Chuyện Lẻ Bên Dòng Sầu (phần 1)

Ở một xóm nhỏ ven bờ sông Sầu, nơi mà theo kế hoạch thì chỉ vài năm nữa sẽ thành một khu du lịch nổi tiếng. Giữa bốn bề công trình, lô cốt bủa vây, có một ngôi nhà nhỏ nằm chơ vơ, trong khi những gia đình khác đã khăn gối đi tìm nơi khác sống. Một đám tang vắng lặng đang diễn ra, trên di ảnh là gương mặt người đàn bà đang cười, nét cười tạc nên vẻ khắc khổ của người đã quen đời nắng gió. Cạnh bên là di ảnh chồng bà, với cái mũi cao cùng đôi mày rậm, ông làm gợi nhớ đến một tài tử phong lưu.

Con trai của họ đang quỳ bên quan tài, cậm cụi thả vào cái thau nhôm mấy tờ vàng mã. Gương mặt anh ta lạnh tanh, không biểu cảm chút cảm xúc gì, đôi lúc anh ta lại đi vòng quanh hai chiếc quang tài vì những tiếng lọc cọc từ nó phát ra. Trước sân chẳng có ai thân thích, chỉ có đôi bợm nhậu anh ta ngoắc vào ngồi chơi cho có bạn. Trên cái võng sau nhà, sư thầy nằm chèo queo với cái khăn lạnh trên trán, hai cục gòn còn đỏ màu máu nằm trong mũi. Sau khi tụng đến câu thứ năm trong bài kinh Địa Tạng thì sư thầy bỗng ngã ra, nằm mê man, thành ra chỉ có mỗi cái máy phát là vẫn rè rè "nam mô a di đà phật", chứ từ ngày dựng rạp đến tận bây giờ vẫn chưa bài kinh nào được đọc cho tròn vẹn.

Đám tang đó là của đôi vợ chồng già, nguyên nhân cái chết vẫn còn nằm trong xấp hồ sơ trên công an phường và trong trí nhớ của hai người con trai. Người chồng tên Năng, thứ bảy, còn người vợ tên Điệp, người ta gọi bà bằng thứ vị bên chồng là Bảy Điệp. Có lẽ cái chết này cũng là một sự giải thoát, bà Bảy Điệp đã nhiều năm bệnh nặng phải nằm liệt giường, khi tỉnh khi mê, lúc quên lúc nhớ, đôi khi bà còn ú ớ như đứa trẻ vừa tập nói.

Ba mươi năm trước đây, thời còn con gái, người ta gọi bà là cô Tư Điệp. Tư Điệp từ nhỏ đã theo ghe chở gạo đi tứ phương, sau này lấy mối man rồi về quê nhà mở tiệm gạo bán cho bà con chòm xóm. Rồi từ đó, một tay Tư Điệp mở rộng kinh doanh, đưa danh hiệu gạo Phù Nguyên đi khắp mọi miền trên cả nước, làm bà con dòng họ nở mày nở mặt. Nhưng đổi lại, Tư Điệp đã để lại tuổi xuân của mình trên sông, cho đến năm ba mươi, Tư Điệp vẫn chưa yên bề gia thất. Dù nhiều người đến dạm hỏi nhưng cô đều lắc đầu không chịu, cha mẹ Tư Điệp vào ra cứ than ngắn thở dài.

Tư Điệp vẫn còn chờ. Cô chờ chàng phóng viên trẻ từng xin đi nhờ ghe gạo đến miệt quê nào đó để lấy cảm hứng viết bài. Chuyến ghe này đã bén nổi nhớ vào lòng Tư Điệp, khi người thanh niên đó giới thiệu mình tên Năng, rồi ngẫu hứng ngâm tặng Tư Điệp một bài thơ còn chẳng nên vần. Bài thơ tả Điệp như đóa hoa lục bình, đẹp dịu hiền giữa dòng sông vẩn đục, và kết bài, anh ta không quên chèn thêm vài câu thề hẹn. Chỉ một chút đó thôi, nhưng đã gieo vào lòng cô gái sống kiếp phiêu bạt một niềm thương âm ỉ.

Khi ghe cặp bến, Tư Điệp đã chạy theo bóng lưng Năng một đoạn dài, chỉ để dúi vào tay anh một mẫu giấy nhỏ. Cô dặn "nhà tui ở đây, kế cái ruộng bỏ không có cái nhà mái ngói nhỏ nhỏ, tía tui có nuôi bầy vịt, vườn có trồng ba cây ổi. Anh nhớ nghen, đừng có lại kiếm nhầm nhà nghen."

Năng chỉ gật đầu, rồi quẩy ba lô đi tuốt luốt. Điệp đứng lại trông theo bóng lưng Năng, gọi với theo "nhớ đó nghen, tui đợi anh!"

Cũng sau chuyến ghe này Tư Điệp quyết định dừng sống đời nổi trôi như lục bình, và đợi. Mỏi mòn đến năm Tư Điệp ba mươi lăm, chàng phóng viên năm nào mới lưu lạc đến trước nhà cô để xin được phỏng vấn. Anh ta thậm chí còn chẳng nhận ra cô, chỉ toàn hỏi cô những câu ráo hoảnh. Sau khi dằn lòng mình để trả lời anh, Điệp bật khóc nức nở hỏi: "Anh còn nhớ tui hông? Điệp nè.."

Năng có chút bất ngờ, nhưng vẫn trả lời với giọng ráo hoảnh lạnh tanh:

"Điệp nào?"

Tư Điệp càng nức nở hơn, cô chẳng biết phải nói gì khi vỡ ra người cô đang chờ chẳng hề lưu tâm những gì anh ta đã nói. Từng chữ từng dòng trong bài thơ Năng đã tặng Tư Điệp đều nhớ, vậy mà anh ta lại quên. Buộc miệng, Tư Điệp đọc lại đôi dòng. Năng cũng "à" một tiếng dài, rồi cười, anh trả lời: "Tôi cũng chưa vợ đâu cô"

Tư Điệp chỉ nghe tới hai chữ "chưa vợ" đã chen vô: "Rồi sao?"

Năng gãi gãi đầu, nói lí nhí: "thì để tôi đền cô"

Điệp đỏ mặt bụm miệng cười mà nước mắt không ngừng rơi, rốt cuộc thanh xuân của cô cũng đã được đền đáp.

Sau ngày đó hai tháng, Năng dẫn cha mẹ đem trầu cau đến dạm hỏi. Vào một ngày đầy nắng, Tư Điệp theo Năng về quê chồng, lấy luôn thứ vị của chồng thành Bảy Điệp. Năm đầu sinh một con trai, đặt tên Cả, hai năm sau lại sinh thêm một thằng cu, đặt tên Mẫn.

Vẫn tưởng cuộc sống sẽ ấm êm, nhưng đến năm Bảy Điệp bốn mươi thì chồng bà sinh tật, Bảy Năng đem đồ đạt đất đai cầm cố để đu theo chứng khoáng. Bong bóng nổ, thị trường sập, chuỗi cửa hàng gạo cùng cơ ngơi mà Bảy Điệp một tay gầy dựng trong chốc lát tan biến. Ông Bảy Năng vì cú shock thua lỗ mà ảnh hưởng tâm lý, luôn cáu gắt và nhiều lần dọa tìm đến cái chết. Hai đứa con còn quá nhỏ, không thể để chúng thất học. Cùng đường, Bảy Điệp phải quay lại chốn cũ, theo ghe gạo làm thuê kiếm tiền.

Năm Bảy Điệp năm lăm, sau nhiều năm theo ghe thương hồ chở gạo, đóa hoa lục bình năm nào cũng đã tàn rụng. Bảy Điệp bất ngờ đột quỵ, ngã sông. May bữa đó nước ròng, người trên ghe cứu được bà, nhưng lại không cứu được sức khỏe của bà. Từ đó bà nằm liệt giường, tiền bạc tích góp được cũng vơi dần. Ông Bảy Năng phải xin đi làm bảo vệ, hai đứa con thì cũng bỏ học ngang để đi làm phụ hồ kiếm tiền.

Thằng Cả khi đó mới mười tám, vừa xong phổ thông, còn thằng Mẫn mới mười sáu, nhưng nó đã bỏ học khi vừa học xong tiểu học. Tính thằng Cả thì trầm, nghĩ trước làm sau, đa mưu cũng đa sự. Còn thằng Mẫn thì ngược lại, nó nóng như lửa, làm rồi mới nghĩ. Nó thích đi, chẳng mấy khi có mặt ở nhà. Nhưng ở nhà thì nó với thằng Cả kiểu gì cũng kiếm chuyện để đánh nhau, hai anh em như chó với mèo.

Từ ngày bà Bảy Điệp bệnh, nó càng đi nhiều hơn, có khi nhiều tháng liền nó chẳng thèm về nhà mà ngủ bờ ngủ bụi, lang thang đầu đường xó chợ. Khi về nó dúi vào tay ông Bảy xấp tiền, ăn vội chén cơm rồi lại bỏ đi biệt tích. Ông Bảy không nói năng gì, thằng Cả cũng không. Ba người đàn ông ở chung nhà như ba con cá đang bơi ngược dòng, mạnh ai nấy bơi, đôi khi liếc nhìn nhau một cái rồi lại cắm đầu bơi. Bởi vì cả ba đều biết, chỉ cần sơ xảy một chút thì sẽ lạc đàn, trôi mất.

Năm bà Bảy Điệp sáu mươi, thằng Mẫn trở về nhà sau một năm lang bạt. Căn nhà đã chẳng còn gì ngoài những khoảng không trống trãi. Đồ đạc đều đã bị ông Bảy Năng đem bán, chỉ để lại vài vật dụng cần thiết trong nhà. Và nhà lại có thêm một nhân khẩu, một người đàn bà lạ mặt ngoài năm mươi tự xưng là giúp việc do chính ông Bảy dắt về để chăm sóc bà Bảy Điệp. Bà ta tự giới thiệu mình tên Thụy, chỉ có vậy, còn quê quán hay tuổi tác có hỏi thêm cũng không trả lời. Cố hỏi thì mặt bà ta sẽ ì ra, chầm dầm, rồi bỏ đi tuốt luốt.

Cả về, thấy thằng Mẫn nó lườm một cái rồi đi tuốt ra sau nhà. Mẫn đưa tay lên miệng huýt sáo, gọi với theo: "ê anh ruột, ra đây nói chuyện chút coi"

Từ sau nhà, tiếng thằng Cả vọng ra: "muốn nói gì vô đây"

Mẫn ra sau nhà thì bắt gặp anh nó đang ngồi chồm hổm với tô cơm trên tay, Cả ngoắc ngoắc kêu nó lại gần, rồi nói: "mày tính hỏi chuyện bà Thụy phải không?"

Mẫn gật đầu. Cả lại nói tiếp: "ông già dắt bả về, tao đi làm cả ngày cũng không biết gì nhiều... nhưng nhìn cử chỉ của ổng bả, tao đoán bà Thụy là bồ nhí của ông già"

Mẫn trầm ngâm một lúc lâu rồi nói: "kệ ổng, ổng chịu lo cho mẹ là được"

Cả đặt tô cơm xuống đất, nó kéo thằng Mẫn lại gần, ghé tai Mẫn thầm thì: "lo lắng gì, mẹ có của để dành, ổng dắt bà này về để bả dụ mẹ chỉ chỗ giấu của." Mẫn nghe xong liền đập tay xuống đất, nó lớn tiếng: "cái gì...", Cả nhanh tay bụm miệng nó lại.

Cả nói: "nhỏ thôi, để tao kể... tao thấy bả đút cháo cho mẹ, rồi bả kêu mẹ chỉ chỗ giấu cái gì đó. Tao nghĩ chắc vàng."

Mẫn hỏi: "làm sao bả biết mẹ có của, tui với ông còn chưa biết"

Thằng cả đã định lên tiếng trả lời, nhưng nó thấy bóng ông Bảy Năng đang bước vào nên nín lặng. Mẫn định hỏi thêm nhưng Cả ra hiệu đừng nói, nó hất mặt liếc liếc ý nói ông Bảy kìa. Nhưng Mẫn không ngừng, nó quay sang lớn tiếng hỏi cha nó:

"Bộ mẹ có của để dành hả cha?"

Ông bảy trân người một lúc lâu rồi mới cau mày trả lời:

"Làm gì có, ai nói?"

Mẫn nói: "thì con nghe... ", nhưng chưa kịp nói hết câu thì thằng Cả chen vô: "nãy con nghe bà chủ ghe nói, con có kể lại với thằng Mẫn."

Mặt ông Bảy ì ra, chầm dầm, ông gắt lên: "bà già xàm xí, làm gì có"

Thằng Cả nhỏ nhẹ: "dạ con cũng thấy bả nói xàm, cha đi tắm đi, để con vô thăm mẹ rồi tắm sau.", rồi nó đi lấy quần áo, không quên dành cho thằng Mẫn một cái liếc mắt sắt lẹm.

Thằng Mẫn bụm miệng cười, nói với theo, đủ để thằng Cả nghe thấy:

"Cái thằng mép ruồi"

Lần này Mẫn không rời đi mà chọn ở lại, nó nhìn thấy cơn bão đang chuyển mình phía trước nên quyết định dừng chân đón bão.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip