BA THẾ KỶ KHÔNG NGỦ YÊN.

Chiều muộn.

Mặt trời ngả về phía những rặng núi xa xăm, ánh sáng nhạt dần, vạt nắng cuối ngày quét qua từng bức tường gạch cũ, từng tán cây bồ đề già, phủ lên di tích Wiang Kum Kam một màu vàng ươm như mật. Tiếng vó ngựa vẫn đều đều vang lên, lọc cọc trên nền đất nện. Không khí dịu đi, gió từ bãi cỏ hoang tràn vào mát rượi, kéo theo mùi ngai ngái của rêu ẩm, mùi hoa sứ già và mùi đất lâu ngày.

Tiếng vó ngựa lại đều đều vang lên, kéo đoàn xe ngựa rời khỏi nền chùa, vòng ngược trở lại khu khách sạn ven sông.

Khi chiếc xe cuối cùng vừa khuất sau rặng cây, gió đột ngột đổi chiều. Trên nền đất cũ, một sợi tóc dài mỏng manh vướng vào cành sứ già khô khốc. Bóng chiều kéo dài trên bãi đất hoang.

Không ai biết, đồng xu cũ vừa rớm máu kia và tiếng hát ru trong nắng ban trưa chính là lời nhắn đầu tiên của một cái bẫy âm thầm giăng sẵn phía trước...

Tiếng vó ngựa vẫn lộc cộc vang đều giữa lòng Wiang Kum Kam yên ả. Khi cả nhóm trở về khách sạn, mặt trời đã gần tắt hẳn. Ánh chiều nhạt dần sau lưng, chỉ còn lại những vệt nắng hắt nghiêng qua hàng cây bồ đề trước sân. Bọn họ kéo nhau xuống khỏi xe ngựa, người thì xách túi, người cười đùa.

Không khí buổi tối Chiang Mai vẫn mát lạnh, mùi sương và mùi đất đá cổ xưa quẩn quanh trong từng hơi thở. Không ai nói về đồng xu, không ai nhắc về tiếng hát. Chỉ là một ngày dài kết thúc trong tiếng cười và những câu đùa dai bất tận.

Trong cái bình yên ngắn ngủi ấy, chẳng ai hay rằng chiếc bẫy đã chực chờ mở ra.

...

Chiếc lá lài già mà sáng sớm mọi người rời đi còn thấy nằm nơi mép bậu cửa, đến giờ phút này vẫn nằm đúng ở đó, không xê dịch nửa phân. Chẳng ai nói gì, nhưng ai cũng liếc mắt nhìn thoáng qua, trong lòng đồng loạt dấy lên một thứ cảm giác khó gọi thành tên.

Chưa kịp ai về phòng, Pond đã đứng ở hành lang, giơ tay ngoắc mọi người lại, mặt nghiêm hẳn đi:

Pond: Tiện qua bên này chút nhé, có chuyện cần nói.

Không cần giải thích thêm. Cả nhóm lục tục kéo vào. Trong phòng chỉ bật một ngọn đèn vàng nhạt, mùi thuốc lá nhè nhẹ quẩn trong không khí. Pond khóa cửa lại rồi mới quay người, ánh mắt lướt qua từng người một trước khi cất giọng:

Pond: Đàn em tao có mặt ở Chiang Mai từ hôm qua rồi. Chúng nó chia nhỏ bám quanh khách sạn từ sáng sớm, và trưa nay thì có phát hiện.

Dunk lập tức ngẩng đầu, ánh mắt sắc lại:

Dunk: Chiếc innova xanh rêu?

Pond gật đầu, khẽ nhếch mép:

Pond: Ừ. Sáng nó đậu ở bãi đất bên hông khách sạn. Tới trưa thì rút đi. Mấy thằng nhà tao bám theo, nhưng đám này di chuyển rất khéo, đổi điểm liên tục. Còn biển số...

Hắn rút điện thoại, mở mấy bức ảnh chụp cận biển số và xe, lật qua vài lần cho mọi người nhìn.

Prem nhíu mày, tay chống cằm:

Prem: Không tra được à?

Pond lắc đầu, môi mím lại thành đường kẻ lạnh:

Pond: Gửi số về trụ sở rồi. Hệ thống báo biển đó đăng ký cho một chiếc xe tải hỏng, khai báo hủy giấy từ ba năm trước. Xe này là đăng ký giả hoặc xe tẩy biển. Mà đặc biệt hơn... chủ đăng ký cũ cũng không tra ra được. Hồ sơ bị niêm lại, có dấu chỉnh sửa trong dữ liệu. Có ai đó xóa sạch vết từ trong hệ thống.

Cả căn phòng chùng xuống, bầu không khí như đặc quánh lại trong ánh đèn vàng nhàn nhạt. Joong ngồi dựa lưng vào thành ghế, tay khoanh trước ngực, ngón trỏ gõ nhịp từng tiếng đều đều lên khuỷu tay còn lại. Gương mặt hắn tối đi rõ rệt.

Boun đứng gần cửa, vai dựa vào tường, ánh mắt không rời màn đêm ngoài kia, cất giọng trầm đục:

Boun: Nghĩa là bọn chúng biết chúng ta sẽ tới đây.

Pond ngẩng mặt, hất nhẹ cằm:

Pond: Tao nghĩ thế. Không đời nào trùng hợp. Với lại... - Hắn liếc nhìn Dunk: - Tao không có ý nghi ngờ mày nhưng chúng ta cần làm rõ để biết rốt cuộc đám này ở đâu ra, mày có thể nói rõ việc ban đầu mày tìm hiểu để liên lạc với bọn tao như nào hay không?

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía Dunk, Joong theo phản xạ tự nhiên hơi nhích vai lên đứng chắn cho cậu. Đến khi Dunk cầm lấy tay hắn, vỗ nhẹ ý nói "không sao đâu" thì hắn mới lùi xuống.

Dunk: Tao đã tìm những người bắt ấn suốt hơn 300 năm nay, kể từ sau khi Vương triều Ayutthaya sụp đổ.

...

Suốt những năm tháng bất tử của đời mình, Dunk Natachai chỉ mòn mỏi đi tìm những kẻ giữ đồ và những người có thể mang dòng máu của người bắt ấn.

Không một giấc ngủ, không một cái chết, suốt hơn ba thế kỷ, Dunk vẫn sống, chứng kiến vương triều Ayutthaya sụp đổ, kinh đô chuyển về Thonburi rồi Rattanakosin, từng triều đại trôi qua như sóng bạc đầu cuốn sạch mọi dấu vết của một thời máu lửa mà chỉ mình cậu còn nhớ.

Và suốt ba trăm năm ấy, cứ mỗi khi gần tới mốc 108 năm - cái mốc sinh tử mà người bắt ấn sẽ tỉnh lại, cơ hội duy nhất để loại bỏ lời nguyền bằng việc tập hợp đủ tám pháp khí và người bắt ấn tại đất thiêng - cậu lại lao vào cuộc truy tìm sáu gia tộc còn lại.

Nhưng Dunk chưa từng thành công.

Lần đầu tiên, vào khoảng cuối thế kỷ XVIII, khi Ayutthaya đã hoang tàn còn kinh thành mới lập chưa đầy mươi năm. Khi ấy Dunk chỉ mới bắt đầu quen với việc sống ngoài dòng thời gian. Cậu lần tìm lại những gia tộc từng giữ pháp khí, nhưng qua đại loạn, tên họ người xưa rơi rụng, gia phả thất lạc, không ít gia tộc bị diệt tộc hoặc đổi họ trốn nạn. Trong bóng tối hỗn loạn ấy, người duy nhất Dunk tìm được - chính là hậu duệ của gia tộc Chawalitrujiwong, người giữ bình nước thiêng. Một cậu bé mười tuổi được người ông già yếu đưa trốn khỏi một ngôi làng đang bị đám lính tàn quân cướp phá.

Dunk đưa họ đi, giấu trong căn nhà nhỏ bên rừng Bang Kachao. Từ đó, gia tộc ấy đời nối đời đi theo Dunk làm trợ lý. Truyền thừa trong bí mật, từ cha đến con. Người nhà họ biết luật bất thành văn: tuyệt đối không được phép nói với người ngoài về Dunk, về pháp khí, hay về cái nghiệp truyền đời. Dù là khi quyền lực các triều đại lên xuống, hay khi thế giới ngoài kia đổi thay.

Và hiện tại, người kế nghiệp làm kẻ nhận lời nguyền và giữ pháp khí của dòng họ Chawalitrujiwong : Prem Warut cũng vậy. Mang trên mình lời nguyền mất cảm xúc, cậu sinh ra như một người đứng ngoài mọi hỉ nộ ái ố, chỉ lặng lẽ hoàn thành vai trò mà tổ tiên giao lại.

Lần tìm thứ hai - vào giữa thế kỷ XIX, khi Bangkok đã thành đô thị sầm uất, thuyền buôn Tây phương cập bến, và những trận dịch tả hoành hành trong các khu ổ chuột ven sông. Dunk khi ấy đã quá quen với việc dõi theo những tộc họ ẩn mình giữa dòng người hỗn tạp. Cậu lần ra được người của gia tộc Kirdpan, giữ cờ lệnh, nhưng kẻ ấy, một người đàn ông dáng gầy, ánh mắt tuyệt vọng, khi nghe Dunk nhắc đến lời nguyền và việc hợp pháp khí, đã từ chối thẳng thừng.

"Ta không muốn dính dáng tới việc này. Cứ để số phận của tự vần xoay."

Đó cũng trở thành tính cách của người dòng họ này, cho tới đời Nanon Korapat.

Dunk không thể ép. Mốc 108 năm ấy trôi qua trong dang dở, suốt hàng trăm năm không ngủ, những trằn trọc cùng dấu ấn trên cơ thể cậu lại nhức nhối, báo hiệu vùng đất thiêng ấy vẫn chờ ngày người bắt ấn tỉnh lại, nơi ấy chưa từng ngủ yên.

Qua hàng trăm năm, nhiều gia tộc cũng đổi tên, di cư hoặc mai danh ẩn tích. Dunk phải lần từng dấu vết trong các bản chép tay cũ kỹ, trong những lời đồn dân gian, trong những ngôi làng cổ heo hút, thậm chí đào bới cả những ngôi mộ vô danh.

Duy chỉ có một gia tộc mà Dunk chưa từng lần ra dấu vết: gia tộc Tangsakyuen.

Không phải vì họ chết sạch, mà bởi Phuwin - người giữ kinh phật của nhà Tangsakyuen - cũng là kẻ bất tử.

(Còn tiếp)

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip