TRÀNG GIANG


I. Mở bài

Có thể nói Thơ mới là dàn đồng ca đa điệu sầu. Nếu như Chế Lan Viên đau đớn xót xa cho một thế giới "Điêu tàn" hay Xuân Diệu lại luôn bị ám ảnh bởi bước đi của thời gian thì Huy Cận khắc khoải, ảo não trước không gian mênh mông của vũ trụ. Tác phẩm Tràng giang trích trong tập Lửa thiêng thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật của Huy Cận.

II. Thân bài

1. Khổ 1:

- Ngay từ những dòng đầu tiên của bài thơ, Huy Cận đã đưa ta đến một dòng sông mênh mông – tràng giang:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

- Câu thơ nhắc lại tựa đề. Nhà thơ không gọi trường giang mà gọi tràng giang. Hai từ có chung ngữ nghĩa nhưng cách điệp vần "ang" đã góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm hùng, giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, tràng giang tô đậm ấn tượng về dòng sông không chỉ dài mà còn rộng. Và điều quan trọng hơn, tràng giang không chỉ một dòng sông cụ thể mà mang ý nghĩa biểu tượng là dòng sông của muôn đời trong thi ca. Trên dòng sông mênh mang ấy, những con sóng rất nhẹ, rất khẽ nối tiếp vô cùng, vô tận làm xao động lòng người. Câu thơ gợi được cái hồn của dòng sông Hồng thân quen và diễn tả tinh tế cảm xúc của nhà thơ. Những con sóng gợn nhẹ kia chẳng phải là nỗi sầu khôn tả của thi nhân trải dài triền miên như những lớp sóng điệp điệp đó sao? Nỗi buồn lan toả theo chiều rộng của cả không gian và chiều dài của thời gian. Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kỉ 19. Tuy vậy, Huy Cận còn là người rất thích thơ Đường và trân trọng thơ ca truyền thống. Trong sáng tác của ông người đọc dễ dàng nhận ra dấu ấn Đường thi cũng như thơ tượng trưng Pháp. Chất cổ điển trong thơ Huy Cận được thể hiện ở cả nội dung và nghệ thuật. Thể thơ bảy chữ và nghẹ thuật đối được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đối ý chữ không bị câu thúc về niêm luật như trong thơ cổ. Cái mênh mông của dòng sông đối lập và làm tăng cái nhẹ nhàng, nhỏ bé của những con sóng và ngược lại, những con sóng gợn nhẹ khiến dòng sông trở nên mênh mông hơn. Một con thuyền xuôi mái xuất hiện lênh đênh vô định để mặc dòng nước cuốn trôi. Hình ảnh ấy ít nhiều quen thuộc, gợi sự trôi nổi, không định hướng, nỗi buồn về sự chia lìa, xa cách – song song. Thuyền và nwóc vốn là những khái niệm gần gũi nhưng không phải là lúc nào cũng gắn bó. Con thuyền để lại mối sầu trăm ngả:

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

- Câu thơ trước nói đến nỗi buồn, câu sau nói đến nỗi sầu. Dường như đã có sự tăng tiến trong cảm xúc, nỗi niềm. Nỗi buồn không chỉ trải rộng trăm ngả, triền miên theo thời gian - "điệp điệp" mà còn chất chứa cả ở chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn. Dòng sầu như dòng sông mênh mang cuồn cuộn. Dòng tâm tư như tuôn trào hoà vào dòng chảy của những lớp sóng trùng điệp kia. Con thuyền thật nhỏ bé đơn côi nhưng cảm giác ấy đã được đẩy đến mức tận cùng qua hình ảnh

Củi một cành khô lạc mấy dòng

- Huy Cận đã băn khoăn rất nhiều giữa những cách diễn đạt:

Một cánh bèo trôi đã lạc dòng

Một cánh bèo đơn lạnh giữa dòng

Gỗ lạc rừng xa cuộn xiết dòng

Củi một cành khô xuôi lạc mấy dòng

- Để rồi đi đến sự lựa chọn cuối cùng.Nếu như ở 3 câu thơ đầu mang phong vị cổ điển thì câu thơ thứ 4 lại mang nét hiện đại, mới mẻ. Trước đó trong thơ ca Việt nam gần như chưa có sự xuất hiện của cái tầm thường nhò bé vô nghĩa như "củi một cành khô". Hình ảnh ấy gợi liên tưởng về sự biến đỏi đau thương từ một cành cây xanh nơi núi rừng thượng nguồn đến một cành củi khô bập bềnh nơi sóng nước. Người ta cũng thường liên tưởng tới những kiếp người nhỏ bé, vô định trong dòng đời mênh mông.

2. Khổ 2:

- Khung cảnh ven sông vắng vẻ, tĩnh lặng

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

- Nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với từ láy "lơ thơ" đã khơi gợi ấn tượng sâu đậm về sự vắng vẻ, ít ỏi của những cồn cát. Có lẽ đây là dòng sông mùa nước đầy. Cảnh thực nhưng lại mang ý nghĩa biểu tượng. Ta cảm giác con người như những cồn cát nhỏ bé chơi vơi đang bị dòng lũ cuộc đời nhấn chìm dần. Trong khung cảnh ấy thoảng những cơn gió đìu hiu là tăng thêm sự hiu hắt, vắng vẻ. Theo Huy Cận ông học được từ "đìu hiu" trong "Chinh phụ ngâm"

Non kì quạnh quẽ trăng treo

Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò

- Từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" cùng cộng hưởng để gợi sự buồn bã, đơn côi. Văng vẳng đâu đây những âm thanh lao xao từ "chợ chiều" ở một làng xa vọng về. Huy Cận đã viết như vậy nhưng bản thân câu thơ lại khiến người ta có nhiều cách cảm nhận. Cảnh vắng lặng đến tuyệt đối, không chỉ không có sự hiện diện của con người mà còn tuyệt đối không có một âm thanh của sự sống, nghĩa là "đâu có" có thể hiểu là từ phủ định nhưng cũng có thể hiểu là khẳng định. Có lẽ câu thơ gợi sự tưởng tượng phong phú hơn ý tưởng của nhà thơ. Nhưng dù có âm thanh lao xao vọng về thì những âm thanh ấy không làm không gian sôi động mà làm tăng thêm sự tĩnh lặng bởi không gian phải yên tĩnh người ta mới cảm nhận được âm thanh mơ hồ như thế. Thêm nữa, âm thanh vọng lại từ chợ chiều cũng chỉ gợi những gì buồn thương, tàn tạ, vắng vẻ. Phải chăng đó là thủ pháp lấy động gợi tĩnh quen thuộc trong thơ cổ điển. Các hình ảnh, chi tiết, cảnh vật dường như không có sự liên kết, giao hoà, chỉ gắn với nhau trong một biểu hiện chung: gợi những cảm giác buồn bã, hắt hiu:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu

- Hai câu thơ đặc sắc giàu tính tạo hình. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm bởi những từ chỉ chuyển động ngược chiều – xuống – lên. Huy Cận rất tâm đắc với chữ "sâu". Nhà thơ cho rằng cao chót vót thì quá bình thường. Tâm hồn nhạy cảm của thi nhân bắt gặp những khoảnh khắc nên thơ – từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên những khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. "Chót vót" khắc hoạ được chiều cao dường như vô tận. Hai câu thơ tạo nên sự đối nghĩa đặc sắc đầy ẩn ý. Câu 3 gợi sự cảm nhận về bầu trời cao thì câu 4 gợi cảm nhận về dòng sông dài mênh mang. Câu 3 là cảm giác rợn ngợp về độ cao, câu 4 gợi mối sầu dằng dặc. Càng rộng, càng sâu, càng ao thì cảnh vật càng vắng lặng, chỉ có sông dài, bờ bến lẻ loi. Nỗi buồn thấm đẫm không gian ba chiều. Con người như bị hút vào thế giới thăm thẳm, chót vót, rộng lớn vĩnh hằng và không thể không cảm thấy "Lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian" (Hoài Thanh). Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại có lời đề từ:

Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài

- Đó chính là chủ đề của bài thơ – cảm xúc của con người trước không gian vũ trụ. Huy Cận đã dùng cái thực để biểu hiện cái hư ảo khó thấy và dùng cái hư ảo để lột tả tinh thần của cái thực. Nỗi sầu chất chứa của Huy Cận vượt khỏi cõi lòng để nhuộm sầu vũ trụ mênh mang.

3. Khổ 3:

- Vẫn là mối sầu chất chứa được gửi gắm trong không gian vũ trụ, nhưng được khắc sâu hơn qua hình ảnh

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

- Bên cạnh hình ảnh thuyền và nwóc như cùng trôi về cõi vô biên, củi gợi sự bấp bênh thì hình ảnh những cánh bèo trôi dạt được láy lại càng gợi thêm nỗi buồn mênh mang. Cánh bèo quen thuộc trong thơ ca:

Phận bèo bao quản nước xa (Truyện Kiều)

- Có mặt nước để tồn tại nhưng trong thơ Huy Cận ấn tượng về sự xô đẩy vô định được tô đậm hơn. Câu hỏi giữa dòng thơ như xoáy sâu vào cảm giác vô định, hẫng hụt trước không gian mênh mông như tiếng than của những con người chưa tìm được hướng đi "Bâng khuâng đứng trước đôi dòng nước". Dòng sông mênh mông nhưng không có một cây cầu, một con đò:

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

- Đoạn thơ tái hiện bức tranh cảnh thực – trời đã về chiều, chắc không còn ai chèo đò. Bức tranh tuyệt nhiên không một bóng người, không có cả những phương tiện đưa con người đến gần nhau. Vì thế bờ sông bên kia với nhưng màu xanh sắc vàng trở thành biểu tượng cho cái tươi đẹp nhưng không thể với tới được. Nỗi buồn của thi nhân dường như không chỉ là nỗi buồn trước không gian vũ trụ mà còn là nỗi sầu nhân thế và là nỗi buồn trước cuộc đời. Sự cô quạnh đã hiện hữu, được thi sĩ đặc tả bằng chính những cái không tồn tại. Đằng sau đó là khát khao giao cảm với cuộc đời.

4. Khổ 4:

- Mải miết thả hồn theo sóng nước, nỗi buồn lan toả, thi nhân ngước nhìn bầu trời. Dưới ánh hoàng hôn, những đám mây trắng như những ngọn núi bạc. Khung cảnh tráng lệ nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn. Một điều đặc sắc trong thơ Huy Cận là khả năng gợi những suy tưởng, liên tưởng. Khổ 1 dòng sông gợn sóng với nỗi buồn điệp điệp, thi sĩ và mối sầu trăm ngả. Còn ở khổ cuối, "lớp lớp mây cao đùn núi bạc" gợi mối sầu của thi sĩ tầng tầng lớp lớp dâng cao ta ngỡ như dòng sông giăng mắc ngang trời với những lớp sóng cuồn cuộn. Trên nền trời mây trắng ấy hiển hiện một cánh chim bay liệng. Một lần nữa nghệ thuật đối được sử dụng rất thành công. Sự tương phản giữa cánh chim và bầu trời khiến bầu trời cao rộng hơn và cánh chim càng thêm nhỏ bé. Đó cũng là sự tương phản giữa những gì vĩnh cửu trường tồn và những gì hữu hạn, mong manh. Vì thế câu thơ càng thêm buồn. Hình ảnh cánh chim thường gợi khát vọng tự do nhưng cánh chim trong thơ Huy Cận chỉ gợi sự nhỏ bé, yếu đuối, buồn thương và tội nghiệp. Những môi sầu giăng kín, dâng đầy đổ ập xuống đôi cánh bé nhỏ nghiêng đi. Cánh chim không cất nổi mối sầu như sông như núi của thi sĩ. Âm điệu của 2 câu thơ cũng có sự đăng đối. Câu trước vút lên câu sau trầm xuống. Chính trong không gian ấy, nỗi buồn da diết cồn cào, nỗi nhớ đầy vơi như những con sóng trào dâng hết lớp này tới lớp khác. Bài thơ kết lại trong nỗi nhớ quê hương mang đậm chất cổ điển:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

- Câu thơ gợi nhớ Thôi Hiệu: "Nhật mộ hương quan hà xứ thị/ Yên ba giang thượng sử nhân sầu". Thôi Hiệu nhìn khói và sóng mà nhớ quê hương. Còn Huy Cận không cần thấy khói và sóng mà vẫn nhớ quê. Nỗi nhớ không do tác động của ngoại cảnh mà là nỗi nhớ tự lòng người thậm chí có thể nói nỗi nhớ nhuộm sầu ngoại cảnh mang đến tinh thần hiện đại của Thơ mới. Hai chữ "dợn dợn" đã thể hiện được cái nhìn vời vợi hướng về dòng tràng giang cùng cảm giác da diết, khát khao hướng về quê hương, về mái ấm gia đình để vơi bớt, nguôi đi cảm giác cô đơn. Dòng sông càng rộng, nỗi nhớ càng khắc khoải. Huy Cận có phàn nàn trong 10 lần tái bản, nhà xuất bản sai của ông chữ "dợn dợn" thành "rờn rợn" nhưng sự nhầm lẫn ấy có lẽ được tạo nên bởi cảm giác rất thực – cảm giác nhỏ bé cô đơn, rợn ngợp trước vũ trụ mênh mông, vắng lặng mà bài thơ đã gợi ra

III. Kết bài

Cổ kính và trang nghiêm, đậm chất đường thi nhưng Tràng giang vẫn là một bài thơ rất hiện đại và cũng rất Việt Nam với những hình ảnh quen thuộc – dòng sông gợn sóng, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bập bềnh, cánh bèo lênh đênh, cánh chim trong buổi chiều tà nhưng đi suốt bài thơ là nỗi buồn triền miên vô tận – cái buồn toả ra từ đáy hồn. Một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh: "Lượm nhặt những chút buồn rải rác" để sáng tạo nên những vẫn thơ ảo não" (Hoài Thanh). Nỗi buồn đó xuất phát từ quan điểm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn. Theo họ, cái đẹp thường đi với cái buồn. Đồng thời cũng là nỗi sầu của cả thế hệ Huy Cận, cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt dưới thời Pháp thuộc – "nỗi buồn sông núi, nỗi buồn đất nước"

X

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip