Nội Dung


I. MỸ THUẬT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1986

1. Bối cảnh lịch sử

Sau 30 năm liên tục chiến đấu, ngày 30 tháng 4 năm 1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Đất nước ta bắt đầu một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên xây dựng đất nước.

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 – 1975) kết thúc thắng lợi, hoà bình được lập lại, đất nước độc lập thống nhất về mặt lãnh thổ, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đất nước đang lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế – xã hội, do "sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện"

2. Vài nét về mỹ thuật Việt Nam giao đoạn 1975-1986

Mỹ thuật Việt Nam giai đoạn 1975-1986 là một giai đoạn rất đặc biệt của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.

Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1975 đã hội tụ thành một dòng chảy lớn mà thành tựu đã được ghi nhận bằng vô số những cuộc triển lãm lớn của cá nhân, của nhóm, .. và nhất là triển lãm mỹ thuật toàn quốc mở đều đặn năm năm một lần, điều này chứng tỏ rằng khuynh hướng con đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam khi đất nước thống nhất đã được quan tâm hơn, chú trọng hơn rất nhiều, mở ra một hướng đi lên mạnh mẽ của nền mỹ thuật. Đến đây mỹ thuật đã có dấu hiệu của sự chuyển mình từ một nền mỹ thuật gắn bó với chiến tranh đang bước sang phản ánh cuộc sống hoà bình xây dựng xã hội chủ nghĩa như tác phẩm: " Phố cổ " (Bùi Xuân Phái) đây là tác phẩm được vẽ bằng sơn dầu, diễn tả một góc nhỏ phố cổ của Hà Nội, là đề tài luôn được Bùi Xuân Phái say mê khám phá, sáng tác. Những cảnh phố vắng với những đường nét xô lệch, mái tường rêu phong, những đầu hồi và mái ngói đen sạm màu thời gian luôn xuất hiện trong tranh của ông.
Tranh của hoạ sỹ gợi cho mỗi người đi xa luôn khát khao, cảm nhận được nỗi thiếu vắng Hà Nội một cách sâu sắc. Đằng sau những hình ảnh ngõ Phất Lộc, cây đa cổ thụ ở ngõ Gạch hay ngõ Hàng Mắm.. người xem tìm thấy vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội qua những thăng trầm của lịch sử. Vì thế, người yêu nghệ thuật đã đặt tên gọi cho những tác phẩm về phố cổ Hà Nội của ông là " Phố phái ".

Ngoài Bùi Xuân Phái còn rất nhiều hoạ sỹ khác nữa, với các tác phẩm mang nội dung cuộc sống hàng ngày bình dị: Điện về bản (Hà Cắm), Bộ đội về bản (Trần Lưu Hậu), Ngày vui có Bác (Xuman)..

Bộ đội về bản, 1975, tranh lụa của Trần Lưu Hậu

Sau 5 năm đất nước bước vào kỷ nguyên mới, triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1980 thực sự là một cuộc hội tụ lớn của nghệ thuật tạo hình cả nước, là một bước tiến nhảy vọt, bộc lộ tiềm năng sáng tác mới hứa hẹn bước phát triển mạnh mẽ trong những năm tới - nhất là về mặt ngôn ngữ nghệ thuật. Tiêu biểu một số tác phẩm như:Tượng Bác Hồ bên suối Lênin (Diệp Minh Châu), Mẹ liệt sỹ (Hoàng Trầm), Đảo tiền tiêu (Tạ Quang Bạo)..

Mẹ liệt sĩ, màu nước Hoàng Trầm,1978

Đảo tiền tiêu, 1980, Tạ Quang Bạo, tại bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

Ngày nay vẫn không ít nhiều tác giả vẫn đang rất say sưa với đề tài cách mạng, tình cảm, tình quân dân, tuy cuộc kháng chiến đã qua những ký ức

trong một số người hoạ sỹ lão thành vẫn còn như ngày nào. Họ một phần phục hồi lại ảnh cũ, một phần họ vẽ theo sự hồi tưởng, ký ức của chính mình Không riêng nội dung thay đổi mà chất liệu mỹ thuật thời nay cũng đa dạng, phong phú hơn rất nhiều, các hoạ sỹ hầu như không bị gò bó vào một khuôn

khổ nào, họ thoả thích sáng tác, chất liệu mỗi người một khác nhau: mau

dầu, sơn dầu, phấn màu, mực nho, mực bột, sơn mài.. sự đa dạng của chất

liệu, đã nâng cao phong phú cho các tác phẩm.
Sau đại hội Đảng thứ 6 (1986) khẳng định đổi mới chiến lược cách mạng mở cửa đất nước, làm bạn với các nước, chuyển dần sang kinh tế thị trường, mọi người, mọi ngành phải " tự cởi trói " thì mỹ thuật cũng cuốn vào dòng chảy ấy với sự nỗ lực của cả thế giới, của từng người.

Ở miền Nam, Sau khi thống nhất đất nước, trong bối cảnh cả nước vẫn sống trong nền kinh tế bao cấp tập trung, Sài Gòn-Tp HCM có lực lượng họa sĩ xuất thân từ các nguồn đào tạo hết sức khác nhau, từ các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungary, Ba Lan, Trung Quốc, và từ các nước tư bản như Pháp, Mỹ, Ý, Anh, Nhật...

Riêng miền Nam đang liên tục tiến hành cải tạo xã hội và xây dựng xã hội mới mà dân Sài Gòn và giới văn nghệ sĩ tại chỗ còn quá xa lạ. Vì thế mà rất nhiều người cầm cọ thời bấy giờ, bị đi cải tạo, hoặc bỏ vẽ. Số còn lại trở nên rụt rè trước hoàn cảnh xã hội thay đổi. Trong suốt thời gian này hầu như không có cuộc triển lãm tranh tượng của cá nhân, hay tổ chức tư nhân nào, mà chỉ có những cuộc triển lãm chung do Hội Mỹ thuật Thành Phố, hoặc Hội Mỹ thuật Việt Nam tổ chức cho các họa sĩ vẽ theo chủ đề, theo định kỳ mỗi năm, hay 5 năm một lần.

3. Hình tượng phong cách nghệ thuật của mỹ thuật Việt Nam giai đoạn 1975-1986

Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 1976 là nơi hội tụ tài năng trên khắp các miền đất nước, thực sự bắc nam một nước, văn nghệ một nhà. Nền nghệ thuật tạo hình lại một lần nữa thay đổi da thịt.

Những nội dung, đề tài về cuộc sống hòa bình, lao động sản xuất, xây dựng đất nước được truyền tải trong tranh, tượng. Chiến tranh đã đi qua, những kí ức kỉ niệm, hậu quả để lại của chiến tranh vẫn còn hằn sâu, khó phai mờ trong năm tháng. Nó được biểu hiện ở nhiều loại hình nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật tạo hình. Nhiều tác phẩm về đề tài chiến tranh ra đời.

Thời kì đầu với niềm vui chiến thắng thống nhất đất nước, tượng chủ yếu là ca ngợi, là hân hoan với chiến thắng, là sự vui mừng gặp nhau sau ba mươi năm xa cách..... Như trong tác phẩm "Nắng tháng năm"- 1975, bột màu của Quách Phong.

Sau niềm vui là sự trăn trở, day dứt nhớ về những mất mát hi sinh của bạn bè đồng đội. Tất cả những điều đó cũng được đề cập trong nghệ thuật tạo hình. Bằng tác phẩm nghệ thuật, các nghệ sĩ đã xây dựng những đài tưởng niệm, tôn vinh sự vĩ đại của các anh hùng, liệt sĩ. Ta có thể thấy các điều đó qua rất nhiều các tác phẩm điêu khắc hội họa.

Nắng tháng năm, 1975, bột màu, Quách Phong

QUÁCH VĂN PHONG - Sài Gòn Giải phóng. 1975 -1982. Sơn mài. 120x240cm

Trong suốt thời gian này (1975-1986), mỗi năm có không hơn 20 cuộc triển lãm tập thể và khuynh hướng sáng tác chủ yếu là theo các đề tài kháng chiến, lao động sản xuất tại các hợp tác xã, nhà máy, các cuộc cải tạo xã hội. Ngôn ngữ thể hiện không còn đa dạng mà chủ yếu là hiện thực, ấn tượng hay tượng trưng; chưa có ai dám sáng tác theo khuynh hướng trừu tượng.

Với sự hoà nhập thực sự của nghệ sỹ hai miền Nam - Bắc và sự có mặt của các hoạ sỹ lão thành: Nguyễn Văn Tỵ, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Tự Nghiêm.. đã góp phần làm cho mỹ thuật Việt Nam có sự phát triển hẳn lên, có sự tìm tòi là dấu hiệu của việc đổi mới nghệ thuật, báo hiệu trước cho sự đổi mới của xã hội một xã hội văn minh - giàu mạnh.

Mốc thời gian này là chuẩn bị cho nền mỹ thuật nước ta bước sang hời kỳ đổi mới.

II. CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP NHÀ ĐIÊU KHẮC TẠ QUANG BẠO

1. Cuộc đời của nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo

Tạ Quang Bạo (sinh ngày 25 - 5 - 1941) quê xã Hà Lâm, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, ông tốt nghiệp Trung cấp khoá I (1959- 1963) và Đại học Mĩ thuật Công nghiệp Hà Nội khóa II (1967 - 1971); hội viên ngành điêu khắc Hội Mĩ thuật Việt Nam từ năm 1977.

Chân dung nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo

Nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo đã từng làm cán bộ Viện bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam (1963- 1967); Bộ đội chiến trường Khu V, công tác tại Đoàn Văn công, làm Báo và Tạp chí Quân khu (1971- 1975); Phó giám đốc Xưởng Mĩ thuật Quân đội (1980- 1985); Hoạ sĩ trưởng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (1985- 1992); Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Hội đồng nghệ thuật khoá II (1983- 1989), Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật chuyên ngành điêu khắc Hội Mĩ thuật Việt Nam khoá V (1999- 2004) và khoá VI (2004- 2009). Trong quá trình công tác, ông được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba; Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Ba; Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba; Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp Mĩ thuật Việt Nam; Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng.

Nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo là nghệ sĩ quân đội thuộc thế hệ kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông có nhiều tác phẩm điêu khắc và tượng đài lớn được xây dựng trên nhiều vùng miền của đất nước. Nhiều tác phẩm, công trình của ông có nội dung về hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, ngôn ngữ điêu khắc có nhiều tìm tòi, sáng tạo, mạch lạc, hoành tráng, khoẻ khoắn, mang tính thời đại và có giá trị nghệ thuật cao.

2. Sự Nghiệp của nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo

Tác phẩm của nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo đã được tặng Giải thưởng Triển lãm Mĩ thuật Toàn quốc: Giải A năm 1980 và Giải B năm 1976; Giải Nhất Triển lãm 10 năm Điêu khắc Toàn quốc năm 1983; Giải A Triển lãm Mĩ thuật về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng năm 1984. Năm 2001 nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo đã được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt I cho các tác phẩm: Tình hữu nghị Việt- Lào (buộc chỉ cổ tay) - Tượng đài- cao 3m (1980); Tượng đài Nghĩa trang Buôn Mê Thuột - cao 7m (1994); Tượng đài chiến thắng Nha Trang - Đá - cao 8,5m (1997); Tượng đài Chiến thắng Xuân Trạch, Vĩnh Phúc- Bê tông - cao 16m (1996); Đảo tiền tiêu - Tượng đồng gò - cao 2m (1980).

Tượng của Tạ Quang Bạo đa dạng về đề tài: Từ cổng làng, chân dung, rừng kêu cứu... Anh tự thú, thứ hấp dẫn anh hơn cả vẫn là đề tài về nhân dân. Tuy nhiên, nếu ai đó bước chầm chậm vào cõi siêu thực của Tạ Quang Bạo sẽ thấy rất nhiều đàn bà trong tượng của nhà điêu khắc, từ những đề tài gần như không liên quan như Rừng kêu cứu đến những đề tài đương nhiên dính dáng: Dòng suối cạn, Hoa sống đời, Giao duyên...

Nếu tượng Lê Công Thành lồ lộ hình ảnh phụ nữ trong một bộ phận kín đáo của cơ thể hay trong tư thế gợi cảm nào đó thì tượng Tạ Quang Bạo vì "siêu thực" mà kín đáo hơn song không kém phần dữ dội. Người ta có tìm thấy ở tượng của anh những nụ hôn, cho tới những cảnh nam nữ trong trạng thái giao hoan nguyên thuỷ... Có điều đó cũng bởi vì Tạ Quang Bạo không lạ lẫm với đời thường. Ông không phải là một nhà điêu khắc chỉ biết nặn mà thôi, ông còn một phần đời dập dìu với những câu chuyện tình được nhiều người trong giới biết đến.

Tạ Quang Bạo kể rằng, ông từng là họa sĩ của Đoàn văn công Quân khu 5, từng trải qua nhiều trận chiến ác liệt, cũng là người từng tham gia giải phóng Trường Sa nên sớm nhận ra biển đảo vô cùng quan trọng và thiêng liêng với Tổ quốc ta. Bảo vệ vùng biển, đảo Tổ quốc là nhiệm vụ của muôn dân và đặc biệt là người lính hải quân. Cũng vì thế cảm xúc về người lính, cái bi hùng trong chiến tranh lưu giữ trong ông. Bức "Đảo tiền tiêu" ra đời năm 1980, là kết quả ông tỉ mẩn suốt 5 năm trời. Hoàn thành, ông cảm thấy sung sướng và nghẹn ngào vì bức tượng đã tạc được vẻ đẹp lãng mạn của người lính đảo. Còn bức "Hoàng Sa", ông làm trong những ngày bị tai biến, liệt một tay, vào giữa năm 2014, trong thời điểm giàn khoan Trung Quốc xâm phạm chủ quyền vùng biển Việt Nam. Thật vinh dự, đầu năm 2015, ông nhận được giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng với bức tượng "Hoàng Sa".

Lúc này, phải thừa nhận Tạ Quang Bạo đã ở tuổi xế chiều (ông bước sang tuổi 75), sức lực giảm sút, nhưng vẫn trọn vẹn một tình yêu dành cho nghệ thuật. Ông vẫn dùng một tay để sáng tác. Tuy nhiên, mấy năm nay ông dừng vẽ mà tập trung cho điêu khắc. Điêu khắc là một công việc cực nhọc. Khi chỉ còn một tay, mức độ cực nhọc tăng lên gấp ba. Nhưng ông tự tin bảo rằng, chẳng nhằm nhò gì với nỗi vất vả ngày xưa. Ông nói: "Tôi vừa vẽ tranh vừa làm tượng. Trong chiến trường, rất khó kiếm vật liệu để làm điêu khắc. Từ trong gian khó đã nảy sinh nhiều phát kiến. Không có đất sét để nặn, tôi lấy đất từ tổ mối, xin thạch cao bên quân y để nặn tượng. Bởi muốn lưu giữ những tác phẩm, cảm xúc của mình ngay tại chiến trường. Tiếp đó, tôi cũng làm trên chất liệu gỗ và cũng có thành cô như những bức "Cõng đạn", "Học chữ Bác Hồ"... ra đời trong điều kiện như thế".

Sau năm 1975, trở về đời thường, người nghệ sĩ vấp phải nghèo. Tranh, tượng không bán được, ông sống đạm bạc trong căn nhà chật chội. Những thứ gì vừa rẻ, vừa nhiều thì ông mua ăn, cốt cho no bụng để có sức cầm các dụng cụ là một chiếc bay, một chiếc nạo nhỏ, một con dao. Trước mặt ông là khối đất sét. Ông cứ thế mà đập, mà vỗ, rồi nặn, rồi nạo và khoét. Mùa đông cũng như mùa hè. Bàn tay lấm đất cứ cắt ra, thêm vào, từng li, từng tí với sự tập trung cao độ. Những tác phẩm đẹp lần lượt ra đời. "Tôi làm cốt bằng đất sét trước, sau đó thuê thợ đổ đồng, thạch cao. Hoặc có thể dùng chất liệu đá trắng, gỗ, tùy theo ý tưởng chọn lựa chất liệu", ông Bạo nói. Ấy vậy, khi đó tuy nghèo, nhưng ai bảo bỏ nghề thì ông lắc đầu. Phải theo, bỏ là bỏ thế nào. Ông bị hút vào nghệ thuật như nam châm hút thanh sắt. Ông ăn với tượng, ngủ với đất sét và thở những hơi thở của đồng, của thạch cao, của đá. Có thời gian ông điêu khắc, vẽ tranh cho quên đói. Lại có độ bành bạch ngồi đắp, nặn cả đêm, khiến hàng xóm có những lần mất ngủ. Cũng may họ là nghệ sĩ, hiểu và thương nên thông cảm cho ông.

Họa sĩ Đỗ Đức, một người hiểu và kính trọng nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo, tâm sự: "Tôi xem, tôi bị dắt đi trong cái không gian điêu khắc anh tạo ra. Khi xem gần trăm bức tượng của anh, tôi thấy cả một kho vàng cảm xúc của anh được bày đặt trên đá, trên đồng bằng những khối đa dạng từ hiện thực đến biểu hiện và trừu tượng".

3. Hình tượng phong cách nghệ thuật của Tạ Quang Bạo

Xem tượng Tạ Quang Bạo, người ta thấy ông là người giàu ý tưởng, sáng tác nhiều đề tài. Vài trăm bức tượng trưng ở nhà, không cái nào giống cái nào cho thấy ông là người luôn làm mới mình. Đó là tài sản cần có của bất cứ người nghệ sĩ làm ngành nghệ thuật nào. Về đề tài thiếu nữ, ông yêu nhiều, có lẽ vì thế mà dành một số lượng lớn tâm huyết đắp tượng để ca ngợi vẻ đẹp người thiếu nữ, có sức mạnh, có nguồn sống như những dòng sông mang nước tưới tắm cho các cánh đồng. Tượng nào về thiếu nữ cũng đầy trau chuốt và tràn trề cảm xúc, như gió quyện vào mây, như có cả hơi thở hào hển trong đá rắn. Cũng có bức tượng mô tả cận cảnh vẻ đẹp hình thể người thiếu nữ, gây cho người xem sự ngỡ ngàng. Nó cho thấy bàn tay tác giả nâng niu, trân trọng và khát sống, khát yêu và đã yêu là hết mình.

Ông cũng dành nhiều tâm sức cho tượng về những người mẹ, vẻ đẹp tình mẫu tử, rất đời thường và ấm cúng. Những người mẹ trăn trở vì nỗi đau chiến tranh, người mẹ nuôi nấng đàn con, cho con bú, nựng con, bồng bế con. Hẳn là ông đã quan sát kỹ, đã sống, đã khóc và tự khoác lên vai mình tấm áo trở trăn, để có thể tạo nên những tác phẩm biến hóa tinh vi, lúc bổng, lúc trầm, khi thuận, khi đảo chiều. Nhà điêu khắc Lê Lâm nhận xét, sự si mê của Tạ Quang Bạo đã hằn lên tất cả những tác phẩm của ông. Cái chất của ông là chất quan sát. Trường quan sát rộng, đến nhiều chuyển động xung quanh đời sống hiện đại. Ông xúc động bằng linh hồn thật, bằng những nỗi cô đơn và cả niềm yêu thương, suy tư về cuộc đời. Bởi thế, mạch sáng tác của ông được nối dài, như những bản tình ca không dứt.

Nhưng người xem cũng có quyền thắc mắc, rằng vì sao những bức tượng gần đây nhất của Tạ Quang Bạo chủ yếu xoay quanh đề tài phụ nữ? Hình ảnh người phụ nữ, vì sao cứ đeo đẳng, trở đi trở lại đến quặn đau trong ông? Hay là ông còn ám ảnh, day dứt về những chuyện tình trong quá vãng? Hay là ông còn những dự định nào?

Không gì cả! Tạ Quang Bạo chợt thở thật dài. Đó không phải là sự ngán ngẩm. Chỉ là ông hít thật sâu để thở thật dài và mạnh, như hít luồng sinh khí trong xuân mới. Ông không dự định gì cả, bởi cảm xúc của người nghệ sĩ đến bất chợt. Ông sẽ điêu khắc khi con tim mách bảo. Nhưng ông khẳng định, đó là sự phát tiết của quả tim biết đau. Đau khi người khác chưa đau. Xúc động khi người khác chưa kịp xúc động. Tạ Quang Bạo vẫn sẽ giữ được phong độ, say đắm và si mê, như cách mà ông đã sống và sáng tạo. Bàn tay ông cứ thế, sẽ tiếp tục chẻ những khối đá vô hồn ra, để lấy bên trong viên ngọc quý cho đời. Những khối đá dường như khô kiệt cùng, sẽ thành tác phầm nần nẫn, mềm mại và đáng yêu.

Hình khối trong tượng thoáng đạt, người xem đọc được ý nghĩ nội hàm của điêu khắc Tạ Quang Bạo, bằng cách nhìn biểu cảm riêng biệt. Tượng của ông không giống một ai. Một phong cách Tạ Quang Bạo. Họa sĩ Hoàng Đình Tài nhận định: "Tượng của Tạ Quang Bạo mấp mé ranh giới giữa hiện thực và siêu thực, tác phẩm mang dáng dấp hiện đại chứ không cổ điển".

Tạ Quang Bạo đọc nhiều, ông nể trọng lao động của danh họa Mychenlangelo, thích sự điên loạn của Van Gogh, mê đắm sự bay bổng của Sagan, phục tài Picasso.

Được hỏi về hội họa trong nước ông thích ai? Ông đáp: "Thích họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm, phục Nguyễn Sáng, nể trọng điêu khắc Nguyễn Hải, Lê Công Thành". Rồi cuối cùng khi học chán, đọc chán, đi chán thì ngồi bành bạch, đập đập, vỗ vỗ đất sét chơi, nó sẽ ra cách nghĩ của riêng Tạ Quang Bạo.

Ông bảo: "Khi ngộ ra, trời cho mình mỗi việc nặn tượng, thì mình chuyên nặn tượng. Ăn ngủ vì tượng, suốt ngày vầy đất sét. Đất sét cũng gắn bó với ông như người tình, thở hơi thở của đất, của đá, của đồng và của thạch cao".

Đất sét tạo ra cho ông những cảm hứng sáng tạo, những tia chớp lóe lên cũng từ đất sét. Có những bức tượng đất sét Tạ Quang Bạo đứng phía dưới thấp nhỏ, phải nhờ đến cả chiếc thang mà leo lên đập đất nặn người. Lại có những bức tượng nhỏ như quả bầu đổ lên bức tượng lớn. Mỗi nghề đều có một đặc thù riêng, nhưng tôi dám chắc nghề điêu khắc không có sức khỏe thì khó trụ vững. Tạ Quang Bạo nhớ lại thời còn đeo quân hàm thượng úy, năm tháng chuyên ăn phở bụi, ăn mỳ chay trừ bữa, kéo dài hàng năm dòng. Lương tháng chỉ đủ vài bữa rượu của lính, còn lại thì bánh mỳ chay, hạt bo bo, nước lọc, thế mà tượng đài vẫn cứ làm ngon lành. Thế mới biết đời sống tinh thần luôn luôn quyết định sự nghiệp của ông.

Nghề điêu khắc không nhẹ nhàng, nhưng nghề đã giúp ông đặt chân khắp đất nước, từ Hòn Đất, Cà Mau đến các vùng xa xôi hải đảo. Khi ở ngã ba sông Chảy, khi ở cao nguyên gió ngàn, Tạ Quang Bạo đã đi và tìm những ý tưởng mới, tìm những chất liệu đá để phủ lên tượng đài sau chiến tranh một trong nhiều gương mặt bà mẹ Việt Nam, một trong nhiều người lính binh nhì Việt Nam trong chiến tranh không gì có thể thay thế vẻ đẹp bi hùng của điêu khắc.

III. TÁC PHẨM TIÊU BIỂU ĐẢO TIỀN TIÊU - 1980

Đảo tiền tiêu, 1980, Tạ Quang Bạo, tại bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

Sau khi trở về hậu phương, năm 1980, Tạ Quang Bạo làm tượng đài Đảo tiền tiêu. Với Tạ Quang Bạo, đây là tác phẩm ám ảnh anh nhiều năm nhất. Từ ý tưởng, người lính nối đất liền với đảo chính là nỗi day dứt khôn nguôi, Tạ Quang Bạo nhìn ra nỗi cô đơn của người lính đảo với sóng gió, với biển cả mênh mông. Họ hy sinh vô bờ bến cho Tổ quốc và nhân dân.

Không có ai có thể sống và chịu hy sinh nhiều bằng người lính. Tượng Đảo tiền tiêu của Tạ Quang Bạo làm trong suốt 8 năm. Đó là tượng làm lâu nhất, sáng tạo kỹ nhất; rồi đến tượng có tên Vọng Phu, tượng người vợ lính chờ chồng, tượng mẹ con, tình yêu, tượng bà cháu. Những thân phận hiện lên trên đá, trên đồng, trên thạch cao, bằng chất liệu nào, Tạ Quang Bạo cũng thể hiện giản dị, và nét khắc họa dành cho người xem sự cảm nhận, tinh tế.

Với "Đảo tiền tiêu", Tạ Quang Bạo còn là nhà điêu khắc Việt Nam đầu tiên có tượng về đề tài biển đảo. Là người lính của Quân khu 5 từng giải phóng Trường Sa năm 1975, Tạ Quang Bạo sớm nhận ra biển đảo quan trọng thế nào đối với Tổ quốc và sau khi giành được trọn vẹn độc lập tự do thống nhất thì bảo vệ chủ quyền biển đảo sẽ là một thách thức mới đòi hỏi những phấn đấu mới, hy sinh mới đối với người chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Cảm xúc về người lính đảo ám ảnh Tạ Quang Bạo trong suốt nhiều năm. "Đảo tiền tiêu" là bức tượng gò đồng kỳ công nhất của ông, được ông tỉ mẩn làm trong gần 5 năm trời. Tạ Quang Bạo cho biết ông đã nghẹn ngào hạnh phúc khi bức tượng hoàn thành bởi thấy mình đã tạc được vẻ đẹp lãng mạn của người lính đảo trong nỗi cô đơn nhân hậu làm ấm áp sự mênh mông vô tận của biển trời.

Đây là tác phẩm để đời của người họa sĩ - chiến sĩ Tạ Quang Bạo cách đây 35 năm. Hình tượng này được ông ấp ủ sau những năm tháng tham gia cuộc chiến tranh chống Mỹ xâm lược.

Đó là 5 năm ở Trường Sơn (1971-1975), nhà điêu khắc trẻ Tạ Quang Bạo ngày ấy đã phải lấy đất tổ mối để nặn tượng về đồng đội trong cuộc chiến đầy cam go và thử thách. Đó là những trải nghiệm đầy khốc liệt để tích tụ những cảm xúc về hình tượng hào hùng và dũng cảm hy sinh của người chiến sĩ trong cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc và thống nhất đất nước.
Bức tượng "Đảo tiền tiêu" được hình thành trên những cảm xúc sâu sắc đó. Đây là một tác phẩm đòi hỏi nhiều công sức của Tạ Quang Bạo nhất, kéo dài trong vòng 8 năm trời. Ít có ai dành công sức cho một tác phẩm điêu khắc đến như ông vậy.

IV. VẬN DỤNG BẢN THÂN

Qua những tìm hiểu về lich sử mỹ thuật Việt Nam giai đoạn 1975-1986 và nhà điêu khác Tạ Quang Bạo, tác phẩm tiêu biểu của ông em đã tìm hiểu được thêm rất nhiều điều. Là một nhà giáo tương lai em thấy mình cần học hỏi thêm qua các thế hệ đi trước để có thể định hướng được tương lai, cách giảng dạy của mình. Em thấy được nhiều đều qua hình tượng, phong cách tác phẩm của Tạ Quang Bạo. Đó là lòng yêu nước, sự lãng mạn, yêu cái đẹp và bền bỉ quyết tâm của ông.

Khi học môn điêu khắc ở trường, em rất thích môn này. Qua môn Lịch sử mỹ thuật Việt Nam em có cơ hội tìm hiểu về điêu khắc qua nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo. Đó là sự nhiệt huyết, say mê cái đẹp của ông, hết lòng kiên trì bền bỉ vượt qua mọi khó khăn.

Qua bài tiểu luận trên em thấy được sự hi sinh thầm lặng của các vị anh hùng, liệt sĩ, hi sinh để bảo vệ hòa bình cho dân tộc. Em thấy được sự tưởng nhớ của các nghệ sĩ qua các tác phẩm hội họa và điêu khắc. Em thấy mình học thêm được rất nhiều điều và cần cố gắng hơn nữa. Em thấy tự hào về nền nghệ thuật tạo hình của dân tộc ta.


Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #lich#sư