Kiến trúc Model - View - Controller trong Swing
1. Kiến trúc MVC
MVC được biết đến như là một thiết kế giao diện người dùng hướng đối tượng khá tốt đã được đưa ra vào khoảng cuối những năm của thập kỷ 1970. Những thành phần được chia thành ba phần: một Model (mô hình), một View(hiển thị), một Controller (Điều khiển). Mỗi thành phần Swing dựa trên một phiên bản mới hơn của Thiết kế này. Trước khi thảo luận về MVC làm việc trong Swing, chúng ta cần hiểu nó được thiết kế ban đầu như thế nào.
Model (Mô hình)
Model chứa đựng trạng thái dữ liệu của mỗi thành phần. Có những mô hình khác nhau cho những thành phần khác nhau. Ví dụ, model của một scrollbar có thể chứa thông tin về vị trí hiện tại có thể điều chỉnh được "thumb", giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn nhất của nó, và độ rộng của thumb (quan hệ với dãy giá trị). Một menu lại khác, nó có thể đơn giản chỉ chứa một danh sách các menu item mà người dùng có thể chọn.
Model chịu trách nhiệm nắm giữ tất cả các thể hiện của trạng thái của thành phần. Ví dụ, những giá trị như trạng thái nhấn hoặc không nhấn của một button, và dữ liệu ký tự của một thành phần text cũng như thông tin về việc nó có cấu trúc như thế nào. Một Model có thể chịu trách nhiệm với việc giao tiếp một cách gián tiếp với View và Controller. Gián tiếp có nghĩa là Model không biết View và Controller của nó - nó không duy trì hoặc tìm kiếm các dẫn xuất đến chúng. Thay vào đó, Model sẽ gởi đi những khai báo hoặc những broadcast (những gì chúng ta biết là những sự kiện).
View (Hiển thị)
View liên quan đến việc bạn nhìn thấy thành phần trên màn hình như thế nào. Đây chính là thành phần "look". Một ví dụ dễ thấy hiển thị có thể khác nhau như thế nào, hãy nhìn vào một ứng dụng Windows trong hai platform GUI khác nhau. Hầu hết frame của cửa sổ có một thanh tiêu đề nằm trên đỉnh của cửa sổ. Tuy nhiên, thanh tiêu đề có thể có một nút close ở phía bên trái như trong platform MacOS, hoặc nó có thể có một nút close ở phía bên phải như trong platform Windows. Đó là những ví dụ những kiểu hiển thị khác nhau của cùng một kiểu đối tượng cửa sổ.
View xác định việc hiện thị trực quan của Model của thành phần. View chịu trách nhiệm giữ việc thay thế nó trên màn hình luôn được cập nhật, nó có thể nhận những thông điệp gián tiếp từ Model hoặc những thông điệp từ Controller.
Controller (Điều khiển)
Controller là phần kết nối với giao tiếp người dùng để ra lệnh cho thành phần tương tác như thế nào với những sự kiện. Những sự kiện đến từ nhiều trường hợp - ví dụ, một click chuột, sự kiện bàn phím bắt đầu một lệnh menu cụ thể, hoặc thậm chí một lệnh vẽ lại một phần của màn hình.
Controller chịu trách nhiệm xác định thành phần nào tác động lại bất kỳ sự kiện nào từ thiết bị input như bàn phím và chuột. Controller chính là "feel" của thành phần, và nó cũng xác định hành động nào được thực thi khi thành phần được sử dụng. Controller có thể nhận thông điệp từ View, và những thông điệp gián tiếp từ Model.
Hình dưới chỉ ra Model, View, Controller làm việc với nhau như thế nào để tạo ra một scrollbar. Model nắm giữ những thông tin về giá trị min và max. View xác định chính xác vẽ scrollbar như thế nào và vẽ ở vị trí nào. Cuối cùng, Controller chịu trách nhiệm xử lý các sự kiện chuột. Kết quả là một scrollbar mang đầy đủ chức năng của MVC
HINH'
2.Sự tương tác trong MVC
Với MVC, mỗi yếu tố Model, View, Controller yêu cầu những dịch vụ của những yếu tố khác để giữ bản thân nó tiếp tục được cập nhật.
Ví dụ, giả sử rằng chúng ta có một checkbox được check trong giao diện. Nếu Controller xác định người dùng thực hiện một click chuột, nó có thể gởi một thông điệp cho View. Nếu View xác định rằng click xảy ra trên checkbox, nó gởi một thông điệp cho Controller.Controller cập nhật lại Model dựa trên sự kiện nhận được. Model sau khi cập nhật bản thân nó và thông báo một thông điệp, sẽ được nhận bởi View, để thông báo với View rằng nó phải cập nhật lại bản thân nó dựa trên trạng thái mới của Model. Tại đây có một vòng quay liên tục được lặp lại. Theo cách này, một Model không hạn chế một View hoặc Controller cụ thể, điều này cho phép chúng ta có nhiều View và Controller khác nhau thực thi một Model.
HINH'
3.MVC trong Swing
Swing thật sự sử dụng một kiểu riêng đơn giản của thiết kế MVC gọi là Model - Delegate. Thiết kế này kết hợp View và Controller vào trong một yếu tố đơn là UI delegate, sẽ vẽ thành phần trên màn hình và xử lý những sự kiện GUI. Kết hợp khả năng đồ họa và xử lý sự kiện là một chút dễ dàng trong Java, khi hầu hết việc xử lý sự kiện đã được thực hiện cẩn thận trong AWT. Như bạn có thể mong đợi, việc giao tiếp giữa Model và UI delegate sau khi kết hợp được chỉ ra ở hình dưới.
HINH'
Hãy nhìn lại: mỗi thành phần Swing chứa một Model và một UI delegate. Model chịu trách nhiệm cho việc nắm giữ thông tin về trạng thái của thành phần. UI delegate chịu trách nhiệm nắm giữ thông tin về việc vẽ thành phần trên màn hình như thế nào. Thêm vào đó, UI delegate (tập hợp với AWT) tương tác lại với những sự kiện riêng biệt để truyền lại thông qua thành phần.
Chú ý việc chia lại của Model và UI delegate trong thiết kế MVC là một sự thuận lợi cực kỳ. Một diện mạo duy nhất của kiến trúc MVC là khả năng hiển thị nhiều tầng (multi tie) cho một cùng Model. Ví dụ, nếu bạn muốn hiển thị cùng dữ liệu trong một biểu đồ và trong một bảng, bạn có thể dựa trên việc hiển thị của hai thành phần trên cùng một mô hình dữ liệu duy nhất. Theo cách này, nếu dữ liệu cần được thay đổi, bạn có thể chỉ sửa nó ở một nơi - View sẽ cập nhật lại bản thân chúng tương ứng. Theo cùng cách như thế, việc chia ra những thành phần đại diện từ Model sẽ cho người dùng thêm tiện lợi của việc chọn lựa một thành phần nào để xem mà không hề ảnh hưởng đến dữ liệu của nó. Bằng việc sử dụng hướng đi này, trong kết hợp với thiết kế lightweight, Swing có thể cung cấp mỗi thành phần với những cảm quan pluggable của nó.
(Nguồn :Java VietNam)
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip