HUYỀN THOẠI VỀ CÂY THUỐC

Huyền Thoại 

Bạch Chỉ

Bạch Chỉ xưa nay vẫn dùng để chữa bệnh đau đầu, hay đau răng .

Trong tủ thuốc Bắc, Bạch chỉ rất nặng mùi . Bạch chỉ cũng như nhiều vị thuốc khác, lúc bắt đầu không có tên ấy, vì ngôn ngữ  mỗi vùng lại có một tên khác .

Ngày xưa, rất xưa, xưa đến nỗi chuyện xảy ra từ thời đaiï nào cũng không rõ.  Lúc ấy không ai biết Bạch Chỉ là một vị thuốc, cả đến nhiều danh y cũng chưa biết đến công dụng của dược thảo này .

  Chuyện kể một hôm có một vị Tú Tài độ 30 tuổi, bỗng nhiên cảm thấy đầu nặng chân nhẹ . Mới đầu Cậu Tú tưởng vì làm việc mệt mà đau đầu nên coi thường. Nhưng sao lần này không giống như những lần trước chỉ đau vài hôm rồi khỏi. Hơn nữa hình như càng ngày càng đau nặng hơn.  Mặt  cậu Tú tái mét; đằng sau ót và hai cánh tay toát mồ hôi đau quá không chịu nỗi , người nhà tìm thầy hốt thuốc chới với cả lên .

Cậu Tú đã uống thuốc của tất cả các thầy Lang khắp vùng nhưng đều vô hiệu.

Một hôm cậu được  các bạn cho biết rằng tại tỉnh Hồ Bắc gần núi Vu Sơn, nghe  đồn rằng ở đấy có một vị lương y chuyên trị bệnh đau đầu. Cả nhà đều vui mừng dục cậu lên đường  tìm đến Cụ Lang ở núi Vu Sơn cầu y,  mong được chữa lành , càng sớm càng tốt .

Cậu Tú thuê xe ngựa chở đi, vài ngày sau mới đến được nhà Cụ Lang.  Khi vừa bước chân vào nhà, cậu ngả vật xuống đất. Hai tay cậu ôm đầu, tưởng chừng nghe có tiếng chuông đánh vang  dội như búa bổ trong óc. Cậu Tú mặt mày tái xanh không còn chút khí lực nào, cầu xin Cụ Lang cứu mạng .

Cụ Lang nhanh nhẹn đỡ cậu Tú đang nằm dưới đất dậy, hỏi thăm bệnh tình để  biết rõ trước khi  cho thuốc .

Nhưng trước khi bắt đầu, Cụ Lang ra điều kiện trước với cậu Tú  :

-Cậu chỉ biết uống thuốc  nhưng không được hỏi tên thuốc và cách chữa trị. Nhớ kỹ, tuyệt  đối không được hỏi gì cả. Trong khi chữa bệnh cậu cứ ở lại đây, nhưng sau khi khỏi bệnh , cậu phải về nhà lập tức .

Cậu Tú đầu đang đau như búa bổ, nghe cụ Lang ra điều kiện, cậu thực tâm chỉ muốn được chữa lành, không cầu xin bất cứ chuyện gì khác, nên  nói  với cụ Lang :

-Con thề xin vâng lời cụ. Xin cụ ra ơn chữa trị nhanh lên cho kẻo con đau chết mất . .

Bắt đầu từ hôm ấy, cậu Tú ở  lại. Cụ Lang  lấy trong tủ ra một viên thuốc to bằng đầu ngón tay, bảo cậu dùng trà Kinh Giới mà uống. Viên thuốc nhai nát ra có mùi vị đặc biệt, cũng có vị ngọt của mật ong nên không khó  nuốt .

Trưa hôm sau, mặt cậu Tú trông  tươi tỉnh lên nhiều .Cậu nghĩ thầm :

Bao nhiêu danh y đều không chữa được, thế mà chỉ mới dùng hai, ba viên thuốc đã thấy gần lành, thật khó tin!

Bây giờ ý tưởng và sức khỏe của cậu Tú khác hẳn . Chứng đau đầu kỳ dị cũng hết nên cậu thấy tò mò muốn  tìm hiểu vị thuốc tiên kia là thuốc gì. Vấn đề là đã trót thề thốt nặng lời  nên không dám hỏi ai  cả .

Khỏi bệnh rồi, lời thề nguyện, hứa hẹn  gì cũng đều vô nghĩa. Trong trí cậu Tú chỉ muốn biết viên thuốc  thần kia là thuốc gì, nên giả vờ chưa lành, nấn ná ở lại, mong  chờ cơ hội  tìm ra bí mật của vị thuốc .

Sáng hôm sau, một buổi sáng  gió mát  trời thanh làm cậu Tú muốn đi dạo quanh vườn .  Hôm ấy Cụ Lang đã  dặn  cậu Tú cứ ở nhà yên tâm tĩnh dưỡng, Cụ phải cùng với chúng đệ tử  lên núi hái thuốc . Nhà chỉ còn một mình cậu Tú trông nom. Cơm trưa đã được chuận bị sẵn cho cậu .

Cụ Lang là một người danh giá khá giả trong làng nên nhà to lớn rộng rãi. Có một  kho chứa thuốc, tường vách cửa ngõ rất kiên cố vững chắc. Bên trong  mấy chục thứ dược thảo xếp chồng chất lên nhau, gọn gàng từng đụn lớn. Cửa ra vào kho hàng ngày vẫn khóa chặt, nhưng hôm nay  trong mắt cậu Tú, cái khóa  bỗng hóa ra  to  lớn dị thường. Cả một tòa nhà to lớn mênh mông, hôm nay chỉ một mình cậu Tú đi đi lại lại, ruột gan cồn cào chỉ muốn tìm ra bí mật của dược thảo, không biết là giống cỏ gì, và ngoài mật ong  ra còn phối hợp với món gì nữa không .

Cậu Tú thất vọng thẫn thờ bước ra vườn sau. Bỗng thấy xa xa một giàn phơi thuốc ẩn hiện  trước mắt, bèn vội vàng  chạy nhanh đến giàn thuốc lá đang phơi .

Trên giàn phơi chất đầy một thứ dược thảo già non lẫn lộn, củ, rễ màu trắng, còn lẫn lộn một vài cành lá chưa khô, nên cậu Tú nhận ra ngay được dược thảo đang phơi .Tất cả đều là giống cỏ mọc khắp rừng, lá màu tím, to độ 2, 3 ngón tay, hoa trắng, nhụy vàng có chấm nhỏ li ti .

Cậu Tú lấy vài rễ cây đưa lên mũi ngửi, một mùi thơm đặc biệt ngào ngạt xông lên, câu nhai thử một ít rễ thấy đúng là mùi vị của thứ thuốc được dùng để chữa trị .

Mới trước đây không lâu, cậu Tú băn khoăn thác mắc, lo không tìm ra được vị thuốc cứu mạng, thì bây giờ lòng vui vẻ thỏa mãn. Thấy đói bụng, cậu bèn vào nhà ăn bữa  cơm trưa đã dọn sẵn một cách ngon lành. Nhìn dáng điệu hăng hái nồng nàn đây nhiệt huyết, biết ngay là cậu đã thành công và đang sung sướng vô cùng .

Chiều tối Cụ Lang và chúng đệ tử gánh thuốc hái được trên núi trở về. Cụ Lang vừa trông thấy cậu Tú đứng chờ trước cửa  hỏi ngay :

-Hôm nay cậu Tú thấy thế nào. Khỏe chưa ?

Cậu Tú tươi cười trả lời :

Thưa cụ, Cảm ơn cụ, con cảm thấy chưa bao bao giờ khỏe mạnh như  thế này . Chắc là đã khỏi hẳn rồi .

Cụ Lang nghe thế cười to, tỏ vẻ bằng lòng đi vào kho cất thuốc .

Tối đến cả nhà cơm nước xong, ai lo việc nấy. Rừng núi ban đêm yên tĩnh, tiếng réo rắc của côn trùng ban đêm nghe rất rõ ràng . Cậu Tú ngồi đọc sách trong phòng, lắng tai nghe tiếng cối đá giã thuốc lẫn với tiếng côn trùng vẳng lại, nghe rõ mồn một .

Cậu Tú nghe tiếng chày giã thuốc chịu không nỗi, bước ra khỏi phòng men theo hành lang , đến kho dược thảo nơi chế thuốc của cụ Lang .

Cậu nhìn qua khe hở thấy bên trong, cụ Lang và chúng đệ tử đang cẩn thận giã thuốc trong cối đá . Khi thuốc đã nhuyễn thành bột, cụ chế mật ong vào thuốc, mùi mật ong với thuốc thơm xông lên rất nồng nàn .

Cậu nhìn kỹ thấy dược thảo giã trong cối đá chính là thứ  củ có rễ trắng cậu trông thấy phơi ngoài vườn ban ngày .

Thuốc  đóng lại thành viên xong, được đem vào phòng sấy đợi khô .

Hôm sau, lúc Cậu Tú  còn nằm trên giường, vừa mở mắt  đã thấy cụ Lang đứng ngay bên đầu giường. Cậu vội vàng vùng dậy.  Cụ Lang ấn vai cậu ngồi xuống nói :

- Chắc cậu đã biết giống thuốc dược thảo rồi nhỉ ? Vì thế tôi không cần dấu diếm gì nữa .

Nét mặt cụ Lang rất hiền hòa thân ái, cụ nói tiếp :

-Món thuốc này là thuốc gia truyền của tồ tiên tôi truyền lại . Điều đặc biệt là thuốc này không cần đi chung với thuốc gì khác cũng có thể trị được bệnh. Nếu được chế luyện với mật ong thì sức thuốc làm bớt đau càng mạnh .

Dược thảo này chưa có tên, nên  ban đầu tôi  bảo cậu đừng hỏi tên  vì thế. Trên đời không có Y Sư nào lại không biết tên thuốc mình dùng phải không? Cậu là một người  đã đỗ Tú Tài, là một danh sĩ. Chắc có thể đặt cho dược thảo này một cái tên xứng đáng. Tôi đến  đánh thức cậu dậy sớm thế này vì không muốn cậu ngại ngùng hối hận . Nếu không nói trước, hôm nay cậu về nhà  thì hết cơ hội .

Cậu Tú nghe xong cảm động nắm chặt hai tay cụ Lang  nói:

-Thưa cụ đúng như thế. Con đã thấy thuốc phơi sau vườn, nên đoán biết được vị thuốc trị bệnh đau đầu rồi. Nghe cụ bảo con đặt tên, con rất vinh hạnh. Con thực cũng không biết giống cỏ này tên gì. Cụ nghĩ tên Hương Bạch Chỉ được không ?

Hương là mùi thơm, Bạch là  rễ cây màu trắng, Chỉ là ý nói rể non vừa mọc .

Cụ Lang gật đầu bằng lòng .

Thế là từ đấy, môn thuốc “Hương Bạch Chỉ  trấn thống ” chuyên trị ngừng đau  ra đời làm cho Vu Sơn nổi tiếng khắp nơi .

Ngày nay vì ngôn ngữ biến chuyển, Hương Bạch Chỉ chỉ còn lại Bạch Chỉ, và cũng còn nhiều tên khác ở nhiều địa phương khác. Nhưng trong  “Bổn Thảo Thư “ được  dùng  Hương Bạch Chỉ  để  ghi chép, cũng như nhiều Y Sư dùng tên này để ra toa .

Dược Thảo Bạch Chỉ

Tên khoa học

 : Angelica Dahurica

Có 12 tên khác nữa .

Tính chất:

 Bạch Chỉ  Vị cay, tính  ấm vào ba kinh  Phế, Vị, và Đại Trường, không độc .

Công dụng

 :

Giải trừ phong, thấp , thông khiếu và phát hãn. Chủ dược của Kinh Dương Minh, vì mạch kinh Dương Minh chằng lên mặt, cho nên Bạch Chỉ trị các chứng bệnh ở mặt: nhức đầu, mắt mờ , chói mắt, chóng mặt, mi mắt đau nhức, đau chân răng, da mặt sần sùi, mụn con. Ngoài da ngứa lở, giảm đau.

Người nào huyết nhiệt, có hư hỏa không nên dùng .

Vào mùa thu, khi lá úa vàng, đào Bach Chỉ , cắt bỏ cành , dùng thân và rễ , tránh làm sây sát vỏ và gãy rễ . Không lấy rễ khi hoa đã kết hạt, rửa sạch đất. Thái nhỏ. Có thể phơi ngay hay xông diêm sinh, hay cho vào vại  có vôi đậy kín một tuần rồi mới lấy ra phơi hay sấy khô .

Ủ vôi hay xông diêm sinh vì để lâu hay sinh mọt .

Huyền Thoại

Hà Thủ Ô

Hà Thủ Ô là tên một vị thuốc bổ rất quen thuộc trong mọi gia đình, người xưa tin rằng Hà Thủ Ô có khả năng làm người già thành trẻ, tóc bạc lại đen. Tuy rằng để chứng minh, chỉ có một chuyện cổ tích rất ngắn, và không có nhiều chi tiết, được coi như huyền thoại, nhưng tất cả những sách dược thảo đều có ghi lại vì đó là lý do vì sao vị dược thảo này được gọi là Hà Thủ Ô.

Sách thuốc cổ ghi rằng: “Hà Thủ Ô vốn tên Dạ Giao Đằng, sau vì có ông già họ Hà dùng lâu ngày, tóc bạc hóa đen và sống lâu hơn mọi người, nên đuợc gọi là Hà Thủ Ô, có nghĩa là ông họ Hà có đầu tóc đen”.

Cây Hà Thủ Ô là loại cây leo hay dạ hợp, vì đêm đến cành quấn vào nhau. Tên khoa học là Polygonum multiflorum, nghĩa là có nhiều đốt, nhiều hoa. Cây mọc lâu năm, thân xoắn vào nhau, lá so le, có cuống dài. Hoa trắng mọc chùm có nhiều nhánh. Mùa hoa tháng 10, mùa quả tháng 11.

Hà Thủ Ô mọc hoang ở rừng núi nhiều nhất là ở Giang Tô, Quảng Đông, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Phúc Kiến ở Trung Hoa và các tỉnh Tây Bắc và Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Hoàng Liên Sơn, Lai Châu ở Việt Nam.

Đến mùa thu hay mùa xuân, người ta đào về rửa sạch đất, cắt hai, hấp rồi phơi khô. Có nơi không hấp mà phơi ngay. Muốn có Hà Thủ Ô miếng thì đào về còn tươi đem thái ngay, hấp chín rồi phơi khô.

Có nhiều nơi luyện thuốc rất kỹ, hấp Hà Thủ Ô với đậu đen xong phơi khô. Khô rồi lại hấp với đậu đen và phơi lại. Làm như thế đến 9 lần. Hà Thủ Ô thành đen tuyền mới đúng gọi là Hà Thủ Ô chế. 

Cho đến nay Hà Thủ Ô vẫn được dùng làm thuốc bổ thần kinh suy nhược, bổ huyết, khỏe gân cốt. Đối với phụ nữ, Hà Thủ Ô được dùng làm thuốc bổ sau khi sanh đẻ.

Ngoài rễ Hà Thủ Ô, lá và cành còn được dùng đun nước tắm rửa, để chữa các chứng lở ngứa. Có thể phối hợp với lá ngải càng tốt.

Hiện nay tại các chợ có nơi bán một thứ rượu Hà Thủ Ô. Tại các quầy hàng dược thảo có bán Hà Thủ Ô đã chế luyện rồi gói trong giấy bóng. Có thể mua về tự ngâm rượu Hà Thủ Ô nguyên chất hay thêm vài dược thảo khác.

Ngoài ra lại còn một thứ Hà Thủ Ô trắng. Các vị Đông Y cho là công dụng cũng giống như Hà Thủ Ô đỏ. Cách chế biến và liều dùng cũng không khác.

Rượu Hà Thủ Ô

Theo sách cổ Hà Thủ Ô có tác dụng bổ tinh, hồi xuân, phòng lão, tăng tuổi thọ, mạnh gân xương.

Dùng 150gr Hà Thủ Ô, 200gr đường phèn, một lít rượu. Cho vào bình đậy kín để nơi tối mát độ hai tháng. Chất thuốc tan vào rượu, lọc bỏ bã. Uống 1 hay 2 ly nhỏ một ngày. Rượu Hà Thủ Ô mùi vị không ngon nhưng pha lẫn với rượu Quế thì thơm ngọt, dễ uống hơn. Nếu cay nồng quá có thể pha thêm nước hoa quả hay nước để cho loãng bớt.

Đơn thuốc bổ

Người yếu, thần kinh suy nhược ăn uống kém tiêu, dùng :

§

 Hà Thủ Ô 10gr,

§

 Táo đen 5g,

§

 Thanh Bì 2g,

§

 Trần Bì 3g,

§

 Sinh Khương 3g,

§

 Cam Thảo 2g,

§

 Nước 6 chén.

sắc còn 2 chén, chia 3, 4 lần uống trong ngày.

Bài thuốc Thất Bảo

Làm cho tóc râu tốt, khỏe gân xương, bổ tinh khí, sống lâu.

§

 Hà Thủ Ô đỏ và Hà Thủ Ô trắng mỗi thứ 600g ngâm nước vo gạo 4 đêm ngày, cạo bỏ vỏ, dùng đậu đen đãi sạch rồi cho Hà Thủ Ô vào nồi hấp, sắp một lượt Hà thủ ô, một lượt đậu đen, xong bắc lên bếp hấp chín đậu đen, đem bỏ đậu, lấy Hà Thủ Ô phơi khô, rồi lại hấp với đậu khác, làm như vậy 9 lần. Cuối cùng đem Hà Thủ Ô sấy khô và tán bột.

§

 Xích và Bạch Phục Linh mỗi vị 600g, cạo bỏ vỏ tán bột, đãi với nước trong, lọc lấy bột lắng ở dưới, nắm lại, tẩm với sữa phơi khô.

§

 Ngưu Tất 320g, tẩm rượu một ngày, thái mỏng trộn với Hà Thủ Ô, hấp với đậu đen vào lần thứ 7, 8 và 9 đem ra phơi khô.

§

 Đương Qui 320g tẩm rượu phơi khô.

§

 Cẩu Kỷ Tử 320g tẩm rượu phơi khô.

§

 Thổ Ty Tử 320g tẩm rượu cho nứt ra, giã nát phơi khô.

§

 Bổ Cốt Chỉ 100g, trộn với mè đen sao cho bốc mùi thơm.

Tất cả giã nát trộn đều thêm mật vào làm thành viên 0,05 g (bằng hạt bắp).

Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 viên. Sáng dùng rượu chiêu thuốc, trưa dùng nước gừng và tối dùng nước muối (theo Tích Thiện Đường).

Hà Thủ Ô Hoàn

Công dụng như bài “Thất Bảo” nhưng ít vị hơn:

Hà Thủ Ô 1.800g thái mỏng, ngưu tất 600g thái mỏng. Hai vị trộn đều. Lấy đậu đen đãi cho sạch. Cho thuốc vào nồi hấp, cứ một lượt thuốc, một lượt đậu. Hấp chín đậu. Lấy thuốc ra phơi khô. Làm như vậy 3 lần rồi tán bột. Lấy thịt táo tàu đen trộn với bột làm thành viên 0,05 g. Ngày uống 5 lần, mỗi lần 30 viên. Dùng rượu hâm nóng để uống thuốc (theo Hòa Tễ Cực Phương).

Hà Thủ Ô Tán

Công dụng cũng như bài ”Thất Bảo”.

Hà Thủ Ô cạo vỏ, thái mỏng phơi khô, tán bột. Ngày uống 4g vào sáng sớm, uống thuốc bằng rượu (theo Bản thảo cương mục).

Những phương pháp nói trên, chỉ ghi lại để thấy người xưa rất thận trọng việc làm thuốc. Và trong dân gian dù được dùng rất nhiều, không phải ai cũng có đủ kiên nhẫn và hiểu biết dược tính, để pha chế một thứ dược thảo bình dân, thông dụng khắp nơi, và khắp cả mọi giới như Hà Thủ Ô.

Cháo Hà Thủ Ô

Gói Hà Thủ Ô trong vải thưa, nấu chung với cháo. Cháo nhừ vớt ra.. Ăn ngọt cho đường. Ăn mặn cho thêm một quả trứng, nêm nếm vừa miệng. Bổ khí huyết.

Huyền Thoại 

BỐI MẪU

Một nghìn ba trăm năm, trước đời nhà Đường, có hai huyền thoại về vị thuốc Bối Mẫu đã được truyền tụng trong dân gian tại Giang Tá Thưởng, một thị trấn nhỏ, thuộc tỉnh Giang Nam .

Truyện thứ nhất là truyện một thương gia, mấy đời buôn bán làm ăn lớn rất phát đạt. Một hôm cánh tay thương gia bị chợt, vết thương rất nhỏ và cũng không đau đớn gì nên bị coi thường. Nhưng chỉ vài hôm sau, vết thương ban đầu bé tí bỗng sưng tấy lên rất to và làm nhức nhối đau đớn vô cùng. Mủ máu cứ ri rỉ từ những chỗ nứt ở vết thương chảy ra .

Thương gia đã xem nhiều Thầy, dùng nhiều thuốc đều không hiệu nghiệm . Bệnh càng ngày càng nặng, bệnh nhân trông càng thảm não tiều tụy, ốm yếu vì không ăn uống gì được. Người nhà phải đổ rượu cho cánh tay thành tê dại, bớt đau, bệnh nhân mới nuốt trôi được vài thìa cháo. Khi chất rượu tan, hết tê dại thì lại nhức nhối đau đớn vô cùng .

Lương Y đã tận tâm, mà bệnh nhân cũng không hề ngại ngần bỏ tiền ra mua tất cả các loại thuốc quí giá. Dù là thuốc kim loại, khoáng thạch, hay thảo mộc. . . . Cần hay không cần cũng mua , dùng cho đến gần hết thuốc, mà bệnh vẫn không thuyên giảm .

Một hôm trong cơn tuyệt vọng, bệnh nhân dùng thử Bối Mẫu . Chỉ mấy hôm chỗ sưng nhỏ lại và hình như vết thương cũng teo bớt rất nhiều . Bệnh nhân mừng quá, ngày ngày bóp nặn cho máu mủ ra , dùng Bối mẫu trong uống ngoài thoa, chẳng bao lâu lành hẳn .

Huyền thoại thứ hai cũng xảy ra tại Giang Nam. Lại cũng nhờ Bối Mẫu đã cứu cho một thiếu phụ mẹ tròn con vuông, khiến cho gia đình khỏi tan nát.

Chồng của thiếu phụ này là con một trong gia đình nên Bố mẹ rất khao khát chóng có cháu bế . Trong ba năm thiếu phụ sinh được ba con, nhưng cứ mỗi lần vừa sinh ra là đứa bé chết ngay sau khi sinh . Không những con chết mà mẹ cũng mệt nhọc thở dốc gần đứt hơi , làm cả nhà đều lo sợ cho tính mạng của người mẹ .

Rồi một hôm có một Thầy Bói vác bảng quảng cáo “Bói Toán Tử Vi Số Mệnh” , đi ngang qua làng. Bà mẹ chồng già bèn mời ông ta vào nhà, nhờ xem vận số tướng mạng cho nàng dâu . Ông Thầy bói hỏi thăm ngày sinh tháng đẻ của thiếu phụ xong, mở rương lấy dụng cụ bói toán ra . Nào Sách, nào hương trầm, nào đồng tiền gieo quẻ, nào mu rùa . . . .

Thấy lóc cóc lách cách tính toán hồi lâu xong, nói với một bộ mặt rất trang trọng :

- Bà cầm tinh Bạch Hổ, là con Cọp trắng . Cọp phải ăn thịt Dê, Chó, Heo, vì thế ba đứa con bà đều bị Cọp bắt mất .

Bà mẹ chồng hốt hoảng hỏi:

-Vậy phải làm thế nào ? Tốn kém bao nhiêu cũng không ngại. Xin Thầy cứ dạy cho cách tránh được vận hạn này .

Thầy Bói vuốt râu chậm rãi nói:

-Có cách chứ . Lần sau, khi bà sinh con , nhớ bảo bố nó lập tức dấu đứa bé đi . Xong bế đứa bé chạy về hướng Đông. Phía ấy có biển . Cọp vốn sợ nước , nếu đem đứa bé dấu ở nơi gần nước vài ngày . Cọp tìm đến nơi thấy nước sẽ sợ chạy về rừng.

Năm sau, thiếu phụ lại sinh được một bé trai . Người chồng lập tức làm theo lời ông thầy bói dặn. Nhưng đứa bé vừa được đem ra khỏi nhà không xa thì tắt thở .

Bà mẹ chồng nồi xùng, chửi ông thầy bói thậm tệ, và vì nóng ruột muốn có cháu bế, bà bắt con bà phải bỏ vợ. Lý do vì cô này kém đức không sinh được con sống, mà chỉ sinh con chết .

Tội nghiệp thiếu phụ, được tin chồng sắp bỏ thì khóc lóc thảm thiết . Cô biết chồng thương cô nhưng hoàn cảnh chồng là con một, phải có bổn phận sinh con để nối dõi tông đường , nên dù không muốn cũng không dám cãi lời mẹ .

Trong lúc ấy, tình cờ có một thầyï Lang ở làng bên đi ngang qua, nghe tiếng khóc than kể lể, và tiếng mắng chửi của bà mẹ chồng, thầy bèn dừng bước hỏi mấy người hàng xóm, để biết những chuyện gì không may đã xảy ra .

Sau khi hiểu rõ câu chuyện , thầyï Lang liền vào nhà hỏi thăm . Người Thầy trông thấy trước nhất là một thiếu phụ mặt mày tái mét, đang khóc lóc thảm thiết . Là một thầy Lang có kinh nghiệm, vừa nhìn qua là biết ngay người đàn bà đang có bệnh nặng .

Thầy Lang tự giới thiệu và tỏ ý tình nguyện muốn xem mạch , phước chủ may thầy , có khi kết quả như ý .

- Bà sinh xong thì bị nổi cơn hen suyển rất nguy kịch . Và em bé cũng bị chết ngay. Đó là vì bệnh chứ không phải vì cớ gì khác. Bây giờ tôi có thể chữa bệnh, giúp cho bà sinh được em bé khỏe mạnh ăn chơi .

Sau khi chẩn mạch xong, Thầy Lang nói một cách đầy tin tưởng như thế . Thiếu phụ vừa rồi đang lo sợ bị chồng bỏ, vội vàng chắp tay quì vái Thầy Lang biểu lộ tạ ơn, Nhưng riêng người chồng và bà mẹ chồng vì tin theo lời thầy bói nên vẫn tỏ vẻ hững hờ.

Thầy Lang cất giọng nghiêm nghị nói với bà già như ra lệnh :

- Bảo con bà sửa soạn lên núi hái thuốc . Cây thuốc ấy lá nhỏ dài, đầu cuống có hoa màu tím đậm . Tìm được cây ấy thì đào lên, gốc rể sẽ có từng chùm củ, có múi như múi tỏi . Hái đem về làm thuốc .

Người chồng vâng lời Thầy lên núi hái thuốc suốt mấy ngày liền . Mỗi ngày hái xong, đem về rửa sạch đất cát, xong cho vào ấm sắc thuốc cho vợ uống .

Người vợ uống thuốc chuyên cần. Sau ba tháng, không những lành bệnh sản hậu, sức khỏe tăng lên gấp bội, mà còn mặt mày hồng nhuận, tươi trẻ như một thiếu nữ .

Chẳng bao lâu bà lại hoài thai . Đúng tháng ngày sinh được một em bé trai khỏe mạnh. Lần sinh này bà không bị cơn hen suyển làm thở dốc gần đứt hơi như những lần trước . Em bé cũng rất ngoan, mỗi ngày khóc lớn một lúc, được bú no xong ngủ một giấc ngon lành .

Một gia đình đang từ đau khổ thất vọng, biến thành hạnh phúc tràn trề .Cả đến bà mẹ chồng, khó tính già nua lụm khụm. cũng thích lết lại gần để được ẵm bồng cháu .

Lễ cúng đầy tháng xong, mẹ con vợ chồng lên đường đi thăm Thầy Lang để tạ ơn . Thầy cũng rất vui mừng thấy kết quả sự chữa trị đã đem hạnh phúc lại cho một gia đình gần như sắp bị đổ vỡ .

Cả nhà ai cũng muốn hỏi tên vị thuốc cứu mạng ấy là gì . Thầy thành thật trả lời :

- Sự thực tôi chỉ biết dùng để chữa bệnh, mà không biết tên gì .

Bà già ngắm nhìn cháu nội khỏe mạnh hồng hào một hồi lâu, cười đề nghị:

-Nếu vậy xin Đại Phu cho phép tôi đặt tên được không ?

-Nếu vậy thì tốt quá . Mời bà .

- Thứ dược thảo ấy đã giúp cho người mẹ sinh được hài nhi khỏe mạnh . Là một thứ thuốc tiên, là một bảo bối quí nhất trần gian . Vậy tôi xin lấy chứ Bối trong Bảo Bối ghép với chữ Mẫu là Mẹ . Gọi là Cây Bối Mẫu được không ? Ý nói dược thảo quí như bảo bối của những người mẹ .

Rồi từ đấy cây thuốc đã cứu cho một gia đình khỏi tan nát có được một tên xứng đáng : Bối Mẫu . Tuy rằng trước đó đã có nơi gọi nó là Khổ Thái, hay Khổ Hoa, nghĩa là rau đắng, hoa đắng ,và nhiều tên khác nữa. Nhưng từ lúc chuyện này xảy ra, tên Bối Mẫu được dùng trong y giới và dân gian cho đến bây giờ .

DƯỢC THẢO BỐI MẪU

Bối Mẫu khí bình , vị khổ (đắng) và tân (cay), không độc

Có hai thứ Bối mẫu trên thị trường : Thứ sản xuất ở tỉnh Tứ Xuyên gọi là Xuyên Bối, củ nhỏ như hạt bắp , giá đắt hơn vì chất thuốc mạnh hơn . Thứ củ lớn bằng quả sung, gọi là Thổ bối mẫu chất thuốc không mạnh bằng . Nhiều cách chế hóa và phối hợp khác nhau, nhưng cốt yếu Bối Mẫu là một vị thuốc giáng hỏa, tiêu đờm, thanh phế .

Bối Mẫu vị khổ nên tả tâm hỏa, tân nên tán phế uất, nhuận được cả Tâm và Phế, thanh được những chứng đờm do khí hư mà sinh ra . Trị được những chứng hư lao buồn phiền nóng nãy, ho hắng đầy hơi. Chữa được những chứng phế ung, cuống họng sưng đau

Tóm lại là Bối Mẫu làm tan được những nơi bí kết, trừ được chứng nóng nẩy, tan được những mụn độc, làm lành được những đầu mụn đã vỡ rồi .

Thường dùng cho người mới sinh con không có sữa cho con bú, người bị ho lâu ngày .

Phối hợp với các vị thuốc khác để trị những chứng :

Ban chẩn mới phát bốc lên nóng quá, phát suyển, phát ho đờm sò sè , chứng thương hàn, buồn phiền khó chịu.

Phối hợp chữa những chứng nhiệt độc, trúng phong, xương gân co cứng , lên cơn vì đờm . . .

Huyền Thoại 

Ðương Qui

Theo Trung dược, Đương Qui ngày xưa được coi là vị thuốc chính của phụ khoa hay sản khoa, chuyên trị bần huyết, đau bụng, kinh nguyệt không đều. Và cho đến bây giờ vẫn còn dùng để chuyên trị các chứng ấy. Một số lớn phụ nữ sau 40 tuổi thích dùng Đương Qui điều chỉnh huyết mạch để được thoải mái trong những ngày có kinh.

Dưới triều nhà Minh (1868) Trung Hoa có rất nhiều lối giải thích cho tên của vị thuốc này. Ngày xưa đàn ông cuới vợ mục đích chính là để sinh con nối dỏi tông đường, nên việc điều chỉnh khí huyết cho phụ nữ vẫn là một môn quan trọng hàng đầu trong y giới vì thế ý nghĩa đầu tiên của chữ Đương Qui là “ Tưởng phu” nôm na là nhớ chồng.

Trung y thường hay dùng chữ “huyết khí”. Nếu khí thể lưu chuyển trong huyết dịch không lưu thông tuần hoàn đều đặn được, thì dễ sinh ra một chứng gọi là “bệnh khí” mà danh từ Trung y đã có từ nghìn xưa. Đương Qui được coi là vị thuốc điều chỉnh cả khí lẫn huyết.

Người bệnh sau khi dùng Đương Qui, khí huyết trở về đường vận chuyển cố định của mình, tên Đương Quy còn có nghĩa là “Trở về” cũng do đó mà ra.

Nhưng dưới triều Minh, một huyền thoại về nguồn gốc tên của vị thuốc Đương Qui đã được phổ biến rộng rãi. Truyện kể rằng ngày xưa cạnh sông Bạch Long Giang, thuộc tỉnh Cam Túc, có một làng rất trù phú. Cạnh làng là núi Đại Sơn hùng vĩ thâm nghiêm vì bị rừng rậm bao quanh.

Khu rừng núi này là một kho tàng dược thảo hiếm quí, nhưng cũng rất nguy hiểm vì trong rừng đầy những thú dữ và rắn độc, làm quanh năm không ai dám vào rừng săn bắn hay hái thuốc.

Một hôm trai làng họp nhau giải trí, bàn tán thiên hạ sự. Câu chuyện từ văn chương, thơ phú, đến võ nghệ, đến tướng số, phụ nữ..... dần dần xoay ra bàn về sự can đảm của đàn ông.

Đấy là đám thanh niên ưu tú nhất làng, xưa nay ai cũng cho mình can đảm anh hùng. Nếu lỡ bị chê nhu nhược thì đó là một điều đại sỉ nhục.

 Cãi nhau suốt nửa ngày, ai cũng khoe những thành tích dũng cảm của mình, không anh nào chịu thua, chịu nhường anh nào. Khi họ sắp đánh nhau để giải quyết thì có người đề nghị tìm cách thử can đảm cả bọn mới yên.

 Cách thử là ai dám vào tận trung tâm núi Đại Sơn rồi trở về, thì sẽ được công nhận là người dũng cảm nhất.

Cả một đám thanh niên cường tráng trước đấy mấy phút, nhiệt khí bừng bừng, múa tay đập chân, ai cũng xưng mình là người hùng, bây giờ bỗng thành hiền từ, nhường nhịn khiêm tốn ra mặt.

Trong yên lặng đầy khách khí ấy bỗng nghe có tiếng nói:

- Được rồi! Tôi bằng lòng đi.

Tất cả đều quay nhìn Vương Dũng, con người nho nhã, rất ít nói mới cưới vợ là cô Hồng đẹp nhất làng.

Khi mọi người thấy Vương Dũng, chàng thanh niên xưa nay tính tình rất hiền hậu nhã nhặn xin đi thì đều cố sức ngăn cản:

- Ai đi cũng được, Vương Dũng không nên đi.

- Vương Dũng mới cưới vợ, bộ anh điên à !

Các bạn đều cho là Vương Dũng nói đùa, có ai điên hay ngu mới dám vào núi Đại Sơn.

Có tiếng người nói:

- Các anh khỏi phải can, Vương Dũng chỉ nói dốc chơi mà thôi. Phải không Dũng. Anh dám bỏ vợ đẹp mới cưới ở nhà để vào rừng cho cọp ăn sao. Bỏ vợ cho ai?

Mọi người nghe thế đều cười, thôi can ngăn và xoay ra chế nhạo Vương Dũng.

Chàng thanh niên vốn yếu đuối, hiền lành ngày thường, bây giờ bị chạm tự ái nên giận dữ đứng dậy nói:

- Quân tử nhất ngôn. Các anh cứ mở to mắt mà xem!

Nói xong, Vương Dũng về nhà sửa soạn hành trang vào rừng. Mặc dầu mẹ và vợ Dũng hết sức can ngăn nhưng Dũng nghĩ rằng một lời hứa quyết liệt đã nói ra trước mặt anh em, thì không thể nào rút lui, như thế tỏ ra mình nhu nhược. Để mặc mẹ buồn vợ khóc, Vương Dũng sửa soạnlương thực, cung tên, giáo mác.

Trước khi lên đường, anh nói với mẹ và vợ:

- Xin mẹ tha tội bất hiếu cho con. Nếu 3 năm mà con không trở về thì coi như con chết rồi. Mẹ cho vợ con đi lấy chồng khác. Còn em, sau 3 năm, mẹ bảo sao, em phải nghe vậy!

Vương Dũng nói xong chạy vội đi để khỏi trông thấy cảnh mẹ và vợ khóc than buồn rầu.

Từ ngày Vương Dũng vào rừng, nhà chỉ còn hai người đàn bà. Mẹ chồng và nàng dâu, ngoài thương nhớ khóc than, còn phải làm ruộng làm rẫy để sinh sống.

Thời gian qua mau, kỳ hẹn ba năm đã đến. Hồng chờ đợi thương nhớ và làm lụng khổ sở quá nên đâm ra chán đời. Nàng sợ cuộc sống cô đơn vật lộn một mình. Tinh thần Hồng xuống thấp, khí huyết trì trệ, bất hòa, ăn ngủ không được, nên dần dần thành bệnh. Chứng bệnh khí huyết suy nhược mà Trung y gọi là “ Dị thường bế kinh”.

Mẹ Vương Dũng là một bà mẹ hiền. Từ ngày con bỏ nhà ra đi, bà với nàng dâu sống đùm bọc nhau, bây giờ ngoài thương nhớ con, làm lụng vất vả, còn phải săn sóc thuốc thang cho nàng dâu bệnh hoạn, nhưng bà vẫn gắng chịu không hề than van.

Sau ba năm chờ đợi trong tuyệt vọng, một hôm bà mẹ bảo con dâu:

- Mẹ con ta chờ đợi hơn 3 năm rồi. Nếu còn sống thì chồng con phải về từ lâu. Nay đã quá kỳ hạn, chồng con nhất định là chết rồi. Ta cho phép con đi lấy chồng khác để có nơi nương tựa, và ta cũng bớt mệt nhọc. Ta vừa làm lụng vất vả, vừa lo lắng săn sóc con nay đau mai ốm. Cái thân già này cũng đã mệt mõi lắm rồi.

Ban đầu Hồng không chịu, cũng như suốt 3 năm qua, nàng đã từ chối tất cả những mối manh xin cưới của trai làng, vì ai cũng biết đã vào rừng Đại Sơn là không có người nào trở về được nữa. Hồng chắc chắn đã thành quả phụ. Mọi người đều chấp nhận ngày ra đi của Dũng được coi như là ngày giỗ.

Riêng Hồng mặc dầu rất yêu chồng nhưng, chờ mãi không được, lại thấy mình hay đau ốm, cũng là một gánh nặng cho mẹ chồng, Hồng đành vâng lời lấy một người đứng tuổi góa vợ trong làng.

Nhưng rồi chuyện bất ngờ đã xảy ra, Hồng lấy chồng chưa được bao lâu, thì bỗng chàng trai trẻ ngày xưa từ trong rừng núi bí hiểm đột ngộthiện ra, rồi băng băng chạy về nhà. Đó là Vương Dũng, vừa chạy vừa gọi mẹ và vợ không ngớt.

Khi Dũng bước vào nhà thì mọi vật đều thay đổi làm anh ngẩn ngơ.Gian nhà sạch sẽ rộng rãi, đầy quí vật ngày xưa bây giờ tường mốc, rêu phong. Trong nhà trống trơn không đồ đạc, một cụ già ốm yếu ho hen đang ngồi ngẩn ngơ nhìn như không biết Dũng là ai. Còn người vợ trẻ đẹp mới cưới ngày xưa thì không thấy bóng dáng đâu cả.

Đầu óc Dũng quay cuồng tự hỏi:

- Đây là nhà của tôi sao? Bà già này là mẹ tôi phải không? Thế còn vợ tôi đâu?

Chỉ sau mấy năm vắng con, mẹ Vương Dũng đã như già đi cả chục tuổi. Bà kể cho Dũng nghe những chuyện xảy ra trong thời gian vắng nhà... sinh hoạt khổ sở... hết tin tưởng con còn sống... Nàng dâu bệnh hoạn phải cho cải giá...

Nghe xong, bao nhiêu chí khí anh hùng của Vương Dũng tiêu tan hết.Ngày nào hăm hở xung phong vào núi Đại Sơn chỉ vì vài lời nói khích, vì muốn được danh xưng can đảm nhất làng.

Nay vợ mình thành vợ người. Vương Dũng hết muốn làm anh hùng, ngồi ôm đầu gục mặt khóc như một đứa trẻ con.

Vương Dũng nhờ bạn bè đưa tin cho vợ biết mình đã trở về và xin gặp mặt một lần để tạ lỗi. Còn vợ Vương Dũng nghe tin gần phát điên.Nàng hối hận và tự trách mình. Hơn 3 năm thương nhớ, đã từ chối tất cả những trai làng xin cưới, để đến phút cuối cùng vâng lời mẹ ra đi, thì chồng lại trở về. Chịu không nổi ray rứt hối hận, Hồng bỏ ăn, bỏ ngủ và bệnh cũ lại tái phát.

Còn gặp nhau làm gì khi tất cả đều đã quá muộn, và không còn cách gì vớt vát được. Thời gian có bao giờ trở lại cho một người xử sự cách khác để có một cơ hội khác đâu! Còn gặp làm gì!

Bệnh tình của Hồng càng ngày càng nặng. Các thầy lang đều chạy hết.Các thầy chỉ thương cảm nhìn Hồng, lắc đầu nói:

"Bây giờ chỉ còn nhờ Trời!"

Vương Dũng nghe được tin ấy bèn lấy bao thuốc của anh đã hái đào được trong núi Đại Sơn, chọn một số rể cây thuốc, nhờ bạn đem đến trao cho người chồng mới của Hồng và chỉ bảo cách dùng.

Sau một thời gian uống thuốc của Dũng cho, Hồng dần dần khỏe mạnh, bớt bệnh rồi khỏi hẳn.

Người chồng mới của Hồng là một người đã lớn tuổi, rất thương cảm Hồng bị chồng bỏ nhà ra đi, ốm đau bệnh hoạn nên đã cưới Hồng để mong làm cho cuộc đời hai người bớt cô đơn. Nhưng anh ta cũng biết rõ mối tình nồng nàn của Vương Dũng với Hồng và sự chờ đợi kiên trinh nhẫn nại của Hồng. Cưới được nàng, anh cho mình may mắn nhất đời. Vì Hồng vừa xinh đẹp vừa hiền thục. Nhưng giờ đây anh không muốn hạnh phúc của mình xây dựng trên sự đau khổ của người khác. Và anh quyết định trả Hồng lại cho Dũng.

Câu chuyện bi thương ly hợp này được truyền tụng đi khắp nơi trong nước, ai nghe cũng cảm động và đồng ý rằng người đàn bà thương yêu chồng nồng nàn nên được tái hợp, nên “ Đương Qui”,nghĩa là nên trở về với chồng.

Vậy Đương Qui trong ngôn ngữ phổ thông là nên về. Qui gia, về nhà, qui phu, về với chồng, hay qui phụ về với vợ. Và cho đến bây giờ, huyền thoại Đương Qui vẫn còn được lưu truyền trong dân gian.

Huyền thoại chưa chắc đã có thực, nhưng tất cả đã xây dựng chung quanh xúc động chân thành của mọi thứ tình cảm, mà trong đó tình người là một thứ bất diệt với thời gian.

DƯỢC THẢO ĐƯƠNG QUI

Đương Qui là một vị thuốc rất thông dụng trong Đông Y. Ngoài chữa bệnh, vị dược thảo này cũng là một món thuốc bổ cho phụ nữ.

Đương Qui cũng gọi là Tần Qui hay Vân Qui. Tên khoa học là Angelica Sinensis, thuộc họ Hoa Tán. Cây Đương Qui mọc hoang trong rừng và cũng được trồng ở các tỉnh Cam Túc, Thiểm Tây, Tứ Xuyên, Vân Nam.

Trồng Đương Qui gieo hạt vào mùa thu sau 3 năm mới thu hoạch được. Rễ Đương Qui được phơi khô, hay sấy lửa nhẹ, cuối cùng phơi trong bóng mát cho thực khô.

Mặc dầu Đương Qui được coi như một vị thuốc bổ của phụ nữ nhưng cũng được dùng trong nhiều đơn thuốc để chữa các bệnh khác, có tác dụng chữa đau đầu do thiếu máu, đau lưng, đau ngực, táo bón. Chủ yếu vẫn dùng để chữa bệnh kinh nguyệt không đều, có kinh đau bụng, tổn thương ứ huyết, chân tay lạnh và đau nhức.

Đương Qui có ba phần với ba tính chất khác nhau vì tỷ lệ tinh dầu khác nhau. Qui đầu là rể chính, với bộ phận có rể, có tác dụng cầm máu và có tính cách hướng đi lên trên.

Qui thân là phần giữa hay rễ phụ lớn, có tác dụng bồi dưỡng, nuôi huyết ở trung bộ.

Quy vĩ là rễ phụ nhỏ, chủ yếu thông, có tác dụng phá huyết và đi xuống, trục ứ. Trong các toa thuốc xoa bóp trật đả cũng thường có vị Qui Vĩ.

Toàn qui thì hoạt huyết.

Trong sinh hoạt hằng ngày, Đương Qui vì có nhiều sinh tố B12 nên thường được dùng làm món ăn bổ huyết.

Bài thuốc rượu Đương Qui cũng được coi là để bổ huyết, cường tráng, trấn tĩnh, điều kinh cho phụ nữ.

Muốn ngâm rượu Đương Qui, nên dùng Toàn Qui để có tác dụng huyết dịch tuần hoàn. Đương Qui xắt lát, cùng đường phèn, ngâm ruợu trắng độ 2 tháng là có thể dùng được. Phân lượng tùy theo muốn chế nhiều hay ít. Ví dụ một lít rượu cho Đương Qui vào độ 1/3, Đường Phèn tùy khẩu vị, muốn ngọt nhiều hay ít.

Khi dùng có thể lọc bỏ Đương Qui hay ăn cả xác. Rượu này rất thơm, mỗi ngày uống một ly nhỏ. Người không uống được rượu có thể pha loãng với nước hoa quả hay nước lã.

Trong các món ăn bổ, Đương Qui thường hay được chưng cách thủy với gà, để tẩm bổ sau khi sinh đẻ hay bất cứ lúc nào thấy người yếu mệt.

Món ăn với Đương Qui được ưa thích nhất là “Ích não, dưỡng khí” rất nổi tiếng ở Hàn Quốc. Món ăn bổ càng làm cầu kỳ càng tỏ ra trọng khách.

Cách làm món này là mổ bụng cá, moi hết ruột gan, nhồi Đương Qui đã xắt lát vào bụng cá, nấu cho đến khi Đương Qui mềm, cho gia vị rất nhẹ như muối, tiêu, xì dầu, tùy ý, nhưng không nên cho hương liệu khác đậm quá, sẽ át mất mùi thơm của Đương Qui và vị ngọt tự nhiên của cá.

Món này còn được chế biến cách khác giản dị hơn với mục đích “Ngự hàn, hoạt huyết”.

Vật liệu: Cá, đậu phụ, rau cải trắng cắt nhỏ, nấm hương, ngâm mềm thái chỉ. Đương Qui xắt lát, nước dùng gà. Phân lượng nhiều ít tùy theosố người ăn. Nếu không thích cá, có thể thay bằng thịt bò, thịt gà hay thịt thăn heo tùy thích.

Trước hết đổ nước dùng vào soong hay nồi, cho tất cả Đương Qui vào. Nấu to lửa vài phút, bớt lửa nhỏ nấu độ 20 phút cho Đương Qui mềm, bao nhiêu chất bổ hay tinh hoa của Đương Qui đều tiết ra, nếu khô cạn thì thêm nước dùng. Cho tất cả vật liệu vào nồi theo thứ tự lâu hay mau chín, thịt hay cá trước, đến nấm hương, đậu phụ. Sôi đủ chín thịt mới cho rau vào, nêm xì dầu hay muối vừa miệng, chờ canh sôi lại, lập tức tắt lửa múc ra tô lớn. Món này tuy vật liệu giản dị, nhưng mùi vị rất thanh tao và ngon thơm không thể tả. 

Cháo Đương Qui và Hồng Hoa

Cháo ăn để điều hòa kinh nguyệt, trị chứng hư lãnh.

Vật liệu: Đương Qui 8gr, Hồng Hoa 3 gr (Hồng Hoa đây là một thứ hoa dược thảo) gạo một bát. Nuớc dùng gà 12 chén, lá rau cần thơm, hành, gừng, muối dầu mè, mỗi thứ một ít.

1) Xắt lát Đương Qui, bỏ vào nồi chung với Hồng Hoa và hai bát nước, nấu nhỏ lửa cho đến khi còn lại một nửa.

2) Lấy nước dùng gà với gạo nấu thành cháo, cháo chín rồi để lửa nhỏ, nấu nhừ đến 80%, cho Đương Qui và Hồng Hoa đã nấu sẵn vào, nấu thêm thật lâu, quấy luôn kẻo sát nồi, đừng để cháy. Sau khi cháo thật nhừ nhuyễn, cho rau cần, hành gừng, dầu mè vào, nêm muối vừa ăn.

Gà chưng Đương Qui

Vật liệu:

1) Gà cắt từng miếng nhỏ vừa ăn, rửa sạch, ướp muối, cho vào thố hay bát to.

2) Gừng xắt lát cho vào xào chín với một thìa dầu mè. Cho tất cả vào thố cùng với Đương Qui cũng đã xắt lát.

3) Cho một cốc rượu trắng, hai cốc nước lã đun sôi vào thố, chưng cách thủy độ nửa giờ, coi chừng kẻo nước khô cạn cháy nồi.Khi Đương Quy được chưng đủ lửa sẽ có mùi thơm ngát.

Ngoài chưng với thịt gà, thịt bò, thịt dê, thịt heo, ai kiêng thịt hay ăn chay, có thể dùng đậu phụ, các thứ nấm và các thứ đậu khác tùy thích để thay thế.

Huyền Thoại 

Sơn Dược (Hoài Sơn)

<p data-mce-mark="1">

Ngày xưa, rất xưa, khi một nước chưa phải là một nước lớn, thống nhất , mà là hàng trăm, hàng nghìn “nước“ nhỏ, thì có khi mỗi bộ lạc là một “nước” . Bộ lạc nào đông dân , có nhiều tráng đinh, dũng sĩ hay quân lính, thì người chiếm lĩnh cai trị là Vua, và vùng chiếm đóng là “nước “.

Chuyện kể có hai nước mạnh và yếu giáp giới . Bao nhiêu năm qua họ sống yên vui trong hòa bình . Một hôm bỗng dưng sinh sự đánh nhau . Cố nhiên là nước mạnh thắng trận.

Quan quân rút đi hết, quân nước mạnh hoàn toàn chiếm thành trì lãnh thổ cũa nước yếu .

Bên phía chiến bại có một đoàn quân rất dũng cảm, nhất định không chịu đầu hàng , nên rút lui lên một vùng núi rừng thật xa .

Quân mạnh cố nhiên không tha, đuổi theo vào tận rừng sâu . Nhưng vì núi rừng hiềm trở, dễ thủ mà khó công . Quân mạnh tấn công nhiều lần đều vô hiệu, trái lại còn bị tổn thất nhiều nhân mã .

Tướng quân mạnh bèn ra lệnh bao vây rừng núi, ý định chận đường vận lương. Đợi địch quân đói thì phải đầu hàng .

Một tháng qua, quân yếu trên núi không thấy có động tĩnh gì . Các Tướng của quân mạnh đoán là binh lương của họ sắp cạn .

Nhưng tháng thứ ba, rồi tháng thứ tư qua đi, đoàn quân trên núi vẫn thấy êm ru . Các Tướng lại đoán chắc là bao nhiêu chiến mã đều đã bị dùng làm lương thực . Bây giờ địch quân ngoài đầu hàng không còn cách gì khác nữa .

Các Tướng muốn tấn công tận diệt quân địch, nhưng cũng cẩn thận chờ thêm vài ngày. Mấy hôm sau, quân sĩ được lệnh kêu gọi quân trên núi , bỏ khí giới đầu hàng sẽ được tha . Nhưng mỗi lần nghe kêu chiêu hàng, quân trên núi lại trả lời bằng tên bắn xuống như mưa, tỏ ý quyết không đầu hàng .

Hai bên cầm cự, thấm thoát đã được 8 tháng . Quân bao vây tưởng là tàn quân trên núi đã hết lương thực, ngựa chiến cũng bị ăn thịt hết, quân sĩ cũng chết đói mỗi ngày la liệt trên núi . Nếu còn ít nhiều quân sống sót, chắc cũng giống hình bộ xương khô, không lết nổi. Với sự phỏng đoán lạc quan ấy, vòng vây canh gác cũng nới lỏng, không cẩn thận như trước .

Các Tướng đều nghĩ rằng mình chẳng phải đánh nhau, khỏi tổn thương quân sĩ , cũng không mất công, tốn cung tên, mà sẽ đại thắng. Nay mai chỉ việc lên núi thu dọn tử thi là xong . Cả đoàn, Tướng cũng như Quân vui vẻ, hứng khởi với viễn ảnh đại thắng , nên binh sĩ được phép mấy ngày liền , mở tiệc ăn mừng, đàn ca, rượu thịt khao quân trước .

Mấy hôm sau, đoàn quân mạnh sau 8 tháng bao vây canh phòng mệt nhọc, lại vừa liền nhiều ngày khao quân, rượu thịt, đàn ca , vui nhộn, nên cả Tướng lẫn quân đều mệt nhừ, đêm đến nằm lăn ra ngủ say như chết . Đêm khuya núi rừng yên tĩnh, hàng nghìn tiếng ngáy vang vọng rất xa .

Bỗng nhiên có tiếng reo hò ầm ầm vang dậy chấn động núi rừng. Tất cả doanh trại phát hỏa . Quan quân đang ngủ say sưa hốt hoảng bừng tỉnh dậy, thấy lửa bùng cháy khắp nơi .

Tướng chỉ huy đang ngủ mê man, giật mình tỉnh dậy cùng lúc nghe tin bị tấn công, không kịp mặc áo giáp, đeo khí giới, nhẩy lên ngựa chạy như bay như biến .

Đoàn quân không có chủ tướng thành một toán quân ô hợp, không còn biết phải làm gì.

Quân địch ào ào tấn công . Tiếng la hét Sát Sát vang trời . Trận đột kích thành công trong một thời gian rất ngắn . Cả một đoàn quân nửa tỉnh nửa say, đầu hàng bị bắt gọn .

Đại thắng rồi . Nước yếu lấy được tất cả thành trì đất đai đã mất, dân chúng lại được an cư lạc nghiệp như xưa.

Câu hỏi được nêu lên là khi đoàn quân bị vây 8 tháng trên núi , mà rừng núi này không có cây trái rau quả gì có thể dùng làm lương thực; lại cũng không có quân giải vây, cứu viện, hay có quân vận lương đến.Toán quân yếu này làm thế nào để khỏi chết đói, mà còn đánh thắng một đoàn quân mạnh khỏe tinh nhuệ gấp bội .

Sự thực là trên núi ấy có một vùng sâu bên trong rừng, sinh sản một thứ cây lá cành rất rậm rạp . Giống cây này mùa hạ nở hoa màu trắng hay lục non. Rể cây tròn to và rất dài như một cánh tay người lớn .

Khi đoàn quân bị vây chẵng bao lâu, thấy hết lương thực, binh lính đã bắt đầu đói khổ . Các Tướng đang phân vân không biết nên quyết đấu đến chết, hay đầu hàng để sống .Một hôm có một binh sĩ đói quá, đào một thứ củ trong rừng lên ăn . Dù quá đói cũng thấy ngon lành dễ nuốt. Thế là vấn đề lương thực cho cả đoàn quân được giải quyết. Người ăn củ, ngựa ăn cành lá, đợi ngày phản công .

Thắng trận rồi, mấy hôm sau nước yếu cử hành lễ ăn mừng thắng trận. Tất cả các Tướng sĩ đều nói” Chúng ta thắng trận, công đầu phải là nhờ núi rừng . Nếu khóng có quà tặng của núi rừng ban cho thì chúng ta đã chết đói rồi; mà cả đến chiến mã cũng phải thành lương thực . Chính cái lộc của núi rừng này đã đem chiến thắng phục quốc lại cho chúng ta .”

Đoàn quân muốn kỷ niệm thứ củ cứu mạng ấy vĩnh viễn không quên ơn, nên đặt tên là Sơn Ngẫu . Có nghĩa là ngẫu nhiên gặp được trên núi lúc tính mệnh bị nguy hiểm .

Từ đó, dân chúng bèn đào củ ấy làm lương thực. Sau khi ăn lâu ngày người ta cảm thấy ngoài no bụng, còn bổ khỏe thêm như mạnh Tỳ, Vị , bổ Thận, bổ Phế. Rồi không biết từ lúc nào, những người Tỳ Tạng suy nhược, hay bị chứng Lị đều nhờ ăn Sơn Ngẫu mà lành .

Sơn Ngẫu đã từ món ăn biến thành dược thảo. Rồi cũng không biết từ bao giờ, và vị Y Sư nào đã gọi Sơn Ngẫu là Sơn Chi Dược, Nghĩa là Thuốc Núi ( Sơn Dược) , rồi thành tên cho đến bây giờ .

Theo Trung y cho rằng Tỳ Tạng là bộ phận rất quan trọng , chuyên hấp thụ chất bổ để phân chia cho toàn thân, vì thế phải chú ý đến sức khỏe của Tỳ Tạng. Mà món bổ dưỡng nhất cho Tỳ Tạng là Sơn Dược . Trong thực đơn hàng ngày, tên Hoài Sơn thông dụng hơn.

DƯỢC THẢO SƠN DƯỢC

Còn gọi là Hoài Sơn , Khoai mài . Tất cả 25 tên .

Sơn Dược hay Hoài Sơn là thân rễ cây củ mài

Tên khoa học : Dioscorca persimilis, Prain et Burk

Thuộc họ Củ Nâu . (Dioscoreaceae)

Tính chất : Vị ngọt, tính bình. Có tác dụng mạnh bổ Tỳ , Vị, Phế, Thận.

Công dụng: Dùng chữa tả lỵ lâu ngày, ăn uống kém tiêu, ra mồ hôi trộm ,tiêu khát hư hao sinh ho, di tinh, đới hạ, tiểu tiện nhiều lần, hạ nhiệt, khí hư, đau lưng, hoa mắt, chóng mặt ..

Cháo Sơn Dược tươi :

Sơn dược tươi 100 gr. (khô 45 gr.) bột mì 100gr. hành, gừng , đường .

Rửa sạch Sơn Dược, gọt vỏ, giả nhỏ hay mài vụn. Cho tất cả vật liệu nước vừa đủ, nấu vừa chín thành cháo bột .

Công dụng:

 Khỏe tỳ , ích Khí, dưỡng Tâm . Người yếu Tỳ Vị , tiêu hóa kém, hay giật mình , ra mồ hôi trộm . Ăn lúc đói .

Có thể nấu chung với gạo, thành cháo, thêm Đại Táo ( Táo đen khô ) bỏ hột .

Tác dụng 

bổ khí huyết, khỏe tỳ Vị, hợp với người già yếu, khí huyết không thông, kém dinh dưỡng, người gầy yếu .

Sơn Dược nấu canh chung với Kỷ Tử , dưỡng âm, ích trí .

Sơn dược nấu chung với thịt lợn , bổ cho người yếu mệt, đau dậy .

Chú ý

 : Quá bổ , Người trung niên , người già béo phì, không nên dùng .

Rượu Sơn Dược :

Sơn Dược 4 lượng, Đường 5 lượng . Rượu trắng 1 cân . Cho vào bình để chỗ im mát, 1 tháng chất thuốc ra hết . Mỗi ngày uống sáng, chiều trước khi ăn cơm một ly nhỏ .

Tác dụng: 

Giảm đau, định thần kinh, giải độc, hồi xuân, cường tinh.

Huyền Thoại 

Hoàng Tinh

<p data-mce-mark="1">

Huyền thoại xảy ra từ thuở nào và từ đâu không ai biết rõ. Có thể xảy ra ở Giang Nam, nơi mây mù u ám bao trùm rừng núi quanh năm. Một nơi khí hậu thích hợp cho sự sinh sản của môn thuốc quí: Hoàng Tinh .

Ngày xưa tại một thôn trang hẻo lánh, có một gia đình nông phu, vợ chồng già chỉ có được một con gái. Gia đình nông phu tuy nghèo nhưng cuộc sống rất bình an hạnh phúc .

Cô gái tên là Hoa mới 16 tuổi. Cô bé rất xinh đẹp làm cho tất cả các bậc cha mẹ của các cô gái khác trong làng đều ngưỡng mộ, ước ao con mình cũng đẹp như thế. Họ gọi cô bé là Hà Hoa Cô Nương . Vợ chồng nông phu rất thương yêu cưng quí con gái, và mặc dầu sung sướng vì có con xinh đẹp, đồng thời họ cũng lo sợ nhan sắc có thể đem nguy hiểm đến cho con; nên trừ trường hợp đặc biệt, không bao giờ cho cô bé ra khỏi nhà một mình .

Một hôm vợ chồng nông phu phải ra đồng sớm. Mặc dầu đã hết sức căn dặn rằng khi bố mẹ không có nhà, tuyệt đối không được ra khỏi cửa. Thường ngày Hà Hoa không bao giờ sai lời, nhưng hôm ấy thấy nhà hết nước uống, Hà Hoa muốn giúp bố mẹ bèn lấy thùng đi gánh nước ở một giếng cách nhà không xa .

Trong làng có một địa chủ phú hộ vốn là một người rất keo kiệt chuyên cho vay nặng lãi. Lão ta họ Hoàng nhưng người làng đặt thêm tên hiệu là Hoàng Lột Da. Hôm ấy tình cờ đi ngang qua, lão thấy bên giếng có một cô gái đang kéo nước, bèn đến gần. Vừa trông thấy Hà Hoa, lão nhìn chầm chập, cặp mắt tam giác, đầy vẻ gian ác dâm đãng cứ đăm đăm nhìn đến há hốc mồm, mê mẫn tâm thần .

Hà Hoa thấy có người đến cạnh nhìn một cách vô lễ, thì nổi xung, mặt đỏ bừng . Cô cảm thấy ánh mắt của lão Hoàng như một bầy ruồi xanh bẩn thỉu kinh khủng, làm cô ghê tởm run sợ . Cô vội vàng gánh nước chạy vội về nhà, mồm chửi xéo: Già mắc dịch .

Lão Hoàng đã hơn 50 tuổi , xưa nay coi tiền và gái trọng hơn sinh mệnh. Lão đã có một bà vợ cả, và mấy cô vợ bé. Nhưng vốn có chủ trương “ Sông bao nhiêu nước cho vừa . . .” nên vừa trông thấy Hà Hoa là nghĩ ngay đến sự chiếm đoạt. Lão về nhà khỏi cần lo lắng, vì đã có sẵn “bổn cũ soạn lại “, môn tủ của lão vẫn dùng để chiêu nạp hầu thiếp .

Bố mẹ Hà Hoa năm trước thiếu lúa gạo , nên có vay của lão mấy chục đấu gạo. Lão nhắm mắt lại là thấy ngay cách chiếm được Hà Hoa. Theo lệ thường, năm trước vay, năm sau phải trả cả vốn và lời. Thế nhưng năm ngoái mất mùa, nông phu không trả đươc. Vì thế vốn lời 2 năm cộng lại, nông phu có chạy đằng trời !

Lão Hoàng Lột Da cho gọi vợ chồng nông phu đến bảo phải lập tức trả nợ 2 năm, cả vốn lẫn lời . Cố nhiên vợ chồng nông phu không đào đâu ra được số tiền to như thế để trả ngay trong một lúc . Lão Hoàng liền bắt Hà Hoa đem về nhà , nói rằng dùng làm nô tỳ để thế nợ .

Vợ chồng nông phu chỉ có một con gái độc nhất , công phu nuôi dưỡng giữ gìn cưng quí 16 năm, bỗng dưng bị bắt làm nô tỳ, lại còn lo cho con tránh sao khỏi bị nhục nhã .Vợ chồng nông phu buồn rầu đau khổ gần phát điên . Cả hai cùng bị bệnh nặng, rồi cùng chết không hề được gặp mặt con gái lần cuối .

Hà Hoa ở nhà Lão Hoàng bị bắt làm những công việc nặng nhọc, và cho ăn uống rất kham khổ . Nàng cảm thấy thân như ở trong hang của lang sói, vì lão cứ rình theo , nhìn ngắm ngớ cả người. May sao, trong nhà có một bà vú già , cũng bị bắt gán nợ, cùng hoàn cảnh nên hết sức kèm theo cô bé ban ngày . Còn ban đêm thì bà vợ cả ra lệnh bắt nàng ở trong phòng lo việc đấm bóp cho bà . Nhờ thế Hà Hoa mới được yên thân .

Một hôm tối trời, bà vú già mạo hiểm giúp Hà Hoa trốn ra khỏi nhà . Bố mẹ chết rồi, không còn nơi nào để về. Vai đeo bọc áo và một chút cơm khô,không cần suy nghĩ gì nữa, Hà Hoa cắm đầu chạy thẳng vào rừng sâu .

Cô bé lấy cây lá chằng chịt, cột ghép lại thành một cái lều nhỏ che nắng mưa . Ngày uống nước sương đọng trên cành lá . Đói ăn quả rừng hay rau củ mọc hoang . Hà Hoa thấy ngon nhất là một thứ cỏ lá giống lá tre, củ màu vàng . Lúc mới ăn hơi đắng, dần dần ăn quen thấy khá ngon miệng .

Thấm thoát Hà Hoa đã ở trong rừng 2 năm . Quen khí hậu và thức ăn rồi, Hà Hoa thấy mình mạnh khỏe và nhanh nhẹn hẳn lên .

Mùa thu đến, núi rừng đơm đầy hoa quả chờ đón nàng . Một hôm Hà Hoa đang ngồi nghỉ dưới một gốc cây đại thọ. Nhớ đến bố mẹ và những ngày sum họp bên nhau.. . . …Mãi nghĩ miên man , bỗng một con cọp to lớn , không biết từ đâu hướng về phía Hà Hoa vồ đến . Trong chớp mắt Hà Hoa hoảng sợ, nhạy dựng người, leo trèo lên một cành cây, và tiếp tục nhảy chuyền cành như điên . Bỗng nàng chợt ngó xuống , nhận ra mình đã leo tuốt lên ngọn cây cao chót vót .

Thoát khỏi miệng cọp, vì thấy cọp đã ngó lên, chào thua bỏ đi rồi . Hà Hoa bèn từ từ trụt xuống . Cô nhìn lên cành cao, lại thử leo nhảy như lúc nãy. Hà Hoa ngạc nhiên thấy thân thể nhẹ nhàng, leo trèo nhanh nhẹn, chuyền cành như vượn, như khỉ trong rừng. Tài leo trèo đến từ lúc nào mà mãi đến bây giờ Hà Hoa mới biết. Bây giờ cô có thể chuyền cành đi vào tận núi rừng sâu xa thẳm một cách dễ dàng không còn sợ gì nữa .

Mấy hôm sau, Hà Hoa thấy nhớ bố mẹ, nhớ thôn làng, nơi đã sinh sống 16 năm, đầy kỷ niệm ấu thơ, bèn ra bìa rừng, nơi cô có thề nhìn về phía thôn xóm cũ . Khi cô đang ngồi mơ mộng gởi hồn về dĩ vãng thì chủ tớ Lão Hoàng Lột Da đi qua . Một gia đinh lên tiếng :

-Ô kìa, ai trông giống như Hà Hoa cô nương .

Lão Hoàng quát lên :

-Mau bắt lấy nó cho tao . Nhanh lên !

Bọn thủ hạ của lão Hoàng từ ba mặt xông đến muốn vồ chụp lấy cô . Nhưng Hà Hoa bây giờ không phải là Hà Hoa, cô bé yếu đuối run sợ 2 năm về trước . Bọn chúng không ngờ cô bé bỗng nhảy vụt lên, rồi chuyền cành chạy tuốt vào rừng sâu , không còn thấy bóng dáng đâu nữa !.

Hai ngày sau, khắp làng trên xóm dưới bàn tán xôn xao. Thiên hạ đồn rằng Hà Hoa đã biến thành Tiên nữ , ngày ngày bay lượn trong rừng sâu , cấm không ai được vào phá rừng.Tin đồn lan xa đến cả những thôn xóm lân cận.

Và cũng nhờ thế, lão Hoàng đành bỏ hy vọng cướp Hà Hoa trở lại .

Lúc này Hà Hoa là chủ nhân của cả khu rừng. Cô dùng cành lá thích hợp cất một cái chòi nhỏ trên cây cổ thụ để tránh ác thú. Ngoài ra cô cũng không sợ ai trông thấy, hay biết có cô ở đấy nữa !

Sống nhờ hoa quả của rừng núi, Hà Hoa bận rộn nhất là tháng phải tích trữ lương thực cho mùa đông. Cô phải cất để dành hoa quả khô, và nhất là cái giống củ có lá như lá trúc là món ăn chính .

Mỗi chiều Hà Hoa ngồi ngắm cảnh , ca hát những bài hát mẹ dạy ngày xưa mà cô còn nhớ. Giờ đây mơ tưởng nhớ đến những ngày sum họp ấu thơ là niềm vui duy nhất của Hà Hoa .

Một hôm, khi cô đang ngồi mơ mộng như thường lệ, bỗng đâu vẵng lại giọng hát của một thanh niên Giọng ca hùng mạnh trầm vang, làm Hà Hoa chú ý. Tự nhiên, Hà Hoa đi hướng về phía tiếng hát :

Vầng dương lặn sau đồi

Mây giăng giăng tơ trời

Ai ơi vào rừng thẳm

Tìm thuốc tiên tuyệt vời

Thanh niên là con của một Y sư, chàng vào núi hái thuốc, cố nhiên không nhiều thì ít cũng đã nghe chuyện kể về Hà Hoa tiên cô. Không biết có phải là vì “ Trai tài gái sắc” hay vì “ Giai ngẫu thiên thành...” , hay “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ “. . . đôi bạn không thể nói lời từ giả . . . .

Hà Hoa bằng lòng theo chàng y sư trẻ trở về làng, về lại thế giới của loài người, để khỏi phải sống bơ vơ hiu quạnh một mình, quanh năm chỉ nghe tiếng chim kêu vượn hú , là thứ tiếng không thể đối thoại . Làm vợ, làm dâu nhà Y Sư , Hà Hoa kể cho chồng nghe cuộc sống và thực phầm trong rừng . Y Sư nghe xong biết ngay là một thứ dược thảo quí hóa đặc biệt .

Và cũng từ đó về sau, gia đình Y Sư , cha truyền con nối , dùng dược thảo này để trị bệnh như một diệu phương gia truyền .

Chồng Hà Hoa đặt tên giống củ màu vàng này là Hoàng Tinh . Một thứ bảo vật của núi rừng đã nuôi sống Hà Hoa, làm cho nàng mạnh khỏe, gân cốt cứng chắc, chạy nhảy nhanh nhẹn hơn người . Môn thuốc quí này xứng đáng với tên Hoàng Tinh, là Tinh túy, Tinh hoa, do Tinh khí mầu nhiệm của đất sinh ra.

Dược Thảo Hoàng Tinh

Tên khoa Học :

 POLIGONATUM KINGIANUM Coll et Hemsi

Thuộc họ Hành Tỏi ( Liliaceae)

Cách chế : 

Trải qua “Cửu chưng, cửu sái “ . (9 lần hấp, 9 lần phơi )

Tính chất:

 Hoàng Tinh vị ngọt , khí bình , không độc . Vào 3 kinh Phế, Tỳ , Vị .

Tác dụng:

 Bổ Tỳ, Vị , nhuận Tâm , Phế, bổ tinh tuỷ , mạnh gân cốt.

Trừ gió độc hơi ẩm, chữa phổi yếu, ho khan, khát nước, đau lưng, đau khớp, suy nhược cơ thể, bổ huyết, bổ âm .

Dùng dưới dạng thuốc viên, thuốc sắc hoặc ngâm rượu .

Rượu Hoàng Tinh:

§ Hoàng Tinh 4 lượng,

§ Mật ong 5 lượng

§ Rượu trắng 1 lít

Hoàng Tinh thái nhỏ . Cho tất cả vào phẫu, thố hay chai (không dùng đồ nhựa). Đậy kín . Độ 30 ngày rượu ngấm, có thể dùng được . Không cần lọc, bỏ bã . Có thể ăn cả bã . Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần một cốc nhỏ . Không có “phó tác dụng” ( Side effect). Phụ nữ cũng dùng được .

Hiệu lực :

§ Làm thân thể khỏe mạnh.

§ Bổ dưỡng sau khi bị bệnh . 

§ Cường tinh, hạ huyết áp, ngủ ngon .

Cháo Hoàng Tinh:

§ Hoàng Tinh 50 gr.

Nấu Hoàng tinh làm nước dùng trước, cho ra hết chất thuốc vào nước dùng . Xong lấy nước dùng này cho gạo vào nấu cháo .

Cháo nhừ, nếu muốn ăn mặn thì cho thịt thăn nạc, gừng, hành , nước mắm, nêm nếm vừa miệng .

Tác dụng : Ích khí dưỡng huyết, hợp với các chứng người yếu, ăn ít, gầy , lắm bệnh. Người khỏe ăn càng tốt .

Chú ý: 

Khi đầy chướng bụng không nên dùng .

Nếu muốn ăn ngọt, thì nấu cháo xong cho đường quấy đều, nếm vừa miệng .

Ngày ăn 2 lần . 4 ngày là một liều .

Tác dụng: Bổ tỳ Vị, dưỡng tim phổi, bổ tinh tủy, tốt cho người thân thể, tinh lực, ngũ tạng yếu .

Chú ý

 khi đầy, chướng bụng không nên dùng .

Kiêng kỵ 

: Những người nào Tỳ Vị hư hàn, đại tiện hay đi tháo chảy, đờm, thấp, yếu dạ không nên ăn .

QUAN TRỌNG : Không nên nhầm cây Hoàng Tinh này với cây Hoàng tinh còn có tên là cây Củ Dong làm tinh bột để ăn, và hay được luộc bán để ăn chơi ở chợ .

Cây Củ Dong họ Maranta Arundinacea thuộc họ Dong (Marantaceae) là một loại ngũ cốc ăn thường, không nên lầm với Dược thảo Hoàng Tinh được dùng làm thuốc .

Huyền Thoại

Kim Ngân Hoa

Truyện kể rằng ngày xưa, rất xưa ở một làng hẻo lánh gần rừng núi có hai vợ chồng nông phu rất phúc hậu. Họ sống nghèo nàn nhưng rất thương yêu quí mến nhau. Và dù phải làm lụng vất vả để sinh sống họ vẫn thấy tràn đầy hạnh phúc.

Nỗi khổ tâm duy nhất là tuy kết hôn đã lâu năm vẫn chưa có con. Hai người ngày đêm cầu nguyện cũng như tìm thầy xin thuốc khắp nơi để mong được hoài thai.

Không biết lời cầu nguyện của vợ chồng nông phu được đáp ứng, hay uống thuốc hữu hiệu, một năm sau sinh đôi được hai gái. Dù sao họ tin tưởng là Trời Phật đã cảm lòng thành nên sung sướng vô cùng, đặt tên cô chị là Kim Hoa, và cô em là Ngân Hoa.  

Kim Ngân Hoa được cha mẹ cưng chiều, nhưng rất ngoan và khỏe mạnh quanh năm không hề có bệnh tật gì.  

Ngày tháng trôi qua, hai cô càng lớn càng xinh đẹp, làng trên xóm dưới đều nghe danh tiếng. Suốt ngày mối mai tấp nập.  

Những người giàu sang quyền quí cũng như bạn bè thân sơ của cha mẹ Kim Ngân Hoa đều muốn cưới một trong hai cô về làm con dâu nhà mình. Vợ chồng nông phu thương con nên không theo phong tục cổ gả chồng sớm cho con. Hai cô càng lớn càng xinh đẹp và càng nhất quyết không sống rời xa nhau, nên cũng từ chối tất cả những lời cầu hôn.  

Đến năm 16 tuổi, một hôm khí trời sang thu lạnh, Kim Hoa bỗng sinh bệnh. Ban đầu cô cảm thấy đầu nặng chân nhẹ, toàn thân rất đau đớn khó chịu. Ban ngày tuy nói cười được nhưng ban đêm thì lên cơn sốt nóng như lửa đốt. Miệng và lưỡi đều khô bỏng nức nở, cả thân mình hiện đầy chấm mụn đỏ lở loét.  

Vợ chồng nông phu kinh hoảng lo lắng, đón mời thầy thuốc đến thăm bệnh. Thầy nào thăm xong cũng chỉ nhìn, cho vài vị thuốc cầm chừng lắc đầu bảo bệnh nặng quá, chỉ còn nhờ Trời.  

Kim Hoa uống thuốc gì cũng không bớt, trái lại bệnh càng nặng thêm. Ngân Hoa săn sóc chị ngày đêm không rời. Kim Hoa bảo em tránh xa mình vì thầy lang bảo bệnh này sẽ bị truyền nhiễm. Ngân Hoa quyết tâm ở lại cạnh chị săn sóc, chỉ tiếc rằng không thay được chị chia sẻ bớt đau khổ. Kim Hoa nhất định đuổi em ra khỏi phòng bệnh, bảo em phải sống để phụng dưỡng cha mẹ già. Ngân Hoa vẫn không vâng lời, ở lại săn sóc chị và nhắc chị lời thề “Sống cùng giường, chết cùng mồ”, mà hai chị em đã hứa với nhau.  

Chỉ mấy hôm sau Ngân Hoa bị lây bệnh và cùng chị nói lời trối cuối cùng với bố mẹ: “Chúng con chết rồi nhất định sẽ biến thành một thứ dược thảo, để cứu sống những người mắc bệnh đậu mùa. Chúng con xin bố mẹ tha tội chúng con đi trước, chúng con sẽ đợi bố mẹ ở thế giới bên kia, và xin cảm đội công ơn bố mẹ nuôi dưỡng.”  

Vợ chồng nông phu trong sự đau đớn cùng cực, chôn hai con gái chung một mồ để hai cô giữ trọn lời nguyền.  

Cách ít lâu, từ trong mộ của Kim Hoa và Ngân Hoa mọc ra một thứ cây leo. Chỉ vài tháng sau, cây trưởng thành, lá màu lục đậm rất sum suê. Đến mùa hạ, cây nở ra thứ hoa đối chiếu nhau màu vàng và màu trắng sóng đôi.

Hoa rất xinh đẹp, rất hòa hợp nở từ cạnh của cành dây leo, và cũng rất dễ bị tổn thương vì hoa quá mong manh.  

Người làng đến thăm mộ Kim Ngân Hoa để xem giống hoa lạ, và mách miệng nhau lời thề nguyện của hai chị em: “Chết rồi sẽ biến thành một thứ dược thảo để cứu người” nên đặt tên hoa ấy là Kim Ngân Hoa.

Dược thảo Kim Ngân Hoa  

Dược thảo Kim Ngân Hoa cũng có tên Nhẫn Đông vì chịu được khí lạnh của mùa đông. Hoa hái lúc mới chớm nở từ tháng 3 đến tháng 6. Lá hái quanh năm. Phơi hoặc sấy khô để dành pha thay trà uống chống dị ứng, thanh nhiệt, giải độc. Có tác dụng kháng khuẩn,chữa mụn nhọt, lỡ ngứa, ban sởi, đậu mùa, rôm sảy, thấp khớp, viêm mũi dị ứng .  

Theo Trung y, Kim Ngân vị ngọt, tính hàn, không độc, đi vào 4 kinh Phế, Vị, Tâm và Tỳ.

Dùng chữa bệnh ngày từ 4 đến 8g hoa, hoặc 10 đến 20g cành có lá, dùng như cách sắc thuốc , cao thuốc hoặc ngâm rượu .  

Kim Ngân Hoa tươi hay khô, hoa hay lá đều có thể dùng như trà .

Cháo Kim Ngân Hoa dùng khi muốn thanh nhiệt, giải độc .

Cháo trắng nấu riêng . Kim Ngân Hoa nấu riêng . Khi ăn, hâm cháo sôi lên, pha thêm trà Kim Ngân Hoa đã nầu riêng vào cháo . Ăn ngọt mặn tùy thích . Những người Tỳ Vị hư hàn, không có nhiệt độc không nên dùng.

Cho đến bây giờ, không biết đã qua bao nhiêu trăm năm, vào khoảng tháng 5, tháng 6 lúc Kim Ngân Hoa hàm tiếu, thơm ngát cả một vùng trời, những bà mẹ quê lại kể huyền thoại Kim Ngân Hoa cho các con nghe, để học tính chất một dược thảo và cũng để nhắc nhỡ các con là tình chị em sâu đậm đến chết không phai.

Huyền Thoại 

Kinh Giới

<p data-mce-mark="1">

Kinh Giới là tên một trong những thứ rau sống, ta vẫn thường dùng để ăn với các món thịt cá, dưa mắm đặc biệt. Kinh giới cũng là một vị dược thảo rất được trọng dụng đối với các bà sau khi “vượt cạn” (sinh nở) một mình .

Đàn ông vượt biển có bạn .

Đàn bà vượt cạn một mình

 (Ca dao)

Truyện kể ngày xưa rất xưa, có một đôi vợ chồng mong có con từ lâu, nhưng mãi đến khi người vợ gần 30 tuổi mới mới sinh được một trai đầu lòng .

Cả nhà đều vui mừng sung sướng, mời tất cả bà con và người làng đến ăn mừng . Suốt ngày cỗ bàn chè chén giống như một lễ Tết quan trọng .

Đứa bé mới sinh , mỗi ngày đều được cha mẹ, ông bà , thân thuộc, khen ngợi chúc tụng không ngớt .Một hôm, như thường lệ, cả nhà vui vẻ bồng bế chơi đùa với em bé. Đến trưa ai về phòng nấy nghỉ ngơi . Bà mẹ một mình được yên lặng nhìn con mới sinh, cảm thấy sung sướng hạnh phúc vô cùng . Bà vuốt ve má con với tất cả yêu thương trìu mến, rồi mẹ con cùng thiu thiu ngủ.

Người mẹ đang ngủ say, bỗng cảm thấy nóng nực, nên đá tung chăn mền mà không biết . Vì mới vừa sinh nở không lâu, lại thêm tiệc tùng liên miên ; bà phải tiếp khách nhiều rất mệt mõi, nên ngủ say hơn bình thường .

Đến giờ cơm chiều, nhưng bà chủ nhà vẫn chưa thấy dậy, người nhà tưởng bà mõi mệt, cần tĩnh dưỡng nên không chú ý . Thế nhưng khi bà mẹ chồng và chồng vào phòng ngủ, thấy bà mê man như say rượu, hơn nữa tay chân cứng đờ, miệng ú ớ nói không ra tiếng . Cả hai hốt hoảng kêu ầm lên . Một đại gia đình đang vui vẻ sung sướng , trong chốc lát bỗng thành lo lắng buồn khổ . Cả nhà hoảng sợ , vội vàng đi rước thầy Lang nổi tiếng trong tỉnh để xin cứu chữa .

Thầy Lang thứ nhất đến, sau khi hỏi thăm và bắt mạch xong, ngại ngùng nhìn chủ nhà lắc lắc đầu, rồi ra về không nói một lời .

Thầy Lang thứ hai, sau khi nghe người nhà kể chuyện, đến mạch cũng không bắt, chỉ thở dài ra về .

Thầy Lang thứ ba, mới nhìn thấy bệnh nhân, chẳng cần hỏi han nghe ngóng gì nữa, chào thua ngay lập tức .

Sau khi cả ba thầy Lang nổi tiếng đều lắc đầu từ chối, cả nhà thất vọng than khóc thảm thiết .

Trong lúc hoang mang ấy, bỗng có một thầy Lang , không ai mời tự đến, bước vào nhà .Thầy đã cao tuổi , tóc bạc phơ , nhưng đôi mắt rất tinh anh, và tai vẫn còn nghe rõ từng tiếng động nhỏ .

Thầy bước đến trước mặt mọi người một cách đĩnh đạc trang nghiêm, khuyên mọi người nín khóc . Thầy hỏi thăm và sau khi nghe kể xong mọi chuyện xảy ra, thầy mới từ từ đến gần nhìn bệnh nhân nói :

-Để tôi chữa bệnh cho vị phu nhân này nhé .

Người chồng vừa nghe nói, liền quỳ sụp xuống cảm tạ. Thầy Lang vội vàng đỡ dậy nói:

-Tôi muốn trị bệnh, nhưng chưa chắc thuốc có hiệu nghiệm không . Nếu không thành công xin quí vị đừng trách tôi .

Người chồng và cả gia đình cố nhiên vui mừng vô cùng, vì thấy co ùmột thầy Lang vui lòng chữa bệnh, sau khi cả ba danh y đều lắc đầu từ chối .

Thầy Lang lấy trong túi xách ra một lọ nhỏ đựng thuốc bột, trộn một ít thuốc lẫn với rượu trắng, xong cạy mồm bệnh nhân đổ thuốc vào .

Thầy xin một cái ghế, để ngay cạnh giường bệnh nhân, ngồi chú ý nhìn xem biến chuyển trên mặt .

Sau vài tiếng đồng hồ, bàn tay bệnh nhân hơi động đậy, rồi một lúc sau, chân cũng nhúc nhích được . Hình như bệnh nhân đã phục hồi tri giác .

Thầy Lang thấy bớt lo lắng, hơn nữa thầy còn lộ vẽ vui mừng . Cả nhà cũng sung sướng như cất được một gánh nặng . Mọi người đều vui vẻ hoạt động hẳn lên

.Thầy Lang ở lại tiếp tục cho bệnh nhân uống thuốc . Hai ngày sau, bệnh nhân đã bước xuống giường được. Thầy Lang dặn dò cách thức săn sóc xong bèn từ giả ra về . Tất nhiên chủ nhà cố sức năn nỉ , mời mọc ân cần cầm giữ . Trước để đãi đằng cảm tạ ơn thầy, sau là xin học môn thuốc đã cứu mạng cho người mới sinh con lần đầu làm đứa bé khỏi mất mẹ .

Thầy Lang thành thật nói:

-Tôi đã dùng thứ dược thảo tên là Kinh Giới . Khi tôi trông thấy phu nhân, đoán là sau khi sinh xong, thân thể nóng nảy, lỗ chân lông nở ra để tản sức nóng trong người. Rủi bị một thứ gió lạnh gọi là “phong tà” xâm nhập nên trúng gió mà hôn mê . Chứng bệnh như thế, nếu làm cho khí nóng và phong tà trong người tiêu tán sẽ lành .

Vì thế tôi thử dược thảo Kinh Giới . Thú thực, xưa nay tôi chưa từng dùng Kinh Giới để trị chứng này bao giờ, vì thế lúc đầu tôi cũng hơi lo ngại .

Thầy Lang còn nói thêm :

-Kinh Giới trị được chứng bệnh ngặt nghèo này cũng là một khám phá mới , sẽ cứu được rất nhiều người ; cả y giới và riêng tôi cũng quá đỗi vui mừng . Kinh nghiệm này còn quí trọng hơn tất cả bạc vàng của ông bà thưởng tặng .

Chủ khách cùng sung sướng chia tay .

DƯỢC THẢO KINH GIỚI

 Toàn cây , trừ rễ gọi là Kinh Giới . Nếu chỉ lấy xác hoa gọi là Kinh Giới Tuệ . Kinh Giới cũng còn nhiều tên khác nữa .

Tên khoa học

 : Elsholtzia cristata . Thuộc họ Hoa Môi (Lamiaceae)

Bộ phận dùng

 : Cành lá và cụm hoa, lúc cây đang ra hoa, dùng tươi hay phơi , sấy khô .

Tính chất 

:Vị cay, tính ấm ,thơm, ngọt , không độc . Đi vào hai kinh Phế và Can .

Chủ trị

 : Rất công hiệu chữa trị hệ thống thần kinh. Làm ra mồ hôi, giải nhiệt, khu phong, tán hàn, tán ứ, điều chỉnh tuyến huyết dịch tuần hoàn, hạ nhiệt lực trong người làm sảng khoái nhẹ nhàng, trị sản hậu nóng sốt. Chữa ngoại cảm phát sốt, nhức đầu hoa mắt , cổ họng sưng đau, chảy máu cam, băng huyết.

Cách dùng:

Dùng cây tươi hay phơi khô tán thành bột, hay dạng thuốc sắc hoặc xông .Có thể giả nát cây tươi vắt nước uống . Dùng về thuốc cho ra mồ hôi thì để sống, nếu dùng về thuốc chỉ huyết, mát huyết , hay cầm máu thì phải sao đen .

Vài chứng thường dùng 

:

Nhức đầu chóng mặt quay cuồng : Trúng phong không nói được . phát sốt . Sản hậu, trúng phong , cấm khầu, méo mắt , chân tay cứng thẳng.

Bài Dũ Phong Tán

 : Dùng Kinh Giới Tuệ cả hột , sao dòn, tán bột, uống 3 đồng cân với rượu .

Cấm kỵ

 :

Người biểu hư, không có dấu hiệu ngoại cảm phong hàn, thấp khí , lại hay tự ra mồ hôi, không nên dùng Kinh Giới. Khi dùng kiên ăn cua, cá.

Huyền Thoại 

Long Tu

<p data-mce-mark="1">

Long Tu nghĩa là Râu Rồng .

“Nem Công , Chả Phụng , Râu Rồng ,Có hai vợ chồng chẳng hết lòng nhau ” (ca dao)

Không hiểu ý người xưa nói đây là 3 món ngon nhất, quí nhất, khó kiếm nhất, hay là có ý gì khác .

Râu Rồng đây nếu là dược thảo Long Tu thì lạị dễ kiếm và rẻ nhất trong 3 món kể trên . Chỉ phải cái huyền thoại Râu Rồng lại huyễn hoặc khó tin nhất .

Sách chép Long Tu được phát hiện từ đời xửa đời xưa . . . từ mấy nghìn năm trước Thiên Chúa giáng sinh, từ đời vị vua thứ nhất gọi là Hoàng Đế , người đã đặt ra mọi thứ phong tục lễ giáo dạy dân chúng học tâp, đặt ra xe thuyền , cách làm nhà cửa, mọi thứ cần dùng trong cuộc sống , không những búa rìu, vật dụng cày bừa, mà còn bao quát cung tên giáo mác, dụng cụ chiến tranh, văn từ , âm nhạc , và cảø trò chơi như đá cầu. Ngài đã cùng các Y sư làm cuốn Đế Vương thế kỷ, và cuốn sách thuốc nổi danh Hoàng Đế Nội Kinh từ thượng cổ. Thật là một vị Hoàng Đế vạn năng .

Hoàng Đế có rất nhiều thần tử tài năng lỗi lạc phụ tá, nên dù Ngài phát minh ra nhiều thứ ích lợi trong cuộc sống cho dân chúng , nhưng vẫn còn rất nhiều thì giờ rảnh rang. Không những rảnh mà rảnh đến phát khùng. Vì thế Ngài thường đem Phong Hậu và Thường Bách là hai người hầu cận thân tín đi chơi khắp nơi .

Đối với Ngài nhàn du là một thú vui duy nhất . Khi đi đường , Phong Hậu mang sách vỡ vật dụng . Thường Bách mang thanh bảo kiếm gia truyền .

Ngài và tùy tùng vui chơi khắp nơi. Nay núi mai hồ, nay sông mai biển , từ Đông sang Tây, hầu như đi khắp Nam Bắc mọi miền danh lam thắng cảnh.

Một hôm Hoàng Đế triệu tập thần dân hội họp để ăn mừng lễ Khánh thành một cái Đỉnh đồng xanh to lớn vừa đúc xong .

Trong lúc cuộc lễ đang long trọng diễn tiến thì bỗng từ trên trời hiện ra một con Rồng to lớn, mình Rồng đầy vẩy lóng lánh sáng chói, râu Rồng buông thả dài chấm đất .

Khi dân chúng thấy Hoàng Đế sắp cỡi Rồng lên Trời. Sợ mất vị Hoàng Đề thân quí, cả bọn bèn túm lấy râu Rồng trì kéo lại định giữ không cho Rồng bay . Nhưng dù số người đông bao nhiêu cũng không thể địch lại sức mạnh của Rồng. Và Rồng cũng bị cả trăm bàn tay túm râu trì kéo lại nên râu bị tuột đứt. Mọi người trong tay chỉ còn giữ được một ít râu rồng. Để kỷ niệm và thương tiếc Hoàng Đế , mọi người lấy râu cắm xuống đất ,và từ đấy mọc lên một thứ cây, được gọi là Long Tu .

Dược Thảo Long Tu

(Aloes Vera )

Tính chất: Vị đắng, tính hàn, vào 4 kinh Can, Tỳ, Vị và Đại Tràng , không độc .

Dược năng : Sát trùng, thông tiện, thanh nhiệt, giúp mát gan .

Chủ trị : Trị chứng trẻ em lên chứng cam tích, táo bón, nhức đầu, đặc biệt trị gan và huyết bạch , ngoại thương như đứt tay, chợt, trầy da .

Liều nhỏ : giúp sự tiêu hóa, ăn uống không tiêu .

Liều mạnh hơn : Làm thuốc chữa những bệnh nhức đầu khó chữa. Là một vị thuốc tẩy mạnh, gây sự sung huyết ở các cơ quan bụng, nhất là ở ruột già. Do đó không dùng cho người lòi dom và có thai .

Những cách thường dùng :

§ Dùng lá lột vỏ ăn sống với muối hay đường.

§ Nấu chè ăn chơi, nếu cắt bỏ vỏ xanh thì không còn hiệu lực chữa bệnh

§ Không nên dùng quá độ , ăn nhiều một lúc bị tháo dạ .

§ Có thể cắt nhỏ , tán trong máy sinh tố hòa thêm nước cam cho dễ dùng, bớt đắng .

§ Cắt đôi đắp vết thương, vết bỏng, đứt tay, chợt da, chảy máu .

§ Sắc như sắc thuốc bắc : Cắt nhỏ, nấu độ 1 giờ, lọc bỏ bã .

§ Tán bột: Cắt mỏng phơi hay sấy khô, tán nhỏ, để dùng vào mùa đông, những nơi không trồng được vì lạnh quá .

§ Lúc cần, dùng độ 1 thìa nhỏ, rất đắng, nếu không chịu được thì bọc lại cho dễ nuốt .

Rượu Long Tu:

Cắt miếng , cho vào bình ngâm với rượu 1 tháng, vớt bỏ bã đậy cất 1 tháng sau dùng được . Muốn thuốc mạnh hơn để trị bệnh thì tán nát nhỏ mà ngâm. Có thể cho thêm đường nếu sợ đắng .

Cấm kỵ : 

Người tỳ vị hư nhược, đi tả, và trẻ em dưới 13 tuổi không nên dùng . Dùng liều quá cao (8g) có thể ngộ độc

Huyền Thoại 

LƯU KÝ NÔ

<p data-mce-mark="1">

Chuyện kể Tướng Quân Lưu Dụ, tức Vua Tống Cao Tổ, trước khi làm Vua (420) là một Tướng lập rất nhiều công trận dưới Triều nhà Đông Tấn .

Trong một cuộc hành quân, Lưu Dụ cùng binh sĩ phải vượt qua một ngọn núi hiểm yếu. Đoàn quân đang đi bỗng nhiên có một con rắn thật lớn nằm chắn ngang đường.

Lưu Dụ nghe báo bị rắn cản đường thì nổi giận, lập tức phi ngựa nhanh lên Tiền quân .

Quả nhiên có một con rắn rất lớn, thân mình cỡ to hơn một cái tô canh, đang nằm ngang yên lặng trên đường, làm cho đoàn quân phải dừng lại, rối loạn cả hàng ngũ .

Khi Lưu Dụ muốn dùng trường mâu gạt rắn sang một bên, thì rắn vốn đang nằm bất động, vùng dậy cất đầu nhìn Lưu Dụ một cách giận dữ, vừa thè lưỡi ra dọa nạt. Bộ dạng rắn như muốn ăn tươi nuốt sống đối phương .

Lưu Dụ là một ĐạiTướng cầm quân, trước mặt mấy nghìn binh sĩ, đâu có thề tỏ ra nhu nhược sợ một con rắn được .

Nhưng dù sao , ông cũng hoang mang vì bị rắn cản đường không biết là một điềm tốt hay xấu. Xưa nay, ông chưa bao giờ trông thấy một con rắn lớn, thế mà bây giờ đang đối diện với con vật khủng khiếp ấy, nó lại có bộ dạng như sắp tấn công ông .

“ Bình tĩnh, phải bình tĩnh !” Lưu Dụ tự trấn định tinh thần, mãi một lúc mới bớt sợ . Ông bước đến gần rắn nói :

- Mi tiến không tiến, lui không lui. Mi muốn nằm đây làm gì ?

Rắn cố nhiên không trả lời, hơn nữa còn phùng mang trợn mắt nhìn Lưu Dụ .

Lúc ấy có một Phó Tướng đến gần ông nói nhỏ :

- Thưa Tướng Quân, con đường này có thể nguy hiểm. Hay là chúng ta lui, rồi sẽ tìm đường khác tiến quân .

Lưu Dụ không tin sự mê tín ấy. Ông đưa cây trường mâu cho Phó Tướng cầm, rút cung tên đeo sau lưng ra, nhìn rắn nói :

- Nếu mi không thối lui thì ta sẽ bắn chết .

Rắn như không nghe thấy lời cảnh cáo, ngẩng đầu cao hơn, thở phì phì, lấy thế mổ tấn công địch .

Lưu Dụ cũng nghĩ rằng đây không phải là nơi nên ở lâu, nên nhắm vào yếu huyệt của rắn bắn một phát tên, xong vội vàng lui binh .

Sau khi đoàn binh rời xa nơi rắn nằm. Lưu Dự vẫn còn sợ rắn đuổi theo, nên ra lệnh kiểm điểm lại người, ngựa, thấy còn nguyên vẹn, mà rắn cũng không đuổi theo nên mới thở phào, vui mừng được thoát hiểm. chỉ phải mồ hôi đã toát ra như tắm. Một vị Tướng Quân trăm trận trăm thắng của nhà Đông Tấn , ai ngờ cũng có lúc hồn vía lên mây như thế.

Suốt đêm hôm ấy Lưu Dụ không ngủ được, cứ lo nghĩ không biết con rắn ấy còn sống hay đã chết .

Sáng hôm sau, cơm nước xong, Lưu Dụ không nghe lời chư Tướng khuyên can, ông nhất định trở lại con đường cũ. Khi đến nơi rắn nằm hôm qua thì rắn không còn ở đấy nữa .

Lúc ông đang sắp ra roi phi ngựa lên đường, thì bỗng nghe có tiếng cối đá đang giã một thứ gì từ trong rừng vang dội lại .

Chuyện từ con rắn lớn đến tiếng cối giã gạo thực không có gì liên hệ, nhưng Lưu Dụ linh cảm thấy hai sự việc này phải có dính dáng đến nhau. Ông bèn quyết định thúc ngựa, dò theo tiếng cối giã phát ra .

Bên trong rừng sâu hiện ra mấy Đồng tử mặc áo màu xám tro, đang bận rộn giã một thứ gì trong một chiếc cối đá .

Thật là một chuyện lạ. Trong rừng rậm thâm u như thế mà có các Đồng tử giã dược thảo, luyện thuốc gì đây ?

Lưu Dụ ngạc nhiên hỏi :

- Các em đang giã gì trong cối thế ?

Từng Đồng tử lên tiếng trả lời :

- Thưa, Sư Phụ của chúng con bị ông Lưu Ký Nô bắn tên trúng, bị thương nặng .

- Sư Phụ bảo chúng con đến đây luyện thuốc trị thương .

- Bó thuốc bột này vào, vết thương sẽ lành ngay, liền da như cũ .

Lưu Ký Nô nghe xong, râu tóc dựng đứng, toát mồ hôi lạnh, thầm nghĩ: Nếu con rắn ông bắn hôm qua là Sư Phụ của các Đồng tử này, và chính miệng Đồng tử nói ra, tên Lưu Ký Nô, thì tên ấy là đúng tên thật, tên cúng cơm của ông . Ông sợ hãi hỏi :

- Tôi là Lưu Ký Nô, các em là ai ?

Bọn trẻ phá lên cười mĩa mai :

- Chính mình là Thiên Tử tương lai mà mù tịt, không biết gì hết ! Sao mà dốt đến thế !!!

Lưu Dụ nghe Đồng tử nói rắn là Sư Phụ, thế bọn trẻ con này có lẽ là thần tiên chăng ?

Ông lại hỏi :

-Có phải các em là thần tiên không ?

Bọn trẻ không trả lời chỉ lo chăm chú giã thuốc.

Trong phút chốc, Lưu Dụ bỗng cảm thấy mình oai phong như một ông Vua thật. Ông bèn quát lên :

- Nghe đây ! Ta là Thiên Tử Lưu Ký Nô. Bọn bây là giống gì mà dám lăng xăng trước mặt ta . Hãy mau mau cút đi !!!

Lưu Dụ vừa la hét vừa múa cây trường mâu, mấy Đồng tử hoảng sợ, không dám cãi lời. Trong chốc lát, thân hình chúng dần dần mờ nhạt rồi tiêu tan trong cảnh rừng .

Sau khi đám Đồng tử biến mất rồi, chỉ còn thấy chiếc cối đá to, đầy thuốc đã tán thành bột, và rất nhiều vết rắn bò qua lại .

Lưu Dụ lấy tất cả thuốc trong cối đá giao cho Ban Quân Y giữ, rồi hăng hái tiến quân .

Binh sĩ dưới quyền Ông truyền khẩu tin đồn : “Lưu Nguyên Sư có thuốc trị thương của thần tiên ban cho, nên binh sĩ của ông dù bị thương nặng cũng không chết “ .

Sau khi tin này đồn đãi khắp nơi, người tùng quân theo ông rất đông , nên quân lực của ông càng ngày càng hùng hậu .

Lúc bấy giờ không ai biết vị thuốc trị thương ấy tên gì, nên lấy tên thật của Lưu Dụ là Lưu Ký Nô làm tên dược thảo .

Từ đấy, Trung Y dùng Lưu Ký Nô làm thuốc tan ứ huyết, thông kinh, vỡ vết thương, xẹp chỗ sưng mưng mủ, co thắt miệng vết thương, vết bỏng, vết thương bị đánh đập, bị gươm dao đâm chém.

Dược Thảo Lưu Ký Nô 

(Senecis Palmatus,Pall)

Khí ấm, vị đắng, không độc . Ngọn, lá, hoa quả đều dùng được cả .

Công hiệu của Lưu Ký Nô phá được ứ huyết , làm cho huyết lưu thông, thông dược kinh nguyệt, chữa thương tích đâm chém, đứt gẫy và mọi thứ bệnh đàn bà sản hậu.

Chủ trị :

Hạ huyết chỉ thống .

Cấm kỵ: không nên uống nhiều quá , thành ra chứng thồ tả hoắc loạn, vì tính nó thông lợi quá mạnh .

Huyền Thoại 

Nhân Trần Cao

<p data-mce-mark="1">

Gần hai ngàn năm trước , Vị thần y đời Đông Hán là Hoa Đà đã tìm ra vị thuốc Nhân Trần Cao để chữa bệnh Hoàng Đản (vàng da) cũng gọi là Viêm gan.

Hoa Đà sinh tại Hoa Gia Trang, nay thuộc tỉnh An Huy . Mẹ của Hoa Đà rất yếu ớt bệnh hoạn, Hoa Đà và em trai là Hoa Minh săn sóc mẹ rất chu đáo , nên được tiếng là hai người con có hiếu (Hoa gia lưỡng hiếu tử) .

Một hôm có một Y sư thấy Hoa Đà thông minh hơn người, bèn hỏi chàng tại sao không học làm thầy thuốc .

Hoa Đà trả lời vì không gặp được thầy giỏi để theo học . Vị Y Sư nghe thế bèn nói :

- Thầy giỏi không quan trọng bằng biết tính chất của dược thảo .

Y Sư bèn xin phép mẹ Hoa Đà đem chàng theo về tiệm thuốc để dạy Trung y.

Sư phụ là một Y sư chuyên nghiệp nên Hoa Đà thường phải gánh thuốc theo thầy đi thăm bệnh . Chẳng bao lâu, Y sư trước khi qua đời dặn Hoa Đà rằng tại Chùa Phổ Đà , có Hòa Thượng Quảng Tế là một lương y nổi tiếng cao minh. Hoa Đà vâng lời Sư phụ xin làm đệ tử Hòa Thượng Quảng Tế. Rồi từ đấy chính thức nhập ngành Y .

Một hôm Hoa Đà đang ngồi cạnh Hòa Thượng đọc sách. Bỗng có người cáng một bệnh nhân đến xin chữa trị. Lúc ấy Hòa Thượng không muốn xem bệnh, chỉ ngồi yên tĩnh tọa niệm Phật .

Hoa Đà vùa nhìn thấy bệnh nhân thì biết ngay là bệnh chóng mặt cấp tính . Nhưng lúc chàng cầm bút định ra toa viết đơn thuốc thì bỗng cảm thấy như có gì nghẹn cứng không thể nào hạ bút viết xuống được

Đúng lúc ấy Hòa Thượng bỗng lên tiếng :

- Cuốn Nội Kinh Chú Dịch của Biển Tích viết là một cuốn sách hay .

Khi Hòa Thượng vừa nói đến chữ Biển, Hoa Đà liền viết ngay ra giấy kê đơn thuốc ba chữ Biển đậu hoa.

Mấy hôm sau người bệnh nhờ món thuốc Biển đậu hoa chữa lành , đem đến một tấm hoành phi có khắc 4 chữ “ Quảng Tế Chúng Sinh” đến Chùa Phổ Đà để tạ ơn Hòa Thượng .

Hòa Thượng Quảng Tế thấy tấm biển bèn trả lời :

- Tôi không có công, không dám nhận .

Ngài nói xong cầm tấm biển quay lại trao cho Hoa Đà, rồi bước ra khỏi chùa đi vân du, và không bao giờ trở về nữa !

Sự thực trong gác kinh có một cuốn sách của Biển Tích viết, chú giải cuốn Hoàng Đế Nội Kinh, là cuốn sách thuốc cổ quý giá của Trung Y. Hoa Đà từ đấy lấy nguyên tắc “ Quảng Tế Chúng Sinh “, cứu giúp mọi người làm chí nguyện để hành y .

Sau khi Hoa Đà trở thành Y sư, vì y lý rất cao minh nên tiếng thần y vang dội khắp nơi. Mỗi ngày người đến tiệm thuốc của Hoa Đà xin khám bệnh rất đông đảo .

Một hôm vào mùa Xuân, có một bệnh nhân da rất vàng, được người nhà cáng đến tiệm thuốc. Đôi mắt bệnh nhân cũng vàng vọt trên khuôn mặt trái xoan hốc hác, trông như chỉ có da bọc xương .

Vừa nhìn thấy, Hoa Đà biết ngay là bệnh nhân bị chứng Hoàng đản .

Bệnh Hoàng đản ngày xưa vốn là một bệnh nan y . Bất kỳ Y sư nào cao minh đến đâu cũng không trị được. Y sư chỉ khổ tâm nhìn bệnh càng ngày càng nặng hơn, kể cả Hoa Đà cũng vậy, nên Hoa Đà chỉ nói với bệnh nhân:

- Chứng bệnh này không thể một lúc mà trị được . Đợi tôi tìm được môn thuốc gì hay,sẽ mời đến lại . Bây giờ tạm thời xin về nhà gắng chờ đợi. Tôi thật rất tiếc . . . .

Bệnh nhân và người nhà vâng lời ra về, nhưng Hoa Đà nhìn thấy sự thất vọng không dấu được thì rất ái ngại đau khổ . Rồi cũng từ đấy, chàng ngày đêm lo nghĩ tìm cách chữa trị bệnh hoàng đản .

Một năm lặng lẽ trôi qua mà phương thuốc quí vẫn chưa tìm được .

Mùa Xuân năm thứ hai, một hôm Hoa Đà phải sang làng bên chữa bệnh. Khi về, ông đang đi trên đường bỗng kêu to một tiếng như kinh ngạc, như hoảng hốt, làm mọi người chung quanh đều nhìn ông một cách lạ kỳ .

Sở dĩ ông ngạc nhiên như thế, vì thấy chàng thanh niên bị bệnh hoàng đản được cáng đến nhà ông năm nào, giờ đây trông rất mạnh khỏe đang đứng trước mặt ông. Hoa Đà vội hỏi một cách nồng nhiệt :

- Vị Y sư nào đã chữa khỏi bệnh cho anh thế ? Tôi muốn biết người. Tôi nhất định bái vị Y sư ấy làm sư phụ . Thanh niên im lặng nghe hỏi xong lắc đầu trả lời :

- Sau khi ỏ nhà Đại phu về, tôi không hề được Y Sư nào chữa trị cả .

- Vậy anh uống thuốc gì mà hay vậy ?

- Thưa tôi không hề uống thuốc gì cả, tự nhiên lành thôi .

Hoa Đà nghe thế suy nghĩ và thấy lạ lùng vì thanh niên lúc ấy đã bị hoàng đản vào thời kỳ cuối rất nặng, chỉ còn chịu được vài tháng thôi. Thế mà bây giờ sống sờ sờ , lại còn có vẻ mạnh khỏe hơn người .

Hoa Đà vội hỏi thêm ;

- Thế từ hồi ấy đến giờ , ngoài những món cơm rau, thức ăn thường dùng, anh còn dùng thứ gì nữa không?

Thanh niên không hiểu đối với Hoa Đà là rất quan trọng , nên trả lời rất hững hờ :

- Mùa Xuân năm ấy mất mùa không có gì ăn. Cho nên tôi chỉ ăn một thứ cỏ hái trên rừng. Tôi nhờ người nhà đi nhổ vể . Nếu không có giống cỏ ấy thì không những chỉ mình tôi chết đói, mà cả thôn này mọi người đều chết đói hết.

- Nếu thế nghĩa là anh nhờ ăn giống cỏ hoang ấy mà lành bệnh phải không?

- Thưa phải, ăn độ hai tháng sau thì lành hẳn .

Hoa Đà nghe xong mắt sáng ngời , hớn hở xin chàng thanh niên dẫn ông lên núi tìm thứ cỏ ấy .

- Kìa, đó là giống cỏ tôi ăn.

- Ơ kìa, chả phải cỏ Hoàng Cao mọc khắp nơi là gì ?

Hoa Đà hái một mớ đem về, tìm đến nhà những bệnh nhân bị chứng Hoàng đản để chữa trị. Nhưng kết quả không được như ý muốn. Không một bệnh nhân nào được chữa lành .

Hoa Đà lại tìm đến thanh niên để hỏi thêm .

Anh ta chợt nhớ:

- À, đúng rồi. Năm ngoái tôi ăn giống cỏ ấy vào quãng tháng 2 và tháng 3. Trừ giống này ra, tôi không ăn thứ gì khác .

Người nói thản nhiên, nhưng Hoa Đà chú ý ghi nhớ từng lời .

- À , Thì ra thế ! Tháng 2 , 3 là mùa bách thảo đâm chồi nẫy lộc. Trăm hoa đơm bông khai hoa nở nhụy. Mùa cỏ Hoàng Cao nẫy mầm nên chất dược thảo mạnh nhất. Lần trước hái Hoàng Cao vào tháng tư vì thế chất thuốc không còn nữa .

Hoa Đà cúi chào thanh niên, nói vài lời cảm tạ rồi ra về.

Năm sau, tháng hai, Hoa Đà nhờ mọi người trong thôn làng hái giúp cỏ Hoàng Cao thật nhiều, rồi đem chia cho những bệnh nhân bị chứng hoàng đản dùng để trị liệu .

Hoa Đà theo dõi thấy bệnh mọi người càng ngày càng nhẹ, lòng vui mừng vô cùng.

Hai tháng sau tất cả những người bị chứng hoàng đản đều lành hẳn. Còn giống cỏ hái tháng tư, dùng đều vô hiệu.

Hoa Đà bây giờ đã nắm chắc bí quyết , một hôm cùng các đệ tử ăn cơm , ông nói:

- Hoàng Cao tháng 2 , 3 có thể trị bệnh Hoàng Đản. Nhưng cỏ hái từ tháng tư trở đi thì vô hiệu Để khỏi quên. Chúng ta lập ra định luật này: Ta gọi cỏ hái từ tháng ba về trước là Nhân Trần, ý nói là Nhân có mùi thơm . Còn cỏ từ tháng tư về saucứ giữ tên cũ là Hoàng Cao.

Thế nên từ đấy những đệ tử học ngành Y có khẩu quyết :

“Tháng 2, 3 Nhân Trần , tháng 4 Hoàng Cao , Tháng 5 dùng đun bếp “

Dược Thảo Nhân Trần Cao 

(Arthemisia Capillaris Thun)

Vị đắng, tính bình, hơi hàn, vào kinh Bàng Quang. Có mùi thơm đặc biệt ,

Tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, thấp nhiệt, hoàng đản, lợi tiểu. phong thấp. sốt rét, hóa đờm, thông khí,khán khuẩn, lợi gan , lợi mật,lợi tiểu, kích thích tiêu hóa.

Các chứng vàng da,tiểu tiện ít, vàng đục, sốt, nhức mắt, chóng mặt, phụ nữ kém ăn sau khi đẻ.

Cách chế :Thu hái khi cây đang có hoa . Bỏ gốc, rửa sạch đất phơi trong im mát cho khô, không nên để gần lửa .

Vị này các bà dùng nhiều hơn nên phương ngôn có câu :

Nhân Trần, Ích mẫu đi đâu ? 

Để cho bà đẻ đau lâu ốm dài .

Cháo Nhân Trần

Nấu Nhân Trần trong nồi nước cho ra hết chất thuốc, vớt bỏ xác, cho gạo vào nấu thành cháo Muốn ngọt bỏ đường vừa miệng .

Công dụng chữa trị

 : Lợi thấp nhiệt, thoái hoàng đản, lợi tiểu nước tiểu vàng đậm, vừa trị bệnh vừa bổ dưỡng .

Huyền Thoại 

Thương Truật

<p data-mce-mark="1">Chuyện thứ nhất :

Năm thứ 200, vào cuối đời nhà Hán, binh biến không ngừng, khắp nơi sống trong cuộc sống chạy loạn quanh năm, cho nên dù ai có ruộng đất cũng không thể nào trồng trọt, canh chủng gì được . Đã thế lại bị thiên tai đủ thứ liên tiếp không ngừng. Lúc bên bờ sông miền Đông bị thủy tai, thì bên bờ phương Bắc bị hạn hán. Dân chúng không thể nào sống trong cảnh an cư lạc nghiệp được .

Lúc ấy, một nơi nay là thành phố Nam Dương , thuộc tỉnh Hà Nam, tình hình càng nguy ngập . Mỗi ngày có hàng ngàn người chết đói. Những người may mắn còn thoi thóp chỉ đi rải rác khắp nơi xin ăn.

Trong tình cảnh thiên tai nhân họa như thế, bao nhiêu cây cỏ hoa lá hầu như bị đào bới hết sạch. Mọi người chỉ còn cách đi sâu thêm vào rừng núi cao xa, để mong tìm thứ gì nhai được qua ngày .

Dù sao rau cỏ dại trong rừng, chỉ dùng tạm một thời gian ngắn thì không sao, nhưng lâu ngày , thiếu dinh dưỡng quá độ, người lánh nạn cứ chết dần chết mòn . . . . .

***

Mấy chục năm sau, không biết bao nhiêu là vật đổi sao dời, một hôm có một cô gái trẻ tự xưng họ Vương, đến một làng gần vùng Nam Xương. Cô nói là cô đã trốn vào trong rừng ngần ấy năm, nay nhớ nhà quá chịu hết nổi, nên đánh liều mò ra .

Những người còn sống sót trong vụ vừa chạy giặc, vừa chạythiên tai, thủy tai năm ấy, không một ai nhận ra cô Vương bây giờ là cô bé ốm đói ngày xưa. Lý do là đã bao nhiêu năm tháng qua mà cô gái trông không đứng tuổi hay già thêm tí nào. Da mặt cô mịn màng , hồng hào như da một thiếu nữ. Không ai tin được là cô gái xinh đẹp khỏe mạnh này với cô bé ốm o gầy còm ngày xưa là một người .

Cô Vương phải phân trần, chứng minh đủ điều người làng mới chịu tin trong sự ngạc nhiên vô cùng .

“ Năm ấy tôi và người làng chạy vào rừng, vì mọi người đã tận dụng tất cả những gì có thể ăn được, hết sạch lương thực, nhiều người bắt đầu chết đói. Tôi sợ quá nên cố đem hết tàn lực gắng vào rừng sâu hơn. Ở đấy, tôi gặp được một cụ già, cụ thấy dáng điệu gần chết đói thảm não của tôi, bèn dạy cho tôi cách sống trong hang đá, cách lấy nước và ăn Thương Truật .

Từ đấy mỗi ngày tôi đào Thương Truật ăn cho qua bữa. Không hiểu vì sao, sau khi ăn khá lâu , tôi không thấy đói nữa, trái lại hình như khỏe mạnh thêm lên. Và cho đến bây giờ tôi cũng không bao giờ đau ốm gì cả “.

Chuyện cô Vương một đồn mười, mười đồn trăm , ai cũng tin nên cả vùng Nam Dương đều gọi Thương Truật là thần dược .

Chuyện thứ hai :

Một năm nọ vợ chàng Trần Tử Hoàng, bị bệnh nằm liệt giường, bỏ ăn uống, mặt mày cũng ốm o vàng khè .Từ lúc bắt đầu bệnh bà chỉ nằm yên, không có sức mà nhúc nhích nữa. Người chồng rất lo sợ, mời rất nhiều Thầy Lang xem bệnh, đã uống nhiều thuốc nhưng đều vô hiệu .

Một hôm trong lúc thất vọng và lo sợ cho tính mạng của vợ, chàng chợt nhớ đến chuyện cô gái họ Vương. Tuy nửa tin nửa ngờ, nhưng còn nước còn tát, chàng vội lên núi đi tìm Thương Truật đào về sắc cho vợ uống .

Sau mấy tuần uống thuốc đều, bệnh nhân tỉnh táo dần, tinh thần cũng minh mẫn gấp bội, và cứ thế, càng uống thuốc càng tin tưởng. Người bệnh từ giả giường bệnh, trông khỏe mạnh xinh đẹp hơn xưa . Vợ chồng sống lại những ngày trẻ trung hạnh phúc tuyệt vời, nên chẳng bao lâu trong nhà lại có tiếng trẻ cười khóc vui đùa , làm cuộc sống thật lý tưởng .

Chuyện thứ ba :

Một thành phố huyện gần Nam Dương có một văn nhân họ Hứa . Mấy chục năm trời chàng chỉ suốt ngày viết văn, ngâm thơ, không hề làm việc gì vận động thân thể .

Tuổi càng ngày càng cao, sức khỏe cũng theo tuổi trẻ dần dần tiêu tán. Chàng bắt đầu thấy ngán ăn, thân thể cũng yếu trông thấy .

Thầy Lang chẩn bệnh nói chàng bị bệnh “ Ẩ m tích”, một bệnh thuộc bộ phận tiêu hóa.

Chàng không cần biết tên bệnh, chỉ khổ sở vì ngực bên trái hay cảm thấy đau nhói. Và tuy không ăn vì không muốn ăn, mà dạ dày cảm thấy đầy ứ, lại hay có tiếng kêu lõm bõm phát ra , cứ ựa nước chua. Khi trời nóng thì nửa người bên trái không thể ra mồ hôi, trong khi nửa người bên phải mồ hôi ra như tắm .

Ban đầu chàng còn uống vài cốc rượu dằn cơn đau để ngủ . Nhưng càng về sau rượu cũng không giúp ích gì, đành phải trở lại tiếp tục tìm Thầy Lang. Thầy cho thuốc khá hiệu nghiệm, nhưng nếu ngưng uống thuốc thì tất cả các chứng và sự đau đớn lại ào ào trở lại .

Và cứ như thế chàng văn nhân họ Hứa sống với thuốc ngót 30 năm trường .

Một hôm, Thầy Lang nghe các Thầy khác ở Trường An nói là bệnh Ẩm Tích có thể dùng Thương Truật chữa khỏi. Thầy bèn dùng Thương Thuật để điều trị .

Chỉ mấy tháng sau văn nhân họ Hứa đã trở lại phong độ ngày xưa . Hơn nữa ngoài sức khỏe trở lại, văn hay chữ tốt , tài ngâm vịnh văn tài tấn bộ, đã nổi tiếng là một đại văn hào của thành Nam Dương.

DƯỢC THẢO THƯƠNG TRUẬT 

(Atractylodes lancea Thumb)

Tính chất: Vị đắng, cay, tính ấm, khí mạnh vào hai kinh Tỳ và Vị .

Thương Truật còn có 13 tên khác nữa . Công hiệu của Thương Truật cũng gần giống như Bạch Truật. làm cho Tỳ Vị mạnh lên .

Bạch Truật là dược thảo thu hoạch khi củ còn non, không đắng .

Thương Truật vị cay mạnh hơn nên khai thông được đờm, làm khô ráo khí ẩm ướt uất trệ , làm cho ra mồ hôi, Bạch Truật làm cho mồ hôi không ra nữa .

Công dụng : Kiện tỳ, trợ Vị, táo thấp, phát hãn . Chữa khớp xương đau nhức do phong thấp hoặc hàn thấp , trị ngoại cảm phong hàn, đau đầu ớn lạnh .

Những người táo bón lắm mồ hôi kiêng dùng Thương Truật . Khi dùng những thuốc có Thương Truật kiêng ăn quả Đào , Mận, thịt chim Cắt .

Thương Truật có tính chất sát trùng tiêu độc . Mùa hè hun đốt Thương Truật trong nhà, khói làm muỗi chết hết .

Dược thảo Thương Truật không những chỉ dùng trong uống mà còn dùng được ngoài thoa . Da ngứa ngáy có thể nấu nước Thương Truật để ngâm, tắm . chà xát ngoài da làm hết ngứa .

Thương truật có thể dùng một mình , mà cũng có thể phối hợp với các vị khác để trị những chứng ăn không tiêu, nôn mửa , hạ lỵ , cảm mạo, toàn thân đau nhức. Đổ mồ hôi trộm, mắt mờ . . . .

Người xưa, đêm trừ tịch ngoài cầu nguyện cho được sức khỏe, còn đốt Thương Tuật để trừ tà ma ( hay đuổi muỗi mòng vi khuẫn)

Hiện tại Thương Truật vốn được dùng chữa bệnh đã thành một dược thảo phổ thông như :

Cháo Thương Truật :

Bao tử heo hầm chung với Thương Truật làm nước cốt . Lấy nước này nấu cháo. thái bao tử heo mỏng, ướp nước mắm, gừng, hành, chanh, ớt, cho vào cháo , nêm nếm vừa miệng .

Tác dụng:

 Bổ trung ích khí. Kiện tỳ hòa Vị, giúp tiêu hóa , chán ăn , mệt mõi, sình bụng .

Huyền Thoại 

Uy Linh Tiên

<p data-mce-mark="1">

Uy Linh Tiên là một huyền thoại bắt đầu từ một làng nhỏ trong dãy núi Phục Ngưu Sơn thuộc tỉnh Hà Nam .

Trong làng dưới chân núi, có một đôi vợ chồng trẻ rất thương yêu quí trọng nhau. Cả hai đều mồ côi và không có bà con thân thích, nhưng vì gắng sức làm lụng không ngại khó nhọc nên cuộc sống cũng khá sung túc .

Một năm vào khoảng tháng 9, đúng theo thiên nhiên thì gió thu mát mẽ phải bắt đầu thổi báo hiệu thay mùa, không ngờ mùa hạ vẫn lưu luyến, suốt mấy ngày trời nắng chang chang rất nóng nực . Thế nhưng khi mặt trời vừa lặn, gió mát từ từ dịu dàng thổi đến bao trùm xuống cả thôn làng. Năm nay mưa thuận gió hòa, nên mọi người đều hy vọng lúa chín đầy đồng lúc mùa gặt đến.

Viễn tượng lúa gạo đầy lẫm đầy kho làm đôi vợ chồng trẻ rất sung sướng . Tối hôm ấy người chồng ở ngoài đồng trở về, mặt mày chân tay lấm lem bùn đất . Vợ thấy chồng có vẻ mệt nhọc, vội vàng dục chồng tắm rửa. Chồng tắm mát xong thì cơm nước đã dọn sẵn, ngoài mấy món rau thường còn có món nhắm và một bình rượu .

Chồng sung sướng thấy được vợ săn sóc chu đáo, cùng nhau ăn uống chuyện trò, vui mừng một năm được mùa .

Cơm nước xong, chồng bảo vợ đi ngủ trước, còn chàng đã lâu không uống rượu,cảm thấy nóng nực, nên ra trước thềm nhà, dựa vách đá ngồi hóng mát.

Trời mới vào thu, làm việc ngoài đồng vất vả, đổ mồ hôi rất nhiều . Nhưng mặc dầu suốt ngày làm việc nặng nhọc, được bữa cơm đặc biệt ngon lành vừa rồi, lại có rượu ngon nhắm tốt nên bao nhiêu nhọc mệt đều tiêu tan .

Chàng ngồi trước thềm nhà, mặt mày tươi tỉnh đầy thỏa mãn sung sướng, thả hồn phiêu diêu, lơ mơ ngủ quên luôn, trong khi ấy mặt trời tắt nắng rồi bóng tối buông trùm .

Người vợ đi ngủ trước, thức giấc lúc nửa đêm , không thấy có chồng với tiếng ngáy quen thuộc nằm bên cạnh. Nàng cảm thấy lo sợ vội cất tiếng gọi chồng và vùng dậy chạy đi tìm .

Khi người chồng nghe tiếng vợ gọi tỉnh dậy, thì bỗng thầy tứ chi rũ liệt đau dớn như búa bổ vào người. Chàng cố gượng đứng lên, hai đùi nhức nhối không nhích đi được, chàng kêu thét lên và ngả phịch xuống đất .

Vợ nghe tiếng thét của chồng vội chạy đến gần, muốn dìu chồng vào nhà nhưng không đủ sức. Thành ra nàng phải vừa lôi vừa kéo, vừa đẩy vừa đùn, mồ hôi toát ra như tắm mới đem được chồng vào nhà .

Thế là suốt đêm hôm ấy, vợ phải xoa bóp hai đùi bị tê dại của chồng và luôn miệng hỏi:

-Tại sao thế? Anh làm sao thế? Anh làm sao mà bỗng dưng thành bệnh thế này ?

Chồng không trả lời được vì chính mình cũng không biết tại sao .

Sáng hôm sau, vợ vội vàng đi mời thầy Lang .

Ngày lại ngày, hết thầy Lang này đến thầy Lang khác, uống đủ thứ thuốc nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm, trái lại, càng ngày càng nặng hơn lên . Các thầy Lang đều nhận ra là chứng “ thấp tà” , một trong các chứng thuộc “Ngũ lao, Thất thương”.

Vợ mỗi ngày không ngại khổ sở săn sóc chồng, nhưng thấp tà là một chứng rất khó trị.Các Thấy Lang đều từ từ “chạy” hết . . . . . . .

Từ ngày chàng bị ma bệnh xâm nhập, thấm thoát đã 10 năm vẫn không hề thuyên giảm. Ban đầu chỉ có hai đùi và lưng, nhưng sau 10 năm, cả đến tay chân cũng tê bại luôn. Chứng thấp tà làm chàng mất hết sức lực, cả đến muốn trở mình cũng vất vả vô cùng .

Một hôm người chồng thấy vợ vì săn sóc mình mà ốm o gầy mòn, nên rất thương tâm vừa nói vừa khóc:

-Bệnh anh không thề nào khỏi được. Suốt 10 năm nay, em vừa tảo tần buôn bán kiếm ăn vừa lo săn sóc thuốc thang cho anh. Anh còn được nhìn thấy em, còn được nắm tay em, anh biết em thương yêu anh vô cùng. Nhưng bây giờ anh muốn em phải lo cho tương lai của em. Em không thề để đời tàn như thế này được.

Vợ nhìn người chồng đã tuyệt vọng, gục đầu bên thành giường nói:

-Không, không, em nhất định phải tìm cách trị bệnh cho anh. Không kể năm, tháng hay trọn đời, nếu không trị được bệnh cho anh thì em cũng không muốn sống một mình.

Cả hai cùng nhìn nhau đầm đìa nước mắt. Vợ bỗng nhiên nói:

Bắt đầu từ ngày mai, anh phải làm theo lời em dặn. Chúng ta phải hợp lực cầu nguyện cho đến khi trị được bệnh mới thôi .

Chồng không hiểu vợ nói gì và định làm gì, nhưng thấy vẻ cương quyết đầy tự tin của nàng làm chàng thêm cảm động .

Sáng sớm hôm sau. Vợ nhờ hàng xóm giúp đặt chồng lên một cái chõng tre, khiêng đến con đường có người qua lại tấp nập. Nàng ngồi bên cạnh chồng, kể cho người qua đường nghe bệnh trạng của chồng, hy vọng trời xui đất khiến sẽ gặp được một vị Lương y có thể cứu trị .

Sau đời nhà Tùy Đường, ở Trung Quốc, các vị Lang Trung đi hành y qua các làng mạc, đều đem theo một vài đệ tử gánh thuốc, và cũng để thực tập chữa bệnh. Những vị Lang Trung vân du hành y này, có người vì không thích làm quan mất tự do. Và cũng có nhiều Lang Trung có tiệm bán thuốc, bốc thuốc ở tỉnh thành, nhưng mỗi năm đến mùa thu hoạch dược thảo cũng đem đệ tử vào rừng, lên núi, để thu hoạch tìm kiếm những cây thuốc hiếm quí. Số Lang Trung vân du thường qua lại các làng để hái thuốc chữa bệnh này, cũng có nhiều vị nổi tiếng mát tay .

Người vợ đau khổ đã rước các Thầy Lang quanh vùng chữa trị cho chồng nhưng đều vô hiệu, nên nay đặt hết hy vọng vào một vị nào đó, tình cờ đi qua và có duyên may của Phước Chủ mà được gặp chăng.

Một, hai rồi ba ngày ... . . . Người qua đường đều thương xót tội nghiệp người đàn bà , họ vui lòng dừng chân nghe kể câu chuyện thương tâm, nhưng không ai quen biết một danh y nào để giới thiệu .

Rồi bốn, năm, sáu ngày . . . . . giọng người đàn bà đã khàn dặc, nhưng vị Lương y cứu tinh hai vợ chồng cầu mong vẫn chưa thấy đến .

Bảy , tám, chín ngày vô tình trôi qua . . . . Miệng người đàn bà kể lể nhiều quá đã sưng vếu lên, rách khóe môi tươm máu. Đã thế lại còn vì ngày ngày quì bên đường sỏi đá, hai đầu gối cũng bị trầy da sưng mọng.

Thiếu phụ không còn nói năng được nhiều , nhưng vẫn kiên nhẫn quì bên đường chờ vị Lang Trung cưú tinh.

Thấy vợ hình dung tiều tụy đến thảm, chồng không nỡ bèn năn nỉ :

-Bao nhiêu ngày rồi vẫn không có hy vọng tìm được Thầy . Anh nghĩ chắc không có ai chữa được bệnh này đâu. Nếu chúng ta cứ tiếp tục , anh sợ em cũng ngả bệnh luôn. Thôi chúng ta về nhà, chấp nhận số phận an bài, lo hậu sự đi em !

Miền núi hoàng hôn đến rất sớm, rồi đi cũng rất nhanh. Chỉ trong chớp mắt là trời tối . Mặc dầu hai bên hàng phố nhiều nhà đã lên đèn, vợ vẫn ngồi lỳ bên cạnh chồng. Trên đường, trừ những kẻ đi làm về, không còn khách bộ hành qua lại . Nàng đợi chỉ trong chốc lát nữa, mấy người láng giềng từ tâm sẽ đến giúp nàng khiêng chồng về nhà .

Đúng lúc ấy, có người quen chạy đến gọi nàng rối rít:

-Có Thầy Lang đến . Có Thầy Lang đến !

Nhưng lúc ấy cả hai vợ chồng đều đã tuyệt vọng, vì suốt ngày, bao nhiêu vị Lang Trung đi qua, chỉ dừng chân hỏi thăm, nhìn ngắm, rồi lắc đầu bỏ đi .

Một lúc sau, một vị Lang Trung vân du, không thấy đem theo đệ tử đến gần . Cụ Lang tay chống gậy, vai mang một bọc vải to tướng, cằm có ba chòm râu bạc dài, tỏ ra đã già lắm rồi . Cụ Lang đến nhìn , nghe người đàn bà nói không ra tiếng, kể lể không thành lời, chỉ có nước mắt chảy dài đầm đìa trên má .

Cụ Lang bỏ cái bọc trên vai xuống, lấy ra một mớ dược thảo nói :

-Chồng của bà bị chứng Phong Thấp Tà . Bà đừng lo, có thuốc đây !

Người vợ nghe thế lập tức sụp lạy, dập đầu lia lịa tạ ơn .

Mười năm săn sóc người chồng bệnh hoạn, nàng đã vì chồng chịu trăm cay nghìn đắng, cuối cùng lại còn phải phải chường mặt ra đường cái , cầu khần người qua lại, xin tìm giúp lương y . Hôm nay cuối cùng cô gặp được Y Sư .

Người chồng thầm nghĩ :

 “Ai bảo trên đời không có Thần Phật? Chính vợ chàng và vị Lương y , Hai người này không phải Thần Phật cứu mạng chàng thì là gì ?”

Cụ Lang theo vợ chồng về nhà, mở khăn gói, lấy dược thảo ra dạy cho người vợ cách sắc thuốc, cách cho chồng uống thuốc .

Sáng hôm sau, Cụ Lang lấy ra một nhánh dược thảo hỏi người vợ :

-Cây thuốc này nhất định quanh vùng này phải có . Cháu có biết nó không ? Chúng ta sẽ lên núi hái ngay.

Nhìn thấy cây thuốc cô vui mừng nhưng nghi ngờ hỏi :

-Thưa cụ, giống cỏ này là . . . thuốc sao ? Con thấy tràn đồng .

Trên núi quả thực dược thảo mọc đầy khắp nơi.Thuốc hái được về. Nàng rửa sạch đất cát, vứt bỏ những cành khô chết, ngâm nước một lúc,xong cắt khúc nhỏ ngắn . Sau khi phơi trong mát, lại ngâm với rượu gạo, rồi vớt ra rang khô . Sau khi thuốc đã khô nhưng không cháy, lấy ra cất nơi mát. Thuốc coi như chế xong, sẵn sàng để dùng .

Cụ Lang dạy sắc thuốc cho bệnh nhân uống mỗi ngày ba lần. Ngoài ra lại còn lấy thuốc tán thành bột, dùng dấm nhào thành hồ nhão , đắp vào những nơi khớp xương móc nối, lấy vải bao bọc kín lại .

Thuốc trong uống ngoài thoa vài ngày, chân tay bệnh nhân bắt đầu cựa quậy được .

Một tháng sau, cử động dễ dàng hơn. Mấy tháng sau, bệnh nhân chống gậy đi chập chững, rồi chẳng bao lâu bỏ gậy đi một mình .

Người bệnh 10 năm đã xác xơ gầy còm da bọc xương, thực không ngờ lại có ngày mạnh khỏe như trở lại thời tráng niên. Mối tình nồng thắm của đôi vợ chồng trẻ trở lại hạnh phúc đầm ấm như xưa .

Cụ Lang thấy bệnh nhân lành hẳn rồi, sức khỏe cũng hoàn toàn hồi phục nên một hôm sau bữa cơm sáng, cụ tỏ ý muốn từ giả ra đi .

Người vợ rất tri ân Cụ Lang đã cứu mạng chồng mình nên cầu khẩn :

-Xin Cụ ở lại với chúng con. Chúng con không có cách gì đền ơn cho xứng. Chúng con không có bà con thân thích, nếu Cụ không chê, xin cụ ở lại cho phép chúng con được phụng dưỡng suốt quãng đời còn lại.

Cụ Lang nghe xong cười ha hả :

-Cảm ơn hai cháu có lòng ưu ái , nhưng tôi là một Y Sư. Còn có người khác, nơi khác cũng đang cần tôi .

Cụ ngừng một lúc, nói tiếp :

-Cách chế vị thuốc này, các cháu đã biết thông thạo. Từ nay trong làng có ai bị bệnh giống như thế, cứ theo cách ấy mà trị cho họ. Chữa lành càng nhiều người là lễ vật quí nhất tặng cho tôi đó .

Nói xong, cụ đeo khăn gói bước đi .

Người vợ bỗng chạy theo cụ gọi với :

-Thưa cụ, Cụ chưa cho chúng con biết tên vị thuốc này .

Cụ Lang dừng chân suy nghĩ một lúc trả lời:

-Gọi nó là Uy Linh Tiên nhé. Ừ, Uy Linh Tiên đúng rồi. Uy là sức mạnh . Linh là linh nghiệm, Tiên là thần tiên. Nói tóm lại là linh nghiệm như thần .

Nói xong Cụ Lang cười gật gù chống gậy lên đường

Kể từ đó, người ở Phục Ngưu Sơn đều gọi giống cỏ ấy là Uy Linh Tiên .

Những chứng bệnh Phong Thấp Tà, Thống Phong, Cước khí làm Tứ chi tê bại, lưng hay đầu gối bị cảm lạnh mà sinh bệnh đau nhức. Uy Linh Tiên là vị thuốc chủ trị .

Dược Thảo Uy Linh Tiên 

(Clematis Chinensis Osbeck)

Khí ấm , vị hơi đắng, không độc. vào Phế kinh và Can kinh. Thông được 12 kinh lạc.

Công dụng của Uy Linh Tiên chữa được mọi chứng phong độc, miệng méo lệnh, ngứa gải, trầy da đau xót, phong chạy khắp mình, đau các đốt xương, chân tay tê bại, không đi lại được .

Nhưng thuốc rất mạnh, không nên dùng nhiều và dùng lâu, sợ nó tiết chân khí. Người có chứng hư chớ dùng, kỵ trà và bột miến .

Rượu Uy Linh Tiên

§ Uy Linh Tiên 2 lượng, (cắt nhỏ)

§ Đường 4 lượng

§ Rượu trắng 35 độ, 1 cân

Cho tất cả vào bình chai, không dùng đồ nhựa .

Đậy kín, độ 1 tháng, lọc bỏ xác để dành, để bao lâu cũng được, không có màu sắc .

Cách dùng :

Chất thuốc chạy rất nhanh nên bắt đầu chỉ dùng thử 2 thìa canh. Nếu không thấy có gì làm khó chịu, có thể thêm 2 thìa nữa, cho đến nửa cốc một ngày là tối đa .

Đầu tiên dùng một tuần, nghỉ 5 ngày, tiếp tục dùng 1 tuần, lại nghỉ 5 ngày . . . . Nếu thấy bệnh có vẻ hiệu nghiệm .. bớt một nửa phần rượu thuốc ( ¼ cốc). Về sau tiếp tục dùng 7 ngày nghỉ 5 ngày . . . . .

Sau khi dùng hết hủ rượu đầu tiên, ngưng dùng 2 tháng, đổi dùng Rượu Thược Dược hay thứ khác. Sau hai tháng dùng lại Uy Linh Tiên sẽ hiệu nghiệm hơn .

Công dụng:

Trị các chứng phong thấp, thần kinh , gân, bắp thịt đau nhức .. . .

Huyền Thoại

Xa Tiền Thảo

<p data-mce-mark="1">

Xa Tiền Thảo là một loại dược thảo mọc khắp vùng Đông Nam Á, từ núi cao cho tới đồng bằng, đâu cũng có thể tìm thấy dễ dàng. Chỉ cần chú ý chung quanh sân nhà, bên lề đường, sau vườn, sẽ thấy Xa Tiền Thảo mọc khiêm nhường nhưng không hề thiếu vắng. Tuy người ta vứt bỏ coi như một thứ cỏ dại, nhưng Xa Tiền Thảo là một vị thuốc hay và đã được trọng dụng từ xưa.

Trong các sách thuốc cổ như “Hoa Thị Trung Tàng Kinh” “Danh Y Biệt Lục” “Chân Nam Bổn Thảo” “Bổn Thảo Hối Ngôn” đều có ghi chép rõ ràng cây thuốc Xa Tiền Thảo, hạt gọi là Xa Tiền Tử. Trung dược dùng nhiều Xa Tiền Thảo, còn Nhật Bản trái lại dùng nhiều Xa Tiền Tử.

Tính chất: Khí hàn, vị cam, không độc.

Tác dụng chính của Xa Tiền Thảo là lợi tiểu, giải nhiệt và tiêu đàm. Vì thế, khi trị bệnh viêm thận, viêm bàng quang, viêm đường tiểu, đại tiểu tiện ra máu hay ho khan, vị thuốc này thường được dùng. Ngoài ra còn có thể điều chỉnh chất dung dịch trong dạ dày, hoặc trị đường tiểu bị nhiễm độc, tháo chảy cấp tính hay mạn tính.

Trị được vết thương đâm chém đứt tay chân. Cầm được máu, tiêu được ứ huyết.

Xa Tiền Thảo nhổ nguyên rễ lá rửa sạch để dùng tươi hay sao vàng, hoặc phơi khô, tán bột để dành. Xa Tiền Thảo nên thu hoạch vào mùa hạ, rửa sạch đất phơi khô. Tại Trung Hoa nơi sản xuất nhiều nhất là các tỉnh Giang Tây, An Huy, Giang Tô.

Hình dáng của dược thảo cũng hơi khác nhau tùy theo địa phương. Có thứ lá hơi giống lỗ tai lợn nên được gọi là Trư Nhĩ Thảo. Ngoài ra cũng còn được gọi là Mã Đề Thảo, Y Mã Thảo và hơn 10 tên khác nữa.

Ở Việt Nam, Xa Tiền Thảo mọc khắp các cánh đồng, dọc theo mé ruộng, bên lề đường, sau vườn hoang. Xa Tiền Thảo mọc ở ruộng nhiều nước thì dùng để ăn sống hoặc làm rau luộc. Xa Tiền Thảo mọc trên khô, có thể dùng cả thân lá, rễ, hạt để làm thuốc. Lá Xa Tiền thảo hình bầu dục, lá hơi cong khum lại và có 5 gân. Sau ba tháng, Xa Tiền ra hoa, nụ nở màu đỏ tía, hoa từng chuỗi có nhiều hạt, sắc vàng đậm, sao vàng lên có mùi thơm.

Xa Tiền Thảo có thể dùng một mình hay dùng chung với các vị thuốc khác.

Công dụng trị tê thấp, đi tiêu chảy, mắt đỏ có màng mây, chảy máu cam, tiểu ra máu, cầm máu vết thương hoặc mụn nhọt đã vỡ rồi, thấp nhiệt di tinh, ứ huyết, tích huyết, tiểu ra sạn. Cách dùng tùy trường hợp: giã lấy nước uống sống, đắp hay dùng bột. Tính chất của Xa Tiền là thông lợi được hơi nước làm cho khí ẩm ướt nóng nhiệt ở bàng quang có thể khơi thông ra được, nhưng vì quá lợi hoạt, chạy xuống mạnh, nên người khí sụt yếu, hay thận khí đã hư thoát thì đừng nên dùng.

Xem đơn thuốc nên cẩn thận , đừng nhầm hai tên cùng có chữ Tiền là Xa Tiền (Plantago Major L) với Mã Tiền (Strychnos nux-vomical)

Xa Tiền thảo mọc khắp nơi, cao độ 1 gang tay, không độc.

Mã Tiền, cũng còn có vài tên khác nữa, trái lại rất độc.

Mã Tiền là một loại cây gỗ, cao hơn 10 thước mọc trong rừng núi.. Hạt Mã tiền rất độc, chuyên trị nhức mỏi, thần kinh tê liệt, có tính chất sát trùng. Đông y hay dùng trong những thang thuốc rượu để xoa bóp khi thân thể bị bầm dập hay sưng nhức mỏi , nhưng không xoa vào vết cắt bị thương . Rất độc.

Huyền thoại phát hiện ra vị thuốc quý đã cứu tính mạng của một đoàn quân, cả người lẫn ngựa, xảy ra vào năm thứ 8 dương lịch.

Triều nhà Tiền Hán, Vương Mãng phế bỏ cháu của Hán Tuyên Đế là Nho Tử Anh, tự lập làm vua, đổi Quốc hiệu là Tân. Lúc bấy giờ vua Quang Vũ nhà Hán chưa dựng được nhà Đông Hán.

Trong lịch sử Trung Quốc, Vương Mãng là người đầu tiên đã làm việc soán ngôi đoạt vị. Vương Mãng vì có cháu là Hiếu Nguyên Hoàng Hậu nên năm Vĩnh Thủy nguyên niên (16 năm trước dương lịch) được phong tước Tân Đô Hầu. Vương đối đãi với bộ hạ, quân lính rất tốt, bao giờ cũng có thái độ thân thiết lo lắng cho cấp dưới nên ai cũng mến phục.

Ông được phong chức Đại Tư Mã. Khi vua Ai Đế băng hà, Vương Mãng dùng áp lực bắt buộc Bình Đế lên làm vua, lại còn ép gả con gái cho Bình Đế lúc ấy mới 9 tuổi. Vương Mãng nắm tất cả quyền sinh sát của Triều đình trong tay và được gọi là An Hán Công.

Giai đoạn thứ hai là Mãng ám sát Bình Đế, phò Nho Tử Anh lên làm vua. Mặc đầu bên ngoài tỏ ra phò ấu chúa, thực ra đã bắt đầu tự xưng là Phó Hoàng Đế. Hai năm sau, tức là vào năm dương lịch thứ 8, ra mặt cướp ngôi tự mình làm vua, đổi quốc hiệu là Tân. Người đời sau ghi chép sử gọi là thời kỳ Tân Mãng.

Cướp ngôi xong, Vương Mãng bắt đầu thay đổi tất cả Nho học kinh điển, định cải cách triệt để tất cả mọi chế độ hiện hành. Về danh xưng, Mãng đổi chức tước của các quan, đổi tên tất cả các địa phương, quận huyện. Mãng bổ dụng các quan lớn đều ở kinh đô hay ở 5 tỉnh lớn nhất để dễ kiểm soát.

Về kinh tế, Mãng chỉ huy các giá hàng hóa, lập ra chế độ lục quản, tức là quản chế rượu, muối, đồ sắt, tiền, núi non và sông hồ. Mãng phái các quan thu thuế những nơi này rất nặng. Ngoài ra còn tịch thu tất cả đất đai trong nước làm Vương điền, biến thành của cải riêng của vua.

Tất cả mọi nếp sống đều đảo lộn. Người dân biến thành nô lệ, không có một chút tự do nào nên lòng người oán giận lên đến cực điểm. Đồng thời mùa màng bị mất vì nạn châu chấu ăn sạch tất cả mọi thứ hoa màu. Dân chúng vừa nghèo lại vừa đói nên chỉ cầu mong cho con cháu nhà Hán chóng nổi dậy khôi phục giang sơn.

Lúc bấy giờ người có thế lực nhất của dòng dõi nhà Hán là Lưu Dân và Lưu Tú, hậu duệ của Trường Sa Vương, con vua Hán Cảnh Đế. Hai anh em này khởi binh năm 22 dương lịch, phò một người bà con xa là Lưu Huyền lên làm vua.

Trong đám bộ hạ của Lưu Tú có Mã Vũ tướng quân, trước là bộ hạ của Lưu Huyền. Khi Mã Vũ thấy Lưu Tú là người có tài và biết dùng người nên theo phò tá Lưu Tú rất tận lực. Mã Vũ vốn người Hồ Dương, trước đã từng phục vụ dưới quyền nhiều Tướng khác, từng đánh nhiều trận, lập nhiều chiến công. Đến khi thành bộ hạ Lưu Tú, mỗi khi ra trận đều đi đầu, lòng dũng cảm và tư cách đầy nhân nghĩa của Mã Vũ đã được Lưu Tú để ý và tín nhiệm.

Quân của Mã Vũ rất can đảm và thiện chiến, nên địch quân mới nghe tên đã sợ. Các Tướng khác cũng đều thán phục tài năng và đức độ của Mã tướng quân.

Nhà Hán lại lên, Mã Vũ được thăng chức Đãi Trung Kỵ Đô Úy tương đương như chức Tổng Tư Lệnh thời nay. Về sau lập thêm nhiều công trận, được phong Hầu đời đời cha truyền con nối để phục vụ nhà Hán.

Đến đây lịch sử vị thuốc Xa Tiền Thảo được phát hiện để giúp nhà Đông Hán thành công.

Mã Vũ có một người lính mã phu chuyên việc săn sóc xe và ngựa. Người này thông minh và cẩn thận nên rất được tin cậy. Một vị Tướng quân cầm binh thời ấy, ngoài tài giỏi và khỏe mạnh, vấn đề quan trọng nhất là ngựa vì nếu không có ngựa chiến hay thì dù Tướng anh hùng đến đâu cũng không thể ra trận thắng địch dễ dàng được.

Khi Mã tướng quân nghe tin có một người Đội Trưởng chuyên giữ ngựa đã từng tham gia hàng trăm trận, có đủ tài năng và dũng cảm xứng đáng ở trong đoàn quân của mình, bèn lập tức tuyển dụng Đội Trưởng ấy làm Mã phu săn sóc ngựa Tư Lệnh.

Đội trưởng này hiểu là Tướng Quân tin cậy tài mình nên mới giao phó ngựa qúi riêng, nên không buồn vì phải làm chức Mã Phu, trái lại còn cảm động vì thấy được tin cậy. Về sau, lúc Mã Vũ tướng quân được Hán Vũ Đế phong Hầu, Ông đã đem tất cả phần thưởng công lao chia cho người mã phu có công săn sóc ngựa quí phân nửa cũng không phải là quá đáng.

Hôm ấy, trời vào hạ, Mã tướng quân đang đuổi đánh địch quân, chiêng trống vang trời, quân lính rầm rộ, tiến lui rầm rập theo lệnh truyền từ Trung quân tới các đội chung quanh. Chẳng bao lâu, quân của Mã tướng quân đã đánh đuổi quân địch chạy xa, nhưng quân của ông bị lọt vào một nơi rừng rậm hoang vu chung quanh chẳng có bóng người.

Vùng này ở phía Bắc, nằm giữa hai sông Hoàng Hà và Chuẩn Hà, tức là phía Tây Nam của Bình Nguyên Hoa Bắc. Đó là một vùng khi mưa thì mưa thật nhiều, hoa màu cỏ cây úng nước chết hết. Trái lại khi nắng thì một giọt nước cũng khó tìm được.

Mùa khô năm ấy nóng hơn tất cả các năm trước. Mưa Xuân chờ mãi không thấy đến, cảnh vật mùa Xuân đáng lẽ nẩy mầm, thì trái lại cả vùng chỉ còn một vài giống cỏ sống sót rải rác khắp nơi trên đồng ruộng hoang vu.

Trận đánh đã kéo dài quá lâu, nên người và ngựa đều mệt mỏi, Mã Vũ tướng quân bèn ra lệnh dừng quân, dựng lều nghỉ ngơi, tạm thời dùng nước và lương thực mang theo.

Khi Mã tướng quân biết mình nhầm lẫn thì đã quá muộn. Ông không nên cho đóng quân tại đây, vì mặc dầu trong quân có lương thực cho người, nhưng không mang theo lương thực cho ngựa. Sáng hôm sau chỉ trừ ngựa Tướng quân và một số ít ngựa của các Tướng thân cận, còn toàn thể ngựa của đoàn quân đều đói lả không còn sức lực để đứng dậy nổi.

Đoàn quân lúc ấy lâm vào cảnh bốn bề đầy nguy hiểm bao vây, chung quanh không có một thứ cỏ cây, hoa quả gì ăn được. Binh lương đem theo cũng rất ít, lại thêm trời nóng nực kinh khủng làm lính và ngựa cứ từ từ ngã gục. Một số đông người và ngựa vì uống nước trong vùng nên bị sình bụng và đi tiểu ra máu.

Bệnh này theo Trung y là một chứng sốt do thấp nhiệt tụ lại ở bàng quang quá mạnh nên sinh bệnh. Triệu chứng là đường tiểu tiện rất đau đớn. Tiểu ra máu. Lưỡi dày và mạch tim đập nhanh. Nói gọn là viêm đường tiểu cấp tính.

Mã tướng quân muốn hạ lệnh rút lui lập tức vì nếu không ra khỏi nơi này thì cả đoàn quân sẽ bị chứng bệnh viêm bàng quang, không còn di động được nữa. Nhưng tình hình bệnh tật đã xảy ra rất trầm trọng, dù muốn lui quân cũng đã quá muộn, Quân y chỉ còn cố tìm cách cứu chữa ngay tại chỗ mà thôi.

Người Mã phu lo giữ lương thực và nước cho Tướng quân và ngựa, dù đã hết sức cẩn thận không hề dám lãng phí, nhưng cũng không cứu vãn được tình thế. Đoàn Mã phu dưới quyền và mấy con ngựa của Tướng quân cũng bị đi tiểu ra máu như cả đội kỵ mã. Nguy cơ đến ngay bên cạnh, không còn chạy đâu cho thoát.

Mã tướng quân suốt ngày không hề bước ra khỏi doanh trướng một bước. Vị Tướng anh hùng nhất trong các Tướng của Lưu Tú, giờ đây trông tiều tụy như một bộ xương khô.

Đối với con nhà Võ, thắng bại là chuyện thường. Thân làm Võ tướng, sống chết đều không ngại. Ví dụ Mã Tướng quân có bỏ mạng sa trường, cũng không hề giảm bớt vinh quang của một Võ tướng, nhưng hoàn cảnh trước mắt thật bi thảm, không lẽ bị tiêu diệt một cách uất ức thế này! Không biết có cách gì cứu cả đoàn quân ra khỏi cảnh chết không phải ở sa trường, mà chết bệnh một cách thảm khổ. Mã Tướng quân mấy đêm liền lo lắng không ngủ, đã cảm thấy quá mệt mỏi mê thiếp đi.

Sáng hôm sau, Mã phu của Tướng quân cũng bị bệnh nhưng cố nén đau đớn, gắng dậy đi thăm chừng mấy con ngựa quý, thầm nghĩ chắc chúng nó cũng đang lăn lộn đau đớn, như tất cả những con ngựa khác của đoàn quân.

- Tướng quân! Tướng quân, xin Tướng quân mau ra đây xem!

Mã Tướng quân đang ngủ say bỗng giật mình thức dậy vì nghe tiếng gọi của Mã phu.

Tướng quân tưởng mình đang bị quân địch bao vây, vội vàng vùng dậy xách kiếm chạy ra khỏi trướng. Chung quanh cảnh vật vẫn im lìm, không hề có dấu vết quân địch. Các Tướng cũng như quân đều nằm vật vã trong lều, bên ngoài không có một ai, trừ Mã phu, mặt mày hớn hở đang đứng bên cạnh xe Tư lệnh với ba con ngựa.

Mã Tướng quân tưởng tên mã phu của mình đau đớn quá hóa điên, nên đến gần định an ủi, nhưng bỗng cảm thấy hình như Mã phu muốn nói gì, muốn báo một tin gì lạ lùng. Mắt hắn sáng ngời và đầy những tia chớp sung sướng.

- Có chuyện gì lạ không?

- Thưa tướng quân, có chuyện lạ lắm. Lúc tôi đến thăm ngựa, thấy nó đang tiểu tiện, tôi cố ý nhìn xem còn có máu nhiều không thì thấy không có tí máu nào cả. Đang định báo tin cho Tướng quân thì thấy mấy con ngựa khác cũng tiểu tiện mà không có chút máu nào. Tôi đoán chắc chúng nó lành bệnh rồi nên vội vàng đến báo cáo.

Mã Vũ Tướng quân nghe xong lập tức ra lệnh cho binh sĩ điều tra xem tất cả ngựa của đoàn quân như thế nào. Kết quả báo cáo đều giống nhau: ngựa đã khỏi bệnh.

Mã phu vốn rất thông minh, nhất định muốn biết tại sao ngựa bỗng dưng lành bệnh. Lúc ấy Mã phu chú ý nhìn xem ngựa ăn cỏ, nhận thấy tất cả cỏ chung quanh vùng cắm trại đều bị ngựa ăn sạch hết, gần cạnh xe của Tư lệnh còn sót ít nhiều. Trong đó có thứ cỏ lá giống như tai lợn được ngựa ăn một cách thích thú ngon lành nhất. Khi Mã Tướng quân xem đám cỏ Mã phu báo cáo, cũng đồng ý là ngựa thích ăn nhất, bèn truyền lệnh họp tất cả các Tướng đến trước xe Tư lệnh và dõng dạc nói:

- Quý vị Tướng quân dũng cảm thiện chiến. Chúng ta chiến đấu dưới lá cờ của Đại Tướng Quân Quang Vũ Đế, đang đi đến con đường chiến thắng vẻ vang hoàn toàn. Sự rủi ro xảy ra làm chúng ta xuýt bị bệnh tật tiêu diệt toàn thể đại quân. Bây giờ tôi xin chư Tướng quân theo lệnh tôi. Tất cả đều chú ý nhìn xem thứ cỏ mọc ở trước cỗ xe. Chính thứ cỏ dại này sẽ cứu chúng ta thoát nạn. Chúng ta nên nhân danh Quang Vũ Đế cảm tạ Trời Phật Thánh Linh, cảm tạ các Ngài đã ban ân cho chúng ta cơ hội phục hồi nhà Hán. Bây giờ xin chư Tướng lập tức trở về đội ngũ, truyền lệnh nhổ hái tất cả thứ cỏ mọc trước xe cho ngựa ăn. Ngoài ra cũng nấu cỏ này lấy nước cho tất cả quân lính uống. Chúng ta lành bệnh, nhất định sẽ thành công.

Các Tướng nhận lệnh xong, bèn gọi thứ cỏ chữa được bệnh không tên ấy là “ Xa Tiền Thảo”, nghĩa là cỏ mọc trước xe, và ai nấy về đội ngũ của mình lo thu hái thật nhiều “ Xa Tiền Thảo”. Kết quả là toàn thể quân đội lành bệnh, cất tiếng hoan hô “ Xa Tiền Thảo vạn tuế” vang dậy khắp một vùng đóng quân.

Mấy hôm sau, Mã Vũ Tướng quân đứng trên xe Tư lệnh, chỉ huy cuộc truy kích địch quân. Sau khi ông thắng trận về Kinh đô ra mắt Quang Vũ Đế, trình bày mọi việc xong. Câu chuyện sự tích dược thảo “ Xa Tiền Thảo” được phổ biến khắp nơi.

Mã Vũ Tướng quân được phong tước Dương Hư Chầu, còn người Mã phu thông minh có công lớn tìm ra vị dược thảo quí giá vì mến tài đức nên không nhận chức tước, quyết tâm theo chủ tướng suốt đời để săn sóc bầy ngựa quý.

Huyền Thoại

Hạ Khô Thảo

<p data-mce-mark="1">

Dưới triều nhà Minh, chế độ khoa cử đã mở rộng. Các Quận, Châu, Phủ, Huyện, đều có trường Quan Lập mở ra để dân chúng khỏi phải bỏ làng xóm đi học quá xa. Nhưng dù sao, văn chương chữ nghĩa vẫn là một thứ xa xỉ đối với đại chúng, nên chỉ con em của những kẻ giàu sang, có tiền của, thế lực, danh tiếng, hay giai cấp cao mới vào học được các trường này. Tốt nghiệp ra, khóa sinh sẽ được cấp bằng Tú Tài và gia đình nào có được một ông Tú là đủ làm cho cả làng, cả họ vẻ vang hãnh diện vô cùng.

Cậu Tú trong huyền thoại này nhà không giàu nhưng cậu có một bà mẹ rất đảm đang. Mồ côi cha từ bé, mẹ cậu một mình vừa chăn nuôi, gồng gánh, làm thuê làm mướn, vừa cầm bán vườn ruộng, tất cả những gì đáng giá có thể đổi thành tiền bạc cơm gạo để nuôi đứa con duy nhất ăn học thành tài.

Đỗ xong cậu Tú không muốn đi xa để họccao hơn, cậu chọn cách tự học để được ở lại trong làng, được gần gủi săn sóc mẹ già. Nhà chỉ còn có một mảnhvườn nhỏ trồng trọt hoa màu không có lợi tức nhiều, nhưng cậu Tú viết thuê, viết mướn, làm các thủ tục giấy tờ cho cả làng nên mẹ con đủ sống vui vẻ hạnh phúc bên nhau qua ngày.

Một hôm trời vừa vào hạ, bà mẹ xưa nay vốn rất mạnh khỏe bỗng nhiên bị bệnh. Trong làng chỉ có một thầy lang duy nhất, là người có thể mời được, cậu Tú vội rước ngay thầy về nhà xem bệnh cho mẹ. Sau khi chẩn bệnh thầy cho biết là mẹ cậu Tú bị bệnh “loa lịch” tức là tràng nhạc một trong những chứng nan y. Thầy chỉ hứa tận lực của thầy còn thì xin nhờ Trời.

Cậu Tú theo đơn thuốc của thầy lang cho, bốc thuốc và sắc theo lời chỉ dẫn. Nhưng mẹ cậu uống thuốc mấy ngày liền vẫn không thấy bớt chút nào. Trái lại bệnh còn nặng lên gấp bội. Cổ bà sưng to và làm mủ, rồi cương lên, bật cả máu mủ ra làm bà đau đớn nhức nhối vô cùng.

Xóm giềng bà con đều lắc đầu bảo:

-   Bệnh này có mà Trời cứu!

-   Mắc phải bệnh này chỉ còn lo hậu sự mà thôi!

Cậu Tú buồn khổ vô cùng vì cậu rất có hiếu. Mẹ đã hy sinh suốt đời để nuôi cậu ăn học đỗ đạt, cậu quyết tâm phụng dưỡng mẹ, hy vọng tương lai dùng tài họcgây dựng sự nghiệp làm cho mẹ vẻ vang hãnh diện vì mình. Không ngờ mẹ bỗng nhiên bị bệnh, mà lại là chứng “chỉ có Trời cứu”.

Cậu Tú ngày đêm vừa hầu hạ săn sóc mẹ vừa thành tâm cầu nguyện xin Trời Phật xui khiến cho cậu gặp thầy hay để xin cứu bệnh, cầu xin mẹ sẽ sống thực lâu để cho cậu có cơ hội báo hiếu báo ân.

Có lẽ lòng thành của cậu đã cảm đến các đấng thiêng liêng, nên vài hôm sau, bỗng có người làng chạy đến mách là một vị lang trung vừa mới đến làng này để thăm bệnh. Lang Trung vốn là một chức quan dưới đời các vua nhà Tần, Đông Hán, Đường. Nhưng không hiểu tại sao tước hiệu này bỗng biến thành danh xưng cho các vị Ngự y, Y quan. Dần dần người không làm quan mà biết làm thuốc, chữa bệnh cũng được gọi là Lang Trung, rồi bình dân hóa thành Cụ Lang, Ông Lang, thầy Lang.

Các cụ Lang Trung dưới đời nhà Đường thường đi vân du hái thuốc, và chữa bệnh dọc theo cuộc hành trình tùy hứng. Một số đệ tử theo Thầy để gồng gánh mang xách những hành lý, thuốc men, lương thực. Dọc đường qua các rừng núi, đồng ruộng, cụ giảng dạy cho đệ tử biết nhận dạng những cây thuốc. Từ những thứ dược thảo mọc đầy rừng, cho đến những cây lẻ loi khiêm nhường ẩn náu tận trong kẻ đá kín đáo, cụ lang đều chỉ dạy cách cắt hái chế biến, và chúng đệ tử thành kính ghi nhận những lời giảng dạy quí báu của suốt cuộc hành trình. Mỗi khi đến một làng mạc nào, cụ Lang Trung dừng lại thăm bệnh. Chúng đệ tử lại có dịp học cách chẩn bệnh, định bệnh, bệnh lý và khai toa cho thuốc.

Cứ thế cụ Lang Trung và chúng đệ tử đi lang thang hết làng này sang làng khác thăm bệnh, hết núi này sang núi khác hái thuốc và cuộc sống vân du hành y tuy không làm giàu của cải nhưng tình người thì tràn đầy.

Cậu Tú nghe tin cụ lang vào làng mừng quá vội vàng chạy đến nhà vị trưởng lão, nơi các cụ Lang Trung ghé thăm trước nhất khi đến một địa phương mới, để rước cụ về nhà thăm bệnh cho mẹ.

Sau khi chẩn mạch và khám bệnh xong cụ lang bảo:

-   “Cậu Tú đừng lo. Trong mấy khu rừng núi quanh đây có rất nhiều cây thuốc trị được bệnh này. Tôi đã chú ý nhận xét trước khi vào làng. Chúng ta phải đi hái ngay mới được!”

Nói xong, cụ đem các đệ tử vào rừng hái thuốc để về trị bệnh càng sớm càng hay.

Chiều hôm ấy cụ lang đến đem theo một gánh dược thảo lá cành còn đầy những búp hoa mầu tím. Cụ lang bảo đệ tử rửa sạch cho vào nồi đất sắc lấy nước cho bệnh nhân uống. Quả như lời cụ nói, dược thảo rất linh nghiệm. Mẹ cậu Tú uống thuốc vài ngày sau, cổ hết sưng và tất cả đau đớn khổ sở đều tiêu tan. Uống thuốc thêm vài ngày nữa, những vết thương đã bật mủ cũng khô, và liền da lại như thường. Thấy bà già đã dần dần hoàn toàn bình phục, cũng như tất cả bệnh nhân khác trong làng. Cụ lang định đi sang làng bên cạnh nhưng mẹ con cậu năn nỉ xin cụ ở lại vài ngày dưỡng sức và cũng để cho mẹ con cậu khoản đải để tạ ơn thầy. Trước khi từ giã cụ lang nói:

-   Mẹ con cậu tưởng là mang ơn tôi chữa lành bệnh, thực ra chính tôi cũng đuợc một phần thưởng không bạc vàng châu báu nào sánh được. Tôi đã thu hoạch được một số thuốc quí không đâu có, và từ nay, lúc đi vân du chữa bệnh,córất nhiều người đang đau khổ vì bệnh này, cũng sẽ được may mắn lây.

Cụ còn nói riêng với cậu Tú:

-   Cậu rất có hiếu với mẹ làm tôi cảm động vô cùng. Vì vậy tôi sẽ dạy cho cậu biết thuốc này để cứu người khác.

Cụ lang nói xong dẫn cậu Tú lên núi dạy nhận dạng cây thuốc quí. Đó là một thứ cây nhỏ mọc đầy tràn đồi núi, lá hình bầu dục có hoa tím.

-   Từ nay về sau nếu có ai bị bệnh loa lịch như mẹ cậu, lấy hoa này rửa sạch, sắc cho uống, đây là một vị thuốc rất quí đối với chứng bệnh này.

Cậu Tú vừa vui mừng vừa ngạc nhiên đáp lại:

-   Thưa cụ giống cỏ dại này mọc tràn đồng, đâu cũng có mà lại là thuốc quí, xin cảm ơn cụ đã cho con kiến thức cứu khổ cứu bệnh này. Thật là một báu vật.

Cụ lang mỉm cười gật đầu:

-   Đúng rồi, không phải ai cũng biết được báu vật, bây giờ biết rồi, cậu phải trân quí và phải dùng để giúp đời.

Thầy trò vị lương y đi rồi, mẹ cậu Tú bệnh cũng đã lành hẳn, sinh hoạt lại êm ấm, mẹ con săn sóc quí mến nhau như xưa. Bà con bạn bè ai cũng đều ngạc nhiên, và mừng như chính mình gặp may, cứ bàn tán mãi không thôi.

Mùa hạ qua rất nhanh, chẳng mấy chốc đã sang Thu. Khí trời mát mẻ, sức khỏe dồi dào mẹ con cậu Tú thấy sung sướng hơn bao giờ cả. Mỗi ngày cậu Tú làm việc giấy tờ sổ sách giúp người đổi công lấy thực phẩm, tối về nhà cậu lo học thêm đợi thi đậu cao hơn để được việc làm thanh nhàn hơn. Trước giờ đi ngủ hai mẹ con bao giờ cũng chuyện trò bàn bạc những công việc xảy ra ban ngày, những dự tính tương lai cho cậu Tú, đó là giờ phút thanh nhàn sung sướng nhất.

Một hôm hai mẹ con đang cùng nhau trò chuyện một cách vui vẻ, vừa sắp đi ngủ bỗng nghe có tiếng gõ cửa cấp tốc như ai đang có chuyện nguy hiểm xảy ra, cậu Tú vội đứng dậy ra mở cửa. Một thanh niên cùng lứa tuổi với cậu Tú thấy cửa vừa hé mở là xông vào gần ngã xuống đất. Cậu Tú đỡ anh ta dậy rót nước mời uống, mời ngồi nghỉ mệt. Chàng thanh niên tự giới thiệu mình là người làng bên kia núi, anh ta vừa đi vừa chạy từ sáng nhưng vì đường núi xa xôi, lại khó đi nên mãi bây giờ mới đến được.

Cậu Tú hỏi:

-  Anh ở xa đến tìm tôi chắc có việc gì cần lắm. Xin cho biết, đừng ngại gì cả.

Thanh niên đã bớt mệt đáp lại một hơi:

-  Mẹ tôi bị bệnh loa lịch, bệnh mới phát nhưng có vẻ nặng lắm. Tôi nghe nói cụ thân sinh ra ông cũng bị bệnh ấy, và đã được chữa khỏi. Người ta cũng đồn rằng cụ Lang Trung đã truyền lại môn thuốc ấy cho ông, xin ông làm phúc cứu mẹ tôi.

Cậu Tú nghe xong chợt nhớ đến hôm cụ lang dắt cậu lên núi dạy cho cậu tìm cây thuốc và cách dùng. Cây thuốc ấy mọc đầy rừng núi đi vài bước là có. Cậu Tú vui vẻ trả lời:

-  Được rồi, chú đừng lo. Mai chúng ta lên núi hái thuốc. Bây giờ chắc chú vừa đói vừa mệt. Hãy ăn uống nghỉ ngơi lấy sức. Mai hái được thuốc lại còn phải mang về nhanh cho bà cụ dùng.

Cậu Tú và mẹ mời chàng thanh niên ăn cơm, lại còn nhường giường của mình cho chàng ta ngủ.

Sáng cả nhà dậy thực sớm, từ khi mặt trời chưa mọc để sửa soạn đi hái thuốc.

Cậu Tú kể lại tình hình, bệnh trạng của mẹ lúc đau như thế nào và chữa bệnh bằng cây thuốc quí bao lâu thì lành. Hai người mang theo dụng cụ cần thiết và bao tải chuẩn bị đựng thuốc, hớn hở lên núi. Một người hy vọng cứu mẹ, một người sung sướng vì thấy mình giúp được việc cho người khác.

Thanh niên tối hôm qua trông khổ sở tiều tụy quá chừng, nhưng nay thấy cậu Tú đầy tự tin nên cũng bớt lo lắng. Cậu Tú vừa đi vừa nhớ đến cảnh vật trên núi mấy tháng trước, lúc cụ Lang đưa cậu đi hái thuốc. Cậu an ủi thanh niên:

-  Chú đừng lo. Lúc mẹ tôi bị bệnh ấy, tôi còn đau khổ hơn cậu bây giờ, vì cả làng không ai biết cách chữa. Bây giờ chúng ta đã học được cách trị bệnh, và cây thuốc quí này lại mọc đầy rừng, yên trí đi, bệnh của bà cụ thế nào cũng sẽ khỏi. Vừa đi vừa nói chuyện nên chẳng mấy chốc hai người đã lên đến đỉnh núi.

Một điều quái lạ là cảnh vật, trên núi hôm nay hoàn toàn khác hẳn. Hai tháng trước cây thuốc quí đầy hoa, tím cả một vùng trời, thế mà nay chỉ một cây nhỏ một cành hoa cũng không thể nào tìm thấy. Chàng thanh niên t hấy cảnh vật trên núi hoàn toàn trái hẳn với sự mô tả của Cậu Tú nên cũng đâm ra nghi ngờ cho là cậu Tú dối mình để đem mình ra làm trò cười. Còn cậu Tú hết ngạc nhiên đến sợ hãi, chạy đông chạy tây tìm kiếm, lục lọi tất cả các khe núi một cách tuyệt vọng. Cây thuốc quí biến mất không để lại một dấu vết gì. Thuở ấy, dưới danh phận Tú Tài phải là một người học sách thánh hiền, là một văn nhân, là người quân tử biết trọng chữ Tín. Con nhà có học sống theo châm ngôn “Quân tử vô nhị ngôn”, người quân tử không nói hai lời, người quân tử không bao giờ lỗi hẹn, không nói sai sự thực. Nhà nho phạm lỗi này là một đại sĩ nhục. Thế mà bây giờ cậu Tú phạm hết các lỗi.

-   Cậu hứa chữa lành bệnh, cậu nói cây thuốc mọc đầy núi, sự thực không có gì hết. Nhục nhã này nước mấy sông cũng không rửa sạch. Cậu Tú mặt mày, tái xanh, tái xám rồi đỏ ửng, mồ hôi toát ra như tắm. Vừa buồn rầu vừa hổ thẹn, cậu Tú nói:

-   Có lẽ tôi nhớ sai chăng! Có thể không phải là quả núi này . . .

Thế là hai người đi lang thang khắp cả mấyngọn núi lân cận người có thể leo được, Nhưng đâu cũng giống nhau, cây thuốc có hoa tím không hề thấy tông tích bóng dáng đâu cả.

Nhìn thanh niên tuyệt vọng, mệt mỏi thất thểu ra về. Cậu Tú thấy đau đớn buồn phiền, còn hơn lúc mẹ cậu bị bệnh. Vì lúc ấy cậu chỉ thấy buồn khổ chứ không bị cái nhục nhã “quân tử nhị ngôn”!

Cậu Tú về nhà rầu rỉ ăn nuốt không xuống, đêm nằm cũng không ngủ được, cứ mơ màng tưởng tượng đến cảnh hoa tím nở đầy đồng lẫn với cảnh muôn vật đều vàng úa tàn tạ lạnh lùng.

Sáng hôm sau trong lúc đang mơ màng vì quá mệt mỏi. Cậu Tú nghe mẹ gọi đánh thức cậu dậy ra đón cụ Lang Trung vị lương y đã chữa lành bệnh cho bà đã trở lại.

Cậu Tú nghe gọi, mừng quá, vội nhảy choàng dậy, mặc áo chạy ra đón cụ lang Trung. Cậu quên cả chào hỏi khách sáo, vừa thấy mặt cụ là kể lể liên hồi những sự việc vừa xảy ra với cảnh tượng đồng khô cỏ cháy, cây thuốc biến mất cho cụ Lang nghe.

Cụ lang nghe xong tươi cười bảo:

-   Ấy chính vì thế mà tôi lại phải mất công trèo đèo lội suối trở lại đây. Vì có một điều quan trọng nhất mà lúc lên núi hái thuốc tôi quên nói cho cậu biết.

Cậu Tú vẫn còn ngạc nhiên tưởng mình nằm mơ. Cậu đang khổ sở vì cây thuốc thì cụ Lang Trung như có thần linh mách bảo hiện về giải đáp thắc mắc về vị thuốc có hoa tím không tên cho cậu.

Cụ Lang nói tiếp:

-   Bất cứ cây thuốc gì cũng có mùa thu hoạch. Tôi quên nói cho cậu biết là dược thảo này phải hái vào mùa hạ, lúc hoa đang nở rộ. Thu đến hoa tàn cành khô rồi tàn lụi không còn gì nữa. Mùa này cậu lên núi cố nhiên là không thể tìm thấy bóng dáng nó.”

Cậu Tú nghe xong, ngẩm nghĩ một lúc trả lời:

-   Thưa cụ, cây thuốc này chưa có tên mà nó tàn tạ vào cuối mùa hạ, vậy ta cho nó tên là Hạ Khô Thảo được không?

Cụ lang nghe nói đặt tên cho cây thuốc gật gù có vẻ đồng ý:

-   Được bậc khoa cử Tú Tài đặt tên cho thì còn gì bằng. Từ nay Hạ Khô Thảo không còn bị gọi là cây thuốc có hoa tím nữa. Trong rừng hàng trăm cây cỏ mang hoa tím. Ta mừng cho Hạ Khô Thảo được tên đúng y như tính cách của mình.

Cả hai cùng vui cuời vì đã giải thích được thắc mắc. Cụ Lang Trung cho cậu Tú một bao thuốc Hạ Khô Thảo để cậu lập tức mang sang làng bên chữa bệnh cho bà cụ mẹ chàng thanh niên hiếu hạnh. Bà cụ già may mắn nhận được thuốc kịp nên khỏi bệnh.

Và từ đó, cả mấy làng quanh vùng núi sản xuất Hạ Khô Thảo, thêm một công việc mới. Cứ vào cuối mùa hạ họ bắt đầu thu hoạch Hạ Khô Thảo, rửa sạch phơi khô để dành lúc cần,và chở đi bán cho các tiệm thuốc xa khác.

DƯỢC THẢO HẠ KHÔ THẢO (Prunella Vulgario L)

Hạ KhôThảo tháng 8 bắt đầu tàn. Vào hạ khi quả đã chín, hái phơi khô. Tất cả các bộ phận cành hoa và quả đều dùng được. Vị đắng, cay, tính hàn, không độc, vào hai kinh Can và Đảm. Có tác dụng thanh can hỏa, tán uất kết, tiêu ứ, làm sáng mắt.

Thuốc trị loa lịch (tràng nhạc), lỡ loét, mụn nhọt có mủ, giải trừ nhiệt độc ở tử cung.

-   Hiện nay ngoài dùng để trị bịnh hoàng đảm cấp tính, sưng gan, Hạ Khô Thảo còn có tính chất sát trùng nên được dùng để rửa vết thương ngoài da. Bị đánh bị thương dùng Hạ Khô Thảo tươi tán nhỏ đắp vào vết thương.

Trong dân gian, người tacũng cho biết, Hạ Khô Thảo dùng nấu nước uống thay trà còn có tác dụng hạ huyết áp, hay làm bớt các triệu chứng khó chịu của cao huyết áp.

Huyền Thoại

Mạn Đà La

Mạn Đà La một dược thảo có chất độc, từ xưa chỉ chuyên dùng như một vị thuốc tê. Mãi cho đến khi huyền thoại bắt đầu có thêm tên mới là Túy Tiên Đào, công dụng thứ hai mới được đời biết đến. Nhưng mặc dầu tên Túy Tiên Đào được gọi, phần đông người dùng vẫn không biết tên này vì sao mà có.

Huyền thoại xảy ra đúng từ năm nào không thể tra cứu, nhưng phỏng đoán vào khoảng sau nhà Tống.   Một hôm Hoàng Đế lâm triều, các quan văn võ đều quì trước đền tung hô vạn tuế như thường lệ.

Đặc biệt hôm ấy có các Tân khoa vừa thi đỗ Trạng Nguyên.

Theo chế độ khoa cử ngày xưa, người đỗ Tiến sĩ cao nhất, gọi là Trạng Nguyên. Sau đời Nhà Tống, đổi thành ba Tiến Sĩ cao điểm nhất đều được chấm đậu Trạng Nguyên.  

Hoàng đế trông thấy trong các vị tân khoa mặt mày thư sinh bình thường, có một vị mặc áo mão Trạng Nguyên khiêm nhường đứng lẫn vào hàng ngũ Cử nhân, Tiến sĩ đàng xa, trông rất khôi ngô tuấn tú nổi bật hẳn lên. Dáng dấp Trạng Nguyên cũng đặc biệt, thanh cảnh nho nhã, không giống người đàn ông thường. Nhìn Tân Trạng Nguyên như một con chim Phượng Hoàng đứng lẫn với bầy gà trống, nhà Vua vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, cố ý ban thưởng rất nhiều cho các Tân khoa.

Sau khi tất cả mọi người ra về, Vua truyền đòi Trạng Nguyên đến gần hỏi thăm gia cảnh, nhất là muốn biết chàng trai anh tuấn này đã có vợ hay chưa. Trạng Nguyên nghe hỏi có vẻ ngượng ngập, sợ hãi, trả lời rất mơ hồ.

Mặc dầu Trạng Nguyên tỏ ý rằng cha mẹ đã định “đôi bạn” cho mình rồi, nhưng nhà Vua hình như không cần tìm hiểu, cứ phán truyền ý riêng của mình:  

- Tốt lắm, quan Trạng chưa có vợ, ta có Công Chúa con một đang kén chồng. Công Chúa rất nết na xinh đẹp, ta chọn Trạng Nguyên làm Phò Mã, Trạng nghĩ thế nào? Có ý kiến gì khác không?  

Câu hỏi thật là thừa, còn ai dám phản kháng lệnh Vua. Ai có ý kiến gì khác cũng đành chịu. Lời của Vua là “Thánh Chỉ”, ý của vua là mệnh lệnh. Thế là quan Trạng Tân khoa đành phải tuân lệnh Vua làm Phò mã.

Lễ cưới Công Chúa cố nhiên rất huy hoàng với tất cả những lễ nghi phức tạp quan trọng của một vị Công Chúa.

Nhưng riêng Trạng Nguyên dù được làm Phò mã, sẽ kế nghiệp Vua, được ở một chức vị cao nhất sau Vua, cũng không có vẻ vui mừng chút nào. Phò mã buồn, nhưng không ai để ý đến. Tất cả mọi người, từ Vua, Hoàng hậu bá quan, quí tộc cho đến dân chúng, những ai nhìn thấy Phò mã cũng đều công nhận là Phò mã đẹp vô cùng, đẹp hơn bất cứ một tuyệt sắc giai nhân nào trong nước... Tất cả đều chỉ chú ý có thế và bàn tán mãi không thôi.  

Cung điện của Phò mã ở ngay cạnh cung Vua, và cũng rực rỡ huy hoàng không kém. Sau khi nhận lãnh tất cả quà tặng, chúc tụng, Công Chúa và Phò mã được đưa về Cung để nhập động phòng. Nhưng có lẽ vì suốt ngày phải làm đủ các nghi lễ phiền phức mệt quá, nên vừa vào đến phòng riêng là Phò mã lên giường ngủ say đến sáng.

Rồi không những đêm đầu, mà tất cả những đêm sau cũng không hề thay đổi.

Mỗi ngày, sáng Phò mã vào chầu Vua, chiều về đến phòng riêng là để nguyên cả quần áo giày vớ lên giường ngủ say.

Mấy tuần lễ trôi qua đều như thế, Công Chúa cảm thấy tủi thân vì tưởng Phò mã chê mình, nhưng ngượng không tiện hỏi. Công Chúa chỉ còn cách khóc với Mẹ.

Vua và Hoàng hậu biết chuyện “đôi trẻ” chưa hề hành “Chu công chi lễ” cũng rất khó xử, nhưng không biết làm thế nào.

Vua nghĩ mãi không có cách giải quyết bèn mời một vài vị quan thân cận vào cung để vấn kế. Các quan đến, một vị thay mặt tất cả hỏi vua:  

- Tâu Hoàng Đế có lệnh truyền gì?  

- Các quan có biết là Phò mã trong người có bệnh gì mà không được “mạnh khỏe” không ?  

Các quan nhìn nhau ngẩn ngơ, lắc đầu. Vua biết là ai cũng không dám nói gì, sợ lỡ sai lời có khi mất đầu, nên Vua làm ra vẻ hiền hòa hỏi lại:  

- Trong các vị có ai biết làm cách gì làm cho Phò mã lúc đi ngủ chịu cởi bỏ quần áo ra không?  

Câu hỏi có vẻ rõ ràng hơn, nhưng vấn đề thật nghiêm trọng và tế nhị, nên vẫn không ai dám mở miệng phát biểu ý kiến về sự hiểu biết của mình.

Vua không biết làm thế nào, bèn chỉ định một vị lớn tuổi nhất, bắt buộc phải đề nghị một biện pháp để giải quyết tình hình bế tắc.

Vị quan già có vẻ sợ hãi, ấp úng hồi lâu mới dám trả lời:  

- Tâu Hoàng Đế, thần biết một cách có thể làm cho Phò mã thoát y, nhưng thần không dám tâu.  

Vua nghe có cách làm cho Phò mã thoát y mừng quá nên hứa là ông có ý kiến gì cứ nói, dù thành công hay không cũng không tội vạ gì hết. Được hứa hẹn vô tội, vị quan già mới dám đưa ra đề nghị:  

- Xin Hoàng Đế ban một đại yến đãi Phò mã. Trong lúc ăn uống xin cho phép thần ngồi gần săn sóc Phò mã, thần sẽ có cách.  

Vua nghe vui mừng như cất được một gánh nặng, vội truyền dọn tiệc ngay tối hôm ấy để mời vợ chồng Phò mã. Còn vị quan già cũng lo về nhà sửa soạn phương thuốc đặc biệt gia truyền chỉ một mình ông biết, để sẵn thuốc vào ly. Đến giờ dự tiệc, khi Phò mã đến và có lệnh Vua truyền thưởng rượu, ông bèn rót rượu vào ly đặc biệt có thuốc cho Phò mã uống.

Tiệc tan, Phò mã ra về, đầu nặng, mắt hoa vì rượu say và dược chất Mạn Đà La cũng phát sinh tác dụng. Phò mã thấy trong người nóng nảy, bực bội không chịu được, bèn cởi tung cả quần áo lên giường ngủ thiếp mê man.

Công Chúa chỉ đợi có thế, thấy Phò mã ngủ say rồi bèn chạy đến gần giường, vừa nhìn thấy “chồng” nàng giật mình kinh hoảng. Thì ra, Phò mã là một mỹ nhân tuyệt đẹp.

Đêm khuya, cung điện vắng lặng. Công Chúa nhìn người “chồng” đang nằm ngủ trên giường cũng là đàn bà như mình, cảm thấy bị lừa dối nên giận dữ vô cùng. Nhưng sau một hồi suy tư, nghĩ mình bị số kiếp ác nghiệt trêu đùa như thế, nhất định là sẽ bị đem làm trò cười cho cả triều đình. Công Chúa vừa buồn giận, vừa tủi nhục chỉ biết nằm khóc, oán hận thân phận hẩm hiu lạ đời.  

Mãi đến gần sáng, chất thuốc đã tan hết. Phò mã giật mình tỉnh dậy, thấy chuyện bí mật gái giả trai của mình bị phát giác, lại nhìn thấy Công Chúa có vẻ sát khí đằng đằng thì hoảng hốt, không kịp mặc áo, vội quì xuống chân Công chúa xin tha tội.

Đàn bà giả làm đàn ông để làm Phò mã là chuyện chưa từng xảy ra, nếu Hoàng Đế biết được thì tội “khi quân“ là dối Vua sẽ bị chém đầu để làm gương cho dân chúng là cầm chắc.

Công Chúa giận sôi đến nỗi không nói ra lời, mãi hồi lâu mới hỏi được:  

- Cô là ai? Một người đàn bà yếu đuối tại sao lại dám to gan giả trai lừa dối Hoàng Đế. Trưa hôm nay, đầu ngươi chắc chắn là sẽ rơi xuống đất  

Phò mã nghe thế, hồn vía lên mây, run rẩy xin Công Chúa cho phép giãi bày tâm sự. Nhìn “Phò mã” đau khổ kêu xin thành thật, Công Chúa thấy tội nghiệp, bèn cho phép “chồng” được trình bày lý do giả trai, thi đậu Trạng Nguyên và cưới vợ.  

Sự thực, Phò mã nguyên là một gái quê, cô và chồng chăm chỉ học hành đã hơn 10 năm, quyết định năm nay chồng cô sẽ đi thi. Lúc sắp lên đường thì chồng cô bỗng bị bệnh nặng, thầy lang bảo hơn một tháng mới lành. Đôi vợ chồng trẻ ấp ủ giấc mộng về kinh đô thi với những thí sinh giỏi nhất của cả nước để trổ tài. Bây giờ cơn bệnh bất ngờ làm vỡ mộng, vợ chồng chỉ còn khóc và trách số phận không may. Cô vợ trẻ vốn rất thông minh và hiền đức, nghĩ rằng nếu cứ cả ngày  khóc lóc oán trời trách đất cũng không ích gì, mà còn làm chồng buồn khổ hơn, bệnh có thể nặng thêm. Trái lại, nếu cô giải quyết việc thi cử hộ chồng thì hay biết bao! Quyết định xong, cô bèn cải trang thành đàn ông, lấy tên chồng nộp đơn xin thi Tiến sĩ, đầy lòng tự tin.  

Trong suốt thời gian qua, cô vẫn học chung với chồng, cùng bàn luận tất cả những thắc mắc trong vấn đề học vấn nên bao nhiêu văn chương thi phú, kinh nghĩa cổ kim, cô đều thông thạo, chẳng kém gì chồng.

Cuộc thi kết quả, tên chồng cô xếp hạng đậu Tiến sĩ đệ nhất, được lãnh áo mão Trạng Nguyên và được vào chầu Vua. Cô định tâm sau khi vào Triều tạ ơn Vua xong, sẽ đem áo mão về nhà tặng chồng. Cô sẽ làm bà vợ ông Trạng cũng đủ thỏa mãn và hạnh phúc tuyệt vời rồi.

Không ngờ sau khi lãnh yến, Hoàng Đế yêu tài mạo nên gả Công Chúa. Lệnh Vua không dám cãi, bây giờ dù sống cũng như chết, tội cô bị chém đầu cũng đáng, chỉ thương chồng đau, mẹ già ở quê nhà không ai săn sóc. Cô nói xong gục đầu khóc nức nở rồi nói tiếp:  

- Phận làm tôi, một là không được trái lệnh Vua, hai là sợ bị phát giác gái giả trai, mạo danh chồng đi thi, nên đành cắn răng mặc số phận an bài, và cũng vì thế nên sau khi làm Phò mã, đêm nào cũng tỏ vẻ như mệt như say, cứ để nguyên cả áo quần vờ ngủ mê man.

Công Chúa nghe cô Trạng Nguyên kể xong tình cảnh éo le, thái độ hoàn toàn đổi hẳn. Công Chúa không những hết giận, mà còn đâm ra kính phục, ái mộ tài năng của người đàn bà xinh đẹp và đáng thương. Công Chúa nói:  

- Bắt đầu từ đây, chúng ta là chị em. Thôi, chị đừng khóc nữa, mặc quần áo Trạng Nguyên vào, em sẽ giúp chị xin Phụ Vương tha tội.  

Hoàng Đế nghe xong câu chuyện, thấy tình cảnh éo le thương tâm cũng vui lòng theo lời xin của Công Chúa tha tội cho cô gái vừa hiền thục, vừa tài cao. Vua nhận cô làm con gái nuôi. Thế là tất cả thắc mắc, khổ sở, u uất bí mật đều được giải quyết một cách êm đẹp. Mấy hôm sau, Nhà Vua hỏi vị quan đã có công giúp Vua phát giác bí mật:  

- Khanh dùng thuốc gì quí giá mà có tác dụng thần diệu như thế?  

Người thầy thuốc già không dám nói sự thật, vì thuở ấy, người ta chỉ mới biết đến Mạn Đà la là một vị thuốc rất độc, không thể trong uống được, chỉ có thể ngoài  thoa mà thôi, phần nhiều để xoa bóp các chứng phong thấp, cước khí làm khớp xương đau nhức.

Thế nhưng ông quan già này có bản lãnh y dược cao thâm, nên biết được Man Đà La còn có thể dùng như một thứ ma túy. Ông sợ nói tên Mạn Đà La Vua không hiểu được sự linh diệu của thuốc mà nghi là ông muốn đầu độc phò mã, thì ông sẽ bị tội chết. Ông ngần ngại một lúc rồi trả lời:  

- Tâu Hoàng Đế, đấy là một thứ thuốc rất quí hiếm trên đời. Tên nó là Túy Tiên Đào, xưa nay rất ít người dám dùng vì không biết dùng đúng phần lượng.

Vua tin rằng đó là một vị thuốc quý, lại có cái tên cũng sang trọng, đã được dùng làm cô Trạng Nguyên phò mã, con gái nuôi của Vua say chết mệt, thật là xứng người, xứng của. Vua rất vui lòng, nên ban thưởng cho ông quan già nhiều lễ vật.  

Từ đó về sau, tên Mạn Đà La trong sách thuốc được kèm thêm một tên mới: “Túy Tiên Đào”, và  cũng từ đó người ta gọi những người đẹp say mèm là Túy Tiên Hoa. Tên nghe thật kêu và thật lãng mạn.  

Nhưng ở đồng quê , từ thuở xa xưa, người ta đã biết dùng lá cây ấy, cuốn lại hút như hút thuốc để dằn cơn hen suyễn. Và tên nó xưa nay chỉ đuợc gọi rất nôm na là Cây Cà Dược.  

DƯỢC THẢO MAN ĐÀ LA (Datura Metel L.)  

Tên khác: Mạn Đà La – Túy Tiên Đào – Dương Kim Hoa – Cà Dược – Cà Độc Dược  

Mạn Đà La khí ấm, vị cay, có nhiều độc. Cây thường mọc ở đồng hoang, góc vườn, bên vệ đường hay trước sau nhà.

Hoa, quả, cành, hái vào mùa hạ, rửa sạch, phơi khô để dành dùng làm thuốc.

Mạn Đà La có ảnh hưởng đến Phế kinh, trừ thấp khí, khu phong, có chất ma túy làm ảnh hưởng đến thần kinh, làm tê dại ngoài da, chữa ho hen, đàm suyễn, nôn mửa, giảm đau chỗ sưng nhức. Người bị bệnh suyễn đang lên cơn, dùng hoa khô, thái nhỏ cuộn như điếu thuốc mỗi ngày hút 2-3 lần. Cũng có thể dùng lá cuốn lại như thuốc, hút 1-2 gr. mỗi ngày.

Té ngã bầm dập, rắn cắn, dùng hoa tươi tán nhuyễn đắp vào chỗ bị thương hay dùng cành khô tán bột trị té ngã.

Mạn Đà La cũng được dùng nấu nước ngâm chân trị bệnh tê.

Người bị trúng độc Mạn Đà La phát chậm với triệu chứng miệng khô, da đỏ ửng, không đổ mồ hôi, nôn mửa, chóng mặt, cuồng dại.

Muốn cấp cứu, phải rửa ruột, uống nhiều nước, tiêm thuốc an thần.

Dù sao, Mạn Đà La vẫn được coi như một vị thuốc độc nên Trung Y dùng rất thận trọng và không bao giờ cho toa để tránh tai nạn có thể xảy ra.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: