ngay từ đầu nó cũng chẳng có thật. Chỉ là một thứ ảo ảnh trí óc Harry tự nhào nặn để huyễn hoặc mình khỏi những âm thanh.
Mặt trăng treo lơ lửng trên cao, vầng sáng trắng sữa dần buông nhẹ xuống nhân gian khi mây mù xung quanh tản bớt. Harry đưa chai vang lên môi nhấp một ngụm. Phía đằng kia, nơi những ánh điện heo hắt vẫn còn thắp, là ga tàu nằm lẻ chiếc bên rìa cánh đồng khoai tây. Chuyến tàu cuối vẫn chưa đến sao. Anh nhớ chuyến lúc mười giờ đêm dừng ở mãi thành phố London cách nơi này ba tiếng đồng hồ. Thị trấn thì chỉ mất hai tiếng. Như vận động của đàn côn trùng, đôi chân Harry tự động lê bước về phía ánh sáng.
Anh chưa bao giờ thoát khỏi chúng. Những tiếng gọi từ nơi cội nguồn.
Trở về đi, Harry. Trời sắp tối rồi.
Nực cười làm sao. Khi anh nhận ra điều gì thực sự quan trọng với mình thì đã quá muộn. Tại sao vào mùa hè anh mới tỉnh dậy ở bệnh viện, người hiện ra trước mắt anh lại là ông Auguste với thái độ bàng quan kì lạ, mà không phải gia đình tóc đỏ sẽ mừng rỡ ôm choàng lấy anh khi thấy đôi mắt anh hé mở. Tại sao anh trước đây lại là một mối nguy hiểm – thà rằng cứ để anh là một phù thủy có năng lực bình thường và hoàn toàn vô hại. Tại sao người ta lại để mặc anh trong tình trạng mắc kẹt này.
Từ phía xa giữa đêm đen mịt mờ, chuyến tàu muộn xình xịch kéo đến cùng ánh đèn pha chiếu rọi. Nếu nhìn kĩ, có lẽ Harry sẽ thấy bên kia đường ray là người phụ nữ tóc đỏ với đôi mắt xanh rực tựa lá mùa xuân. Bà sẽ mỉm cười hồn hậu nhìn anh. "Harry, sâu bên trong mẹ biết con vẫn là con." Bà sẽ dang rộng cánh tay để anh sà vào lòng bà. Cha, chú Sirius, thầy Dumbledore, mọi người cũng sẽ đứng đó, giữa trảng cỏ lau bạt ngàn. Họ sẽ hiểu anh. Họ sẽ không coi anh là một con người khác. Nhưng thời điểm ấy đã qua rồi – ngay từ khi Harry bị tước đi toàn bộ kí ức, từ khi Harry trốn tránh những giọng nói bên trong đầu và nhốt mình vào trong cái hộp, từ khi Harry quyết định bước một bước lùi lại và chỉ nhìn gia đình Weasley từ phía xa, không phải vì sợ làm phiền, mà là sợ sự hoài nghi và ngượng ngùng ẩn sâu trong đôi mắt họ.
Harry lững thững bước lên tàu, chai rượu trên tay đã chỉ còn một nửa. Anh tìm bừa một hàng ghế mà ngồi phịch xuống. Thật lạ, tự dưng bây giờ anh lại nhớ đến cái hồi mới về thị trấn, đến xe buýt anh còn chẳng muốn đi nữa là tàu, thứ phương tiện sẽ đưa anh đến một nơi xa thật xa. Không phải anh bị say xe. Chỉ vì một nơi không quen sẽ làm anh thấy trống trải, rồi thì những giọng nói thôi thúc anh tìm về điều gì đó quen thuộc sẽ lại nhức nhối trong não bộ. Harry của phần đời trước chắc chắn không hèn nhát như anh lúc này. Anh vẫn nhớ gã ta qua lời kể của mọi người tỏa sáng thế nào, người luôn hào hứng trước mọi hành trình, người luôn nắm chặt cán chổi mà bay lượn trên không trung với đôi mắt sáng rực. Người hành động bất chấp hậu quả, người chắc chắn sẽ không bao giờ từ bỏ, người luôn tự tay phá vỡ những rào cản trước mắt. Khi nhìn vào ảnh chiếu của mình trên gương cửa sổ, Harry có cảm giác gã đang nở một nụ cười chiến thắng. Nụ cười anh chưa bao giờ có.
Malfoy có yêu anh kể cả khi anh chẳng thể nở nụ cười ấy không?
Sách từng bảo tình yêu là khởi nguồn của mọi thứ. Sự sống được ban tặng cho ai đó cũng là kết tinh ngọt ngào của cái gọi là tình yêu. Anh chấp nhận chìa bàn tay ra cho Malfoy vào đêm xuân năm kia, hẳn cũng vì có gì đó thôi thúc anh từ tâm can sâu thẳm. Chỉ là anh không biết. Greengrass nói rằng bản thân mình là thứ khó hiểu nhất. Thích hay ghét một ai đó không dựa vào việc người đó có điểm gì xứng đáng, mà quyết định ban đầu của cảm xúc sẽ thôi thúc lí trí nhìn nhận theo hướng đó về phía đối phương. Harry đã thấy gì ở Malfoy? Một gã trai lười giao tiếp nhưng nấu ăn ngon. Thứ tàn dư của âm thanh khiến anh bình yên khi ở cạnh. Từng cử chỉ thanh nhã, khóe môi đọng vị bánh và trà ngọt ngậy, vết sẹo bổ dọc trên ngực tựa tia chớp giáng trần. Tất thảy những thứ đó chỉ để Harry nhận ra rằng anh yêu cậu. Anh đã quyết định cậu là thứ gì đó đặc biệt từ khi mảng vàng đồng của chiếc saxophone lóe lên trong ánh điện của chuyến tàu vụt qua, rọi sáng gương mặt lim dim ngái ngủ.
Harry tựa đầu lên cửa sổ kính. Bóng đêm chờn vờn hai bên anh, tựa như những cơn mơ đang từ từ nuốt anh vào vực thẳm. Anh mơ màng nghĩ đến Malfoy, đến buổi tối hai người ngồi trên ban công rực sắc hoa dạ yến thảo. Vẫn là không khí mát lành của đêm hè nọ. Vẫn là bản nhạc lạ lùng nọ, bản nhạc Malfoy chưa từng đặt lên máy hát. Nhưng người đang đứng tựa vào lan can kia không ôm saxophone mà trên tay là cây vỹ cầm , hai mắt nhắm nghiền như đắm chìm vào những âm điệu réo rắt trầm bổng. Mùi hương thanh nhẹ phả ra từ cậu cũng không phải hương táo thoang thoảng, mà là mùi của nước thấm vào đất giữa cơn mưa. Đôi ngươi vần vũ sắc xám kia đột ngột nhìn thẳng vào Harry, và rồi giọng nói lạnh lẽo chạm tới tai anh, chầm chậm.
Trong mắt cậu, tôi là người thế nào?
Harry biết, Malfoy trong anh sẽ chẳng bao giờ thay đổi. Tôi yêu chị Lea, ngay cả khi biết về quá khứ trần trụi của chị ấy, tôi vẫn không thể thay đổi. Vậy nên anh đã có câu trả lời rồi. Mất bao lâu để anh có thể nhận ra. Rằng, cậu là cậu.
Nhưng còn Malfoy, cậu ta liệu có nghĩ như anh, như ông Auguste. Malfoy có yêu anh khi anh là một gã nhát cáy và trầm mặc, sợ đến rúm lại khi phải gặp gỡ người lạ. Malfoy có yêu cái cách anh cố gắng xét nét từng biểu cảm trên cơ mặt cậu ta, có yêu cái cách anh vùi đầu vào những cuốn tiểu thuyết huyễn tưởng, hoặc thi thoảng là phản địa đàng. Malfoy có yêu một anh lúc nào cũng cằn nhằn tiền nhà tiền nước tiền điện, chi tiêu cái gì cũng phải tính toán cẩn trọng. Malfoy có yêu một anh sẽ vác cậu ta vào phòng, bọc cậu ta kín lại bằng tầng tầng lớp lớp chăn bông, có yêu một anh thụ động đến mức nụ hôn đầu là do cậu ta tiến đến trước, việc tân trang lại tiệm sách cũng nhờ có cậu ta đến mới được tiến hành. Malfoy có yêu một Harry cô đơn và trống rỗng đến độ tự xây nên cái hộp, chỉ khi cậu ta đến và lấp đầy nó bằng jazz, đồ ăn và tiếng cười thì mới phần nào dễ chịu, để rồi ngay khoảnh khắc Malfoy biến mất khỏi tầm nhìn, tất thảy đều bị đập tan tành như tấm kính bể.
Hay cậu ta chỉ yêu anh khi anh là cái gã đang mỉm cười trên gương cửa sổ kia. Khi anh là ngôi sao trên sân Quidditch, khi anh cứu sống cả Cộng đồng Pháp thuật. Khi anh sẽ chẳng bao giờ bóc tách được cảm xúc của người đối diện, nhưng nhất định có cách khiến họ bật cười. Khi anh sẽ mạnh mẽ kéo cậu ta vào lòng cho một nụ hôn sâu và dài, khi anh sẽ đi xem thể thao và hoạt động phúc lợi thay vì đọc sách và mua về nhà cả chồng đĩa nhạc, khi anh sẽ, bằng chỗ tài sản của mình, hào phóng mua cho Malfoy bất cứ món quà gì cậu ta muốn. Khi anh chẳng hề nao núng tiếp cận và truyền năng lượng tích cực cho người khác. Khi anh, tương phản với một Harry khiếm khuyết và nhuốm đầy sắc xám, rực rỡ tựa vầng thái dương ngày hè.
Hay ngay từ đầu, Malfoy đã chỉ ích kỉ bấu víu vào anh như sợi dây cuối cùng liên kết cậu ta với nơi cậu ta chẳng còn trở về được nữa.
Suy cho cùng, như ông Auguste nói, hai thằng chẳng khác gì nhau cả. Cùng bị quá khứ ràng buộc, cùng muốn tiến về tương lai, nhưng lại chẳng thể nào buông bỏ.
Ta có cả quãng đời dài chỉ để dành cho tình yêu,
Không cần ít hơn, cũng không cần nhiều
Chỉ còn tình yêu là miên viễn.
***
Hai mươi lăm tuổi, Harry dần quên đi nhiều thứ. Anh quên mất tối đó anh đã ăn gì, quên cả nụ hôn Rose đặt lên má anh trước khi con bé đi ngủ. Nhưng cảm giác thì vẫn còn đó, thấm sâu vào da thịt – cảm giác quen thuộc và thanh thản khi biết gần mình là con đường lá phong rực đỏ, là dòng sông với những mạch nước ngầm lặng lẽ chảy, là tiệm sách cũ kĩ, là hiệu bánh mì thơm ngạt ngào, là đường ray với những chuyến tàu đi đi lại lại. Anh chớp mắt, rồi ngẩng đầu lên nhìn. Đường Willow. Có phải anh đang say không? Hẳn là anh say rồi nên mới gặp ảo giác như thế. Nhưng giá đây là ảo ảnh thì cũng tốt. Harry loạng choạng cất bước về phía căn nhà hai tầng anh đã chẳng quay trở lại từ hồi Năm Mới. Ở đó anh sẽ tìm thấy cậu ấy. Rồi thì cậu ấy sẽ đưa anh đi đâu đó, thoát khỏi cái thực tại chết tiệt này. Wiltshire, phải rồi, Wiltshire. Một nơi hoàn hảo, với những thảo nguyên và triền núi xanh tươi. Hoặc nơi nào cũng được, chỉ cần là đâu đó thật xa. Bóng áo sơ mi trắng lòa của cậu ấy sẽ dẫn lối cho anh, hệt như chuyến đi dạo trong rừng đầu tiên của hai người vào mùa hè trước.
Khi cánh cửa sắp rời bản lề lờ mờ hiện lên trong tầm nhìn, Harry đưa tay lên gõ nhẹ.
"Bà Celeste?"
Cậu ta kia rồi. Và có vẻ hoảng loạn. Thế nào cũng được, Harry chép miệng. Anh gục đầu vào vai Malfoy, nhưng sao mà mắt mũi anh lại cay xè thế này. Có lẽ là do hơi vang quá nồng. Thật may là cậu ta không đẩy anh ra khỏi ngưỡng cửa.
"Tôi... không biết phải làm gì nữa." Như một đứa trẻ, Harry bấu lấy vạt áo Malfoy mà khóc nấc. "Cậu là người duy nhất... duy nhất tôi còn có thể dựa vào."
"Tôi còn chẳng bằng được lũ con nít. Tôi còn chẳng tìm được đường quay về như chúng nó."
"Đến cả cái khăn này... từ tận đêm đó, tôi vẫn còn... chưa trả cậu."
Bên ngoài, những hồi còi tàu cứ hoài âm ư vang vọng, rồi loãng vào không khí tịch mịch của buổi đêm.
---
*Odora: Lea lấy từ tên daphne odora, tức hoa thụy hương.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip