Chương 21: Du Tuyết Nhi

Gã thái giám kêu lên một tiếng thảm thiết, ôm lấy cánh tay bị chặt đứt ngã xuống đất.

Long Hạo ghét bỏ vẩy sạch máu tươi trên móng vuốt, cổ tay và bàn tay hắn không biết từ lúc nào đã hóa thành vuốt rồng sắc bén, tay kia vẫn duy trì hình dáng tay người, ôm Thẩm Mặc bảo hộ trong ngực.

Hơn mười cao thủ Bắc Lạc được Thái hậu dẫn vào tiền sảnh đều nhanh chóng bị Cấm vệ khống chế, cơ hồ không một ai có thể hóa thú hình, đều ôm bụng nằm lăn dưới đất.

Thái Bảo phía sau Thái hậu lúc này mới cung kính quỳ xuống trước mặt Long Hạo, bẩm tấu: "Bệ hạ, lão nô đã làm theo lời ngài căn dặn, hai hôm nay đều cho bọn họ uống dược, không biết làm sao lại để lọt một kẻ có thể hóa thú hình. Là lão nô thất trách! Xin Bệ hạ thứ tội!"

Long Hạo phất tay, đáp: "Chuyện này nói sau, ngươi đứng lên đi."

Thái hậu nghiến răng nhìn lão, giận dữ mắng: "Thái Bảo! Ta sớm đã nghi ngờ ngươi từ lâu, thì ra ngươi thật sự phản bội ta! Chẳng trách mỗi lần Bệ hạ đều có thể nắm được tin tức nhanh chóng, mỗi lần đều có thể kịp thời xuất hiện như vậy!"

Thái Bảo tạ Long Hạo trước, sau đó mới điềm tĩnh đứng dậy, tất cung tất kính trả lời nàng: "Thái hậu nương nương nói vậy là oan uổng cho lão nô rồi. Lão nô từ trước đến nay đều chỉ thờ một chủ, chưa từng hai lòng."

Thái hậu ngẩng đầu nhìn Long Hạo, đôi mắt mở to ngập nước.

"Bệ hạ, thì ra ngài chưa từng tin tưởng ta, chưa từng tin tưởng tộc Lạc! Nếu đã như vậy, ngài hà cớ gì còn chấp nhận để chúng ta tá túc tại nơi này, cho chúng ta một lời hứa vĩnh viễn bảo hộ giả dối?!"

Long Hạo trầm mặc, không đáp lại nàng.

Thái Bảo đứng một bên thấy vậy, không nhịn được liền bạo gan thay hắn lên tiếng: "Nương nương, thứ lỗi lão nô lắm miệng. Người đừng nên trách Bệ hạ. Thuốc lão nô cho bọn họ dùng chỉ có tác dụng khi bọn họ hóa thú hình, hơn nữa cũng chỉ khống chế chứ không làm chết người. Thuốc cũng là từ hai ngày nay Bệ hạ mới lệnh cho lão nô sử dụng. Nếu tộc Lạc không có tâm bất chính, vậy qua hôm nay tất cả đều bình an vô sự không có chuyện gì."

Thái hậu cắn răng, nắm chặt hai tay. Chuyện tới nước này, nàng đã không còn có thể làm gì khác ngoài cầu xin Long Hạo. Nàng quỳ sụp xuống, cúi đầu cam chịu, nhắm mắt nói: "Đường Nguyệt có tội, chỉ xin Long đế niệm tình cũ khai ân, tha cho những tộc nhân này cùng Tuyết Nhi. Đường Nguyệt nguyện lấy cái chết tạ tội!"

Những tộc nhân đang bị khống chế nghe thấy nàng nói vậy đều hô một tiếng "Tộc trưởng!" sau đó quỳ xuống nhận tội theo, muốn cùng nàng đồng sinh cộng tử.

Long Hạo khẽ thở dài, lúc này mới lên tiếng: "Thái hậu đứng lên trước đi. Trẫm cũng không nói muốn mạng của các người."

Thái hậu kinh ngạc ngẩng đầu, không ngờ Long Hạo còn có thể tha mạng cho bọn họ.

Long Hạo ngồi lại xuống ghế, trầm tĩnh nói tiếp: "Tội chết trẫm có thể tha, nhưng tội sống không thể không truy cứu. Thái hậu đừng vội, tạm thời chưa nhắc tới tộc Lạc. Người có biết tà thuật kia sau khi thành công, người thi thuật sẽ phải trả giá như thế nào không?"

Thái hậu vừa nghe tới đây lập tức sững người, nghi hoặc nhìn sang Hiền phi. Sắc mặt Hiền phi cũng trắng bệch, run rẩy gục đầu xuống.

Long Hạo lúc này mới chịu giải đáp mọi chuyện.

Kỳ thực, hắn đã bắt đầu nghi ngờ Hiền phi từ rất lâu trước đây, khi hắn thẩm vấn những tên nô tài được nàng hạ lệnh giết hại A Trân. Tuy tính khí Du Tuyết Nhi nóng nảy, cũng không phải chưa từng giết người, nhưng không đến mức sẽ vô cớ một mực truy sát một tiểu cung nữ, thậm chí còn không tiếc dùng tới cả độc châm, ám khí độc môn của tộc Bắc Du. Kể từ lúc đó, Long Hạo đã bắt đầu phái ám vệ âm thầm theo dõi nàng, đồng thời điều tra những việc nàng làm gần đây.

Sau khi Cố Tu Dung xảy ra chuyện, tà thuật bị bại lộ, Long Hạo đã đoán được tám chín phần có liên quan tới Hiền phi. Bí mật của ba cây trâm cũng là do hắn dựa vào trọng lượng của trâm mà phát hiện ra. Nhưng chuyện này cũng không thể chứng minh nàng chính là người hạ tà thuật. Long Hạo vốn đã định nếu hôm nay không thể tìm thấy bằng chứng xác đáng, hắn sẽ giúp Chu Diên Chi lén lấy máu của Du Tuyết Nhi đi giải tà thuật. Chỉ cần tà thuật thật sự được giải, vậy đó chính là bằng chứng xác đáng nhất.

Có điều, người Long Hạo muốn điều tra ra cũng không phải chỉ dừng lại ở Hiền phi.

Du Tuyết Nhi vốn không hề biết tà thuật, đối với tà thuật không nắm rõ, Thái hậu cũng vậy. Tám tộc Bắc Mục không triệt để cấm tà thuật như Lội Quốc, cũng có lưu truyền các loại tà thuật cổ xưa trong tộc, nhưng tộc Lạc xưa nay chỉ giỏi y thuật, tộc Du dũng mãnh thiện chiến, khinh thường sử dụng tà thuật. Khi Long Hạo còn ở Bắc Mục, chưa từng nghe nói trong hai tộc này có người nào có thể thi triển tà thuật lợi hại. Vì vậy hắn mới muốn thông qua Hiền phi tìm ra kẻ đứng đằng sau dạy nàng dùng tà thuật, giật dây nàng.

Tà thuật nguyền rủa là thứ cấm kị không chỉ bởi vì uy lực và ma khí mà nó sinh ra, còn bởi vì cái giá người thi thuật phải trả. Tùy vào từng tà thuật khác nhau, kẻ thi thuật sẽ phải trả cái giá khác nhau, nhưng đa phần đều sẽ phải hiến tế. Loại tà thuật mà Du Tuyết Nhi sử dụng, nếu thành công thì nàng phải trả bằng cách hiến tế một thứ quan trọng nhất đối với nàng.

Long Hạo vừa nói đến đây, sắc mặt Thái hậu chợt tái nhợt. Nàng tựa như vừa phải chịu đả kích cực lớn, nói không nên lời.

Du Tuyết Nhi lúc này mới khóc lên, nức nở thổ lộ: "Bệ hạ, thần thiếp tình nguyện trả giá tình yêu này, chính là vì muốn mãi mãi..."

Nàng còn chưa nói xong, đã bị Thái hậu tát một bạt tai tới chảy máu miệng.

Thái hậu đứng bật dậy, quát to: "Hồ đồ! Ngươi có biết suýt chút nữa đã làm ra chuyện gì rồi không?!"

Du Tuyết Nhi ngơ ngác ngẩng đầu nhìn nàng, sự mờ mịt trong mắt không hề giả.

Thái hậu đau lòng, nhưng càng tức giận hơn.

"Ngươi nghĩ kỹ lại, thứ quan trọng nhất đối với ngươi chính là gì?! Ngươi tự nhận yêu Bệ hạ tới khắc cốt ghi tâm, vậy có biết ai sẽ phải trả giá cho sự mù quáng của ngươi hay không?!"

Du Tuyết Nhi lúc này mới như bừng tỉnh, khóc tới đỏ mắt, ngẩng đầu nhìn sang Long Hạo, thất hồn lạc phách nói: "Bệ hạ... Không... Thần thiếp không..."

Thái hậu lúc này cũng không còn có thể bênh vực nàng được nữa, chỉ có thể thầm cầu cho Long đế niệm tình nàng cũng chỉ là kẻ bị lợi dụng.

"Bệ hạ, thần thiếp không biết! Thần thiếp thực sự không biết!"

Du Tuyết Nhi liên tục lắc đầu, bất chấp bò tới bên chân Long Hạo, khóc lóc thảm thiết. Lần này, nàng thực sự không nói dối. Nàng quả thực biết sai rồi, nàng không muốn dùng tâm kế gì nữa, không tranh sủng gì nữa, nàng chỉ muốn người để ý tới nàng một chút, yêu nàng một chút...

Long Hạo lạnh lùng nhìn nàng, chợt hỏi: "Tà thuật là do người của tộc Du dạy cho ngươi?"

Du Tuyết Nhi vội gật đầu, thành thật nói: "Do vu sư trong tộc dạy cho thần thiếp. Người đó chỉ nói sẽ phải trả giá... Thần thiếp thực sự không biết sẽ gây tổn hại đến Bệ hạ!"

Long Hạo nhíu mày. Hắn có biết vu sư của tộc Du, xưa nay chỉ từng thấy người nọ dùng y thuật, hơn nữa trình độ cũng không cao, càng không tinh thông tà thuật hay cổ thuật gì khác.

Long Hạo không để ý nàng nữa, quay sang Thái hậu, nói: "Thái hậu, trẫm đã nói sẽ vĩnh viễn bảo hộ tộc Lạc thì sẽ không nuốt lời. Nhưng sau sự việc này, ngoại trừ người ra, trẫm không thể giữ một người Bắc Mục nào trong cung nữa, nhất là Du Tuyết Nhi và người tộc Du. Thái hậu là người sáng suốt, nên quyết định như thế nào là tùy ở người, trẫm sẽ không nhiều lời."

Long Hạo không nhìn, cũng không nói thêm câu nào với Du Tuyết Nhi. Hắn kéo Thẩm Mặc đứng dậy, từ trong tay áo lấy ra chiếu thư và bản định tội Hiền phi đều đã được đóng long ấn, đưa tới trước mặt Thái hậu, buông vài lời sau cùng: "Ngày mai trẫm sẽ phái người hộ tống Du Tuyết Nhi quay về Bắc Hoang, toàn bộ người hầu bồi giá nàng mang từ tộc Du tới đều phải xuất cung theo, sính lễ của tộc Bắc Du trẫm cũng sẽ trả lại gấp đôi. Còn về phần tộc Lạc, trẫm sẽ sắp xếp cho các ngươi có thể yên lặng rời khỏi hoàng cung. Sau khi các ngươi bước ra khỏi cửa cung này, đi đâu làm gì là quyền của các ngươi, trẫm sẽ không tiếp tục truy cứu, cũng sẽ coi các ngươi như bách tính Lôi quốc bình thường khác. Đây là nhượng bộ cuối cùng của trẫm đối với tộc Bắc Lạc."

Hắn nói xong, cũng không chờ Thái hậu đáp lời, càng bỏ ngoài tai tiếng khóc lóc cầu xin của Du Tuyết Nhi, một mực kéo Thẩm Mặc rời đi.

...

"Bệ hạ... Bệ hạ, thần..."

Thẩm Mặc bị Long Hạo nắm chặt tay, kéo đi rất lâu, vẫn luôn vất vả đuổi theo bước chân của hắn. Cấm vệ và ám vệ đều đã bị bỏ lại thu thập tàn cuộc ở Phụng Nghi cung, cung nhân theo sau hầu hạ cũng bị Long Hạo đuổi về trước, lúc này trong Ngự hoa viên chỉ còn hai người bọn họ.

Tới bên dưới tán cây ngô đồng cổ thụ, Long Hạo mới dừng lại, nhưng vẫn không buông Thẩm Mặc ra.

Thẩm Mặc thở hổn hển lấy hơi, ngẩng đầu nhìn bóng lưng cao lớn trước mặt, bất giác cảm thấy nó đang run lên, nhưng nhìn kỹ lại, chỉ còn hình bóng vững vàng mà cô độc.

Long Hạo cuối cùng cũng buông tay, nhưng không quay lại nhìn Thẩm Mặc, chỉ như cũ chừa cho hắn một bóng lưng.

Thẩm Mặc lui lại một bước, cúi đầu chắp tay, nói: "Bệ hạ nhân từ."

Long Hạo yên lặng một hồi, lúc sau mới chậm rãi quay lại đối diện với hắn, ánh mắt đã bình tĩnh lại, chỉ lẳng lặng nhìn hắn, hỏi: "Quân hậu vì sao lại nói vậy?"

Thẩm Mặc vẫn cung kính cúi đầu, giữ lễ nghi quân thần, đáp: "Thái hậu là tộc trưởng của tộc Lạc, tựa như tín ngưỡng mà bọn họ vĩnh viễn tôn thờ. Bệ hạ chỉ đuổi tộc nhân tộc Lạc khỏi hoàng cung nhưng vẫn cho Thái hậu sự bảo hộ an toàn nhất ở trong cấm cung này. Cho dù Bắc Mục có truy lùng, bắt được một hai tộc nhân, nhưng chỉ cần không nắm được Thái hậu trong tay, cũng sẽ không thể nào khống chế được toàn bộ tộc Lạc. Bệ hạ cũng không nói đuổi bọn họ ra khỏi Lôi quốc. Chỉ cần bọn họ chịu an phận, chung sống hòa bình với bách tính Lôi quốc, Bắc Mục cũng sẽ không thể tùy tiện tới Lôi Quốc giết người. Bệ hạ quả thực đều đã vì Thái hậu và tộc Lạc mà suy tính chu toàn."

Long Hạo lúc này mới nở nụ cười, vươn tay nâng cằm Thẩm Mặc lên để hắn nhìn thẳng vào mình, ánh mắt sâu thêm vài phần, trầm giọng nói: "Quân hậu cũng biết Thái hậu chính là linh hồn của tộc Lạc. Vậy trẫm khăng khăng một mực giữ Thái hậu trong cung, sao ngươi biết là không có rắp tâm gì khác? Nếu như trẫm dùng Thái hậu để uy hiếp tộc Lạc, lại đuổi bọn họ ra khỏi cung để tiện bề lợi dụng ở bên ngoài, không phải là càng hiểm hay sao? Trẫm nói như vậy, Quân hậu còn có thể cho rằng trẫm nhân từ được nữa không?"

Thẩm Mặc không tránh né hắn, ánh mắt kiên định, không do dự đáp lại: "Nếu thật có rắp tâm, Bệ hạ sẽ không chờ tới bây giờ. Hơn nữa, kính trọng của Bệ hạ đối với Thái hậu là thật. Người vì hành động của Thái hậu và Hiền phi mà đau lòng cũng là thật."

Một tia kinh ngạc thoáng lướt qua đôi con ngươi hổ phách sáng ngời. Thẩm Mặc thấy được biến hóa trong mắt người đối diện, chợt mỉm cười với hắn, chậm rãi nói: "Bệ hạ không những nhân từ, còn là một minh quân."

Long Hạo nhìn thấy một nụ cười này, ánh mắt lại sáng thêm vài phần. Kinh ngạc rất nhanh đã chuyển thành ý cười nồng đậm.

Thẩm Mặc phát hiện tâm trạng Long Hạo rút cuộc cũng khá lên, lúc này mới thầm thở phào trong lòng, cũng để ý tới tư thế hiện tại của hai người có chút không ổn. Hắn vừa muốn tránh khỏi đối phương, eo đã bị giữ chặt.

Long Hạo phát ra một tiếng cười tà, bàn tay đang nắm cằm Thẩm Mặc chuyển thành vuốt ve gương mặt hắn, trầm giọng hỏi: "Quân hậu đây là đang tranh sủng đấy à?"

Thẩm Mặc kinh hãi, lập tức tránh thoát vuốt rồng dưới cằm, đẩy mạnh Long Hạo ra. Hắn vội vàng lùi ra sau mấy bước, cúi đầu chắp tay thi lễ, đáp: "Sủng ái của Bệ hạ là hoàng ân chỉ có thể nhận, không thể cầu, thần càng không dám tranh giành."

Long Hạo thú vị nhìn vành tai đỏ ửng của Thẳm Mặc, tâm trạng nặng nề vì chuyện của Thái hậu cuối cùng cũng tốt lên vài phần. Hắn mỉm cười, trước khi xoay người rời đi còn không quên dặn dò: "Quân hậu đã nói vậy, sau này sủng ái của trẫm ngươi nhất định phải nhận đấy. Còn nữa, về sau chăm chỉ tranh sủng một chút, trẫm thích dáng vẻ Quân hậu tranh sủng như hiện tại."

Tới khi Long Hạo đi hẳn rồi, Thẩm Mặc mới dám ngẩng đầu, thở ra một hơi. Long đế nếu như không đột nhiên lên cơn đùa cợt hắn thì đúng là một vị quân chủ tốt. Cũng may đối phương chỉ có chút không đứng đắn ngoài miệng, cũng không thực sự có ý định ép buộc, nếu không Thẩm Mặc quả thực không biết phải đối phó với hắn thế nào.

Có điều, một người như vậy, tại sao từng muốn giết hắn, rồi hiện tại vì sao lại thay đổi, bảo vệ hắn, thậm chí còn nhiều lần cứu mạng hắn?

Thẩm Mặc ngẩng đầu nhìn đỉnh mái ngọc của Thiên Thu Lâu ẩn sâu phía sau Ngự hoa viên, khẽ thở dài.

Đêm hôm đó, rút cuộc đã xảy ra chuyện gì?

...

Lãnh thổ Lôi quốc rộng lớn, trải rộng hầu hết toàn bộ đại lục, được chia làm mười chín châu, phía tây giáp với Tây Hải, phía đông giáp biển Thông Thiên quê hương của Long tộc, phía nam bị ngăn cách với biển bởi một sa mạc Bích Sa rộng lớn, chỉ có một vài tiểu quốc trong các ốc đảo ẩn sâu giữa lòng biển cát. Tận cùng của hoang mạc chính là ngọn núi đá lửa cháy quanh năm, ngăn cách vùng đất của thú nhân với cực nam đại lục chứa đầy ma thú hung hãn.

Trái ngược với hoang mạc Bích Sa khô nóng cằn cỗi, càng đi về phía bắc Lôi Quốc, địa hình càng trở nên phức tạp, thời tiết cũng càng lạnh giá, mùa đông dài thêm, đêm dài ngày ngắn. Đi tới tận cùng, sẽ thấy được băng nguyên Bắc Hoang rộng lớn, lãnh địa của tám bộ tộc du mục bản địa, thường được gọi chung là Bắc Mục.

Khí hậu Bắc Hoang cực kỳ khắc nghiệt, quanh năm đều là mùa đông, thú nhân bình thường khó lòng sinh tồn. Chỉ một vài tộc thú nhân cổ có thể thích nghi được với khí hậu nơi đây, qua thời gian lâu dài, bọn họ dần hình thành nên tám tộc Bắc Mục, cùng chung sống hòa thuận trên vùng đất phủ kín băng tuyết giá lạnh này.

Người dân tộc Bắc Mục đa phần đều dũng mãnh thiện chiến, lại quen cuộc sống tự do trên băng nguyên, không chịu sự quản thúc của triều đình Lôi Quốc. Các đời Long đế cũng không có ý xâm chiếm vùng đất này, vẫn luôn tạo mối quan hệ hữu nghị bình đẳng với Bắc Mục, coi họ như một quốc gia độc lập ở phương bắc.

Mãi cho tới khi Ngô thị nắm giữ triều chính, mối quan hệ bình đẳng ấy mới dần không còn bình đẳng nữa.

Ngô thị dã tâm ngút trời, mùa đông năm đầu tiên phế đế lên ngôi, nàng ta liền soạn ra một bức chiếu thư, đại khái muốn tám tộc Bắc Mục phải phục tùng Lôi Quốc, hàng năm dâng cống nạp sản vật theo yêu cầu vô lý, đổi lại triều đình sẽ cấp phát cho họ vừa đủ lương thực để không bị chết đói trong mùa đông.

Vốn dĩ từ xưa đến nay tám tộc Bắc Mục đều trao đổi lương thực với Lôi Quốc dựa trên quan hệ giao thương bình đẳng. Bọn họ giao bao nhiêu sản vật sẽ được đổi lấy số lương thực tương ứng, thậm chí nếu bọn họ không may gặp thiên tai còn có thể hướng Lôi Quốc xin viện trợ một thời gian. Nhưng bức chiếu thư của Ngô thị chẳng khác nào một cú tát thẳng vào mặt tám tộc Bắc Mục.

Ngô thị dã tâm sâu nhưng tầm nhìn nông cạn, không hề biết rằng kỳ thực Lôi Quốc vẫn luôn muốn giữ gìn quan hệ hợp tác bình đẳng với tám tộc Bắc Mục, không phải chỉ vì Long đế nhân từ hay vì muốn đổi sản vật trân quý trên băng nguyên. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến Lôi quốc không thâu tóm, thậm chí còn phải duy trì mối quan hệ hữu nghị với bọn họ đó là vì sự tồn tại của ma thú.

Hơn ngàn năm trước, thần thú Thanh Long sau khi đánh đuổi ma thú khỏi đại lục đã dựng nên Thương Sơn ở phương bắc và Viêm Sơn ở phương nam, ngăn cách vùng đất của thú nhân với phần cực bắc và cực nam đại lục, ngăn chặn ma thú từ hai hướng bắc nam xông vào trung địa tấn công thú nhân.

Nhưng sau ngàn năm, Thương sơn sừng sững ở phương bắc cũng bị thời gian bào mòn, dần có một số ma thú hung hãn thích nghi được với bão tuyết trên núi, vượt qua Thương sơn, tiến sâu vào Bắc Hoang.

Để ngăn cản ma thú, Lôi quốc đã ngầm đặt ra minh ước hợp lực với tám tộc Bắc Mục, bất luận thế nào cũng phải cùng nhau đánh đuổi kẻ thù chung là ma thú khỏi băng nguyên.

Ngô thị thí vua soán ngôi, phế đế không thực sự nắm được truyền thừa của Long đế tiền nhiệm, hoàn toàn không biết tới minh ước. Ngô thị lại chỉ vì lòng tham nhất thời, khiến cho mối quan hệ hữu nghị giữa hai bên bị phá vỡ. Mùa đông thức ăn khan hiếm, không chỉ thú nhân cần lương thực mà cả ma thú bị đói khát nhiều năm bên kia Thương Sơn cũng thi nhau liều mạng vượt qua dãy núi, tiến vào băng nguyên.

Năm đó, chiếu thư kia vừa ra, ba tộc lớn nhất Bắc Mục lúc bấy giờ là Du, Nhữ và Luân đã liên thủ với nhau, dẫn kỵ binh tiến vào Lôi Quốc, cướp bóc các thành trấn của ba châu giáp ranh với bọn họ, đi đến đâu liền cướp sạch lương thực, giết hết nam đinh trai tráng đến đấy, chỉ để lại phụ nữ, người già và trẻ nhỏ trong thành.

Sau khi khiến ba châu Bắc cương là Thất, Định, Trệ của Lôi Quốc kiệt quệ tới không còn một bao lương dự trữ, không còn một người tráng đinh, bọn họ liền dẫn theo các tộc Bắc Mục tiến vào sơn cốc ẩn mật, tạm thời tránh thoát móng vuốt ma thú, rồi dẫn dụ chúng vượt qua băng nguyên, tiến đến lãnh thổ Lôi quốc.

Quãng thời gian gần ba năm đó chính là ác mộng của Bắc cương, cũng là bài học đau đớn phải trả giá bằng xương máu của không biết bao nhiêu bách tính Lôi Quốc.

Triều chính rối ren, Ngô thị chỉ lo thâu tóm quyền lực, không quan tâm tới quân sự. Thượng bất chính, hạ tắc loạn. Quan quân Lôi Quốc cũng không còn giữ kỷ cương, chỉ lo bòn rút quốc khố. Quân lính lúc bấy giờ thiếu thốn đủ đường, lương thảo quân nhu cạn kiệt, tử thương vô số, trong quân không có tướng tài, lại thêm Bắc Mục ngầm phá hoại, hoàn toàn không thể cản nổi thế công của ma thú. Nơi nào ma thú đi qua, nơi đó liền biến thành vùng đất chết chóc hoang tàn.

Chỉ sau một mùa đông, ba châu Thất, Định, Trệ biến thành lãnh địa của ma thú. Trấn Bắc Quân thương vong quá nửa, rút về tử thủ tại Nguyên Châu, cửa ngõ cuối cùng để tiến vào trung châu. Dân chúng bắc cương phần lớn đều chết trong miệng dị thú, số còn lại cũng đã sớm bỏ lại cố hương, chạy xuống phía nam.

Mùa đông giá lạnh, thiếu lương thực, bệnh dịch, đói khát, nỗi lo sợ ma thú không biết lúc nào sẽ phá thành, tất cả những điều đó tưởng chừng như đã càn quét hết thảy sự sống phương bắc, biến nơi đây trở thành địa ngục tối tăm, chết chóc.

Nhưng từ chính nơi địa ngục đó, Thanh Long một lần nữa tái sinh, xông ra từ vũng bùn tăm tối nhất, mang theo hào quang rực rỡ nhất, trở thành hi vọng của toàn bộ bách tính.

Năm Long Hạo tròn mười chín tuổi, nhận chức đại tướng quân dưới trướng Trấn Bắc hầu. Chỉ với số quân ít ỏi còn lại của Trấn Bắc Quân, trong tình cảnh khó khăn ấy, hắn vẫn có thể dẫn dắt bọn họ giết tới ma thú cuối cùng trên quốc thổ, giành lại ba châu Thất, Định, Trệ về tay thú nhân, trở thành chiến thần trong lòng bách tính. Để rồi sau đó không lâu, hắn cuối cùng cũng đạp đổ Long môn, cưỡi ngựa xông vào Cửu Thiên điện, hoàn toàn chấm dứt những ngày tháng tối tăm của Lôi Quốc dưới sự tàn bạo của phế đế và hai nhà Ngô Thẩm.

Có điều, năm ấy, sự thật là không phải cả tám tộc Bắc Mục đều ôm hận, muốn trả thù Lôi Quốc. Hai tộc Lạc và Vũ không theo các tộc khác tiến vào sơn cốc, lựa chọn ở lại tham chiến, cùng binh lính Lôi quốc chống ma thú.

Đáng tiếc, kết cục, ngay năm đầu tiên, tộc Lạc bị phế đế dùng một đạo thánh chỉ vớ vẩn hại chết quá nửa, tộc Vũ cũng đại thương nguyên khí trong chiến trận. Cái giá để bọn họ bất chấp quay lưng lại với các tộc anh em của mình thực sự quá đắt. Vậy nên sau này không còn tộc Bắc Mục nào đứng về phía Lôi quốc nữa, mãi cho đến khi Long Hạo xuất hiện.

Nhưng câu chuyện không hề đơn giản như vậy. Lôi Quốc nếu không muốn bi kịch Bắc cương lặp lại một lần nữa, chỉ có lựa chọn duy nhất là nối lại mối quan hệ với tám tộc Bắc Mục. Lúc bấy giờ hai tộc ủng hộ Long đế là tộc Lạc và Vũ đều đã tử thương thảm trọng. Tộc Lạc thậm chí còn bị Bắc Mục khai trừ, đánh đuổi khỏi băng nguyên, khiến bọn họ phải chạy xuống phía nam, tiến vào Lôi Quốc. Tộc trưởng tộc Lạc là Đường Nguyệt vì năm xưa phản đối ba tộc Du, Nhữ, Luân cướp bóc thành trấn Lôi Quốc nên trở thành tội nhân của Bắc Mục, bị Bắc Mục truy lùng gắt gao. Tộc trưởng tộc Vũ, người duy nhất có cùng chí hướng với nàng sớm đã bị ma thú giết hại trên chiến trường, người kế nhiệm ông lại đứng về phía tộc Du.

Long Hạo mới lên ngôi, còn chưa diệt hết được loạn đảng hai nhà Ngô Thẩm, chiến báo ở Tây Hải liên tiếp gửi về, mối họa ma thú ở phía tây nổi lên, lại thêm chuyện hắn bảo vệ Đường Nguyệt khiến quan hệ giữa Lôi Quốc và Bắc Mục trở nên căng thẳng, quả thực là tình thế thù trong giặc ngoài, bốn bề thọ địch.

Đúng lúc này, Bắc Mục lại bất ngờ đồng ý kết minh ước với Lôi quốc lần nữa, chỉ với một điều kiện duy nhất, chính là Long Hạo đồng ý thành thân với thánh nữ Bắc Mục, Du Tuyết Nhi, cũng là con gái của tộc trưởng tộc Du, hiện đã là tộc lớn nhất đứng đầu Bắc Mục.

Long Hạo bấy giờ đã lập Thẩm Mặc làm Quân hậu. Du Tuyết Nhi cũng không phải người Lôi Quốc, theo tổ huấn không thể lập hậu. Bắc Mục vậy mà vẫn nhượng bộ, đổi yêu cầu thành hắn nạp Du Tuyết Nhi làm phi.

Đường Nguyệt và tộc nhân tộc Lạc lúc ấy đã vào cung nương nhờ Long Hạo, liền lấy cớ khuyên nhủ hắn đồng ý điều kiện này, nàng thậm chí còn nhắc tới nhi tử Đường Tuyết chết trận trong Tuyết Lang Quân năm xưa, nói rằng muốn Du Tuyết Nhi thay Đường Tuyết bầu bạn bên cạnh.

Cuối cùng, Long Hạo định ra hiệp ước ba trăm năm với Bắc Mục, cũng phong Du Tuyết Nhi làm Hiền phi. Nàng chính là vị quý phi đầu tiên tiến vào hậu cung Lôi Quốc.

Du Tuyết Nhi là nữ tử Bắc cương, tính cách phóng khoáng mạnh mẽ, tựa như đóa hoa rực rỡ kiên cường nở rộ trên vách đá cao vạn trượng của Thương Sơn.

Nàng quen biết Long Hạo từ khi hắn mới chỉ là một thiếu niên vô danh nơi Bắc cương. So với những phi tần khác, nàng chính là người biết Long Hạo sớm nhất. Nàng cũng tự tin mình là người yêu Long Hạo lâu nhất, sâu đậm nhất trong cả hoàng cung này.

Năm xưa, khi lần đầu nhìn thấy Long Hạo trên băng nguyên Bắc Hoang, nàng đã ngay lập tức phải lòng người thiếu niên anh tuấn ấy. Cũng chính nàng đã dựa vào bản lĩnh của mình, giành được nanh sói chiến lợi phẩm của Long Hạo trong lễ hội mùa xuân trước biết bao thiếu niên thiếu nữ nhiệt huyết khác.

Mãi cho tới ngày hôm nay, Du Tuyết Nhi vẫn luôn tự tin vào bản thân. Nàng tin chắc, bất luận thế nào, chỉ cần nàng dồn hết trái tim mình để yêu Long đế, nhất định cũng sẽ đổi được trái tim của người. Tựa như những câu chuyện lưu truyền qua các đời lang tộc trên băng nguyên Bắc Hoang, chỉ cần tìm được người định mệnh, dùng chân tình đối đãi, cuối cùng cũng sẽ có ngày bọn họ có thể kết thành bạn lữ trọn đời.

Nhưng rồi, Thục phi đột ngột xuất hiện, cũng chen vào niềm hạnh phúc của nàng.

Chứng kiến cảnh Long đế yêu thương Cố Tu Dung, thiên vị nàng, chăm sóc nàng, cưng chiều nàng hết mực, Du Tuyết Nhi mới chợt nhận ra một sự thật.

Chiếc nanh sói mà nàng liều mạng mới giành được, vẫn luôn nâng niu trân trọng treo ở đầu quả tim, kỳ thực đối với người ấy không hề quan trọng đến vậy.

Đối với Long Hạo, đó chỉ là một món đồ hắn lấy được từ một con lang thú trên băng nguyên, thậm chí bản thân cũng chẳng nhớ mình từng có một món đồ như thế, lại đã quẳng đi đâu mất rồi.

Du Tuyết Nhi biết rõ, nàng mới là người đến trước!

Những cô nương Bắc Mục mạnh mẽ chưa bao giờ là những người ngồi một chỗ chờ đợi tình yêu tìm tới. Du Tuyết Nhi càng không phải chỉ là nữ nhi bình thường. Nàng quyết tâm giành lại tình yêu của mình, giành lại thiếu niên năm ấy mà nàng yêu đến chết đi sống lại, cho dù phải trả cái giá nào chăng nữa.

Thế rồi, trong một lá thư gửi tới từ Bắc Mục, vu sư trong tộc nàng đã chỉ cho nàng một cách có thể khiến Cố Tu Dung biến mất vĩnh viễn, cho dù có phải trả giá bằng chính tình yêu của nàng.

Hơn một tháng trước, Thái hậu mở tiệc trà trong vườn hoa sau Vĩnh Khang điện, cả bốn vị quý phi đều có mặt đông đủ. Du Tuyết Nhi nhìn thấy Cố Tu Dung cài trâm hoa mai, mới nhớ tới vật nhỏ mà Tô Tử Nghi tặng bọn họ này.

Cả Du Tuyết Nhi và Ôn Uyển Khanh đều chẳng bao giờ cài thứ thô kệch như thế lên tóc, chỉ có Cố Tu Dung vẫn một mực dùng nó, còn nói bởi vì đó là vật do chính tay Tô Tử Nghi làm ra nên trân quý không gì sánh bằng.

Du Tuyết Nhi từ đó mới nghĩ ra một kế, đem trâm hoa mai của chính mình yểm thành vật nguyền rủa rồi đánh tráo với trâm hoa mai của Cố Tu Dung. Dù sao ba cây trâm giống y hệt nhau, ngay cả bản thân Tô Tử Nghi người làm ra chúng cũng nói là không thể phân biệt được. Du Tuyết Nhi cho rằng dù sự việc có không may bại lộ, nàng vẫn có thể đổ lỗi cho Tô Tử Nghi. Đây là kế sách tốt nhất mà nàng có thể nghĩ ra.

Nhưng khi Du Tuyết Nhi đánh tráo trâm của Cố Tu Dung, không ngờ rằng bản thân đã bị một tiểu cung nữ của Phù Hiến Cung tình cờ nhìn thấy.

A Trân là cung nữ hầu hạ bên cạnh Tô Tử Nghi, từng thấy qua chủ tử nàng mất rất nhiều công sức để tỉ mỉ khắc ra ba chiếc trâm hoa mai này. Vậy nên khi tình cờ nhìn thấy hành động của Hiền phi, nàng đã nghi ngờ Du Tuyết Nhi có ý đồ xấu với chủ tử mình. A Trân sợ mình không có bằng chứng, nếu nói ngay với Tô Tử Nghi sẽ không được tin tưởng, đành tìm một cơ hội vờ va phải Hiền phi ở Ngự hoa viên, nhanh tay lấy đi trâm hoa mai mà nàng đánh tráo của Cố Tu Dung.

Có điều, A Trân còn chưa kịp thưa lại chuyện này với Tô Tử Nghi, ngay sau đó đã bị người của Thục Đức cung bắt đi.

Dù bị Du Tuyết Nhi tra khảo nhiều ngày, A Trân cũng một mực không khai chỗ nàng giấu cây trâm hoa mai kia. Nàng chỉ sợ Hiền phi sẽ dùng nó để gây khó dễ cho chủ tử nàng. Cuối cùng, A Trân liền bị gán bừa cho một tội danh, bị Du Tuyết Nhi sai người kéo tới một nơi hẻo lánh, đánh đến chết để diệt khẩu.

Đó cũng là lúc A Trân gặp được Thẩm Mặc.

A Trân bị Du Tuyết Nhi sai người cắt lưỡi, trở thành người câm. Khi nàng trở về Phù Hiến cung, bị cung nữ tổng quản đuổi đi. Tô Tử Nghi lúc ấy đang đọc sách ngay trong sân cũng biết chuyện, lại chẳng lên tiếng lấy một lời.

A Trân một lòng trung thành, vì Tô Tử Nghi nên mới bị Du Tuyết Nhi tra tấn thành như vậy, nhưng chủ tử của nàng thì sao?

Một cái liếc mắt cũng không thèm cho nàng!

A Trân từ lúc ấy đã không còn hy vọng gì với cuộc sống này nữa, chỉ nghĩ sẽ cứ như vậy ôm theo bí mật của trâm hoa mai xuống mồ.

Thế nhưng sau đó, nàng không chết, mà được Thẩm Mặc cứu sống, hơn nữa còn được hắn đưa về Tịch Dương cung.

Khi nghe được Nghi phi gặp chuyện, A Trân cho dù có do dự, vẫn quyết định đem trâm hoa mai đưa cho Thẩm Mặc, cũng kể hết toàn bộ sự tình cho hắn.

...

Vĩnh Khang điện từng người hầu kẻ hạ ra vào nhộn nhịp, hôm nay lại chìm trong sự tĩnh lặng dị thường. Đường Nguyệt vẫn ngồi trên chủ tọa cao cao tại thượng, nhìn ngắm từng khuôn mặt cung nhân đủ mọi lứa tuổi đang quỳ bên dưới điện.

Năm xưa tộc nàng vì Lôi quốc mà chết trận quá nửa, trong số những người đã hi sinh có cả nhi tử của nàng, Đường Tuyết. Sau đó bọn họ lại bị các tộc khác đánh giết, khó khăn lắm mới chạy tới biên cảnh Lôi quốc, dọc đường lại chết tiếp gần trăm người. Đến khi tới được Đế Đô Lôi Quốc, cũng chỉ còn lại vài người đang ở trong điện này.

Đường Nguyệt đưa mắt nhìn một vòng những tộc nhân trung thành với mình. Người lớn tuổi nhất đã hơn hai ba trăm tuổi, người nhỏ nhất mới chỉ vừa lên năm. Những khuôn mặt này già có trẻ có, nam có nữ có, lại đều mang theo thâm tình cùng một loại thành kính tựa như tín ngưỡng mà nhìn nàng.

Chính nàng đã cô phụ sự tin tưởng của họ.

Từ khoảnh khắc bọn họ bị buộc phải rời khỏi cố hương, nương nhờ Lôi Quốc, nàng đã biết ngày này rồi sẽ đến. Tộc Lạc của họ, từ khi bước chân ra khỏi cố thổ Bắc Hoang, đã định trước sẽ không còn.

Đường Nguyệt chợt gỡ xuống trâm phượng trên đầu, cởi bỏ những thứ trang sức rườm rà. Nàng đứng dậy từ trên chủ tọa, phút chốc trút đi toàn bộ vẻ đoan trang của một nữ tử hậu cung, như trở lại dáng vẻ phóng khoáng uy nghiêm của vị tộc trưởng cưỡi trên lưng cự thú, mang trường đao phóng qua băng nguyên vạn dặm năm đó.

Mái tóc dài đen nhánh của nàng dần chuyển sang màu trắng như tuyết, trên đầu xuất hiện một cặp sừng dài với nhiều chạc đối xứng hoàn mỹ, dưới ánh đèn lưu ly như phát ra quang mang rực rỡ.

Tộc nhân đang quỳ bên dưới đều dập đầu bái lạy, miệng đồng đều không ngừng hô một câu bằng tiếng dân tộc Bắc Mục, biểu hiện cho sự trung thành của họ đối với tộc trưởng tôn quý.

Tộc Lạc bọn họ vốn dĩ bản tính ôn hòa, ngay đến tên tộc cũng mang ý nghĩa hoan hỉ vui vẻ, bình an một đời. Nhiều năm sinh sống trên băng nguyên Bắc Hoang khắc nghiệt, cũng từng trải qua nhiều biến cố thăng trầm, nhưng cho dù là lúc khó khăn nhất, cặp sừng kiêu ngạo của bọn họ vĩnh viễn cũng chỉ chĩa về phía ma thú, tuyệt không giết hại một thú nhân nào. Đây là tổ huấn, cũng là niềm tin bất diệt của bọn họ.

Thế nhưng, chính Đường Nguyệt đã đánh mất đi niềm tin ấy, dẫn dắt tộc Lạc đi tới bước đường này.

Nàng đứng trước những tộc nhân tôn thờ mình, không chút do dự, tự tay lấy xuống cặp sừng hươu trên đầu, chậm rãi nói: "Sau khi ra khỏi hoàng cung này, các ngươi hãy xuôi nam, đi tới nơi có đồng cỏ xanh tươi, trù phú nhất. Sau đó học tập tiếng Lôi Quốc, sống như người Lôi Quốc, thay tên đổi họ, quên đi hết thảy quá khứ, bắt đầu lại từ đầu."

"Tộc trưởng!" Một vị lão nhân quỳ ở hàng đầu nghe vậy liền ngẩng phắt đầu lên, lệ nóng doanh tròng, bi thương nhìn nàng.

"Tộc Lạc vĩnh viễn chỉ có thể tồn tại trên băng nguyên. Chúng ta đã lựa chọn rời xa cố thổ để tiếp tục sinh tồn, vậy cũng đã đến lúc buông tay rồi."

Đường Nguyệt nói đến đây, cặp sừng hươu trên tay nàng cũng đã tan thành tuyết trắng, rơi xuống sàn điện, rất nhanh sẽ tan thành nước, biến mất không còn dấu vết.

Nhiều tộc nhân nhìn thấy cảnh ấy, đều đã không kìm được khóc thành tiếng. Một người thanh niên cao to chợt ngẩng đầu, thành khẩn nhìn nàng, nói bằng tiếng Bắc Mục: "Tộc trưởng, chúng ta đều đi rồi, người ở lại đây biết phải làm sao?"

Một người khác liền nói theo: "Đúng vậy, tộc trưởng, huynh đệ chúng ta đều mất cha mẹ, từ nhỏ đã đi theo người, mệnh của chúng ta chính là ở bên cạnh người! Bảo vệ người cả đời!"

Đường Nguyệt lắc đầu, mỉm cười nhìn bọn họ. Nàng đứng thẳng lên, ngẩng cao đầu, đứng trước toàn bộ tộc nhân, nghiêm giọng nói bằng tiếng Bắc Mục: "Hôm nay là ngày cuối cùng ta làm tộc trưởng của các ngươi. Hỡi những đứa con của Lộc thần, thân nhân yêu quý của ta, đây là mệnh lệnh cuối cùng mà ta muốn các ngươi hoàn thành."

"Các ngươi, tất cả các ngươi, đều phải sống thật tốt!"

"Sau này, các ngươi có thể quên đi Thương Sơn sừng sững, có thể quên đi Bắc Hoang tuyết phủ vạn dặm, nhưng nhất định phải nhớ kỹ một điều!"

"Các ngươi đều là con cháu Lộc thần, sinh ra trong đơn thuần, lớn lên trong nhân ái, cuối cùng, sẽ hoan lạc mà ra đi. Chỉ có an nghỉ trong vòng tay của Lộc thần mới vĩnh viễn không còn đau khổ."

Đường Nguyệt nói xong, tất cả tộc nhân dưới chân nàng đều khóc nức nở thành tiếng. Quê hương, cố thổ, bây giờ thậm chí là tộc Lạc, tất cả đều đã không còn. Kể từ nay trở đi, bọn họ trở thành những kẻ không nhà, không có cố hương. Ai nấy đều bi thương khôn kể.

Đường Nguyệt lại nói với hai người thanh niên và lão nhân: "Từ nay trở đi, ta giao bọn họ lại cho các ngươi. Ngoài cung không thể so được với trong cung, bọn họ cần sự bảo hộ của các ngươi hơn là ta. Những người này đã từ bỏ tất cả để có thể sống tiếp, để huyết mạch của Lộc thần được duy trì. Ta không hi vọng lại có thêm tộc nhân vì ta mà hi sinh nữa. Các ngươi hãy coi như đây là vì ta mà thay ta chăm sóc những người này, được không?"

Ba người nghe nàng nói vậy, quay đầu nhìn nhau, cuối cùng đành chỉ có thể đáp ứng.

Đường Nguyệt hài lòng gật đầu, lại giao một chiếc rương lớn cho ba người, nói: "Bên ngoài hỗn loạn, các ngươi không thể mang theo nhiều hơn, nhớ phải cất kỹ. Những thứ này đều để các ngươi làm vốn, cho dù đi đến đâu cũng đừng để mình chịu thiệt. Hãy chia đều cho bọn họ đi."

"Tộc trưởng, đây là..."

Đường Nguyệt mở rương, bên trong đều là trân bảo, ngân lượng và ngân phiếu, xếp thành chồng đầy ắp.

Nàng thấy bọn họ ngây người không dám nhận, liền cười bảo: "Long đế đối với ta rất tốt. Ta ở đây không thiếu ăn thiếu mặc, những thứ này có nhiều hơn nữa cũng không để làm gì. Ngược lại là các ngươi, sau khi ra ngoài hãy dùng những thứ này làm vốn mà an cư lạc nghiệp. Đây là điều cuối cùng ta có thể làm cho các ngươi."

"Tộc trưởng..."

"Được rồi, ý ta đã quyết, đừng nói gì thêm nữa."

Đường Nguyệt vỗ tay, đứng dậy, nói: "Đã không còn sớm, ngày mai lên đường, đêm nay các ngươi hãy chuẩn bị thật kỹ. Tốt nhất là học người Lôi Quốc sửa lại trang phục và khẩu âm, sau khi ra khỏi cung lập tức phân thành nhóm tản ra nhiều hướng, sau đó mới tụ lại ở một điểm hẹn bí mật cách xa Đế Đô. Lược đồ và quần áo Lôi Quốc cũng phải chuẩn bị đầy đủ. Trẻ nhỏ và phụ nữ để người có võ công đi theo bảo vệ."

Nàng nói tới đây, vội vàng quay trở lại chủ tọa, đưa lưng về phía tộc nhân bên dưới, phất tay nói: "Các ngươi nhanh đi chuẩn bị đi, ngày mai đừng để trễ giờ khởi hành."

Tộc nhân của nàng lần nữa quỳ lạy, thành tâm hô một câu cuối cùng với nàng, sau đó mới lục tục đứng dậy rời đi chuẩn bị. Đường Nguyệt không muốn để họ nhìn thấy mình rơi nước mắt, hồi lâu sau mới chậm rãi xoay người, ngồi xuống chủ tọa.

Nàng thẫn thờ nhìn đại điện quạnh quẽ trống vắng, thở dài, lẩm bẩm một câu: "Tuyết Nhi, mẫu thân rút cuộc đã thật sự không còn gì nữa rồi."

......................

Thục Đức cung vừa bị Cấm vệ lục soát, lúc này ngổn ngang bề bộn, lại không ai mảy may có ý dọn dẹp. Hiện tại, toàn bộ hoàng cung đều biết Hiền phi nương nương phạm tội tày trời, đã bị phế bỏ, hơn nữa còn sắp bị đuổi về Bắc cương. Cung nhân người Lôi Quốc hầu hạ trong cung nàng đều lựa chọn đến hầu hạ nơi khác, chỉ còn lại vài người nàng mang theo từ tộc Du đang tất bật chuẩn bị hành trang để sớm hôm sau lên đường.

Bọn họ đều không ai chú ý tới một Hiền phi từng cao cao tại thượng, lúc này lại đầu tóc xõa tung, y trang xộc xệch, đang ngồi thẫn thờ giữa tẩm cung lộn xộn.

Nàng đã khóc cạn nước mắt, ánh mắt vốn trong trẻo, tràn đầy nhiệt huyết hiện tại lại chỉ còn một mảnh mờ mịt, tơ máu phủ kín.

Thái hậu bước vào, thứ đầu tiên nhìn thấy chính là tình cảnh như vậy.

Du Tuyết Nhi không có phản ứng với nàng, cũng không hành lễ, giống như không hề nhìn thấy Thái hậu, chỉ một mực ngẩng đầu nhìn về mái Phi Vân điện trạm hình rồng phía xa.

Thái hậu thầm thở dài, cũng không trách mắng nàng.

Đường Nguyệt nhặt lên một chiếc lược ngọc rơi trên đất, dịu dàng ngồi xuống chải lại mái tóc rối loạn cho nàng, chậm rãi nói: "Tuyết Nhi, năm xưa cô mẫu may mắn cứu được Bệ hạ, là ân đức cả đời này của ta. Thời gian qua, ta thân là tội đồ của tám tộc Bắc Mục, lại có thể sống không lo nghĩ trong hoàng cung, đều là nhờ vào Bệ hạ. Bản thân con cũng biết Long đế là người thế nào. Bệ hạ có rất nhiều cách để ép Bắc Mục chấp thuận minh ước, chẳng qua người muốn dân chúng Bắc cương mau chóng được yên ổn, cũng vì nể mặt ta và tộc Bắc Lạc năm xưa từng giúp đỡ, mới đồng ý nạp con làm phi. Trước khi con nhập cung, ta đã nói với con những gì? Con chẳng lẽ đều đã quên rồi sao?"

Du Tuyết Nhi lúc này mới có phản ứng, khàn giọng mở miệng: "Cô mẫu, Tuyết Nhi không quên, nhưng... nhưng cũng đều là vì Bệ hạ! Vì Bệ hạ không để ý tới con! Người không yêu con mà lại bị ả tiện nhân Cố Tu Dung đó mê hoặc, con mới phải làm thế! Cô mẫu, ả ta không hề yêu Bệ hạ, không hề đặt Bệ hạ vào trong mắt, vậy mà Bệ hạ lại cho ả ta chân tình! Con không cam tâm! Không thể cam tâm!"

Đường Nguyệt nghe tới đây, không nhịn được cao giọng mắng: "Hồ đồ!"

Nàng thở ra một hơi, lúc này cũng không muốn nổi giận với đứa nhỏ ngốc này nữa, chỉ nói: "Tuyết Nhi, Bệ hạ có khi nào thì bạc đãi con chưa? Con nhìn Bệ hạ tới Phụng Nghi cung nhiều như vậy, con cho rằng người thật sự yêu thương Thục phi kia sao?"

Du Tuyết Nhi vẫn không hiểu nổi. "Nếu không phải vậy thì vì sao? Vì cái gì?! Cung của nàng ta ở có một chữ Phụng, người gặp được Bệ hạ nhiều nhất cũng là nàng ta! Còn không phải là vì trong mắt Bệ hạ, nàng ta mới là người Bệ hạ yêu nhất hay sao?!"

Thái hậu dùng ánh mắt chỉ tiếc rèn sắt không thành thép nhìn nàng, cuối cùng không tức giận nữa mà chỉ lắc đầu, than: "Tuyết Nhi, con quá hồ đồ rồi!"

Nàng cũng hướng ánh mắt xa xăm về phía nóc Phi Vân điện, chậm rãi nói: "Tuyết Nhi à, trong hoàng cung này, chỉ e trái tim Bệ hạ chẳng thuộc về ai cả."

Du Tuyết Nhi sững người, mở to mắt nhìn lại Thái hậu.

Nàng vẫn luôn không nhận ra điều hiển nhiên ấy, hoặc có lẽ, bản thân nàng không muốn nhận ra. Nếu là Bệ hạ yêu thương Cố Tu Dung, nàng còn có thể đi tranh giành tình yêu ấy. Nhưng nếu người nàng yêu vốn dĩ là kẻ vô tình đến vậy, nàng còn có hy vọng gì nữa đây....

Thái hậu thở dài, nói tiếp: "Bệ hạ ngoài mặt tưởng như yêu chiều Thục phi, nhưng con nghĩ mà xem Bệ hạ là ai. Truyền thừa Thanh Long nào có phải thứ tầm thường, không những thế Bệ hạ còn có thể tu đạo, có linh lực hộ thân. Nếu Bệ hạ muốn, chỉ một lá bùa triệt tự đơn giản cùng vài mẩu xạ hương cũng có thể thật sự ngăn được long chủng sao? Quân hậu thì không tính, nhưng Bệ hạ nạp phi lâu như vậy, cũng từng sủng hạnh phi tần khác, tại sao lại không có một ai trong hậu cung hoài long chủng? Hơn nữa, năng lực của Bệ hạ khi còn ở Bắc cương không phải con cũng đã thấy rồi sao. Nếu Bệ hạ thực lòng yêu thương Thục phi, người sao còn để nàng ốm yếu bệnh tật triền miên như thế?"

Đôi mắt Du Tuyết Nhi đã sưng đỏ lên vì khóc. Nàng mới chỉ ngừng được một chút, lúc này nước mắt đã lại đong đầy, chực chờ rơi xuống. Nàng yếu ớt gọi một tiếng: "Cô mẫu..."

Thái hậu lắc đầu, nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng, lòng ngàn vạn tiếc nuối.

"Tuyết Nhi, con làm ra những chuyện này, đã chạm phải tối kỵ của Bệ hạ, không thể nào cứu vãn được nữa rồi. Con còn nhớ không? Ta từng kể cho con Bệ hạ thưởu nhỏ vì sao bị đuổi ra khỏi cung. Thân mẫu của Bệ hạ và Cố hoàng hậu vì sao mà chết? Vì sao ngay sau khi đăng cơ, việc đầu tiên Bệ hạ làm là vĩnh viễn bỏ đi hai chữ Đức phi, thay thành Nghi phi?"

Thái hậu càng nói càng xúc động.

"Con tưởng rằng những tranh đấu thường ngày giữa các phi tần Bệ hạ đều không biết sao? Mấy trò vặt đó, người nếu không nhìn ra, sao có thể xứng với danh chiến thần bách chiến bách thắng năm xưa? Sao có thể đảm đương ngai vị Long đế? Chỉ là, Bệ hạ ngầm đồng ý minh tranh, nhưng tuyệt không cho phép ám đấu, nhất là động tới tà thuật và mạng người!"

Du Tuyết Nhi như chợt hiểu ra tất cả, ngơ ngác nhìn nàng, trong mắt đong đầy sợ hãi và không cam lòng.

Thái hậu nhìn vẻ mặt ngây dại này của nàng, thực lòng hối hận lúc ấy đã đồng ý giúp nàng nhập cung. Cái lồng vàng hoàng cung này quả thực không thích hợp với người Bắc Hoang bọn họ, đều đã bị nhốt tới phát điên rồi.

"Tuyết Nhi à, ngày hôm nay, Bệ hạ không trực tiếp giết chết con đã là cực kỳ nhân nhượng." Nói đến đây, cả Thái hậu cũng không kìm được nước mắt nữa, giọt lệ nóng hổi lặng lẽ rơi xuống.

"Tuyết Nhi, chân tình của đế vương chính là thứ không nên truy cầu nhất. Đều đã đến nước này, con cũng nên buông tay thôi."

Thái hậu đã khuyên hết lời, cũng không muốn ở lại đây thêm nữa, lúc này liền đứng dậy rời đi.

Du Tuyết Nhi cố túm lấy vạt áo Thái hậu, nhưng lại chỉ có thể nắm được khoảng không. Nàng đau đớn gọi từng tiếng, gào lên: "Cô mẫu! Cô mẫu! Người giúp con đi! Con không thể cứ thế mà đi được! Con không thể sống thiếu Bệ hạ được! Cô mẫu!"

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip