chương 4 đến chương 6 (hết)
Chương 4.1: Chiếc hộp ma
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ nhất
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">CHIẾC HỘP MA
Một đoạn trong bia Vũ Vương – còn gọi là bia Câu Lũ, núi Hoành Sơn, tỉnh Hồ Nam
Mọi người đối chiếu bản đồ một hồi, suy đoán, chỗ này chính là chiếc hộp Pandora, nhưng tình hình bên trong thì vẫn chưa ai hình dung được, phải vào trong quan sát mới biết rõ.
Tư Mã Khôi bảo mọi người tạm thời nghỉ ngơi chốc lát, sau đó anh nói với Cao Tư Dương: “Từ khu vực gần cây cổ đại trèo ngược lên trên, có lẽ sẽ tìm thấy một đường hầm thông với mặt đất, nếu trong đó chưa xảy ra sụt lở, thì cô và Nhị Học Sinh có lẽ vẫn còn cơ hội trở về.”
Nhị Học Sinh nguây nguẩy lắc đầu, thể hiện ý chí kiên quyết theo chân hội Tư Mã Khôi đi đến cùng, chỉ có điều trong tay cậu có mỗi cây gậy gỗ, nên cậu ta cảm thấy không vững dạ lắm.
Hải ngọng khen Nhị Học Sinh: “Chú mày trông lẻo khoẻo vậy mà có chất ra phết, nói cho chú biết, theo anh đảm bảo không thiệt đâu mà sợ. Mà chú cũng đừng coi thường cái gậy gỗ này, trước giải phóng, ở Quan Đông có hội hiệp khách sơn cước, nói trắng ra đó là bọn chuyên đào nhân sâm trên núi. Hội này thường xuyên chui và những nơi rừng sâu núi thẳm, không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, bọn chúng thà không có cuốc xẻng, chứ trong tay kiểu gì cũng phải nắm chắc một cây gậy gỗ. Bọn chúng gọi nó là ‘tố bảo côn’, bên trên tố bảo côn lại treo một đồng tiền cũ, năm tháng càng cát tường càng tốt – ví dụ như năm Khang Hy hay Càn Long lên ngôi, chỉ khi có cây ‘tố bảo côn’ trong tay, thì mọi chuyện tự khắc dữ hóa lành, nạn hóa yên ngay tức thì.”
Tư Mã Khôi không rảnh ngồi nghe Hải ngọng khua môi múa mép, anh lại bảo Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh: “Nơi được đánh dấu bởi ký hiệu chiếc hộp Pandora này, rất có thể là một huyệt động nằm rất sâu dưới lòng đất, tôi cũng không biết bên trong tiềm ẩn những hiểm nguy gì, hai người may mắn sống sót trong đội thông tin bọn cô có thể sống đến ngày hôm nay là cũng coi mạng lớn lắm rồi, nhưng mỗi người chỉ có duy nhất một mạng sống, hai người phải tính toán kỹ càng rồi hãy quyết định.”
Lòng Cao Tư Dương sớm đã dự tính trước, vị trí đường hầm thông lên mặt đất nằm ở đâu, trong lòng nó có xảy ra sụt lở hay không, tất cả cô đều không biết, nếu không có nhân viên trắc họa chuyên môn như Thắng Hương Lân, thì cho dù trong tay nắm la bàn và bản đồ, cô cũng không thể tìm thấy đường .Vả lại, dẫu có quay lên được mặt đất, thì họ cũng vẫn phải loanh quanh trong cánh rừng nguyên thủy rộng vô biên bát ngát, nơi đó chim ác thú dữ gì cũng có, ai có thể sống sót thoát ra khỏi đó được? Giờ đây, hi vọng sinh tồn duy nhất chính là cùng hành động với hội Tư Mã Khôi, chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực, giúp đỡ lẫn nhau, thì cho dù có thật là sa chân xuống vực sâu vạn trượng, cũng không hẳn là không có đường về.
Tư Mã Khôi thấy Cao Tư Dương thể hiện rõ lòng quyết tâm, đã đến bước này thì không cần giấu giếm nội tình nữa. Thế là, anh liền kể rõ sự tình cho cô nghe, từ khi anh và Hải ngọng chạy đến Miến Điện tham gia phong trào cách mạng thế giới, sau khi đội du kích tan rã, hội anh chạy trốn vào khe cốc núi Dã Nhân thì gặp Nấm mồ xanh, những người bạn đồng hành xung quanh, kẻ thì tử nạn, người bị hại chết. Sau khi về nước, để vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh, các anh lại cùng giáo sư Tống Tuyển Nông tham gia vào đội khảo cổ, tiến vào kính viễn vọng Lopnor mà người Liên Xô khoan đào năm xưa, đồng thời dưới cực vực, hội anh đã biết được một số thông tin về tổ chức ngầm liên quốc gia Nấm mồ xanh. Tổ chức này có tham vọng thâm nhập vào tâm Trái đất để tìm kiếm một bí mật khủng khiếp nào đó. Liên quan đến bí mật này, hàng ngàn năm trước đã tồn tại vô số giả thuyết khác nhau, có thuyết nói nó là miếu thần, có thuyết nói nó là hắc động, lại có thuyết nói nó là một kẻ địch thời cổ đại. Nó giống như căn nguyên gây ra mọi tai nạn và sự khủng bố. Bất luận ý đồ của Nấm mồ xanh là gì, nhưng suy xét tận gốc rễ thì mọi tai họa này đều do hội Tư Mã Khôi gây nên, mạng sống của hội anh sớm đã bám riết lấy những ẩn số này, ý nghĩa duy nhất để hội anh tiếp tục sinh tồn, chính là đi tìm đáp án cuối cùng. Lúc này, chiếc hộp Pandora nối liền với những ẩn số đang ở ngay trước mặt, nhưng đây chỉ là sự khởi đầu, bởi con đường phía trước còn đầy rẫy bí ẩn và chết chóc.
Tư Mã Khôi kể vắn tắt toàn bộ ngọn nguồn câu chuyện cho hội Cao Tư Dương nghe, nhưng những nội tình có liên quan đến sóng điện u linh trong mật thất thành cổ, tàu ngầm hải quân Liên Xô bị mất tích, chiếc hộp thời gian trong cực vực và Triệu Lão Biệt với hành tung bí ẩn v.v… thì anh không hề nhắc đến nửa chữ, vì dù sao đi nữa những chuyện này quá sức li kì, cổ quái, sự việc lại liên quan tới nó lại nghiêm trọng, nên anh không muốn dễ dàng để lộ cho người ngoài biết.
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không ngờ sự việc này lại liên lụy sâu sắc như vậy, đối phương có ý giấu giếm thì cũng hợp tình hợp lý, nhưng Cao Tư Dương vẫn không dám cả tin, Nấm mồ xanh và chiếc hộp Pandora thì có liên quan gì đến nhau chứ?
Tư Mã Khôi biết việc này không nên quanh co giấu giếm thêm nữa, liền kể cho cô nghe câu chuyện bắt đầu từ trận lũ lụt lịch sử vào thời Hạ, Vũ Vương đào kênh dẫn nước lũ trong lục địa ra Vũ Khư, rồi ném tảng đá mà tộc người Bái Xà coi như thần vật xuống vực sâu nơi tâm Trái đất, hậu thế gọi vật này là bia Vũ Vương.
Người Bái Xà vọng tưởng sẽ đào được tấm bia đá đó, để thoát khỏi số mệnh nô dịch, bị vương triều nhà Hạ sai khiến, bởi vậy trong Vũ Khư mới tồn tại một lượng lớn những ghi chép thần bí và quái dị. Sau khi đội khảo cổ giải mã được long ấn triều Hạ, họ biết được trong động huyệt nơi núi sâu tồn tại một vật gọi là nhật quỹ, vật đó xuất hiện từ thời thị tộc Thần Nông gá gỗ làm ổ. Tìm thấy nó, họ mới tiến xuống được vực sâu, vì họ biết nhật quỹ có khả năng nằm trong động huyệt dưới biển Âm Dụ. Người Sở thời Xuân Thu Chiến Quốc rất sùng tín chuyện cúng bái, ma quỷ, họ cho rằng, huyệt động thông với mạch đất, dưới lòng đất là núi Bội Âm, chuyên giam giữ ma quỷ. Chuỗi huyệt động trùng điệp có tường bao quanh này, có lẽ đều được chạm khắc từ thời kì Sở U Vương cai trị. Những chuyện u minh kia tuy rằng khó phân biệt thực hư, nhưng chỉ cần lựa chọn đi vào chiếc hộp Pandora, thì dẫu cho không có âm hồn ác quỷ, cũng chắc chắn sẽ gặp nhiều hiểm nguy khó lường, điểm cuối của sinh mệnh là cái chết, nhưng con đường này lại chưa chắc đã có điểm tận cùng. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Cao Tư Dương không hiểu những chuyện như bia Vũ Vương lắm, lúc này không cần hỏi cũng biết Tư Mã Khôi sẽ tự mình hành động, cô trầm ngâm giây lát, rồi vẫn quyết định theo mọi người thâm nhập lòng đất. Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi: “Bây giờ tôi không còn đường quay về, huống hồ mạng sống của tôi cũng do anh cứu, vì vậy bất luận con đường phía trước chông gai thế nào, tôi cũng nguyện giúp anh một tay, mong rằng tất cả những gì anh vừa nói đều là sự thật”.
Mọi người thấy Cao Tư Dương đồng ý đi cùng, thì đều cảm thấy vô cùng phấn chấn. Tư Mã Khôi lập tức bắt tay bố trí mọi việc, dặn dò các thành viên phải tự kiểm tra súng ống đạn dược, những thành viên được phân phát súng liên thanh M-1887 lúc trước mang sáu phát đạn cỡ 12, dọc đường đã sử dụng mất một nửa. Anh liền lấy đạn dược phòng bị trong ba lô của Nhị Học Sinh ra bổ sung. Khẩu súng săn gấu của Hải ngọng nòng lớn nhưng tốc độ bắn lại chậm, lượng đạn tiêu hao ít, bốn loạt đạn cỡ 8 anh mang theo vẫn còn đủ dùng, có điều, đuốc chỉ còn hai phần ba. Tư Mã Khôi cảm thấy lượng dự trữ tiêu hao quá nhanh, liền bảo Nhị Học Sinh phụ trách gom những thanh đuốc đã cháy hết lại, nếu dọc đường phát hiện vật chất dễ cháy, thì có thể tái sử dụng, đồng thời đưa cho Nhị Học Sinh con dao săn của Thắng Hương Lân để phòng thân.
Thắng Hương Lân kiểm tra trang thiết bị vật tư một lượt, cô có vẻ lo lắng nói với Tư Mã Khôi: “Pin đèn quặng vẫn còn đủ dùng, vả lại thời gian chiếu sáng của đèn quặng lâu hơn đuốc, không những vậy, còn có thể đo được chất lượng không khí. Tôi dự đoán, số cácbua còn lại đủ duy trì chiếu sáng trong hai mươi ngày, chăn giữ ấm chỉ có ba chiếc, nếu thay phiên nhau sử dụng thì vẫn có thể tạm thời đối phó được, những chuyện này đều không thành vấn đề, vấn đề ở chỗ lượng lương thực chúng ta mang đi có hạn, chỉ đủ duy trì mấy ngày nữa thôi”.
Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ rồi nói: “Chuyện này không sao, lúc cần thiết có thể hái nấm vân chi ăn tạm cũng được. Phiền phức lớn nhất bây giờ là đi đến chỗ này, thì không sử dụng bản đồ tiếp được nữa…”, nói đoạn, anh bám lấy sợi rễ cây có đường kính tới nửa mét, nhoài người ngó vào trong, bỗng nhiên anh nghe thấy dưới lòng đất vọng lên một âm thanh quái lạ, như thể tiếng rồng gầm gào.
Tư Mã Khôi nghe thấy vậy, toàn thân bỗng nổi da gà, những người còn lại còn đang bận chỉnh đốn súng đạn, khi nghe thấy tiếng ma hờn quỷ khóc, ai nấy ớn lạnh hết cả người.
Hải ngọng hít ngược một hơi lạnh: “Tớ thấy tình hình này…. tám phần là ác ma bị giam cầm dưới núi Bội Âm rồi!”
Tư Mã Khôi muốn nghe rõ hơn, nhưng cả không gian lại chìm vào im lặng vô biên. Anh bất giác nói: “Sao tôi cảm thấy giống tiếng mèo đêm thế nhỉ?”
Hải ngọng nói: “Nghe nói tiếng mèo kêu đêm và tiếng quỷ khóc giống nhau lắm! Có điều dưới lòng đất thì khả năng cỏ quỷ vượt xa khả năng có mèo nhiều, huống hồ nghe thấy tiếng mèo kêu đêm cũng không phải điềm báo tốt lành gì. Nó đang ẩn nấp trong bóng tối để đêm lông mày của con người, đếm xong thì âm hồn sẽ nhào đến đòi mạng…”
Tư Mã Khôi nói: “Cậu không dọa mọi người thì ngứa miệng à? Từ giờ trở đi, chúng ta phải kiên trì tuân theo một nguyên tắc, bất kể gặp phải sự việc quái dị nào, cũng tuyệt đối không được lấy cái mình đã biết để luận bàn thứ mình chưa biết, mọi việc phải mắt thấy tay sờ thực tế mới được”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Thắng Hương Lân nói: “Lịch sử của huyệt động dưới lòng đất này đâu chỉ mấy vạn năm, ngay từ thời mạch núi Thần Nông Giá vẫn chưa đội từ lòng đại dương dậy nó đã tồn tại dưới hòn đảo cổ rồi. Khi ấy, đừng nói đến ma quỷ, ngay cả con người còn chưa có nữa là, bởi vậy truyền thuyết nhốt giữ ma quỷ trong núi Âm Sơn chỉ là tin đồn nhảm, có điều, những sinh vật không rõ nguồn gốc dưới lòng đất nhiều vô kể, hay là chúng ta cứ đốt lửa châm đuốc đi cho an toàn?”
Mọi người nghe xong đều gật đầu tán thành. Hải ngọng nói lái đi cho khỏi tẽn tò, anh bảo: “Nửa đời Hải ngọng tôi đã đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng của toàn nhân loại, điều tôi theo đuổi toàn là chân lý, chuyện tôi đàm luận cũng đều là chủ nghĩa, chết còn không sợ, thì sợ gì ma?”. Nói xong, anh đưa tay nhấp ít nước bọt, quệt lên lông mày, sau đó khoác súng săn lên vai, bật đèn quặng, đi trước dẫn đường.
Tư Mã Khôi thấy vậy, liền bảo Nhị Học Sinh châm đuốc, đứng ở vị trí an toàn nhất phía giữa đội. Huyệt động này vốn dĩ là hang đá trong núi, đường kính khoảng hơn trăm mét, thế chạy hiểm trở, gần như dốc đứng, lỗ huyệt chi chít, trông giống như vách tường ngoài của đấu trường La Mã cổ. Không những vậy, rễ của những loài thực vật tiền sử vừa dài lại vừa to, đoạn nhỏ nhất cũng phải bằng một vòng ôm, chúng thò ra từ các kẽ đá, dính thành một thể với vách tường động, quấn quanh lùm nấm gỗ mọc gân đó, tạo thành một mạng lưới trải dài miên man.
Mọi người giẫm lên những rễ cây mọc xiên, chậm chạp tiến từng bước vào bên trong. Tư Mã Khôi đi qua cửa động, dùng dao phát bớt đám nấm vân chi che chắn trước mặt, thò người vào trong quan sát. Mấy hang động này không sâu lắm, nhưng dưới lòng đất không có gió, không khí trong động cũng khó lưu thông, bởi vậy mấy bức bích họa cổ màu sắc loang lổ khắc trên vách, tuy vẫn còn có thể nhận diện một cách mờ nhạt, nhưng đa số đều thiếu mắt thiếu mũi, què chân cụt tay, không còn hình hài nguyên vẹn. Trong động, xương trắng chất chồng, không rõ đó là xương người hay xương thú.
Có một bức bích họa khắc trong lỗ huyệt đá vẫn còn bảo tồn được khá toàn diện, nó mô tả cảnh tượng ác quỷ xé thịt người ăn trong sương mù dày đặc, nạn nhân nửa thân dưới vẫn còn nguyên thân máu thịt, nhưng nửa thân trên đa bị gặm trơ xương, màu sắc bức tranh tươi rói, trông y như thật.
Tư Mã Khôi biết mấy bức tranh thời Chiến Quốc này đều lưu giữ rất nhiều thông tin quý giá, nhưng nội dung khủng khiếp, tàn nhẫn, máu me be bét trong bức tranh lại thực sự khiến người ta gai lanh sống lưng. Anh nghi hoặc trong lòng, bất giác nhìn thêm lát nữa, chợt phát hiện trong bưc tranh vẽ một chiếc hộp rất lớn, nắp hộp hé mở, bên trong lộ ra một bộ hài cốt, bốn phía quanh thân hộp chạm khắc hoa văn rồng phục, há miệng nhe răng. Tim Tư Mã Khôi đập thình thịch, đây liệu có phải là chiếc hộp Pandora không?
Những người còn lại cũng dừng chân xem xét bức tranh. Chiếc hộp Pandora là truyền thuyết phương Tây, ngầm ẩn dụ nguy hiểm gây ra do lòng hiếu kì của con người, có lẽ trên đời căn bản không hề tồn tại vật thực, càng không thể xuất hiện trong huyệt động dưới lòng đất được. Lúc trước, mọi người còn cho rằng đội thám hiểm Taninth đánh dấu ký hiệu này trên bản đồ, chỉ là lấy chiếc hộp Pandora làm cái tên thay thế cho hành động, nhưng không ngờ rằng, trong bức tranh của cổ quốc Sở từ hơn hai ngàn năm trước, lại thực sự tồn tại một chiếc hộp thần bí thế này.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ hai
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ĐẦU LÂU
Mọi người vô cùng kinh ngạc, ngặt nỗi âm khí trong huyệt động mạnh quá, khiến ánh sáng đèn cácbua cứ lập lòe ánh sáng xanh yếu ớt. Cả hội đành đứng ngoài cửa động thò đầu vào trong ngó nghiêng.
Mấy bức bích họa cổ sặc sỡ tiếp xúc đột ngột với không khí lưu thông bên ngoài, nên màu sắc tươi tắn bắt đầu trở nên mờ nhạt, nhưng may mà vẫn giữ được những đường nét, hình khối cơ bản, nên hội Tư Mã Khôi vẫn có thể nhận dạng được những nét chủ yếu của nội dung bên trong.
Nội dung bích họa tương tự với một câu chuyện. Bên cạnh chiếc hộp khắc họa hình một người, mình khoác áo bào đai ngọc, phía sau lưng rồng bay phượng múa, rõ ràng là tư thế của bậc đế vương. Phía đối diện ông ta là một người khác, đầu đeo mặt nạ ba mắt. Hai người dường như đang thì thầm mật ngữ ngay trước bộ hài cốt trong chiếc hộp. Phía trên họ chính là cảnh tượng rùng rợn: ác ma ăn thịt người.
Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Anh có hiểu nội dung bích họa nói gì không?”
Tư Mã Khôi tự nhận mình là thành viên đội khảo cổ, nhưng thực chất kiến thức về lịch sử của anh chỉ dừng lại ở trình độ vỡ lòng, thấy nội dung bích họa li kì, âm u, anh cũng không biết nội dung chính xác của nó là gì, liền phịa đại ra một câu chuyện để lấp liếm với Cao Tư Dương: “Tôi nghĩ, chắc tay Sở Vương này đang đàm luận chuyện cõi u minh với đại thần của lão ta, xem làm cách nào để mình trường sinh bất tử. Có điều, nhân thế tan nhanh như mây khói, tuy lão ta xuất thân là bậc vương hầu cao quý, nhưng cuối cùng cũng khó tránh khỏi bánh xe của số mệnh mà hóa thành đống xương trắng.”
Hải ngọng cũng thêm lời cho xôm chuyện: “Chắc chú Sở này lo sau khi chết đi xuống âm ti, sẽ bị ác ma ăn tươi nuốt sống đây mà”.
Nhị Học Sinh thắc mắc: “Sao trên mặt vị đại thần lại đeo mặt nạ? Còn bộ hài cốt trong chiếc hộp là hài cốt của ai thế nhỉ?”
Tư Mã Khôi và Hải ngọng đều im thin thít như bị bịt miệng, không biết phải trả lời thế nào, bức bích họa có từ thời cổ xưa, cách đây những hơn hai ngàn năm, ai mà biết được trong đầu con người cổ đại khi đó nghĩ cái quái quỷ gì.
Thắng Hương Lân nói: “Sở U Vương cuồng tín Vu thuật, ông ta thường mang theo một vị chủ tế thông thiên đeo mặt nạ đồng xanh bên mình. Vì vậy, nhân vật mặc áo bào đai ngọc kia có lẽ là Sở U Vương, nhưng câu chuyện khắc vẽ trên bích họa thì tôi chưa từng thấy ghi chép trong sử sách. Với những gì chúng ta đã biết, đã nhìn, thì không thể suy đoán ra nổi nội dung của nó đâu”.
Tư Mã Khôi cũng hiểu đôi chút về sự tích Sở U Vương. Nghe nói năm đó, Vũ Vương thảo phạt, chiến công hiển hách lừng lẫy bốn cõi trời đất, lập ra cơ nghiệp hơn tám trăm năm của nhà Chu. Khi đó, xã hội vẫn chưa có khái niệm chế độ trung ương tập quyền, mà chia đất phong hầu cho mỗi nước nhỏ tự cai quản, cả thảy phong 72 nước, trong đó có Sở quốc. Chế độ này truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì các chư hầu chia rẽ, nước Sở là vùng lãnh địa rộng trên năm ngàn lý
(1)
, bái huyền điêu làm thần, thế lực vô cùng hùng hậu, còn thời điểm Sở U Vương chấp chính đã là thời kì cuối, bởi chẳng mấy năm sau khi ông ta chết đi thì nước Sở bị Đại Tần tiêu diệt. Mộ phần của U Vương bị bọn quân phiệt cấu kết với lũ người Tây khai quật, hủy hoại vào những năm Dân quốc, một lượng lớn cổ vật lưu truyền vào dân gian. Khả năng đội thám hiểm Taninth cũng từng tham gia phi vụ đào mồ quật mả này, bởi vậy họ mới phát hiện ra huyệt động dưới khe Âm Hải thông qua các bức bích họa trong mộ U Vương. Nhưng còn việc chiếc hộp đựng bộ hài cốt kia xuất hiện khá nhiều lần trong bích họa của Sở quốc, thì rất không bình thường, nhưng nhất thời, hội Tư Mã Khôi cũng không phát hiện ra manh mối gì, đành quan sát thêm các huyệt động còn lại.
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1]<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> Lý:<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> Đơn vị độ dài th<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ờ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">i xưa của Trung Hoa, bằng khoảng 0,5 km.
Bích họa trong động đá bị bong tróc, hủy hoại nghiêm trọng, chỉ nhận dạng được non nửa; có điều, nội dung dường như đều liên quan đến nhau, xem hai đầu mút cũng không khó đoán ra phần nội dung ở giữa, chỉ có sự kiện được ghi chép trong đó thì vô cùng quái dị, khó hiểu. Ngoài Sở U Vương ra, còn có một cô gái trẻ phong thái thướt tha, yểu điệu, rất bắt mắt. Cô gái đó eo thon, tóc búi cao, mình mặc áo tay rộng, váy dài, mấy bức bích họa khác đều vẽ thi thể và quan tài của cô ấy.
Nội dung mấy bức bích họa này rất đỗi li kì, bí ẩn. Theo Tư Mã Khôi lý giải, nó hình như ghi chép lại sự việc Sở U Vương xin bộ hài cốt đựng trong chiếc hộp một quẻ bói, và được vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh phán rằng, đại họa sắp giáng xuống đầu ông ta, bởi sẽ có vô số âm hồn đến đòi mạng, điều này khiến Sở U Vương khiếp sợ, cả năm không dám ra khỏi cửa.
Một ngày, có người bắt được một con bạch ngư hiếm gặp trên sông, mang đến dâng vua. U Vương nghe nói bạch ngư là do long xà biến hóa thành, ăn vào có thể trường sinh bất tử, liền lệnh cho người hầu đem nấu chín con cá, rồi bản thân ăn một nửa, nửa còn lại để phần con gái. Con gái Sở U Vương thấy nửa con cá trắng, vừa xấu hổ lại vừa tủi giận, phẫn nộ quát: “Thụ vương để cho ta con cá đã ăn mất một nửa, là hạ nhục ta. Ta còn mặt mũi nào sống trên đời nữa?”. Thế là, nàng treo cổ tự vẫn.
Sở U Vương mất con gái, trong lòng vô cùng đau khổ, táng thi thể con gái ở cổng tây ngoài thành, quan tài bằng đá khảm vàng ngọc, còn chôn theo rất nhiều kì châu dị bảo như bình bạc, yếm ngọc làm đồ bồi táng, nhưng chuyện này luôn được giữ bí mật, không truyền ra ngoài. Lão ta lại ra lệnh thả chim ưng trắng ở trong thành, mời bách tính đến chiêm ngưỡng, sau đó cho người dụ chim ưng và vô số nam thanh nữ tú cùng xuống mộ đạo công chúa, rồi đột ngột đóng cánh cửa đá ngàn cân. Tất cả mọi người bất phân thiện ác đều bị chôn vùi trong mộ. Lão ta đã dùng cách này để tuẫn táng người sống theo người chết.
Sau đó, hàng đêm Sở U Vương chỉ cần chợp mắt, là thấy những oan hồn tức tưởi tìm đến. Lão ta hoảng hốt ăn không ngon, ngủ không yên. Vu thuật cho rằng: “Người chết thì cương, cương thì huyết mạch kiệt, kiệt thì tinh lực diệt, diệt thì hình hài ruỗng, ruỗng thì hóa cát bụi. Duy chỉ âm hồn không siêu thoát mới hóa thành dị vật, ngụp lặn trong vực sâu cửu tuyền”.
Vì sao nói sau khi con người chết, âm hồn sẽ ngụp lặn dưới vực sâu cửu tuyền? Bởi vì thời xưa cho ràng, dưới đất có hoàng tuyền, đó chính là dòng nước ngầm phân bố theo tầng thứ, nơi sâu nhất phải xuyên qua chín dòng suối. Lăng mộ Tần Thủy Hoàng được xây dựng ở địa điểm rất sâu, mà căn cứ theo sử sách ghi chép thì “xuyên qua tam tuyền mới đặt quan tài”. Điều đó có nghĩa, chỗ đặt quan tài đã sâu xuyên thấu ba tầng nước ngầm dưới đất. Vực sâu cửu tuyền cũng không hẳn có chín tàng nước ngầm thực sự, mà chín chỉ là con số ám chỉ sự cực điểm, ý muốn nói nơi đó là sâu nhất, không thể sâu thêm nữa, đấy là cõi u minh mà người sống không thể đặt chân đến, chỉ có vong hồn mới tới được mà thôi. Trước đây, người ta thường nói: “Nhắm mắt xuôi tay xuống cửu tuyền”, cửu tuyền ở đây chính là vực sâu cửu tuyền. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tương truyền, phía dưới biển Âm Dụ có một huyệt động, nơi sâu nhất thông trực tiếp với mạch đất. Sở U Vương tin rằng, đó chính là vực sâu cửu tuyền, giờ đây mộng thấy điềm gở, khả năng là ác quỷ từ lòng đất ngoi lên đòi mạng. Lão ta ngẫm lại việc ngày trước, trong lòng không khỏi day dứt nỗi ân hận muộn màng, nên ra lệnh cho người mang tất cả những bảo vật quý giá nhất ném xuống lòng động để trấn tà. Nhưng chẳng bao lâu sau, vị Sở U Vương kia vẫn phải về âm ti nộp mạng.
Tư Mã Khôi nói với mọi người phân tích của mình: “Nếu lão Sở U Vương kia không quá mê tín những chuyện ma quỷ ấy, thì chưa biết chừng cũng không chóng chết đến vậy, kì thực trên đời làm gì có dị thuật tiên tri? Đó chẳng qua là sợ cái gì thì gặp cái đó, càng lo lắng thì càng dễ xảy ra chuyện, đon giản là ứng với định luật Murphy mà thôi.”
Hải ngọng nghiến răng ken két: “Lừa bao nhiêu người xuống mộ đạo, rồi chôn sống làm đồ tuẫn táng. Đúng là tàn độc và thất đức hết chỗ nói! Hải ngọng tớ chưa bao giờ gặp thằng cha nào mất nhân tính như lão ta!”
Cao Tư Dương nghi rằng, Tư Mã Khôi chỉ xuyên tạc bậy bạ hoặc thêm mắm thêm muối cho thêm phần sinh động chứ chuyện này không thể xảy ra ở ngoài đời thật, bởi cô thấy nhiều tình tiết không hợp tình hợp lý cho lắm. Sở U Vương không nỡ ăn cá một mình, mới nhường một nửa cho con gái, đây là tấm lòng thương yêu của người cha đối với con, vậy tại sao con gái lão ta lại tự sát? Trên thế giới này làm gì có người nào ngu đần, khờ dại như thế chứ?
Hải ngọng nghe Cao Tư Dương nói, cũng thấy có lý, bỗng nhiên nhớ tới người bố La Vạn Sơn từng phải ngồi tù của mình, anh bất giác thở dài: “Nếu ông già nhà tớ còn sống, thì chắc chắn sẽ đánh sạch bách cả con cá cho mà xem, may ra để phần tớ bộ xương chỏng chơ. Nhưng dẫu thế tớ vẫn thấy rất vui…”
Thắng Hương Lân lại cảm giác lời Tư Mã Khôi nói không sai, cho dù không trùng khớp toàn bộ, thì cũng không chênh với sự thật là bao. Câu chuyện vẽ trong bích họa đã xảy ra từ hơn hai ngàn năm trước, chế độ và cách nhìn nhận đánh giá sự việc của người cổ đại không giống với người hiện đại chúng ta. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, người ta rất coi trọng phẩm giá, coi nhẹ sinh tử. Giới quý tộc làm sao chịu ăn thức ăn thừa giống như kẻ nô lệ được?
Tư Mã Khôi nói: “Đúng thật mỗi em gái là hiểu ý anh. Thời nhà Thanh cũng cách đây chỉ mấy chục năm thôi, thế mà người phụ nữ vẫn còn phải giữ đạo tam tòng tứ đức, không được ra ngoài nửa bước nữa kìa! Nhưng các cậu xem, bây giờ đại diện đa số phụ nữ cách mạng như cô Khánh
(2)
, chị Giang
(
3
)
, có bao giờ phải lo lắng vì mấy chuyện nội trợ dưa cà mắm muối vặt vãnh đâu?”
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[2] <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Cô Khánh<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">: hình tượng nhân vật phụ nữ hiện đại trong tiểu thuyết “Đấu trí”.
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[3] <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Chị Giang<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">: là tên gọi thân mật của liệt sĩ cách mạng Giang Trúc Quân.
Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi càng lúc càng xa đề, liền nói: “Thực ra, chuyện bích họa có liên qua đến Sở U Vương ăn bạch ngư, tuẫn táng người sống hay không, thì cũng không quan trọng, mà câu đố thực sự nằm ở chiếc hộp đựng hài cốt đằng kia cơ. Tôi cảm thấy bộ hài cốt này không phải hài cốt người”.
Mọi người vừa thì thầm bàn tán, vừa dò đường xuống sâu hơn, phát hiện nội dung những bức bích họa ở nhiều nơi trong huyệt động, còn sót lại đến tận ngày nay, ngắt quãng lúc có lúc không, đề cập đến nhiều sự vật như “thần linh ma quái, chim trời cá bể, hoa cỏ muông thú” v.v. .. Mỗi bức đều thể hiện trạng thái thiện ác, số lượng bích họa nhiều không đếm xuể, trong khi đó những bức bích họa có vẽ hình chiếc hộp thì lại vô cùng ít ỏi. Chiếc hộp thần bí dường như là một bảo vật của nước Sở, đồng thời cũng là đồ tế lễ vô cùng quan trọng, mà ngay cả bích họa trong địa cung mộ Sở U Vương cũng có bóng dáng của nó, nhưng lịch sử thì lại không để lại bất kì ghi chép nào. Điều này càng khiến nó trở nên quái dị, thần bí hơn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Bên trong chiếc hộp đựng một bộ hài cốt, nếu dựng đứng dậy có lẽ cao gấp rưỡi Sở U Vương. Đúng như lời Thắng Hương Lân nói, bộ hài cốt đó nhìn thế nào cũng không giống hài cốt loài người, xương sọ và hốc mắt rất nổi bật, trên trán mọc thêm một con mắt nằm ngang. Chiếc hộp đựng hài cốt cũng không giống hình quan tài, mà dường như từ trong ra ngoài đều ẩn chứa một ý nghĩa nào đó không thể giải đáp. Nhưng nếu bảo bộ hài cốt đó không phải của loài người, thì lúc còn sống, nó là thần thánh phương nào? Vì sao hài cốt của nó lại trở thành vũ khí bí mật của nước Sở?
Trong đầu mọi người liên tiếp đặt ra vô số câu hỏi. Những nghi vấn này lại không thể tìm thấy lời đáp qua các bức bích họa, mà phong cách bích họa thời Sở vô cùng kì quái, đề tài lại thần bí, nên nhiều nội dung khiến người thời nay không thể lý giải được; có điều, chiếc hộp của Sở U Vương vẫn rất có khả năng thực sự chứa đựng vật này, không chỉ vậy, nó vẫn đang nằm ở nơi sâu trong lòng đất phía dưới biển Âm Dụ.
Nhị Học Sinh cho rằng, các chủng loại thực vật cổ đại sinh tồn trên hòn đảo này phần lớn đã chết khô, chỉ giữ nguyên diện mạo ban đầu giống như cái xác, còn các loài thực vật như nấm gỗ hay nấm vân chi, mọc ký sinh trên bề mặt sinh trưởng um tùm rậm rạp khác thường, hiện tượng này thực sự rất khó giải thích. Nhưng chẳng lẽ trong chiếc hộp kia tồn tại một thứ sức mạnh thần bí nào đó có thể duy trì sinh mệnh? Càng nghĩ, anh chàng càng phấn khích, cộng thêm mắt mũi tèm nhèm sẵn, Nhị Học Sinh đâm sầm vào một sợi dây leo treo vắt vẻo giữa không trung, khiến suýt nữa ngã lộn cổ khỏi vách đá dựng đứng. Anh chàng vội vàng tóm lấy rễ cây bên cạnh, lỡ tay đánh rơi thanh đuốc.
Nơi sâu trong địa động bao phủ sương khí dày đặc, lửa đuốc vừa rơi vào màn sương thì lập tức mất ánh sáng chỉ nghe “tõm” một tiếng, như thể bị rơi xuống nước rồi vụt tắt vậy.
Tư Mã Khôi nghe động tĩnh, phát hiện mặt nước cách chỗ mọi người đang đứng rất gần, nhiều nhất cũng chỉ mười mấy mét. Anh ngạc nhiên tự hỏi: “Phía dưới là đầm nước sao?”
Mọi người mò mẫm theo dây leo, đi xuống dưới, xuyên qua màn sương mỏng, họ tiến lại gần đáy hố. Địa thế ở đây lồi lõm, trong rãnh nước trũng đọng lại nhiều vũng tù ngấm nước từ trên cao xuống, có một pho tượng thú đeo khuyên tai vàng nằm nghiêng trong nước, thể tích rất lớn, bề mặt han rỉ và mọc đầy rêu xanh. Hai tai giống tai hổ, bị chìm dưới nước một nửa. Trên một gốc cây to nổi xù xì gần đó, vương vãi vô số những cổ vật như đao kiếm, chum đĩa v.v… còn có minh khí đồng xanh đủ các hình thù như chim muông, rồng phượng. Màn sương khí bay là là ở nơi sâu, ánh đèn quặng không thể chiếu sáng đến tận đó được.
Tư Mã Khôi tránh mặt nước, tung người đáp xuống một cái rễ cây, anh nhớ lúc trước nghe thấy ở đây phát ra âm thanh quái lạ, liền nhắc nhở Cao Tư Dương đang đi ngay phía sau phải thật thận trọng.
Cao Tư Dương gật đầu. Để tiện hành động, cô treo đèn cácbua lên cạnh ba lô, vác súng liên thanh M-1887 quan sát địa hình xung quanh, khi vừa mới quay người lại, cũng không biết đã nhìn thấy thứ gì, nhưng suýt nữa thì cô đã thốt lên thành tiếng nên vội vàng giơ tay tự bịt miệng mình lại.
Tư Mã Khôi cảm thấy sau lưng có sự lạ, liền quay đầu lại nhìn, rồi cũng thấy vô cùng kinh ngạc. Thì ra, phía sau đám dây leo khô thò ra một khuôn mặt người hình vuông, cao chừng ba bốn mét, gương mặt đó vừa hao hao giống người, lại hao hao giống thú, trang trí hoa văn quỳ long với vảy và lông vũ, nét mặt phẫn nộ, đáng sợ, chứa đầy vẻ đe dọa.
Tư Mã Khôi thấy nó hung dữ nhưng bất quá cũng chỉ là pho tượng mặt quỷ, không phải vật sống thì đâu có gì đáng sợ?
Lúc này, Cao Tư Dương mới giơ tay chỉ qua đó, thầm thì: “Anh có nhìn thấy…. cái kia không?”
Tư Mã Khôi nhìn theo hướng tay cô chỉ, nhích bên trên pho tượng ma, trong khe giữa tầng nham thạch và đám dây leo, anh thấy có một thứ trắng ởn, hình giống như đầu người, trên mặt cũng có mắt mũi tai miệng, không rõ có tứ chi hay không, nhưng dường như chỉ có mỗi cái đầu nổi bập bềnh giữa không trung.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ ba
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ĐÈN CHIẾU U
Toàn thân Tư Mã Khôi nổi da gà, khi anh định thần nhìn lại thì không thấy nó đâu nữa. Cái đầu đột nhiên chìm vào màn sương dày đặc. Anh đuổi theo cái đầu, phạt những sợi dây leo vướng víu trước mặt, phát hiện thấy phía sau bức tường dây leo và cây cổ thụ là một đầm nước tù đen ngòm và lạnh lẽo, mặt nước phẳng lặng, trải rộng mênh mông, căn bản không tìm được chỗ đặt chân. Anh thầm nghĩ, chẳng lẽ là “phi đầu man” chăng? Năm xưa, trong rừng rậm Miến Điện, nhiều dân địa phương đã cắt thủ cấp của tù binh, rồi cắm sọ người chết lên một cọc nhọn để nó phong hóa. Nghe nói, những chiếc sọ người này thường bay đi cắn người vào ban đêm, nên ngay cả bọn thực dân Anh Pháp nghe nhắc đến nó cũng phải tái mặt, thế nhưng thời kì Sở quốc cổ vẫn chưa tồn tại truyền thuyết về phi đầu man.
Cao Tư Dương chưa xác định rõ mục tiêu thì không bao giờ tùy tiện nổ súng. Từ trước đến giờ cô không tin những chuyện ma quỷ, nhưng vật vừa xuất hiện rõ mồn một khi nãy đã khiến cô không biết giải thích thế nào.
Lúc này, ba người còn lại cũng lần lượt tụt dây trèo xuống, sau khi nghe kể, ai nấy đều kinh ngạc tột độ.
Tư Mã Khôi vẫn chưa nhìn kỹ vật đó trông thế nào, liền bảo Nhị Học Sinh châm lửa thắp sáng ngọn đuốc, đoạn quay sang dặn mọi người, nơi đây không có người, vì vậy chỉ cần phát hiện tình hình bất ổn là có thể lập tức nổ súng. Bây giờ, chúng ta đã có súng và lửa phòng thân, nếu quả thực có thứ gì không sạch sẽ, thì nó cũng phải biết điều lùi lại ba bước.
Mọi người không dám lơ là, dò dẫm từng bước xuống đáy huyệt động, nơi có pho tượng điêu khắc mặt quỷ, để soi đèn cácbua thám thính. Huyệt động này dường như là hố tế lễ, đường kính rộng cả trăm mét, độ sâu cũng tầm trên dưới trăm mét, quy mô khá rộng lớn. Có điều, màn sương mỏng trong động giăng mắc mênh mông, không khí tràn ngập cảm giác âm u, tà mị. Đáy hố vô cùng rộng rãi, dây leo quấn quýt bám chặt vách động, ven rìa toàn là vũng tù sâu hút, pho tượng điêu khắc cao lớn sừng sững nhìn xa xăm về phía đối diện, tựa như thể nó đang âm thầm lặng lẽ bảo vệ một vật gì đó trong bóng tối quánh đặc. Các đồ vật bằng vàng, ngọc hoặc đồng xanh đủ mọi hình thù vương vãi khắp nơi, dưới chân cũng có những phiến đá khắc hoa văn mây cuốn, nhưng bọn Tư Mã khôi không thể nhận dạng nó rốt cuộc là vật gì.
Nhị Học Sinh thấy hai mắt như không đủ dùng, bởi dường như sau mỗi vết tích vô cùng nhỏ bé lại đều ẩn chứa một bí mật ảo diệu vô cùng tận, anh chàng bất giác than: “Sở quốc đã diệt vong hơn hai ngàn năm, những cổ vật này đều bị ngủ quên dưới lòng đất, đúng là trách mình mau thịnh, trách người chóng suy mà….”
Hải ngọng cũng cảm khái: “Cánh tay có to khỏe đến đâu cũng chẳng thể ngăn được bánh xe lịch sử lăn về phía trước. Chú đừng ngồi đấy lo bò trắng răng nữa”. Đoạn anh quay sang hỏi Tư Mã Khôi: “Chẳng phải cậu bảo huyệt động này thông thẳng xuống mạch đất à? Sao… sao chưa gì đã thấy đến đáy thế này?”
Tư Mã Khôi nhướn mắt nhìn tứ phía, xung quanh tuy vẫn có chút ánh sáng yếu ớt phát ra từ những hợp chất hữu cơ, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng hạn chế, còn đèn quặng chỉ đủ soi sáng một một vạt, nếu lờ dờ dò dẫm tìm kiếm, thì không biết bao lâu mới biết rõ tình hình phải đối mặt lúc này, nhưng ngay bây giờ anh cũng không có cách gì khác, đành bảo Hải ngọng: “Chắc còn có huyệt động khác thông tới nơi sâu hơn. Chúng ta thà nghi lầm chứ không thể bỏ sót, trước tiên phải nắm rõ địa hình đã “ Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Mọi người thấy ven rìa đáy động phần lớn đã ngập trong nước tù, bởi vậy cả hội chỉ có thể giẫm lên cây, đi vào giữa. Chưa đi được mấy bước, họ đã thấy trong mặt nước trước mắt lộ ra những vật hình trụ vô cùng kì dị. Trụ đá trên nhọn, dưới to, dài ngắn, cao thấp khác nhau, nhưng mỗi trụ đều to bằng cả một vòng tay, bề mặt khắc hoa văn vảy giáp, trình độ điêu khắc vô cùng tinh tế, các trụ đá bao quanh một bệ đá, ngoài ra còn có hai con kì lân nét mặt hung ác men cột bò xuống.
Tư Mã Khôi vừa soi đèn quặng vừa nghĩ thầm: “Mấy trụ đá này hình thù rất kì quái, như thể đó là móng vuốt của một pho tượng thú khổng lồ nào đó. Pho tượng lại chìm quá nửa dưới nước, thể tích to lớn kinh người, nên phạm vi chiếu sáng của đèn quặng và lửa đuốc đứng trước nó cũng nhỏ bé chẳng khác nào ánh sáng đom đóm….”
Lúc này, trên mặt nước im lìm bỗng nhiên khuấy động một làn sóng nhẹ. Anh lập tức cúi sát đầu nhìn, chỉ thấy dưới đáy nước có một người đang ngẩng mặt nhìn anh chằm chằm. Nước ngầm dưới lòng đất trong vắt, nhưng vì nằm trong địa động không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày nên nó trông càng u tối và sâu thẳm hơn. Tư Mã Khôi biết, cái bóng bập bềnh dưới nước chắc chắn không phải bóng mình. Anh bất giác cúi thấp người, chậm chạp tiến gần mặt nước, định bụng quan sát cho rõ hơn.
Hình dạng cái đầu càng lúc càng rõ nét hơn nó giống như một người lùn màu trắng, nhưng chỉ thấy phần đầu chứ không thấy tứ chi, trông rất giống với cái đầu mà anh thấy trôi dập dềnh sau rặng dây leo khi nãy. Cái đầu bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi nhảy vọt từ đáy nước lên không trung, lao bổ vào mặt Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi không ngờ vật dưới nước lại biết bay, anh kinh hãi thất sắc, bởi tình thế cấp bách, trong lúc vội vã không kịp nghiêng người né tránh, Tư Mã Khôi đành giương khẩu súng M-1887, cuống quýt giơ báng súng ra đỡ trước mặt, và chỉ nghe “sột” một tiếng, như thể hàm răng sắc nhọn đang liên tiếp cắn vào báng súng gỗ.
Mọi người nghe động tĩnh, mới phát hiện có một thứ màu trắng bám trên báng súng của Tư Mã Khôi. Vật thể đó hao hao giống sọ người chết, từa tựa như cá, phần đầu giống sọ của người lùn, miệng rộng mang ngắn, trong mồm có vô số răng nhỏ ngọn hoắt xếp mau rít, phần thân sau thuôn dài, mình không có vảy, da giống cá giáp
(1)
, sau mang mọc hai cặp vây cánh giúp chúng rời khỏi mặt nước bay lên không trung. Lúc này, “con cá” đang cắn báng súng gỗ của Tư Mã Khôi, hàm răng sắc nhọn cắn ngập sâu vào trong, nó cố giơ vây giương cánh định bay, nhưng do cắn sâu quá nên chịu chết không thoát ra được. Dù vậy, sức mạnh của nó vẫn rất khủng khiếp, khẩu M-l 887 trong tay Tư Mã Khôi suýt chút nữa đã bị nó lôi xuống nước.
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1]<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> Cá giáp (tên khoa học: Ostracodermi, nghĩa là ‘‘bọc da giáp<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">,<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> bọc da vỏ”<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">,<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> là tên gọi chung để chỉ bất kỳ nhóm cá không hàm (thời nguyên thủy, đã tuyệt chủng) với một số phần nào đó của cơ thể được che phủ bằng một lớp giáp có cấu tạo từ ch<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ấ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">t xương<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">.
Tư Mã Khôi từng xem Sơn Hải Đồ trên đỉnh Vũ Vương, cũng thấy loài cá quái dị với hai cặp vây giống như cánh, thì đoán có lẽ nó là giống cá Lycoptera, một loài thuộc bộ cá rồng, đã tuyệt chủng từ cuối kỷ Phấn trắng, chúng chuyên ẩn mình ở những vùng nước tĩnh dưới lòng đất, có khả năng nhảy vọt khỏi mặt nước săn mồi, tập tính hung tàn khát máu. Lúc này, anh bỗng nhiên gặp phải một một con cá rồng sờ sờ ngay trước mắt, thì mới biết loài cá này hung hãn, đáng sợ đến thế. Nếu khi nãy anh không kịp thời giơ súng che chắn thì đã bị nó cắn rách một mảng thịt lớn rồi.
Tư Mã Khôi gí báng súng xuống đất, gọi Nhị Học Sinh lấy mũi giáo gỗ đâm thủng con cá rồng, rồi dùng hết sức gỡ nó ra.
Thắng Hương Lân thấy cảnh ấy, cô lập tức nảy sinh một dự cảm không lành: “Dưới đáy huyệt động này có loài cá ăn thịt người sinh sống, chứng tỏ nó không phải là vùng nước chết….”
Lời còn chưa dứt thì một loạt cá vảy rồng từ vùng nước xa đã “chiu” một cái nhảy vọt lên không trung. Lúc này, mọi người đã có sự phòng bị trước, nên Hải ngọng lập tức giương súng bóp cò, phạm vi sát thương của đạn số 8 rất lớn, con cá rồng đâm vào họng súng liền tan xác thành mảnh nhỏ ngay tức thì.
Lúc này, vô số cá rồng từ đáy nước bơi lên. Những con cá Lycoptera bị dòng nước cuốn trôi xuống đây, chúng bắt phù du làm thức ăn. Loài cá này đẻ trứng rất nhanh, không ngừng sinh sôi nảy nở thần tốc, trong khi đó số lượng phù du lại có hạn, nên tất cả sinh linh khác trong động đều đã bị chúng tiêu diệt sạch, bởi vậy lúc nào chúng cũng trong trạng thái đói khát cực độ. Giờ đây, chúng tụ tập thành bầy thành đàn bơi trên mặt nước, rồi lao bổ vào hội Tư Mã Khôi tấn công như vũ bão.
Mọi người đang đứng trên gốc cây ẩm ướt, chật chội, tứ bề trống trải, chỉ thấy bọn cá Lycoptera bay vù vù đến từ bốn phía. Sự cố xảy ra quá bất ngờ, cả hội chỉ còn biết gắng sức phòng ngự, con ở xa thì bắn, con ở gần thì chặn lại bằng báng súng.
Cao Tư Dương không hổ danh là xạ thủ bách phát bách trúng, cô liên tiếp hạ gục mấy con cá bay ăn thịt người. Cao Tư Dương đang chuẩn bị nạp thêm đạn, thì phát hiện có thứ gì đâm sầm sau lưng, trọng lượng ba lô tăng lên đột biến. Cô đổ nhào người về phía trước, suýt chút trượt chân xuống nước, quay đầu lại nhìn thì thấy hai con cá đang giằng xé ba lô của cô, thân mình chúng ngoáy loạn xạ, nhất quyết không chịu nhả ra, trong mồm chúng liên tục phát ra những hỗn âm đáng sợ.
Tư Mã Khôi phát hiện Cao Tư Dương gặp nguy cấp, anh tiện tay rút dao săn chém mạnh xuống, lập tức phanh thây hai con cá ăn thịt người thành bốn mảnh, nhưng cũng lúc này anh lại bị lộ sơ hở. Tư Mã Khôi chỉ cảm thấy cánh tay nhói một cái; tuy anh tránh né rất mau lẹ, nhưng con cá rồng thần tốc liệng bên cạnh vẫn kịp xé rách một miếng thịt, máu chảy ra không ngớt. Tư Mã Khôi đang bận giao chiến với lũ cá rồng, không còn thời gian để ý vết thương. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Máu tươi của cá Lycoptera và máu người hòa trộn vào nhau, phút chốc đã nhuốm đỏ nửa quãng mặt nước. Mọi người còn định dùng lại cách cũ, dùng lửa đuốc giải vây, ngặt nỗi không khí trong động vô cùng ẩm ướt, vả lại sinh vật sống dưới nước chưa bao giờ sợ lửa, nếu chỉ dựa vào lửa và súng thì không thể ngăn cản được thế tấn công của chúng. Đúng lúc này, Tư Mã Khôi bỗng nhiên thấy mắt mình tối sầm lại, không rõ đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet bị thứ gì che mất ánh sáng. Anh lấy tay lau, thấy tay mình dính một thứ dịch ẩm ướt, dấp dính, đỏ tươi như máu. Anh thầm nghĩ chắc phải có một lượng máu rất lớn rơi từ trên cao xuống đây.
Càng nghĩ Tư Mã Khôi càng kinh hãi: “Sao trên đó có nhiều máu thế nhỉ?”. Anh nghiêng người né tránh một con cá bay ăn thịt người đang nhào tới trước mặt, thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy trong bóng tối hun hút có một vật thể khổng lồ nằm vắt ngang thân mình ở trên cao. Nó thò cái đầu hình tam giác, nom vừa giống đầu mãng xà lại vừa giống đầu kì nhông, đầu to đuôi nhỏ, mình dẹt, bốn chân thô ráp lực lưỡng. Nó sở hữu tất cả đặc điểm nổi bật của động vật bò sát, có điều Tư Mã Khôi vẫn chưa nhận ra nó thuộc nhóm nào trong nhóm thằn lằn giun, thằn lằn Eryops hay nhóm giáp đầu cá, vì tuy nó vẫn còn sống nhưng khắp người nhầy nhụa máu tươi, già nửa xương hàm và bộ răng sắc nhọn lởm chởm. Thâin hình đồ sộ của nó trông có vẻ giống với loài giáp đầu cá hơn.
Con giáp đầu cá có bộ răng cấu tạo hình mê lộ này có lẽ đã trườn qua khe đá, lớ ngớ thế nào chui ngay xuống đáy động, rồi không may bị bọn cá bay Lycoptera tấn công. May nhờ lớp da cứng như thép nguội, nên nó mới không bị ăn tươi nuốt sống thành bộ xương trắng, đồng thời còn kịp trèo lên cây cao lánh nạn. Tuy nó tạm thời thoát khỏi vòng truy đuổi, nhưng vết thương quá nặng, nên có lẽ không sống nổi mấy khắc nữa. Có điều, bọn cổ sinh vật toàn một lũ đầu óc ngu si, tứ chi phát triển. Nó đang đói đỏ mắt, lúc này lại trông thấy có người ngang qua, liền bám bốn chân vào dây leo, thò người xuống dưới. Máu tươi chảy ròng ròng từ cái đầu hình tam giác chỉ còn sót lại một nửa, xuống mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi, nên trong chốc lát, cả chiếc mũ đã bị nhuốm đỏ.
Tư Mã Khôi đột nhiên mặt đối mặt với con cá giáp đầu, chỗ vòng sáng ánh đèn quặng rọi đến chính là đám xương hàm nhoe nhoét máu, còn bộ răng sắc nhọn kết cấu mê lộ cách anh chưa đầy nửa mét. Trong lúc hốt hoảng, Tư Mã Khôi không kịp suy nghĩ gì, lập tức rút khẩu M-1887 trong tay ra bắn liên thanh mấy phát. Bóng tối mịt mùng bủa vây, dây leo che chắn chằng chịt, anh cũng không rõ mình bắn trúng chỗ nào trên người nó, chỉ thấy cả cơ thể khổng lồ của con giáp đầu cá lật nhào xuống đất, giãy giụa rồi chìm nhanh xuống nước. Cái đuôi to dài và đầy sức mạnh quét ngang qua gốc cây, khiến Tư Mã Khôi ngã lộn đầu xuống. Cả gốc cây to một người ôm không xuể bị nó quật đứt đôi. Bầy cá Lycoptera gần đó cũng hoảng sợ tản ra tứ phía.
Nhân cơ hội này, Hải ngọng lần sờ sợi dây thừng gắn móc câu dắt sau người, quăng lên trụ đá. Nhờ mọi người yểm trợ, anh gắng giật dây thừng, khiến gốc cây bị gãy dưới chân di chuyển dần về phía bệ đá. Mọi người vượt sông lên mặt đất. Lúc này, cả hội đã có trụ đá sừng sững làm điểm tựa, thêm vào đó, dẫu bọn cá Lycoptera biết bay, nhưng chướng ngại vật với kết cấu phức tạp xung quanh cũng khiến khả năng tấn công của chúng bi hạn chế đi rất nhiều. Bởi vậy, mọi người cũng tạm thời an toàn hơn đôi chút.
Mọi người tựa vào cột đá thở hổn hển, nghe văng vẳng bên tai tiếng giãy giụa đạp nước trong bóng tối, con cá giáp đầu dài năm, sáu mét, nặng chừng nửa tấn nhanh chóng bị bầy cá gặm thành bộ xương, chắc chẳng còn lấy nửa miếng thịt, cứ nghĩ đến cảnh tượng đó mà mặt mày ai nấy tái mét như sắp chết. Không ai dám thò đầu nhìn xuống.
Vết thương trên cánh tay Tư Mã Khôi tuy chảy máu khá nhiều nhưng chưa sâu đến tận xương, coi như số anh vẫn còn may chán. Anh để Cao Tư Dương băng bó sơ cứu, rồi sau đó có thể cử động như bình thường.
Hải ngọng nói: “Vết thương bé tí thế kia thì ăn thua gì, chẳng qua giống muỗi cắn ấy mà. Nếu khi nãy cậu rơi xuống nước thật thì bây giờ đã thành chồn quay, trụi mẹ cả lông lẫn tóc rồi!”
Thắng Hương Lân thấy Tư Mã Khôi bình an vô sự thì thở phào nhẹ nhõm. Cô vặn nắp bình nước quân dụng, rửa vết máu dính trên cổ áo và mũ Pith Helmet của Tư Mã Khôi.
Trong lúc đó, Tư Mã Khôi vẫn để ý quan sát bệ đá, anh phát hiện, bên cạnh bệ đá có một vật thể cấu tạo hình cây bằng đồng, trông có vẻ loang lổ, cũ kỹ. Trên mỗi cành lại cắm một vật trông to như cái chum lớn, trên thân chum đúc lỗ mẫu tử, trang trí họa tiết rồng phượng. Tư Mã Khôi từng nhìn thấy vật này trong bích họa, anh biết đây chính là đèn đồng chuyên dùng soi sáng dưới lòng đất, thời cổ gọi là “đèn chiếu u”. Tư Mã Khôi lập tức đứng dậy, rút nắp đồng trên lỗ mẫu tử, gí đuốc vào thử xem đèn còn phát sáng được nữa hay không.
Nghe nói, thời Xuân Thu Chiến Quốc có một loại nhiên liệu thắp sáng quanh năm không tắt, gọi là “long tùy”, loại dầu này được đổ vào đèn đồng chiếu u, loại đèn chuyên dùng cho các vương hầu xây dựng lăng tẩm dưới lòng đất, nó còn hiếm hơn cả nước mắt người cá rơi xuống đất kết thành ngọc, có điều nguồn gốc và thành phần thực sự thì từ lâu đã không còn ai biết nữa. Có lẽ, trong chiếc đèn đồng hình cây chứa loại dầu long tủy này. Lúc này, sau khi được mồi lửa, nó lập tức bốc cháy phừng phừng, ánh sáng rực rỡ khác thường, soi rõ phạm vi hơn mấy chục bước.
Khung cảnh trước mắt bỗng dưng vụt sáng, cả hội thấy mấy trụ đá ngay bên cạnh đúng là bàn tay xòe ra và hướng lên cao của con thú đá nào đó, ngọn đèn đồng hình cây, cao chừng sáu bảy mét, cũng chỉ là vật nằm trong tay nó. Thật khó tưởng tượng nổi thân mình con thú khổng lồ này to đến mức nào.
Tư Mã Khôi đứng cạnh cây đèn đồng, anh thò tay ra sờ vách đá lạnh lẽo, rồi chăm chú quan sát và phát hiện: đó chính là chiếc hộp đá chữ nhật khắc đầy những hình thù ma quái, nó như quả núi đè nặng trên thân con thú đá ôm cây đèn đồng. Quy mô của chiếc hộp to lớn dị thường. Đằng sau vẻ trầm mặc bí ẩn đủ khiến người ta kinh hồn bạt vía kia, dường như còn chứa đựng một câu hỏi lớn.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tư
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">QUÁI VẬT THỜI GIAN
Tượng đồng cổ đầu Rồng mình Rùa, quanh thân khắc chữ Hán triện, trên đỉnh là chữ Thọ – được phát hiện ở Huế
Người xưa lợi dụng đá trầm tích dưới địa tầng, gia công đục đẽo thành chiếc hộp đá, nó hòa thành một thể với tượng linh thú. Bề mặt hộp nổi chi chít vết rạn nứt và bị rêu xanh, dây leo che phủ, khiến nó mang một màu xanh thẫm u uất. Cả hội đứng tại chỗ nên chỉ có thể quan sát một phần nhỏ của hộp từ một góc độ nhất định, vậy mà vẫn thấy ở đó toát ra vẻ thần bí đáng kinh ngạc.
Nhị Học Sinh lau lớp bụi trên cặp kính, mở to hai mắt nhìn thật kỹ. Anh chàng ngơ ngẩn lẩm bẩm: “Đây là chiếc hộp của Sở U Vương sao?”
Tư Mã Khôi cũng cảm thấy rất đỗi ngạc nhiên. Chiếc hộp đá trông có vẻ rỗng ruột, bên trong chắc dùng để chứa đồ, nhưng trên thế giới làm gì có chiếc hộp nào lại khổng lồ dường vậy? Vả lại, nó cũng không giống với quan tài đá chứa xác chết. Anh bỗng nhiên nhớ lại bức bích họa khi trước từng xem qua trong huyệt động. Trong bức bích họa cổ mà tiền nhân để lại từ hơn hai ngàn năm trước thường xuất hiện một con vật kì dị trông hao hao con rùa đầu rồng, có đầu nhưng không có mặt, tay cầm nến đứng giữa cõi hỗn độn, lưng cõng bánh xe. Nó có dáng dấp tương tự với con rùa cõng bia, có lẽ nó chính là con thú kì dị nằm bên dưới chiếc hộp đá. Chỉ có điều, anh không ngờ nó lại to lớn đến vậy.
Thắng Hương Lân nói: “Thời cổ đại có truyền thuyết ‘hàm tải’. Con quái vật bò trong cõi hỗn độn tên là ‘tài’, chiếc hộp nó cõng trên lưng là ‘hàm’.”
Hải ngọng chưa hiểu ý cô, ngẩn người hỏi: “Tải gì? Tải vải hay tải bã mía?”, Thắng Hương Lân giải thích: “Là tải trọng chứ không phải tải bã mía hay tải vải. Nó chỉ là con quái vật tồn tại trong truyền thuyết, hoặc có thể nói nó là một loài linh thú, hình dạng tương tự con rùa đầu rồng, lưng cõng thiên địa vạn vật, di chuyển từ quá khứ đến tương lai. Giải thích theo quan điểm hiện tại, thì ‘tải’ đại diện cho sự lý giải của người cổ đại về thời gian. Một ‘tải’ tương đương với một năm. Người cổ đại rất sùng tín chuyện thần quỷ, họ cho rằng, sở dĩ thời gian không ngừng trôi chảy về phía trước, và không thể quay ngược trở lại, là vì có một con quái vật cõng thiên địa càn khôn trên lưng, không ngừng bò về phía trước giữa cõi hỗn độn, chính bởi vậy, thời gian quá khứ vĩnh viễn chỉ là quá khứ.”
Nhị Học Sinh gật gù như thể vừa giác ngộ ra chân lý: “Trước đây, tôi vẫn thường nghe người ta nói cái gì mà ‘ngàn năm vạn tải’, nhưng chỉ nghe thế thì biết thế thôi, chứ chưa bao giờ ngẫm nghĩ xem câu đó có ý nghĩa gì. Thì ra, nó còn ẩn chứa một điển cố như vậy….”
Tư Mã Khôi nghĩ, quái vật “tải” không hề tồn tại trong cõi đời, đó chỉ là sản phẩm do người cổ đại tưởng tượng ra, nhưng nó tượng trưng cho sức mạnh vô hình vận hành vạn vật, còn chiếc hộp đá nó cõng trên lưng khắc đầy hình vẽ ma quái, lại được giấu kín bên dưới huyệt động thông xuống mạch đất núi Âm Sơn, bởi vậy, nó chắc chắn phải là vật vô cùng quan trọng. Có lẽ chiếc hộp của Sở U Vương cũng nằm trong này.
Cao Tư Dương hỏi Tư Mã Khôi: “Đội khảo cổ các anh muốn tìm nhật quỹ dưới lòng đất thì liên quan gì đến chiếc hộp đá âm khí mù mịt đó?”
Hiện giờ, Tư Mã Khôi vẫn chưa thể suy đoán trong hộp đá có gì, mà chỉ tạm thời nhận định: thứ bên trong ẩn giấu con đường tiếp tục thâm nhập xuống lòng đất. Tư Mã Khôi lập tức bảo Nhị Học Sinh gom hết số long tủy trong đèn, đổ vào mấy chiếc hộp trước đây đựng dầu thông để làm nhiên liệu bổ sung cho đầu đuốc, sau đó lợi dụng đám dây leo và gốc cây rậm rạp làm vật yểm trợ, cả hội dò dẫm ra rìa vách hộp ở gần đó.
Tư Mã Khôi phán đoán, chắc chắn còn nhiều cụm đèn cây khác nữa nằm rải rác dưới đáy huyệt động có điều phạm vi hành động có hạn, nên anh không thể thắp sáng tất cả các ngọn đèn. Mọi người chỉ trang bị những thiết bị cơ bản nhất như súng săn, đuốc, la bàn mà thôi nhưng trong huyệt động dưới lòng đất tàn khốc, phức tạp điều kiện khắc nghiệt, thì những vật đó lại phát huy tác dụng thực tế lớn hơn nhiều so với các máy móc tiên tiến khác. Lúc này, cả hội đã có vách tường làm điểm tựa, nên cũng không sợ lũ cá Lycoptera dưới nước đột ngột bay lên tấn công nữa. Có điều, không hiểu sao mặt nước dưới vách đá lại im ắng lạ lùng. Tư Mã Khôi đi sau cùng, lòng thấy hơi băn khoăn, bỗng nhiên một cơn gió độc thổi thốc đến từ phía sau, anh chưa kịp phản ứng gì thì nó đã áp sát ngay sau lưng, rồi trong tích tắc hai chân anh nhấc khỏi mặt đất và bất ngờ bị một sức mạnh khủng khiếp kéo lên không trung. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi biết dưới lòng đất có rất nhiều sinh vật săn mồi bị giam hãm, nên bất kể thứ anh đang phải đối đầu là gì, thì chỉ riêng sức mạnh nhấc bổng một người sống lên hẳn mặt đất, cũng đủ biết thân hình nó đồ sộ cỡ nào. May mà anh còn có ba lô che chắn, nhưng đã bị nó kéo đi thì đừng mong sống sót. Lúc này, tuy đang bị kẻ địch khống chế, nhưng anh không hề bấn loạn; khi thấy mình không thể quay người được nữa, anh liền chuyển họng súng chĩa về phía sau và bóp cò. Không rõ viên đạn có ngắm trúng mục tiêu hay không, nhưng anh chỉ nghe thấy hình như vật đang quắp ba lô của mình cất tiếng kêu the thé, âm thanh như thể tiếng rồng gầm, rõ ràng nó đã bị kinh động không nhỏ.
Tư Mã Khôi chưa kịp lên nòng lần nữa, thì đã thấy cơ thể mình bỗng nhiên chìm xuống. Thì ra anh bị rơi từ không trung xuống. Tư Mã Khôi vội vàng lấy hai tay ôm đầu, hai khuỷu tay kẹp chặt đầu gối đề phòng gãy xương khi ngã xuống đất. Đây chính là điểm khác biệt giữa người biết ngã và người không biết ngã. Sau khi chạm đất, anh thuận thế lăn mấy vòng rồi mới đứng dậy, vì vậy ngoại trừ chịu đau đớn ngoài da, anh không bị vết thương nặng nào.
Do sự việc xảy ra quá đột ngột, nên những người còn lại nghe thấy tiếng súng mới phát hiện được tình hình bất thường. Khu vực phía dưới chiếc hộp đá hoàn toàn nằm trong phạm vi chiếu sáng của đèn đồng. Cả hội chỉ nhìn thấy có một vật thể hao hao giống loài thằn lằn bay vừa xẹt qua. Con vật này dài chừng nửa mét, móng rồng, mỏ chim, cánh ngắn, đuôi dài. Nó sải cánh không một tiếng động, nháy mắt đã mất dạng trong bóng đêm.
Mọi người sợ hãi thất sắc, vội vàng kéo Tư Mã Khôi nấp vào vách hộp. Nhị Học Sinh lại châm thêm hai ngọn đuốc nữa đề phòng có biến.
Tư Mã Khôi đau đến mức phải há miệng kêu, thấy ba lô vải buồm đeo sau lưng bị đục thủng mấy chỗ, anh bất giác ớn lạnh. Tư Mã Khôi lục ba lô lấy băng dính, bịt các chỗ vừa bị rách lại.
Cao Tư Dương nói: “Con vật này xuất quỷ nhập thần, chúng ta rất khó phòng bị. Hình như nó là một con mãnh điểu thì phải?”
Nhị Học Sinh phân tích cho Cao Tư Dương nghe: “Về mặt cấu tạo sinh học mà nói thì… con vật này cánh ngắn, đuôi dài, nên nó không thể bay một cách đúng nghĩa, nên khi nãy nó chỉ trượt giữa không trung nhờ lực quán tính thúc đẩy sau khi chạy nhanh mà thôi. Móng vuốt của nó rất sắc và cứng, chắc nó có thể leo trèo giữa các vách động dựng đứng. Vì vậy, chúng ta không thể gọi nó là chim được”.
Hải ngọng phát biểu: “Tôi đoán, quá nửa là vịt tuyết núi Himalaya, nghe nói giống này có thể quắp nguyên một con bò đực bay vèo lên trời cơ đấy!”
Thắng Hương Lân nói: “Nhưng đây là rốn núi sâu phía tây Hồ Nam, cách dãy Himalaya bao xa anh có biết không? Vả lại trong huyệt động dưới lòng đất thì lấy ra sinh vật sống trong tuyết chứ?”
Tư Mã Khôi đón lấy bó đuốc từ tay Nhị Học Sinh nói: “Nhận định của Nhị Học Sinh nghe còn có vẻ đáng tin cậy. Con vật đó nửa giống rồng, nửa giống chim, có lẽ là một chi của loài chim cổ, sở dĩ nó có thể bay mà không hề phát ra tiếng động là nhờ vào khung xương rỗng. Loài này quanh năm cư ngụ dưới lòng đất, hai mắt bị thoái hóa nên không sợ ánh lửa. Khu vực gần đây không có nơi nào an toàn, nguy hiểm và những nhân tố bất ngờ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Tốt nhất chúng ta nên tìm đường chui vào hộp đá rồi tiếp tục bàn bạc sau”.
Mọi người không dám chậm trễ, lập tức dò dẫm theo chân tường tiến về phía trước. Hiềm nỗi, tuy các vết nứt trên vách đá rất nhiều nhưng lại vô cùng chật hẹp, những nơi đủ rộng cho người chui lọt thì toàn là đường cụt, mãi khi mò đến chỗ ánh sáng đèn đồng không chiếu tới được, cả hội mới phát hiện được vách đá có phần lõm vào trong.
Tư Mã Khôi mừng rỡ soi đuốc vào nhìn cho rõ, chỉ thấy ở đó có một huyệt động, phần bao quanh phía ngoài là bức phù điêu nổi, trông như thể một khuôn mặt thú, cái miệng chính là cửa động rộng lớn khiếp người, nó xuyên thẳng vào vách hộp dày và nặng trịch, nhưng hướng chạy dích dắc không theo quy tắc, hơn nữa lại đen ngòm, sâu hoắm, như thể bị đầu con giao long đâm sầm vào, vỡ thành cái hang vậy. Thế nhưng không ai nhìn thấy chỗ giao long chui ra ở đâu, còn vách đá hai bên thì chạm khắc vô số hình vẽ các con thú vừa giống rồng lại vừa giống hổ, cao gấp rưỡi người thường. Dưới sự phản chiếu của ánh đèn chúng như những chiếc bóng thần bí. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã khôi bảo Hải ngọng cầm súng đi sau cùng, còn mình ném đá thăm dò. Anh thấy phía trong im phăng phắc không một tiếng động, liền bắt đầu đi vào cửa động trên hộp đá, những người còn lại cũng lục tục chui theo. Những vết tích cổ xưa giữa các vách đá không hề bị tuế nguyệt xóa nhòa, ngược lại còn là một mắt xích bị thất lạc trong lịch sử. Chỗ nào cũng nhuốm đầy màu sắc âm u, thần bí. Luồng gió âm lạnh lẽo thổi từ nơi sâu trong động đá ùa tới, khiến mọi người ớn lạnh tim gan.
Cả hội không biết huyệt động sâu đến mức nào, nên sau khi bước vào, ai nấy đều bất giác đi chậm lại. Tư Mã Khôi lấy dao xén một mảng rêu dính trên tường, anh nhận thấy trên bức tượng đá, ngoại trừ chạm hình mãnh thú, ác điểu ra, thì còn khắc rất nhiều cảnh tượng tế lễ thần quỷ của Sở U Vương, bên cạnh có chú thích bằng chữ triện cổ hình chân chim. Tuy trong tay Tư Mã Khôi có cuốn sổ giải mã chữ triện cổ triều Hạ, nhưng đối với chữ triện thời Xuân Thu Chiến Quốc thì anh hoàn toàn mù tịt, vả lại cũng không thể kiên nhẫn mày mò từng chữ. Chỉ có điều, Tư Mã Khôi thấy huyệt động này thông thẳng vào trong hộp đá mà không hề bị bất cứ vật gì che chắn, nên trong long cũng cảm thấy hơi bất ngờ. Có thể nói, cái hộp khổng lồ chở “tải” bên trên, chính là hạt nhân mọi bí mật của vu sư nước Sở, trong đó chắc hẳn phải có rất nhiều báu vật vô giá chưa hề được công bố trên thế giới, nên sao lại có thể dễ dàng để người đời ra vào như vậy được? Chẳng lẽ bên trong chiếc hộp này lại cài bẫy gì sao?
Nhị Học Sinh nhớ lại chuyện Sở U Vương tuẫn táng người sống, liền nhắc mọi người: “Liệu trong hộp đá có hệ thống ngầm gì không nhỉ? Ngộ nhỡ chạm vào nút kích hoạt, thì đá đoạn long sẽ hạ xuống, nhốt sống chúng ta ở trong này mất thôi!”
Thắng Hương Lân nói: “Nơi này bị phong bế hơn hai ngàn năm dưới biển Âm Dụ, cho dù thực sự tồn tại hệ thống kiểu như đá đoạn long, thì nó cũng mất tác dụng từ lâu rồi. Có điều, người Sở rất tin tưởng vào sức mạnh của ma quỷ. Tương truyền, khi quân Tần nam tiến tấn công nước Sở, chỉ một trận đã đánh cho quân Sở tan tác. Sở Vương lúc đó chỉ mải chạm đục rất nhiều tượng đá, vì ông ta muốn chiêu hồn các tướng sĩ đã tử trận dưới âm gian trở về chống Tần, bởi vậy so với lo sợ các cơ quan mai phục, có lẽ chúng ta nên đề phòng thứ khác còn hon”.
Nhị Học Sinh kinh ngạc hỏi: “Thứ khác…. là thứ gì vậy? Chẳng lẽ có âm hồn ngàn năm không siêu thoát thật sao?”. Nhị Học Sinh không sợ ma quỷ, vì không ai có thể xác thực chuyện ma quỷ, nhưng anh chàng rất tò mò về chuyện mà Tư Mã Khôi vừa nhắc đến. Từ cổ chí kim đã có vô số nhà khảo cổ học, địa chất học và các tổ chức nghiên cứu hiện tượng thần bí, họ đều vắt nát óc tìm cách thăm dò chân tướng ẩn giấu bên trong, nhưng dường như tất cả đều bất lực. Hết tốp thám hiểm này đến đoàn thám hiểm khác đã bị thu hút bởi những ẩn số nặng mùi chết chóc, nhưng không một ai đủ sức chạm vào bí mật của nó. Loài người là loài động vật đầy máu hiếu kì bẩm sinh, càng đối diện với những sự vật không thể giải thích, thì con người lại càng muốn làm sáng tỏ. Giờ đây, đội khảo cổ của Tư Mã Khôi, gồm hai kẻ liều mạng từng tham gia chiến tranh du kích ở Miến Điện, một cô nhân viên trắc họa địa chất, một cô sinh viên trường quấn y, thêm một anh thanh niên trí thức nữa, họ có cơ hội tiếp cận nơi mà vĩnh viễn không bao giờ đến được hay không?
Tư Mã Khôi thấy trạng thái tâm lý của Nhị Học Sinh có vẻ bất ổn, liền nói: “Đừng nghĩ nhiều thế! Chú chỉ cần nghĩ là: ‘trên vai đang gánh mỗi hai hạt vừng’ thì chẳng có gì đáng để ý nữa cả”.
Vách hộp dày đến mức khiến người ta ngỡ bên trong không tồn tại không gian. Hai bên đều có một cây trụ đá, chạm khắc hình thần linh trấn ma trừ quỷ, mình người mặt thú, nhuốm đầy màu sắc phù thủy đậm nét, còn đi vào sâu hơn thì thấy bên trong là không gian tối tăm nhưng rộng rãi.
Tư Mã Khôi lấy tay ra hiệu cho mọi người dừng lại. Anh bước lên trước giơ cao đuốc soi sáng xung quanh, thì thấy phía dưới trụ đá có mấy thi thể cổ đại đeo mặt nạ bàng đồng xanh, mũ cao áo dài đã bám đầy đất bụi. Tuy bảo đó là thi thể, nhưng thực tế chỉ còn sót lại hài cốt mà thôi, nhưng trên chiếc mặt nạ quái dị bằng đồng xanh có hai quầng mắt lõm sâu vào trong, trong khi con ngươi lại lồi hẳn ra ngoài, phần môi mỏng và khẽ hé mở, còn hằn cả vết khâu, khiến người ta có cảm giác họ có thể đột nhiên đứng dậy bất cứ lúc nào, rồi gỡ mặt nạ xuống, kể cho người sống nghe những câu chuyện khó tin bằng thứ ngôn ngữ không ai hiểu.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ năm
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">BẦU TRỜI TRONG LÒNG ĐẤT
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tư Mã Khôi thấy mấy thi thể trước mắt, hầu như đều là các vu sư của Sở quốc. Căn cứ theo tình hình mô tả trên bích họa vẽ trong động, khi Sở U Vương gieo quẻ hỏi hung cát, thì vị vu sư đeo mặt nạ đồng xanh sẽ nói cho Sở U Vương biết những chuyện xuất hiện trong ảo giác của mình, Sở U Vương sẽ lấy đó làm cơ sở để đưa ra phán quyết cuối cùng.
Thời kì Xuân Thu Chiến Quốc sùng tín quỷ thần, các vu sư không chỉ hiểu người, mà còn phải thấu hiểu ma quỷ, và chỉ họ mới có khả năng giao tiếp với những sức mạnh thần bí vô hình, bởi vậy, họ có đia vị tối cao trong xã hội. Chỉ cần một vài lời nói của họ cũng đủ ảnh hưởng đến sự hưng suy cửa cả một vương triều. Những cái xác cổ này đã xuất hiện trong hộp đá, chứng tỏ chiếc hộp của Sở U Vương chắc chắn ở trong này.
Hải ngọng lẩm bẩm một mình: “Chết thì đã chết rồi, còn bày đặt đeo mặt nạ làm chó gì, nhìn phát ớn cả người…”. Nói xong, anh định thò tay gỡ mặt nạ ra, nhưng mấy thi thể đó đã mục nát từ bao giờ, nên vừa chạm tay một cái đã tan thành cát bụi. Chiếc mặt nạ bằng đồng xanh rơi “keng” một cái xuống đất, âm thanh vang lên đột ngột khiến anh giật nảy mình, vội vàng nhảy giật lùi ra sau tránh.
Cao Tư Dương suýt chút bị anh xô phải, cô bực mình mắng: “Tay chân lóng nga lóng ngóng thế kia mà cũng tự xưng thành viên đội khảo cổ cơ đấy !”
Hải ngọng không chịu kém miếng, đáp trả: “Đội khảo cổ là cái miếu nào mà dám chứa Hải ngọng tôi hả? Sao cô không tìm hiểu trước rồi hẵng phát biểu…”
Tư Mã Khôi biết Hảì ngọng lại định khua môi múa mép thổi phồng tiểu sử bản thân, dốc hết những sự tích anh hùng vớ vẩn từ đời tám hoánh nào ra kể lể. Trước khi Hải ngọng kịp bật đài, anh phải nhanh chóng dập tắt ngay cơ hội đó, nếu không, anh chàng sẽ huyên thuyên đến tận sáng mai vẫn chưa muốn dừng, Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền cắt ngang câu chuyện của hai người: “Tôi thấy gió lạnh thổi từ sâu trong hộp đá ra, tình hình trong ấy chưa xác đinh rõ thế nào. Mọi người phải chú ý hơn mới được, đừng để âm hồn ác quỷ kéo tuột đi đấy”. Nói xong, anh dò đẫm vách đá, đi sâu dần vào phía trong. Xuyên qua huyệt động giữa các vách hộp, địa thế đột nhiên trở nên rộng rãi, địa hình trên lõm dưới lún.
Phần giữa tầng nham thạch chạm khắc thành hình vòng cung, với nhiều “chữ tranh”, khắc chi chít khắp không gian trên đầu và dưới chân. “Chữ tranh” là hình thức dùng các hình vẽ liên tiếp nối với nhau để ghi chép một nội dung sự việc nào đó thay thế cho chữ viết, thường được sử dụng để giao lưu với cõi u minh, bởi văn bản soạn ra không phải để cho người sống đọc, nên người cổ đại mới viết bằng “chữ tranh” chứ không viết bằng chữ triện.
Hải ngọng khi nãy chưa nói sướng mồm, anh lững thững đi đằng sau định tìm lời quay về chủ đề khi nãy, nhưng nhìn thấy địa hình kì quái, thì liền quên khuấy mất chuyện lúc trước. Anh ngạc nhiên hỏi: “Ớ… tớ thấy bọn người Sở có vẻ rất tinh thông mấy món này nhỉ! Thiết kế hình dạng theo kiểu ngoài vuông trong tròn thế này là trò quái gì không biết?”
Tư Mã Khôi nói: “Thời xưa, người ta quan niệm trời tròn đất vuông. Chiếc hộp này trong tròn ngoài vuông, chắc muốn ám chỉ bầu trời nằm trong lòng đất, nhưng bầu trời làm sao có thể nằm trong lòng đất được chứ?”
Thắng Hương Lân giải thích: “Phần lớn chiếc hộp ‘hàm’ mà con quái vật ‘tải’ cõng trên lưng đều có hình dạng bánh xe tròn, vì trời nằm trong đất. Nhưng hình vuông nằm ngoài, hình tròn nằm trong thì đúng là hiếm gặp, có lẽ người xưa muốn ẩn dụ về thế giới dưới lòng đất thì phải”.
Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ, anh thấy phân tích của cô rất hợp lý: dưới lớp vỏ Trái đất tồn tại một noi gọi là “không động” sâu thăm thẳm và rộng vô biên, nếu so sánh với nó thì kính viễn vọng Lopnor mà đội khảo cổ từng thâm nhập, quả thực chỉ là hạt cát nhỏ bé trong biển cát bao la. Nếu dùng hình ảnh “trời” để hình dung về nó thì cũng không ngoa.
Nhị Học Sinh hỏi: “Không rõ cái hộp đá mà Sở U Vương để lại có ý nghĩa cụ thể gì nhỉ?”
Tư Mã Khôi đáp: “Chỗ này toàn là tượng điêu khắc bằng đá hoặc bích họa khắc trên vách tường, hầu hết nội dung mô tả những thông tin mà Sở U Vương muốn truyền đạt đến thần quỷ. Có điều chúng ta như thằng mù đọc chữ, chẳng hiểu nội dung nó nói gì, chi bằng thắp thêm ít đuốc nữa đi loanh quanh xem có tìm thấy gì khác không”.
Mọi người tiết kiệm pin nên châm thêm ba cây đuốc nữa, không dám thắp thêm đèn quặng. Dưới ánh lửa chập chòm lúc sáng lúc tối, cả hội tiếp tục đi về phía trước tìm kiếm. Mỗi hướng trong hộp đá đều có cửa động. Bên trong động, ngoại trừ những bức tường đá được chạm khắc, còn đặt la liệt tượng đồng, có điều vẫn không thấy chiếc hộp của Sở U Vương đâu cả. Mọi người vừa đi vừa nhìn, xuyên qua rìa vách hộp là bước vào khu vực đáy hộp với những sợi dây leo rủ xuống như rèm che, dưới chân có cây cầu đá rất rộng, họa tiết vảy rồng to như viên ngói đó, chính là chiếc đầu của thần thú “tải”.
Con quái vật thời Sở cõng càn khôn trên lưng, có hình dáng gần giống với con rùa khổng lồ với cái đầu rồng, nhưng màu sắc thần bí đậm nét hơn, hai đầu gắn trên hai cổ, nhưng không có mặt, thân mọc nhiều chi, một nửa vươn lên trời nâng cây đèn chiếu u khổng lồ, một nửa chống xuống đất để di chuyển, trên đầu phủ phục hai con mãnh hổ, miệng ngậm vòng đồng to như cổ tay, khóa chiếc hộp bằng dồng xanh, thể tích đủ chứa hai người chui vừa.
Đội khảo cổ thấy chiếc hộp thần bí quả nhiên là vật có thật, lòng bất giác hồi hộp muốn nghẹt thở, vội vàng chạy lên trước, định mở ngay ra xem bên trong có gì. Nhưng Tư Mã Khôi và Hải ngọng vừa định thò tay ra thì Thắng Hương Lân đột nhiên ngăn lại: “Không được xem thứ trong hộp! Ai xem, người đó sẽ chết”.
Hải ngọng tròn mắt hỏi: “Bên trong chắc có mấy khúc xương của người chết là cùng chứ gì? Mà cho dù chứa bom địa chấn thì cũng đâu đến nỗi vừa nhìn một cái là lăn ra chết tươi ngay được.”
Thắng Hương Lân giơ đuốc soi vào chiếc hộp: “Các anh cứ xem hình vẽ trên này sẽ biết…”
Tư Mã Khôi phát hiện, nơi này tuy địa thế khá cao nhưng khoảng không gian giữa các rễ cây xung quanh lại đen quánh, chỉ e sẽ xảy ra bất trắc, bởi vậy anh luôn luôn giữ tình thần cảnh giác cao độ. Chưa kịp nhìn rõ chiếc hộp đồng thì chợt nghe Thắng Hương Lân nói vậy, ánh lập tức đưa mắt quan sát, thấy thân hộp đồng han gỉ loang lổ, chạm khắc rất nhiều hình vẽ. Anh thoáng nhìn qua, thấy trong đó có vẽ hình ác quỷ bắt người, như thể kẻ nào dám cả gan nhìn trộm vật trong hộp, kẻ đó sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống địa ngục, không rõ đó là lời nguyên hay chỉ định dọa tinh thần hậu thế.
Mọi người phát hiện, trên hộp đồng còn khắc hình vẽ lột da người sống, trông vô cùng tàn nhẫn và quái dị. Cả hội bất giác chau mày ghê sợ.
Nhị Học Sinh kể với mọi người: “Trước đây, ở châu Âu có một nghi thức tà giáo vô cùng cổ xưa, đó là dùng cực hình để dày vò trinh nữ. Sự tàn nhẫn của cực hình đó vượt xa sức tưởng tượng thông thường của con người. Trong tình trạng trải qua cảm giác khiếp sợ và đau đớn đến cùng cực, họ sẽ nhìn thấy những cảnh tượng mà chỉ người chết mới có thể nhìn thấy, sự giày vò tột cùng dành cho họ chính là lột da trong địa động khi họ vẫn còn sống. Sau khi lột da, cô gái đó vẫn chưa đoạn khí hẳn, miệng sẽ đứt đoạn nói ra những sự việc mà mình nhìn thấy trước mắt, chỉ có tông chủ mới đủ tư cách ghé sát tai nghe. Toàn bộ nội dung tông chủ nghe được, đều thuộc phạm trù cơ mật, tuyệt đối không để người bình thường biết. Cách thức này có vẻ khá giống với phương pháp ‘Sở U Vương hỏi ma’ mà mọi người đang chứng kiến lúc này”.
Cao Tư Dương hỏi: “Anh bảo cực hình tà giáo cổ xưa của phương Tây có điểm gì giống với vu thuật trên chiếc hộp của Sở U Vương?”
Nhị Học Sinh đoán: “Có lẽ là vì cả hai đều tiếp nhận thông tin từ… dưới vực thẳm”
Tư Mã Khôi cũng nghĩ như vậy: “Con người luôn thiếu sức sáng tạo với phương thức ra đời của chính mình, nhưng vô cùng giàu sức sáng tạo để nghĩ ra các phương thức chết. Có điều, chúng ta biết quá ít ỏi về chiếc hộp của Sở U Vương, nên tốt nhất cứ thận trọng là hơn!”. Nói xong, anh tiếp tục quan sát kỹ những hình vẽ còn lại trên hộp đồng. Tư Mã Khôi phát hiện nội dung ghi chép trên đó rối rắm, nhiều không kể xiết. Thật đúng là nhìn mà phái hãi.
Căn cứ vào các hình vẽ trên hộp, mọi người suy đoán, ngay từ những năm Sở quốc chưa ra đời, có lẽ vào thời kì Thần Nông gá gỗ làm ổ, một bầy người thượng cổ có sừng trên đầu đã vô tình phát hiện ra huyệt động này trong một lần rượt đuổi bầy hươu, nơi sâu nhất ăn sâu vào mạch núi, sau núi có vật thể hình khum tròn thần bí với phần bụng phình to. Họ phát hiện bên trong chứa bộ thi hài, nhưng thi hài này không giống vật ở nhân gian. Bọn họ cảm thấy rất kì lạ, liền lôi nó ra khỏi lòng đất, nhưng lúc định xuống thăm dò lần nữa, thì mạch núi khi trước đã mất tích, chỉ còn lại một hố vực, sâu không thấy đáy và đen thăm thẳm. Câu truyện truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương xem vật này là di hài báu ở dưới Âm Sơn. Lão ta thường ra lệnh cho vu sư gieo quẻ để hỏi chuyện ma quỷ dưới cõi âm. Mãi đến khi Sở U Vương mai táng con gái, dẫn đến việc bị các oan hồn đòi mạng, lão ta mới thả chiếc hộp chứa di hài báu xuống lòng đất để trấn núi Âm Sơn. Họ tin rằng, dưới đáy động có ác ma trấn giữ, kẻ ngoại đạo nào dám mở chiếc hộp này, sẽ lập tức bị ác ma lôi xuống vực sâu, nhốt sau núi Âm Sơn, vạn kiếp không được siêu sinh.
Hội Tư Mã Khôi cảm thấy rất khó hiểu, nơi đào thấy di hài rõ ràng chính là nhật quỹ, nhưng vì sao mạch núi trong vực sâu lại đột nhiên mất tích? Nếu di hài trong hộp đồng không phải của con người, thì là của loài sinh vật nào? Hóa thạch sinh vật tiền sử trong rừng rậm nguyên sinh dưới khe Âm Hải nhiều vô số kể, nếu nó là hóa thạch xương của loài động vật nào đó, thì trừ khi nó quá đặc biệt, không thể tìm thấy cái thứ hai nên đời, còn không thì làm sao người thượng cổ lại xem trọng nó đến mức ấy? Ngoài ra, sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, có thật sẽ xuất hiện ác ma không? Mọi người không thể suy đoán được gì từ những ẩn số đó, nhưng vẫn bắt buộc phải suy đoán.
Những hình họa chạm khắc trên hộp đồng trông rất thần bí, ảo diệu và mang đậm màu sắc vu thuật thời Sở, hư hư thực thực. Nỗi nghi hoặc trong lòng mọi người càng lúc càng dâng cao; mà nghi hoặc càng dâng cao thì họ lại càng nóng lòng muốn tìm chân tướng sự thật – Cỗ di hài mà người cổ đại tìm thấy dưới lòng đất rốt cuộc của loài sinh vật nào? Lai lịch của nó kì dị đến mức nào? Giờ đây, đã đến lúc phải quyết định, nhưng cả hội lại không thể nhắm mắt bỏ qua lời nguyền của Sở U Vương để lại trong chiếc hộp, bởi không ai có con mắt nhìn thấu quá khứ và tương lai, nên không thể dự tính được tình hình gì sẽ xảy ra sau khi chiếc hộp được mở.
Cao Tư Dương phẩy tay vẻ coi thường: “Theo lời các anh, thì xung quanh chiếc hộp có ma, nhưng chỗ này yên ắng thế này, đâu có dấu hiệu gì khác thường đâu chứ?
Thắng Hương Lân nói: “Hình vẽ trên chiếc hộp cho thấy, sau khi người ta nhìn thấy di hài, mới bị ác quỷ lôi đi. Tôi thấy nơi này ma quái thế nào ấy. Nói chung, mọi việc đều phải đề phòng cẩn thận mới được”.
Cao Tư Dương nói: “Cô đừng tin mấy trò ma quỷ của Sở U Vương, chúng ta mau mở chiếc hộp ra xem thì chẳng phải tất cả sự việc sẽ rõ như ban ngày hay sao?”
Nhị Học Sinh cũng gật đầu đồng tình: “Hình vẽ ác quỷ ăn thịt người trên chiếc hộp, chắc chắn không thể linh nghiệm như dự báo thời tiết được. Tôi cảm thấy đó chỉ là sự chiêm nghiệm đối với số mệnh, cũng có thể nói đó là suy nghĩ vô tri ngu muội của người cổ đại mà thôi”.
Tuy Tư Mã Khôi đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử thông thường, nhưng anh cũng không phải hạng chán sống đến mức muốn tự mình đâm đầu tìm cái chết. Tư Mã Khôi quan sát địa hình xung quanh, thấy khu vực gần pho tượng đầu thú quái vật “tải” thời Sở tối đen như mực, nó chỉ cách vùng nước tù dưới đáy động chừng hơn chục mét là cùng, bọn cá bay ăn thịt người rất khó tiêp cận, những rặng dây leo rủ xuống tứ phía, im lìm và trầm mặc. Anh quyết định bảo những người còn lại rút lui về phía sau pho tượng thú bằng đồng chờ đợi để yểm trợ cho mình, còn anh, sẽ mở chiếc hộp của Sở U Vương ra xem, ngộ nhỡ xảy ra bất trắc thì cũng không đến nỗi chết hết cả đám.
Lòng Thắng Hương Lân dấy lên một dự cảm không lành, cô nhỏ giọng bảo Tư Mã Khôi: “Hay để tôi mở cho, tôi chết vẫn hơn là anh chết”.
Hải ngọng nói chen ngang: “Hương Lân! Cô nói bậy bạ gì thế? Mấy chuyện lăn xả đầu súng ngọn giáo đã có anh Hải ngọng gánh, làm gì phải đến lượt cô hả? Có điều ngộ nhỡ tôi vinh quang thật, thì đừng rắc tro cốt tôi dưới đáy động tối om om như hũ nút này nhé, mà nhớ mang tro cốt tôi về nhà, chôn cất dưới đất cho tử tế. Đừng để tôi trở thành cô hồn dạ quỷ dưới núi Bối Âm giống như ông bác Nông địa cầu, quê tôi là coi trọng mấy chuyện đó lắm đấy….”
Cao Tư Dương không tin là vừa nhìn thấy cỗ di hài trong hộp thì sẽ lăn ra chết ngay lập tức, lại nghe Hải ngọng diễn bài kịch dài lê thê, dặn dò chuyện hậu sự mãi không hết, cô ngán ngẩm định một mình đi lên cậy nắp hộp.
Tư Mã Khôi khuyên ngăn: “Mọi người đừng tranh nhau nữa, chúng ta cứ hành động theo kế hoạch cũ. Tôi đây sống hơn hai mươi năm, có chuyện liều mạng nào chưa từng làm, mà có ngắn mất sợi lông nào đâu, chắc do mệnh tôi cứng. Hôm nay, tôi cũng không tin bọn ác ma ăn nổi thịt tôi, nếu lỡ gặp phải nguy hiểm thì tôi vẫn có thể nhanh chân chạy thoát thân”. Rồi không để cho mọi người có cơ hội nói chen vào, anh xua tay bảo mọi người tránh sang một bên, sau đó cắm đuốc vào trong miệng con hổ đồng, lần sờ tìm kẽ hở trên thân hộp.
Mọi người đành rút lui về phía sau, thấy hai cánh tay quái dị ở hai phía của cái đầu thú nâng hai cây đèn khổng lồ, mỗi cây lại nối liền với cây cầu đá, mọi người lần lượt lấy đuốc châm lửa, nên phút chốc cả khu vực xung quanh sáng rực như ban ngày; sau đó cả hội nằm mai phục bên cạnh đèn đồng ôm súng chờ yểm trợ cho Tư Mã Khôi.
Lúc này, Tư Mã Khôi đã sờ thấy kết cấu của hộp đồng, bề mặt bị ôxy hóa nghiêm trọng, độ rắn chắc của đồng đã bị tiêu giảm, chỉ cần lấy dao săn nậy một lúc là mở được nắp hộp. Anh thầm nghĩ: “Di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương lai lịch rất bất mịnh, nghe nói khu vực giữa tầng nham thạch trong mạch đất thường tồn tại nguyên tố mang tính phóng xạ tự nhiên, không những vậy, dưới vực sâu còn có rất nhiều loại nấm siêu nhỏ mà con người chưa từng biết. Chỉ riêng gặp những thứ này cũng thừa sức mất mạng rồi”. Thế là, anh đeo súng sau lưng, sờ ba lô lấy mặt nạ phòng độc hình mang cá đeo lên mặt, rồi xỏ găng tay, xong đâu đấy mới bắt đầu dùng dao nậy nắp hộp đồng.
Ai ngờ bên trong hộp đồng là một chiếc hộp ngọc, bên trên trang trí họa tiết màu vàng kim, nhưng nó đã bị niêm phong hơn hai ngàn năm, nên khi vừa mới tiếp xúc với không khí bên ngoài, đã nhanh chóng mờ nhạt. Tư Mã Khôi chưa kịp nhìn rõ các Hình vẽ bên trên, đã thấy chúng tan biến ngay trước mắt. Anh thầm mắng chết tiệt, rồi lấy mũi dao cạo phần sáp nến giữa kẽ hộp, nhẹ nhàng khía sâu dao vào khe hẹp. Đầu Tư Mã Khôi căng như dây đàn, anh chăm chú nhìn vào bên trong, thấy bên trong chiếc hộp quả nhiên có một cỗ di hài đang nằm, nhưng cùng lúc nắp hộp được mở ra, thì cỗ di hài đột ngột mở trừng hai mắt.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ sáu
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">DI HÀI
Tư Mã Khôi mở nắp hộp dưới ánh sáng ngọn đèn đồng chiếu u, vừa ngó mắt nhìn vào trong một cái, anh liền biết cỗ di hài bên trong tuyệt đối không phải xương người, vì thoáng nhìn khung xương đã thấy không giống; nhưng anh chưa kịp nhìn kĩ thì đã thấy trong hốc mắt lõm sâu thành hai cái hố đen ngòm ngòm trên chiếc đầu lâu đột nhiên phóng ra hai luồng ánh sáng lạnh. Tư Mã Khôi giật mình, vội vàng dùng hết sức đóng sập nắp hộp lại. Hộp đồng có chứa cái tráp ngọc bên trong, tuy không phải quan tài nhưng đồng đã bị han gỉ ăn mòn nghiêm trọng, dù không hề có vết tích từng bị nạy mở trước đây. Di hài nằm trong hộp chí ít cũng bị phong bế hai ngàn năm, vậy sao vẫn còn tồn tại dấu tích của sinh mệnh sống được nhỉ?
Trong bích họa mà mọi người phát hiện lúc trước, tuy cũng chạm khắc hình dáng cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương, nhưng tranh vẽ thời Xuân Thu Chiến Quốc thường mang đậm màu sắc thần dị, rất ít tranh vận dụng kỹ thuật tả thực, khiến người xem không thể cảm nhận được cái ảo diệu ẩn chứa bên trong.
Ngoài ra, những hình vẽ chạm khắc trên bề mặt hộp đồng cũng ghi chép lai lịch của di hài trong chiếc hộp. Theo dòng lịch sử của những năm tháng cổ xưa đã sớm phôi pha, người cổ đại yểm một lời nguyền tất phải chết trên chiếc hộp, giống như lời tiên tri vậy, lời nguyền ấy khiến lai lịch cỗ di hài càng trở nên li kì và mơ hồ hơn. Những người còn lại thấy Tư Mã Khôi giật thót mình như thể chạm phải bọ cạp, nắp hộp vừa mới mở ra đã vội đóng sập xuống, nên không ai biết trong khoảnh khắc đó, anh đã nhìn thấy gì. Cả hội thấp thỏm bất an, không kiềm chế được liền xúm lại xem rốt cuộc thế nào.
Tư Mã Khôi đưa tay ra hiệu cho mọi người không được manh động, sau đó ghé sát người vào chiếc hộp nghe ngóng một hồi, nhưng anh không phát hiện ra bất kì âm thanh gì. Tuy Tư Mã Khôi là người gan to hơn trời, nhưng hành sự lại không hề vội vàng, bất cẩn, nay thấy sự việc trước mắt chưa rõ thế nào, anh đâu dám coi thường. Tư Mã Khôi hít sâu một hơi, nhẹ tay cậy nắp hộp lần nữa. Lần này đã chuẩn bị tâm lý trước, nên anh chăm chú quan sát vật đựng trong hộp dưới sáng của ngọn đèn đồng; có điều tuy mắt anh nhìn thấy nó rõ ràng, mà đầu vẫn mờ mịt như chìm giữa biển sương, bởi vì thứ trong hộp quả thực vượt xa sức tưởng tượng của con người.
Cỗ thi hài trong hộp dài chừng hơn hai mét, dung mạo vừa giống người lại vừa không giống, tứ chi đều đầy đủ nhưng lại không phải xương người, cũng không phải xương của bất kì loài động vật nào, mà từ xương sọ đến xương bàn chân đều làm bằng vàng ròng, nội tạng làm bằng các loại đá quý như mã não, hổ phách, pha lê, phần trước xương sọ có hai hốc mắt lõm xuống, mỗi hõm đặt hai viên ngọc màu đen tuyền, loại ngọc này do tinh thể than đá hóa thành, gần giống với loại ngọc huyền lê thời cổ đại, dưới ánh sáng đèn chiếu u, trông nó ánh lên thứ ánh sáng sắc lạnh, tỏa ra bốn phía xung quanh. Điều đáng ngạc nhiên là, cả cỗ thi hài hoàn toàn do thiên nhiên tạo ra, không hề thấy bất cứ dấu tích đục đẽo, chạm khắc nào. Cung A Phòng và cung Vị Ương thời Tần Hán nổi tiếng thâu tóm hết mọi báu vật của thiên hạ, nhưng e rằng, gom tất cả số báu vật đó lại cũng không địch nổi cỗ thi hài vô giá đang nằm ở trước mặt mọi người. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi đã hiểu ra, có lẽ, người cổ đại đã tìm thấy số vàng và pha lê này trong mạch núi dưới lòng đất. Khi đó, loài người còn chưa hiểu thế giới tự nhiên cũng là vị thần điêu khắc kì tài, cỗ di hài lưu truyền đến thời Xuân Thu Chiến Quốc thì được Sở U Vương xem là di hài báu, nên lão ta bí mật cất giấu trong cung để chuyên phục vụ cho chuyện vu thuật gieo quẻ dự đoán họa phúc, hung cát. Nhưng chẳng bao lâu sau, Sở quốc suy vong, Sở U Vương cho rằng mình đã đắc tội với hung thần ác quỷ, nên muốn lấy vật này để trấn núi Âm Sơn. Điều đó đủ để chứng minh, dưới biển Âm Dụ còn có huyệt động sâu hơn. Nơi đó chính núi Bối Âm nhốt giữ vô số ác ma trong truyền thuyết, cỗ thi hài làm bằng vàng ròng và pha lê, có lẽ được mang về từ nơi ấy, nhưng căn cứ theo ghi chép trên hộp đồng, thì trong núi Âm Sơn không hề tồn tại mỏ vàng, cỗ di hài này được người cổ đại phát hiện trong nhật quỹ có hình khum tròn, phình bụng. Vậy nhật quỹ rốt cuộc là vật gì? Lai lịch của nó như thế nào? Vì sao mạch núi trong vực sâu lại lúc ẩn lúc hiện như vậy?
Vô số nghi vấn ùa đến như thác lũ, tuy điều đáng mừng là đến bây giờ, các manh mối vẫn chưa bị đứt quãng, nhưng đầu óc chỉ cần lơ đễnh một chút là cả hội đã quên khuấy mất lời nguyền kẻ nào chạm vào di hài kẻ ấy sẽ chết, bởi từ lúc mọi người chạm vào nó đến nay vẫn chưa thấy xảy ra điều gì bất thường. Tư Mã Khôi phỏng đoán, lời nguyền kia có lẽ chỉ là lời hù dọa nhằm đối phó với bọn trộm mộ mà thôi, nên trái tim đang treo giữa lưng chừng trời của mọi người đến lúc này tạm thời đã chạm đất. Tư Mã Khôi liền mở hết nắp hộp ra, đúng lúc anh định gọi hội Hải ngọng đến xem thì bỗng nhiên thấy một luồng âm phong quét ngang sau lưng, rồi một bàn tay lạnh như băng đặt trên vai anh, khiến trong phút chốc cả cơ thể anh bị khí lạnh bao phủ, gai ốc nổi khắp mình mẩy, toàn thân run lên lẩy bẩy.
Tư Mã Khôi thấy tình hình không ổn, tựa hồ có âm hồn xuất hiện ngay sau lưng, lòng thầm hiểu chỉ cần quay đầu lại là mất mạng ngay, nên lập tức, anh vội vàng nắm hai tay vào vách hộp, hít sâu rồi tung người nhảy qua cỗ di hài bàng vàng và pha lê; khi chân vừa chạm đất, anh lại thuận thế lăn một vòng về phía trước. Chỉ trong khoảnh khắc nhanh như điện xẹt, Tư Mã Khôi đã nhảy ra khỏi chỗ cũ chừng hơn chục mét, rồi lập tức giương súng ngắm thẳng vào người đứng đằng sau, chỉ thấy nơi họng súng chĩa tới có một người đang đứng im lìm, đầu của kẻ đó đội mũ Pith Helmet gắn đèn quặng, mặt đeo mặt nạ phòng độc kiểu mang cá, trông giống hệt với cách ăn vận của Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi thấy kẻ đó giống hệt với chiếc bóng của chính mình, từ đầu đến chân đều không có điểm nào khác biệt. Hắn chắc chắn không phải tên gián điệp khác của tổ chức Nấm mồ xanh, vì mọi trang bị trên người Tư Mã Khôi toàn là đồ hiếm có khó tìm, nhặt nhạnh cóp nhặt mỗi chỗ một tí. Nếu không vào kính viễn vọng Lopnor và rừng nguyên sinh biển Âm Dụ dưới núi Thần Nông Giá, thì làm sao có thể tập hợp được tất cả những đồ dùng như: mặt nạ phòng độc kiểu mang cá mập của Liên Xô sản xuất, mũ bấc Pith Helmet, và cả khẩu súng liên thanh M-1887 của đội thám hiểm Taninth để lại được? Cả thảy chỉ có ba người tham gia cả hai lần hành động của đội, ngay cả loại đèn quặng cácbua chuyên dùng để săn đêm hoặc tác nghiệp dưới lòng đất, tuy là loại thường thấy, nhưng vì muốn phòng tránh va đập trong khi hành động, nên cả ba đã bọc tấm lưới mỏng trước đầu đèn, đặc điểm này không thể bắt chước được. Bởi vậy, cho dù kẻ đó đeo mặt nạ phòng độc trên mặt, nhưng Tư Mã Khôi chỉ cần thoáng nhìn một cái đã có thể nhận ra đặc trưng vóc dáng của hai người bạn đồng hành, có điều kẻ xuất hiện trước mắt anh lúc này chắc chắn không thể là Thắng Hương Lân hoặc Hải ngọng được, vậy thì ngoài mình ra còn có thể là ai chứ?
Tư Mã Khôi đương nhiên biết rõ mình không thể nhìn thấy chính mình, trừ khi chịu ảnh hưởng của tác động quang học theo kiểu bóng trăng dưới nước, bóng hoa trong gương; nhưng ảnh phản chiếu đó lại không có sự tương phản trái phải với vật thật, cảm giác lạnh như băng chạy sát sau lưng khi nãy cũng bỗng nhiên ùa đến, như thể ba hồn bảy vía bị kéo ra khỏi thể xác vậy. Tư Mã Khôi bình sinh nhiều lần gặp phải sự cố kì lạ, nhưng chưa bao giờ thấy mình gặp phải tình huống nào tà mị đến thế, nên bất giác nhớ đến lời nguyền “ác ma sẽ xuất hiện ngay sau khi mở chiếc hộp đồng”.
Ác ma chính là ma thiêng, nghe nói người chết đi sẽ hóa thành ma, nếu người nào chết phải năm âm, tháng âm, giờ âm thì sẽ hóa thành ma thiêng, ma thiêng tu luyện lâu sẽ thành hình, rồi oan hóa thành người. Tư Mã Khôi vốn không tin mấy thuyết pháp tà ma kiểu này lắm, vì anh là chân truyền Kim Điển, nên hiểu rõ bí quyết Kim Bất Hoán là gốc rễ của cổ thuật tướng vật, mà chân lý của bí quyết này là: không có vật gì trên thế giới không thể nhận diện phân biệt, nhưng trong đó cũng có một câu nói rất hay thế này: “Thần quỷ vô hình, chỉ có con người là hiện hữu, một con chó sủa bóng mình, trăm con chó khác cũng đua nhau sủa theo, ngàn lời đồn đủ sức tan chảy sắt đá, giết chết mạng người, ngay cả trí sĩ thánh hiền cũng phải hoài nghỉ”. Ý câu này muốn ám chỉ: mọi sự việc ở cõi u minh chỉ là hư vô, không ai xác định được trên đời có ma quỷ thật không, phần lớn chuyện thần thoại hay ma quỷ đều do con người nhào nặn nên, có điều cũng không thể khẳng định rằng chúng không tồn tại trên đời, bởi vì âm hồn không phải thực thể, không thể lấy cái thực để luận cái hư, bởi vậy rất khó dùng thuật tướng vật để nhận diện chúng. Chuyện anh vừa gặp khi nãy thật quá sức quái dị. Tư Mã Khôi cũng không biết cái bóng đối diện với anh thực ra là do ma quỷ hóa thành, hay hồn vía mình đã lìa khỏi thể xác. Trong thoáng chốc, anh vừa kinh hãi vừa hồ nghi như thể đúng là bị rơi mất hồn thật.
Trong nháy mắt, hai ngọn đèn chiếu u bên cạnh cũng tối sầm theo, cái bóng đeo mặt nạ phòng độc kiểu mang cá giống như một đám sương mù tan dần ra, uốn éo vươn dài rồi dần dần biến mất vào nơi sâu trong bóng tối mênh mông.
Cùng lúc này, những thành viên còn lại cũng phát hiện thấy tình hình bất ổn, liền lập tức lao lên tiếp ứng, nhưng bị Tư Mã Khôi che khuất tầm nhìn, nên không ai trông thấy cảnh tượng quái dị vừa xảy ra cạnh chiếc hộp đồng.
Tư Mã Khôi thực sự không biết nên lý giải thế nào, nhưng anh cũng hiểu rõ, nếu khi nãy mình không nhanh chân chạy trốn thì giờ đã nằm lăn quay ra đất rồi. Anh chỉ cảm thấy khi luồng âm phong quét qua, ánh nến xoay vòng rồi tắt lịm, luồng gió thổi khiến da thịt khắp người gai lạnh. Thấy bóng tối sắp nuốt chửng chiếc hộp của Sở U Vương, anh hấp tấp gỡ mặt nạ phòng độc ra, đang định bảo hội Thắng Hương Lân mau chóng rút lui, nào ngờ đám dây leo trên cao bỗng lắc lư từng hồi, rồi một người tụt tò dây leo xuống, động tác nhanh nhẹn như bay, lao vụt đến canh chiếc hộp đồng. Kẻ mới đến lưng hổ, eo sói, mặt vượn, toàn thân tỏa ra mùi tử khí nồng nặc, đó chính là gã hái thuốc ở lâm trường.
Thì ra, đúng như Tư Mã Khôi tiên liệu, gã giặc đất Lão Xà quái dị khác người, quanh năm tiêu lộc hái thuốc trong rừng rậm, không biết gã nuốt bao nhiêu hà thủ ô thành hình và linh chi ngàn năm, lại còn luyện được cả món công phu cương thi và bí thuật nhịn thở của tên sư phụ chuyên đào mồ quật mả. Năm đó, nhất cử nhất động của gã ở lâm trường hàng ngày đều bị mọi người giám sát, nên gã đành giả chết. Sau khi bị chôn xuống đất, gã mới lấy tay đào đất chạy thoát, rồi lặn một hơi trong rừng sâu núi thẳm, khát thì uống nước suối, đói thì ăn quả rừng, khó khăn lắm mới lặn lội đến được trạm thông tin ở Đại Thần Nông Giá để đào đường hầm. Gã hy vọng sẽ tìm thấy tấm bản đồ và đồ nghề đội thám hiểm Taninth để lại năm xưa, rồi ra tay tìm kiếm cổ vật của Sở quốc nằm dưới biển Âm Dụ. Nào ngờ, giữa đường vỏ quýt dày lại gặp móng tay nhọn, gã bị hội Tư Mã Khôi nẫng tay trên, phá hỏng đại sự mà gã đã âm thầm dày công lên kế hoạch từ bao năm nay.
Lão Xà tự biết nắm đấm khó địch nổi súng đạn, nên sau khi bị rơi xuống khe núi, gã tìm chỗ trốn tạm, định mấy hôm sau sẽ nghĩ cách chôn sống hội Tư Mã Khôi trong núi, còn mình năm ba ngày không ăn không uống cũng chẳng hề gì, nếu đói quá thì vẫn có thể cắt thịt tên dân binh Hổ Tử ra xơi dần, kiểu gì mà chẳng đợi được đến lúc bọn khảo cổ chết mòn. Nào ngờ, hội Tư Mã Khôi lại quyết định thâm nhập lòng đất phía dưới biển Âm Dụ theo chỉ dẫn của tấm bản đồ, rồi lại tìm thấy hố tế lễ trấn ma của người Sở cổ đại. Gã quan sát và nhận thấy rằng, hội người này dường đã chuẩn bị chu toàn mọi thứ trước khi đến đây, có vẻ bọn họ muốn tìm vật gì đó. Lão Xà cho rằng, hội Tư Mã Khôi cùng một giuộc giống mình, đều là dân quật mả đổ đấu, nên lặng lẽ bám theo. Gã ngậm đắng nuốt cay đã lâu, dọc đường chỉ muốn hạ thủ ám sát, ngặt nỗi không có cơ hội ra tay, vả lại gã chỉ sợ mùi tử khí trên thân thể mình làm bại lộ tung tích, nên không dám đến gần. Mãi khi Tư Mã Khôi mở nắp chiếc hộp của Sở U Vương, gã đã đứng nấp giữa rặng dây leo thấy di hài bằng vàng ròng và pha lê cực kì quý hiếm bày ngay trước mặt, liền nổi lòng tham. Sau đó, gã lại phát hiện luồng âm phong sương thảm mây sầu thổi thốc ra từ phía dưới con quái vật “tải”, ngoài ra còn có bóng ma hiện hình trong làn sương đen, rồi cùng lúc đó gã lại trông chiếc hộp đồng sắp bị chìm vào bóng tối, nói không chừng sẽ bị âm hôn ác ma đem đi mất, nên lòng tham trỗi dậy, Lão Xà định liều mạng cướp lại cỗ di hài. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tuy hội Tư Mã Khôi đã dự tính trước Lão Xà là tay có thủ đoạn rất quái dị, nhưng sự quái dị của gã đã vượt xa tưởng tượng của người thường. Nếu gã chưa thảm bại thịt nát xương tan, thì tuyệt đối không chịu bỏ cuộc, bởi vậy cả hội luôn trong trạng thái đề cao cảnh giác, nhưng lúc này tất cả mọi người đang tập trung chú ý đến chiếc hộp đồng, không ngờ Lão Xà lại từ đâu đột ngột xuất hiện. Tư Mã Khôi cũng biết Lão Xà không đơn giản, chuyến vào núi này nếu không có bản đồ của đội thám hiểm Taninth, không biết cả hội còn gặp bao nhiêu trắc trở và hiểm nguy, mà đối phương lại chọn đúng thời điểm này xuất hiện ở trạm thông tin, chẳng lẽ tất cả chuỗi sự kiện đó chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên? Tư Mã Khôị lờ mờ cảm nhận bên trong chắc hẳn phải có uẩn khúc. Anh bất giác nhớ đến câu danh ngôn mà mình từng nghe trong hẻm núi Dã Nhân ở Miến Điện: “Càng nghiên cứu sâu về lô gích, càng nên trân trọng sự ngẫu nhiên”. Tuy khẩu súng thợ săn mà Hổ Tử dùng có vẻ nguyên thủy lạc hậu, tầm bắn và lực sát thương đều kém xa khẩu M-1887 trong tay anh, nhưng ở tầm bắn gần thì vẫn đủ sức quật đổ con báo. Tên giặc đất này tuy đã luyện qua công phu cương thi, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là da thịt con người, sao gã đã bị súng săn bắn trúng mà vẫn hành động thoăn thoắt như thường? Ngoài ra, chẳng lẽ ý đồ của gã lại đơn giản như gã nói – chẳng qua chỉ là lâm vào cảnh đường cùng nên muốn đánh một quả rồi vượt biên trốn ra nước ngoài? Trên người gã dường như ẩn giấu rất nhiều bí mật. Liệu gã có liên quan đến tổ chức Nấm Mồ Xanh không?
Đương nhiên, ngay từ đầu Tư Mã Khôi đã nảy sinh những suy nghĩ đó trong đầu, nhưng do không tìm được manh mối gì nên anh chưa nói cho ai biết. Giờ đây, anh thấy đối phương xuất hiện ngay trước mặt, nên không cần ngẫm nghĩ gì nữa, lập tức giương súng bắn. Tuy Tư Mã Khôi rất nhanh tay nhanh mắt, nhưng thân thủ của Lão Xà cũng cực kì mau lẹ, gã chui vào góc chết mà mũi súng không chĩa tới được và nằm ngay cạnh chiếc hộp đồng, thò tay nắm lấy cỗ thi hài. Lại thêm hai ngọn nến thắp trên đèn chiếu u bị luồng âm phong thổi tắt ngóm, nên trong chớp mắt, bóng dáng tên giặc đất bị màn sương đen nuốt chửng hoàn toàn.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ bảy
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">HỒ NGHI
Tư Mã Khôi thấy sương đen tỏa ra từ phía dưới tượng thần thú “tải” đã che lấp hết chiếc hộp đồng, cả Lão Xà và cỗ thi hài bảo vật đều bị sương khí nuốt chửng, một nửa số nến trên đèn chiếu u cắm giữa vách tường và hộp đồng đã bị gió thổi tắt. Anh không biết thứ xuất hiện trong luồng âm phong rốt cuộc là vật gì, liền hét lớn, ra lệnh cho mọi người đang chạy đến gần lập tức lui về sau.
Cao Tư Dương thấy Lão Xà xuất hiện, cô vốn chỉ một lòng muốn báo thù, nên giờ không muốn lùi lại chút nào. Thấy đèn nến trước mắt đen thui, bóng tối bủa vây tứ phía, lại nghe văng vẳng đâu đây như tiếng cổ họng ai đó kêu khục khục, nên cô liền kề khẩu M-1887 lên vai, ngắm thẳng về hướng phát ra âm thanh và bóp cò. Nhưng đúng lúc tiếng súng vang lên, thì một trận âm phong bỗng nhiên ào tới, toàn thân Cao Tư Dương ớn lạnh, cảm giác như thể có ác ma đứng ngay trước mặt há mồm phả luồng khí lạnh vào người mình. Cao Tư Dương phát hiện tình hình không ổn, bèn cuống quýt quay người rút lui. Nào ngờ, Nhị Học Sinh cũng nóng lòng muốn chạy lên giúp sức, hai người đứng gần nhau quá nên khi Cao Tư Dương lùi lại, cả hai đâm sầm vào nhau, ngã sóng xoài xuống đất.
Lúc này, khu vực xung quanh chiếc đầu linh thú “tải” càng lúc càng tối. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân không nhìn thấy các thành viên khác ở đâu, chỉ có Hải ngọng phát hiện thấy có người ngã ngay bên cạnh mình, anh nhất thời nổi máu anh hùng, vội vàng khoác súng săn ra sau lưng, đưa tay ra tóm mỗi bên một người. Trên mình hai người bạn đồng hành đều có ba lô và súng ống, nặng trĩu cả tay.
Hải ngọng phát hiện ngọn đèn cácbua gắn trên mũ nhấp nha nhấp nháy như bị chập điện rồi vụt tắt. Mọi thứ trước mắt trở nên tối thui, không một tia sáng, dù chỉ le lói. Hải ngọng chửi thầm: “Chết tiệt!”. Dựa vào kinh nghiệm từng băng rừng vượt núi khắp vùng Miến Điện, thì giờ anh chỉ cần chạy thẳng một mạch về phía trước là có thể thoát thân; nhưng trong khoảnh khắc sinh tử ấy, trong đầu anh lại bồng bềnh hiện lên khuôn mặt của những đồng đội đã chết thảm trong núi Dã Nhân và dưới kính viễn vọng Lopnor, bởi vậy anh không muốn vứt hai người bạn này lại để chạy trốn một mình. Anh gồng mình lên, hét to một tiếng, gắng gượng vung hai tay lần lượt ném mạnh hai người về phía trước, sau đó định co cẳng chạy trốn ra ngoài. Bỗng nhiên, trên lưng Hải ngọng cỏ luồng khí lạnh buốt, anh khiếp sợ đến mức hồn lìa khỏi xác, rồi vô thức quay đầu nhìn lại phía sau, nhưng phía sau chỉ là khoảng không mênh mang và bóng đêm đen ngòm, ngoài ra không còn thứ gì khác….
Lúc này, Tư Mã Khôi phát hiện có người bị rớt lại phía sau, đang định nghĩ cách ứng cứu thì nhìn thấy Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh rơi phịch xuống ngay gần chân mình, đầu gối và khuỷu tay của họ sây sát, lem nhem, chứng tỏ cú ngã có vẻ khá nặng.
Tư Mã Khôi nghe động tĩnh thì biết Hải ngọng chưa kịp thoát thân, còn già nửa cây cầu đá trên đầu con linh thú “tải” đã chìm vào bóng đêm. Lòng nóng như lửa đốt, anh lập tức nhào qua đó định tìm Hải ngọng. Nào ngờ, giữa lúc nước sôi lửa bỏng đột nhiên lại có một người lao ra, đó chính là Lão Xà, tay vẫn ôm cỗ di hài. Tư Mã Khôi thấy lúc trước Lão Xà rõ ràng đứng phía sau Hải ngọng, sao giờ tên giặc đất này lại thoát ra khỏi chiếc hộp bóng đêm đó trước được, mà không bị âm hồn ác ma cuốn đi. Vậy gã ta rốt cuộc là người hay ma?
Hai bên ngẩn người nhìn nhau, dường như trong đầu cùng lóe lên suy nghĩ: đúng là oan gia ngõ hẹp, tao không chết thì mày phải chết, tuyệt đối không thể nương tay, cả hai đỏ mắt gườm gườm nhìn nhau. Tư Mã Khôi định giương súng nghênh chiến, nào ngờ tuy thân thủ anh đã rất mau lẹ, nhưng động tác của đối phương còn nhanh hơn nhiều, anh thấy cánh tay phải bỗng nhiên tê rần, rồi đau thấu tận tim phổi, thì ra đối phương đã bóp mạnh vào huyệt thốn quan xích ở khuỷu tay anh.
Sức mạnh của Lão Xà thật khiếp người. Thợ săn ở vùng núi Thần Nông Giá từ xưa đến nay đều là những tay võ nghệ cao cường. Lão Xà cũng luyện thành thục “ngũ cầm chiêu” mô phỏng động tác tấn công của năm loài: hổ, rắn, gấu, vượn và chim. Cánh tay rắn chắc như hổ báo của gã lúc này đang xiết chặt mạch môn của đối phương, tay kia vẫn ôm chặt cỗ di hài. Gã chỉ mong thêm chút công lực nữa để bóp nát cổ tay Tư Mã Khôi, sau đó giẫm chân đạp vỡ lồng ngực anh. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi là người dạn dày kinh nghiệm chiến đấu, nên lúc lâm nguy anh vẫn không hề hoảng loạn .Thấy mạch môn của mình đã bị đối phương bóp chặt, anh thuận thế lộn người lại để giảm bớt lực xiết, đồng thời kéo khuỷu tay đối phương lại, giơ chân tung liên hoàn cước. Lão Xà không ngờ Tư Mã Khôi lại ứng biến thần tốc như vậy, gã bị đá liên tiếp hai cú vào lồng ngực, nên buộc phải buông tay và lùi về sau tránh né. Tư Mã Khôi đau đến mức phải hít một hơi lạnh vào, vì ngoài cổ tay ra, hai xương ngón chân của anh cũng suýt chút gãy lìa, và lúc này anh mới biết tên giặc đất Lão Xà còn mặc giáp da và đeo gương đồng bảo vệ tim. Không biết mấy món đồ cổ đó gã moi ra từ ngôi mộ nào, chẳng trách sau khi bị súng bắn, gã vẫn điềm nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Hai người đều không thể đẩy đối phương vào được chỗ chết, nhưng xương cốt Tư Mã Khôi đều bị Lão Xà bóp sắp gãy vụn, nên rõ ràng anh đang ở thế hạ phong; nhưng cuối cùng anh cũng xác định được, Lão Xà tuy đã luyện công phu cương thi, biết bí thuật ngưng thở, nhưng rốt cuộc gã vẫn chỉ là người bình thường. Thế nhưng nếu lời nguyền là sự thật, nghĩa là chỉ cần lại gần cỗ di hài trong chiếc hộp sẽ bị âm hồn đòi mạng, thì sao gã giặc đất này lại bình an vô sự? Trong khi đó, chính bản thân anh cũng suýt bị thứ gì đó kéo mất hồn vía ra khỏi thể xác?
Từ lúc Tư Mã Khôi mở chiếc hộp đồng, nhìn thấy cỗ di hài thần bí bên trong, rồi phát hiện phía sau lưng mình có ma, anh vội vã tháo chạy khỏi chiếc hộp; sau đó luồng âm phong thổi tắt đèn chiếu u, khoảng không gian xung quanh chiếc hộp đồng càng trở nên ma quái, mãi đến khi đụng độ Lão Xà, cả hai lao vào trận quyết chiến sống mái, thì những biến cố này liên tiếp xảy ra chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi chừng mười phút. Tư Mã Khôi không hề có thời gian ngẫm nghĩ, thấy mình và tên giặc đất đã nới rộng khoảng cách, súng vẫn trong tay, anh định bắn chết gã để thanh toán nhanh gọn mối hiểm họa lớn trong lòng, nhưng cánh tay phải của anh đang đau như muốn gãy lìa, không nhấc lên nổi nên anh không thể bóp được cò súng.
Lão Xà thấy họng súng đen ngòm chĩa thẳng vào mình, lòng cũng thấy hơi chờn, gã lập tức kẹp cỗ di hài, rút lui vào cạnh cầu đá, rồi tụt xuống, nấp trong huyệt động phía trên linh thú “tải”.
Tư Mã Khôi thấy đối phương chuồn mất ngay trước mắt, nhưng vẫn không làm gì được. Anh liếc mắt sang, thấy ba người còn lại đang hợp lực kéo sợi dây thừng lôi Hải ngọng đang mềm oặt như dải khoai héo lại gần. Xem tình hình, có vẻ như trong lúc Hải ngọng lâm nguy, hội Thắng Hương Lân đã quăng móc câu vội vàng chạy lại tiếp ứng, không còn tâm trí nào truy bắt Lão Xà. Tư Mã Khôi cũng lập tức đến trợ giúp, rồi mọi người gắng hết sức mới kéo được Hải ngọng đến bên cạnh, nhưng thấy sắc mặt Hải ngọng trắng bệnh như giấy, hai mắt nhắm nghiền, cơ thể cứng đờ, từ đầu đến chân đều bất động, thì không rõ sống chết thế nào.Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Đúng lúc này, hai ngọn nến cuối cùng trên đèn chiêu u cũng bị âm phong thổi tắt, tứ bề tối đen như mực. Mọi người hoảng hốt, đành khiêng Hải ngọng lui vào huyệt động giữa vách hộp, rồi tiện tay đẩy ngã một tượng đá chặn một cửa động lại, có điều huyệt động trên con quái vật “tải” thông với khắp mọi hướng, bịt một cửa cũng chẳng ăn thua gì, nếu quả thực có âm hồn đuổi sau lưng, thì cho dù tường đá có kiên cố hơn nữa, e cũng không có tác dụng. Việc đã đến nước này, cũng đành bó tay tuân theo mệnh trời.
Mọi người thấy Hải ngọng vẫn không có động tĩnh gì, thì một dự cảm không lành trào lên, lạnh buốt cả tim. Cả hội đoán chừng hơi thở của Hải ngọng đã ngừng từ lâu, vì giống như anh đã chết được mấy tiếng rồi, giờ chỉ còn lại cái xác không còn sự sống. Chẳng ai ngờ cái chết lại đến với Hải ngọng đột ngột như vậy, cả hội đứng chôn chân lặng người không nói gì, bầu không khí tang tóc im lìm, có lẽ khi ta càng hiểu rõ sự đáng sợ của cái chết thì càng không biết khi nào nó thình lình ập đến.
Có điều, Tư Mã Khôi lại có linh cảm rất lạ, không biết vì nguyên nhân gì mà anh vẫn cảm thấy thi thể trước mắt không phải là Hải ngọng, hoặc có thể nói, nó không phải là một tử thi thực sự của người chết, mà chỉ là thứ gì đó xuất hiện sau khi mở chiếc hộp của Sở U Vương mà thôi.
Tư Mã Khôi lắng tai nghe ngóng, thấy bốn bề xung quanh yên ắng không một tiếng động, anh mới kể cho mọi người nghe tình cảnh mình gặp phải sau khi mở nắp hộp đồng: đầu tiên, anh bỗng nhiên phát hiện có một bàn tay đặt trên vai mình, rồi anh mau lẹ nhảy phắt qua chiếc hộp trốn thoát, lúc quay đầu lại thì chỉ nhìn thấy luồng âm phong lạnh lẽo, ngoài ra còn có một cột khí đen, hai ngọn nến trên đèn chiếu u đột ngột tắt ngóm, đồng thời anh còn thấy phía sau chiếc hộp thấp thoáng bóng người đối phương cũng đeo mặt nạ chống động kiểu mang cá, nên không rõ mặt mũi cụ thể trông thế nào, có điều vóc dáng và trang phục thì giống hệt anh. Tư Mã Khôi tin chắc chắn “một người tuyệt đối không thể gặp một bản sao của chính mình trong thế giới thực”, nhưng hiện tượng quái dị này quả thực đã xảy ra, chính vì vậy, thi thể trước mắt mọi người chưa chắc đã phải Hải ngọng thật.
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh đều lắc đầu không tin, họ khuyên Tư Mã Khôi nên chấp nhận sự thật, người chết giống như ngọn đèn đã tắt, nghĩ ngợi xa xôi cũng đâu cứu vãn được gì.
Thắng Hương Lân nghe Tư Mã Khôi miêu tả những gì anh vừa gặp lúc trước thì nhận định, bóng người xuất hiện canh hộp đồng chắc không phải thực thể, mà là một hình thức di ảnh nào đó, giống như sương khói, vì vậy nó mới nhanh chóng biến mất. Nếu lúc trước Tư Mã Khôi không nhanh chân chạy trốn, thì bây giờ cũng đã trở thành một thi thể lạnh ngắt rồi.
Tư Mã Khôi đương nhiên cũng hiểu những lý lẽ này, chỉ có điều, trong lòng anh vẫn ôm một tia hi vọng nhỏ nhoi. Anh nhớ lại những người bạn của mình: Karaweik, Ngọc Phi Yến, giáo sư Nông địa cầu, Tuyệt, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng Lưu Giang Hà… họ đều dần dần bỏ mạng trong quá trình đi tìm ẩn số về Nấm mồ xanh. Tất cả những ai từng có liên quan, dính líu đến bí mật này, dường như đều phải chịu lời nguyền của số mệnh. Các bạn anh, kẻ chết trước, người chết sau, mọi ngưòi đều chết cả, chẳng qua chỉ là sớm hay muộn mà thôi, mà cái chết lại không hề được báo trước, mọi người vừa không có sự lựa chọn chạy trốn định mệnh, vừa không kịp chuẩn bị tinh thần để đón nhận cái chết. Thế nhưng Hải ngọng lại chết quá đột ngột, trên người cũng không có vết thương nào rõ rệt, trong khoảnh khắc trước khi chết, cậu ấy đã gặp phải chuyện gì? Nghĩ đến đây, những thời khắc oanh liệt quá khứ cứ hiển hiện trước mắt, anh thầm oán: “Hải ngọng ơi là Hải ngọng, mưa bom bão đạn, trời sập đất lún, bao nhiêu kiếp nạn mà cậu còn chả chết, thế mà bây giờ lại chết khuất tất ngay ở Thần Nông Giá. Cậu đúng là đồ thiếu nghĩa khí, bỏ đi vội vàng, chẳng từ biệt thằng bạn thần lấy một tiếng. Mà thôi, nếu cậu hiển linh, thì cứ xuống cửu tuyền đợi tớ trước, mấy hôm nữa tớ sẽ xuống đó bù khú với cậu sau…”
Lúc này, ở nơi sâu gần cái đầu thú chợt phát ra tiếng động nhỏ, rồi Tư Mã Khôi ngửi thấy mùi dung dịch phoóc môn dùng để chống xác chết thối rữa. Anh biết, Lão Xà lúc trước chui vào huyệt động vẫn chưa chạy đi xa được liền xách đèn chui tuột vào trong, quả nhiên thấy gã vẫn ôm cỗ di hài lò dò tiến lại gần. Khi còn cách anh chừng mười bước thì gã dừng lại bất động, nấp sau cái đầu thú, chỉ lộ cặp mắt vằn sọc tia máu chăm chú nhìn mọi người.
Lão Xà “e hèm” cất giọng khàn đục hỏi: “Không biểt tôi nên… xưng hô như thế nào với thủ lĩnh đây nhỉ?”. Gã vốn vẫn cho rằng hội Tư Mã Khôi cùng một giuộc thổ tặc với mình, cũng vào rừng trộm báu vật, nhưng theo quy tắc giang hồ, cho dù hai bên đều là phường giặc đất, cũng không được hỏi quý tính đại danh của đối phương, vì hễ hỏi, đối phương sẽ sinh lòng nghi kỵ: “Mày muốn làm gì tao?” bởi vậy phải hỏi “xưng hô thế nào”, và thông thường người được hỏi chỉ cần nói tên hiệu là xong mục khai báo họ tên.
Mắt Tư Mã Khôi lộ tia sát cơ, tuy anh còn rất nhiều nghi hoặc về lai lịch tên này, nhưng bây giờ chẳng còn tâm trí nào mà truy hỏi, bởi vậy anh không thèm trả lời đối phương. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Lão Xà lại hỏi: “Bọn mày đừng ép người quá đáng, lúc đầu nếu không phải thằng oắt con Hổ Tử nổ súng bắn tao trước, thì tao cũng không giết nó. Bây giờ tao lâm vào đường cùng, chỉ muốn hỏi mày một câu thôi, vì sao mày lại lừa tao đến chỗ này tìm di hài?”
Chẳng phải gã định xuống biển Âm Dụ hy vọng kiếm món hàng khủng rồi chạy trốn ra nước ngoài sao? Lúc trước, Tư Mã Khôi đã lờ mờ nhận ra gã còn có âm mưu gì khác, vì thời gian Lão Xà đào địa động ở trạm thông tin rất kì quái, và sự trùng hợp này khiến người ta cảm thấy bất an. Từ khi gặp nạn đến nay, đội thám hiểm Taninth đã vùi xương trong rừng sâu suốt mấy chục năm, sao gã không đến sớm hơn hay muộn hơn, mà mãi mấy ngày gần đây mới ra tay hành động, để kết quả là gã không những không thành công, mà tất cả bản đồ và vũ khí của đội thám hiểm để lại đều rơi vào tay hội Tư Mã Khôi. Tuy Tư Mã Khôi không nhìn thấu được chân tướng đằng sau những vụ việc này, nhưng anh có thể khẳng định rằng: trước lúc đến đây, gã tuyệt đối không có lý do gì phải tự mình mò đến huyệt động tế lễ để tìm di hài; thậm chí trước đây gã còn không biết dưới biển Âm Dụ có chiếc hộp của Sở U Vương, có điều tên giặc đất này cũng không phải vô duyên vô cớ vọt ra câu nói đó. Câu Lão Xà vừa nói tuy không có gì đao to búa lớn, nhưng ngẫm thật kỹ sẽ cảm nhận thấy bên trong hàm chứa một điều khả nghi vô cùng to lớn mà khó có cách nào giải đáp.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tám
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ÁM HIỆU
“Nếu sự việc có thể trở nên tồi tệ hơn, thì nó chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn, chỉ là tạm thời vẫn chưa xảy ra mà thôi!” – Tư Mã Khôi không thể không gật gù với định luật lạnh lùng của Murphy. Anh lo những dự cảm không lành sẽ trở thành sự thực, có điều, cả chuỗi sự kiện như bị mây đen bao phủ, nên nhất thời anh cũng không rõ rốt cuộc mình đang sợ điều gì.
Cao Tư Dương thì thầm bảo Tư Mã Khôi: “Anh đừng bị mắc lừa. Nhất định hắn ta đang cố tình kéo dài thời gian, chứ làm gì có chuyện anh sai khiến được hắn xuống biển Âm Dụ tìm di hài chứ?”
Tư Mã Khôi đưa mắt nhìn Cao Tư Dương, ra hiệu bảo cô đừng lên tiếng vội, hãy nghe xem Lão Xà định nói gì trước đã, vì sự việc này rất quan trọng, bất kể đối phương nói thật hay giả vờ, thì mình cũng phải nghe hết mới được.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">
Tai Lão Xà thính như tai dơi, chỉ cần nghe loáng thoáng cũng đoán được tình hình. Gã đã nghe Cao Tư Dương nói, và cũng hiểu dụng ý mọi người không muốn trả lời, thế là liền kể tất cả đầu đuôi câu chuyện:
Thì ra, gã vốn họ Dư, được dân địa phương đặt cho biệt danh là Lão Xà, vì tất cả thợ săn trong núi chỉ có họ chứ không có tên; vả lại bởi cha mẹ gã sớm qua đời, nên từ nhỏ đã không có tự hiệu gì cả, sau đó, hắn theo chân sư phụ chuyên làm nghề hái thuốc vào rừng tiêu lộc và hái thuốc quý, đồng thời cũng thường làm những phi vụ tổn hại âm đức. Sư phụ quen gọi gã là Xà Sơn Tử. Cuối cùng, lúc sư phụ sắp đoạn khí, Lão Xà biết sư phụ đã gia nhập tổ chức ngầm từ rất lâu, còn được huấn luyện nghiệp vụ điện mật, ông ta là đặc vụ nằm vùng ở vùng núi Thần Nông Giá. Tổ chức này ra đời từ rất sớm, còn thủ lĩnh cầm đầu tên là Nấm Mồ Xanh.
Trước lúc lâm chung, sư phụ của Lão Xà đã kể cho gã nghe tình hình đội thám hiểm Taninth, và còn nói với gã một chuyện vô cùng trọng đại khác: tổ chức phải tìm con đường hầm dẫn xuống vực sâu gần tâm Trái đất, còn nguyên nhân vì sao thì chỉ thủ lĩnh mới biết. Không một ai biết đường hầm đó nằm ở đâu, thậm chí còn không có mục tiêu cụ thể. Trong khi đó, việc thám hiểm dưới lòng đất vô cùng khó khăn, vì vậy, ngoài việc cần tổ chức những đợt hành động tìm kiếm độc lập, hễ khu vực nào được biết có khả năng thâm nhập huyệt động dưới lòng đất, thì khu vực quanh đó nhất định có các thành viên của Nấm Mồ Xanh đang ngầm theo dõi. Huyệt động ở rừng nguyên sinh biển Âm Dụ trong khu vực Đại Thần Nông Giá cũng là một trong số đó. Nghe nói, Sở U Vương từng chôn bảo vật để trấn ma quỷ ở đây, nơi sâu nhất là mạch núi Âm Sơn, nhưng không biết thực hư thế nào. Năm đó, đội thám hiểm Taninth trang bị vũ khí tinh nhuệ, có ý đồ vào núi tìm bảo vật quý giá thất lạc, kết quả họ đã bị sư phụ Lão Xà trà trộn vào hàng ngũ làm người dẫn đường, rồi ra tay giết sạch cả đoàn. Tuy nhiên, sự việc này cũng không giúp sư phụ của gã dành được sự chú ý của thủ lĩnh, vì lúc bấy giờ ai cũng nghĩ huyệt động sâu nhất là kính viễn vọng Lopnor.
Sư phụ Lão Xà giao lại cho gã quyển điện mật, dặn gã thay lão ta tiếp tục đợi mệnh lệnh, nói đến đây thì sư phụ thở hắt ra một hơi rồi hồn dạt về âm.
Bấy giờ, Lão Xà mới biết, thì ra những ký hiệu, ám hiệu mà sư phụ truyền thụ cho mình trước đây, và cả phương pháp liên lạc điện mật nữa, tất cả đều để phục vụ việc liên lạc với tổ chức ngầm ở nước ngoài kia. Tuy nhiên, gã hoàn toàn không chú tâm tới việc này, mà không hiểu vì sao sư phụ lại phải tận trung như thế với thủ lĩnh, vì tay làm sao mà dài bằng chân, bây giờ đã giải phóng bao lâu rồi, thì cho dù vẫn còn vài đặc vụ chưa bị tóm cổ, nhưng thế cũng làm được trò trống gì, mà tổ chức đó còn tồn tại hay không, thì còn khó nói nữa là. Gã nghĩ, chắc sư phụ bị ma nhập cũng nên, cả đời chui rúc trong rừng sâu núi thẳm, chưa bao giờ được hưởng thụ thứ gì, giờ âm quang thoáng chốc, tuế nguyệt trôi chảy, sư phụ việc gì mà phải khổ sở thế?
Lão Xà thầm ngẫm nghĩ: “Bây giờ thế thời thay đổi, những ngày tháng vô thiên vô pháp như trước đây đã hoàn toàn kết thúc, dân tình ngoài núi lại luôn tổ chức rầm rộ hết đợt hoạt động bài trừ phản động này đến đợt hoạt động bài trừ phản động khác; hai thầy trò ta đã làm biết bao vụ giết người cướp của, quật mồ đổ đấu, huống hồ sư phụ lại là đặc vụ của tổ chức ngầm, mà bất kể vụ nào bị người ta phanh phui ra ngoài ánh sáng, thì cũng đủ lĩnh đạn, vậy thì cứ cúp đuôi làm người cho lành”. Thế là, gã đã tìm việc ở lâm trường, đôi lúc vẫn vào rừng hái thuốc, tiêu lộc, cho mãi đến khi dung mạo bị nấm độc hủy hoại, gã buộc phải lột da mặt mình, nên đi đến đâu cũng bị mọi người coi là quái vật. Gã vốn là người tâm địa hẹp hòi, nghe ai bàn luận chuyện của mình là lập tức nghĩ cách lấy mạng đối phương, rồi tiêu hủy tang chứng, nên dân trong núi càng lúc càng có nhiều người bị mất tích đã khiến công an bắt đầu chú ý. Gã cũng biêt cái kim trong bọc lâu ngày thế nào cũng lòi ra, sự việc của gã kiểu gì cũng bị người ta điều tra ra và xử tội nặng. Trong lúc tuyệt vọng, gã đã thử dùng ám hiệu liên lạc mà sư phụ để lại trước lúc chết, vì nếu tìm được cơ hội chạy trốn, biết đâu tổ chức sẽ kịp đến ứng cứu.
Lão Xà đã lên kế hoạch, nhưng mãi vẫn không nhận được hồi âm nào từ phía tổ chức. Gã còn cho rằng, không khéo tổ chức ngầm đã tan rã từ đời nào, giờ không còn tồn tại nữa, ai ngờ lúc thu tín hiệu đài địch, gã đã bị người ta phát hiện, khiến lâm trường sinh nghi. Đến bước đường cùng, gã đành giả chết, để đánh lạc hướng mối hoài nghi của địa phương, thoát khỏi sự theo dõi của mọi người, rồi lẩn vào núi tránh né. Từ đó, gã không dám thò mặt ra nữa, nhưng vẫn không nản lòng, mà thỉnh thoảng lại lẻn vào trạm liên lạc thông tin, dùng máy điện báo phát sóng ngắn bên trong thử liên lạc với tổ chức. Mãi đến mùa thu năm 1974, cuối cùng gã cũng nhận được mệnh lệnh trực tiếp của thủ lĩnh: hãy đi tìm tấm bản đồ mà đội thám hiểm Taninth để lại.
Đừng nói hai thành viên của đội thông tin, mà ngay cả Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân khi nghe Lão Xà nói cũng phải đưa mắt nhìn nhau, nhưng ai nấy im lặng không lên tiếng bởi xem ra việc này quả nhiên có liên quan đến Nấm Mồ Xanh. Những lời tiết lộ vừa rồi còn liên quan đến nhiều tình tiết bí mật, chứ không thể bịa đặt ra được, nhưng nếu gã nói thật, thì cuối cùng sẽ rút ra kết luận gì?
Suy đoán theo quãng thời gian mà Lão Xà vừa nói, thì cũng là từ khi Tư Mã Khôi gặp cơn bão Buddha ở Miến Điện vào mùa hè, rồi gia nhập đội thám hiểm đến hẻm nủi Dã Nhân tìm chiếc máy bay tiêm kích vận tải, sau đó vượt biên trở về tổ quốc, bị áp giải trong xưởng đóng gạch ngói, rồi theo chân giáo sư Nông địa cầu chui xuống biển cát dưới vực sâu cách mặt đất cả mấy chục nghìn mét, bây giờ anh lại đến rừng rậm nguyên sinh Thần Nông Giá. Lúc này đã là giữa thu, thế có nghĩa là: sau khi những kẻ sống sót của đội khảo cổ thoát khỏi kính viễn vọng Lopnor, Lão Xà mới biết đường hầm thông tới vực sâu dưới lòng đất nằm dưới biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá, lẽ nào Nấm Mồ Xanh chưa thu được sóng điện u linh ở thành Nhện Vàng? Vậy thì ai đã tiết lộ những tin tình báo tối mật này?
Hội Tư Mã Khôi vì tìm thấy cuốn sổ giải mã long ấn triều Hạ ở tận cùng cực vực, thì mới chỉ biết về bí mật Sơn Hải Đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương, và suy đoán dưới biển Âm Dụ tồn tại một vật thể, được gọi là “nhật quỹ”, đó là cánh cửa thông tới vực sâu nơi tâm Trái đất, còn mọi điều khác đều là những ẩn số mơ hồ. Thế nhưng tất cả chỉ có ba người sống sót thoát ra khỏi kính viễn vọng Lopnor mà thôi. Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ: “Trước khi tiến vào Thần Nông Giá, ngoài lão Lưu Hoại Thủy lo kinh phí cho cả hội biết chút ít, thì không còn người thứ năm biết tình hình cụ thể. Mà nếu lão Lưu Hoại Thủy tư thông với địch, thì cả hội đã mất mạng trên tàu hỏa từ lâu rồi, bởi vậy khả năng này có thể loại trừ. Với khả năng đoán vật nhìn người của mình, tuy chưa đến mức phân rõ vàng thau, rồng rắn, nhưng nếu những người xung quanh có dấu hiệu khác thường thì mình chắc chắn không thể không phát hiện thấy. Mà sao gã thổ tặc đó lại bảo mình bắt gã đến đây tìm di hài, vì bản thân mình từng làm gì, chẳng lẽ mình lại không rõ sao? Trước khi mở chiếc hộp của Sở U Vương ra, thậm chí bên trong đựng thứ gì mình còn không xác định được nữa là…”
Ngay từ lần đầu tiên Tư Mã Khôi gặp Nấm mồ xanh đến giờ, đã trải qua biết bao nhiêu biến cố bất ngờ, anh cảm thấy ẩn số quanh mình càng lúc càng nhiều, giống như bị lớp sương mù dày đặc che khuất tầm mắt, khiến anh không thể nhìn thấy tia sáng nào. Lúc này, vừa nghe Lão Xà tiếp tục kể, đầu óc Tư Mã Khôi lại xoay chuyên nhanh chóng, anh cố gắng phân biệt những manh mối mơ hồ ẩn nấp đằng sau những sự việc này.
Lăo Xà nói, sau khi nhận được mệnh lệnh của thủ lĩnh, gã cho rằng, chỉ cần hành sự theo lệnh là sẽ có cơ hội trốn ra nưởc ngoài. Thế là gã lén phỏng hỏa đốt lâm trường, thu hút sự chú ý của lực lượng dân binh, khiến cả vùng núi này bị bỏ trống. Sau đó, gã mò vào trạm thông tin ở tháp canh giết chết nhân viên kiểm lâm, lần tìm phương hướng đào địa huyệt, không ngờ đúng lúc này hội Tư Mã Khôi đột ngột xuất hiện. Ban đầu, Lão Xà cho rằng hội người này có lẽ là nhóm thông tin đến để sửa máy bộ đàm liên lạc, khi thấy hành tung của mình sắp bị phát hiện, gã đành nghĩ cách cản trở, nhưng không thành, rồi sau đó gã lại chậm chân, để nhóm thông tin tìm thấy nơi gặp nạn của đội thám hiểm Taninth trước.
Lúc đầu, Lão Xà còn “ăn cắp run tay”, thấy đội thông tin có năm, sáu người, lại có hai người thân thủ nhanh nhẹn, cho dù gã có ra đòn bất ngờ, thì cũng không thể cùng lúc hạ gục mấy người. Bởi vậy, gã đã không mạo hiểm động thủ, nên kết quả đầu không xuôi nên đuôi không lọt, không những mất đi cơ hội “tiên hạ thủ vi cường” mà còn trừng mắt ngậm đắng nhìn súng ống và bản đồ rơi vào tay người khác. Gã lại càng không ngờ, sau khi có được bản đồ, đội thông tin lại đi một mạch xuống huyệt động dưới biển Âm Dụ. Lúc bấy giờ, gã mới bừng tỉnh, thì ra hội người này cũng là thổ tặc. Quả đúng kẻ cắp gặp bà già, gã đành nhờ vào kinh nghiệm phong phú tích lũy sau nhiều năm hái thuốc tiêu lộc trong rừng sâu, mà bám theo đội thông tin đến đây.
Có nói gì thì Lão Xà cũng là tay thổ tặc lọc lõi, thấy trong hộp đồng của Sở U Vương đựng cỗ di hài với lai lịch thần bí khó lường. Đoán vật này là bảo khí hiếm có khó tìm, trong lòng gã chợt nổi tà niệm tham thú vật chất, đang lúc không kiềm chế nổi, thì bỗng nhiên thấy luồng âm phong từ sau dội đến, rồi một cột sương đen từ đáy động trào ra, nến quanh hộp đồng đột ngột tắt lịm. Khi Tư Mã Khôi vội vàng rút lui, thấy cơ hội đến, Lão Xà lập tức xông lên cướp di hài, có điều lão cũng phát hiện có thứ gì đó đang áp sát ngay sau lưng. Dân trộm mộ đổ đấu vốn không bao giờ tin có ma quỷ, nhưng cảm giác rùng rợn chưa từng có từ trước đến nay đã bao trùm lấy gã, dường như trong màn đêm có vô số bàn tay lực lưỡng tóm lấy. Tuy trước giờ Lão Xà giết người không ghê tay, thủ đoạn lại vô cùng tàn độc, nhưng đến lúc này gã cũng thấy bủn rủn hết cả người. Gã nghĩ, chết vinh không bằng sống nhục, không thể vì cỗ di hài này mà đền cả mạng sống được. Gã ỷ mình giỏi món công phu cương thi ngưng thở, đang định chuồn, thì chợt nghe phía trước có người nói khẽ, nội dung vô cùng ngắn gọn, bảo Lão Xà hãy mang cô di hài vào trong khám động. Ngoài ra, người đó còn nói một ám hiệu.
Năm đó, Lão Xà biết được ám hiệu liên lạc điện mật thông qua lão sư phụ thổ tặc quá cố của mình. Kết cấu của tổ chức dưới sự khống chế của Nấm Mồ Xanh tỏa ra giống như một chiếc ô. Mỗi người đều có mã số, tuy ám hiệu đơn giản, nhưng nội dung chỉ có thủ lĩnh và chính thành viên đó mới biết, và bọn chúng chỉ sử dụng phương thức liên lạc đơn tuyến. Thủ lĩnh ra lệnh trực tiếp cho thuộc hạ, còn các thành viên không thể liên lạc với nhau. Lúc này, người có thể nói ra ám hiệu, thì ngoài thủ lĩnh còn ai khác được nữa? Lão Xà thực không thể ngờ thủ lĩnh lại ở quanh đây, gã ta không dám trái lời, vội vàng ôm cỗ di hài cùng người đó chạy sâu vào trong, kết quả lại đón ngay họng súng của Tư Mã Khôi. Lão Xà thấy đội phương muốn giương súng giết mình, cảm giác phẫn uất, căm hận xáo trộn, sa cơ, bừng bừng sôi trào.
Tư Mã Khôi càng nghe càng thấy kì lạ, những chuyện về sau thì anh đã rõ, hai bên đều chưa thể dồn đối phương vào chỗ chết, cuối cùng lại gặp nhau trong khám động, nhưng người nói ra ám hiệu với gã thổ tặc rốt cuộc là ai vậy?
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ chín
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">TIÊN NỮ TRONG HỘP
Đôn Hoàng phi thiên
Theo miệng Lão Xà, tình hình khi nãy là đèn chiếu u chập chờn sắp tắt, đáy động dội lên một cột khí đen xoay vần cùng luồng âm phong, không gian xung quanh hộp động bỗng dưng trở nên đen kịt, thò tay ra không nhìn thấy ngón, nhưng ngọn nến cắm phía trước hộp đồng thì vẫn sáng. Lão Xà đã gặp một người nói ám hiệu với mình trong bóng tối, gã đành liều mạng cướp cỗ di hài, nhưng từ vùng bóng tối thoát ra ngoài ánh sáng, người cách gã gần nhất lúc bấy giờ lại là Tư Mã Khôi, ngoài ra tuyệt đối không còn ai khác. Lão Xà cho rằng mình bị tổ chức lợi dụng, sau đó giết người diệt khẩu, nên trong lòng bất giác phẫn uất quá hóa giận; nhưng gã cũng phát hiện, sau khi mở hộp đồng của Sở U Vương, thì chắc chắn đã xuất hiện thứ gì đó rất đáng sợ. Vậy nên gã đành nén giận, trốn vào trong khám động lánh nạn trước. Lão Xà nói đến đây thì im lặng, chỉ nấp sau tượng thú nhìn Tư Mã Khôi chằm chằm, dường như đang đợi anh trả lời. Không khí trong động thất tối đen như mực phút chốc trở nên tĩnh lặng.
Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ lại toàn bộ đầu đuôi sự việc. Anh nhận thấy, nếu lời Lão Xà nói là thật, thì kẻ phát ra ám hiệu gần chiếc hộp chắc chắn là Nấm mồ xanh, bởi vì tình hình quái dị lúc đó anh cũng từng gặp một lần ở thành Nhện Vàng. Thật không ngờ, từ rừng rậm Miến Điện đến tận huyệt động Thần Nông Giá, anh vẫn không thể thoát khỏi sự truy đuổi của vong hồn đó. Có điều, cỗ di hài trong chiếc hộp Sở U Vương, thực ra chỉ là chút pha lê và vàng ròng chôn giấu ở nơi sâu trong mạch đất mà thôi, nhưng vì sao Nấm mồ xanh lại dẫn tên thổ tặc mang cỗ di hài đi về hướng đó? Lời nguyền khắc trên chiếc hộp đã nói rõ, kẻ nào nhìn trộm di hài, kẻ đó sẽ lập tức phải chết. Sau khi mở chiếc hộp, quả nhiên có thứ đúng như âm hồn xuất hiện và Hải ngọng cũng đột nhiên lăn ra chết vì nó. Thế nhưng sao lúc này trong khám động lại yên lặng kì lạ đến vậy, chẳng lẽ quái vật thời Sở kia thực sự có khả năng trấn giữ ma quỷ thật?
Sau khi mở chiếc hộp, các sự việc quái dị cứ liên tục xảy ra mà Tư Mã Khôi không tìm ra manh mối nào, cứ như là đang đứng giữa màn sương dày đặc. Điều duy nhất mà anh có thể xác định được bây giờ là phương hướng cơ bản có lẽ không bị nhầm. Người cổ đại đã khai quật vật thể thần bí từ lòng đất lên, thì chắc chắn họ đã chạm tới cánh cửa của lời giải, bây giờ chỉ có nghĩ cách cướp lại cỗ di hài, mới mong tìm được chốn thoát thân trong khám động có quái vật “tải” này, rồi sau đó tiếp tục tìm đường tắt thâm nhập mạch dưới đất núi Âm Sơn. Thế nhưng việc cần làm trước mắt là phải giải quyết tên thổ tặc như xác chết di động này trước đã. Tư Mã Khôi biết rõ đối thủ là tay thủ đoạn cao cường, lúc này hắn đang ở ngay trước mắt nên anh không dám lơ là. Anh nhìn chằm chằm vào thân hình đối phương. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Nhị Học Sinh thấy tình thế đang chuyển biến, sợ mọi người hành động trong bóng tối không tiện, liền vội vàng đốt đuốc, đèn đồng trong động thất cũng được thắp sáng.
Lão Xà tuy biết nhiều bí thuật dị thường, nhưng rốt cuộc vẫn chỉ là gã hái thuốc, cả đời chưa bao giờ bước chân ra khỏi rừng sâu núi thẳm, tầm nhìn hạn hẹp, nông cạn, vì vậy, gã tưởng rằng, kẻ phát ra ám hiệu là Tư Mã Khôi, lại thấy đối phương im ỉm không trả lời, thì càng cho rằng mình nhận là đúng. Gã nghiến răng kèn kẹt, tuy lòng biết rõ phen này có chắp cánh cũng không bay thoát, nhưng cho dù tất cả mọi người đều bị nhốt dưới lòng đất, thì gã cũng phải tận tay bóp chết từng người mới yên lòng nhắm mắt. Thế là, gã vận khí, rồi đầu, ngực, eo, vai, cánh tay, khuỷu tay, đầu gối, ngón chân phát ra tiếng “cách cách” nhè nhẹ, từ trên xuống dưới lan khắp toàn thân.
Tư Mã Khôi biết một trận quyết đấu sống mái sắp diễn ra trong tích tắc. Lúc trước, anh đã nếm mùi lợi hại của gã thổ tặc này. Gã có thân hình lực lưỡng, hành động uyển chuyển như vượn, nhanh thoăn thoắt như chim ưng, nếu không thể dùng súng hạ gục gã ở khoảng cách xa, thì e rằng rất khó dồn đối phương đến chỗ chết. Người nào người nấy thần kinh căng như dây đàn, cùng lùi mấy bước, lấy vách khám làm chỗ dựa.
Tư Mã Khôi lùi đến rìa khám động, đang định giương súng, thì bỗng nhiên anh cảm thấy từng sợi lông tơ trên cổ mình dựng đứng lên, bởi một luồng âm hàn phía sau thổi buốt tận xương tủy. Anh biết có biến cố, liền quay nhanh lại nhìn. Chùm sáng đèn quặng chiếu sáng khám động bỗng tối lại, rồi xuất hiện một người đội mũ Pith Helmet. Lúc này, đối phương cũng đang ngẩng đầu nhìn anh, và khoảng cách hai khuôn mặt đối diện nhau chỉ tầm chục mét. Tư Mã Khôi lờ mờ thấy gương mặt của kẻ đó. Anh giật nảy mình: “Người kia là… mình sao?”
Khám động tối đen như mực, tuy Tư Mã Khôi có đèn quặng, nhưng tầm nhìn vẫn vô cùng mơ hồ, anh và kẻ đó lại đứng cách nhau bởi pho tượng thú đổ ngang cản đường, bởi vậy không hoàn toàn nhìn rõ khuôn mặt đối phương, mà chỉ có thể nhận ra đối phương cũng đội mũ Pith Helmet trên đầu.
Loại mũ bấc của người Pháp này làm bằng loại gỗ mềm, hình dáng rất đặc biệt, trừ ba thành viên may mắn sống sót trong đội khảo cổ ra, thì cả vùng núi này không thể có người thứ tư đội nó được. Kẻ xuất hiện trong khám động khi nãy là ai? Tư Mã Khôi nhớ đến lúc linh hồn vọt ra khỏi chiếc hộp đồng, mà lòng vẫn khiếp sợ. Anh nhớ, có lần giáo sư Nông Địa cầu từng kể một chuyện về bác sĩ tâm lý người Áo, Sigmund Freud, lừng danh thế giới trong lĩnh vực phân tích thần kinh, mà theo lý thuyết của ông thì thần kinh là cụm từ để chỉ “cảm giác, tri giác và ý thức”, mà trong thần kinh của con người, ngoại trừ “cái tôi” ra, thì trong tiềm thức còn có sự tồn tại của “bản ngã” và “siêu bản ngã”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Lúc đó, Tư Mã Khôi chỉ nghe tai nọ lọt tai kia, nên đến tận giờ anh vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của nó. Anh cho rằng, quan điểm này gần tương tự như quan niệm truyền thống ba hồn bảy vía của Trung Quốc, có câu “hồn vía tụ hợp thành tinh thần”, một khi tinh thần tiêu tan thì sẽ trở thành “siêu bản ngã”, cũng có nghĩa là sẽ xuất hiện một bản thân khác ở trạng thái đặc biệt. Có lẽ, sau khi chiếc hộp mở ra, một phần linh hồn đã bị rời khỏi thể xác, rồi dần dần trở thành thực thể? Hay chẳng lẽ kẻ đang đứng trong khám động lúc này… lại chính là Hải ngọng vừa nằm đứ đừ trên đất khi nãy? Nếu không, chẳng lẽ là yêu quái biến thành người sao? Nhưng bất kể là khả năng nào, thì đều khiến người ta cảm thấy dựng hết tóc gáy.
Tư Mã Khôi biết thế thái biến hóa vô thường, trước khi nhìn rõ mặt kẻ đó, tuyệt đối không được võ đoán, anh lầm bầm: “Bố mày phải xem mày rốt cuộc là đứa nào mới được?”, rồi anh bạo gan lấy tay xoay luồng sáng đèn quặng, quầng sáng chiếu thẳng vào mặt đối phương, nhưng cự li chùm sáng vươn tới chỉ tầm mấy mét, chiếu tới khám động thì như thể bị luồng khí đen chặn lại, nên anh không nhìn thấy gì trước mắt nữa. Tư Mã Khôi cảm , thấy có vật gì ở trong đó đang động đậy, nhưng vì bị vách khám cản trở, nên không thể vào được.
Lão Xà thấy Tư Mã Khôi ngoảnh đầu nhìn khám động, thì sự chú ý của gã cũng bị phân tán, liền định nhỏm dậy sau tượng đá, lao thẳng vào trong đó, nhưng ngặt nỗi trong “hàm tải” lại đặt mấy ngọn đèn chiếu u. Nhị Học Sinh cầm đuốc, làn lượt thắp sáng hết mấy cây nến cỡ lớn trong thạch thất. Không gian phút chốc sáng bừng như ban ngày. Lão Xà vừa thò người ra đã trở thành tấm bia đỡ đạn sống, vừa vặn nằm trong tầm ngắm bắn của khẩu M-1887, dẫu Lão Xà mình đầy bí kíp nhưng bây giờ cũng không kịp thi triển. Gã điên cuồng như con thú bị chọc tiết, thấy Nhị Học Sinh đang vươn người châm đèn, liền mò mẫm trong bóng tối rồi lấy ra một đoạn mác đồng bị gãy, nhắm vào Nhị Học Sinh, ném thật mạnh.
Tư Mã Khôi nghe thấy tiếng “vù vù” rạch không gian ngay sau lưng, liền quay ngoắt đầu lại. Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương vẫn dính mắt bám sát Lão Xà nhưng vẫn không ngờ gã đột nhiên ra tay nhanh như vậy Cả hai chưa kịp hét lên kinh hoàng, thì đoạn mác đồng đã bay đến trước mặt Nhị Học Sinh.
Nhị Học Sinh sợ tái mặt, hai chân nhũn xuống đất, đoạn mác bay sát sạt qua vai anh chàng, đập vào tường một mảnh áo và da thịt bị xén khuyết. Nếu không phải vi Lão Xà sợ nên không thò cả người ra khỏi tượng thú, thì cái mác đồng đã xuyên thủng ngực Nhị Học Sinh rồi. Mác đồng lao tới, đập mạnh vào vách đá khiến vụn đá văng ra tứ tung. Tượng đá vỡ thành mấy mảnh, vụn đá và mác đồng cùng rơi rào rào xuống đất. Tuy Tư Mã Khôi và hai thành viên còn lại đứng cách đó khá xa, nhưng cũng bị bụi đá văng vào mặt, cảm thấy ran rát. Không ngờ, tên giặc đất này lại có sức mạnh kinh hồn đến thế, lòng anh cũng không khỏi thầm kinh hãi.
Tư Mã Khôi sợ đối phương giở lại bài cũ, anh vẫy tay bảo hội Hương Lân trốn sau đèn chiếu u. Mọi người vừa nấp xuống, thì một quầng màu sắc cổ xưa, loang lổ ở chỗ đá vỡ trên vách đã đập ngay vào mắt, thì ra phía dưới bức tường đá khắc họa tiết còn có một lớp bích họa nữa, miêu tả những chuyện quái lạ sẽ xảy ra sau khi mở hộp đồng Sở U Vương.
Người Sở cổ đại thích hành lễ vu thuật hỏi ma, nên nội dung bích họa vẽ trên cuộn tranh lụa của áo quan cũng rất kì bí. Trong những bài từ thời Sở, có một bài rất nổi tiếng, tên là “Thiên vấn”, tức là sau khi Khuất Nguyên tận mắt nhìn thấy bức bích họa tráng lệ, huy hoàng của Sở quốc, ông đã quay mặt vào tường để hỏi trời. Những nghi vấn ông đưa ra để hỏi, bao gồm thiên địa vạn tượng âm hòa, thần kì quỷ quái, gọi chung là “thiên cổ vạn cổ chí kĩ”, qua đó cũng đủ thấy bích họa thời Sở bí hiểm đến mức nào. Bức tranh đầy màu sắc lộ ra sau lớp đất đá trên khám động là hình vẽ con thú mình rùa đầu rồng, tên gọi là “tải”, cỗ di hài trong huyệt động được đặt trên lưng nó, vây quanh phía ngoài có rất nhiều thiếu nữ với dáng hình thướt tha, không rõ là người hay ma, có lẽ giống với dáng dấp tiên nữ trong bức bích họa “phi thiên” thời Đôn Hoàng. Họ sống trong chiếc hộp có hình dáng đặc biệt, ẩn ẩn hiện hiện giữa màn sương mù, không khí quanh họ nhuốm đầy màu sắc cổ quái, yêu ma.
Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đưa mắt nhìn nhau, hai người đều cảm thấy nội dung bích họa trong khám động vô cùng kì bí, có khả năng liên quan đến những ẩn số bí mật như di hài, quái vật thời Sở, núi Âm Sơn… Nhưng phần lớn bức họa đã bị tường đá chạm trổ phía trên niêm phong kín, chỗ lộ ra chỉ là một phần rất nhỏ còn sự kiện mô tả trong bức họạ lại rất cổ xưa và li kì, khiến mọi người nhất thời không thể lý giải nổi ý nghĩa sâu xa ẩn chứa bên trong.
Tư Mã Khôi cũng hiểu rõ kẻ địch vẫn quanh quẩn đâu đây, anh không có thời gian quan sát thêm mấy bức bích họa, liền lấy tay ra hiệu cho mọi người xách súng đi vòng qua đèn chiếu u, chầm chậm bao vây chỗ Lão Xà đang ẩn nấp. Nhị Học Sinh nhặt khẩu súng săn trên cái xác cứng đơ của Hải ngọng, bám sát ngay sau lưng Tư Mã Khôi, chuẩn bị cuộc chiến sống mái với Lão Xà. Thủ đoạn của gã đã rất tàn độc, không những vậy, gã còn là tay thợ săn cừ khôi, chuyên hái thuốc trong rừng sâu. Nhưng suy cho cùng, Lão Xà cũng vẫn chỉ là hạng hữu dũng vô mưu, đối phó với hung cầm mãnh thú thì còn tạm ổn, chứ hội Tư Mã Khôi đều có súng, chỉ cần ổn định thế trận là có thể triển khai theo chiến lược, sử dụng chiến thuật chính xác, hợp sức tấn công, cố gắng thì sẽ dồn được đối phương vào góc chết trong động thất chật chội. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Lão Xà thấy không còn đường thoát, xem ra có muốn tóm hai đứa làm đệm lưng cũng còn khó, nên gã càng nóng lòng như kiến bò chảo lửa. Lão Xà nghĩ, nếu để cho bọn này giết chết hoặc tóm sống mình rồi hạ nhục, thì chi bằng cứ liều mạng chui ra khỏi động, cùng lắm là chết. Nghĩ đoạn, gã liền ôm di hài, thụt lùi dần ra cửa động.
Tư Mã Khôi biết cỗ di hài vô cùng quan trọng, nói không chừng, có thể là kết nối cả chuỗi ẩn số xuất hiện dưới biển Âm Hải, vì thế anh có muốn vuốt mặt cũng phải nể mũi vài phần. Vậy là, Tư Mã Khôi cố gắng nổ súng để không chạm tới cỗ di hài. Đạn bắn trúng vách tường, đá vụn rơi xuống rào rào, một mảng bích họa nữa lại lộ ra.
Lão Xà lui về chỗ cạnh vách hộp mà gã bò vào lúc trước. Gã nghĩ, tuy mình không thể trực tiếp giết chết mấy người này, nhưng có thể mang bí mật về cỗ thi hài chôn vùi mãi mãi. Cảm giác báo được thù đã khiến gã cảm thấy hơi phấn khích, nhưng bỗng nhiên, hắn cảm thấy sau lưng dường như có người; quay đầu lại nhìn, gã giật thót mình, chỉ thấy Hải ngọng khi nãy còn chết cứng đơ trên đất, giờ đang gườm mặt nhìn, giống như tòa tháp bằng thép đứng sừng sững sau lưng từ bao giờ. Lão Xà làm nghề đào mồ bới mả bao năm nay, nhưng chưa bao giờ gặp phải tình huống yêu mị đến thế, gã bất giác rùng mình kinh sợ, nhỏ giọng thảng thốt: “Xác chết sống dậy?”. Hải ngọng không nói không ràng, vung con dao săn trong tay bổ xuống nhanh như chớp giật. Lão Xà không kịp đề phòng, liền ăn một dao, cả đầu lẫn vai đều trọng thương, lớp da vượn trên má cũng bị lột một mảng lớn. Gã đâu dám dừng lại, vội buông tay vứt di hài, rồi lộn một vòng tránh né, cuối cùng chui tọt vào trong động, và chớp mắt đã mất dạng.
Gã thổ tặc sợ chết khiếp, còn hội Tư Mã Khôi cũng kinh ngạc không thốt nên lời, tất cả đứng chôn chân tại chỗ nhìn Hải ngọng và bức họa phía sau anh, cảm giác như thể mình vừa sa chân vào vòng luân hồi sinh tử không lối thoát và đối diện với vòng tròn kinh dị vĩnh viễn không có lời giải.
Chương 5.1: Vòng tròn ma quái
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ nhất
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">VÒNG TRÒN MA QUÁI
Lúc trước, mọi người thấy Hải ngọng nằm cứng đơ trên đất, tất cả đều kinh ngạc và đau buồn, nhưng bấy giờ quá nhiều biến cố đột ngột xảy ra, nên không ai dám lơ là, cố gắng kiềm chế cảm xúc để đối phó với Lão Xà, không ngờ đúng lúc này Hải ngọng đột nhiên vùng dậy, cử chỉ và hơi thở hoàn toàn giống với người bình thường, lẽ nào trên đời này quả thật có chuyện hoàn hồn sau khi chết hay sao?
Tư Mã Khôi bước lên trước hỏi dò Hải ngọng: “Khi nãy cậu rõ ràng còn nằm thẳng cẳng, sao giờ đã thành vịt giời nhập tràng thế hả?”
Vẻ mặt Hải ngọng như thể bị đông cứng, chừng nửa phút sau mới hồi người, liên tiếp nôn ra mấy ngụm nước đen, sắc mặt khó coi đến dễ sợ. Anh chỉ nhớ sau khi ra tay cứu người, hình như anh bị thứ gì đó tóm chặt, không thể giãy giụa ra nổi, trong lúc hốt hoảng anh vội quăng móc câu ra, đợi khi hoàn hồn thì đã thấy Lão Xà đang trốn ngay kế bên. Anh liền rút dao săn chém xuống, còn trước đó xảy ra chuyện gì, anh không tài nào nhớ lại được.
Tư Mã Khôi thầm thấy việc này rất quái dị, từ sau khi mở chiếc hộp Sở U Vương, thì một luồng âm phong chợt nổi lên, rồi mọi nguồn sáng như đèn quặng và đèn chiếu u đều lập tức tắt lịm, và biển Âm Hải liên tiếp xảy ra nhiều sự việc lạ. Trước khi làm sáng tỏ chân tướng, toàn bộ sự việc này vẫn không thể giải thích rõ được, nhưng bất kể Hải ngọng vừa gặp phải chuyện gì, thì anh sống lại bằng da bằng thịt như bây giờ vẫn tốt hơn là xác chết lạnh ngắt lúc trước.
Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương thấy chỉ cần người còn sống là tốt rồi, mũi vẫn thở, tim vẫn đập thì chắc không thể là ma nhập tràng.
Nhị Học Sinh vẫn tỏ ra đầy ngờ vực, rõ ràng Hải ngọng đã ngừng nhịp tim từ lâu, sao đột nhiên lại sống dậy được? Người ta thường nói “núi cao ít người, động sâu lắm quỷ”, trong huyệt động nơi sơn cùng thủy tận, hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, ai chứng minh được Hải ngọng bây giờ vẫn là Hải ngọng lúc trước. Phàm người hiểu chút cơ bản về chủ nghĩa duy vật sơ khai, cũng đều cảm thấy việc này quá đỗi bất thường! Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Hải ngọng thấy Nhị Học Sinh đang lăm lăm cầm khẩu súng săn đạn cỡ 8 của mình, thì bực bội hỏi: “Ranh con nhà chú gộp cả hai mắt lại cũng cận hơn 18 độ, biết sử dụng món này không mà rờ rẫm?”
Nhị Học Sinh ấp úng: “Khẩu này… đúng là cũng hơi nặng, tôi chỉ mới trong giai đoạn thích nghi thôi..”
Hải ngọng giơ tay giật súng lại, trợn mắt mắng: “Thích nghi cái con bà! Anh thấy chú có mà đang ở giai đoạn thích ăn đấm thì có!”
Nhị Học Sinh không dám nhiều lời với Hải ngọng, vội tránh sang chỗ Cao Tư Dương, nhờ cô băng bó vết thương, nhưng lòng vẫn nguyên nỗi sợ hãi khó hiểu.
Tư Mã Khôi nhìn Hải ngọng chăm chú một hồi, nhưng vẫn không phát hiện ra điểm gì khác thường, liền bảo Nhị Học Sinh: “Chỉ cần còn hình còn bóng thì chắc chắn không phải là ma. Huynh đệ của anh, anh là người hiểu nhất, chú mày không cần nghi ngờ làm gì”. Tư Mã Khôi thấy phía ngoài động sương đen bao phủ mờ mịt, không rõ gã thổ tặc khi nãy đã trốn vào hốc nào, còn cỗ di hài trong hộp gấm vẫn nằm chỏng chơ trên đất. Anh thấy Thắng Hương Lân đang lấy đèn quặng soi bích họa trong động đá, liền hỏi xem cô có phát hiện thấy gì không.
Thắng Hương Lân lắc đầu, phần bích họa lộ ra chủ yếu ghi chép những câu chuyện trấn ma của Sở U Vương, ngoài ra, trong bích họa dường như còn vẽ rất nhiều vòng tròn quái dị, mà đại bộ phận bức họa hãy còn ẩn phía trong tường, còn chỉ dựa vào phần lộ ra thì không thể giải thích được gì nhiều.
Tư Mã Khôi nghe vậy, liền dùng báng súng đập cho đá rơi xuống; lớp tường bao ngoài tương đối mỏng như chỉ cố tình đắp lên để che lấp, sau khi nứt vỡ rơi xuống lả tả, bức bích họa lộ ra mỗi lúc một rõ hơn, rồi cảnh tượng hiển hiện trước mắt càng lúc càng khiến người ta chấn động. Dù Tư Mã Khôi biết trong bích họa của Sở U Vương nhất định còn ẩn chứa bí mật gì đó rất trọng đại, nhưng anh không mò ra được manh mối. Anh liền quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Bích họa không ghi chép chuyện chết đi sống lại sao?”
Thắng Hương Lân nhíu mày, trầm giọng nói: “Hình như không có, nhưng tôi biết khi nãy anh gặp thứ gì ở trong hộp đồng rồi…”
Tư Mã Khôi nghĩ đến sự việc lúc đó mà lạnh sống lưng: “Cái người đội mặt nạ phòng độc á? Hắn ta là ai?” Lúc này, Thắng Hương Lân rời ánh mắt khỏi bức bích họa, ngẩng đầu nhìn Tư Mã Khôi: “Tôi nghĩ, nó là u hồn, không những thế, u hồn đó thực ra… chính là bản thân anh”.
Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói, anh bất giác rùng mình: “Kẻ xuất hiện trong đám sương mù và luồng âm phong là một u hồn ư? Tôi vẫn còn sống, sao lại nhìn thấy vong hồn của chính mình được? Chẳng lẽ đúng là sau khi tôi chết đi, tôi đã phát ám hiệu với gã thổ tặc kia? Không! Chuyện này không thể xảy ra được.”
Thắng Hương Lân nói: “Chuyện về Nấm mồ xanh tôi không thể giải thích được, nhưng căn cứ vào những sự kiện mô tả trên bích họa, thì tôi tin rằng, kẻ khi nãy anh gặp đúng là u hồn của chính anh.”
Ba người còn lại đứng cạnh nghe cũng bị chấn động, Hải ngọng kinh ngạc kêu lên: “Thì ra người bị chết là Tư Mã Khôi chứ không phải tớ à?”. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi điên tiết: “Ông mày chết lúc nào hả? Chuyện quan trọng thế làm sao tôi không nhớ được?”
Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Cô là người có đầu óc tỉnh táo nhất đội khảo cổ, mà cũng tin mấy chuyện quỷ quái đó à? Chuyện này rốt cuộc là sao?”
Bức họa vu Sở thần bí li kì, thường siêu nhiên hóa những hiện tượng tự nhiên, đề cập đến nhiều truyền thuyết cổ quái không thể lý giải, nhưng từ khi Thắng Hương Lân bước chân vào Thần Nông Giá, tiếp xúc với rất nhiều ẩn số khó hiểu, cô cũng dần dần mò ra quy luật bên trong. Cô phát hiện ra bích họa ẩn chứa trong khám động đúng là ghi chép rất nhiều sự kiện quái dị, thêm vào đó, chuyên ngành của Thắng Hương Lân là thám trắc, trắc họa, nên cô cũng biết thêm một số điển cố lịch sử và kiến thức về sơn kinh thủy pháp, nhờ thế, cô có thể hiểu được vài nội dung thần bí trong bích họa. Thắng Hương Lân soi đèn lên tường, nói với hội Tư Mã Khôi suy đoán của mình: “Bích họa trong tượng thần thú này là do Sở U Vương sai người cho vẽ ở đây từ hai ngàn năm trước, lấy thời gian làm kinh tuyến và sự kiện làm vĩ tuyến, thì nó giống như cuốn sử thi hoành tráng và diễm lệ: phần đáy mỗi họa cảnh đều có lực sĩ mình trần đứng trên lưng cá voi khổng lồ dang hai tay chống đỡ; mãng xà, rùa, chim muông và các loại quái vật được bố trí xung quanh. Bắt đầu từ thuở hồng hoang sơ khai, trong tám trụ chống trời có hai cột trụ bị sụp đổ khiến thủy khí và đại khí hợp thành một thể, khắp nơi sương mù mịt mùng giăng mắc, mờ mờ ảo ảo, không phân biệt được sáng tối. Sau đó, cuồng phong sấm sét bắt đầu kéo đến, mưa đổ như trút nước, kéo dài không biết bao nhiêu ngày, nước càng lúc càng dâng cao, đổ vào muôn khe ngàn hẻm, hình thành đại dương nguyên thủy. Lúc ấy, khu vực Thần Nông Giá vẫn còn là biển lớn mênh mông, phía dưới dòng nước lại là núi cao hùng vĩ, các hẻm và rãnh biển sâu hun hút, mãi đến khi địa môn rộng mở nuốt chửng nước biển, đồi núi đội đất vươn lên, thì các bình nguyên và một số núi lửa nằm cô lập dưới lòng biển cả mới trở thành vùng Thần Nông Giá, với những dãy núi trùng điệp như ngày nay.
Trong lúc bãi bể biến thành nương dâu, có một hòn đảo bị lún chìm vào khe đất nứt, mang theo quần thể thực vật tiền sử trên đảo vẫn giữa nguyên diện mạo, sau đó đã xuất hiện người cổ đại với thân hình cao lớn và chiếc sừng mọc trên đầu. Họ gá gỗ trên núi thành ổ, săn thú bắn chim. Nhóm người đó khả năng chính là thị tộc Thần Nông thượng cổ. Do trên hòn đảo cổ đại dưới lòng đất có rất nhiều thú quý cây lạ, nên con người cũng theo dấu vết lần tìm đến đây, đồng thời cũng phát hiện các huyệt động trên đảo ăn thông xuống nơi sâu hơn về tâm Trái đất, còn phía dưới nó có một khe lớn, chẳng khác nào vực sâu không đáy.
Trong vực sâu có chỗ núi khuyết vào, giống như cửa núi, đó chính là nơi mà người ta gọi là Âm Sơn. Ngọn núi này lúc có lúc không, xuất quỷ nhập thần, tứ bề toàn là bóng tối âm u, không thể đặt chân tới được, và người cổ đại đã tìm thấy “di hài” ở đây. Cỗ di hài được vẽ trong bích họa, thực ra chính là tập hợp của một số khoáng quặng nằm sâu nhất dưới mạch đất, tuy giống như bộ xương người, nhưng trên thực tế chỉ là khối pha lê lẫn vàng có khung hình con người, cỗ di hài đã lưu truyền từ bấy giờ cho đến tận thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Theo truyền thuyết, địa điểm phát hiện thấy di hài rất đặc biệt. Dựa theo mô tả của bức bích họa, thì đó là vật thể hình tròn với nhiều hình thù cổ quái to nhỏ không đều nhau, có đường vân loang lổ. Ngoài Sơn Hải Đồ khắc trên đỉnh Vũ Vương ra, thì không một cuốn văn hiến cổ đại hoặc bách khoa địa lý nào ghi chép về nó. Vật thể đó trông rất thần bí, trên bích họa vu Sở trong khám động nó cũng là vòng tuần hoàn hình tròn, dường như là hình tròn quái dị biểu thị luân hồi sinh tử không có điểm đầu và điểm cuối. Theo tôi suy đoán, bố cục tuần hoàn của bích họa thể hiện quan niệm về sinh tử của người Sở. Ngoài ra, trong bức tranh còn đề cấp đến chuyện tế ma vẫn thường diễn ra vào thời xưa, bởi vì người xưa cho rằng: ‘Tất cả sinh vật có mạng sống và hình dạng của vật thể chỉ là hư vô, vật chất sinh ra là do sự biến đổi âm dương, bởi vậy mới có sinh và có tử’. Sau khi người chết đi sẽ hóa thành ma, chỉ khi tế lễ thật nhiều, bậc đế vương mới biến thành rồng thăng thiên, chứ không rơi vào hư vô, cỗ di hài chính là đồ tế lễ quan trọng nhất.”
Những tình tiết này hoàn toàn trùng khớp với manh mối mà đội khảo cổ nắm được từ trước. Sau khi Sở U Vương mất con gái, vô số người dân đã bị tuẫn táng theo, rồi cơn ác mộng quấn chặt hàng đêm khiến ông ta không thể ngủ yên. Ông ta lo sợ âm hồn trốn thoát khỏi lòng đất, nên định tế tiếp hàng loạt người sống, nhưng vu sư gieo phải quẻ hung, nên đành đặt báu vật này xuống đây để trấn ma, đục đẽo nham thạch trong động thành tượng thú “tải”, che lấp cửa động thông xuống Âm Sơn; sau đó ông ta lại gieo thêm quẻ nữa, và lại là một quẻ hung. Sở U Vương nghi ngờ cỗ di hài có xuất xứ dưới vực sâu kia không phải vật chốn nhân gian, có thể là vật bị ma ám trên trần thế và là căn nguyên của mọi tai họa, nên ông ta đã thả nó xuống núi Âm Sơn.
Nghe nói, thời Sở có con rùa thần, sống ba ngàn năm cuối cùng vẫn không tránh khỏi cái chết, điều đó chứng tỏ tất cả những vật có sinh mệnh và hình dạng trên thế gian đều có một ngày phải bước tới hạn số của mình. Sở U Vương suy cho cùng cũng chỉ là người trần, lần này chưa kịp ra lệnh cho vu sư gieo tiếp quẻ cát hung thì đã thẳng đuội người tắt thở, hồn cưỡi rồng bay đi.
Thắng Hương Lân nói: “Bức bích họa gần cửa động mô tả quá trình tế ma mà Sở U Vương vẫn chưa kịp tiến hành, và chỉ cần mở chiếc tráp ngọc đựng trong hộp đồng, khiến cỗ di hài lộ ra ngoài, thì âm phong sẽ tràn vào trong huyệt động, mây mù sương đặc ùn ùn phun ra, lúc ấy chỉ có khám động này là nơi duy nhất có thể dung thân. Cảnh tượng vẽ trong bức họa sau khi Sở U Vương cưỡi rồng bay về trời, là mười mấy vị vu sư mặt đeo mặt nạ, đặt cỗ di hài vào một vị trị đặc biệt trong động, cho tải mang nó xuống lòng đất. Những vị thần vu thông thiên trong bích họa đứng phân bố thành mấy điểm, ngoài vài người đứng canh di hài trong động, thì còn có vài vị khác đứng bên ngoài khám động, nét mặt người nào cũng toát lên vẻ khiếp đảm, hoảng sợ cùng cực. Bất luận hình dạng họ thế nào, thì trong sương đều xuất hiện cái bóng của họ và những hình ảnh trùng lặp, còn có không ít người đã chết đứng tại chỗ. Bích họa dường như muốn ám chỉ, trên đường vận chuyển cỗ di hài xuống Âm Sơn, nếu kẻ nào có ý đồ làm phản lệnh vua mà trốn chạy, thì kẻ đó sẽ bị chết thảm. Trong khi đó, ở nơi sâu trong luồng âm phong và màn sương ma quái, còn có rất nhiều tiên nữ với thân hình mảnh mai yêu dị, bay lượn chập chờn, vây quanh thần thú, đây là điểm duy nhất mà tôi không thể lý giải được.”
Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân phân tích rất hợp tình hợp lý. Mấy vị vu sư của Sở quốc đeo mặt nạ quỷ trong bích họa đều chết ở khu vực gần đó, xương cốt sớm đã hóa thành tro bụi, nhưng cỗ di hài vẫn nằm y nguyên trong tráp ngọc hộp đồng, không hề suy suyển. Rõ ràng là, sau khi Sở U Vương chết, các vu sư đã không hành sự theo lệnh vua. Vì huyệt động dưới biển Âm Dụ đã bị lấp kín, trong khi con đường bí mật đi xuyên qua đảo thông ra lòng núi thi chỉ có một mình Sở U Vương biết, bởi vậy, các vu sư cũng không còn đường tháo thân; tuy nhiên họ thà chết tại chỗ, chứ không dám mang di hài đi tìm mạch đất dưới núi Âm Sơn. Có điều, căn cứ vào nội dung bích họa “bất kể ai bước vào sương mù, đều sẽ gặp vong hồn chính mình” thì rốt cuộc là chuyện gì? Lẽ nào, nó quả thực có thể dự báo trước cảnh tượng của mình sau khi chết đi? Vì sao khi chiếc hộp được mở ra thì sương đen mới xuất hiện? Lẽ nào tất cả đều liên quan đến cỗ di hài? Rốt cuộc, chuyện gì đã xảy ra với Hải ngọng? Và ai là người đã ra lệnh cho Lão Xà lúc đó?
Mọi người đều muốn nhanh chóng giải đáp những thắc mắc này, nhưng Thắng Hương Lân không tìm được nhiều manh mối từ bức bích họa, giờ đây cô chỉ có thể nói với Tư Mã Khôi: “Thứ xuất hiện trong sương mù không phải vong hồn của anh sau khi chết, mà có lẽ dùng từ u hồn thì hình dung sẽ chính xác hơn, hoặc có thể nói, đó chính là một linh thể”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ hai
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">XUẤT VÍA
Nhị Học Sinh có người chị ruột làm quản lý ký túc xá trường học trong thời kì cách mạng Văn hóa. Chị thường lấy sách bị niêm phong ở thư viện mang về cho Nhị Học Sinh đọc, đọc xong lại lẳng lặng cất lại chỗ cũ. Hồi Nhị Học Sinh phải tới lâm trường Thần Nông Giá, chị gái tiễn cậu em ra bến tàu, dặn dò: “Con nhà người ta đi cải tạo, bố mẹ mua tặng đồng hồ, rồi ra cả bách hóa mua áo rét phòng thời tiết lạnh, chị chẳng làm được thế cho em, chẳng tặng em nổi món gì, biết em thích đọc sách, sau này chị sẽ thường xuyên gửi sách cho em”. Bởi vậy, trong mấy năm cải tạo ở đây, Nhị Học Sinh đã đọc rất nhiều sách, trong điều kiện hoàn cảnh ấy có sách để đọc đã là khá lắm rồi, làm gì có chuyện lại còn kén cá chọn canh, chỉ cần thứ gì có chữ, bất kể nội dung thế nào, bất luận là thể loại gì, Nhị Học Sinh đều say mê xem tất. Vì xem nhiều sách, nên lúc này anh chàng là người đầu tiên lĩnh hội được ý của Thắng Hương Lân: “Tạm thời chưa xét đến tính hợp lý và xác thực của thuyết pháp, tóm lại sau khi con người chết đi mới có hồn ma, nhưng lúc còn sống thì trong cơ thể con người vẫn tồn tại linh thể, hiện tượng vừa rồi của Tư Mã Khôi có thể gọi là ‘hiện tượng xuất vía sinh học’, linh thể là cái bóng mà mắt thường căn bản không thể nào nhìn thấy.”
Hải ngọng mất kiên nhẫn, chen ngang: “Anh nghe mà điên cái đầu, chú mày nói nhảm thế, bố ai hiểu được”.
Khác với Hải ngọng, Tư Mã Khôi nghe xong cũng hiểu chút ít manh mối. Nói theo cách giải thích của cổ lý tướng vật thì: hình, thần, khí, chất là biểu hiện từ trong ra ngoài của người sống, dựa theo thuyết ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ, thì nó tương đương với năm thứ là: ngôn (lời nói), mạo (tướng mạo), thị (nhìn), thính (nghe) và tư (suy nghĩ), những thứ này lúc tăng lúc giảm, khi lên khi xuống, biến hóa khôn lường, nói toẹt ra là: “người còn sống thì còn thở”, nên kẻ mà anh nhìn thấy cạnh hộp đồng chỉ là hơi khí mà bản thân anh lưu lại trong sương mù mà thôi.
Thắng Hương Lân gật đầu nói: “Một số nơi giữa các địa mạch phân bố mây từ dày đặc, cổ nhân cho rằng, đây chính là gốc rễ của sương mù. Mấy năm trước, thành viên của một đại đội trắc địa tiến vào khe Hắc Trúc trong núi Nga Mi, Tứ Xuyên, cũng gặp phải sương mù hình thành do mây từ. Loại sương mù này giống như có sinh mệnh hẳn hỏi, hễ gặp gió thổi mạnh là lập tức xuất hiện, tuy không đến nỗi gây chết người nhưng nó khiến tầm nhìn bị che khuất tối đa, không thể xác định được phương hướng. Tôi thấy sự kiện quái dị miêu tả trong bích họa vu Sở thể hiện rõ lòng đất bên dưới Thần Nông Giá cũng có mây từ. Thứ xuất hiện trong sương mù, chỉ là linh thể bị hút ra sau khi anh tiếp xúc với mây từ, đó là một linh thể không có sinh mệnh, bởi vậy, nó tiêu tan rất nhanh ngay sau đó. Có điều, luồng âm phong cùng sương độc xuất hiện rất bất thường, hoàn toàn khác với hiện tượng trong khe núi Hắc Trúc, có lẽ chính cỗ di hài đã thu hút sương mù đến.”
Nhị Học Sinh nói: “Khe núi Hắc Trúc ở Tứ Xuyên và rừng nguyên sinh Thần Nông Giá đều nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc, điểm này mọi người cũng không được bỏ qua đấy!”
Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ giây lát, thấy Hương Lân phân tích dựa vào tình hình thực tế như thế cũng có lý nhất định, bản thân 30° vĩ Bắc cũng là vành đai thường xuyên xảy ra nhiều sự cố quái lạ. Điều này cũng có thể giải thích về các hiện tượng mà anh nhìn thấy cạnh chiếc hộp lúc trước, nhưng điều kiện tiền đề là: người sống đã bị sương mù nuốt chửng, trong khoảng khắc sau khi thần tốc thoát khỏi nó, thì chủ thể sẽ nhìn thấy linh thể tàn lưu của bản thân ngay trên bề mặt sương mù. Vậy lúc anh đối mặt với tên thổ tặc, thì thứ xuất hiện trong khám động là gì? Tuy cái bóng đó mơ hồ không rõ, nhưng vóc dáng đội mũ Pith Helmet thì vẫn lờ mờ nhìn thấy. Lúc ấy mọi người nấp trong động cũng khá lâu, và trong suốt quá trình diễn ra sự việc, cả hội đều không hề tiếp xúc với sương mù, mà dẫu có thì họ cũng không thể nhìn thấy mỗi chiếc bóng của mình. Tất cả những điều này là vì nguyên nhân gì? Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Lúc này, Thắng Hương Lân mới biết Tư Mã Khôi gặp chiếc bóng của mình những hai lần. Kể từ khi bắt đầu nhìn thấy cỗ di hài, rất nhiều biến cố quái dị đã xảy ra chỉ trong thời gian ngắn ngủi, rồi mỗi người đều tự trải nghiệm một phần trong chuỗi sự kiện đó, khiến cả chuỗi biến cố trở nên vô cùng li kì.
Có điều, tư duy của Thắng Hương Lân rất mẫn cảm, cô có tài tìm ra những manh mối từ những dãy sự kiện phức tạp chứa đầy yếu tố nguy hiểm, mâu thuẫn và bí ẩn. Lúc này, Hương Lân nhíu mày, ngẩng đầu nhìn bức bích họa vu Sở và nói: “Vì trong sương mù còn có thứ khác, có lẽ nó liên quan đến tất cả những ẩn số khác…”
Tư Mã Khôi nhớ lại lúc anh đứng cạnh hộp đồng Sở U Vương, bỗng nhiên có luồng âm phong thổi tới, rồi dường như có bàn tay người đột ngột đặt sau lưng mình, hơi lạnh ngấm vào tận xương tủy. Anh không dám quay đầu lại nhìn, mà lập tức bật dậy vọt ra xa. Cảm giác lạnh rợn người đó chắc chắn không thể là giả, xem ra trong màn khí đen quả thực tồn tại thứ gì đó vô cùng khủng khiếp, chẳng lẽ nó là tiên nữ vẽ trên bích họa vu Sở? Tư Mã Khôi không đoán ra được, vì rốt cuộc chỉ có Hải ngọng bị nhốt trong sương mù lâu nhất, mà sau khi Hải ngọng bị lôi ra khỏi động thì đã trở thành cỗ tử thi lạnh ngắt cứng đơ, bây giờ bỗng dưng cậu ta lại sống dậy, miệng vẫn nói tiếng người nhưng không biết có còn tim người trong ngực hay không?
Tư Mã Khôi không phải người hay nghi thần ngờ quỷ, nhưng vì chuyện này quá khác thường, bây giờ thì sương đen đã bao trùm khắp ngoài động, e rằng chỉ cần thò đầu ra nhìn một cái cũng đủ mất mạng. Anh đành ngồi nọc Hải ngọng ra truy hỏi, bảo Hải ngọng thử nhớ kỹ lại xem lúc đó có nhìn thấy gì không, trong sương mù có xuất hiện thứ gì giống trên bích họa không?
Hải ngọng nghe nhắc đến bích họa vu Sở trên tường, thì bỗng nhiên có cảm giác lanh rùng mình, anh hít một hơi hỏi: “Mấy ả trên bích họa đó là ma hay yêu quái thế nhỉ?”, sau đó anh lắc đầu, biểu thị như mình không nhìn thấy gì. Đúng lúc này, mây mờ sương tối, âm phong lại ùa tới, thổi tắt hết nến trong động. Trong lúc hoảng hốt, cả hội vẫn cảm thấy một cột khí đen xộc thẳng tới, trong chớp mắt, ngay cả đèn cácbua gắn trên mũ cũng không sáng nữa. Trong tình trạng hoàn toàn không có nguồn sáng, trước mắt tối đen như đít nồi, mọi người lại không có mắt lửa ngươi vàng nên tất thảy như mù, không nhìn thấy gì hết.
Thắng Hương Lân nói: “Yêu quái trong bích họa là thứ gì nhỉ? May mà chúng đều bị chặn phía ngoài tượng thần thú, nhưng chúng ta cũng không thể trốn ở trong này mãi được”.
Tư Mã Khôi định thần ngẫm nghĩ, lúc trước, anh hoàn toàn không ngờ Nấm mồ xanh sẽ xuất hiện dưới biển Âm Dụ, càng không biết bóng ma u linh đó ẩn nấp phương nào. Đầu tiên, Lão Xà nhận được mệnh lệnh từ bộ điện đàm không dây trong trạm thông tin, sau đó nghe thấy thủ lĩnh phát tín hiệu trong màn sương đen, vì dưới biển Âm Dụ Thần Nông Giá, ngoài bản thân kẻ đó và gã thổ tặc ra, thì có lẽ không còn tồn tại người nào khác. Thêm vào đó Lão Xà không hề hay biết gốc gác lai lịch của thủ lĩnh, nên mới ngộ nhận Tư Mã Khôi chính là Nấm mồ xanh. Nhưng những sự kiện này cũng vô tình khiến những đặc trưng của Nấm mồ xanh ngày càng lộ rõ. Đầu tiên, hắn vẫn không dám xuất đầu lộ diện; thứ hai là năng lực hành động của hắn rất có hạn, hắn chỉ có thể lợi dụng người khác để hoàn thành nhiệm vụ; ngoài ra, mục tiêu và thời gian hành động của tên thủ lĩnh rất có khả năng hoàn toàn trùng khớp với đội khảo cổ. Điều này chứng tỏ mọi manh mối ở thành Nhện Vàng và kính viễn vọng Lopnor đều tập trung ở biển Âm Dụ, dưới Đại Thần Nông Giá. Xem ra, cỗ di hài đến từ vực sâu nhất định là kim chỉ nam giúp mọi người tìm ra đáp án của ẩn số. Ngoài ra, từ đầu chí cuối, Tư Mã Khôi đều cho rằng, Nấm mồ xanh không phải là một u hồn đúng nghĩa, vì u hồn không có thể xác cụ thể. Hắn có thể có khả năng thay hình đổi dạng, hoặc thậm chí là tàng hình, nhưng hoàn toàn không cần thiết phải che giấu khuôn mặt thật của mình. Tình hình đã đến nước này, cả hội cũng không còn đường lui, mà chỉ còn cách tiếp tục đi tìm lời giải cho ẩn số “di hài”, thì mới mong tìm được đường đi xuống tiếp mạch đất núi Âm Sơn. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Nghĩ xong, Tư Mã Khôi liền khoác súng sau lưng, cùng Hải ngọng đến chỗ di hài, kẻ ôm đầu, người khiêng chân nhấc bổng lên, rồi vác lên tay mới cảm thấy nó rất nặng, xương cốt di hài đều làm bằng vàng ròng, khắp người bị mấy con rắn đồng quấn chặt, viên ngọc đen trong hốc mắt giống như đầu lâu vượn cổ rừng sâu, lại chuyển động một cách quái dị, khiến người ta không dám nhìn gần.
Mọi người tham chiếu theo cảnh tượng vẽ trong bích họa để lần tìm lối đi, họ thấy trong động thất có hai pho tượng thú bằng đồng, quy mô rất hoành tráng, một pho mặt người mình hổ, sau mọc chín đuôi, còn pho kia mặt người mình chim. Trong bích họa vẽ cảnh mọi người tiến vào mạch đất núi Âm Sơn, vị vu sư của Sở quốc đang chuẩn bị đặt di hài xuống đây.
Tư Mã Khôi đang định đặt di hài xuống giống như bức họa miêu tả, thì Cao Tư Dương bỗng nhiên ngăn lại: “Khoan đã, tôi thấy có điều gì đó không đúng lắm”. Nhị Học Sinh nhỏ giọng nhắc nhở Cao Tư Dương: “Định luật Murphy nói, mọi thứ trông đều có vẻ bình thường, chính là điều bất thường nhất”.
Cao Tư Dương không đếm xỉa gì đến Nhị Học Sinh, cô tiếp tục nói với Tư Mã Khôi: “Lẽ ra tôi không nên nhiều chuyện, nhưng anh đừng quên rằng, chính thủ lĩnh của Nấm mồ xanh ra lệnh cho gã thổ tặc mang di hài vào trong động, mà anh lại nói tên thủ lĩnh không phải vong hồn, và kẻ đó chỉ trốn đâu đó trong động ở nơi mà mọi người không thể nghĩ ra được, rồi có lẽ nhất cử nhất động của chúng ta đều bị hắn theo dõi. Vậy thì chưa biết chừng mang di hài xuống vực sâu cũng chính là điều mà hắn đang muốn đạt được, nên chí ít anh cũng không được bỏ qua khả năng này”.
Tư Mã Khôi cũng thấy hội Thắng Hương Lân đều rất bất an về điểm này, anh liền bảo: .“Tôi đã nghĩ tới khả năng này, chúng ta buộc phải đi xuyên qua màn sương dày đặc, rồi cố gắng nhìn rõ bản chất của cả chuỗi sự kiện, tôi đoán Nấm mồ xanh và đội khảo cổ chúng ta đều sẽ có được kết quả mà mình muốn tìm kiếm. Nhưng tôi nghĩ, Nấm mồ xanh cũng không thể tiên đoán được mọi việc sẽ như thế nào, nếu không, hắn đã sớm phái đội thám hiểm băng qua biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, xuống vực sâu dưới lòng đất, chứ không việc gì phải đợi tới tận bây giờ mới đến. Nước ta giải phóng đã hơn hai mươi năm, vùng núi Đại Thần Nông Giá ngày nay không giống Miến Điện chiến tranh loạn lạc, cũng không giống với thời kì những năm 50, 60, đặc vụ nằm vùng khắp mọi nơi nữa. Cùng với thời gian, cục diện chính trị dần trở nên ổn định, các thành viên của tổ chức ngầm đã dần dần bị tóm sạch. Bây giờ, ngay cả tên thổ tặc chưa được tẩy não như Lão Xà cũng được trưng dụng, thì xem chừng năng lực hành động của tổ chức này ở phạm vi trong nước đã bị suy yếu đến cực hạn. Lúc mới bắt đầu, tất cả những gì liên quan đến Nấm mồ xanh đều là những ẩn số to đùng, mà đến bây giờ, tôi vẫn nghĩ không ra Nấm mồ xanh làm cách nào để biết được thông tin đội khảo cổ thâm nhập kính viễn vọng Lopnor và tìm được manh mối. Có điều, sau khi trải qua cả chuỗi sự kiện từ hẻm núi Dã Nhân, kính viễn vọng Lopnor, biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, thì bí mật của tên thủ lĩnh cũng dần dần lộ ra. Lịch sử tồn tại của tổ chức ngầm này đã có từ rất lâu đời, nhưng mãi đến thời Dân Quốc, khi Triệu Lão Biệt trốn thoát khỏi chiếc hộp thời gian, mang theo tin tình báo về thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, từ đó kẻ mà chúng ta vẫn coi là thủ lĩnh Nấm mồ xanh, mới chính thức bắt đầu khống chế tổ chức ngầm này, đồng thời bắt tay tìm kiếm đường xuống vực sâu. Căn cứ vào hài cốt của các thành viên đội thám hiểm Pháp tử mạng ở Lâu Lan, có thể suy đoán, thời gian lúc đó đại khái là những năm hai ba mươi. Nếu Nấm mồ xanh thực sự tiên liệu được mọi việc, thì không thể mãi đến năm 1974 hắn mới bắt tay hành động. Tôi cảm thấy, kế hoạch ban đầu về biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá của tên đầu lĩnh là, dự định để gã thổ tặc đoạt được tấm bản đồ mà đội thám hiểm Taninth để lại trước đội khảo cổ một bước. Bởi trước giải phóng, hắn biết tấm bản đồ ghi chép nơi cất giấu kho báu của Sở quốc, chỉ có điều hắn hoàn toàn không ngờ mạch đất núi Âm Sơn trong truyền thuyết của Sở U Vương, lại là cánh cửa thông xuống vực sâu, và tấm bản đồ cuối cùng lại rơi vào tay đội khảo cổ chúng ta. Vậy là, hắn ta đành ra lệnh cho Lão Xà mang di hài vào trong động. Tôi nghĩ, có lẽ hắn đã phát hiện ra bí mật của cỗ di hài khắc trên lớp điêu khắc ngoài của bức bích họa, mà trước đó hắn đã hoàn toàn không biết. Bởi vậy, tôi có thể dám chắc, hắn đã biết đáp án của ẩn số; nhưng vẫn chưa biết cả quá trình và kết quả sẽ xuất hiện sau khi tìm thấy ẩn số, không những thế, hắn cũng chịu sự quấy nhiễu của định luật Murphy giống như chúng ta. Nếu chúng ta bỏ cuộc giữa chừng, thì tất cả những gì chúng ta đã nỗ lực từ trước đên giờ, đều hóa công cốc, không chỉ vậy, mà còn khó bảo toàn tính mạng. Chúng ta sẽ vĩnh viễn mất cơ hội vạch trần bộ mặt thật của Nấm mồ xanh.”
Mọi người nghe Tư Mã Khôi phân tích đều thấy rất phải, Nhị Học Sinh bất ngờ nói: “Tôi nghĩ, Nấm mồ xanh không những không biết kết quả đáp án của ẩn số, mà còn không biết cả bản thân đáp án của ẩn số nữa”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ ba
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH CỦA WEMER HEISENBERG
Nhị Học Sinh lạnh tanh vọt ra một câu khiến hội Tư Mã Khôi lập tức cảnh giác, bởi đáp án của ẩn số chính là bí mật vùi dưới vực sâu, còn kết quả đáp án là sự việc phát sinh sau khi tìm thấy bí mật; và nếu phân tích theo lôgíc này, thì thủ lĩnh Nấm mồ xanh muốn tìm thấy con đường dẫn xuống vực sâu, nhất định phải có ý đồ bí mật không thể tiết lộ, bởi vậy Nấm mồ xanh chắc chắn phải nắm rõ được chân tướng của đáp án, nếu không tất cả những việc này sẽ không thể xảy ra. Nhị Học Sinh chỉ là một thanh niên trí thức bị đẩy vào lâm trường cải tạo tư tưởng, dựa vào đâu mà anh ta dám khẳng định thủ lĩnh Nấm mồ xanh không biết đáp án?
Nhị Học Sinh thấy nét mặt Tư Mã Khôi lộ rõ vẻ nghi ngờ, lại càng thể hiện thái độ khẳng định: “Theo góc độ lý luận thì Nấm mồ xanh chắc chắn không thể biết đáp án được”.
Tư Mã Khôi đặt cỗ di hài xuống đất, bảo Nhị Học Sinh: “Bọn anh ít học, không mài đít quần trên ghế đọc sách giống phần tử trí thức các chú, tốt nhất chú mày nói dễ hiểu một chút cho anh nhờ. Chú mày căn cứ vào đâu mà nói vậy?”
Nhị Học Sinh nói: “Trước đây có một nhà vật lý học người Đức tên là Wemer Heisenberg, ông ấy đã nêu ra một nguyên lý về tính bất định của các đại lượng đồng nhất, tên là ‘Nguyên lý bất định Heisenberg’. Nguyên lý phát biểu rằng: ta không bao giờ có thể xác định chính xác động lượng và xung lượng của một hạt vào cùng một lúc, nếu ta biết một đại lượng càng chính xác thì ta biết đại lượng kia càng kém chính xác; nói một cách nôm na, khi anh quan sát suy đoán một vật thể, các số liệu anh nhận được vĩnh viễn không thể cùng đúng tuyệt đối, giống như ta quan sát vật thể qua tia sáng, ánh sáng sẽ khiến vật thể biến đổi, tuy đó chỉ là sự biến đổi cực kì nhỏ bé, mà mắt thường không nhận biết được, nên chúng ta vẫn không thể phát hiện được bản chất thực sự, bởi vì tất cả cơ sở động lượng đều bắt nguồn từ những biến hóa nhỏ bé, tinh tế đó. Nguyên lý này chỉ ra sự vô tri của nhân loại, sự vô tri này tồn tại khách quan, đồng thời rất khó vượt qua. Ngay cả sự thay đổi nhỏ bé ở bề mặt vật lý mà cũng không thể xác định thì sự phát triển của số mệnh và sự kiện càng khó tiên liệu hơn. Bởi vậy, trừ khi Nấm mồ xanh là thần thánh, nếu không; bí mật mà hắn ta nắm được chỉ là phiến diện chủ quan và không xác định.”
Hải ngọng gật gù tán thưởng: “Đúng là chú làm anh sáng mắt sáng lòng ra bao nhiêu đấy! Nói duy tâm theo các cụ thì cuối cùng sẽ xảy ra chuyện gì, chú không biết, anh không biết, thằng Nấm mồ xanh cũng không biết, chắc chỉ mỗi ông giời mới biết mà thôi”.
Tuy Tư Mã Khôi không hiểu về nguyên lý bất định của Heisenberg lắm, nhưng nghe Nhị Học Sinh nói thì cũng có lý, cũng giống như người xưa vẫn nói “thế sự khó lường”, vì những chuyện này ông cha ta đã phải dùi mài nghiên cứu kỹ từ mấy ngàn năm trước thì mới đúc kết được. Tóm lại, giờ chúng ta không nên nghĩ nhiều làm gì, cứ nhắm mắt mà liều húc đến cùng, cũng không được mất niềm tin khi phải đối đầu với khó khăn, mà phải nhớ rằng: “vấp ngã là huân chương của người thành công, gió to cỏ rậm thể hiện bản sắc anh hùng, phong ba bão táp mới thấy sinh mệnh là bất diệt”.
Thắng Hương Lân cũng gật đầu tỏ ý tán thành, nhưng Cao Tư Dương lại cho rằng: “Mớ lý luận của Nhị Học Sinh lúc thì duy tâm, lúc thì duy vật, thực ra chẳng qua là muốn giải vây cho anh Khôi mà thôi; có điều có một điểm cậu ta nói không sai: không ai biết sau này sẽ xảy ra điều gì, các anh đã đặt cỗ di hài xuống đất lâu thế sao vẫn không thấy xảy ra động tĩnh gì nhỉ?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Căn cứ theo cảnh tượng mô tả trên bích họa, thì chỉ cần đặt cỗ di hài dưới chân hai pho tượng thú bằng đồng lập tức “tải” sẽ biến thành con đường thông xuống mạch đất núi Âm Sơn. Tư Mã Khôi đưa tay ra sờ bề mặt điêu khắc lồi lõm trên mặt đất, nhưng không phát hiện thấy đường nứt hay kẽ hở nào. Chẳng lẽ “tải” lại là tảng đá khổng lồ nặng trình trịch? Nên cũng không biết nội dung kì quái và thần bí khắc trên bích họa là thật hay giả! Mọi người cảm thấy rất đỗi hoang mang, vì không có chút manh mối nào cả.
Tư Mã Khôi đành đối chiếu bích họa vu Sở lại lần nữa, thấy ánh mắt hung ác của hai pho tượng thú bằng đồng mô tả trong bích họa, khác hẳn với vẻ u uất, ảm đạm của chúng ngoài đời thật. Anh liền lại sát gần xem, chợt thấy trong hai con ngươi của pho tượng thú có máng xoay, bên trong rỗng ruột, cất giấu chiếc đèn hình nửa viên ngói, đường nét tinh xảo, do bị bụi bám dày nên không lại gần thì khó có thể phát hiện ra được. Tư Mã Khôi mở nắp, thấy thân đèn còn một vật gì đó sót lại, hao hao giống hình cây nến, và nửa phần bấc đèn; anh đoán chất liệu dẫn cháy là mỡ động vật hoặc sáp nến, chứ không phải “long tủy”; có lẽ người ta dùng nó để thắp sáng ngọn đền đã bị tắt từ hơn hai ngàn năm trước, nhưng không ngờ giữa chừng lại xảy ra sự cố bất ngờ.
Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, liền bảo Nhị Học Sinh cầm đuốc châm lửa vào ngọn đèn đồng bên trong.
Hải ngọng đoán già đoán non: “Cái hộp đá này chẳng lẽ lại là thang máy hình hộp phi thẳng xuống mỏ quặng bên dưới à? Thắp sáng đèn đồng tương đương mở máy phát điện, khởi động cho hệ thống của nó thâm nhập lòng đất hả Khôi?”
Tư Mã Khôi mầy mò mãi mà không tìm ra bên trong có gì, nên đành phải làm theo chỉ dẫn trên bích họa. Tuy nói thời xưa không có thang máy, nhưng tương truyền hơn năm ngàn năm trước, khi Hoàng Đế đại phá Xi Vưu ở Bắc Hải, ngài từng chế tạo cỗ xe chỉ nam trong sương mù. Nghe nói chỉ cần ngồi lên xe, không cần định vị phương hướng, bánh xe sẽ tự động lăn tròn, muốn sang đông là được đông, muốn sang tây là được tây, bên trên lắp người gỗ để phân biệt bốn hướng, đó là nguyên lý máy móc cổ xưa nhất, bởi vậy, Hoàng Đế còn có biệt hiệu là Hiên Viên. Hai chữ Hiên Viên không phải để chỉ tên địa danh, mà có lẽ liên quan đến việc chế tạo cỗ xe này. Con quái vật “tải” có lẽ được vùi dưới lòng đất từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, xuất hiện muộn hơn thời điểm Hoàng Đế chế tạo xe chỉ nam hàng mấy ngàn năm, nếu trong hang núi có lắp đặt hệ thống gì đó giúp nó di chuyển về hướng mạch núi Âm Sơn, thì cũng không phải là điều gì kì lạ.
Lúc này, Nhị Học Sinh đã giơ cao cây đuốc, lần lượt thắp sáng các bàn đèn bên trong tượng thú bằng đồng nhưng do nến bị bám bụi lâu ngày, nên đèn không cháy rõ lắm, chập chờn lúc sáng lúc tối tựa ánh lửa ma trơi. Hai pho tượng thú bằng đồng có nét mặt hung hãn kì dị, đúng lúc này lại chầm chậm mở to hai mắt trong bóng tối.
Tư Mã Khôi nín thở một hồi, vẫn không thấy động tĩnh gì, thầm nghĩ: “Vu thuật của Sở quốc rất nặng nề, chuyên dùng những sự vật thần bí, lẽ nào phải có vu sư đến niệm thần chú mới được? Đáng tiếc là mấy lão vu sư đeo mặt nạ đồng, cho đến lúc chết vẫn chưa mang được di hài xuống lòng đất, bây giờ xương cốt họ lại đã hóa thành tro bụi thì làm sao mà hiệu triệu âm hồn lên trần thế mà căn vặn được?” Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Đang suy nghĩ miên man, anh bỗng thấy ánh nên trong mắt tượng thú dần dần sáng lên, cỗ di hài đặt trên mặt đất khi nãy nằm ở nơi hội tụ ánh sáng đèn, giờ dưới sự phản chiếu của ánh nến, bỗng phát ra luồng ánh sáng âm u, quái dị, chiếu sáng trong phạm vi hơn mười bước chân. Dường như cũng chính lúc ấy, mọi người phát hiện bốn bức tường rung chuyển, ai nấy đều khiếp sợ, cảm thấy nguy hiểm đang rình rập đâu đó. Tuy biết rõ pho tượng thần thú “tải” bịt kín lối vào huyệt động thông xuống lòng đất, nhưng không ngờ nó lại đột ngột di chuyển thụt xuống, may mà tốc độ sụt lún không nhanh, nên mọi người vẫn tạm thời tìm được chỗ đứng tương đối vững chắc.
Tư Mã Khôi vịn vào một pho tượng thú nói: “Không ngờ Hải ngọng lại đoán trúng phóc, chẳng lẽ nó là thang máy xuống mỏ quặng thật sao?”
Nét mặt Thắng Hương Lân hơi thay đổi: “Hình như, có thứ gì đó ở nơi sâu dưới huyệt động bị cỗ di hài thu hút, nó đang kéo chúng ta xuống lòng đất”.
Nhị Học Sinh nhớ đến mấy ả ma nữ ký sinh trong chiếc hòm vẽ trên bích họa, lòng bất giác phát hoảng: “Sao bọn chúng lại có sức mạnh ghê gớm thế được nhỉ? Chúng là ….loại gì không biết?”
Thắng Hương Lân lắc đầu: “Không biết, nhưng rất có khả năng chúng bị cỗ di hài thu hút, nên mới xuất hiện ở đây”.
Tư Mã Khôi hồi tưởng lại những trải nghiệm trước đây, anh cho rằng Hương Lân đoán không sai, có thứ gì đó ở bên ngoài đang lao tới với tốc độ ánh sáng, nhưng không rõ chúng bị cái gì đó cản trở, nên nhất thời không dám chui vào bên trong tượng thần thú “tải”, nên xem ra chỗ này tạm thời vẫn khá an toàn. Không chỉ vậy, tình hình bây giờ hoàn toàn trùng khớp với nội dung thần bí được mô tả trong bích họa vu Sở.
Tư Mã Khôi vừa định dựa lưng vào tường, cong người tay ôm đầu gối để giảm bớt xung lực tác dụng vào cơ thể khi chạm đất, thì lúc này đột nhiên có người luồn từ ngoài động vào, hóa ra, đó chính là gã tiêu lộc Lão Xà mà cho dù xương cốt có hóa thành tro anh cũng vẫn nhận ra. Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Thì ra tên thổ tặc này chưa ngỏm mà cũng chưa chạy thoát, hắn vẫn đang trốn trong huyệt đạo giữa các vách đá. Mày bò vào đây phen này coi như đúng tầm ngắm họng súng nhà ông”. Khẩu súng M-1887 trong tay được lên nòng, nhân lúc đối phương chưa kịp đứng vững, anh đã ngắm thẳng vào đầu Lão Xà và chuẩn bị bóp cò, nào ngờ tên thổ tặc không hề né tránh đường đạn, mà bỗng nhiên há ngoác miệng, rồi từ trong đó thò ra một cánh tay người đen sì sì.
Tư Mã Khôi thấy Thắng Hương Lân từng nói: trong mây từ hình thành ở mạch quặng dưới lòng đất, rất có khả năng tồn tại “hiện tượng xuất vía”, nghĩa là, nguồn năng lượng sinh mệnh của con người bị mây hút ra, và để lại di ảnh trong sương mù trước khi nó tan biến trong phút chốc ngay sau đó, còn Lão Xà thì vừa mới từ ngoài động bò vào, nên rõ ràng không phải linh thể xuất hiện trong sương mù.
Lúc này, anh thấy từ miệng gã thổ tặc thò ra một cánh tay, dường như âm hồn trong cơ thể đang giãy giụa đòi ra, còn cả người gã thì cứng đơ, trên mặt chỉ có hai con ngươi vẫn gian manh đảo liên hồi. Cảnh tượng lúc này kinh dị như thể kim thiền thoát xác. Tư Mã Khôi bất giác nhớ đến truyền kì “họa bì” của Bồ Tùng Linh. Anh thầm nghĩ: “Chẳng lẽ âm hồn trong sương mù chui vào trong cơ thể tên thổ tặc ư?”. Anh định quan sát kỹ hơn, nên quay đèn quặng chiếu vào khuôn mặt gã, nhưng phía đó chỉ có bóng tối đen ngòm, dường như vật thò ra từ trong miệng gã đã hút hết ánh sáng.
Lúc này, đột nhiên anh nghe thấy một tiếng thét thất thanh, sau đó màn khí đen tỏa ra mù mịt. Tư Mã Khôi thoắt cảm thấy khí lạnh thổi thốc vào người, toàn thân nổi dựng da gà. Anh từng thân chinh bách chiến ở Miến Điện, tuy biết rõ tình hình trước mắt rất nguy hiểm, nhưng vẫn muốn chộp cơ hội này giải quyết tên giặc đất. Đột nhiên, một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu, Tư Mã Khôi máy móc dừng ngón tay đang chuẩn bị bóp cò, quay ngược cán súng, dùng hết sức thọc mạnh đẩy Lão Xà trở lại động, sau đó tung người tránh đám sương đen, rồi khi nhìn lại anh thấy trong động đạo đen ngòm ngòm, không một bóng người.
Cao Tư Dương chạy lại đỡ Tư Mã Khôi dậy rồi hỏi: “Cơ hội khi nãy tốt thế, sao anh không nổ súng?”
Thắng Hương Lân chạy lại, trả lời thay: “May mà Tư Mã Khôi không nổ súng, nếu không bây giờ không phải chỉ một mình Lão Xà mất mạng”.
Tư Mã Khôi nói: “Tôi nghĩ bí mật trong sương mù chính là ánh sáng, may mà ông Khôi này tỉnh ngộ nhanh nếu không đã làm đá lót đường cho tên giặc thối kia rồi”.
Hải ngọng nói: “Hay cậu đã bị nó dọa cho mất vía nên mới không dám bắn? Trách gì người xưa nói không sai chút nào: ‘Ngựa chạy bằng chân, hảo hán chạy bằng miệng’, làm tốt không bằng nói hay. Câu này áp dụng cho cậu không lệch vào đâu được”.
Tư Mã Khôi nói: “Cậu mà chịu động não nghĩ kỹ thì cũng sẽ không khó để nhận ra một cách đại khái mô hình của mê cung mà Sở U Vương dày công bố trí. Huyệt động phía dưới tượng thần thú ‘tải’ ăn thông với mạch đất vừa sâu lại vừa rộng, không những vậy còn tập trung lượng mây từ dày đặc, trong đó ẩn náu những sinh vật đáng sợ. Ngoại trừ xác chết ra, người sống vào đó chăc chắn mất mạng, đó cũng là vạch ranh giới không thể vượt qua. Ngoài ra, cỗ di hài lại có lai lịch lấy từ vực sâu, trông có vẻ chỉ hơi phát sáng yếu ớt, nhưng ánh sáng đó trải qua hàng ngàn năm vẫn không hề suy giảm, mà còn dẫn dụ được thứ gì đó nằm ẩn mình trong mây từ dưới lòng đất bò lên trên. Vật thần bí này được mô tả trong bích họa với thần thái giống như cô gái quái dị, nhưng không rõ nó thực ra là ma hay yêu quái. Song, có một điều không cần nghi ngờ, bệ đèn đặt trong tượng thú bằng đồng chiếu vào di hài sẽ khiến ánh sáng của nó tăng lên gấp bội, từ đó lại dẫn dụ càng nhiều bọn quái vật dưới lòng đất bò lên. Chúng tụ tập ở bốn phía xung quanh, phá vỡ kết cấu địa tầng vốn mềm xốp ở đây, khiến “tải” bắt đầu bị chìm lún xuống lòng đất; nhưng thứ xuất hiện trong huyệt động dường như lại có thể nuốt chửng ánh sáng, bởi vậy những chỗ chúng lướt qua, đèn nến đều tắt lịm.
Căn cứ vào kinh nghiệm lúc trải qua trên cầu đá lúc trước, Tư Mã Khôi phỏng đoán, ánh sáng phát ra từ họng súng sẽ thu hút chúng ùa vào tấn công, vì dường như mục tiêu tiếp cận của chúng là những nơi có ánh sáng và nhiệt độ tương đối cao. Tên giặc đất trốn trong huyệt đạo chạy trốn không kịp, kết quả đã bị thứ đó chui vào trong cơ thể, gã không cam lòng chịu chết, liền bò vào trong khám động tìm đường sống, vô tình mang cả thứ trong sương mù vào đây, bận này gã chết chắc rồi. Nhưng Tư Mã Khôi vẫn không hiểu vì sao anh lại nhìn thấy chiếc bóng của mình trong động đạo, và chuyện gì đã xảy ra với Hải ngọng và Lão Xà khi họ bị rơi vào trong sương mù?
Ngoài ra, vòng tròn quái dị tượng trưng cho sự luân hồi sinh tử, thực ra muốn ám chỉ điều gì? Trước khi nhận diện rõ chân tướng của “tiên nữ trong chiếc hòm”, anh không thể suy đoán được gì.
Lúc này, thần thú “tải” vẫn không ngừng chìm xuống, mặt đất bắt đầu dốc nghiêng, mọi người đứng tựa vào tường, hai tai họ bắt đầu ngâm ngẩm đau, có lẽ do càng xuống sâu, địa áp càng không ngừng gia tăng, mọi người mặc kệ tất cả những ẩn số trong bích họa vu Sở, người nào cũng nơm nớp lo sợ, không hẹn mà đều có chung ý nghĩ: “Rốt cuộc huyệt động dưới biển Âm Dụ sâu bao nhiêu? Sao mãi vẫn chưa rơi tới đáy?”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">H<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ồ<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">i thứ tư
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ÂM NGUỒN
Lớp mây điện từ dưới lòng đất đã khiến các thiết bị cơ học như đồng hồ đều mất tác dụng, tốc độ rơi đã nhanh đến chóng mặt, mà vẫn ngày một nhanh hơn, thời gian trôi qua dường như dài đằng đẵng, mọi người quay cuồng trong không gian kín mít, ngũ quan cũng mất hết công dụng cần có, chỉ cảm thấy mình đang không ngừng rơi mãi; nếu đây không phải là vực sâu không đáy, thì cũng không thể biết nó sâu bao nhiêu.
Lúc trước, họ chỉ biết hòn đảo cổ đại nằm dưới lòng đất Đại Thần Nông Giá, cách rừng rậm nguyên sinh theo chiều thẳng đứng tầm hai trăm mét. Hố tế lễ còn sót lại từ thời Xuân Thu Chiến Quốc đã lún sâu xuống phần đáy của hòn đảo, còn bên dưới tượng thần thú “tải” lại giống như cửa khổng lồ, có lẽ còn có một huyệt động sâu hơn, thông thẳng xuống mạch núi Âm Sơn. Lúc này, tượng thú vẫn không ngừng rơi xuống, có cảm giác như hòn đảo cổ đại dường như đang lún vào khu vực giáp ranh mảng địa tầng, nếu không sẽ không thể sâu đến vậy, có lẽ đây chính là “khe sâu” được ghi chú trong bích họa vu Sở.
Tư Mã Khôi thấy đầu đau muốn nổ tung, màng nhĩ cũng đau nhức nhối, dưới ánh đèn quặng, anh thấy những người còn lại cũng nổi đầy mạch máu trên mặt. Anh cũng biết, nếu tiếp tục rơi xuống với tốc độ thế này, thì khi chưa kịp rơi tới đáy, huyết dịch sẽ sôi sục như bị đun trong ấm, rồi thành huyết quản không chịu nổi áp lực sẽ đột ngột vỡ ra. Anh định nói, nhưng không mở miệng ra được, bởi hai hàm răng không ngừng va vào nhau lập cập, ngoài tiếng “vù vù” của dòng khí đối lưu ra, thì không nghe thấy bất kì âm thanh nào khác nữa, anh cũng đành mặc kệ sự sống chết.
Lúc này, mọi người đột nhiên thấy cơ thể như bị hất tung lên, lục phủ ngũ tạng cũng suýt chút nữa trôi vọt ra khỏi miệng. Đèn đồng tắt ngóm, xung quanh tối đen như mực, mọi người chưa kịp điều hòa hơi thở, thì dòng nước ngầm lạnh lẽo đã cùng lúc ùa vào qua bốn vách tường, mặt nước dâng cao thần tốc, rồi trong thoáng chốc đã tới đầu gối, hình như “tải” bị rơi xuống nước, nghiêng ngả chìm vào dòng nước sâu.
Hội Tư Mã Khôi chưa kịp hoàn hồn, thấy tình thế trước mắt nguy cấp, vội vàng bò lên động đạo phía trên, thấy bốn phía không còn mây từ bao phủ, nhưng trong phạm vi đèn quặng chiếu sáng, chỉ thấy xung quanh mặt nước cuộn sóng dữ dội, ở sâu hơn, không gian đen quánh, chỉ thấy tiếng gió lốc gầm rít, tứ bề âm u mờ mịt, không ai biết mình đang ở đâu.
Lúc này, “tải” không còn chìm xuống nữa, nhưng mọi người cũng không thể dừng chân ở trong này mãi được. Tư Mã Khôi thấy trên vách tường có mấy đoạn thân cây khô của thực vật tiền sử còn bám lại, trong đó có đoạn dài tầm năm mét, to bằng một vòng tay, anh lấy dao chặt hết cành lá còn bám trên vách khám, những người còn lại đều hiểu ý đồ của Tư Mã Khôi, nên hăng hái chạy lại giúp sức. Một lát sau, “tải” đã bị dòng nước xoáy nuốt chửng hoàn toàn, mọi người may mắn kịp thoát chết trong gang tấc, nhưng ai nấy đều xước xát, rách rưới thảm hại, họ gắng gượng bò lên thân cây khô, thở hổn hà hổn hển, sắc mặt khó coi như người chết.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân đốt sáng một cây nến phát tín hiệu, ánh sáng lập tức bừng lên như ban ngày. Mọi người nằm rạp trên thân cây như chiếc bè gỗ, thất thần nhìn bốn phía, chỉ thấy nơi cao che kín mây đen dày đặc, còn bốn phía chỗ nào tầm mắt có thể nhìn đến, đều thấy sóng nước vỗ ầm ầm, sương khí hòa quyện vào nhau, sương mù vây kín không gian. Pho tượng thần thú khổng lồ như trái núi chìm nghỉm dưới biển nước sâu hút, tuyệt không sủi bọt, thân cây khô rỗng ruột, bị sóng đánh trôi nổi trên mặt nước, chấp chới tiến về phía trước, ngày càng cách xa vị trí “tải” rơi xuống khi nãy.
Lúc này, Tư Mã Khôi mới nhớ ra, cỗ di hài cũng chìm theo pho tượng thần thú dưới biển sâu, tình hình này có lẽ không còn hi vọng vớt nó lên được nữa.
Cao Tư Dương đột nhiên giơ tay chỉ về phía trước, khẽ gọi hội Tư Mã Khôi: “Mọi người nhìn kìa, hình như phía trước có người!”
Cả hội nghe nói lập tức quay ngóắt lại, nhờ ánh sáng chói lòa của pháo tín hiệu, thấy ở mặt nước phía xa thấp thoáng một cánh tay, mọi người chợt chột dạ. Những người rơi theo “tải” xuống đây, ngoài hội Tư Mã Khôi, thì chỉ còn gã thổ tặc Lão Xà, bây giờ dẫu có nhìn thấy xác gã nổi trên mặt nước cũng không có gì là kì lạ, nhưng cánh tay người thò ra khỏi mặt nước lại chỉ xòe năm ngón cừng đờ, nó cứ thẳng đơ như thế trôi theo sóng nước, khoảng cách giữa cánh tay và thân cây khô càng lúc càng gần.
Hội Tư Mã Khôi thấy cánh tay nổi bập bềnh đến gần, liền giơ nến tín hiệu về phía mặt nước quan sát. Cảnh tượng đập vào mắt khiến mọi người không khỏi giật mình, thì ra đó là một con quái ngư với đôi vây dài, hình như đó là loài cá khổng lồ thường sinh sống ở vùng nước sâu tăm tối. Hội Tư Mã Khôi chỉ nhìn thấy đầu, không nhìn thấy đuôi nó, nên cũng không thể phân biệt nó là loại cá gì. Con thủy quái đã nuốt già nửa thân người Lão Xà, chỉ còn mắc lại mỗi một cánh tay và cái đầu vẫn đang thò ra ngoài miệng. Xem ra, gã thổ tặc trước lúc bị thủy quái nuốt vào bụng, thì đã tắt thở và chết cứng trong sương mù từ bao giờ.
Tư Mã Khôi biết rõ gã là tay dị thuật cao cường, chẳng ngờ gã lại có kết cục chôn thây trong bụng cá, biến mất khỏi cõi đời như khói tan cỏ lụi, và cảnh tượng đó khiến anh không khỏi ớn lạnh. Anh chỉ sợ ánh sáng của pháo tín hiệu sáng quá sẽ dẫn dụ bọn thủy tộc kéo đến lật đổ bè gỗ, nên vội vàng vứt nó xuống nước; bọn thủy quái quả nhiên đuổi theo ánh sáng, trong phút chốc đã mất dạng.
Trong bóng tối chỉ còn sóng dữ cuộn trào, thân cây khô bị cuốn phăng theo dòng nước xiết, không thể kiểm soát nổi. Mọi người tắt đèn quặng, chỉ để một ngọn đèn cácbua chiếu sáng, đầu óc mơ màng giật giật từng hồi, cơ sự đã đến nước này sống chết chỉ còn tùy thuộc vào mệnh trời. Nhân lúc đầu óc còn chút tỉnh táo, Tư Mã Khôi bảo mọi người lấy dây thừng buộc thân mình vào bè gỗ, đề phòng bị dòng nước hất xuống biển, sau đó ôm súng nằm cuộn tròn người tránh rét. Tự anh cũng không biết mình thiếp đi lúc nào, vì dù mở mắt hay nhắm, trước mắt cũng chỉ một màu đen. Trong đầu anh không còn chút tư duy hay ý thức nào, thậm chí ngay cả ác mộng cũng không mơ thấy, vì có lẽ giờ đây hiện thực và ác mộng cũng không có gì khác biệt. Không biết thời gian trôi qua bao lâu, anh mới dần dần phục hồi tri giác.
Những người khác cũng lần lượt tỉnh dậy, chủ yếu là do mấy ngày nay chưa được hạt cơm nào dính bụng, giờ họ đói đến mức ngực dính sát vào lưng, toàn thân run lẩy bẩy, muốn ngủ cũng không ngủ tiếp được. Thắng Hương Lân lấy lương khô chia cho mọi người lót dạ. Dạ dày có chút “thực”, nên đầu óc quả cũng mới “vực được đạo”, nhưng nghĩ đến hoàn cảnh trước mắt, ai nấy đều cảm thấy không thể lạc quan.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Nhị Học Sinh say sóng đến mềm nhũn cả người, anh chàng nôn hết sạch số lương khô vừa mới ăn. Bây giờ anh chàng mới thấy thế giới dưới lòng đất hoàn toàn vượt xa những gì mình tưởng tượng được. Nhị Học Sinh gắng gượng nói với Tư Mã Khôi: “Tuy tên thổ tặc đã toi mạng, nhưng lòng đất vẫn bị mây từ che phủ dày đặc, còn đến bây giờ vẫn không biết bọn ma nữ được mô tả trong bích họa vu Sở là thứ gì. Cỗ di hài cũng bị nước xiết nhấn chìm rồi, giờ không thể tìm được núi Âm Sơn thông với mạch đất nữa. Chúng ta cũng không hiểu vì sao núi Bối Âm trong truyền thuyết vu Sở lại lúc ẩn lúc hiện? Chẳng lẽ nó đang ở dưới nước? Mức nước lên xuống sẽ khiến nó bị lộ ra ngoài? Tôi thấy, ẩn số xuất hiện càng lúc càng nhiều, nhưng ngay cả phương hướng bây giờ chúng ta cũng không thể xác định chính xác, thậm chí còn không biết mình đang ở chỗ nào. Điều đáng mừng duy nhất là vẫn còn chiếc bè gỗ, nếu không, cả hội bây giờ đã nằm gọn trong bụng cá rồi.”
Tư Mã Khôi nói: “Tuy đoạn gỗ này đã cứu sống chúng ta, nhưng nó chỉ nổi lềnh bềnh trên đại dương tối tăm vô bờ bến. Tôi thấy nơi quỷ quái này không phải điểm đầu cũng chẳng là điểm cuối, nhưng lại giống với nơi tận cùng của thế giới. Tôi từng nghe người ta nói, thời xưa có tòa ‘phù sai’, đó là chiếc bè gỗ dùng để di chuyển giữa đại dương và thiên hà; bè gỗ mà chúng ta đang ngồi bây giờ xem ra cũng chẳng khác gì ‘phù sai’, có điều chúng ta không lên thiên đàng mà xuống cõi u minh dưới lòng đất, nơi đó chính là hoàng tuyền, là nơi người chết đều phải đi xuống.”
Tuy mọi người biết Tư Mã Khôi nói vậy chỉ là một cách tự trào, nhưng ai nấy đều cảm thấy tuyệt vọng cùng cực, chỉ có Hải ngọng vẫn cố tỏ ra vẻ anh hùng hảo hán: Chết nhanh cho sướng, càng đỡ phải sống chịu tội. Đây là tin vui duy nhất tôi nghe được sau khi nôn sạch bữa trưa ra đấy!”
Tư Mã Khôi lại tưng tửng nói: “Tớ còn phải nói với cậu một tin, đảm bảo cậu nghe xong sẽ nôn nốt cả suất bữa tối ra luôn”.
Hải ngọng hết hồn: “Tớ biết là vẫn còn chuyện đen đủi hơn mà, vì đen đủi là không thể tránh khỏi, mà đen đủi, bà nội nó chứ, đúng là đầy sức sáng tạo. Tớ chịu không nghĩ ra nổi sẽ còn xảy ra chuyện đen đủi gì nữa. Cậu nói mau đi, Hải ngọng tớ vẫn còn chống đỡ được”.
Tư Mã Khôi móc mấy tút thuốc lá trong ba lô ra, khi nãy rớt xuống nước, chưa kịp bọc chống ẩm, giờ ướt nhũn như cháo.
Hải ngọng há hốc mồm, lòng đau như cắt, miệng lẩm bẩm: “Thế là toi, cả đống lương thực hi sinh hết sạch, bận này bọn mình có chết cũng yên lòng, vấn đề là giờ vẫn chưa chết được, mà rơi xuống chỗ chính mình cũng chẳng biết là chỗ nào, mà không có thuốc lá thì làm sao mà kiên trì chiến đấu đến cùng được? Tớ thấy bọn mình chắc không ngáp nổi qua đêm nay để đợi đến bình minh ngày mai đâu….”
Cao Tư Dương thấy hai người buồn rầu vì mất mấy tút thuốc lá, cô không thể hiểu rốt cuộc trong đầu họ đang nghĩ gì, cảm giác vừa bực mình vừa bất lực trào lên, cô quay sang hỏi Thắng Hương Lân: “Cô làm việc trong đội trắc họa, chắc rất rành kết cấu địa chất, thế có phán đoán đựợc bây giờ chúng ta đang ở đâu không?”
Nhị Học Sinh chen ngang: “Chỗ này sóng vỗ dữ dội, mặt biển mênh mông, dưới lòng đất làm gì có sông ngầm hay biển hồ nào rộng lớn từng ấy? Chắc chúng ta rơi xuống biển rồi, nghe nói dưới lòng đất có vực sâu gọi là “nhược thủy”, còn có núi lửa đốt cháy xinh xịch suốt ngày đêm, hai nơi này gọi là vực Nhược Thủy và núi Diêm Hỏa. Vực Nhược Thủy thực ra là chỉ vùng biển dưới lòng đất từ thuở hỗn độn hư vô, rồi tận cùng của nó toàn là dung nham nóng bỏng dị thường, người trần mắt thịt như chúng ta còn chưa kịp đến gần ngọn núi lửa đó thì đã bị dòng nhiệt lưu cao hàng ngàn độ chưng thành sương khí rồi”.
Thắng Hương Lân chăm chú nhìn la bàn trong tay, nghe vậy liền nói: “Tôi phát hiện, bè gỗ hút một số loài thực vật dạng tảo vĩ mô, nhưng đây không phải biển. Ngoài ra, dòng nước luôn chảy xiết không ngớt, sóng lại dữ dội, mặt nước bao la, nên cũng không giống biển hồ hay sông ngầm dưới lòng đất. ”
Nhị Học Sinh không hiểu liền hỏi lại: “Nếu xét theo địa hình quy mô thủy hệ dưới lòng đất, thì sông ngòi, biển hồ đều không phải, cái gì cũng không phải, nên rốt cuộc đây là chỗ nào?”
Thắng Hương Lân nói: “Hình dung một cách đơn giản, cội nguồn của nó rất có khả năng là thủy thể, tức là một vùng chứa nước nguyên thủy. Nó là tiền thân của tất cả thủy hệ ở tầng địa biểu, là vùng giao hòa giữa nước mặn và nước ngọt. Thời tiền sử, biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá mênh mông nước, chính là bắt nguồn từ nơi đây.”
Tư Mã Khôi nói: “Này Nhị Học Sinh! Anh cứ tưởng chú đọc nhiều sách, nên thiên văn địa lý cái gì cũng am hiểu, nhưng thực ra chú biết mỗi cái vỏ ngoài, những kẻ bi quan chỉ nhìn thấy khó khăn trong cơ hội, trong khi những người lạc quan thì lại nhìn thấy cơ hội trong khó khăn. Anh ngờ rằng, chỗ này chẳng phải ‘thủy thể’ quái gì dưới lòng đất, mà nó rộng lớn thế nào đi nữa cũng không thể vô bờ vô bến, chỉ cần bè gỗ trôi theo dòng nước, thì sớm muộn gì cũng đến bờ thôi”.
Mọi người không có niềm tin vào điều này lắm, nhưng giờ chơi vơi trên bè gỗ thì cũng không thể nghĩ ra cách gì, nên chỉ đành mặc cho dòng nước không ngừng đẩy bè về phía trước. Kim đồng hồ khựng lại bất động, nên không rõ cả hội lênh đênh trôi theo dòng nước, giống như biển u minh này, bao ngày bao đêm. Hết lương khô thì họ bắt cá biển ăn bù, hết nước thì hứng nước ngầm nhỏ xuống uống cho đỡ khát. Chiếc bè gỗ rơi xuống vực sâu không đáy như chiếc lá khô giữa cơn lốc tố, mưa to gió lớn do ma sát mây từ mang đến xuất hiện bất thường, trải qua vô số lần suýt chút bị lật, phía trước họ vẫn là bóng tối mênh mang không thấy điểm tận cùng, còn thứ dịch chuyển trong bóng tối giữa cõi hồng hoang tựa hồ chỉ có thời gian và gió.
Tư Mã Khôi bàng hoàng cảm thấy bất lực, lần trước khi bước chân vào biển cát khô nóng mênh mông dưới kính viễn vọng Lopnor, ít ra anh còn cảm thấy bàn chân chạm đất, còn biết rằng chỉ cần kiên trì bước từng bước, thì cuối cùng cũng sẽ phải ra đến rìa sa mạc, nhưng lần này thì quả thật ngay cả Werner Heisenger cũng không dám xác định. Lúc này, bè gỗ vẫn liền ngày nối đêm liên tục trôi về hướng Tây, có trời mới biết họ đã cách biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá bao xa. Nghĩ mãi vẫn không ra, Tự Mã Khôi liền hỏi Thắng Hương Lân: “Có thật nó là thủy thể không hả? Chẳng lẽ không còn khả năng nào khác sao?”
Thắng Hương Lân sớm có dự cảm không lành, cô trầm ngâm giây lát rồi mới nói: “Tôi nghĩ đây có lẽ chính là thủy thể dưới lòng đất, nhưng còn một khả năng xấu hơn, chúng ta đã rơi vào vòng tròn ma quái mà bích họa vu Sở đã mô tả. Nếu quả như là vậy, thì bất kể bè gỗ trôi bao lâu, cuối cùng vẫn sẽ quay lại huyệt động dưới lòng đất Đại Thần Nông Giá, nơi chúng ta rơi xuống lúc đầu. Vòng tròn quái dị này có lẽ chính là vành đai 30° vĩ Bắc”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ năm
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">THỦY THỂ
Tư Mã Khôi thấy chuyện này thật khó tin, anh thắc mắc: “Vành đai 30° vĩ Bắc tồn tại một vòng tròn ma quái, mà lúc chúng ta rơi xuống huyệt động biển Âm Dụ lại ngẫu nhiên lọt đúng vào cái vòng tròn không ngừng tuần hoàn lặp đi lặp lại ấy sao?”
Thắng Hương Lân nói: “Tôi thấy bè gỗ đi mãi vễ hướng tây, còn thời gian và phương hướng gần như mất đi giá trị, nên mới nảy ra suy đoán ấy, nhưng tôi không dám chắc và cũng chưa có bằng chứng cụ thể”.
Nhị Học Sinh đang nằm bẹp trên bè gỗ, nghe Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân bàn bạc, lập tức bò dậy ôm lấy gạc cây, kích động nói: “Khả năng này rất lớn, có thể đáp án của ẩn số 30° vĩ Bắc chính là vòng tròn ma quái đó”.
Khu vực 30° vĩ Bắc và khu vực lệch 5° xung quanh đó, thường xuyên tồn tại hàng loạt hiện tượng kì quái. Nó dường như được thay thế bằng cụm danh từ: khu vực “thần bí”, khu vực “bị mất tích”, đồng thời lưu giữ vô số di tích lịch sử nổi tiếng. Nhiều bậc nhân sĩ thuộc các lĩnh vực như lịch sử, khoa học, địa lý đều cho rằng: phía sau hàng loạt những sự việc quái dị tập trung ở vĩ độ này, có ẩn chứa một mối liên kết nội tại nào đó, nhưng từ trước tới giờ chưa ai tìm thấy đáp án, mà tất cả đều chỉ dừng lại ở giai đoạn phỏng đoán và giả thiết. Có điều, khi mọi người thâm nhập biển Âm Dụ, thì phát hiện thấy vùng thủy thể rộng vô biên và sâu hun hút, trên cao mây sương vần vũ che phủ, “phù sai” tựa hồ lạc trong biển u minh vĩnh viễn không có điểm tận cùng. Bao nhiêu ngày đã trôi qua, nói không chừng bè gỗ đã trôi hàng vạn dặm, nhưng ngay cả một chút dấu hiệu có thể nhìn thấy đất liền cũng vẫn không xuất hiện. Tuy phỏng đoán của Thắng Hương Lân rất táo bạo, nhưng mọi người không thể tìm được sự giải thích hợp lý hơn thế. Dưới vành đai 30° vĩ Bắc, chắc chắn là vật thể hình vòng tròn không đầu không cuối.
Hải ngọng lớ ngớ chưa hiểu, hỏi lại: “Chúng ta rơi vào vòng tròn ma quái dưới vòng đất… thế nghĩa là thế nào?”
Tư Mã Khôi nói: “Nghĩa là chúng ta cần một tấm bản đồ thế giới chứ sao.”
Lúc này, Cao Tư Dương sợ Nhị Học Sinh hướng mọi người đi nhầm đường, cô nói: “Anh cũng chỉ đưa ra phỏng đoán dựa vào hướng trôi của bè gỗ. Trước khi có được bằng chứng xác thực, chớ đưa ra kết luận lung tung”.
Nhị Học Sinh tỏ ra rất tự tin: “Những điều này tuyệt đối không phải phát hiện kinh thiên động địa gì, vì từ cổ chí kim đã xảy ra hàng loạt sự việc li kì xung quanh khu vực 30° vĩ Bắc, mà phần lớn đều rất phức tạp và không thể giải thích. Thêm vào đó, mọi người trên khắp thế giới cứ bàn luận đồn thổi, khiến những sự việc đó như được trùm thêm tấm màn bí ẩn. Thậm chí, con người còn cho rằng: đó là do ma quỷ lộng hành, nhưng giờ chúng ta đích thân rơi vào cảnh ngộ đó, với tiền đề xác định lòng đất tồn tại vòng tròn ma quái, rồi sau đó tiếp tục đi tìm đáp án, thì có lẽ vấn đề sẽ được nhanh chóng hóa giải hơn.”
Thắng Hương Lân ngẫm nghĩ hồi lâu, cũng cảm thấy phán đoán của mình không sai: “Vành đai 30° vĩ Bắc là khu vực tập trung các hoạt động giải phóng địa từ và địa áp một cách liên tục nhất, dưới lòng đất tích tụ lượng lớn mây từ, khiến thủy thể tuần hoàn xuyên suốt, không ngừng lặp đi lặp lại. Ví dụ như khe Hắc Trúc ở nội địa Tứ Xuyên và rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá ở phía tây Hồ Bắc, những khu vực cùng chung vĩ độ này đều xuất hiện mây từ và sương đen. Khu vực nằm trong vành đai 30° vĩ Bắc, quy tụ rất nhiều địa điểm được mệnh danh là tam giác quỷ, cạm bẫy tử thần, hắc động địa cầu. Bây giờ nghĩ lại, chẳng phải tất cả những nơi đó đều đã bị nhiễu loạn bởi một năng lượng bí ẩn và vô hình nào đó hay sao? Mà thực ra, nguồn gốc của nó chính là ‘vòng tròn ma quái’ nằm trong lòng đất sâu.”
Cao Tư Dương nói: “Tình hình chúng ta bây giờ là lương thực thì đã cạn kiệt, không thể bó tay chịu nhốt trên cái bè gỗ và để mặc nó trôi mãi được. Giờ đã xác định hoàn cảnh trước mắt, chúng ta phải suy nghĩ xem, rốt cuộc phải làm thế nào mới thoát khỏi vòng tròn quái dị này”.
Nhị Học Sinh nói với Cao Tư Dương: “Đội trưởng vẫn chưa hiểu ý chúng tôi, cô có biết thế nào là hắc động địa cầu không? Những tàu thuyền, máy bay, con người bị mất tích ở những nơi khác, ngoại trừ những người may mắn sống sót ra, thì phần lớn di hài và tàn tích thực thể sẽ được tìm thấy, cho dù thời điểm tìm thấy đôi khi cách thời điểm xảy ra tai nạn đến mấy chục hoặc thậm chí mấy trăm năm. Thế nhưng, nếu mất tích ở vành đai 30° vĩ Bắc, thì trên thực tế có nghĩa là biến mất hoàn toàn, vĩnh viễn không bao giờ xuất hiện lại nữa, bởi vì vòng tròn ma quái đỏ có thể nuốt chửng tất cả sự vật, nó giống như vòng tròn Ouroboros kinh dị trong truyền thuyết Bắc Âu ấy”.
Thắng Hương Lân nghe đến đây cũng gật gật đầu, miệng lẩm bẩm: “Vòng tròn Ouroboros, đúng là sự so sánh giàu hình tượng nhất về hắc động dưới lòng đất”.
Cao Tư Dương chưa bao giờ nghe đến chuyện này, liền hỏi: “Vòng tròn Ouroboros là gì vậy?”
Tư Mã Khôi nói: “Tôi thấy nghe cũng hơi quen quen, hình như vòng tròn đó vẽ một phù hiệu cổ xưa và thần bí, là hình “rắn ngậm đuôi rắn”, để ám chỉ ý tuần hoàn thì phải. Trước đây, khi còn ở trong thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa, tôi đã từng nhìn thấy bích họa vua Anagaya cưỡi mãng xà vượt đại dương, con bạch xà đó tự mình nuốt đuôi mình. Sau đó, tôi có kể với giáo sư Nông Địa Cầu chuyện này, thì mới biết phù hiệu cổ quái này đã có từ rất lâu đời. Nghe nói, trong truyền thuyết thần thoại Bắc Âu có một con rắn lớn tự mình cắn đuôi mình, nó quanh quẩn ở vùng ven Trái đất, và được gọi là ‘trần thế cự mãng’, hình ảnh mãng xà tượng trưng cho sự luân hồi và hỗn độn của vạn vật, đại diện cho hiện tượng thế giới tự nhiên liên tục luân chuyển để quay về điểm xuất phát ban đầu, nên kết thúc chính là sự bắt đầu, và bắt đầu cũng có nghĩa là sắp kết thúc. Thủy thể khổng lồ nằm ở nơi sâu dưới lòng đất vành đai 30° vĩ Bắc, đúng là rất giống với ‘con rắn ngậm duôi’ ngầm dự liệu về sự không đầu không cuối, chẳng lẽ nguyên hình của ‘vòng tròn Ouroboros’ chính là ở chỗ này?”
Thắng Hương Lân nói: “Ngay từ trước thời Ân Thương, đã xuất hiện phù hiệu rồng cuộn mình thành hình tròn, nó cũng thuộc loại phù hiệu thần bí này. Trước đây chưa ai biết chúng có hàm ý đặc biệt gì, nhưng bây giờ xem ra nó có vẻ liên quan đến ẩn số 30° vĩ Bắc, từ đó cũng có thể chứng minh phán đoán của chúng ta là đúng. Chỉ có điều, mây từ dưới lòng đất dày đặc, mịt mù, hạn chế sự chính xác của các thiết bị đo đạc thám trắc, khiến con người ngày nay cũng không thể biết nhiều thông tin về nó hơn thế hệ mười năm trước là bao”.
Mọi người đi sâu vào phân tích hoàn cảnh khốn cùng mà cả hội phải đối mặt: “Nếu mô tả vùng thủy thể đen ngòm vô biên này là: “rắn ngậm đuôi” dưới khu vực lệch 5° xung quanh vành đai 30° vĩ Bắc, thì bây giờ chúng ta như thể đang rơi vào bụng con quái xà. Lớp vỏ Trái đất chịu tác động của áp lực và vận động dãn nở khuếch trương, nên đã nảy sinh ra những vết nứt hình tròn, hình thành nên hình thái nguyên thủy của đại dương trong đó, và thủy thể cuộn trào tuần hoàn dưới ảnh hưởng của từ trường. Hắc động giống như một con mãng xà khổng lồ, cũng bị che kín bởi màn sương dày do địa trường sinh ra. Phía trên nó nằm ở khu vực mạch núi và đại dương, và khu vực này nối liền với những khu vực kết cấu địa tầng mỏng yếu khác, có lẽ vì thế nên ở đó thường xảy ra những hiện tượng quái dị. Đó là do mây từ ùn lên từ lòng đất, gây ra địa chấn và đất lún, thậm chí ảnh hưởng còn khiến mực nước sông ngòi biển hồ lên xuống bất thường; tàu thuyền hoặc máy bay qua lại nơi đây thường bị mất tích. Phần lớn các vụ tai nạn đều liên quan đến điều này, chính bởi vậy nên số lượng tai nạn đến giờ vẫn không thể thống kê đầy đủ.”
Từ đây có thể suy đoán, rất nhiều địa điểm khác thường như ánh lửa ma trơi ở hồ Phiên Dương, dòng nước cụt ở Trường Giang, khe núi tử thần, sương mù yêu dị ở khe Hắc Trúc hay tam giác quỷ Bermuda v.v… khả năng đều liên quan đến vòng tròn “rắn ngậm đuôi rắn” ẩn chứa trong vành đai vĩ độ này, mà huyệt động dưới rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá lại là một trong những nơi thông với thủy thể. Pho tượng thần thú “tải” chặn ngay cửa động có tác dụng ngăn cản sương từ, nên lúc mọi người rơi xuống đây mới may mắn thoát chết, còn về thứ quỷ quái xuất hiện trong đám sương, cho đến tận giờ vẫn còn là một ẩn số, giờ ngồi nghĩ lại chuyện lúc trước mới thấy sởn gai ốc, cả hội quá liều lĩnh xông vào đây khác gì tự đâm đầu vào cõi chết. Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư
Có lẽ, khoảng cách hắc động bao quanh khu vực 30° vĩ Bắc, ít nhất cũng tầm 30 ngàn đến 40 ngàn cây số, huống hồ cả hội lại đang ngồi trên bè gỗ mất phương hướng, không biết đã trải qua bao ngày đêm, và cũng không ai biết vị trí cụ thể hiện giờ trong vòng tròn ma quái. Đối với hội Tư Mã Khôi mà nói, trên đầu lúc này là biển cây bạt ngàn của rừng nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, hay là mạch núi Hymalaya của tận cùng cao nguyên, thì cũng không còn khác biệt rõ rệt nữa. Chiếc bè gỗ mà mọi người nương tựa, chỉ là một thân cây cổ đại đã khô queo, tuy nó khá to và rắn chắc, chất gỗ cũng tương đối tốt, nhưng chỉ e không trụ nổi trước gió to sóng cả.
Tư Mã Khôi từng nhiều lần lâm vào vòng nguy hiểm, từng thâm nhập kính viễn vọng Lopnor sâu cách bề mặt Trái đất hơn mười ngàn mét, nhưng vẫn không đáng sợ bằng lần rơi vào vòng tròn ma quái này, bởi nó không có điểm tận cùng, cũng không có điểm khởi đầu, dẫu có mọc cánh cũng không bay đi đâu được.
Cao Tư Dương hiểu, hoàn cảnh hiện tại vô cùng hung hiểm, nhưng cô lại cho rằng: dù hắc động có là vòng tròn ma quỷ không đầu không cuối, thì nó vẫn phải có đường biên nhất định, chúng ta có thể thử tiếp cận vách động ở hai bên, chắc chắn nó phải có khe nứt nào đó; mà chỉ cần tìm thấy một khe hở đủ cho người chui lọt, là chúng ta sẽ thoát khỏi vòng tròn ma quái.
Thắng Hương Lân cũng từng nghĩ đến con đường này, nhưng lại thấy không khả thi, vì cho dù bạn có thể thể đến gần đường biên của thủy thể, thì vị trí hiện tại vẫn nằm ở tầng đáy của lớp vỏ, nên chưa hẳn đã tìm thấy đường sống, không những thế, ở nơi sâu hút như vậy sẽ không có ôxy để thở, thì đi chưa được bao xa đã ngạt thở mà chết.
Tư Mã Khôi thấy bè gỗ vẫn trôi trên biển, nhấp nhô theo luồng sóng cuồn cuộn, thế nước phía trước càng lúc càng xiết. Anh nói với những người còn lại: “Có câu ‘Nhân định thắng thiên’, nhiều người cho rằng, câu này ám chỉ con người có thể chiến thắng thế giới tự nhiên, riêng tôi thấy nếu hiểu thế thì ôm đồm quá, mà thực ra câu này nên nói là ‘Nhân định sẽ thắng thiên’, ‘thiên’ ở đây chỉ số phận hoặc khó khăn, chỉ khi con người bình tĩnh, ổn định, đoàn kết, quyết tâm, thì mới có cơ hội khắc phục khó khăn. Đương nhiên, không phải người nào cũng có thể xoay chuyển được vận mệnh, thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn. Thế nhưng nếu không làm vậy, thì nửa cơ hội cũng không tồn tại. Đội thám hiệm chúng ta giờ đang bị nhốt trên bè gỗ, không nghĩ ra cách gì khả dĩ, nhưng chúng ta tuyệt đối không được từ bỏ hi vọng, ngồi đây chờ chết. Việc cần làm trước mắt là: gắng hết sức để sinh tồn, sống thêm một ngày là thêm một ngày hi vọng. Nếu số mệnh của chúng ta quả thực đã bị nguyền rủa, thì chỉ còn cách tiếp tục kiên trì lặng lẽ tiến về bóng tối phía trước, đó mới là phương thức duy nhất cứu rỗi vận mệnh bi kịch của chính mình.”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư
Mọi người cũng chung suy nghĩ như vậy, vì rốt cuộc ngay từ thời Thần Nông gá gỗ làm tổ, người cổ đại đã mang cỗ di hài dưới lòng đất lên đây, điều đó cũng cho thấy trong hắc động phía dưới vành đai 30° vĩ Bắc, không hẳn là chốn hồng hoang mênh mang vô tận, chỉ có điều, rất nhiều bí mật đã bị nó nuốt chửng, nên điều đội thám hiểm đang cần bây giờ là một cơ hội, gần như là điều thần kì xảy ra. Lúc này, trong lòng mọi người đã le lói tia hi vọng, đồng thời tâm lý bi quan tuyệt vọng cũng dần vợi bớt. Cả hội lấy lại tinh thần, họ kiểm đếm số lượng đèn cácbua còn sót lại. Bè gỗ trôi trên dòng nước dưới lòng đất chủ yếu phải dựa vào đèn cácbua chiếu sáng, nếu không có nguồn sáng, ngọn lửa của sinh mệnh sẽ hoàn toàn tắt lịm, bởi vậy đèn cácbua và đuốc là hai thứ vô cùng quý giá.
Lúc này, trên cao có lằn sét sượt qua, tựa hồ sấm dội xuất hiện trong đám mây điện từ; khí áp xuống thấp đến mức khiến người ta cảm thấy khó thở; sóng cũng vỗ dữ dội hơn, bè gỗ chòng chành lắc lư như muốn lật. Mọi người sợ sóng to gió lớn sẽ đánh nát chiếc bè, sau khi chỉnh đốn giây lát, cả hội lại vội vàng dùng dây thừng cố định bè gỗ lại.
Tuy Nhị Học Sinh không chịu được sự giày vò do chiếc bè gỗ liên tục lắc lư điên đảo, anh chàng nôn ồng ộc, người sọp đi trông thấy, nhưng cuối cùng thấy cả hội dường như phát hiện lời giải của ẩn số vành đai 30
0
vĩ Bắc, thì Nhị Học Sinh lại hưng phấn, lớn giọng khẩu hiệu “chiến thiên đấu hải” rồi giúp mọi người lấy túi chống thấm bọc lại những vật dễ bị ngấm nước.
Hải ngọng cho rằng tình hình của Nhị Học Sinh không được lạc quan lắm, anh chép miệng than: “Học người ta cái gì hay ho không học, lại đi học cái bài ‘cáo bắt trộm gà’, bám đít thằng Khôi, ngoài tinh thần chủ nghĩa lạc quan mù quáng ra, thì còn thứ gì ra hồn nữa hả? Anh thấy chú mày sắp hỏng hẳn rồi, anh đây dày công giấu được một lon thịt bò hộp, định để dành đến lúc bí quá mới mang ra dùng, thôi thì bây giờ biếu không cho chú mày vậy” – nói đoạn anh thọc tay vào ba lô bới tung cả lên.
Nhị Học Sinh thấy Hải ngọng bới tung ba lô lên, bên trong lộ ra một chiếc ống nhòm quân dụng Falcon độ phân giải 8×40, thì mắt anh chàng sáng rực lên, anh chàng liền mượn Hải ngọng rồi hí ngoáy thao tác, nhân lúc ánh chớp lập lòe phía đằng xa, Nhị Học Sinh giơ ống nhòm lên mắt, đột nhiên qua ống nhòm, anh ta quan sát thấy giữa đại dương mênh mông có một chấm đen nổi lềnh bềnh. Nhị Học Sinh sửng sốt thốt lên: “Đằng kia hình như có con cá to lắm!”
Tư Mã Khôi cướp lấy ống nhòm nhìn một hồi, nét mặt anh đột nhiên căng ra: “Đó là một cỗ tàu ngầm”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ sáu
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Z-615
Lớp tàu ngầm Project 615 của Soviet (NATO gọi là Quebec)
Trước đây, Tư Mã Khôi đã biết trong kính viễn vọng Lopnor có chiếc tàu ngầm bị mất tích của Liên Xô, kí hiệu là Z-615, thuộc chi đội tàu ngầm độc lập thứ 40 của lực lượng vũ trang hải quân Liên Xô. Chiếc tàu ngầm này mang theo hai quả tên lửa ra khơi, sau đó mất tích và trở thành con tàu ma xuất quỷ nhập thần, nơi nó gặp nạn cũng trong phạm vi hải vực đi qua vành đai 30° vĩ Bắc. Thế giới bên ngoài thỉnh thoảng lại bắt được sóng ngắn của con tàu này phát ra, nhưng rất khó xác định chính xác vị trí cụ thể. Chiếc tàu ngầm động cơ Diesel quy chuẩn ấy, dường như liên tục di chuyển, chặng đường nó đã đi vượt xa mức độ duy trì liên tục trên biển 11 ngàn hải lý.
Tư Mã Khôi hơi bất ngờ, anh đưa ống nhòm cho những thành viên còn lại quan sát, sau khi nhận định rõ tình hình, mọi người thì thầm bàn luận. Cả hội suy đoán: có lẽ chiếc tàu ngầm vẫn chưa vào đến vực sâu giữa tâm Trái đất, thì gặp sóng thần hoặc thềm sói mòn, nên kết quả bị xoáy vào vòng tròn ma quái bên dưới 30° vĩ Bắc, giống như tình cảnh của chiếc bè gỗ đang chở mọi người lúc này. Chúng đều di chuyển theo vòng tuần hoàn trong thủy thể dưới lòng đất, suốt từ năm 1953 đến nay, hai mươi mấy năm ròng rã không nhìn thấy ánh mặt trời. Có điều, vòng tròn ma quái tựa con rắn tự cắn đuôi mình, lại nằm ngay trong tầng từ trường phía dưới cùng của lớp vỏ Trái đất, sóng ngắn hoàn toàn có thể truyền dẫn ra ngoài thông qua đám sương nhiễm từ. Đội thám hiểm chỉ có thể giải thích được như vậy về những tín hiệu cổ quái, mà cả hội đã nhận được khi còn ở dưới sa mạc Lopnor.
Nhưng hắc động dưới lòng đất sóng vỗ dữ dội, lại sâu hun hút, không khác gì đại dương mênh mông. Mọi người ngồi trên bè gỗ, mặc cho sóng nước dập dềnh cuốn trôi, bởi vậy cơ hội gặp được chiếc tàu ngầm là vô cùng mong manh. Thế mà, giữa lúc này, nó bỗng dưng lại xuất hiện ngay trước mặt, như thể tự rước xác đến, khiến mọi người không khỏi cảm thấy nghi ngờ.
Cao Tư Dương dụi mắt, trách móc Tư Mã Khôi: “Anh làm công tác bảo mật tốt quá nhỉ? Sao trước đây không kể cho bọn tôi biết dưới lòng đất còn có chiếc tàu ngầm của Liên Xô?”
Tư Mã Khôi sợ nhất là phải đấu lý với Cao Tư Dương, anh liền viện cớ thoái thác: “Làm sao mà tôi biết nó bỗng dưng lại mọc ra chỗ đó, mẹ tiên nhân, đúng là gặp ma giữa ban ngày”.
Hải ngọng cũng muốn ra đó để xem xét tình hình cho ba năm rõ mười, liền đề nghị: “Chắc trên tàu có đồ hộp, vũ khí và pin đèn chưa biết chừng. Khó khăn lắm chúng ta mới tóm được cọng cỏ cứu mạng, nên tuyệt đối không được bỏ qua nó”.
Tư Mã Khôi nói: “Chiếc tàu ngầm này rơi xuống hắc động hai mươi mấy năm nay, chưa biết đã bị thủy thể nuốt chửng hẳn chưa. Tôi thấy bây giờ nó chỉ là con tàu ma hữu danh vô thực mà thôi. Người bên trong chắc đã ngỏm củ tỏi từ tám đời nào rồi, chắc gì đã tìm thấy lương thực và pin. Có điều, trong vòng tròn ma quái dưới lòng đất, khả năng còn ẩn chứa rất nhiều bí mật mà khó có thể tưởng tượng. Chúng ta không được bỏ qua bất kì manh mối nào”.
Thắng Hương Lân nhắc nhở Tư Mã Khôi: “Thủy thể dưới lòng đất rộng mênh mông, bè gỗ trôi không biết bao nhiêu ngày đêm trong cõi biển u minh này, bây giờ, chúng ta chỉ có thể suy đoán chỗ này đại khái là một địa điểm nào đó nằm trên vĩ tuyến 30°, còn kinh tuyến thì không cách nào xác định được. Trong khi đó, bên trong tàu ngầm chắc chắn phải lắp đặt la bàn từ trường hồi chuyển, nếu có thể xác nhận tham số, thì chí ít chúng ta cũng có thể biết vị trí cụ thể của chiếc bè gỗ. Tôi thấy mạo hiểm lần này là rất đáng. Tuy trong con tàu có thể không còn thủy thủ nào sống sót, nhưng thông tin sóng ngắn mà nó liên tục phát ra lại rất bất thường. Chúng ta muốn tiếp cận nó, nhất định phải thật đề cao cảnh giác mới được.”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Đương nhiên, Tư Mã Khôi cũng biết, đoạn sóng ngắn tín hiệu Morse đó rất có thể là do các thủy thủ đã phát đi trước khi con tàu lâm nạn, và nó đã liên tục phát đi trong suốt hai mươi năm, thông qua máy điện đàm không dây công suất thấp và truyền dẫn ra ngoài. Những nạn nhân đang đối mặt với cái chết ấy, muốn cảnh báo đội cứu hộ không nên tiếp cận con tàu. Xem ra, có thể lúc đó trên tàu đã xảy ra việc gì đó vô cùng đáng sợ, nhưng nếu không vào tận trong khoang để chứng kiến tận mắt, thì e rằng họ sẽ vĩnh viễn không thể biết nguyên do thực sự là gì. Nghĩ vậy, anh bảo mọi người phải vô cùng thận trọng, chuyến đi này tuyệt đối không phải buổi diễn tập. Nói xong, anh đưa báng súng thò xuống nước làm mái chèo, gắng sức lái bè về phía phát hiện ra tàu ngầm.
Bè gỗ trôi trong bóng tối không biết bao lâu, đột nhiên có một luồng khí chuyển động thổi ù ù lướt Trong chớp mắt, gió nổi lên như nước triều dâng, kéo con sóng dâng cao như ngọn núi, bè gỗ bị cuốn tung lên tận ngọn rồi lập tức rơi xuống lòng vực sâu, sinh tử chỉ cách nhau khoảng cách mong manh như sợi chỉ, vì tất cả có thể bị dòng khí nuốt chửng bất cứ lúc nào. Mưa lớn quất phần phật, quần áo mọi người ướt sũng. Khung cảnh trước mắt phút chốc bỗng chìm vào bóng tối vô biên.
Cao Tư Dương lấy vải mưa che đèn cácbua, nên luồng sáng mới không bị tắt, rồi đợi khi sóng yên bể lặng đôi chút, cô mới xách đèn ra soi để đếm số người. Những thành viên còn lại thấy lòng đất tối như đáy nồi, chìa bàn tay ra không nhìn thấy năm ngón, nên ai nấy đều bật hết cả đèn quặng lên để phân biệt phương hướng.
Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh say sóng, đã nôn hết mật xanh mật vàng, thân hình run rẩy như chiếc lá sắp lìa cành, răng va vào nhau nghe lập cập, liền nói: “Hải ngọng là tay bơi lội vô đối đấy, người ta còn tặng cho mỹ danh ‘mò trăng đáy bể’ nữa cơ, lâu lâu cậu ta lại làm cú nhảy vực, một phát là đã xuống sâu mấy nghìn mét, rồi ngồi đó thong dong ngắm cá chép hóa rồng giữa sóng lớn. Có cậu ta ở bên cạnh, chú mày cứ việc yên tâm khỏi lo chết đuối”.
Hải ngọng ngồi phía sau, chối đây đẩy: “Ớ! Đừng trông đợi gì ở anh. Người chứ có phải rái cá đâu mà dám ngồi thong dong ngắm cá chép hóa rồng, cùng lắm cũng chỉ biết vài chiêu vặt vãnh như vịt cạn thôi, chẳng tài cán gì hơn mọi người đâu”.
Nhị Học Sinh xua xua tay, ý muốn nói: không phải cậu ta sợ rơi xuống nước, mà chỉ là đột nhiên nhớ lại một chuyện rất khủng khiếp. Năm đó, tàu cá của ngư dân quần đảo Chu Sơn ra biển tác nghiệp, họ thường nhìn thấy một cái nắp hình tròn bồng bềnh trên biển, đáy gầm khe có phao gỗ, trông đen sì sì, ruột rỗng, không biết nổi lềnh bềnh trên mặt biển đã bao năm. Trước đó, có người định vớt nó lên, nhưng kéo mãi nó vẫn không động đậy, những người bơi lội giỏi nhất nhảy xuống đó thử mò xem, thì phát hiện bên dưới nắp sắt là ống cao su rất to, nhưng làm thế nào cũng không kéo nó lên được, và không rõ phía dưới còn nối liền với vật gì, người ta rộ cả lên vì suy đoán. Theo lời những lão ngư dân, vật này tồn tại ở đây từ thời trước giải phóng, có lẽ là kho báu mà bọn cướp biển chôn giấu, rồi chúng cắm phao tiêu trên mặt nước để xác định vị trí, đề phòng lúc quay lại vớt lên không tìm thấy.
Sau này, các ban ngành địa phương hay tin, họ đã nhúng tay vào việc, và thật không ngờ “cái nắp sắt” hoàn toàn là công trình chế tạo quân sự, bên trong còn giấu cáp quang thông tin, chắc chắn không phải bọn cướp biển để lại. Việc này thu hút sự chú ý của tất cả các đơn vị liên quan, họ cất công mời sở trục vớt tàu thuyền đến, huy động nhiều tàu cá tham gia trục vớt, nhưng dù thế nào cũng không thể dịch chuyển được vật khổng lồ dưới lòng biển sâu.
Hải quân trinh sát và phát hiện: đó là tàu ngầm của Nhật thời kì hậu chiến chiến tranh Thái Bình Dương. Có lẽ nó đã va đập phải quần thể san hô dưới đáy biển, máy móc lại đột nhiên hỏng hóc, nên khiến nó không thể nổi lên mặt nước. Thế là, các thủy thủ đành thả phao tiêu liên lạc, vì phía dưới nắp sắt có một cái ống thông thẳng vào trong tàu, vừa có thể phát tín hiệu cấp cứu cho thế giới bên ngoài, vừa giúp cung cấp dưỡng khí. Thế nhưng cỗ tàu ngầm này lại gặp vận rủi, phao tiêu liên lạc bị tắc nghẽn, đồng thời không thể kịp thời xử lý sự cố động cơ diesel, nên dẫn đến dưỡng khí trong khoang bị tiêu hao nhanh chóng, khí áp trong lòng tàu mất cân bằng, các cửa khoang chịu ảnh hưởng của áp lực đẩy vào từ phía bên ngoài nên không thể mở cửa thoát hiểm từ trong ra được, và kết quả là hơn 60 viên thủy thủy quân Nhật đều bị chôn sống dưới đáy biển, họ chết vì ngạt thở. Do điều kiện kỹ thuật, nên đến tận ngày nay người ta vẫn chưa thể trục vớt con tàu. Nhị Học Sinh vì đã từng nghe bạn bè làm trong sở trục vớt tàu thuyền mô tả cả quá trình một cách sinh động, mà đương nhiên, trong đó không thể thiếu những chi tiết nhiễm màu sắc phóng đại, như tình hình bên trong con tàu và quá trình xảy ra tai nạn, tuy những chuyện đó chỉ là tin vỉa hè, nhưng tất cả đều hằn khắc thành ám ảnh trong đầu Nhị Học Sinh, nên cậu ta luôn cảm thấy tàu ngầm là vật báo hiệu điềm gở, cái vỏ sắt khổng lồ đó chẳng khác gì chiếc quan tài, và chỉ cần sai sót một chi tiết vô cùng nhỏ bé xảy ra, thì sẽ dẫn đến những biến cố nghiêm trọng. Không những thế, cái chết còn đến rất thảm thương, trước khi chết họ sẽ phải chịu đựng nỗi tuyệt vọng và sự hoảng sợ đến cùng cực, và rất có thể họ sẽ vĩnh viễn nằm lại trong khoang tàu dưới đáy biển tăm tối. Thế mà bây giờ cả hội lại liều lĩnh xông vào trong đó, mà không xảy ra điều quái gở thì mới lạ. Không biết họ sẽ tìm thấy gì trong con tàu ma đã mất tích hơn hai mươi năm nằm giữa vòng tròn ma quái dưới lòng đất? Và chuyện gì đã xảy ra với con tàu hơn hai mươi năm về trước? Cứ nghĩ đến những điều này, cậu ta lại lạnh cả người.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi gạt ngay: “Thời xưa, trình độ văn hóa cỡ chú mày được coi là tú tài đấy, tước vị trên bậc tú tài đều được coi là quan lớn, quan lớn lên công đường không phải quỳ, mắc tội không bị phạt, ngay cả thần quỷ cũng còn nể sợ vài phần nữa là, việc gì chú phải tự mình nhát ma minh thế? Bớt thỏ đế đi cho anh nhờ!”
Hải ngọng cũng chế giễu: “Cái gì mà lạnh người, tớ thấy cậu ta có mà đông cứng từ đời thuở nào rồi ấy chứ, đút cho miếng canh xem cậu ta còn thấy lạnh nữa không?”
Cao Tư Dường sờ trán Nhị Học Sinh, thấy trán cậu ta nóng như phải bỏng, lúc này mưa to như trút, trên bè gỗ lại không có gì che chắn, trước sau, trái phải, hễ thò chân xuống là thấy nước, cô liền bảo Tư Mã Khôi: “Tạm thời cứ trốn vào trong tàu ngầm chốc lát cũng được, biết đâu lại tìm thấy ít thuốc men thì sao”.
Lúc này, chiếc bè gỗ bị sóng đẩy phăng về phía trước, nhờ ánh sáng ngoằn ngoèo của những lằn sét trong mây mù, nên mọi người có thể thấy khoảng cách giữa chiếc bè và vật thể đen sì, khổng lồ, giống như tàu ngầm Z-615 càng lúc càng gần, rồi cảm giác dồn nén theo đó càng lúc càng tăng. Khi đến gần, mọi người lại phát hiện con tàu đã rách nát không còn nguyên vẹn nữa, vỏ ngoài han gỉ loang lổ thành từng vết rạn nứt.
Tư Mã Khôi cũng thầm lấy làm lạ, vì nhìn thân tàu có vài lỗ thủng bị nước tràn vào, có lẽ lúc nó mới rơi xuống đây hãy còn nguyên vẹn, nhưng do nước biển ăn mòn nhiều năm, nên bây giờ mới hư hại nghiêm trọng thế này; nhưng sao nó không bị chìm xuống nước mà vẫn nổi như vậy được nhỉ? Tuy nhiên, Tư Mã Khôi không hiểu nguyên lý cấu tạo của tàu ngầm lắm, nên ý nghĩ đỏ chỉ thoáng qua trong đầu giây lát, rồi anh không để ý đến nó nữa. Anh đốt một cây nến tín hiệu chiếu sáng khu vực mặt nước xung quanh, quăng dây thừng gắn móc câu lên cầu thang nối lên tàu.
Mọi người buộc cố định chiếc bè gỗ thật chặt, sau đó đội mưa chạy lên cầu thang, loạng choạng dò dẫm đến trước nắp khoang chính. Đến gần, cả hội mới phát hiện ống nhòm ngầm ban đêm và đèn halogen cường quang 42cm đều bị hỏng nặng, còn nắp khoang đóng chặt từ bên trong, hoàn toàn không có cách gì mở ra được. Cả hội đành dự tính phải chui qua một khe nứt khá lớn để vào trong. Họ ghé mắt nhìn, thấy các khoang bên trong cấu tạo theo hình trụ, vừa thấp vừa hẹp, không khí ẩm ướt, nước ngấm khắp nơi, khiến hơi thở mọi người trở nên gấp gáp khác thường. Thông qua số hiệu khắc trên thân thuyền, cả hội có thể xác định nó chính là Z-615 – con tàu ma một đi không trở lại hai mươi năm về trước.
Nhị Học Sinh nói với hội Tư Mã Khôi: “Chỗ này giống như ‘buồng điều áp’, phân bố hai bên mạn tàu, vết nứt kéo dài từ ngoài vỏ vào sâu tít bên trong, xem ra Z-615 từng bị va chạm rất mạnh, không biết thứ gì đã đâm nó ra nông nỗi này?”
Tư Mã Khôi thấy, chỉ cần đi xuyên qua buồng điều áp là có thể bò vào lòng tàu ngầm, bên trong tối thui và im lìm. Tuy đến giờ chiếc tàu ngầm Z-615 chỉ còn là cái xác sót lại, nhưng anh vẫn không dám coi thường. Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân lắp phim vào máy ảnh, nếu phát hiện ra điều gì quan trọng, thì có thể kịp thời ghi hình lại, rồi anh phân công Hải ngọng kiểm tra lại súng ống đạn dược một lượt. Thân súng M-1887 đã được cải tiến, trông ngắn hơn cả súng lục, phù hợp sử dụng trong môi trường huyệt động, khoang tàu thuyền hay vùng địa hình chật chội, ngoài ra loại đạn mà đội thám hiểm Taninth lắp bên trong, lại toàn loại đạn vỏ kim loại đặc chế, có tác dụng chống thấm rất tốt.
Mọi người chuẩn bị giây lát, rồi lần lượt nối nhau kéo qua khe nứt giữa hai tầng vỏ, chui vào trong chiếc tàu ngầm nằm nghiêng nghiêng một phía, xung quanh không một bóng người, cũng không thấy một thi thể nào, không gian chật chội tràn ngập bầu khí âm u và dồn nén. Tư Mã Khôi quan sát địa hình, thấy có vẻ cả hội đang đứng bên trong một đường hầm chính, ngẩng đầu lên là chạm phải hệ thống đường ống chi chít, trong đó , một đầu có cánh cửa đóng chặt, còn tận cùng đầu bên kia có một tầng chứa nước ngọt và khoang nhiên liệu, cỗ tàu ngầm này tuy dài gần trăm mét, nhìn từ ngoài vào trông vô cùng khổng lồ, nhưng ngoại trừ hai tầng vách vỏ tàu ra, thì bên trong ít nhất cũng phải chia thành ba tầng – tầng trên, tầng giữa và tầng dưới. Bởi vậy, kết cấu bên trong con tàu rất chật chội và phức tạp. Hội Tư Mã Khôi lần đầu bước vào đây nên không khỏi cảm thấy hoa mắt chóng mặt, mọi người đành chia nhóm ra để tiến hành lục soát.
Trong một khoang khép kín, Tư Mã Khôi lật mấy bộ đồng phục dự bị của các thuyền viên, thấy trên cầu vai có biểu tượng cá voi, có lẽ đây là đồng phục của nhân viên SONAR. Thời kì chiến tranh lạnh, đồ dùng của quân đội Liên Xô nhất loạt đều được sản xuất theo quy chuẩn dành cho chiến tranh hạt nhân, nên độ bền và chắc, chắc chắn đã vượt xa mức bình thường, Nhị Học Sinh mà mặc nó vào người thì chắc là sẽ giúp cậu ta che chắn được luồng khí âm lạnh dưới lòng đất.
Suốt mấy năm ở lâm trường, Nhị Học Sinh không hề có lấy một bộ quần áo nào không có mụn vá, nay thấy bộ đồng phục vẫn còn nguyên lành, nên cậu ta chẳng chần chừ mà mặc luôn vào người, rồi lúc thì sờ huy hiệu cá voi trên cánh tay, lúc lại đút tay vào túi áo, ngắm chỗ nọ nghía chỗ kia, thấy chỗ nào cũng mới lạ. Thế nhưng, không hiểu vì lẽ gì mà trong lòng cậu ta luôn dấy lên một cảm giác rất khác thường, dường như cỗ tàu ngầm bí hiểm này không hề có thực như những gì cả hội đang tiếp xúc.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ bảy
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">NỖI TUYỆT VỌNG SÂU HƠN BIỂN CẢ
Tư Mã Khôi hiểu cảm giác của Nhị Học Sinh, đó hoàn toàn không phải là ảo giác tâm lý, do bầu không khí quánh đặc trên tàu và bóng đổ quanh ánh đèn chiếu tạo thành, mà sau khi mọi người lạc vào vòng tròn ma quái dưới lòng đất, rồi không biết bao nhiêu ngày đêm ngồi trên bè gỗ nổi lênh đênh giữa biển cả, nên ai nấy đều khó tránh khỏi cảm giác đầu nặng chân nhẹ, thậm chí còn quên cả cảm giác giẫm chân xuống đất là như thế nào. Trong khi đó, cỗ tàu ngầm Z-615 có thể tích khá lớn, nó nổi trên biển thì sẽ đằm hơn bè gỗ rất nhiều, nên khi mới bước chân vào, mọi người sẽ nhất thời khó thích ứng. Thế nhưng đến tận giờ cả hội cũng lên tàu nhiều giờ rồi, mà cảm giác bất an đó vẫn còn nguyên, muốn xua cũng không xua được.
Tư Mã Khôi phát hiện, sau khi bị hư hỏng, cỗ tàu ngầm không hề bị chìm, bất kể sóng xô dữ dội thể nào lòng tàu vẫn nhất nhất chúi về phía trước, góc độ không hề thay đổi, điều đó khiến mọi người phải bám vào vách tàu để giữ vững trọng tâm khi muốn di chuyển trong hành lang, hoặc trong khoang tàu. Điều đó cũng chứng tỏ, con tàu nổi trên mặt nước theo một trạng thái cố định và rất bất thường. Thủy thể dưới lòng đất sâu không thể lường, vậy mà con tàu Z-615 tại sao vẫn có thể đứng yên và nổi nghiêng trên mặt biển?
Tư Mã Khôi không nghĩ ra đáp án nào, chỉ cảm thấy con tàu mất tích hơn 20 năm này nhất định phải ẩn giấu rất nhiều ẩn số, và vị trí mà mọi người đang đứng bây giờ có lẽ chỉ là một góc của tảng băng trôi chứa đầy bí ẩn. Nghĩ vậy, anh lại cùng Nhị Học Sinh tiếp tục lục soát, phát hiện trong khoang tàu có vài hộp sắt hình dẹt, bên trong đựng đèn pin và một số dụng cụ khác, ngoài ra còn có hai hộp nến dưỡng khí, chỉ cần châm nó lên là sẽ được cung cấp dưỡng khí trong một thời gian ngắn, có lẽ nó được dùng cho khi phải sửa chữa trong môi trường bóng tối, khép kín và bị mất điện. Tư Mã Khôi nhét đèn pin và nến dưỡng khí vào ba lô của Nhị Học Sinh, còn những thứ phát hiện khác gần như đều vô dụng.
Lúc này, hội ba người Hải ngọng lục soát ở khu vực gần đó cũng quay trở về địa điểm hẹn ban đầu. Họ không tìm thấy pin đèn, dược phẩm, hay vũ khí như lúc trước mong đợi, nên đành tiếp tục do thám khu vực sâu hơn. Cả hội đi xuyên qua hành lang âm u, bên trong chính là khoang chính và phòng thông tin SONAR
(1)
, trong đó chất đầy các loại bản đồ biển và bản đồ máy móc trong thuyền, ngoài ra còn có một cuốn sổ mật mã thiết lập liên lạc giữa con tàu và máy sóng dài ở trụ sở, Tư Mã Khôi tiện tay nhặt mấy tấm bản đồ, nhìn hồi lâu vẫn không phát hiện ra điều gì.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1]<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> SONAR: là từ viết tắt của sound navigation and ranging, là một kỹ thuật sử dụng sóng âm hoặc sóng siêu âm (thường ở dưới nước) để di chuyển, liên lạc hoặc phát hiện tàu bè khác.
Sau khi lục soát tổng thể kiểu cuốn chiếu, ngoài chiếc máy phát sóng ngắn, công suất thấp, vẫn đang không ngừng phát ra tín hiệu liên lạc “không được đến gần” ra, thì manh mối duy nhất mang ý nghĩa thực tế trên cả con tàu chính là cuốn nhật ký hành trình của tàu Z-615, trong đó ghi chép rất chi tiết quá trình ra khơi của con tàu. Tuy Thắng Hương Lân đọc được tiếng Nga, nhưng phần lớn nội dung của cuốn nhật trình đều sử dụng thuật ngữ quân sự, nên cô phải rất vất vả mới dịch ra được.
Mọi người đều sốt ruột muốn biết rõ chân tướng vì sao tàu Z-615 mất tích, và tung tích của các thủy thủ bao gồm cả thuyền trưởng hiện giờ ra sao, bởi vì họ cùng gặp cảnh ngộ giống như đội thám hiểm lúc này.
Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân đừng cuống, cứ cẩn thận đọc từng chữ, từng đoạn cho chính xác, dù sao bên ngoài vẫn đang mưa lớn, rời khỏi đây cũng không có chỗ nào khác dung thân.
Mọi người thấy tình hình trước mắt, liền cậy nắp lon đồ hộp cuối cùng, rồi cùng nhau ăn lót dạ. Bụng có tí lương thực, lòng cũng đỡ hoang mang hơn. Hải ngọng chớp cơ hội liền tự khen trước mặt mọi người: “Tôi bình sinh coi vật chất như cỏ rác, coi trọng tinh thần như ngàn vàng, cho dù chỉ còn một miếng cuối cùng, thà mình chết đói, tôi cũng sẵn sàng nhường nhịn miếng ăn cho bạn bè. Tôi thấy lần này chúng ta tìm thấy tàu ngầm Z-615 dưới lòng đất, chắc chắn là một phát hiện vô cùng trọng đại, đợi sau khi trở về viết báo cáo cho quân ủy trung ương và Mao chủ tịch, các cậu nhớ phải nói thêm cho tôi vài câu tốt tốt tí nhé. Thế thì Hải ngọng tôi ấy à, chắc chắn quan cao không thể không làm, ngựa tốt không thể không cưỡi, một bước ra ngoài sẽ có xe ô tô đưa đón, sau đít còn có hai cảnh vệ tò tò bám theo; khi đó Nhân dân nhật báo, Quang Minh nhật báo, sẽ thay nhau đăng hình lên trang bìa, còn phải làm báo cáo trong hội nghị hàng chục ngàn người nữa chứ. Các cậu thử nghĩ xem, cảnh tượng đó khiến mình phấn khích biết mấy?”
Cao Tư Dương lườm anh chàng một cái, nói: “Bây giờ rơi vào hoàn cảnh nào rồi mà còn vịt giời nhập tràng vẫn mơ tưởng đến chuyện lập công lĩnh thưởng hả?”
Hải ngọng đang định chu mồm phản bác, thì thấy Tư Mã Khôi xua tay ra hiệu im lặng, để Thắng Hương Lân dịch nội dung ghi chép trong cuốn nhật trình của con tàu Z-615.
Thắng Hương Lân xem qua nội dung ghi chép trong cuốn sổ lịch trình hàng hải, cô phát hiện, trong đó có phần nội dung mà thuyền trưởng đã ghi lại vào những thời khắc cuối cùng, thuyền trưởng hình dung con tàu Z-615 là cỗ tàu ngẫm chưa ra khơi mà đã chịu nhiều lời nguyền tà ác.
Tư Mã Khôi và Hải ngọng từng có kinh nghiệm tác chiến trong quân ngũ. Hai người cho rằng, lẽ ra thuyền trường phải đối xử với con tàu của mình giống như người đồng chí cùng vào sinh ra tử, và phải nảy sinh tình cảm sâu đậm không thể nào chia lìa mới phải. Nghe nói, nhiều thuyền trưởng khi phải đối mặt với tình huống hiểm nguy bất ngờ xảy ra, và không còn cách cứu vãn, họ đã ra lệnh cho toàn bộ thuyền viên bỏ tàu để thoát thân, còn một mình thì họ chọn cách chìm cùng con tàu, mang theo niềm hãnh diện và vinh quang xuống ngủ mãi mãi dưới lòng đại dương u tối. Thế nhưng vị thuyền trưởng của con tàu Z-615 thì dường như rất có thành kiến với con tàu của mình, thậm chí cả ngay khi bắt đầu chấp hành nhiệm vu đưa nó ra biển khơi, ông đã linh cảm thấy con tàu này cực kì không may mắn. Nói như vậy dường như hơi quá lời, bởi rốt cuộc kết quả sau này Z-615 bị rơi vào hắc động dưới vành đai 30° vĩ Bắc, là sự việc không ai có thể tiên đoán được trước khi nó thực sự xảy ra.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Thắng Hương Lân nói, căn cứ theo mô tả của thuyền trưởng trong cuốn nhật trình hàng hải, thì quả thực có hàng loạt sự kiện quái lạ xảy ra với tàu ngầm Z-615, hết bất hạnh này nối tiếp bất hạnh khác bám đuổi theo nó. Kỹ thuật tàu ngầm của Liên Xô thời kì chiến tranh lạnh đã vô cùng tiên tiến, bất luận kết cấu thiết kế, hay tính năng bảo vệ đều dẫn đầu, đã nhiều lần lập kỷ lục về tốc độ lặn và độ lặn sâu lặn. Đặc biệt là động cơ diesel cấp Z rất quy chuẩn, nó sử dụng kết cấu lòng tàu hai vỏ, nên khả năng chịu công phá và tính năng sinh tồn rất mạnh mẽ, trọng lượng nước rẽ dưới ngầm là 2475 tấn và trên mặt là 1952 tấn. Nó có chiều dài 91 mét, rộng 7,5 mét, trong trạng thái tự cung tự cấp hoàn toàn, nó có thể duy trì liên tiếp trong 53 ngày, bởi vậy nó được mệnh danh là con quái vật khổng lồ trên biển. Trong khi đó, con tàu Z-615 này lại có số hiệu chiến thuật là 107, số hiệu đó đồng thời còn là số hiệu của đá huyền vũ, và vì loại hình tàu ngầm này không được sản xuất rộng rãi, nên chỉ có một chiếc Z-615 độc nhất vô nhị mà thôi, các thuyền viên quen gọi nó là “615”.
Thuyền trưởng nói, 615 dường như bị nguyền rủa, ngay trong quá trình chế tạo ban đầu, nó đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu điềm gở, lúc mà công nhân phải lắp một thanh dầm lớn, thì bỗng một thanh dầm thép bất ngờ rơi xuống, nghiền nát hai công nhân xưởng tàu đứng dưới thành tương thịt; còn lần đầu điều chỉnh động cơ diesel cấu hình P37-D, con tàu lại phun ra một lượng lớn khói đặc do động cơ gặp sự cố, khiến một nhân viên bị chết ngạt; rồi đến lúc hạ thủy chấp hành nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu bắn thử ngư lôi thì nó lại đột nhiên phát nổ, khiến mấy người thiệt mạng và nhiều người bị thương nặng trong vụ này. Dường như 615 đã bị chiếc bóng của tử thần che phủ, nên nó luôn luôn gặp phải những sự cố chí mạng khiến lòng người khiếp sợ.
Mọi người nghe những ghi chép trong cuốn nhật trình hàng hải xong thì ai nấy đều bất giác cảm thấy rờn rợn, vì sao Z-615 lại thường xuyên xảy ra sự cố như vậy?
Hải ngọng nói: “Xem ra con tàu này rất giống với ngôi nhà ma, ai đến gần nó, người đó sẽ đoản mệnh”.
Tư Mã Khôi thở dài: “Thực ra trên đời này, không chỉ con người mà vạn vật đều có số mệnh riêng của nó, con tàu này có vẻ giống chúng ta, toàn gặp chuyện xui, có điều không ai có thể trả lời được câu hỏi ‘vì sao lại thế’, mà chỉ có thể đổ tại đó là do ông trời sắp đặt, tạo hóa an bài mà thôi. Chúng ta chỉ có thể trải nghiệm số mệnh chứ không thể nào lý giải số mệnh”.
Cao Tư Dương nói với Thắng Hương Lân: “Cô đừng nghe bọn họ huyên thuyên vớ vẩn nữa, mau đọc tiếp đi, sau đó điều gì đã xảy ra với 615?”
Thắng Hương Lân nói: “Tuy những sự cố của 615 liên tục xảy ra, nhưng ủy ban điều tra nguyên nhân sự cố đã tiến hành kiểm nghiệm kỹ càng, mà kết quả vẫn không phát hiện bất kì vấn đề gì tồn tại trong tàu ngầm, bởi vậy tầng lớp lãnh đạo cho rằng, chính sự vô kỷ luật và thiếu ý thức đã dẫn đến những sự cố trên, đồng thời nghiêm cấm các thuyền viên bàn tán đưa tin về những chuyện này nữa. Cuối cùng, lãnh đạo quyết định thay mới toàn bộ thành viên trên tàu, chi đội tàu ngầm độc lập thứ 40 của lực lượng vũ trang hải quân Liên Xô đã nhận lệnh tiếp quản. Đó là đơn vị bộ đội anh hùng, có lịch sử rất oanh liệt, tiền thân của nó chính là hạm đội khu vực sông Vonga, từng tham gia cuộc chiến tàn khốc bảo vệ trận Stalingrad và được nhận danh hiệu cận vệ.
Thuyền trưởng mới nhậm chức của con tàu là một vị chỉ huy có kinh nghiệm tác chiến rất phong phú và vô cùng có uy tín trong quân đội, mọi người đều nhất nhất phục tùng mệnh lệnh của ông, ngay cả quân địch cũng cúi đầu nể phục. Nhân viên cấp dưới của ông được huấn luyện để có phẩm chất ngoan cường, tác phong quân đội, cũng từng nhiều lần nhận được huân chương ‘Sao đỏ’ do đoàn chủ tịch tối cao Xô Viết trao tặng.
Trước khi tiếp quản 615, thuyền trưởng đã nghe rất nhiều lời đồn hư thực về nó, nhưng dưới sự răn đe của chính ủy, không ai dám bàn luận về chuyện trước đây, mà họ thậm chí còn chưa kịp quen thuộc với con tàu, thì đã đột nhiên nhận được mật lệnh chấp hành nhiệm vụ chuẩn bị trực ban.
Các thuyền viên tranh thủ thời gian ngắn ngủi để nói lời tạm biệt với gia đình, rồi hối hả tập hợp, đội mưa lớn lái Z-615 rẽ sóng vào trùng dương. Chẳng ngờ, con tàu đến gần khu vực 30° vĩ Bắc, thì đột nhiên địa chấn dưới đáy biển gây ra sóng thần, rồi tàu chìm nhanh như viên đá rơi xuống nước, lao thẳng xuống đáy biển, sa lầy trong bùn cát, không thể nổi lên được. Các thuyền viên trên tàu bị nhốt mười mấy tiếng trong nỗi tuyệt vọng, mọi người vắt óc nghĩ mọi cách, nhưng đều không thể cứu vãn được tình hình, khoảnh khắc đó như thể đã chạm một tay vào cánh cửa địa ngục.
Đúng lúc mọi người đang trong tận cùng tuyệt vọng, thì con tàu lại đột nhiên khôi phục, như chưa hề xảy ra hỏng hóc, nó lại nổi lên mặt nước. Nhưng khi những khuôn mặt với đủ nỗi kinh hoàng còn chưa kịp hoàn hồn thì 615 lại bị một chiếc cầu nước hình thành từ dòng nước ngầm dưới đáy biển xoáy tít đưa vào hắc động, rồi mặt biển sau sóng gió lại trở về trạng thái tĩnh lặng như lúc đầu. Vì lòng chảo biển bị cơn địa chấn rạch đứt vẫn chưa kịp khép miệng, nên trong khi 615 tuy lành lặn, nhưng đã hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài, nó chìm lún vào nỗi tuyệt vọng còn sâu hơn biển cả. Đối mặt với hiện thực còn đáng sợ hơn cả ác mộng này, thuyền trưởng đã mô tả cảm giác đó như sau: <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">‘<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">V<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ì<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> tổ quốc, tôi nguyện ph<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ả<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">n bội thượng đế, nhưng giờ phút này có lẽ chỉ mình thượng đế mới biết, rốt cuộc 615 đã rơi xuống nơi nào<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">.’
Những cảnh ngộ mà tàu ngầm Z-615 gặp sau đó, đại khái cũng tương tự như hội Tư Mã Khôi, do kim la bàn bị hỏng, nên chỉ biết cỗ tàu ngầm trôi theo vành đai 30° vĩ Bắc về hướng tây, bất kể ngày đêm. Tuy công năng vượt trội của tàu ngầm và hệ thống SONAR có khả năng giúp Z-615 có thể định vị được lối ra, nhưng hiềm nỗi, đại dương dưới lòng đất lúc nào cũng ầm ầm dậy sóng, lại sâu vô tận, còn không gian trên đầu thì hoàn toàn bị mây từ che phủ dày đặc, nên để tiết kiệm nguyên liệu cho đến khi chờ được đội cứu viện đến, họ bắt buộc phải dừng cung cấp điện cho động cơ diesel, để mặc cho nó trôi nổi trong hắc động. Sau hơn sáu mươi ngày đêm ngoan cường chống chọi giành giật sự sống, từng người trên tàu bắt đầu chết dần, thậm chí có người không chịu được áp lực đã phát điên. Thuyền trưởng nhận thấy vùng biển tử thần trong hắc động căn bản không có điểm tận cùng, bởi vì nó chính là một vòng tròn ma quái quấn quanh vành đai 30° vĩ Bắc, chỉ có lối vào mà không có lối ra. Tuy lúc tác chiến, để ẩn giấu tung tích, tàu ngầm thường để chế độ hoàn toàn tĩnh lặng, nên việc cắt đứt liên lạc với trung tâm chỉ huy là chuyện bình thường, nhưng mất liên lạc trong suốt thời gian dài, lại chứng tỏ con tàu đã gặp sự cố, thế mà đã hơn 60 ngày trôi qua, vẫn không thấy bóng dáng của đội cứu hộ, xem ra không thể hi vọng gì vào viện binh được nữa. Giờ này, có lẽ tên tuổi của tất cả các thuyền viên trên con tàu 615 đã được khắc trên bia đá nghĩa trang liệt sĩ Matxcơva rồi cũng nên, và chắc họ khắc thế này ‘Tưởng niệm các anh hùng Z-615 đã hi sinh bất khuất vì nghĩa lớn. Tổ quốc ghi công những đứa con trung thành bất diệt của người. Các anh sẽ sống mãi trong trái tim mỗi người dân Xô Viết’. Nhưng bất kể bia mộ có khắc những dòng chữ vinh quang đến mấy, thì những thành viên trên con tàu ấy không bao giờ còn có cơ hội được đọc, thậm chí họ đã hoàn toàn từ bỏ hi vọng được cứu viện, giờ chỉ có thể cố gắng tự mình cứu lấy mình mà thôi.
Lúc này, thuyền phó đề nghị cho 615 lặn xuống sâu như vậy có lẽ sẽ tìm thấy huyệt động mà dòng nước ngầm chảy qua và thoát khỏi vòng tròn ma quái. Thuyền trường chấp nhận đề nghị mạo hiểm đó, quyết định phải liều chết một phen. Độ sâu cực hạn mà Z-615 có thể lặn xuống là 200 mét, nhưng nhờ thiết bị tiên tiến và kinh nghiệm điều khiển tàu lặn nhiều năm, nên thuyền trưởng đã cho con tàu lặn xuống tới độ sâu 260 mét, khi áp lực của nước khiến khoang tàu gần như bị ép vỡ, vậy mà vẫn chưa thể chạm tới đáy, cũng như chưa tìm thấy huyệt động nước ngầm.
Thuyền trưởng biết kế hoạch này không khả thi, nếu không nổi lên thì chắc con tàu sẽ tiêu đời, nên ông lập tức ra lệnh cho Z-615 nổi trở lại mặt nước. Nhưng tất cả đã quá muộn, con tàu đã lặn xuống quá sâu, buồng điều áp bị đè bẹp biến dạng, miễn cưỡng duy trì trạng thái tiến về phía trước ở độ sâu 260 mét, các thuyền viên đều tự biết khó thoát khỏi kiếp nạn này, và ai nấy đều cho rằng tất cả mọi chuyện là do lỗi con tàu Z-615 đáng chết này gây ra.
Ai ngờ, đúng lúc này, con tàu đột nhiên được một sức mạnh vô hình nào đó từ từ nhấc bổng, và nổi trở lên mặt nước như cũ, nhưng hình như nó va chạm phải đá, nên lòng tàu bị vỡ và hư hỏng nghiêm trọng. Nhiều người mắc phải chứng tăng áp, rồi bình tích điện của vách ngăn đột nhiên chạm mạch bốc cháy, cũng may mà các thuyên viên kịp thời dập tắt được ngọn lửa, sau đó họ cầm ống nhòm ban đêm đặc chế cho tàu lặn quan sát kỹ xung quanh, và phát hiện thấy con tàu bị một hòn đảo hút chặt, dường như đó là một hòn đảo từ trường, nó cũng nổi bập bềnh giữa biển khơi dưới lòng đất, con tàu đã đâm phải đá ngầm cách hòn đảo một đoạn khá gần.
Sau khi tiến hành thám trắc, thuyền trưởng suy đoán, rất có thể hòn đảo đó là một núi sắt từ khổng lồ, nó hút tất cả tàu thuyền hoặc máy bay gặp nạn và mất tích gần vành đai 30° vĩ Bắc. Có lẽ tiền thân của hòn đảo này là tảng đá khổng lồ từ trong lớp vỏ Trái đất rơi xuống, có điều nó sở hữu một loại từ trường đặc biệt mà các thiết bị thám trắc thông thường không thể nào dò nổi, lực hút của nó đối trọng với thể tích của của tàu thuyền, thể tích càng lớn thì càng chịu lực hút lớn, ví dụ: những vật thể có thể tích nhỏ bé như cây súng, sẽ không bị nó hút. Năm đó, vào thời kì chiến tranh trên biển giữa Nga và Nhật, chiến hạm sắt của quân Nga cũng từng gặp một tai nạn tương tự, hai chiếc tàu hải quân bị hút chặt xuống đáy biển. Tuy nhiên lúc đó loài người còn chưa nhận thức được hiện tượng nên không ai có thể ngờ rằng dưới lòng đất sâu lại tồn tại một con quái vật như vậy, trách gì khi máy bay và tàu thuyền đi qua vành đai 30° vĩ Bắc, thì hết chiếc này đến chiếc khác bị rơi xuống biển. Còn chiếc Z-615, sau khi lặn xuống và mất kiểm soát, cũng may nhờ nó chỉ cách hòn đảo này một đoạn rất gần, nên mới không bị nó kéo tít xuống tận cùng của dòng thủy thể.
Sau khi thảo luận với chính ủy, thuyền trưởng quyết định cử đồng chí thuyền phó lão luyện và chín chắn dẫn theo mười thuyền viên bơi ra đảo do thám địa hình, nhưng sau khi rời khỏi tàu, chẳng bao lâu sau cả đội liền mất liên lạc, những người được cử đi thi hành nhiệm vụ cũng không thấy ai trở về.”
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tám
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">BẬT LỬA
Thắng Hương Lân nói tiếp: “Ngay sau đó, thuyền trưởng không chỉ phát hiện hòn đảo này là khối sắt từ khổng lồ, mà nó còn ẩn giấu một bí mật còn đáng sợ hơn, con tàu đã bị hủy hoại hoàn toàn, không còn hi vọng có ai sống sót được nữa. Ông liền ra lệnh cho thuyền viên phát tín hiệu, thông báo đội tìm kiếm ‘không được lại gần’. Cuốn Nhật trình hàng hải chỉ có bấy nhiêu, những ghi chép về sau, tôi thực sự không hiểu ông ấy muốn viết gì”.
Mọi người nghe Thắng Hương Lân đọc cuốn “Nhật trình hàng hải” của Z-615, ai nấy đều thầm kinh hãi. Lúc trước cả hội đội mưa to gió lớn phát hiện ra con tàu, nhưng vẫn chưa kịp xem xét kỹ tình hình dưới nước, thì ra Z-615 bị hòn đảo từ trường hút chặt, mà hòn đảo cô lập trôi nổi trong vòng tròn 30° vĩ Bắc này dường như chính là núi Âm Sơn trong truyền thuyết của nước Sở cổ đại. Thế nhưng vì sao sau khi lên đảo, đội trinh sát lại không ai trở về? Vì sao không có một thi thể nào còn sót lại trên tàu? Tất cả những thành viên còn lại, họ đã đi đâu?
Hải ngọng nói: “Tôi cảm thấy thằng cha thuyền trưởng này đúng là mắc dây diều vào mồm, lão này có khiếu ăn tục nói phét đấy, chắc chắn lão thấy con tàu hỏng nặng, không thể dùng tiếp được nữa, nên một mặt dẫn thuộc hạ chạy trốn khỏi tàu, mặt khác lại lo người ngoài tìm thấy nó, nên mới cố ý bịa chuyện nhát ma người yếu bóng vía đây mà”.
Nhị Học Sinh lại nghĩ khác: “Kỹ thuật tàu ngầm thuộc phạm trù tối mật quân sự, nếu quả thực họ phải rời khỏi tàu vì nó quá hỏng hóc, thì họ sẽ dùng ngư lôi hủy hoại nó hoàn toàn, chứ không thể cứ thế bỏ đi được. Ngoài ra, thủy thể hình tròn tựa con rắn tự ngậm đuôi dưới lòng đất rất giống với đại dương nguyên thủy u tối vô biên vô tận, nên hòn đảo này cũng mãi mãi di chuyển tuần hoàn theo một quỹ đạo cố định bên trong vòng tròn ấy. Vậy thì những thành viên may mắn sống sót của con tàu Z-615 có thể trốn đi đâu được chứ?”
Mọi người rôm rả suy đoán, nhưng cuối cùng vẫn không thể rút ra kết luận gì. Có điều, Tư Mã Khôi cảm thấy dường như chuyện này không còn lựa chọn nào khác, vì cảnh ngộ mà Z-615 gặp phải rất khó phán đoán chính xác nguyên nhân. Nếu hòn đảo trôi nổi trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc quả thực là núi Âm Sơn, được mô tả trong bích họa vu Sở, thì tất cả những manh mối phát hiện từ trước đến giờ đều tập trung ở đây. Bây giờ, anh buộc phải tin rằng, chỉ có tiếp tục vén bức màn bí mật về chân tướng sự thật, thì mới có cơ hội tìm thấy điểm tận cùng của vòng tròn ma quái.
Mọi người đều đồng ý rằng, đây là kế sách khả thi duy nhất, rồi cả hội nghỉ ngơi giây lát trong khoang tàu, đợi mưa bão dừng hẳn, sẽ rời khỏi con tàu hoang phế, chuẩn bị trèo lên núi Âm Sơn.
Lúc này, Cao Tư Dương thấy Nhị Học Sinh vẫn chưa bớt sốt, cô lục tung khoang chính của tàu ngầm, nhưng vẫn không tìm thấy viên thuốc nào, liền nghĩ đến việc đi tìm trong những căn phòng ở tầng dưới của tàu ngầm Z-615.
Hội Tư Mã Khôi biết phía dưới khoang chính còn có hai tầng nữa, mỗi tầng nối với nhau bằng hệ thống giếng thang dựng đứng, tầng trên là khoang chứa đạn dược, tầng dưới là khoang chứa nước ngọt. Hai đầu của khoang chứa đạn được thiết kế thêm mấy vách ngăn, có lẽ là khoang dùng để chứa vật tư dự trữ, vì mũi tàu chúi về phía trước, mặt đáy rất chật chội, nên những khu vực có nguy cơ thấm ngước nghiêm trọng thì bây giờ đã hoàn toàn chìm ngập trong nước, bởi vậy khi nãy mọi người mới không xuống dưới xem.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Mọi người lập tức đi xuống hàng lang chính ở gần đó, mở nắp sắt của vách ngăn, trèo qua giếng thang và lần lượt xuống gian phòng dưới tầng hai. Không gian ở đây càng ẩm ướt và ngạt thở hơn. Hai bên đều lắp giá đỡ cố định ngư lôi trợ lực cho tên lửa, soi đèn quặng xem kỹ thì thấy phía dưới toàn là nước ngầm đen ngòm ngòm, có lẽ do khoang trước bị nứt vỡ, cộng thêm nước tù ngấm từ trên xuống, đã nhấn chìm cả phần trước cửa của kho đạn dược. Cả hội không thể nào tìm cách vào được bên trong khoang ngư lôi phóng xạ.
Thắng Hương Lân soi đen quặng lên tấm bản đồ kẹp trong cuốn nhật trình hàng hải, cố gắng nhận biết kết cấu lòng khoang của tầng hai. Cô dự đoán, phía sau chắc còn có mấy khoang phụ, không biết bên trong chứa cất thứ gì.
Tư Mã Khôi thấy không thể thâm nhập khoang trước của tầng hai, liền quay lại khoang sau, đột nhiên anh nghe thấy phía trên đầu phát ra tiếng động nhỏ, liền thuận thế ngẩng đầu nhìn lên, thì chỉ thấy có một cái đầu lấp ló thò xuống lòng giếng thang, cái đầu đó đang nghiêng ngó nhìn xuống, ánh sáng đèn quặng của Tư Mã Khôi vừa vặn soi đúng vào lớp da mặt trắng xám của kẻ mới đến, trông bộ dạng của hắn không khác gì pho tượng một con ma bị chết dìm dưới nước, thất khiếu còn ri rỉ máu.
Những người còn cũng lại lần lượt phát hiện ra sự có mặt của hắn, tất cả đèn pin và đèn quặng đồng loạt soi về phía đó. Trong mấy chùm sáng chuyển động bất định, cả hội nhìn thấy một sinh vật vừa giống người lại vừa không giống người, không rõ nó là loài quái vật gì, mà cái đầu giống như con kì nhông bị lột da, hai con mắt cực kì nhạy cảm với ánh sáng, trên mặt không có mũi, chỉ có mấy tầng nếp gấp thịt, hai bên cổ dường như còn có mang, kéo dài đến tận mép, hình như nó cảm nhận được hơi thở của người sống, nên thò cái lưỡi đỏ như máu bò ngược xuống giếng thang.
Mọi người đột ngột nhìn thấy con quái vật, thì da đầu như bị điệt giật, từng cọng tóc dựng đứng cả lên.
Toàn thân con quái vật ướt ròng ròng, nó như một con ma chết đuối mới vớt từ dưới nước lên, động tác của nó nhanh như ma quỷ, không đợi mọi người kịp phản ứng, nó đã nhảy bổ vào trong giếng thang, khẩu súng M-1887 của Tư Mã Khôi không thể xoay chuyển trong không gian chật hẹp thế này, nên anh đành nhanh như cắt lộn người ra sau để tránh nó.
Con ma chết đuối lao theo, đáp đúng xuống khoảng trống giữa Tư Mã Khôi và Cao Tư Dương, rồi chỉ nghe một tiếng “lục cục”, nó đã há ngoác miệng định cắn Cao Tư Dương. Trong lúc hồn vía bay chín tầng mây, Cao Tư Dương vội vàng nổ súng, khẩu súng “pằng” một tiếng trúng ngực con quái vật, viên đạn ghém cỡ 12 bắn xuyên thủng một lỗ lớn qua người con quái vật. Trong tiếng gào rú thảm thiết, nó rơi thẳng vào người Tư Mã Khôi đang đứng gần đó, rồi lăn lông lốc xuống dưới. Vừa chạm sàn con quái vật đã đứng bật dậy. Cao Tư Dương chưa kịp lên đạn, thì nó đã lù lù xuất hiện ngay trước mặt, cô thấy tình thế nguy cấp, không đủ thời gian né tránh, đành lấy báng súng gắng sức chặn con quái vật.
Nhị Học Sinh và Thắng Hương Lân đứng phía trước cùng lúc hét lên kinh hoàng: “Chết rồi!”. Hải ngọng thấy Cao Tư Dương lâm vào tình thế hiểm nghèo, thì anh lập tức khai hỏa khẩu súng săn gấu Canada, loại đạn dành cho họng súng cỡ lớn đã lập tức xé nát con quái vật ra thành hai mảnh, máu chảy lênh láng khắp mặt sàn.
Ai ngờ, hai cặp móng vuốt của con ác ma vẫn nắm khư khư khẩu súng trường của Cao Tư Dương không chịu buông ra, không những vậy lực nắm còn rất mạnh, làm cách nào cũng không rứt ra được.
Lúc này, Tư Mã Khôi vừa nhổm người dậy, anh không dám nổ súng vì trong khoang thuyền chật hẹp, bởi chỉ sợ ngộ nhỡ sát thương đồng đội, hoặc vô tình kích nổ ngư lôi, thế là anh vung dao săn từ phía sau, rạch từng ngón của con quái vật. Chẳng ngờ, con ác ma tuy mất đầu nhưng vẫn chưa đoạn khí hẳn, những khúc xương ngón cứng chắc vẫn bám riết lấy vách khoang, phát ra tiếng ‘‘ken két”, rồi mười mấy giây sau mới bất động hoàn toàn.
Sự cố bất ngờ xảy ra chỉ trong nháy mắt, còn chưa đầy nửa phút, nhưng cả quá trình đó cũng khiến cả hội thót tim như thể vừa lượn một vòng quỷ môn quan trở về, mọi người ướt đầm mồ hôi lạnh. May mà không gian chật chội trong khoang đã hạn chế hành động của con quái vật, nếu không thì chắc bây giờ trong hội đã có người phải xuống âm tào điểm danh.
Hải ngọng bắn vỡ cái sọ còn lăn lóc trên đất, mắng chửi: “Con mẹ mày, mày là cái thứ gì thế không biết, mong rằng không phải ác ma bị đày dưới núi Âm Sơn!”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi nói: “Ma thì làm gì có thể xác máu thịt. Tớ thấy nó chắc là xác chết thành tinh tương truyền từ thuở xa xưa. Nghe nói, con người tồn tại hoàn toàn là do hồn phách, hồn thiêng nhưng phách thì đục, hồn thiện còn phách ác; nếu hồn đã chết mà phách vẫn còn ngưng trệ, thì trong thể xác chỉ còn lại mỗi “phách”, đến lúc đó con người sẽ trở thành cương thi, ban ngày bất động, ban đêm mới xuất hiện đi lang thang khắp nơi”.
Những người còn lại lấy hết can đảm bước đến gần, soi đèn quặng vào chỗ thi thể nát bét những máu với thịt, chỉ thấy sinh vật đó có mang, có vây, móng vuốt sắc nhọn, chi sau rất phát triển, xương đuôi rất dài.
Cao Tư Dương nói: “Hình như, khứu giác và thính giác của nó đặc biệt nhạy bén, hơn nữa còn có mang và hình như nó từ dưới nước bò vào trong khoang Z-615. ”
Nhị Học Sinh sợ vãi linh hồn, mồ hôi lạnh toát ra như tắm, cơn sốt không biết tự động hạ nhiệt từ lúc nào, cái đầu đang mê man, nặng trịch bỗng chốc trở nên tỉnh táo hẳn ra. Cậu ta nói: “Hình như nó là loài sinh vật bắt mồi nguyên thủy vô cùng hung ác và tàn nhẫn, nghe đồn trước đây tàu đế quốc Mỹ ra khơi tuần tra trên biển, lúc về bắt được một con ‘cá người’ đào được trong băng, còn vì sao gọi nó là cá người, mà không phải người cá? Bởi vì đặc trưng của loài cá trên cơ thể nó rất nổi bật. Người ta suy đoán, có lẽ nó bị đóng băng ở vùng biển Bắc Băng Dương từ hơn hai trăm triệu năm trước. Sau khi rã đông, không ngờ nó vẫn còn dấu hiệu của sự sống, người ta gọi đó là một mắt xích bị thất lạc trong lịch sử sinh vật. Chuyện này cho đến ngày nay vẫn được liệt vào hàng tài liệu tuyệt mật của quân đội. Thủy thể dưới lòng đất 30° vĩ Bắc, cũng là nơi hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài. Hay con quái vật khi nãy cũng là loài ‘cá người’ nhỉ?”
Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Đã là tài liệu tuyệt mật của quân đội, thì làm sao chú lại biết được? Năm đó người ta còn đồn đại, bọn Mỹ chế tạo ra bom nguyên tử từ dầu ép bằng tinh hoàn đàn ông nữa cơ. Đó toàn là tin vỉa hè không có căn cứ, làm sao mà tin được chứ?”
Thắng Hương Lân đột nhiên nhớ ra điều gì đó, cô hốt hoảng nói với Tư Mã Khôi: “Có lẽ nó chính là một trong những thành viên trên con tàu Z-615 năm ấy. Anh còn nhớ chuyện quái dị ở lâm trường mà bác đánh xe kể cho chúng ta nghe không?”
Nhị Học Sinh trố mắt hỏi: “Con quái vật có mang này trông dáng dấp cũng khá giống người, vì nếu bảo nó là loài động vật máu lạnh nào đó chuyên sinh tồn trong huyệt động, thì nghe có lẽ còn hợp lý hơn, chứ nó làm sao là thủy thủ của con tàu 615 được chứ?”
Tư Mã Khôi ngớ người một lúc rồi hỏi: “Chuyện này liên quan gì đến câu chuyện quái dị trong lâm trường nghe kể lúc dọc đường chứ?”
Trên đường đến vùng núi Đại Thần Nông Giá, hội Tư Mã Khôi tiện đường đáp nhờ chuyến xe đến lâm trường của ông bác đốn gỗ, rồi trong câu chuyện phiếm, ông bác đánh xe đã kể cho cả hội nghe chuyện tên thổ tặc trong lâm trường trước đây từng vào núi đào bới văn vật đồng xanh của Sở quốc. Có lẽ, người này đã chui vào đường hầm trong rừng rậm nguyên sinh biển Âm Dụ, nhưng vẫn chưa đến hố tế lễ đặt thần thú “Sở tải”. Không ai biết hắn đã đào được thứ gì, nhưng sau khi giết chết đồng bọn, hắn đã tìm cách trốn ra nước ngoài, nhưng không may lại bị cảnh sát bắt giữ ngay trên toa xe lửa. Căn cứ vào lời kể của những nhân chứng trên tàu, gã thổ tặc còn định phi tang chứng cớ, bằng cách ném cái bọc gói một đứa trẻ đã chết xuống sông. Hắn đã cõng án giết người, một lúc hai chết ba mạng, kiểu gì cũng không tránh khỏi án tử hình, nhưng từ đầu chí cuối hắn vẫn kiên quyết không chịu nhận tội giết đứa trẻ, chỉ nói thứ mình vứt xuống sông là minh khí đồng xanh của Sở quốc. Đến tận lúc bị áp giải ra pháp trường xử bắn, hắn vẫn khăng khăng không chịu nhận tội. Từ đó, câu chuyện về hắn trở thành chuyện quái dị được lưu truyền rộng rãi khắp lâm trường.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Lúc đó, Tư Mã Khôi cũng chỉ nghĩ: chuyện đâu nghe xong để đấy, hơi đâu mà đi kiểm chứng xem nó thật giả thế nào, vì có khi đến chín phần là bịa đặt ấy chứ, bởi ngay cả lô gích cơ bản nhất của cả chuỗi sự kiện cũng không có, đúng là điển hình cho loại chuyện lưu truyền trong dân gian. Khi đó, Thắng Hương Lân vẫn nằm ngủ trên xe, nhưng thực ra cô đã nghe hết từ đầu đến cuôi câu chuyện.
Tư Mã Khôi vẫn tự nhận mình là người nhanh trí, nhưng đến bây giờ anh vẫn thực sự không thể hiểu hai chuyện “gã thổ tặc bị lâm trường thẩm vấn bắn chết” và “cả hội bị quái vật tấn công trên tàu Z-615” rốt cuộc có liên quan gì đến nhau.
Tư Mã Khôi đang định hỏi kỹ, thì lại nghe thấy có tiếng động vọng lại từ trong khoang. Anh vội vàng soi đèn lên giếng thang, thì thấy một cái bóng trắng lướt qua, nghe động tĩnh có thể phán đoán, trong khoang thuyền không phải chỉ có một vị khách không mời mà đến.
Mọi người biết tình hình không ổn, nếu vẫn còn lũ sinh vật này nhảy vào tàu ngầm; vì đối phó với từng con trong khoang chứa đạn chật hẹp, còn cuống quýt hết cả chân tay, huống hồ là cả bầy, vả lại địa hình ở đây vô cùng bất lợi, chui xuống từ thang giếng khác nào đợi chết, thế là mọi người liền nhanh tay đóng chặt nắp khoang lại, ai ngờ mặt nước ở khoang trước lại lay động dữ dội.
Tư Mã Khôi lập tức xoay đèn quặng chiếu về phía đó, anh nhìn thấy một khuôn mặt quái dị, trắng bệch như ma chết đuối đang từ từ ngoi lên. Anh biết cả hội bây giờ đang lâm vào tình huống vô cùng ngặt nghèo, xem ra tất cả đã bị bao vây trong khoang tàu.
Lúc này, Hải ngọng xông lên vác súng chĩa thẳng về mặt nước. Con quái vật chưa kịp thò mặt ra, đã bị bắn vỡ nửa cái sọ, máu nhuộm đỏ trong khoang, khắp nơi nồng nặc mùi tanh tưởi. Ngay phía sau con quái vật, còn vô số đồng loại của nó, chúng ồ ạt chui vào khoang tàu từ khe nứt trên khoang ngư lôi phóng xạ.
Tư Mã Khôi thấy có con đang trườn xuống từ giếng thang, anh vội tóm lấy Hải ngọng lúc này vẫn đang bận bịu lên đạn, rồi hét lớn: “Không chống lại chúng được dâu, mau rút ra khoang sau thôi”.
Mọi người nhanh chóng bước giật lùi về vách ngăn khu vực phía sau tầng hai, hợp lực đẩy bánh lái định đóng cửa khoang, nhưng có một cánh tay trắng ởn từ ngoài khoang bỗng dưng thò vào, vừa vặn kẹp ngay giữa khe cửa, khiến cả hội không thể nào khép chặt được cửa tàu.
Hội Tư Mã Khôi tự biết, thời khắc này mà không đóng được cửa tàu, thì chắc chắn cả lũ sẽ mất mạng. Mọi người hét lớn rồi nhất tề đẩy thật mạnh cánh cửa, gắng hết sức xoay bánh lái đến tận cùng. Cánh tay kẹt ở giữa bị ép đến nỗi máu thịt trộn lẫn vào nhau be bét, nửa cánh tay với nguyên bàn tay mắc cả da lẫn thịt vào trước cửa, ngón tay vẫn không ngừng cử động.
Cao Tư Dương không dám nhìn, cô đưa tay quệt mồ hôi lạnh trên trán, quay người xách đèn cácbua. Cô xem xét tình hình trong khoang vách ngăn trước, thấy có bốn chiếc thùng sắt lớn đóng cố định, đang định nhìn kỹ xem nhãn mác dán bên trên thì Nhị Học Sinh đột ngột thổi tắt đèn cácbua. Cao Tư Dương giật nảy mình, hỏi: “Anh làm gì vậy?”
Nhị Học Sinh căng thẳng quá, mặt vàng như nghệ, run lập cập nói: “Trong thùng đựng chất lỏng hydrogen, chỉ cần dính tí lửa thôi, thì cả chiếc Z-615 này sẽ nổ tung lên trời cho coi!”
Thắng Hương Lân soi đèn quặng bốn phía xung quanh, cô phát hiện trên thân thùng quả nhiên có dán nhãn mác dung dịch hydrogen. Theo nội dung ghi trong cuốn nhật trình hàng hải, thì ngoài động cơ diesel ra, tàu ngầm Z-615 còn lắp đặt bình khí hydro đang trong giai đoạn thử nghiệm, dùng để cung cấp nguồn nhiên liệu, phục vụ những chuyến đi dài ngày trên biển. Vì vấn đề an toàn, những thùng sắt này được đặt trong khoang riêng, nhưng vì thùng chứa được thiết kế chưa hoàn thiện, nên vẫn tồn tại khả năng bén nổ bất cứ lúc nào, bởi vậy loại nhiên liệu này còn có tên gọi là “bật lửa”. Nhìn thông số ghi trên nhãn mác có thể thấy rõ, mỗi thùng sắt đều chứa đầy ắp dung dịch, có lẽ vẫn chưa bị tràn ra ngoài, nếu không, lúc cả hội vừa xách đèn cácbua vào khoang thì nó đã nổ tan thành xác pháo. Nghĩ đến cảnh tượng đó, hội Tư Mã Khôi ai nấy đều sợ tái mặt.
Tư Mã Khôi biết rõ tình hình, cũng thầm than khổ. Anh bảo Hải ngọng giữ chắc cánh cửa, sau đó đuổi theo Thắng Hương Lân hỏi: “Sao cô lại nói bọn xác chết bò vào khoang tàu có liên quan đến gã thổ tặc bị xử bắn? Rốt cuộc gã đó đã giấu giếm điều gì?”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ chín
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">THOÁI HÓA
Thắng Hương Lân nói: “Ban đầu, tôi không hiểu nửa sau của cuốn nhật trình hàng hải viết gì, nhưng bây giờ tôi hiểu ra rồi. Toàn bộ thuyền viên trên con tàu Z-615 đều đã trở thành quái vật bị hòn đảo này khống chế.”
Tư Mã Khôi lắc đầu nói: “Cô càng nói càng rối rắm, hòn đảo này làm sao có thể biến các thuyền viên của Z-615 thành quái vật được chứ?”
Thắng Hương Lân sốt ruột, chỉ muốn mau chóng giải thích rõ mọi chuyện cho Tư Mã Khôi nghe, nhưng câu chuyện này không thể chỉ nói một hai câu là có thể hiểu ngay được. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng cô bắt đầu điều tra từ tin đồn mà mọi người nghe được lúc dọc đường. Bởi vì mọi người chỉ nghĩ đó là chuyện nghe xong để đấy, vì rốt cuộc nó đã truyền đi truyền lại trong bao nhiêu năm, thì ai biết thực hư thế nào. Nhị Học Sinh là thanh niên trí thức bị đẩy xuống lâm trường cải tạo tư tưởng đã nhiều năm, nên cô đã hỏi cậu ta xem chuyện bác đánh xe kể có thật hay không.
Nhị Học Sinh nói rằng, chuyện đó hoàn toàn có thật, không chỉ mấy lâm trường, mà ngay cả dân bản địa trong núi, ai ai cũng đều biết cả; có điều chuyện đó xảy ra khi cậu ta vẫn chưa đến lâm trường, nên cũng chỉ nghe người ta kể lại, chứ không tận mắt chứng kiến, nhưng nội dung cũng đại khái như những gì hội Tư Mã Khôi được biết. Khu vực rừng nguyên sinh ở Đại Thần Nông Giá đầy rẫy dã thú, nhưng con người thì vô cùng thưa thớt. Những truyền thuyết như thủy quái hay dã nhân nhiều vô số kể, nhưng những câu chuyện liên quan đến con người thì lại rất ít, huống hồ chỗ cậu ta ở lại là rừng sâu núi thẳm, đằng đẵng với tuế nguyệt, chính vì vậy mà chuyện gã thổ tặc bị xử bắn đã trở thành đề tài rất nóng hổi, hầu như không người dân nào không biết, rồi dần dần, nó trở thành chuyện quái dị bị đồn đi đồn lại khắp nơi. Nó quái dị vì các tình tiết trong câu chuyện không hợp lý, nó kì lạ vì tình tiết không tuân theo lô gích thông thường, nên khiến mọi người không thể lý giải. Không ai biết trong đầu gã thổ tặc đó nghĩ gì, bởi vậy, dẫu câu chuyện đã thành dĩ vãng nhiều năm, nhưng tận bây giờ vẫn được rất nhiều người nhắc đến.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Cao Tư Dương gật đâu tỏ ý rằng mình cũng đã từng nghe dân binh kể lại chuyện quái dị này. Có người còn nói, gã thổ tặc là đặc vụ nằm vùng, hắn đã lấy bộ da của đứa trẻ để bọc máy điện đàm rồi, sau khi hành tung bị bại lộ, hắn liền quăng máy điện đàm xuống sông để tiêu hủy tang chứng, bảo vệ sự an toàn của đồng đảng, nên đến lúc chết hắn vẫn không chịu nhận tội. Có người còn nói, thổ tặc là những kẻ bị âm hồn trong núi nhập vào, thế nhưng những phán đoán đó càng lúc càng hoang đường, nên không thể thuyết phục được mọi người.
Hải ngọng nói: “Đây chỉ là tin đồn thất thiệt, vì một chuyện rất bình thường nhưng đôi khi cũng có thể đồn đại thành chuyện quái dị, mà càng đồn lại càng quái dị, thậm chí có những chuyện hoàn toàn do bịa đặt, chứ không hề xảy ra ngoài thực tế”.
Thắng Hương Lân nói: “Nếu chuyện này xảy ra thật, thì chỉ có một cách giải thích hợp lý duy nhất, đó là, gã thổ tặc hoàn toàn quên mất việc mình đã làm”.
Mọi người tròn mắt kinh ngạc: “Quên á? Làm gì có chuyện nói quên là quên được dễ dàng thế?”
Thắng Hương Lân nói: “Vành đai 30° vĩ Bắc chôn giấu rất nhiều tầng quặng có từ tính mạnh, những thành viên trước đây từng tham gia tác nghiệp dưới giếng quặng hoặc thám trắc địa chất ở khu vực này, cũng có đã người xuất hiện triệu chứng dần dần mất trí nhớ. Đó là triệu chứng mắc phải do chịu tia phóng xạ khoáng vật dẫn đến protein TAU
(1)
trong não tập trung lại một chỗ, mà phần bị mất trong chuỗi trí nhớ thường không có quy luật nhất định. Tôi thấy, nội dung phần sau của cuốn nhật trình hàng hải, thuyền trưởng ghi chép rất hỗn loạn, hầu hết là những nội dung không liên quan gì với nhau, giống như chuyện quái dị đồn đại trong lâm trường, bởi lô gích kì quặc khiến người ta không thể lý giải. Từ đó tôi đã nghĩ, năm đó rất có khả năng gã thổ tặc đã thâm nhập huyệt động có sự tồn tại của tầng từ, còn những chuyện xảy ra sau này thì có lẽ đều do chuỗi ký ức bị khuyết tạo thành. Có lẽ, ngoài việc trộm được minh khí đồng xanh, gã thổ tặc còn ra tay giết chết một đứa trẻ vì nguyên nhân nào đó, rồi giấu xác đứa bé trong tay nải, nhưng lúc bị người khác phát hiện, hắn đã hoàn toàn không nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra vào khúc giữa ấy; còn về thực sự lúc đó cụ thể đã xảy ra những gì, thì chúng ta cũng không có cách nào truy xét được. Tôi chỉ suy đoán ra cảnh ngộ mà Z-615 gặp phải từ gợi ý của truyền thuyết đó mà thôi.”
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">[1] <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Protein TAU: <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">là một loại <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">protein <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">có <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">tr<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ong các tế bào thần kinh, chủ yếu trong hệ thống thần kinh trung ương, có chức <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">nă<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ng hỗ trợ hoạt động cho các nơron. Một khi <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">protein <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">TA<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">U<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;"> có khiếm khuyết thì sẽ gây cho con người các chứng bệnh liên quan đến thần kinh như mất trí nhớ, <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Alzheimer.
Tư Mã Khôi vẫn thắc mắc: “Chuyện gã thổ tặc có thể đúng như cô nói thật, nhưng theo suy đoán, nếu vòng tròn ma quái ở 30° vĩ Bắc khiến con người mất đi trí nhớ thì cùng lắm những thuyền viên đó cũng chỉ mất hết ký ức trong đầu, hoặc cùng lắm là trở thành ngây dại, chứ sao lại biến thành lũ quái vật giống như loài ác quỷ vậy?”
Thắng Hương Lân nói: “Vì những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 đã bị thoái hóa, họ đã biến thành ký sinh trùng trên hòn đảo này”.
Mọi người nhìn nhau thất sắc, Cao Tư Dương hỏi: “Nói như thế thì chẳng phải đây là một loại hiện tượng quay trở về gốc gác nguyên thủy ư?”
Hải ngọng vội cắt ngang: “Đợi đã, theo tôi hiểu thì con người được tiến hóa từ vượn, nếu thực sự xảy ra hiện tượng thoái hóa trở về cội gốc nguyên thủy, thì họ phải biến thành vượn mới phải chứ. Tôi chưa từng thấy con vượn nào lại mọc mấy cái mang trong mồm cả”.
Nhị Học Sinh giải thích: “Sinh vật sống dưới biển cả bị những thứ trên lục địa thu hút, khiến chúng xảy ra thay đổi, dần dần tiến hóa thành động vật lưỡng cư, rồi dần dần chuyển hóa thành loài động vật bò sát, mà vượn cổ lại được tiến hóa từ động vật bò sát”.
Hải ngọng gãi đầu gãi tai: “Thật khó hiểu! Nếu vượn cổ có thể tiến hóa thành người, thì tại sao trên thế giới vẫn còn loài vượn?”
Nhị Học Sinh nói: “Điều này…. có lẽ là do vượn cổ có rất nhiều chi họ khác nhau, nhưng chỉ một trong những chi họ của chúng có đầy đủ gốc rễ trí tuệ, nên mới có thể dần dần tiến hóa thành con người”.
Tư Mã Khôi vẫn cảm thấy vẫn lơ mơ đôi chỗ, liền muốn Thắng Hương Lân nói cụ thể hơn, anh hỏi: “Nếu các thuyền viên của Z-615 bị thoái hóa nhanh như vậy, thì hội chúng ta giờ đây cũng đang nằm trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, chẳng lẽ chúng ta cũng sắp phải đối mặt với kết quả đáng sợ đó sao?”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Thắng Hương Lân nói: “Trong mạch đá nào đó dưới lòng đất tồn tại loại nguyên tố phóng xạ hoặc từ trường thiên nhiên, nếu tiếp xúc trong khoảng thời gian ngắn thì có thể sẽ gây ảnh hưởng đến trí não con người, ví dụ như mất trí nhớ hoặc nảy sinh hành vi bất thường, giống như hội chứng Alzheimer, mà người phương Tây vẫn nói đến. Theo kết quả thám trắc của tàu ngầm Z-615, thì núi Âm Sơn dưới lòng đất chính là một thỏi thạch từ khổng lồ. Từ những chuyện mới xảy ra khi nãy có thể thấy, nếu chúng ta dừng lại và tiếp xúc lâu dài với nó, chúng ta cũng sẽ bị thoái hóa với tốc độ nhanh chóng, rồi cuối cùng sẽ biến thành quái vật mất hết nhân tính, chẳng khắc nào loài ác quỷ, đồng thời vĩnh viễn bị ngọn núi Âm Sơn trói buộc ờ đây. Các thuyền viên trên con tàu Z-615 bị lạc đường đến vành đai 30° vĩ Bắc, chí ít đã trôi nổi trong thủy thể liên tục trong nhiều ngày đêm, và khi nó mới bị hòn đảo này hút, các thành viên trên tàu vẫn chưa có biểu hiện gì khác thường, thế nhưng những phần sau của cuốn nhật trình hàng hải dần dần trở nên hỗn loạn, thì dường như thuyền trưởng đã phát hiện ra bí mật này, nhưng lúc đó tất cả cũng quá muộn. Theo truyền thuyết của nước Sở cổ, thì dưới núi Âm Sơn toàn nhốt những âm hồn ác ma vạn kiếp không được siêu sinh, nhưng nguyên hình của nó thì có lẽ chính là những quái vật bị thoái hóa này. Có lẽ họ chính là số tù binh và nô lệ bị quẳng vào núi hiến tế ngay từ thời Hạ Thương Chu cho đến thời Xuân Thu Chiến Quốc; và có lẽ, những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 không hề bị ác ma ăn thịt, mà bản thân họ đã biến thành ác ma của núi Âm Sơn. Đội thám hiểm chúng ta hiện giờ thân cô thế cô, khó mà thoát ra khỏi vòng quay số phận tàn khốc này.”
Thực ra, cả hội đã sớm đặt mình ra khỏi vòng sinh tử, nhưng cứ nghĩ đến kết quả mà họ sắp phải đón nhận, thì trong lòng ai nấy không khỏi cảm thấy run sợ.
Tư Mã Khôi hỏi Thắng Hương Lân: “Bây giờ, chúng ta còn bao nhiêu thời gian nữa?”
Thắng Hương Lân nói, cô cũng không thể suy đoán chính xác, nhưng căn cứ theo ghi chép trong cuôn nhật trình hàng hải của Z-615, thì có thể tính toán chậm nhất là trong vòng hai ngày, sẽ có người bắt đầu xuất hiện biểu hiện mất trí nhớ.
Tư Mã Khôi dựa vào đồng hồ sinh học của bản thân, dự đoán từ lúc phát hiện thấy Z-615 đến giờ, có lẽ đã ba bốn tiếng trôi qua. Nếu trong núi Âm Sơn quả thực có tồn tại nhật quỹ, thì có lẽ đội thám hiểm vẫn còn kịp tìm thấy lối ra, và đào thoát ra khỏi vòng tròn tử thần 30° vĩ Bắc này.
Cao Tư Dương nói: “Bây giờ không biết bao nhiêu bọn ác quỷ đã bò vào trong tàn tích con tàu Z-615, chúng ta còn không bước được ra khỏi cửa được nữa là…”
Nhị Học Sinh thở nặng nhọc: “Tôi bắt đầu cảm thấy càng lúc càng khó thở, e là không khí trong khoang phụ hình như không còn nhiều nữa”.
Hải ngọng cũng cảm thấy ngột ngạt, liền nảy ra ý nghĩ: “Chẳng phải chúng ta vừa tìm thấy nến dưỡng khí dùng trong tàu ngầm sao? Tôi thấy chắc chỉ cần châm một cây cũng đủ duy trì trong vòng vài giờ đồng hồ, trong thời gian đó, chúng ta phải mau nghĩ cách thoát ra ngoài”.
Nhị Học Sinh vội vàng xua tay: “Anh đừng quên cả khoang tàu này là cái bật lửa cực nhạy, ai dám dùng lửa ở gần cái thùng chứa đầy dung dịch hydrogen chứ? Tôi thà cửa ra cho bọn quỷ sống kia ăn thịt cho xong”.
Tư Mã Khôi biết “bom hydro”, hay còn gọi bom hạt nhân, là một loại vũ khí chiến lược, có thể tạo ra vụ nổ cấp trên ngàn vạn tấn hạng thuốc nổ TNT, không những vậy, nó còn mang tính phóng xạ truyền nhiễm rất nghiêm trọng, bởi vậy nên nó còn có tên gọi là bom phóng xạ hay bom bẩn. Cỗ tàu ngầm Z-615 có chứa nhiên liệu phụ trợ dung dịch hydrogen này, có khác nào một trái bom phóng xạ khủng bố với uy lực kinh người? Nếu nó phát nổ dưới lòng đất, đừng nói tàn tích con tàu Z-615 hóa thành tro bụi, mà e là cả ngọn núi Âm Sơn cũng nổ bắn cả xác lên tận bề mặt Trái đất ấy chứ, thậm chí cái vòng tròn ma quái phía dưới vành đai 30° vĩ Bắc này cũng sẽ gãy lìa. Lúc này, anh thấy không gian khoang phụ gần như bị bịt kín hoàn toàn, chút dưỡng khí ít ỏi còn lại chắc không thể duy trì trong bao lâu, nhưng nếu sử dụng nến dưỡng khí hoặc súng ống, thi hậu quả sẽ xảy ra thật ngoài sức tưởng tượng.
Thắng Hương Lân nói: “Cũng không nghiêm trọng như anh nghĩ đâu, vì dung dịch hydrogen trong khoang nhiên liệu và bom hydro cấp vũ khí là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng dù vậy thì uy lực phá nổ của nó cũng đủ sức hủy diệt con tàu này”.
Tư Mã Khôi ngẫm nghĩ hồi lâu, anh nhận thấy không thể quay trở lại khoang trước, còn nếu ở lại đây thì trước sau gì cũng ngạt thở mà chết, đồng thời cũng không thể tiếp tục lùi về khoang sau, ngộ nhỡ nhưng khoang sau cũng bí khí như thế này thì cả hội có mà thành “thịt hộp”.
Tim đập thình thịch, anh rờ rẫm tới bàn bánh lái đang chuyển động, từ từ mở cửa khoang sau, khoang sau khá lạnh lẽo, anh có thể cảm thấy không khí phía ấy lưu thông rất tốt.
Thắng Hương Lân đối chiếu với bản đồ, trên đó chỉ rõ phần phía sau tàu ngầm ngoài vách ngăn ra, lần lượt còn có khoang điện chính và phòng máy phụ, đi theo giếng thang trong phòng máy phụ để trèo lên trên sẽ tới nắp khoang đóng kín mít nối liền với boong tàu, rồi từ trong khoang tàu có thể mở nắp sắt này.
Mọi người thấy hành lang yên lặng như tờ, xem ra mấy con ma dưới núi Âm Sơn đều đã bò cả vào trong từ khoang chứa nước ngọt, nên nghe động tĩnh có vẻ chúng vẫn chưa bao vây được khoang sau, cả hội phải nhân cơ hội này mà trốn thoát, còn đến lúc bọn chúng đã phát hiện thấy thì có muốn trốn cũng khó. Thế là, cả hội không dám nấn ná thêm, ba chân bốn cẳng chui vội vào phòng máy phụ. Tư Mã Khôi đẩy nắp khoang lén nhìn ra ngoài quan sát tình hình, nhờ ánh sáng những lằn sét sượt qua giữa màn sương mưa, anh thấy một trái núi đen sì sì sừng sững đằng xa.
Lúc này, Thắng Hương Lân trầm giọng thì thầm với Tư Mã Khôi: “Cảm giác của bọn quái vật kia vô cùng nhạy bén, nếu chúng ta trốn trong tàu ngầm thì vẫn còn khoang tàu làm vật che chắn, nhưng một khi đã lên bè gồ trôi nổi theo dòng nước, thì bọn chúng chắc chắn sẽ phát hiện thấy, mà trên mặt nước thì không có gì che chắn, vậy đến lúc đó, chúng ta phải chống đỡ thế nào?”
Tư Mã Khôi nghe Thắng Hương Lân nói mới giật mình tỉnh ngộ, đúng là có câu: “Đi sai một nước, hỏng cả ván cờ”. Hoàn cảnh hiện giờ khiến Tư Mã Khôi nhớ lại khi anh mới đến Miến Điện, cùng đội du kích chui vào rừng rậm nguyên sinh, phía trước có một con sông nước lớn, nước chảy cuồn cuộn chắn ngang, mặt sông rộng bao la. Lúc mọi người chuẩn bị vượt sông, đột nhiên phát hiện có một toán địch từ trong rừng đuổi theo. Lúc đó, viên chỉ huy thấy phía trước là sông lớn, phía sau là địch mạnh, mà lực lượng quân du kích lúc bấy giờ lại yếu mỏng, nên vị chỉ huy đã ra lệnh cho cả đội vượt sông, tranh thủ thời gian cố gắng mau chóng chiếm cứ khu vực địa hình có lợi. Nào ngờ, tốc độ lội nước của bộ đội chậm hơn nhiều so với tốc độ hành quân trong rừng rậm, đến khi quân địch xuất hiện ngay sau lưng, thì đội du kích mới lội tới giữa sông, nên kết quả cả đội đã trở thành bia ngắm bắn, đội mười mấy người lội sông, nhưng không người nào sống sót lội được lên đến bờ, nước và máu hòa lẫn vào nhau, nhuộm đỏ cả một quãng sông. Từ đó, Tư Mã Khôi rút kinh nghiệm, anh hiểu chuyến vượt sông đó bắt buộc phải hi sinh một số người, để họ ở lại rừng rậm chặn bước quân địch, yểm trợ cho bộ đội chủ lực vượt sông an toàn. Kế này được gọi là “thí tốt cứu xe”.
Mọi người ngẫm nghĩ một lát, ai nấy đều sởn gai ốc. Giờ đây họ đang ở trong tình thế mà tốc độ hành động không chiếm ưu thế, nếu lên bè gỗ vượt sông tiếp cận núi Âm Sơn, thì chỉ sợ giữa đường sẽ bị bọn quái vật đuổi theo, ở trên mặt đất thì còn gắng gượng ứng phó với chúng bằng vũ khí, chứ nếu đã bị kéo xuống sông sâu thì không còn đất để giãy giụa phản kháng, huống hồ bây giờ cả hội lại không còn nước và thức ăn, dẫu có cố thủ trong khoang tàu, e rằng cũng không thể chống cự được lâu.
Tư Mã Khôi bảo Thắng Hương Lân ở lại trên nắp khoang quan sát động tĩnh, sau đó quyết định nói với ba người còn lại: “Giờ chẳng còn cách gì nữa cả, chỉ còn mỗi việc cho nổ tung mấy cái thùng sắt chứa đầy dung dịch hydrogen kia thôi, cho dù không làm cho bọn quái vật bám quanh tàu ngầm nổ tan xác, thì âm thanh và ánh lửa của vụ nổ cũng sẽ khiến chúng sợ hãi tản ra chạy trốn. Đây là cơ hội duy nhất để đội thám hiểm chúng ta sống sót và tiếp cận mạch núi Âm Sơn”.
Nước dưới lòng đất cuồn cuộn chảy xiết, cỗ tàu ngầm Z-615 bị hút vào rìa núi từ, bây giờ chỉ còn cách để lại một người kích nổ thùng nhiên liệu thì bốn người còn lại mới có cơ hội thoát thân. Mọi người biết rõ, thời gian tiếp xúc với núi từ dưới lòng đất càng lâu, thì khả năng bị nó nhốt giữ vạn kiếp và khó lòng siêu sinh càng lớn. Trước khi xuất hiện triệu chứng thoái hóa, cả hội bắt buộc phải tìm đường thoát khỏi vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, một phút cũng không được chậm trễ. Tuy kế hoạch mà Tư Mã Khôi đưa ra nghe có vẻ khả thi, nhưng người nào ở lại, người đó cầm chắc cái chết, vấn đề bây giờ là quyết định để ai ở lại?
Chương 6.1: Suối vàng bất tử
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ nhất
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">SUỐI VÀNG BẤT TỬ
Hải ngọng thấy ánh mắt sắc như dao của Tư Mã Khôi dừng lại chỗ Cao Tư Dương, lại tưởng Tư Mã Khôi đã xác định người phải hi sinh, anh liền vội vàng nói: “Thế mà cậu cũng nghĩ ra được, sao cậu nỡ bắt một cô gái chết thay cho chúng ta hả? Nếu làm thế thật, thì cho dù mai sau may mắn chạy thoát được số mệnh, tớ cũng không dám ngửa mặt lên nhìn đời nữa đâu. Tớ thấy, hay là cứ để Nhị Học Sinh ở lại lót đường cho xong”.
Nhị Học Sinh cuống cuồng sợ hãi: “Chuyện này đột ngột quá, tôi… tôi… tôi vẫn chưa kịp chuẩn bị tư tưởng… vẫn cần chút thời gian để…. suy nghĩ cho kỹ…”
Hải ngọng vỗ vai Nhị Học Sinh thân mật: “Suy nghĩ làm gì nữa? Chú mày rõ là… nam tử hán đại trượng phu mà cứ do dự chần chừ như đồ đàn bà. Chúng ta sống phải thật thoải mái, chết phải thật oanh liệt, đã cướp phải cướp tận giường vua, đã chơi phải chơi tới bến. Cuộc đời con người ấy mà, chóng tàn như hoa cỏ, kiếp này sống vội vội vàng vàng, mơ mơ hồ hồ, rồi quay đi ngoảnh lại một cái đã ngỏm củ tỏi, muốn làm một việc có ý nghĩa mà sao khó thế? Bây giờ chú mày gặp được cơ hội ngàn năm có một, được hi sinh vì nghĩa lớn, vĩnh viễn bất tử, sống mãi trong trái tim của quần chúng nhân dân, chuyện vinh quang như vậy, chú mày còn định đi đâu tìm nữa chứ?”
Cao Tư Dương nghe chối tai quá, mắt ậng nước nhìn thẳng vào Tư Mã Khôi, mắng: “Các anh dựa vào đâu mà dám quyết định sự sống chết của người khác vậy hả?”
Lúc này, mọi người đang trong tình cảnh ngặt nghèo, không ai dám nói lớn tiếng, Tư Mã Khôi đành cố ghìm giọng thật nhỏ chửi Hải ngọng: “Tiên sư Hải ngọng, cậu chõ mồm vào làm cái mẹ gì, tớ có bảo ai phải ở lại dẫn nổ thùng nhiên liệu đâu”, nói xong anh quay sang Cao Tư Dương hỏi: “Trong ba lô của cô có còn cácbua dự trữ không?”
Cao Tư Dương giờ mới hiểu ra, đèn cácbua sử dụng nguồn sáng hóa học, cấu tạo đơn giản nhưng chắc chắn, cácbua chỉ cần gặp nước sẽ lập tức bốc cháy, phát ra thứ ánh sáng màu trắng sáng, trong môi trường thiếu ôxy, nó sẽ tỏa ra màu xanh nhạt, đặc biệt thích hợp sử dụng trong các giếng quặng hoặc đường hầm, đó là vật dụng tất yếu của đội thám hiểm trong các chuyến hành động dưới lòng đất.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Hộp cất chứa cácbua phải kín không khí và chống ẩm, nếu không, nước thấm vào sẽ bắt lửa bén cháy. Sau khi đội thông tin gia nhập đoàn khảo cổ, đèn cácbua được giao cho Cao Tư Dương sử dụng, hộp cácbua dự trữ cũng cất cả trong ba lô của cô. Tuy đội thám hiểm chưa có ngòi dẫn cháy kéo dài giống như kíp dẫn hỏa chậm, nhưng chỉ cần mở buồng điều áp hai bên của tàu ngầm, nước ngầm sẽ chảy vào, nhấn chìm cả khoang chứa thùng dung dịch hydrogen, rồi có thể lợi dụng hiện tượng cháy của cácbua, dẫn nổ tàu ngầm Z-615.
Mọi người lập tức bắt tay hành động theo kế hoạch, nhanh chóng quay về khoang phụ, sau đó chui vào tàu ngầm, trèo xuống thang tàu ở hai bên boong, rồi rút lên bè gỗ. Tư Mã Khôi lấy dao chặt đứt sợi dây thừng nối bè với tàu ngầm, chiếc bè làm từ thân cây khô của loài thực vật thời tiền sử liền bị dòng nước xiết đẩy trôi, dập dềnh tiến về phía trước. Có lẽ tiếng mưa và màn sương đã che khuất mọi âm thanh và hơi thở, nên mọi việc được tiến hành một cách khá thuận lợi may mắn. Bè gỗ trôi qua bánh lái phía sau con tàu, đột nhiên một lằn sét lóe lên giữa không trung, cả hội nhìn thấy hơn chục cái bóng trắng lô nhô trên vỏ tàu đen xì, chúng đang chuẩn bị bò xuống nước với tốc độ mau lẹ.
Hội Tư Mã Khôi kinh hoàng than thầm trong lòng, người nào người nấy cuống cuồng quay báng súng xuống nước ra sức khua loạn xạ, nhưng thực ra tốc độ trôi của bè gỗ trên dòng nước xiết đã cực kì nhanh, nên chớp mắt đã bơi xa cả mấy chục mét, cách mạch núi Âm Sơn chẳng còn bao xa. Nhưng cùng lúc đó, cả hội cũng phát hiện trong làn nước và giữa những dãy núi phía xa, bọn xác chết đang lao vù vù đến gần. Mọi người biết, nếu chỉ dựa vào súng ống thì căn bản không thể áp chế được chúng, bây giờ chỉ cầu mong cho chiếc tàu ngầm Z-615 mau mau phát nổ, cả hội sẽ nhân cơ hội thoát thân, nhưng không hiểu sao chờ mãi mà vẫn không thấy động tĩnh gì.
Lúc này, Hải ngọng mới vỗ mạnh vào đầu, kêu lên: “Thôi toi rồi, khi nãy hình như tớ quên không tháo hộp kín chống ẩm bên ngoài viên cácbua, cácbua không tiếp xúc với nước sẽ không thể bốc cháy. Định luật Murphy đúng là dai như đỉa đói, cậu xem, sao nó không buông tha tớ thế hả?”
Tư Mã Khôi nghe xong, mũi suýt lệch sang một bên vì tức, anh xối xả: “Vứt mẹ cái định luật thối tha của cậu đi, tớ thấy không áp dụng biện pháp chủ nghĩa nhân đạo vĩnh hằng cho cậu thì không được”.
Hai người vừa đấu khẩu vừa sẵn sàng lên nòng khẩu súng đang cầm trên tay, chỉ đợi bọn ác ma trong Âm Sơn đến gần là xông lên liều mạng đánh một trận đến hòa vốn, nhưng bè gỗ không ngừng trôi về phía trước còn xung quanh vẫn không thấy có bất kì động tĩnh nào.
Mọi người thầm thấy lạ, sao bọn xác chết quanh đây lại bỗng dưng biến mất tăm mất dạng nhỉ? Tương truyền gỗ đào có thể trấn quỷ xua tà, chẳng lẽ mùi gỗ của cây cổ thụ, mà cả hội đang ngồi vượt biển, đã xua đuổi chúng? Loại gỗ thời tiền sử này tuy hiếm gặp thật, nhưng ngoài thớ gỗ mịn và chất gỗ rắn chắc ra, thì cũng không có điểm kì lạ gì khác, lẽ nào nó có khả năng khiến bọn quái vật kia sợ hãi bỏ chạy thật sao?
Bất giác, bè gỗ chạm phải một mỏm đá nhô ra, năm người đều thấy đáng nghi, nên nhất thời không dám mạo hiểm tiến vào. Ngọn núi trước mặt ngay ngắn, khoáng đạt như một tòa thành, phần lộ diện có hình nửa trên của chữ thập, dường như nó là một khối đá khổng lồ không thể tách nhỏ các phần, nằm ngủ im lìm trong biển nước quạnh vắng cô liêu. Bề mặt nó phủ đầy rêu xanh, trông đầy vẻ âm u và hoang vắng thê lương, những vết nứt sâu rộng, hình thành do thời gian và môi trường xâm thực, đã tạo nên vô số thâm cốc, khe rãnh. Trên cao, mây quyện vào sương mịt mùng, bởi vậy rất khó quan sát diện mạo tổng thể của hòn đảo. Mọi người thấy rờn rợn, không ai dám thở mạnh.
Tư Mã Khôi SỜ lên bề mặt đá vằn vện loang lổ, phát hiện địa chất và màu sắc nhang nhác giống gạch xếp, anh thầm nghĩ: “Lẽ nào đây chính là núi Âm Sơn trong truyền thuyết vu thuật thời Sở sao? Trung Quốc cổ đại có điển tích núi tiên trôi trên biển, phương Tây lại có truyền thuyết hoàng tuyền dưới lòng đất, nếu ai uống nước ở dòng suối này sẽ trường sinh bất tử, bỗng dưng chán ngán sự đời, thăng thiên về với Chúa, có điều không một ai biết suối nguồn trong truyền thuyết ở đâu. Tư Mã Khôi thấy cảnh tượng nơi đây núi cao nước thẳm, quanh núi Âm Sơn lại mai phục toàn bọn xác chết, có nét hao hao giống với truyền thuyết trong thần thoại cổ xưa, hay nói cách khác chúng giống nhau về bản chất, chỉ biểu hiện bên ngoài có điểm khác biệt mà thôi. Tư Mã Khôi thấy nét mặt Nhị Học Sinh là lạ, liền hỏi: “Chú phát hiện ra điều gì à?”
Nhị Học Sinh len lén như thể sợ kinh động đến thứ gì rất đáng sợ, hai mắt cậu ta nhìn chằm chằm vào khẩu súng trường Tư Mã Khôi đang cầm trên tay, thì thầm nói: “Chỗ này có gì đó rất bất thường, nó khiến tôi nghĩ đến….”
Tư Mã Khôi phẩy tay: “Con mẹ chú, chuyện bé xé ra to! Thế mà anh còn định tin lời chú cơ đấy. Địa hình ngọn núi này tuy kì quái hiểm trở và cảm giác không được hài hòa cho lắm, nhưng thế thì liên quan gì đến khẩu súng M-1887 của anh cơ chứ?”
Nhị Học Sinh hỏi: “Anh có biết vì sao người ta lại đặt cho khẩu súng này là Winchester Model -1887 không?”
Tư Mã Khôi: “Chủ hỏi đầu gối nó cũng biết, Winchester là xưởng chế tạo vũ khí nổi tiếng của Mỹ, loại vũ khí mà đội thám hiểm Taninth mang theo này được sản xuất năm 1887, sử dụng cơ chế lên đạn bằng cách kéo thoi nạp đạn, tuy nó dùng loại đạn ghém cỡ 12 không nhả khói, nhưng sau đó, anh phát hiện là người ta đã lắp thêm hệ thống rãnh xẻ, để khi ra khỏi nòng, đạn tụ thành một khối, tuy làm vậy sẽ giảm nhẹ lực sát thương bề mặt, nhưng bù lại thì uy lực lại tăng lên đáng kể, thích hợp với môi trường chật hẹp và hay thay đổi dưới lòng đất. Loại súng này có thể coi là súng trường, đến tận bây giờ vẫn chưa lạc hậu, vì tính năng rất ưu việt.”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Nhị Học Sinh nói: “Chuyện này tôi cũng chỉ nghe kể lại thôi, khẩu súng anh đang cầm trên tay do công ty chế tạo vũ khí liên thanh của Mỹ sản xuất. Súng họ sản xuất rất nhiều model khác nhau và được ứng dụng rộng rãi trên toàn thế giới, và cũng bởi thế, mà vong hồn chết dưới họng súng M-1887 nhiều không kể xiết, rồi từ đó hàng loạt tai họa đã không ngớt xảy ra với gia tộc này. Thực ra, người phương Tây cũng rất mê tín, họ xây một tòa nhà lớn, hậu thế gọi tòa nhà này là ‘ngôi nhà ma Winchester’. Trong kết cấu kiến trúc của tòa nhà, có một vài vị trí bị cố ý thiết kế một cách méo mó lệch lạc, tương truyền làm cách này để ‘mang ý thay đổi’, có tác dụng nhốt giữ những oan hồn muốn hại gia tộc”.
Hội Tư mã Khôi chưa bao giờ nghe kể về chuyên này, nên đều cảm thấy khó tin. Trên đời có bao chuyện bịa đặt, nhưng ít nhiều nó cũng phải bám vào cơ sở thực tế, lẽ nào người phương Tây lại hiểu bí thuật phong thủy để bố trí hướng nhà theo âm dương ngũ hành sao? Tư Mã Khôi không đếm xỉa đến lời Nhị Học Sinh nói, giục mọi người vác súng men theo con đường ngoằn ngoèo bên rìa núi, tiến về phía trước.
Nhị Học Sinh kiên quyết khẳng định, chuyện này hoàn toàn không phải bịa đặt. Nghe nói nhờ sản xuất và buôn lậu súng ống, công ty vũ khí liên thanh của Winchester đã kiếm được khoản lợi nhuận khổng lồ, nhưng không hiểu sao các thành viên trong gia tộc lại lần lượt chết một cách bất đắc kì tử, rồi cuối cùng chỉ còn lại mỗi cô em gái tên là Sara kế thừa toàn bộ gia sản. Rủi thay, chồng con của Sara cũng nối nhau qua đời, khiên Sara trở thành quả phụ ngồi giữ núi vàng. Một hôm, bà ta đi xe ngựa ra ngoài, vô tình chẹt chết một con mèo đen. Từ đó, phu nhân thường thấy con mèo đen ngồi ngay sau lưng mình mỗi khi soi gương, nhưng khi bà ta quay người lại, thì phía sau trống trơn không có gì; đêm đến bà cũng liên tục mơ thấy ác mộng, và chỉ cần nhắm mắt là đã cảm nhận luồng âm phong lạnh lẽo thổi quanh giường.
Tuy Sara không phải người sùng tín, nhưng bà ta vẫn mời một vu sư đến, với hi vọng ông ta có thể dùng vu thuật xua đuổi tà ma. Vị vu sư nọ xem quẻ xong, thấy khí số của gia tộc Winchester đã tận, những vong hồn chết thảm dưới họng súng sớm muộn gì cũng tìm đến đòi trả món nợ máu, mà tất cả những chuyện kinh dị đang diễn ra chỉ là màn khởi đầu, còn tai họa khủng khiếp hơn sẽ dồn đập xảy đến trong tương lai gần. Bấy giờ, phu nhân chỉ có hai lựa chọn, thứ nhất là tán tận toàn bộ số di sản khổng lồ, bởi vì số tiền này đều được đánh đổi bằng mạng người, nên đó là đống tài sản bị nguyền rủa, ai sở hữu nó thì người đó sẽ bị vận rủi đeo bám. Lựa chọn thứ hai là chống lại số mệnh, đương nhiên, đây là con đường vĩnh viễn không thể quay đầu trở lại.
Sara là quả phụ cô độc không chồng không con, bạn bè thân thiết hầu như đều chết hết, nhưng bà ta lại là người có tính cách cứng cỏi, không cam tâm từ bỏ cuộc sông xa hoa, nên nghĩ tới nghĩ lui, cuối cùng bà ta quyêt định lựa chọn con đường thứ hai, dùng chính số tài sản bị nguyền rủa đó để bảo vệ bản thân.
Theo chỉ dẫn của vu sư, nếu muốn sống sót, bà ta phải chuyển đến bờ biển phía tây, xây một tòa nhà mới và ở trong đó, nhưng tòa nhà này vĩnh viễn phải ở trong trạng thái đang xây đựng dở, liên tục thi công, cũng liên tục sửa chữa, ngày nào quá trình thi công kết thúc, thì ngày đó sẽ là ngày tận số của Sara.
Ngồi nhà ma Winchester nổi tiếng được ra đời từ đó. Tòa nhà ấy liên tục được xây dựng trong suốt 38 năm. hàng trăm căn phòng không ngừng được xây lên rồi lại phá đi, khắp tòa nhà chằng chịt hệ thống mật thất và đường ngầm. Bà ta muốn lợi dụng một bố cục giống như mê cung để buộc hồn ma phải đi lòng vòng, quẩn quanh khắp ngôi nhà, bởi vậy ngôi nhà không được thiết kế theo ý nghĩa nhà ở thông thường, mà kết cấu của nó vô cùng quái dị, bậc trên cùng của cầu thang có khi là bức tường cụt, mở cửa sổ ra chẳng ngờ lại là bậc thang, khắp tòa nhà rộng lớn không hề treo một mảnh gương nào.
Số tiền Sara phải bỏ ra để xây dựng tòa nhà cơ hồ đã dài bằng con số thiên văn, và bà ta cứ tiếp tục cho xây dựng căn nhà đến tận ngày Chúa gọi về trời. Sau đó, tòa nhà Winchester trở thành di sản của địa phương, viện bảo tàng quyết định mở cửa đón khách vào tham quan, nhưng cánh cửa chính lệch hướng của tòa nhà không bao giờ được mở ra, mà ngay cả tổng thống Mỹ từng vào đây tham quan cũng không dám đi băng lối cổng chính. Có lẽ người ta cho rằng, u hồn ác linh không thể đi qua cánh cửa ấy, ngay cả người sống nếu bước vào cũng sẽ gặp điềm gở. Đúng như dân gian vẫn nói, khi người ta đã ước định với nhau rằng, tuyệt đối không được làm điều gì hoặc tuyệt đối không được nói điều gì, thì điều đó chính là “cấm kỵ”.
Mọi người lắng nghe Nhị Học Sinh kể hùng hồn như thể chuyện đó có thật rành rành. Hành vi và tư duy của bà quả phụ thừa kế khối tài sản khổng lồ nọ, đã khiến người ta rất khó lý giải, nhưng thế thái muôn hình vạn vẻ, chuyện kì lạ gì mà chẳng có. Thực ra, điều Nhị Học Sinh muốn nói với mọi người là hình thế của núi Âm Sơn rất kì quái, nó không phù hợp với trạng thái bình thường của giới tự nhiên, bởi vậy ngay cả bọn xác chết chết cũng không dám đến gần, mà chỉ lởn vởn quẩn quanh bên ngoài, nhờ vậy, đội thám hiểm mới chạy thoát thân.
Vừa đi vừa nói, chẳng mấy chốc cả hội đã đên chân núi. Lúc trước, mọi người nhìn thấy bóng núi mờ đen từ xa nhờ ánh sét vụt lóe trên cao, đoạn lưng chừng núi có phần đột ngột nhô ra giống hình nửa trên chữ thập. Giờ đây khi đã đến thật gần, họ mới phát hiện, thì ra đó là một huyệt động khổng lồ. Nó to đến nỗi trông không cân xứng với chỉnh thể chung của trái núi một chút nào, như thể người ta đào hai phần ba trái núi làm huyệt động và chỉ chừa lại mồt phần trái núi để phủ lên động vậy.
Mọi người thầm kinh ngạc, dừng chân soi đèn quặng khắp bốn phía xung quanh, chỉ thấy những khe nứt bên ngoài động chất đầy xương trắng, đa phần đều là xương ma núi Âm Sơn đã chết từ nhiều năm trước Điều đó chứng minh, suy đoán của Nhị Học Sinh không chính xác, bọn quái vật bị thoái hóa này rõ ràng đã ẩn nấp nhiều năm trong thủy thể và hang động dưới lòng đất chứ không phải không dám bén mảng vào núi giống như hồn ma không dám đến gần ngôi nhà ma Winchester. Có điều, theo lẽ thường, người sống đi vào đây, thì chắc chắn chúng phải ùa ra cắn xé, nhưng bây giờ tình hình lại “trái với lẽ thường”. Tư Mã Khôi đã dự cảm, phía sau những dấu hiệu khác thường ấy, nhất định còn ẩn chứa những nguy hiểm vô cùng khủng khiếp.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ hai
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ĐỘNG TO HƠN NÚI
Cổ thuật tướng vật có câu: “Âm dương không biết, ấy gọi là ma; huyền thâm không hay, ấy xưng là thần”. Hang động khổng lồ mà hội Tư Mã Khôi phát hiện thấy trong núi Âm Sơn vừa vặn ứng với câu nói đó.
Thắng Hương Lân chưa bao giờ nhìn thấy loại địa mạo địa chất nào như vậy. Cô thò đầu vào trong quan sát một hồi, rồi càng nhìn càng thấy nó sâu hun hút, không rõ rốt cuộc sâu bao nhiêu. Cô quay sang nói với mọi người: “Các anh xem, hình như đây là trái núi bị rỗng ruột hoàn toàn vậy”.
Cao Tư Dương cũng ngạc nhiên hết sức: “Trong rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá, huyệt động kì dị nào cũng có, nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy một sơn động lại quái lạ và đáng sợ dường này”.
Nhị Học Sinh gật đầu tán đồng: “Một số huyệt động dưới biển Âm Dụ quy mô còn lớn hơn thế này nhiều, nhưng không có cái nào trông quái dị như thế, chẳng những vậy, cảm giác thiếu hài hòa một cách đáng sợ này thực sự rất khó dùng từ ngữ để hình dung…”
Hải ngọng phẩy tay: “Thế mà cũng phải khó hình dung, chuyện gì chẳng lấy được ví dụ. Ví dụ thế này nhé, đầu chú mày là quả núi, mắt, mũi, miệng, tai là hang động trong núi, mặc kệ phần phía dưới cổ trông tròn méo héo hó thế nào, thậm chí trong não hoàn toàn trống hoác cũng không có gì quái lạ, nhưng chú thử nghĩ xem, nếu cái miệng của chú lại chiếm đến hai phần ba diện tích khuôn mặt, thì kinh dị quá đi mất.”
Nhị Học Sinh nghe Hải ngọng lấy ví dụ, tuy có hơi kì lạ, nhưng lại vô cùng thích hợp, và cụm từ khái quát chính xác và trực quan nhất để hình dung huyệt động này là “động to hơn cả núi”.
Trước đây, Tư Mã khôi suy đoán, núi Âm Sơn trong truyền thuyết có lẽ được hình thành do mạch nham thạch dưới lòng đất rơi xuống, chầm chậm trôi nổi quanh vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc trong thủy thể. Nếu nó chỉ là một hang động trong núi sâu thì cũng không có gì kì lạ, nhưng đằng này nó lại là một trái núi bị rỗng hoàn toàn phần ruột, thật quá ngoài sức tưởng tượng. Vì môi trường xung quanh tối đen như mực, nên anh không thể quan sát địa hình địa mạo ở đây ra sao. Tư Mã Khôi cũng không dám xác định, liệu nhật quỹ có ở trong này thật không. Tương truyền, nhật quỹ xuất hiện từ thời hằng cổ, nó là vật để đo đất trời, có khả năng tự vận hành. Có lẽ, hoàng đế Huyên Tuyên đã lợi dụng nguyên lý về núi điện từ trong lòng đất để sáng tạo ra cỗ xe chỉ nam cũng nên. Ngoài ra, ở nơi sâu bên trong ngọn núi này còn chôn giấu rất nhiều vàng và pha lê, cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương cũng được lấy ra từ đây, còn nhật quỹ chính là con đường thâm nhập xuống vực sâu trong núi, rồi tận cùng của con đường đó tồn tại lời giải mà những kẻ may mắn sống sót của đội khảo cổ đang muốn kiếm tìm. Giờ đây, muốn lội nước ngược dòng, quay đầu lại cũng khó, vì vậy cả hội đành buông xuôi mọi hồ nghi, lo lắng, để bước tiếp. Tuy nhất thời không đoán được trong huyệt động có thứ gì, nhưng họ vẫn cố tự an ủi rằng: huyệt động trong núi dẫu có sâu rộng khó lường, nhưng chắc không đến nỗi là một huyệt động không đáy.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi hạ quyết tâm liều đến cùng, anh liền bảo Nhị Học Sinh chia hết nến dưỡng khí, đuốc và đạn dược trong ba lô cho tất cả mọi người.
Nhị Học Sinh vừa phân phát vật phẩm, vừa ủ ê mặt mày nói với Tư Mã Khôi: “Súng ống đạn dược thì còn nhiều, nhưng đuốc và nến tín hiệu thì dùng thanh nào hết thanh đó, nguồn năng lượng chiếu sáng như pin và cácbua cũng chỉ có hạn, nếu không dùng tiết kiệm, chỉ sợ không trụ được mấy ngày nữa đâu…”
Hải ngọng nói: “Lương khô và đồ hộp còn hết sạch sành sanh rồi cơ, tôi đoán chưa đợi đến lúc trời tối, chúng ta sẽ đói đi không nổi nữa cho mà xem”.
Tư Mã Khôi nói: “Nếu trong thời gian ngắn mà chưa tìm thấy lối ra khỏi vòng tròn ma quái, thì tất cả mọi người sẽ biến thành xác chết trong núi Âm Sơn, vì vậy những chuyện khác đừng bận tâm vội, mà trước tiên trụ được ngày nào hay này đó đã”. Nói xong, anh cầm bút viết lên mu bàn tay mấy hàng chữ để tự nhắc nhở mình: “Khi bắt đầu xuất hiện dấu hiệu mất trí nhớ, tuyệt đối đừng quên bắn một phát vào đầu”. Ghi xong, anh lấy lại tinh thần, chuẩn bị chui vào trong thăm dò tình hình, nhưng vừa mới bước được vài bước, thì đột nhiên anh ngửi thấy một mùi hôi thối của tử thi bốc lên từ phía sau, cái mùi đó đã nhiều lần xuất hiện trong biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, và dường như đó là lão thổ tặc chuyên hái thuốc và tiêu lộc.
Tư Mã Khôi vừa nghĩ đến đây, tim đã thắt lại như bị ai bóp nghẹt: “Chẳng lẽ lại là tên Lão Xà luyện công phu cương thi đó thật sao?”
Lúc tượng thần thú “tải” rơi xuống lòng thủy thể, Tư Mã Khôi đã tận mắt nhìn thấy gã bị con quái ngư nuốt mất quá nửa thân người, chỉ thò mỗi cái đầu và cánh tay ra ngoài miệng cá. Dầu gã có dị thuật thiên phú hay uống linh chi ngàn năm, thì vẫn chưa đến trình độ 72 phép thần thông biến hóa, bởi vậy, dù không bị chôn thây trong bụng cá, thì cũng tuyệt đối không thể sống thoát khỏi đại nạn, và chắc chắn gã đã sớm biến thành cỗ tử thi về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Thế nhưng sao cỗ tử thi của gã thổ tặc đang trôi nổi trong làn nước bao la cuộn sóng, lại xuất hiện ở núi Âm Sơn được?
Đầu Tư Mã Khôi lóe lên một suy nghĩ, anh vội quay người lại sau, phát hiện hội Hải ngọng vẫn ở sát ngay bên, chỉ duy Nhị Học Sinh là biến mất dạng.
Mọi người đều là những người từng bước chân qua địa ngục, chịu đựng mọi sự khảo nghiệm ác nghiệt, lăn lộn bao năm nơi đường biên của sự sống và cái chết, nên giờ khá hiểu nhau, ba người còn lại thấy Tư Mã Khôi đột nhiên quay người lại, thì đều cảm thấy tình hình phía sau có biến, nên ai nấy vội vàng tản ra mấy bước, tay cầm chặt súng, giơ cao đèn quay lại phía sau, nhưng chỉ thấy sau lưng một khối đen sì sì, không hề có hơi khí của người sống.
Mọi người nhớ là Nhị Học Sinh vừa mới ở quanh đây, tay còn cầm đèn pin soi loạn xạ, thế mà mới trong thời gian chớp mắt, sao bảo biến mất là biến mất ngay được.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi phát hiện mùi tử khí càng lúc càng nồng nặc, anh ra hiệu bảo cả hội tiến từ từ về phía trước, ánh sáng đèn quặng cũng từ từ đẩy về trước theo từng bước chân. Chùm sáng đột nhiên soi thấy khuôn mặt của Nhị Học Sinh trong bóng tối, khuôn mặt trắng bệch, ngũ quan méo méo, hai mắt trợn trừng, miệng há rộng, cả thân người cứng đơ, bất động, và rõ ràng là đã tắt thở. Phía sau lưng cậu ta thò ra một khuôn mặt khác, khuôn mặt quái dị, ướt ròng ròng, trông như mặt vượn cổ, trên má còn hằn rõ một vết dao rạch, vết rạch đó giống như khuôn miệng đứa trẻ, đang hé ra cười, bên trong lộ ra phần da thịt trắng bệch, mủn nát.
Mọi người vừa kinh hãi, vừa ngạc nhiên, kẻ mới đến không phải Lão Xà thì còn ai vào đây nữa, vết thương trên mặt gã là do Hải ngọng phi dao vào. Tên gian tặc này giỏi sử dụng “tứ khí ngũ vị”, luyện được món công phu mình đồng da sắt, dẫu bị chôn sống trong mộ huyệt, vẫn còn thể nhịn thở sống dậy. Nhưng lúc này, xem bộ dạng gã thật thảm hại, nơi lẽ ra là hai con mắt vằn đỏ tia máu, thì giờ đây chỉ còn một cặp hốc đen ngòm, trên người gãy liền mấy khúc xương sườn, lòi cả đoạn trắng ởn ra trước ngực, trông gã đúng là đã chết đến mức không thể chết hơn được nữa, không còn dấu tích nào của người sống. Có lẽ gã biến thành cương thi, rạch nát bụng cá thoát thân, âm hồn chưa tiêu tan nên bám theo thân xác tàn tạ, mò đến tận đây.
Mọi người vừa đau lòng vì cái chết của Nhị Học Sinh, vừa kinh ngạc với cỗ thi biến của gã thổ tặc. Tư Mã Khôi cảm thấy luồng khí lạnh thấu xương khiến da nổi hết gai ốc, tất cả những chuyện quái dị lúc trước xảy ra trong tượng thần thú “tải”, giờ đây đều hiện lên trong đầu anh. Khi ấy, anh đã bỏ ngoài tai mọi điều cấm kỵ, liều lĩnh mở chiếc hộp đồng của Sở U Vương, bị di hài trong hộp thu hút, rồi âm phong trong đáy động bỗng nhiên nổi lên, mây từ dày đặc ùn ùn phun ra, có lẽ đó chính là lúc lũ yêu quái, mà bích họa Sở quốc miêu tả là “tiên nữ trong hộp” xuất hiện. Cùng thời điểm đó, Hải ngọng bị rơi vào sương đen và tử vong tại trận, mọi người buộc phải lùi vào trong lòng tượng thần thú trốn tránh, sau đó, Hải ngọng đột nhiên hoàn hồn sống dậy, khiến gã thổ tặc kinh sợ chạy ra khỏi động, rồi sa chân vào trong màn sương đen, không rõ tung tích thế nào.
Đến khi hai bên gặp lại nhau, thì Tư Mã Khôi lại thấy một cánh tay đen sì sì của Lão Xà thò ra khỏi miệng cá, và dường như gã đã mất mạng trong sương đen, nhưng bị yêu quái trong mây từ chui vào cơ thể, và dường như lũ yêu quái được mô tả trong bích họa, buộc phải mượn xác người chết, thì mới có thể rời khỏi sương đen. Bọn chúng phải làm tê liệt con mồi trong khoảnh khắc, biến họ thành trạng thái cứng đơ, rồi sau đó mượn xác của họ đi lại. Điều kiện để chúng có thể sử dụng cái xác vĩnh viễn là khiến kẻ cho mượn xác phải chết hẳn, nếu không chủ nhân cái xác vẫn còn khả năng sống lại; đó cũng là cách giải thích hợp lý duy nhất về hiện tượng Hải ngọng đột nhiên trở thành “vịt giời nhập tràng” lúc trước. Bởi vậy, cái xác theo chân đội thám hiểm đến núi Âm Sơn không phải là Lão Xà, mà là “tiên nữ”, kẻ nhiều lần xuất hiện trong bích họa của Sở quốc.
Nhưng nếu gã thổ tặc đó là cương thi, chết rồi mà vẫn chưa siêu thoát được thì còn dễ đối phó, vì kiểu gì cũng còn có hình có chất, còn thứ quỷ quái mô tả trong bích họa vu thuật thời Sở, thì không biết rốt cuộc là thứ chết tiệt gì, bây giờ chỉ có thể khẳng định một điều, thứ đó trốn trong xác của gã thổ tặc và trôi theo dòng nước đến đây. Gã thổ tặc kia tuy có cơ thể rắn chắc hơn người bình thường, nhưng trôi nổi bấy nhiêu thời gian trong biển nước cuồn cuộn mênh mông, cũng không thể tránh khỏi sắp mủn như mùn, bởi vậy, nó mới muốn tìm một cái xác mới để thay thế. Nó bám theo hơi thở và nguồn sáng để đến tận cửa động, Nhị Học Sinh bất cẩn nhất nên bị nó ra tay khống chế, cậu ta liền rơi vào trạng thái thể xác cứng đờ.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi như vậy, hàng loạt nghi ngờ và suy đoán ùa đến trong đầu Tư Mã Khôi, anh biết rõ: bây giờ phải lập tức ra tay, nếu không đợi “nàng tiên” kia thoát ra khỏi cái xác của gã thổ tặc, rồi chui vào cơ thể đang cứng đờ của Nhị Học Sinh, thì có thuốc tiên cũng không cứu chữa được.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Ba người còn lại đều kinh hãi cực độ. Hải ngọng thấy khuôn mặt quái dị như vượn cổ kia đang thập thò phía sau Nhị Học Sinh, liền điên tiết hét lên: “Tiên nhân cái thằng sống dai như đỉa!” – Vừa mắng, anh vừa giương khẩu súng săn Canada trong tay lên bắn.
Tư Mã Khôi vội vàng ngăn lại: “Đừng dùng vũ khí, nó là yêu quái trong bích họa của Sở quốc đấy”.
Nhưng Tư Mã Khôi vẫn nói chậm nửa giây, Hải ngọng đã kịp bóp cò, chỉ nghe “pằng” một tiếng, lửa súng lóe lên, không rõ cái xác của gã thổ tặc di chuyển như thế nào mà trong nháy mắt đã âm thầm đứng sừng sững ngay trước mặt, Hải ngọng lạnh buốt tận tim gan, lông tóc dựng ngược hết cả lên, anh chưa kịp nói tiếng nào thì lưỡi đã cứng đờ, đổ vật xuống đất như khúc gỗ.
Tư Mã Khôi thấy đầu của cái xác bị súng săn bắn nát tươm, nhưng hai tay vẫn tự động vồ lấy thân thể cứng đơ của Hải ngọng, cổ họng phun ra một luồng khí đen cơ hồ có hình có chất, xộc thẳng vào trong miệng Hải ngọng, Tư Mã Khôi nhìn mà gai lạnh khắp người. Anh rất am hiểu thuộc tính của mọi vật trong thiên hạ, tuy không rõ “tiên nữ” trên bích họa vu thuật thời Sở rốt cuộc là thứ gì, nhưng trong khoảnh khắc chớp giật, anh đã nhận ra bản chất của vật này vô cùng âm lạnh, bởi thế nó mới bám đuổi theo nhiệt độ và ánh sáng. Đèn pin mà Nhị Học Sinh cầm trong tay là công cụ chiếu sáng mà cả hội tìm thấy trong tàu ngầm Z-615, độ sáng của nó hơn hẳn đèn quặng gắn trên mũ Pith Helmet của những người còn lại, bởi vậy, Nhị Học Sinh là người bị tấn công đầu tiên, còn Hải ngọng sử dụng súng săn, ánh sáng và luồng nhiệt tỏa ra từ súng lớn hơn ánh sáng của đèn pin, nên nó bỏ mặc thân thể đang cứng đơ của Nhị Học Sinh, quay đầu lao vào mục tiêu hấp dẫn hơn, súng cầm tay, đầu gắn đèn, là Hải ngọng.
Tư Mã Khôi thấy tình hình cấp bách, không còn cách nào khác, đành phải nổ súng, trước tiên phải dụ nó chui ra khỏi thể xác của Hải ngọng đã, tiếng súng chưa dứt, anh đã phát hiện khối sương đen trong cái xác đã giãy giụa chui ra, bọc lấy luồng âm phong, bay vèo đến trước mặt, nhưng chưa kịp chạm vào người anh thì nó lại quay sang hướng Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương đang đứng.
Thì ra, Thắng Hương Lân cũng là người nhanh trí không thua kém gì Tư Mã Khôi, cô biết “tiên nữ” đã chui vào người ai thì kẻ đó sẽ nguy hiểm đến tính mạng, cô ngăn Cao Tư Dương đang chuẩn bị nổ súng, rút thanh đuốc trong ba lô ra, định huơ huơ trước gió, hòng đánh lạc hướng nó ra xa, nào ngờ đám sương khí đó đến nhanh quá, vừa mới châm lửa, bó đuốc đã mờ tịt.
Gân xanh trên trán Tư Mã Khôi không ngừng giật giật, lòng thầm nghĩ bây giờ kéo dài được giây nào hay giây đó, anh cướp ngọn đuốc trong tay Thắng Hương Lân, rồi lao đi nhanh như một mũi tên. Tư Mã Khôi cảm thấy luồng khí lạnh buốt tận xương tủy đang bám riết sau lưng. Anh định thuận thế quăng thanh đuốc ra xa, sau đó nằm rạp xuống đất né tránh, đợi qua cơn này sẽ từ từ nghĩ cách xoay chuyển tình thế, nào ngờ trước mắt tối rầm rầm, anh không thể phân biệt được phương hướng trong hỗn loạn, vả lại anh dùng sức quá đà, không điều chỉnh được cự li, nên đã nhảy bổ vào một khe núi sâu hút, cả thân người anh như diều đứt dây, chỉ nghe “vù” một tiếng rồi cứ thế rơi tự do.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ ba
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">CHEO VEO
Tuy Tư Mã Khôi chưa đạt đến bản lĩnh khinh công “én liệng tầng không, chuồn chuồn chấm nước”, nhưng cũng từng luyện qua thuật “phiến cao đầu” của giới lục lâm, cơ thể nhẹ tênh như mây khí, nên cái gì cao siêu thì không nói, chứ leo tường vượt mái chỉ là chuyện nhỏ. Nhưng con người rốt cuộc vẫn không phải chim, lúc này anh đột nhiên thấy chân mình giẫm hụt xuống động sâu, chân không tới đất, cật không tới trời, mà muốn quay lại cũng không được. Tư Mã Khôi nghe tiếng gió vù vù không dứt, tự biết bất kể huyệt động núi Âm Sơn sâu nông thế nào, nhưng chắc chắn phải sâu hơn 20 mét, vì phạm vi đèn quặng không chiếu tới đáy, với độ sâu ấy thì cũng đủ để thịt nát xương tan, một sống chín chết, nghĩ đến đây mà lòng anh ớn lạnh.
Lúc này, hai tay Tư Mã Khôi vẫn cầm súng và đuốc, bất kể gió tạt, mưa ướt, thanh đuốc dầu cá vẫn không tắt, nó loang loáng soi những nét vằn vệt trên vách đá, hai bên vách cơ hồ có thể chạm tay vào được, nếu nhờ vào bản lĩnh “bọ cạp đảo đầu leo tường”, anh vẫn có thể bám trụ lại trên vách, ngặt nỗi khoảng cách từ chỗ anh đến vách đá còn xa tầm ba đến năm mét, mà vách lại lõm vào trong, rất khó chạm tay tới, vả lại cơ thể anh đang trong trạng thái rơi xuống với tốc độ chóng mặt, nên không thể mượn lực bay sang ngang được.
Tư Mã Khôi hiểu rõ sống hay chết được quyết định chỉ trong thời gian khoảnh khắc, nên bản năng mưu cầu sinh tồn đã khiến anh gắng hết sức nhoài người vào vách. Tư Mã Khôi thả bó đuốc xuống, bắn một phát súng vào bờ đá, lực đẩy về phía sau của loại đạn cỡ 12 khiến người Tư Mã Khôi hơi dạt sang phía đối diện, giúp phần ngực bụng được trợ lực trong không trung. Tư Mã Khôi vứt súng, lộn một vòng hướng về phía vách đá, đầu ngón tay chạm vào những nếp nhấp nhô trên bề mặt vách và bám chặt vào đó.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Môn công phu “bọ cạp đảo đầu” gia truyền của Tư Mã Khôi, muốn nói gì cũng là đệ nhất trong bốn tuyệt kỹ lục lâm. Muốn học môn công phu này, ngoài việc rèn luyện lực của khuỷu tay và gót chân ra, thì trong lúc luyện tập còn phải đóng một cái đinh trên tường, rồi ngoắc một ngón tay lên chiếc đinh đó, treo mình lơ lửng cách mặt đất mấy mét, bởi vậy thuật treo người leo trèo của anh đã
thực sự là một tuyệt kỹ; có điều, tình trạng lúc này là thừa chết thiếu sống, nên khắp người anh ướt đầm mồ hôi lạnh
Chưa kịp thở ra, thì đột nhiên Tư Mã Khôi thấy một vệt sáng mờ mờ trên vách đá ở ngay cạnh sườn. Ban đầu anh còn ngỡ mình bị rơi xuống, chóng mặt quá nên nảy sinh ảo giác, nhưng dụi mắt nhìn kỹ lại, Tư Mã Khôi mới phát hiện hình như đó là tàn tích phốt pho còn sót lại trên vách động, bị vật gì đó chà sát nên bén thành một quầng lửa ma trơi. Trong vầng quang sương thấp thoáng thân hình một cô gái, chân tay mảnh và dài, nhưng không nhìn rõ mặt mũi cụ thể ra sao.
Tư Mã Khôi kinh hãi thất sắc, con yêu quái trong bích họa vu Sở quả nhiên có âm hồn. Khi xưa, nước lũ ngập mênh mông, Vũ Vương đào kênh trị thủy, vết tích vũ khư trải rộng khắp bốn cực, rồi ngài lại cho khắc hình của vạn vật li kì quái dị trên thế gian lên đỉnh đồng Đồ Sơn, cho hậu thế biết trước về những loài quái vật này, để đề phòng bị chúng hãm hại. Hình họa trong Sơn Hải Đồ bao la vạn tượng, ngay cả các sinh vật hóa thạch sống tiền sử dưới biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá cũng được liệt kê vào đây, vậy mà tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của “tiên nữ” đâu cả. Trong khi đó, hình thái ghi chép của bích họa thời Sở lại thần bí quái dị, chiếc hộp bên ngoài cũng có thể tượng trưng cho xác người, chẳng lẽ người Sở muốn ám chỉ nó có khả năng mượn xác dạ hành? Nội dung hư hư thực thực, không biết đâu mà lần. Ngoài ra, vật đó còn nuốt nhiệt quang, nên hầu như không có cơ hội nhìn thấy hình hài thật sự của nó.
Tư Mã Khôi sững người giây lát, âm hồn kia đang bò sát đến gần anh. Lúc này, anh có thể quan sát nó rõ hơn, càng nhìn lại càng kinh ngạc. Tư Mã Khôi thấy vật đó như một nhúm sương đen, gần như hữu hình vô chất, tứ chi bám vào vách động, mang theo quầng sáng lân tinh, luồng âm phong lạnh teo teo thổi vào tận xương tủy. Anh bất giác run cầm cập. Nhờ luồng khí lạnh, anh mới tỉnh người, mở miệng chửi: “Con ranh con!” – rồi vội vàng giở chiêu “bọ cạp đảo đầu leo tường”, trốn vào khe đá. Chết nỗi, vách động dựng đứng khác thường, ánh sáng của đèn quặng không phát huy được nhiều công dụng trong huyệt động tối tăm, nên muốn trốn cũng không kịp. Anh đã cảm thấy một sức mạnh khủng khiếp giữ chặt lấy mình, không thể giãy giụa thoát ra nổi.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi biết, nếu chạm phải âm hồn kia, toàn thân anh sẽ cứng đơ như thanh củi khô, rồi sau đó thì đành để nó muốn làm gì thì làm. Lúc này, anh cảm thấy nó đã bám sát ngay sau lưng, lòng bất giác hoảng loạn, bàn chân trượt một cái, suýt chút rơi cả người xuống vực, nhưng sau đó anh lại thấy, chân tay vẫn có thể cử động bình thường. Nhờ ánh lửa ma trơi trên vách động, Tư Mã Khôi quay đầu lại nhìn, thì ra âm hồn giống như cụm khói kia đã thò cánh tay dài ngoằng tóm trúng ba lô sau lưng anh.
Tư Mã Khôi mừng thầm: “Đội ơn ông bà ông vải!” rồi vội vàng tháo bỏ dây ba lô, thuận thế trèo nhanh xuống đáy động. Lúc này, một ý nghĩ thoáng hiện qua và anh để mặc cho mình rơi tự do. Anh biết, bất kể mình gắng sức vẫy vùng thế nào, thì cũng không thể thoát khỏi sự bám đuổi của âm hồn, vì nó nuốt nhiệt quang, còn anh lại không thể nhìn thấy cơ thể của nó, nên anh hầu như không có đất chống trả, chỉ còn cách nhờ tới ánh sáng lân tinh, gắng nhìn rõ chân tướng của “tiên nữ”, thì mới biết, nó có điểm yếu hay không.
Giờ là thời khắc quyết định sinh tử, cơ hội không nắm lấy sẽ vụt mất, nên anh không thể suy nghĩ gì hơn. Tư Mã Khôi vốn là người có máu liều, sẵn sàng ăn gan hùm, uống mật gấu, thế là anh lập tức tắt đèn quặng, tuy không biết thuật “cương thi nín thở” của gã thổ tặc, nhưng anh cũng hiểu hơi thở của con người chính là sinh khí, khi thở ra trăm mạch dãn nở, khi hít vào trăm mạch co khép. Thế là, Tư Mã Khôi hít sâu một hơi, rồi nằm sát xuống đất, án binh bất động. Anh thấy vệt lân tinh bao bọc quanh nhúm khí đen bay từ trên xuống ngay cạnh mình, và quả nhiên di chuyển chậm hẳn lại.
Toàn thân Tư Mã Khôi bủn rủn, anh đánh liều đưa mắt nhìn sang, thấy trước mặt có thứ vật chất trong suốt với tầng cánh chuồn mỏng mảnh, nó đậu cheo veo trên vách động. Dưới ánh lân quang, anh có thể nhìn rõ bóng mình trong nó. Thứ vật chất trong suốt ấy có hình dạng gần giống một cái hộp, bên trong chứa một khối màu đen, khối đen đó có hình dạng như một cơ thể người, nói chính xác hơn là giống một cô gái có dáng điệu quái dị. Trên lớp ngoài trong suốt đó lại có nhiều chi, mỗi chi lại chia thành hơn chục đốt tơ gai.
Tư Mã Khôi chợt hiểu ra tất cả, thứ này có thể tạm gọi là sứa ma, hoặc sứa hộp tiên nữ. Sơn Hải Đồ trên đỉnh đồng Vũ Vương có nhắc đến rất nhiều vật quái dị vừa kì lạ vừa đáng sợ, có lẽ trong đó cũng ghi chép về vật này, nhưng lúc xem bản đồ, đầu Tư Mã Khôi lại mang suy nghĩ chủ quan, anh chỉ chú ý đến những hình vẽ phía dưới biển Âm Dụ trong Đại Thần Nông Giá, mà không để ý đến tình hình xung quanh vòng tròn ma quái. Vả lại đỉnh đồng có niên đại rất cổ xưa, hình vẽ cổ phác, khác hẳn với cách vẽ “tiên nữ trong hộp” của bích họa Sở quốc. Hơn nữa, ghi chép trên đỉnh đồng về nó cũng rất ít, đại khái chỉ có mấy dòng: “Cổ gọi là ‘phù cự’, treo mình cheo veo, thiên biến vạn hóa, bất khả cực tận”. Nếu chỉ nhìn mấy chữ triện cổ triều Hạ khắc trên đỉnh đồng, thì không thể hiểu nó có nghĩa gì. Qua mấy lần tiếp xúc, cuối cùng Tư Mã Khôi cũng nhận ra, phần hình người giống như cô gái chính là nội tạng của nó, bọc bên ngoài là một tầng keo trong suốt có khả năng co giãn tùy ý, quanh người nó mọc đầy xúc tu mang tơ độc, đủ làm con người cứng đơ trong thời gian nháy mắt. Cơ thể nó không có xương sống, nhưng có thể chịu đựng được áp lực khủng khiếp của sương từ. Khi ở trong sương từ, nó có sức mạnh khủng khiếp, nhưng hễ rời khỏi sương từ, nó không thể tồn tại được lâu, chính bởi vậy, nó phải mượn cái xác của gã thổ tặc bơi theo nước đến đây.
Đầu Tư Mã Khôi liên tiếp nảy ra mấy ý tưởng, nhưng không có đối sách nào khả dĩ, vì chỉ cần chạm nhẹ một cái, anh sẽ bị gai tơ của thứ giống như ma quỷ kia trói chặt, rồi trong chớp mắt, toàn thân sẽ tê liệt, mà ngay cả con ngươi cũng không chuyển động được nữa. Điều đó chứng tỏ độc tố của loài sinh vật này cực mạnh, trong vòng mấy giây đã kịp phát tán khắp cơ thể.
Tư Mã Khôi thấy khoảng cách giữa mình và “phù cự” càng lúc càng bị rút ngắn, anh đoán chiêu nín thở không phát huy được tác dụng lâu dài, rồi cử nghĩ đến cảnh bị con quái vật có nội tạng giống như ma nữ kia từ miệng chui vào cơ thể, là anh lại dựng hết cả lông tóc, bụng bảo dạ: “Hảo hán sợ gì thiệt trước mắt, bây giờ không chuồn thì còn đợi đến bao giờ!”. Nghĩ xong anh vội co chân bò xuống đáy động tối thui, ai ngờ con “phù cự” kia bám theo còn nhanh hơn. Tư Mã Khôi chưa kịp hạ chân xuống, thì đã thấy toàn thân lạnh ngắt, gai tơ của nó đã chạm trúng người anh.
Tư Mã Khôi đoán, “con sứa hộp tiên nữ” giống như âm hồn kia, chỉ thích ứng với môi trường trong sương, còn hễ rời khỏi sương, là nó bắt buộc phải tìm thể xác có máu thịt để duy trì trạng thái sinh tồn; không những vậy, nó còn phải không ngừng lặp đi lặp lại quá trình ấy. Lúc này, anh ép sát vào vách động tụt người xuống, nhưng không ngờ giữa chừng lại bị gai tơ của “phù cự” quấn chặt toàn thân, và trong nháy mắt mọi ý niệm trong lòng anh đều nguội lạnh.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi rơi xuống, phần nội tạng giống như ma nữ của phù cự cũng bị rơi theo, cái màng mỏng hình chiếc hộp gần như trong suốt, bỗng xòe rộng giống chiếc ô đang giương ra, cơ thể nó trùm cả lên người anh, khiến tốc độ rơi cũng giảm bớt.
Từ lúc Tư Mã Khôi tiếp xúc với gai tơ, đến lúc cơ thể cứng đơ, ý thức mơ hồ, tất cả quá trình đó chỉ diễn ra vẻn vẹn trong có mấy giây. Chính khoảnh khắc này lòng ham sống của Tư Mã Khôi lại trỗi dậy mãnh liệt, anh thực sự không cam tâm chịu chết tại nơi đây. Nhân lúc tay trái chưa bị tê liệt, anh mò nến dưỡng khí trong ba lô, cắn đứt vòng kéo, gí thẳng vào khoang bụng tựa đám sương đen kia, nhưng cánh tay anh còn chưa kịp duỗi ra thì đã mất tri giác.
Nen dưỡng khí vốn được cả hội cất trữ, để chuẩn bị cho lúc vào hang động gặp phải tình trạng thiếu dưỡng khí trong không gian kín mít và chật chội. Nó là chiếc hộp thiếc, dưới đáy có một tầng thuốc, và chỉ cần giật vòng kéo lên là nến sẽ cháy và cung cấp một lượng dưỡng khí nhỏ. Lúc này, tiếng “soạt” trong tay Tư Mã Khôi vang lên, nến vụt sáng. Phù cự bị nhiệt quang thu hút, nó lập tức thò cả người vào trong trùm lấy hộp nến dưỡng khí. Nào ngờ, miệng hộp dưỡng khí rất bé, khi phần ruột giống như sương đen vừa chui vào trong, thì lửa nến phút chốc bị tắt ngấm, chiếc hộp hình thành trạng thái chân không, hút chặt nội tạng của nó vào bên trong. Loài sứa ma hay sứa hình hộp chứa tiên nữ này không có xương sống, nên thân hình có thể biến hóa to nhỏ tùy ý, thậm chí có thể thu gọn thành một nắm nhỏ đủ để chui vừa miệng người, nhưng rốt cuộc nó vẫn là vật có hình có chất, phần trên cùng của khoang ruột co bóp lại thành hình tròn, chỉ nhỏ bằng một nắm đấm, đó là phần nhạy cảm nhất của phù cự. Lúc này, nó bị hộp thiếc hút vào trong, giãy giụa kiểu gì cũng không thoát ra được, hơn nữa cơ thể nó chỉ có một lớp màng mỏng bọc bên ngoài, nên sau một tiếng “rột”, màng bọc nội tạng của nó đã rách toạc ra, rồi trong phút chốc, dịch đen trào ra đầy khoang, và thứ chụp lên người Tư Mã Khôi lúc cùng rơi xuống đáy động bỗng dưng biến mất, nhanh như thể bốc hơi lên trời.
Huyệt động Tư Mã Khôi rơi xuống không sâu lắm, hơn nữa anh lại được sứa hình hộp chứa tiên nữ bám vào người, xòe ô làm giảm tốc độ rơi, nhưng lúc anh tiếp đất vẫn bị sây sát hết cả người, có điều, do cơ thể đang tê liệt, nên anh không cảm thấy đau. Một hồi sau, Tư Mã Khôi mới liên tiếp nôn ra mấy ngụm nước đen, thần trí mê man, tựa hồ vừa mới trải qua một lần chết, mắt anh hoa thành từng quầng xanh đỏ tím vàng, anh thấy những thành viên còn lại cũng đã xuống tới đáy động.
Tư Mã Khôi nghe mọi người kể lại đầu đuôi, mới biết sau khi anh rơi xuống động, Thắng Hương Lân sợ Tư Mã Khôi xảy ra điều bất trắc, liền vội vàng tuột xuống theo, nhưng xuống tới nơi, chỉ thấy anh nằm cứng đờ trên mặt đất, không thấy âm hồn kia đâu nữa. Hai người còn lại trúng độc tương đối nhẹ, lần lượt tỉnh lại, rồi cùng Cao Tư Dương kéo nhau cả xuống đây, đến lúc thấy Tư Mã Khôi đã qua cơn nguy kịch, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm.
Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Lũ ranh con trong bích họa rốt cuộc là thứ gì hả Khôi? Cậu xử lý bọn nó gọn gàng hết rồi à?”
Tư Mã Khôi cử động cánh tay còn đang tê dại, anh thấy toàn thân đau nhức tận xương, không nhịn được nghiến răng hít một hơi, đầu óc trống rỗng, anh cố sức nhớ lại tình hình xảy ra ở mấy giây cuối cùng, đoạn trả lời Hải ngọng: “Hình như tớ… nhốt nó vào trong hộp rồi thì phải!”
Cao Tư Dương nói: “Khi nãy, anh nằm thẳng đơ như người chết, làm chúng tôi hết cả hồn, thế mà giờ đã có hứng tán hươu vượn rồi cơ à?”
Đầu óc Tư Mã Khôi tê rần, phải một lúc sau mới khôi phục lại thần trí, anh kể sơ lược cho mọi nghe tình hình lúc bấy giờ.
Mọi người nghe xong đều ngỡ ngàng, tuy cuối cùng cũng giải thích được hiện tượng dị thường xảy ra xung quanh chiếc hộp của Sở U Vương và thần thú “tải”, nhưng giải được câu đố này lại nảy sinh càng nhiều câu đố khác phức tạp hơn, và cả hội không thể lý giải được kẻ đã sai khiến gã thổ tặc ôm cỗ di hài chạy vào trong động là ai? Nhật quỹ có thực sự tồn tại hay không? Sơn động khổng lồ như một phép màu này rốt cuộc là nơi nào?
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tư
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">DẤU VẾT GỢN SÓNG
Cuộc đời Tư Mã Khôi đã trải qua rất nhiều trải nghiệm kì lạ, anh từng nghĩ, vận may trên gương mặt thần phật của quốc vương Chăm Pa, chiếc hộp thời gian trong biển cát cực vực Lopnor, vòng tròn ma quái dưới lòng thủy thể 30° vĩ Bắc, đều là những chuyện cổ quái kì dị nhất có thể tồn tại trên thế giới này, nhưng ngẫm lại, những chuyện này đều có manh mối lý giải, duy chỉ những gì liên quan đến Nấm mồ xanh là hoàn toàn đi vào ngõ cụt, nó khiến anh mãi luẩn quẩn trong “vòng tuần hoàn chết” mà càng lún lại càng sâu. Anh chỉ biết, Nấm mồ xanh luôn có ý đồ nắm bắt bí mật tồn tại dưới vực sâu, và giờ đây thì toàn bộ hi vọng chỉ treo trên một manh mối mờ mịt cuối cùng, đó chính là tìm thấy thông đạo dưới núi Âm Sơn trước Nấm mồ xanh một bước.
Sau khi bị rơi xuống khe núi, Tư Mã Khôi đã nhìn ra chân tướng thật sự của tiên nữ trong hộp nhờ vào ánh lửa ma trơi trên vách đá, rồi cuối cùng, giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, anh dùng nến dưỡng khí và đã đẩy nó vào chỗ chết. Cùng lúc ấy, anh cũng bị mất tri giác, sau đó hội Hải ngọng cũng mò xuống đáy động, bởi vậy chưa ai kịp quan sát địa hình bốn phía xung quanh.
Thắng Hương Lân châm đuốc, Tư Mã Khôi lần theo ánh sáng tìm ba lô và súng của mình, nhưng phát hiện khẩu M-1887 đã bị gãy, không sử dụng được nữa. Thắng Hương Lân thấy vậy liền đưa khẩu súng M-1887 của mình cho anh, rồi quay sang đòi khẩu P38 dự phòng của Hải ngọng.
Nguy cơ mà cả hội phải đối mặt lúc này chẳng khác nào “thanh kiếm Damocles”
(1)
treo lơ lửng trên đỉnh đầu, và bất cứ lúc nào cũng có khả năng rơi xuống. Tư Mã Khôi cảm thấy bước chân của tử thần càng lúc càng sát gần. Anh không dám chậm trễ, lập tức khoác súng lên vai, cố gắng nhịn đau đưa mắt nhìn xung quanh. Vách động ở đây dính hợp chất phốt pho, nên thỉnh thoảng lại xuất hiện những đốm lửa ma trơi vật vờ bay lượn. Trong cổ thuật tướng vật, những đốm lửa này gọi là “âm trùng”, nơi nào có nhiều âm trùng, thì nơi đó có nhiều người chết, bởi âm trùng do tử khí ngưng tụ dần dần tạo thành, đứng cách xa sẽ nhìn không rõ nữa; giờ đây, nguồn sáng của họ chủ yếu vẫn dựa vào đèn quặng và đuốc.
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(1) Thanh kiếm Damocles: là thanh kiếm được treo trên đỉnh đầu Democles – nhân vật trong thần thoại Hi Lạp – bằng một sợi lông ngựa.
Mọi người thấy quy mô của động hùng vĩ ngoài sức tưởng tượng, tuy đèn đuốc rất sáng, nhưng chỉ sáng rõ được một góc, nên cả hội đoán, độ sâu của huyệt động chỉ bằng một nửa đường kính cửa động, phía dưới cũng không rộng rãi như cửa động, còn xung quanh là vách đá dựng đứng, trông thẳng hàng ngay lối một cách dị thường; trên vách toàn là những nếp gấp hoa văn loang lổ, tầng nọ nối tiếp tầng kia, mỗi tầng cao tầm nửa mét, hình khối rất rõ ràng, trông như những vết gợn sóng trên biển.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Tư Mã Khôi nhớ lại có loại vết tích cổ địa tầng, gọi là “vết sóng gợn”, trước đây, anh đã từng xem một hình vẽ minh họa tương tự như vậy trong sách của giáo sư Nông Địa Cầu. Lúc này, anh lại được tận mắt chứng kiến, nên cảm thấy thật sự kinh ngạc trước sự hùng vĩ của tạo hóa, mà tranh người vẽ cũng không thể bắt chước giống hệt như vậy được, có điều trong động hoàn toàn trống trải, khác hẳn với dự đoán ban đầu của anh.
Cao Tư Dương không biết nhật quỹ thực ra là vật gì, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Theo anh, nó là thứ gì vậy?”
Tư Mã Khôi nói, cuộc đời con người như vị khách vội vã qua đường, cơ thể bằng xương bằng thịt khó tránh khỏi cái chết. Tương truyền con người sau khi chết đi thể xác bị hủy diệt, nhưng linh hồn thì vẫn tồn tại, và chỉ cần một nhúm linh hồn chưa tan biến, là còn có thể luân hồi quay trở lại trần thế. Thế nhưng nhiều người lúc sinh thời làm quá nhiều điều ác, nên sau khi chết bị đày xuống núi Âm Sơn, vĩnh viễn không được siêu sinh. Bởi vậy, núi Âm Sơn chính là nơi giam giữ những oan hồn ác nghiệt. Lại nghe nói trong ngọn núi này có một vật thể hình tròn, xuất hiện từ thời hằng cổ, mọi ghi chép liên quan đến nó hầu như không có, mà nếu có thì cũng rất li kì, cổ quái, dẫu đọc cũng không thể lý giải được ý nghĩa bên trong. Trước khi chúng ta tận mắt nhìn thấy vật thực, tôi cũng không thể biết nó là vật gì.
Cao Tư Dương lại hỏi: “Nhưng tôi thấy trong này làm gì có gì, hay chúng ta đến nhầm chỗ rồi?”
Tư Mã Khôi nói: “Ngọn núi này trôi nổi trên nước trong vòng tròn ma quái 30° vĩ Bắc, nó chắc chắn chính là núi Âm Sơn, vì các đặc điểm của nó hoàn toàn trùng khớp với ghi chép trong bích họa vu thuật thời Sở, nhưng đến giờ tôi chưa thể xác định được hai điều: thứ nhất là, vì sao ở khoảng cách gần thế mà núi mang từ tính vẫn không hút những vật bằng kim loại như dao, súng? Thứ hai là, địa điểm cụ thể mà người cổ đại phát hiện cỗ di hài thực ra ở chỗ nào”.
Vừa nói chuyện, mọi người vừa vượt qua hết tầng gợn sóng này đến tầng gợn sóng khác, dò dẫm đến vách đá đối diện gần đó, chỉ thấy trong cửa động vọng lại tiếng động nho nhỏ, hình như là vật gì đang bò từ trên vách xuống.
Hội Tư Mã Khôi lập tức dừng bước chân, nín thở mấy giây, mặt bất giác biến sắc: “Bọn cương thi dưới núi Âm Sơn đấy!”.
Mọi người vốn đang ngạc nhiên không hiểu sao không thấy bọn cương thi tấn công, cứ tưởng chúng đã tản cả ra xa để săn mồi, nhưng có lẽ lúc trước chúng sợ lũ “tiên nữ” nên mới trốn mất tăm, bây giờ ngửi thấy hơi người sống, chúng lại bò vào trong động.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Cả hội lạnh người, bọn quái vật hồn chết xác còn này bản tính hung tàn độc ác, mà hành động thì mau lẹ như chớp giật, cộng thêm không gian trong động tối thui, nên nếu bọn chúng bè lũ nhào lên, chỉ e mấy khẩu súng của đội khảo cổ không phải đối thủ của chúng. Dưới ánh đuốc, Tư Mã Khôi chợt thấy dưới đáy vách động có ba cửa huyệt với hình thù trông rất quy mô, to cỡ cổng thành, anh liền nhanh chân chạy vụt vào trong.
Hai cẳng chân Nhị Học Sinh mềm nhũn, chạy chậm hơn mọi người mấy bước. Cậu ta nghe thấy phía sau có tiếng nuốt nước bọt ừng ực, thì lòng càng hoảng sợ cực độ, tuy đã nhủ thầm tuyệt đối không được quay đầu lại, nhưng vẫn không kìm được nên vẫn ngó lại sau một cái, lúc đó dưới ánh nến chập chờn, cậu ta nhìn thấy một khuôn mặt trắng bệch với những đường nứt nẻ ngang dọc đứng cách mình chỉ vài thước. Nhị Học Sinh sợ muốn chết, hai chân càng bủn rủn không chịu nghe lời, cậu ta bị cương thi quật xuống đất. Khi thấy cái miệng đỏ au au của nó há rộng ngoác, cậu ta kinh hãi kêu lên thất thanh.
Ai ngờ, phần miệng cương thi càng há càng rộng, trong phút chốc đã ngoác hẳn 180°, cằm như cái rèm rách rớt hẳn xuống trước ngực, máu tươi trào ra miệng ào ào như vỡ đê, chảy tràn cả xuống mặt của Nhị Học Sinh. Cậu ta cứng lưỡi ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì đang xảy ra, chỉ biết ngây ngô nằm chết cứng như bức tượng trên mặt đất.
Thì ra, Hải ngọng phát hiện Nhị Học Sinh gặp nguy, anh liền giương súng, lực sát thương của khẩu súng hai nòng Canada rất rộng, mà lại không thể bắn ở khoảng cách gần, trong lúc cuống, Hải ngọng trực tiếp thọc hẳn tay vào trong miệng con quái vật, dùng hết sức ngoáy tít mù bên trong, miệng hét lờn “Nổ!”, rồi chỉ nghe “Cạch” một tiếng, cả hàm trên và hàm dưới của con ma chết đuối tách luôn ra làm hai mảnh.
Lúc này, ba người còn lại đuổi kịp tới nơi, tận mắt thấy Hải ngọng tay không bắt giặc mà uy lực khủng khiếp thế, ai nấy đều kinh ngạc phục sát đất. Cao Tư Dương đỡ Nhị Học Sinh dậy, rồi cả hội chui vào huyệt động dưới chân vách.
Đi qua vách đá, mọi người giơ cao thanh đuốc, mới biết không gian bên trong cũng có quy mô tương tự huyệt động phía ngoài, hóa ra đây là một hệ thống động lồng trong động, vách đá này là bức tường chia động thành hai gian thạch thất, và hai gian giống nhau một cách khác thường. Chỉ có điều, phía trên gian thạch thất thứ hai này là vách đá kín, dưới chân vách lại có cửa hang thông nhau và không có bất cứ vật gì che cản.
Mọi người không dám nấn ná lâu, vội vàng giơ cao đuốc tiếp tục chạy vào sâu hơn. Chạy được một hồi, cả hội lại nhìn thấy một vách đá chắn ngang trước mặt và dưới chân vách đá vẫn là ba cửa huyệt động xếp liền kề nhau; lạ lùng hơn, vách đá này giống y đúc vách đá mà mọi người vừa mới đi qua. Tuy ngạc nhiên, nhưng vì bọn cương thi đang bám riết sau lưng, nên mọi người không có thì giờ quan sát địa hình xung quanh, đành đánh liều chui tiếp vào trong, rồi cứ đi qua một gian là lại thấy một gian khác y như vậy, nên hội Tư Mã Khôi càng lúc càng hoang mang.
Năm người thâm nhập bên trong, không biết đã đi qua bao nhiêu vách đá, mà đối diện mỗi vách đá vẫn là môt gian thạch thất giống y hệt các gian trước, rồi chui mãi mà vẫn chưa thấy địa hình có gì thay đổi so với trước đó.
Cả hội thấy sơn động này quá sức quái dị, chỉ có trời mới biết nó thông tới đâu. Kết cấu trong sơn động chắc không thể do thiên nhiên tạo hóa tạo thành, bởi không thể tồn tại khả năng có mấy chục gian thạch thất đều giống nhau, y đúc về cả hình dạng và quy mô; không những vậy, mà các gian đều ngăn nhau bởi một vách đá, nhưng mọi người cũng không thấy dấu tích đục đẽo của con người, thậm chí có thể hoàn toàn loại trừ khả năng do con người tạo ra, bởi vì sức lực con người tuyệt đối không thể xây dựng được công trình tuyệt tác đến như vậy. Cả hội không biết rốt cuộc là do địa hình giống nhau, hay mọi người đang không ngừng lặp đi lặp lại trải qua cùng một sự kiện giữa hai điểm?
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Bọn cương thi vẫn không chịu bỏ cuộc, chỉ có điều vì do yếu tố địa hình hạn chế khả năng hành động, nên bọn chúng không thể đồng loạt nhào lên. Hội Tư Mã Khôi cũng bị địa hình bức bách, không ai dám chậm chân nửa bước, liên tục chui hết qua vách đá này lại đến vách đá khác, căn bản không kịp nghĩ ngợi gì, và chỉ thấy thạch thất trong lòng núi dường như trải dài vô cùng vô tận. Hai chân mọi người bắt đầu tê rần, hơi thở nặng nhọc, tim đập thình thịch.
Nhị Học Sinh không chạy nổi nữa, cậu chàng bị mọi người kéo lê lết trên đất như con chó chết. Cậu ta hổn hà hổn hển nói với những người còn lại: “Chỉ sợ chúng ta chạy đến chết cũng vô dụng thôi, cái sơn động này quái dị quá, cứ nghĩ mà xem, kết cấu trong sơn động thiên nhiên làm gì có chuyện hoàn toàn giống nhau đến mức thế. Nơi này thật chẳng khác nào mê cung trong ngôi nhà ma Winchester.”
Hải ngọng cũng kêu: “Ngay từ khi bắt đầu bước vào, tôi đã thấy nó là lạ, chắc chúng ta đã bị bọn âm hồn trong sơn động ám rồi, không có tí máu chó đen là không ra nổi đấy đâu.”
Tư Mã Khôi nghe Nhị Học Sinh nói, anh kinh hãi nhớ lại một chuyện kinh dị:
Hồi đó có một thư sinh, gia cảnh bần hàn, anh ta khổ luyện dùi mài kinh sử trong một vườn hoang ở ngoại ô kinh thành, dự định đợi đến kì thi sẽ cố thi đậu để rạng danh tổ tông. Người đọc sách trong thiên hạ nhiều như lá mùa thu, nên nghĩ thì đơn giản nhưng làm mới thấy khó. Trạng nguyên tiến sĩ trong chế độ khoa bảng thời xưa, oai phong lẫm liệt như sư tử gầm, mà mỗi khoa có được mấy người đỗ tú tài? Thư sinh nọ thi liên tiếp mấy năm nhưng vẫn không đỗ. Một đêm nọ, trăng sáng sao thưa một mình anh ta bồi hồi đứng trong vườn, ngẩng đầu nhìn trăng, ngâm vịnh một bài, đột nhiên bên tường phát ra một tiếng cười khe khẽ, ngẩng đầu nhìn lên, thì ra là một mỹ nhân tuyệt sắc, đang thò đầu vào nhìn anh ta. Cổ nhân có câu “trai dưới đèn, gái dưới trăng”, chàng thư sinh thấy cô gái dưới ánh trăng đúng là tuyệt sắc giai nhân, liền ngẩn người ra ngắm. Anh ta cứ ngỡ là tiểu thư nhà nào thầm mến mộ tài năng của mình, nên nhân lúc trăng sáng lẻn ra vườn hoang nhìn trộm. Anh ta hớn hở ra mặt, vội vàng chỉnh đốn mũ áo, chạy ra mở cửa vườn nghênh đón; nào ngờ, vừa ra ngoài cổng, liền phát hiện phía dưới cái đầu mỹ nhân là một con mãng xà khổng lồ, đang bò ngay dưới chân tường với thân mình to như cái đấu. Nghe tiếng cửa vườn mở, nó liền quay lại đầu mày cuối mắt. Anh chàng thư sinh ba hồn bảy vía lên mây, cũng vội vàng chạy như bay vào phòng, khóa chặt cửa lại. Liền sau đó, anh ta nghe tiếng người gõ cửa cửa và gọi tên mình, nhưng chàng thư sinh nào dám mở, rồi khổ sở lắm mới đợi được đến lúc trời sáng, anh ta vội vàng thu dọn hành lý về quê.
Nhưng từ đó về sau, đêm nào anh ta cũng nằm mơ, mỗi lần nhập mộng lại thấy mình trở về khu vườn hoang và lặp lại chuyện đã từng trải qua đêm hôm đó, và cứ như vậy trong suốt bao nhiêu ngày tháng. Chàng thư sinh nọ sợ quá đâm đổ bệnh, mắt nhắm chỉ còn đợi ngày về chầu trời. May thay, cuối cùng anh ta lại được một ông lão ra tay cứu giúp. Ông lão đã truyền cho chàng trai một bí quyết, lần sau khi mơ trở về khu vườn hoang, anh ta hãy tự cắn ngón tay trỏ của mình, thì sẽ lập tức giật mình tỉnh khỏi ác mộng. Không rõ truyền thuyết này có bao nhiêu dị bản, cũng không biết bản nào là thật bản nào là giả, nhưng chàng thư sinh nọ chắc chắn đã bị ma ám, nên chỉ cần phá vỡ chướng nhãn pháp là có thể bình an vô sự. Ngôi nhà ma Winchester mà Nhị Học Sinh nói, tuy cổ quái nhưng dù sao vẫn là sản phẩm của con người, còn sơn động này lại do thiên nhiên tạo nên, nói không chừng bên trong lại đang tồn tại một loại từ trường nào đó khiến con người nảy sinh ảo cảnh, hoặc cũng có thể là cả hội quả thực đã bị âm hồn đeo bám cũng nên. Nhưng bất kể đội khảo cổ đang gặp phải điều gì, chỉ cần cắn ngón tay trỏ, để khi cơ thể cảm thấy đau, là sẽ được giải thoát khỏi mê cung.
Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền bảo mọi người mau cắn đầu ngón tay mình, nếu không sẽ còn tiếp tục phải chui qua những vách đá giống nhau hết lần này đến làn khác. Nói xong, anh cắn luôn đầu ngón tay trỏ của mình, thầm nghĩ chắc phen này cả hội sẽ thoát khỏi đây, nào ngờ, chạy đến điểm tận cùng cũng mà vẫn là một vách đá dựng đứng, trên vách vẫn là những dấu vết gợn sóng, còn bên dưới vẫn có ba huyệt động mà anh đã đếm không biết bao nhiêu lần.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ năm
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">TR<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Ù<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">NG LẶP
Tư Mã Khôi nghe đồn, trước đây, mỗi khi thiên hạ đại loạn, là trời đất lại nảy sinh rất nhiều hiện tượng kì dị, yêu quái lũ lượt kéo về, dùng tà thuật mê hoặc con người, nên nếu anh lặp đi lặp lại chuyện cùng trải qua một việc quái lạ, thì quá nửa là dính hiện tượng “địa thị”. Ảo cảnh này hình thành bởi rất nhiều nguyên nhân, và có thể là do âm khí tích tụ trong vách đá tạo nên. Chuyện này cũng không phải là không có bằng chứng xác thực, trước đây, quanh khu Hắc Ốc ở Trường Sa, tỉnh Hồ Nam có rất nhiều mộ cổ, mỗi khi đêm xuống, bọn thổ tặc thời Dân quốc thường mò ra kiếm chác, bọn chúng quật mồ đổ đấu. Rồi một lần nọ, có ba tên gian tặc đi đào mả lúc nửa đêm, khi lưỡi xẻng chạm phải lớp ngói cổ, chúng phát hiện đó toàn là đá khắc hoa văn, nên lòng chắc mẩm phen này đào trúng mộ quan sang quý tộc rồi đây. Bọn chúng hớn hở mừng ra mặt, cứ ngỡ sắp phát tài đến nơi, liền hì hục vùi thuốc nổ suốt đêm, cuối cùng cũng đánh nổ được một hố thông xuống, rồi đợi khí độc bên trong bay hết, mới mon men xuống lấy hàng. Bọn chúng vốn đã phân công rõ ràng, nhưng sau đó tên nhận trách nhiệm đứng trên gác cửa lại sợ hai tên còn lại xuống đó kiếm chác được thứ gì là đút túi làm của riêng, còn hai tên phải xuống mồ thì lại sợ lỡ đâu gặp chuyện xui rủi, chết ngạt dưới đó cũng nên. Cuối cùng, sau khi bàn bạc, bọn chúng quyết định, lần này sẽ phá luật, cả ba đều chui cả vào mộ. Bọn chúng thắt dây gân bò, lần lượt bò xuống. Nào ngờ, cái hố vốn không sâu lắm mà ba người bò mãi đến tận khi đèn hết sạch dầu vẫn chưa bò tới nơi. Không gian tối mù mù, cả hội vẫn chưa mò đến được bức tường mà lúc trước dùng thuốc nổ phá thủng. Bọn chúng cảm thấy tình hình không ổn, biết chắc gặp phải ma, thêm vào đó là tâm lý ăn cắp run tay, khiến chúng càng nghĩ lại càng sợ, vội vàng bò giật lùi quay lại phía sau, nhưng cửa sau cũng không còn, quãng đường ngắn ngủi thẳng tắp lúc đầu, giờ đây biến thành hai đoạn không điểm đầu không điểm cuối. Kết quả, ba tên thổ tặc hoảng loạn đến nỗi chịu chôn sống trong mồ, vì đến trước lúc chết vẫn không tìm thấy lối ra. Nửa tháng sau, một đoàn trộm mộ khác lại đến đào ngôi mộ cổ đó, bọn họ phát hiện ra ba xác chết. Tên giặc già thủ lĩnh có kinh nghiệm đầy mình đã ngờ rằng ba tên đồng nghiệp xấu số của mình vì gặp phải “địa thị” nên mới phải chết tức tưởi thế này. Lão ta liền cho đốt giấy cỏ, hun đặc bên trong đợi sau khi khói tan hết mới chui vào, và quả nhiên bọn họ tìm thấy một con chồn tinh ngàn năm.
Nói nó ngàn năm thực ra chỉ là cách nói ước lệ, bởi thực tế nó là con chồn già sống lâu năm, bộ lông đã trắng toát. Chồn thích nơi tăm tối âm u, nên thường đào ổ trong huyệt mộ, bởi vậy trong ngôi mộ cổ này toàn là nước đái của nó, mà nước đái của nó thì có khả năng sinh ra một loại mùi đặc biệt, hình thành nên cái gọi là “địa thị”. Người hít phải mùi này vào não, sẽ nảy sinh hiện tượng ảo giác, rõ ràng là một cái hố chỉ sâu mấy chục mét, nhưng ba tên thổ tặc lại cứ loay hoay mãi trong đó và bị giày vò cho đến chết. Trên thực tế, bọn chúng từ đầu chí cuối chỉ loanh quanh một chỗ, nên nếu không phá giải được điểm then chốt này, thì cho dù kẻ xâm nhập có cứng tim bạo gan đến đâu, mười người vào cũng chín người trúng phải yêu thuật của nó.
Tư Mã Khôi đã nghe không ít những chuyện dân gian kì dị kiểu này, nhưng tất cả những câu chuyện đó đều xảy ra vào thời kì rất xa xưa, khi đó con người còn thưa thớt, núi còn hoang, đất còn vắng, còn tồn tại những loài yêu quái như chồn tinh ngàn năm, yêu quái rắn đầu người. Nhưng bây giờ, như cánh rừng rậm nguyên sinh Đại Thần Nông Giá này, không biết bao nhiêu quả núi đã bị đốn thành đồi trọc? Thì cho dù vẫn tồn tại những con vật mà con người chưa biết, e rằng cũng không dễ nhìn thấy chúng nữa, bởi vậy, thời cận đại rất ít nghe kể những chuyện quái lạ đại loại như vậy.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Căn cứ vào kinh nghiệm và những chuyện từng nghe trước đây, Tư Mã Khôi nhận định, hội anh đã trúng “địa thị”, tuy không biết là yêu quái gì, nhưng chỉ cần cắn rách ngón chỏ, rồi một khi cảm giác đau xuất hiện thì ảo giác kia sẽ biến mất, nếu không thạch thất phía sau vách đá lại lần nữa xuất hiện và không biết bao giờ mới kết thúc.
Nào ngờ, chiêu này cũng không ăn thua, mà tận cùng của thạch thất vẫn là vách đá với ba huyệt động như trước, mọi người mệt muốn chết, thở hổn hà hổn hển, vậy mà cơn ác mộng không ngừng lặp đi lặp lại vẫn dai dẳng đeo bám.
Hội Tư Mã khôi càng lúc càng hoảng sợ, nghe tiếng động vọng lại từ bên kia vách đá, rồi cảm thấy sau lưng không lành, vội quay lại thì đã phát hiện một cương thi đang tiếp cận gần mép ngoài của quầng sáng từ ngọn đuốc. Nó di chuyển từ bóng tối dần ra chỗ sáng, trên khuôn mặt trắng xám, ánh mắt như nước tù trong đầm đen kia vẫn không thay đổi. Mọi người lạnh tái toàn thân, vội vàng quay mũi súng ra sau bắn, nhưng cũng không dám dây dưa lâu với chúng, vừa nổ súng, cả hội vừa rút lui vào trong huyệt động dưới vách tường.
Tư Mã Khôi và Hải ngọng quanh năm lăn lộn trong chốn núi cao rừng sâu, nên quen hành quân đường trường, nhưng các thành viên còn lại thì đã sức cùng lực kiệt nên khó lòng trụ thêm được nữa. Tư Mã Khôi biết rõ, có trốn sâu nữa vào trong hang thì cũng không giải quyết triệt để được vấn đề, nên bây giờ đội khảo cổ phải nhanh chóng tìm thấy lời giải về ẩn số hang động cổ trong lòng núi Âm Sơn. Nghĩ vậy, anh liền rút một hộp long tủy trong ba lô Nhị Học Sinh, châm lửa rồi lần lượt vứt vào ba huyệt động. Lửa quả nhiên có tác dụng tạm thời cản đường đám cương thi đang ùn ùn kéo đến.
Mọi người chỉ sợ thế lửa yếu đi, bọn cương thi lại ùa tới, đến lúc đó sẽ không gì có thể cản trở được bước chân của chúng. Cả hội cắn chặt răng tiếp tục chạy sâu vào trong, mãi đến khi nhìn thấy vách đá, thì nhịp chân mới giảm chậm đôi chút để thở.
Quy mô của gian thạch thất khá lớn, mỗi căn áng chừng mấy trăm mét vuông, không gian bên trong âm u tối thui. Tư Mã Khôi quay người quan sát, anh nhìn thấy ánh lửa bập bùng trong huyệt động ở phía sau, nhưng khi đi xuyên qua vách đá, thâm nhập thạch thất, thì không thấy ánh lửa đâu nữa. Trong sơn động sâu hút và rộng lớn thế này, tầm nhìn có hạn đã khiến ngũ giác của con người dường như đều giảm sút. Tư Mã Khôi thầm kêu khổ, anh bật đèn quặng soi khắp bốn phía trên vách đá.
Cao Tư Dương mệt muốn quỵ xuống, cô thấy tim phổi như sắp nổ tung đến nơi, tim đập thình thịch như trống gõ; nhân lúc này, cô chống hai tay vào đầu gối thở gấp. Cao Tư Dương thấy hành động của Tư Mã Khôi hơi lạ, nên không nhịn được hỏi: “Anh định tìm thứ gì thế?”
Tư Mã Khôi nói: lúc trước tôi thấy người Nhị Học Sinh bê bết máu, mới tiện thể quệt một ít, rồi ấn dấu tay vào vách đá làm ký hiệu, rõ ràng ở chỗ cạnh huyệt động này, nhưng con mẹ nó gặp ma hay sao ấy, bây giờ bốc hơi chẳng thấy đâu cả.
Cao Tư Dương kinh ngạc nói: “Anh lên cơn rồ à? Chỗ này làm sao có thể có ký hiệu mà anh để lại ở phía sau chứ?”
Tư Mã Khôi hiểu rõ ý đồ của mình, anh chỉ muốn xác nhận xem rốt cuộc cả hội đang phải đối mặt với tình cảnh gì. Anh suy đoán, chỉ có hai khả năng mà thôi: thứ nhất là địa hình trong sơn động giống nhau như đúc, thứ hai là mọi người đang lặp đi lặp lại một hành động trong sơn động. Anh hiểu “vật gì cũng có lý riêng của nó”, và vạn vật vạn việc đều trên cõi đời chỉ xoay quanh một chữ “lý” đó. Đầu tiên, anh vốn nghĩ khả năng thứ nhất xem chừng có vẻ hợp lý hơn, nhưng những gì đang hiển hiện trước mắt lại khiến anh cảm thấy dường như chữ “lý” này bị lật đổ.
Nếu núi Âm Sơn vẫn hoàn chỉnh, thì nó còn cao hơn nhiều so với phần mà mọi người nhìn thấy bây giờ. Vì do trong núi có một hang động khổng lồ, nên hình thể ngọn núi vốn sừng sững chỉ còn lại một phần ba, động đá thông với cửa động, có thể đánh ký hiệu là thạch thất số 0, còn dưới chân vách đá của thạch thất số 0 lại có ba huyệt động chạy thẳng vào nơi sâu hơn, và không gian sau khi đi xuyên qua vách đá được đánh ký hiệu là thạch thất số 1. Điểm khác biệt giữa thạch thất số 0 và thạch thất số 1 là: không gian ở thạch thất số 1 tương đối khép kín, không thông với cửa động. Phía chân vách đá ở tận cùng của thạch thất số 1, lại là ba huyệt động khác, thông đến nơi sâu hơn, gọi là thạch thất số 2, và kết cấu của gian thạch thất số 2 cũng giống y đúc thạch thất số 1, nên nếu gian nào cũng đánh ký hiệu, thì nơi mọi người đang đứng, có lẽ đã là thạch thất số mấy chục rồi. Thế nhưng nhiều dấu hiệu lại chứng tỏ, không gian trong sơn động không thể tồn tại địa hình hoàn toàn giống nhau, vậy nếu loại trừ khả năng thứ nhất “địa hình hoàn toàn giống nhau” ra, thì chỉ còn khả năng thứ hai, là: trong sơn động chỉ có một gian thạch thất, và mọi người đang không ngừng chui qua chui lại không gian cố định này, nên cảnh ngộ lúc này cũng tương tự với cơn ác mộng khủng khiếp mà mọi người đang phải mơ hết đêm này đến đêm khác.
Tư Mã Khôi nói vắn tắt suy đoán của mình cho cả hội nghe. Mọi người thất kinh, chân tay đờ ra không biết phải làm gì, không hẹn mà cùng muốn hỏi: “Sao có thể xảy ra chuyện quái dị thế được?”
Nhưng đúng như những gì Tư Mã Khôi vừa nói, địa hình trong huyệt động núi Âm Sơn chắc chắn là đo thiên địa tạo hóa hình thành. Vì tầng đá trầm tích bên trong sơn động đều có vết sóng gợn tự nhiên, bởi sự tồn tại của địa chất gợn sóng này chí ít cũng phải có lịch sử hàng trăm triệu năm, và trong huyệt động dưới vách đá cũng có những dấu vết gợn sóng tương tự như vậy, mà tất cả đều tự nhiên, không hề có dấu vết can thiệp của bàn tay con người. Vả lại, quy mô của hang động cổ đại này rất hoành tráng, nên con người tuyệt đối không thể làm ra một kiệt tác vĩ đại dường ấy. Nhưng vấn đề là, những gian thạch thất kéo dài vô cùng vô tận trong hang động này lại hoàn toàn giống nhau. Nếu cứ xem tất cả hang động trên thế giới tuy kì dị và thiên biến vạn hóa, thì cũng không thấy hang động nào có hai gian hoàn toàn giống nhau. Mà cứ cho là có giống nhau thật đi nữa, thì cùng lắm cũng chỉ có hai gian, và người ta sẽ miễn cưỡng giải thích sự trùng hợp ấy là hi hữu, còn nếu ba gian thì người ta gọi là điều thần kì; chứ còn có vô số gian như thạch thất trong núi Âm Sơn này, thì dẫu có giải thích đó là điều thần kì gì đi nữa, thì e ràng đến quỷ cũng không tin nổi.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú Ngư
Giờ đây, mọi người đều đã tận mắt chứng kiến và chắc không có chuyện nhìn lầm, hơn nữa, cảm giác nhoi nhói đau trên cơ thể và hơi thở gấp gáp đều là bằng chứng về tình cảnh hiện tại của cả hội chứ không phải “ảo cảnh mê cung” giống như Tư Mã Khôi suy đoán lúc đầu, càng không phải kết cấu quái dị giống như ngôi nhà ma Winchester mà Nhị Học Sinh kể khi trước. Vậy thì chỉ còn một khả năng, đó là mọi người đang lặp đi lặp lại đi qua cùng một gian thạch thất.
Cao Tư Dương không lý giải được nguyên nhân, cô hỏi Tư Mã Khôi: “Nếu xác định quả thực nơi chúng ta từng đi qua chỉ là một gian thạch thất, vậy tại sao anh không tìm thấy vết dấu tay mình để lại lúc trước?”
Tư Mã Khôi gãi đầu giải thích: “Có lẽ vì chúng ta lặp lại hành động, chứ không lặp lại thời điểm phát sinh, thạch thất trong sơn động vẫn cố định bất biến, chỉ có điều mỗi lần xảy ra, đều là một lần hoàn toàn mới, nên mọi dấu vết để lại mới biến mất như vậy”.
Hải ngọng nghe xong vỗ đùi cái đét, nói: “Gay to rồi! Thế nếu chúng ta chạy chậm một bước, thì cũng biến mất luôn à? Cậu bảo có xảy ra khả năng này không?”
Tư Mã Khôi nói: “Cậu thử là biết liền chứ gì!”
Hải ngọng lưỡng lự: “Chúng ta vẫn chưa tu luyện đến cảnh giới sẵn sàng hiến thân cho thí nghiệm để tìm ra chân lý, nên bây giờ tốt nhất là chạy cho nhanh!” – Nói xong, anh giúp Tư Mã Khôi, kéo lê Nhị Học Sinh đang thở không ra hơi, co cẳng chạy.
Khi nãy, Thắng Hương Lân đã ngồi thở một hồi, giờ có thể miễn cưỡng mở miệng nói chuyện, cô vừa đi vừa hỏi Tư Mã Khôi: “Ý anh là… chúng ta đang đi qua đi lại một gian thạch thất sao?”
Tư Mã Khôi gật đầu: “Ngoại trừ khả năng này ra, thì không còn cách giải thích nào hợp lý hơn, nếu không phải tôi đi nhiều hiểu rộng, thì cũng không thể nghĩ ra cách suy đoán này. Đen đủi hơn, bây giờ chúng ta phải chạy không ngừng, vì chỉ cần ngừng một cái, thì cho dù không bị biến mất trong thạch thất, cũng bị bọn cương thi đuổi theo xé xác. Mà chúng ta người trần mắt thịt, nên thể lực rồi có lúc phải suy kiệt, nếu cứ chạy mãi thế này cũng không phải cách, trước khi mệt đến chết, phải nghĩ ra kế sách gì thoát khỏi cảnh ngộ khốn cùng này mới được”.
Thắng Hương Lân nói: “Tôi cảm giác có lẽ còn nguyên nhân khác, chỉ là chúng ta chưa phát hiện ra mà thôi”.
Nhị Học Sinh đang co rúm người để thở, cũng dần điều hòa trở lại, cậu ta há hốc mồm nói ngắt quãng: “Tôi…. tôi cảm thấy, tôi phát hiện… phát hiện ra nguyên nhân đó rồi, ngoại trừ sự trùng lặp hết lần này đến lần khác trong sơn động… còn có… còn có một việc khác rất quái dị…”
Hải ngọng giơ tay cốc vào đầu Nhị Học Sinh một cái đau điếng, rồi lên giọng kể cả: “Nhóc con nhà chú nhai nhầm thuốc à? Nói nghe dễ thế! Đến anh Hải ngọng còn chưa phát hiện ra, mà chú đòi phát hiện được á?”
Nhị Học Sinh nói: “Vì anh… chỉ trố mắt lên nhìn, còn tôi… tôi luôn luôn… quan sát. Tôi phát hiện trong sơn động… còn có việc… quái dị…. hơn cả hiện tượng chúng ta lặp đi lặp lại chạy qua một nơi…”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ sáu
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">HÀNH LANG HÓA THẠCH
Hóa thạch cúc đá
Hải ngọng trợn mắt, nói mát: “Ờ, anh đếch quan sát đấy! Thế gan chú em to cỡ nào mà dám phọt ra câu đấy?”
Nhị Học Sinh tưởng Hải ngọng hỏi thật, liền thành thật trả lời: “Thực ra, gan tôi cũng to phết đấy, không chỉ biết nói suông thôi đâu, từ đầu đến cổ cũng bê bết máu đây này…”, cậu ta chưa kịp dứt lời thì đã bị Hải ngọng nện thêm một cú nữa.
Thắng Hương Lân nghe thấy hơi kì lạ, liền hỏi dồn Nhị Học Sinh: “Khi nãy anh nói phát hiện thấy dấu tích khác thường, là chỉ ý gì hả?”
Hải ngọng phẩy tay nói với Thắng Hương Lân: “Năng lực phân tích của thằng ranh này đúng là rất phong phú nhưng trí tưởng tượng của nó còn phong phú hơn, nhìn khẩu súng M-1887 mà còn tưởng tượng được ra ngôi nhà ma nữa là, cái đồ đầu to mắt cận, đeo cái kính còn dày hơn cả đít chai thế kia thì phát hiện ra nổi thứ gì chứ?”
Tư Mã Khôi nghe thấy nhức tai, liền ra hiệu bảo Hải ngọng đừng chen lời vào nữa, để Nhị Học Sinh nói hết cái đã, nếu nghe xong mà thấy chẳng ra tí sửu dần mão gì, thì cứ áp dụng quân luật, xử lý tội báo cáo láo sau cũng không muộn.
Nhị Học Sinh hấp tấp bộc bạch suy nghĩ: cá nhân cậu ta hoàn toàn đồng ý với phán đoán của Tư Mã Khôi, do trong tầng nham thạch giữa lòng núi tồn tại vết tích địa chất cổ đại từ hàng trăm triệu năm trước, vì vậy hang động này hoàn toàn là sản phẩm của thiên nhiên tạo hóa, chứ không phải do bàn tay con người làm nên. Thêm vào đó, hai bên cũng không thấy có đường rẽ, nên có thể loại bỏ giả thiết “địa hình tương tự” và “mê cung ngôi nhà ma”. Sau khi mọi người tiến vào hang động núi Âm Sơn, thì đều cảm giác tuy đã tiến thẳng vào sâu bên trong, nhưng trên thực tế là vẫn đi vòng quanh một điểm. Điều đáng sợ nhất là sau mỗi lần đi qua nơi đó, dấu vết cố tình để lại cũng đều biến mất, không chỉ dấu vân tay của Tư Mã Khôi mà vỏ đạn, vết tích nhiên liệu cháy cũng hoàn toàn bốc hơi.
Dường như, ngoại trừ bản thân gian thạch thất trong sơn động ra, thì mọi sự việc từng xảy ra bên trong đều nhất loạt bị xóa sạch. Nhưng nếu mọi người lý giải sự việc theo chiều hướng những gì mà mình đang nhìn thấy, thì hoàn toàn sai lầm, bởi vì gian thạch thất này không phải hoàn toàn cố định bất biến, mà thực tế nó đang có sự thay đổi rất quái dị. Dưới chân vách tường thạch thất có ba huyệt động, Nhị Học Sinh vẫn nhớ rõ, lần đầu tiên chạy qua đây, ba huyệt động đó rõ ràng trông to như cổng thành, nhưng sau mỗi lần chạy qua, thì ba huyệt động đó cũng dần dần trở nên nhỏ lại, hoặc giả có thể nói: cả tòa thạch thất bắt đầu thu nhỏ; chỉ có điều, sự thay đổi ấy vô cùng nhỏ bé, trong huyệt động sâu hút, tối thui và mọi người chỉ định vị phương hướng bằng ánh đuốc nhập nhèm, thì cảm giác và tầm mắt của con người đều bị hạn chế rất lớn, cũng bởi vậy nên không ai phát hiện ra sự thay đổi này. Cũng giống như một cái bát đỗ đầy ắp, nếu mỗi lần anh chỉ gắp ra một hai hạt, thì bát đỗ vẫn không có gì biến đổi, nhưng nếu anh vốc hẳn hai vốc, thì sự biến đổi trong bát đỗ sẽ trở nên rất rõ ràng. Lúc này, nếu quan sát huyệt động dưới vách đá và so với ấn tượng lúc trước, sẽ thấy một cảm giác cách rất sát thực về độ cao và chiều rộng của nó, là nó rõ ràng đã nhỏ hơn rất nhiều, chỉ nhỉnh hơn cánh cửa nhà dân một chút thôi, khoảng cách giữa hai bên vách thạch thất cũng bị rút ngắn đi đáng kể.
hoatanhoano.wordpress.com
Mọi người nghe Nhị Học Sinh nói đều cùng gật gù công nhận, lúc trước gặp phải chuyện quái lạ bất ngờ, lại phải chặn bọn cương thi bám theo đằng sau, nên cả hội chỉ mải chạy bạt mạng, mà không ai chú ý đến sự thay đổi này, bây giờ phát hiện ra, mới vội vàng giơ cao đuốc quan sát xung quanh, thì thấy lời của Nhị Học Sinh không hề sai, gian thạch thất đã bị thu nhỏ lại.
Tư Mã Khôi càng nghĩ càng kinh ngạc, ba huyệt động trên vách tường sớm muộn gì cũng trở nên nhỏ đến nỗi người chui không lọt. Nhưng vì sao sau mỗi lần chui qua thạch thất, gian phòng đó lại bỗng nhiên nhỏ hơn một chút như vậy?
Mọi người ong hết cả đầu, rồi không ai bảo ai, tất cả cùng dừng chạy. Đội khảo cổ muốn nhanh chóng tìm ra kế sách khả thi, nhưng đầu óc đều mụ mị nên chẳng nghĩ được cách gì. Không rõ do hành quân gấp gáp khiến mọi người mệt bở hơi tai, hay do chuyện quái dị đang xảy ra trong sơn động khiến tim họ thình thịch nổi loạn, và người nào người nấy thở hổn hà hổn hển, mãi không nói được câu nào.
Cao Tư Dương thấy bầu không khí ngột ngạt đến đáng sợ, liền hỏi Tư Mã Khôi: “Anh nói gì đi chứ, tiếp theo ta phải làm sao?”.
Tư Mã Khôi lắc đầu, quay sang hỏi Nhị Học Sinh: “Chú cảm thấy nguyên nhân hiện tượng quái lạ này bắt nguồn từ đâu?”
Nhị Học Sinh nói: “Tôi đoán đây là sức mạnh thần bi mà con người vĩnh viễn không bao giờ chạm tới được….”
Tư Mã Khôi cau mày: “Đừng suốt ngày nhát ma dọa quỷ nhau thế, chú mày cứ nói toẹt ra là đếch biết cho xong.”
Hải ngọng đề nghị: “Tôi thấy chạy mãi vào trong sơn động cũng không phải ý hay, hay là quay đầu lại mở một đường máu xem thế nào!”
Cao Tư Dương nói: “Nơi này kì dị quá sức tưởng tượng, chỉ sợ quay đầu lại cũng không tìm thấy lối vào, huống hồ mọi người đều đã kiệt sức, lại không có lương thực và nước uống, thì làm gì còn sức mà chạy trốn ra ngoài?”
Thắng Hương Lân bắt đầu tập trung suy nghĩ, đột nhiên cô ngẩng đầu lên nói: “Tôi đoán ra bí mật trong sơn động này rồi!”
Nhị Học Sinh không dám tin, trố mắt nhìn Thắng Hương Lân hỏi: “Cô có thể lý giải bí mật mà trí tuệ con người không thể nào chạm tới được ư?”
Thắng Hương Lân nói: “Anh cứ quy kết mọi hiện tượng quái dị xảy ra trong sơn động đều do thần quỷ gây ra, nhưng tôi lại cảm thấy chúng ta đã bị chính sơn động này dẫn đi nhầm hướng thì đúng hơn”.
Tư Mã Khôi biết tư duy của Thắng Hương Lân rất rõ ràng, tỉnh táo, kiến thức của cô cũng vượt xa một Nhị Học Sinh chỉ biết đánh trận trên giấy. Theo anh, cảnh ngộ đội thám hiểm gặp phải trong sơn động, tóm lại chỉ có thể tồn tại ba khả năng: đầu tiên là, thiên nhiên tạo hóa đã tạo ra những gian thạch thất giống nhau như đúc, thứ đến là do sức mạnh thần bí của ma quỷ, còn cuối cùng là người thượng cổ đã tạo ra mê cung tinh xảo tuyệt mỹ này.
Có điều, do bề mặt biểu tầng của nham thạch vẫn còn dấu tích địa chất gợn sóng, nên khả năng thứ ba tuyệt đối không thể tồn tại. Ngoài ra, hang động cổ trong núi Âm Sơn này được hình thành từ hàng trăm triệu năm trước, còn trong lòng nó có hàng trăm gian thạch thất giống nhau, thì làm sao có thể ngày càng thu nhỏ theo độ sâu được? Bởi vậy, khả năng thứ nhất cũng rất mờ mịt, chỉ có khả năng thứ hai “do ma làm” là nghe có vẻ hợp lý nhất, đồng thời có thể lý giải mọi thứ đang diễn ra; có điều, khi Tư Mã Khôi nghe ý Thắng Hương Lân, thì anh lại chột dạ: “Lẽ nào trong hang động hàng vạn năm này tồn tại vật chất gây ảo giác nào đó?”
Quả như suy đoán của anh, so với khả năng “do ma làm” thì Thắng Hương Lân càng tin khả năng thứ nhất. Cô nói tiếp: “Có lẽ do địa hình thiên nhiên tạo hóa giống nhau, kết cấu mỗi gian thạch thất không khác nhau là mấy, chỉ có điều quy mô có chút thay đổi mà thôi, càng sâu vào trong lại càng chật hẹp…”
Tư Mã Khôi hết sức ngạc nhiên, anh hỏi: “Đúng là ma mị hết chỗ nói, đừng nói sơn động cổ xưa này do thiên nhiên tạo thành, mà cho dù do bàn tay con người làm ra cũng không thể làm đến mức… tinh xảo như thế”.
Nhị Học Sinh phụ họa: “Đúng vậy, mỗi gian thạch thất nằm cách nhau, nhưng giống nhau hoàn toàn, mà lại thu nhỏ dần dần từ ngoài vào trong, đúng là chỉ có thể dùng hai chữ “tinh xảo” để hình dung thôi”.
Thắng Hương Lân thầm biết thời gian bây giờ rất cấp bách, không thể cùng lúc trả lời hết thắc mắc của mọi người, cô đưa thanh đuốc cho Cao Tư Dương, lấy bút và sổ ra, vẽ một vòng tròn hình xoắn ốc, rồi dùng bút đánh dấu rất nhiều vạch ngang trên mỗi vòng xoắn ốc. Vẽ xong, cô nhìn mọi người và giải thích: “Địa hình trong sơn động đại khái như thế này, trong vòng xoắn ốc có những vách ngăn rất tinh xảo, ngoại trừ quy mô trong to ngoài nhỏ ra, thì kết cấu hoàn toàn đồng nhất, huyệt động của mỗi vách ngăn chính là lỗ thoát khí, nó giống như… một hóa thạch của cúc đá
(1)
hoặc ốc anh vũ”.
<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">1 Cúc đá: là tên gọi <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">c<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">hỉ một nhóm các loài động vật không xương sống biển trong phân lớp Ammonoidea thuộc lớp chân đầu. Các loài động vật thân mềm này có mối quan hệ gần gũi với các loài Coleoid còn sống (như bạch tuộc, mực ống, và mực nang) hơn là các loài Nautiloidea có vỏ như loài còn sống là ốc anh vũ <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">(Nautilus). <em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Cúc đá là những di chỉ hóa thạch có ý nghĩa quan trọng, tồn tại trong các l<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ớ<em style="border: 0px; font-family: inherit; font-weight: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">p đá có tuổi xác định trong bảng niên đại địa chất.
Tư Mã Khôi nhìn hình vẽ trên sổ, lập tức hiểu ra moi chuyện, thạch thất trong hang động núi Âm Sơn gian nọ nối tiếp gian kia, nó là một “hành lang hóa thạch”.
Trong bóng tối, mọi người không thể phát hiện thấy phương hướng lối ra hơi chệch một chút, mà chỉ thấy địa hình địa mạo đồng nhất không thay đổi, rồi trong lúc tâm trí bấn loạn, không tránh khỏi việc đưa ra những suy đoán ngu muội, bây giờ vén được màn sương, nên những việc còn lại đột nhiên đều trở nên hết sức rõ ràng: ngọn núi hoàn toàn rỗng ruột này, thực ra là một đĩa tròn hình xoắn ốc, và có lẽ nó là cái vỏ còn sót lại của loài cổ sinh vật thân nhuyễn nào đó. Vỏ của loài ốc cúc đá hình như không to đến độ này, có lẽ đó là vỏ của loài ốc anh vũ cổ, bên ngoài lớp vỏ là tầng từ chất, bên trong tồn tại rất nhiều tầng vách ngăn và thu nhỏ xoáy dần từ ngoài vào trong, kết cấu phân cách kì dị, vô hạn, gần giống tỷ lệ của vàng, và có thể chịu áp lực lớn đến mức khó lòng tưởng tượng, nên nhờ vậy mà nó đã lặn xuống được vực sâu dưới đáy cửu tuyền.
Lúc trước, Tư Mã Khôi nhìn thấy trên vỏ ngoài của ốc anh vũ có tầng hóa vật giống như gạch, có lẽ nó đã chết vì nham thạch nóng bỏng phun lên từ lòng đất, rồi biến thành hóa thạch rỗng ruột, nổi bập bềnh theo dòng thủy thể, cuối cùng trôi dạt đến nơi này.
Tư Mã Khôi nghĩ đến đây thì chợt lóe lên một suy nghĩ: phải chăng nhật quỹ ghi chép trên đỉnh Vũ Vương và trong bích họa Sở quốc mà cả hội đang bỏ công tìm kiếm, chính là vật này? Nhật quỹ là vật có thể đo độ sâu của đất trời, trên thân nó cũng có chi chít những đường vân, có thể tự vận hành, vỏ ngoài là cái đĩa tròn hình xoắn ốc, rõ ràng hình dạng của nhật quỹ rất giống với vỏ ốc anh vũ cổ đại. Anh chỉ không ngờ nó lại to đến mức này, và là con vật đã chết từ đời thuở nào, không thể tự di chuyển được nữa.
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi nói với mọi người suy nghĩ của mình, mọi người đều tán đồng. Căn cứ vào đây có thể suy đoán, thủy thể nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc, nằm ở dòng suối sâu phía dưới vòng tròn nham thạch, chỉ có ốc anh vũ mới có thể xuống đến độ sâu đó, mà cỗ di hài trong chiếc hộp của Sở U Vương lại tồn tại dưới đáy vực.
Lúc này, Cao Tư Dương nhắc nhở mọi người: “Nhiên liệu bố trí trong lỗ khí không duy trì được bao nhiêu thời gian đâu, rốt cuộc chúng ta muốn đi đâu thì phải quyết định nhanh lên”.
Tư Mã Khôi cũng nghĩ vậy, anh hỏi Thắng Hương Lân: “Trong vỏ ốc anh vũ còn lối ra nào khác không?”
Thắng Hương Lân chỉ mới nhìn thấy vỏ ốc hóa thạch của loại ốc anh vũ bình thường, không biết nó có khác với loại ốc cổ đại này không. Nhưng nếu suy đoán theo lẽ thường, thì nếu cứ đi tiếp vào sâu như vậy, không gian sẽ càng lúc càng hẹp, rồi trong khi điểm tận cùng lại chưa chắc đã có lối ra.
Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Huyệt động hóa thạch này là cái vỏ rỗng, vách ngoài chỉ được bao bọc bởi hóa vật gạch, có lẽ cũng không dày như mình nghĩ, đợi khi đi đến vách ngăn hẹp nhất phía trong cùng, thì mình thử lấy súng săn bắn một lỗ xem sao, không chừng lại mở được lối ra”. Thế là, cả hội lại quyết tâm tiếp tục chạy sâu vào trong, liên tiếp đi xuyên qua mấy gian thạch thất, lỗ khí trên vách càng lúc càng chật chội, nhưng vẫn chưa thấy điểm tận cùng.
Hải ngọng không ngớt miệng than thở: “Cứ chạy mãi thế này chẳng khác nào sa chân vào vũng lầy, càng cố thoát càng lún sâu, dù tinh thần không xuống dốc thì bụng cũng không trụ nổi nữa rồi…”, Hải ngọng đang nói nửa chừng đột nhiên im tịt.
Hội Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng chợt lặng thinh, lòng cũng thấy là lạ, anh liền lập tức đuổi theo, lấy đuốc soi sáng quan sát, thì thấy vách đá gian thạch thất khép vòng tròn, xung quanh vách toàn là tượng quỷ được điêu khắc bằng đá, trên người chằng chịt hoa văn như tranh, miệng há hốc, lưỡi thè dài, tướng mạo vô cùng quái dị.
Mọi người không có thời gian quan sát kỹ, liền hợp lực đẩy mấy pho tượng ma đến cửa động để bịt chặt lối vào, sau đó nằm vật ra đất thở hổn hển.
Tư Mã Khôi định thần đưa mắt quan sát, thấy gian thạch thất có bốn vách quây thành hình tròn này đã là điểm tận cùng, giờ đây năm người chen chúc nhau cộng thêm mấy pho tượng quỷ, nên khiến không gian lại càng thêm phần bức bối, giống như đang đứng trong đáy miệng giếng sâu.
Tư Mã Khôi lo thiếu dưỡng khí, liền bảo Thắng Hương Lân dập bớt đuốc. Lúc trước, mọi người còn để lại mấy cục cácbua dự phòng, bây giờ lấy ra dùng. Ánh đèn cácbua âm lạnh trắng nhạt, khiến cả gian thạch thất bừng sáng, nhìn bóng tượng đổ xuống vách tường, dễ làm người ta nảy sinh cảm giác không lành và đè nén. Dưới ánh đèn, trên vách động bỗng đâu hiện lên vô số cặp mắt quái dị, xanh len lét lập lòe lập lòe.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ bảy
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">ĐƯỜNG XUỐNG VỰC SÂU
Mọi người thấy cảnh tượng ấy đều giật nảy mình, lập tức giương súng rồi lên đạn, sau đó họ định thần nhìn lại mới phát hiện, trên vách đá khắc rất nhiều hình đầu người, tầng tầng lớp lớp nổi hẳn lên bề mặt đá, tạo thành từng vùng lỗ chỗ lồi lõm đan xen lẫn nhau, mà đa phần khuôn mặt đều không nhìn rõ nét, chỉ còn lại hình khối, duy chỉ có hai hốc mắt được chạm khảm bằng ngọc lam, bị đèn cácbua chiếu vào, trông nó ánh lên xanh len lét rất quái dị.
Hải ngọng điên tiết chửi đổng: “Bà nội nó chứ! Làm ông hết cả hồn!” – Nói xong anh liền rút dao, bảo Tư Mã Khôi: “Bữa trước, bọn mình vay lão Lưu Hoại Thủy tí kính phí trên tàu, nếu bị Diêm Vương điểm mặt gọi tên ở đây thì đương nhiên ta bùng luôn được khoản nợ đấy, nhưng nếu may mắn sống sót trở về, tớ cũng không muốn bị lão chặn cửa suốt ngày ồi ồi đòi nợ…”, vừa nói Hải ngọng vừa nhanh nhẹn nạy mấy viên ngọc lam, rồi bỏ tọt vào túi, anh còn lệnh cho Nhị Học Sinh mau đến giúp mình một tay.
Tư Mã Khôi mắng: “Hải ngọng, tớ biết cậu tuy là dân chân đất mắt toét, nhưng nói gì thì nói vẫn là một Bát Lộ quân, mấy món này tầm thường đến mức không thể tầm thường hơn, cậu tưởng nó là ngọc lục bảo chắc?”
Cao Tư Dương mỉa mai: “Bọn anh tuột gan tuột ruột ra ngoài thì quả nhiên chẳng khác gì phường thổ tặc”.
Tư Mã Khôi nói: “Cô không biết chứ, Hải ngọng ngày xưa có tên tiếng Nga hẳn hoi nhá, để nghĩ xem là gì nhi? À! Mocracski, tức “móc rác xờ ki”, một chuyên gia thu nhặt và kiểm duyệt đồng nát chính hiệu đấy”.
Hải ngọng nghe hai người châm chọc, lập tức dừng phắt lại, không nạy tiếp nữa, chống chế chữa ngượng: “Cậu không vùi dập khuôn mặt khôi ngô vĩ đại của tớ xuống bùn thì không chịu được à? Lần trước đi sa mạc Lopnor, tớ nghe ông bác Nông Địa cầu nói, bà Nữ Oa dùng loại đá ngọc lam này để vá trời đấy. Tớ rất lấy làm buồn, vì thấy một vật có ý nghĩa dường ấy, mà sao trong mắt cậu lại biến thành đồ giẻ rách được nhỉ? Hải ngọng tớ xem trọng nó là xem trọng mặt ý nghĩa tinh thần, rồi sau đó mới xét đến giá trị vật chất. Không có vật chất vẫn sống tốt, nhưng không có tinh thần ngủ cũng không yên giấc, cậu thấy có đúng không?”
Tư Mã Khôi đã đạt mục đích, anh không nói thêm gì nữa. Nhìn mấy bức phù điêu trên tường và những pho tượng quỷ, trông đều có dáng vẻ rất cổ xưa, Tư Mã Khôi liền hỏi Thắng Hương Lân xem chúng có từ triều đại nào?
Thắng Hương Lân nhìn hồi lâu, rồi đoán rằng: họa tiết trên thân pho tượng hao hao giống long triện triều Hạ, nhưng vẫn rất khó phán đoán chính xác lai lịch, càng không thể giải mã được bí mật ẩn chứa bên trong. Cô nghĩ, dãy núi Âm Sơn vẽ trong bích họa Sở quốc, với dáng vẻ giống cổng thành này, thực ra là một ngọn núi từ nằm dưới lòng đất, xung quanh nó có rất nhiều vật thể hình tròn, mà nếu quả đúng vậy, thì hang động cổ mà mọi người đang đi vào chỉ là một trong số đó. Ven núi Âm Sơn không biết còn bao nhiêu loại vỏ ốc hóa thạch này nữa, có lẽ nó còn nhiều hơn cả con số mọi người có thể tưởng tượng, và nếu cả hội lại gần mạch núi chính hơn một chút nữa, thì các vũ khí như súng trường và dao săn đều sẽ bị nó hút mất.
Tữ Mã Khôi ngẫm nghĩ, giờ cả hội đã bị nhốt trong căn thạch thất nơi tận cùng hang động cổ, và cứ ở mãi đây cũng không phải cách, đó là chưa nói đến chuyện không còn lương thực, mà nếu hao phí thời gian quá dài, thì trí nhớ mọi người cũng sẽ dần bị núi từ xóa sạch. Bởi vậy, bây giờ không thể lưu lại đây lâu, phải cố nhanh chóng nghĩ cách thâm nhập vào trong núi để tìm hiểu cho rõ nguyên nhân, rồi tìm đường thoát thân; nhưng chỉ e thời gian còn lại không nhiều, rồi ngay cả việc có thể phá vỡ được cái vỏ ốc này để thoát ra ngoài hay không, còn chưa rõ nữa là.
Hoàn cảnh không cho phép mọi người chần chừ thêm, Tư Mã Khôi bàn bạc mấy câu với mọi người, rồi đang định bắt tay hành sự, thì anh chợt nghe thấy có người “hèm” lên một tiếng trong bóng tối gian thạch thất. Tuy động tĩnh không lớn, nhưng chất giọng khàn khàn, sống sượng đó khiến da đầu anh bỗng chốc tê bì. Tư Mã Khôi và Hải ngọng suýt chút nữa nhảy bật khỏi mặt đất, bàng hoàng thốt lên: “Nấm mồ xanh!”
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi đã từng giằng co suốt thời gian dài với Nấm mồ xanh ở thành cổ Chăm Pa, và âm thanh đặc trưng ấy đã khắc sâu vào tâm trí anh, có điều lúc này anh không ngờ đối phương lại xuất hiện ngay bên cạnh. Xem ra, kẻ nói ám hiệu với Lão Xà trong biển Âm Dụ Đại Thần Nông Giá, quả nhiên chính là hắn. Anh lập tức mở đèn quặng, chiếu về nơi phát ra giọng nói.
Ánh đèn chiếu đúng vào bóng pho tượng, còn xung quanh đó thì không hề có vật gì khác, nhưng hội Tư Mã Khôi vào sinh ra tử bao phen cũng chỉ là vì muốn giải mã ân số Nấm mồ xanh, nên lúc này mọi phát hiện dù nhỏ bé nhất cũng không dễ dàng chịu bỏ qua. Cả hội liền xách súng chạy lại đó lùng sục.
Hai thành viên đội thông tin và Thắng Hương Lân tuy chưa bao giờ chạm trán với Nấm mồ xanh, nhưng họ đều nhận thấy tình hình lúc này chẳng khác nào đang gặp ma, người nào người nấy đều rùng mình sợ hãi, bởi một nỗi sợ khó nói thành lời. Mọi người im lặng, không ai dám ho he câu gì, lặng lẽ bám theo sau Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi quan sát kỹ vách đá chạm toàn hình đầu người, anh thấy chỗ bị Hải ngọng móc mất mấy viên đá ngọc lam đều lộ ra mấy cái hố, và dường như phía ngoài của gian thạch thất này còn có tầng kép, nên giọng nói khi nãy có lẽ vọng từ nơi đó ra. Tư Mã Khôi gỡ đèn quặng xuống, áp sát nửa mặt vào vách đá nghe ngóng. Bên trong tối thui, không rõ có người hay không.
Đang lúc Tư Mã Khôi bán tín bán nghi, thì chùm sáng đèn quặng vừa chiếu xuyên qua khe lỗ, đã soi đúng vào chiếc mặt nạ lấm lem bụi đất, rồi tuy chỉ thấp thoáng lướt qua, nhưng vẫn có thể nhận ra đó là mặt nạ phòng độc của Liên Xô. Thế nhưng, nó không giống với loại mặt nạ phòng độc hình mang cá của Tư Mã Khôi, và phía sau chiếc mặt nạ rõ ràng là mặt người. Khi hắn cảm thấy luồng sáng rọi vào liền né sang một bên lẩn trốn. Nhân cơ hội đối phương di chuyển, Tư Mã Khôi kịp nhìn thấy kẻ đó mặc bộ đồng phục thuyền viên trên người, nhưng vô cùng cũ rách, còn phả ra mùi khí hủ hóa, như thể vừa mới lột ra từ bộ xương người chết đã nhiều năm. Anh biết rõ hắn chính là Nấm mồ xanh, nên chỉ lặng lẽ hành động, vừa quan sát vị trí của đối phương vừa ngầm ra hiệu bằng tay cho Hải ngọng.
Tư Mã Khôi lùi nửa bước, lạnh lùng “hừ” một tiếng nói: “Lẽ nào mày đang tưởng nhớ đến những kẻ may mắn sống sót trên tàu Z-615 sao? Chúng ta kể ra cũng quen nhau kha khá đấy nhỉ, từ lúc chia tay đến giờ không lúc nào tao nguôi ngoai nỗi nhớ mày. Tao nói trước, tốt nhất mày đừng giở giọng dọa thần nhát quỷ ra làm gì”.
Nấm mồ xanh đáp lại bằng giọng âm lạnh: “Đã nhận ra kẻ thù thì cứ người thật nói chuyện thật, ta cũng chẳng ngại nói một sự thật mất lòng, mi có biết câu ‘bọ ngựa phí sức chặn xe tăng’ không? Nuôi thù chuốc oán làm gì cho mệt”.
Hội Tư Mã Khôi tất nhiên không thể tin lời Nấm mồ xanh, vì không biết bao nhiêu mạng người đã phải thiệt mạng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới bàn tay của tổ chức này, mà trong đó có Tuyệt, Ngọc Phi Yến, bác Nông, giáo sư Thắng Thiên Viễn, Karaweik, tiểu đoàn trưởng Mục, đội trưởng thông tin Lưu Giang Hà, cậu dân binh Hổ Tử…, những người này đều có mối quan hệ đặc biệt với hội Tư Mã Khôi, hoặc là thầy trò hoặc là huynh đệ chiến hữu, hoặc là cha con chị em. Mối thù này đã kết quá sâu, nên mối quan hệ giữa hội Tư Mã Khôi và Nấm mồ xanh chỉ có thể gọi là mối quan hệ “nước lửa không đội trời chung”.
Tư Mã Khôi hiểu, Nấm mồ xanh là kẻ gian giảo xảo quyệt, nên anh biết rõ vì sao hắn nói vậy. Chắc chắn hắn bị tình thế bức bách, không còn cách nào khác nên đành ra mặt lợi dụng đối phương giúp mình thoát khỏi cảnh khó khăn.
Dường như, Nấm mồ xanh cũng nhìn thấu suy nghĩ trong lòng của Tư Mã Khôi, hắn nói thẳng: “Bò khỏe không bằng trâu yếu, mấy người các ngươi tuyệt đối không phải đối thủ của tổ chức ngầm của ta. Từ khi gặp các ngươi trong núi Dã Nhân, ta đã luôn muốn đẩy các ngươi vào chỗ chết, chỉ hiềm nỗi số các ngươi chưa đến lúc tận, chắc tại hạn số vẫn còn; nhưng lúc ở trong mây từ, ta đã dần dần hiểu ra, nếu truy ngược lên ngọn nguồn, thì ra quan hệ giữa chúng ta không liên quan gì đến chính tà thiện ác, cũng không phải nước hỏa không dung, mà chỉ đơn giản là vì ‘tương tác nhân quả’ mà thôi”.
Hội Tư Mã khôi vừa nghĩ cách tóm cổ lôi Nấm mồ xanh ra ngoài, vừa đoán ý đối phương, nên không ai đáp trả câu gì. Nấm mồ xanh tiếp tục nói, hắn bảo mối quan hệ giữa hai bên là tương tác chuỗi nhân quả, người này vì người kia, người kia lại vì người này, mà cuối cùng đều rơi vào thủy thể giống như hắc động. Trong khi đó, dưới lòng thủy thể là núi từ có khả năng xóa sạch mọi trí nhớ, nên nếu không tìm cách chui vào thông đạo nối liền tới vực sâu, thì mọi người đều sẽ bị thần quỷ tiêu diệt. Hắn còn tự khoe mình đã nắm được bí mật của núi từ, nhưng nếu chỉ dựa vào sức của bản thân thì khó mà xoay chuyển được tình thế, vậy nên hắn cần mọi người ra tay tương trợ. Nói xong, hắn im lặng chờ đợi phản hồi của hội Tư Mã Khôi.
Bây giờ, dù hắn nói gì chăng nữa, thì Tư Mã Khôi vẫn kiên trì giữ vững quan điểm: “bố mày đếch tin”, nhưng thấy không khí càng lúc càng lâm vào tình thể căng thẳng, anh liền nói: “Nếu mày có thành ý thật, thì gỡ ngay cái mặt nạ xuống cho tao xem nào!”.
hoatanhoano.wordpress.com
Nấm mồ xanh có mấy phòng tuyến không thể vượt qua, trong đó phòng tuyến đầu tiên là không để cho bất kì ai biết khuôn mặt thật sự của mình, thứ đến là không tiết lộ cho bất kì ai biết cách che giấu hành tung. Khi nghe Tư Mã Khôi nói, hắn quả nhiên không chịu lộ mặt, mà chỉ nói sẽ tiết lộ một bí mật khác để đổi lấy điều kiện mà Tư Mã Khôi vừa đưa ra.
Tư Mã Khôi không bất ngờ, anh thầm nghĩ: bất kể Nam mồ xanh là người sống hay u hồn của người chết, thì kiểu gì hắn cũng phải có một lai lịch thân phận nhất định, đồng thời bí mật này chắc chắn sẽ uy hiếp chí mạng đến sự tồn tại của hắn, nên thậm chí khi sa chân vào bước đường này, hắn vẫn không chịu gỡ bỏ mặt nạ phòng độc xuống. Xem ra, khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh còn thần bí hơn cả khuôn mặt của quốc vương Chăm Pa. Lẽ nào u hồn này không có mặt sao? Suy nghĩ ấy vừa lướt qua đầu, anh liền thấy không hợp lý. Nếu quả thực hắn không có mặt, thì sợ gì bị người khác nhìn thấy! Vậy rốt cuộc hắn là ai? Chẳng lẽ lại là người anh đã từng gặp trước đây hay sao?
Nghi ngờ này bất chợt lóe lên, nhưng vì cách một vách tường, nên anh không thể tóm cổ hắn để gỡ mặt nạ ra được, mà duy chỉ có cách cố gắng đoán mò ý đồ của đối phương mà thôi. Anh biết tình hình trước mắt hai bên đang tìm cách khống chế lẫn nhau, nên nghĩ thầm: “Đối phương định lợi dụng đội khảo cổ để thoát khỏi núi từ, đây là quyền chủ động của mình, thế nhưng phải làm sao mới không bị đối phương lợi dụng vào mục đích của hắn? Hơn nữa, trước đây rõ ràng Nấm mồ xanh không hề hay biết gì về bí mật trong núi từ, mà cứ cho là hắn đã thâm nhập vào đây sớm hơn đội khảo cổ mấy bước, thì cũng không thể nghĩ ra cách thoát khỏi núi từ nhanh như vậy”.
Tư Mã Khôi vừa nghĩ đến đây, thì nảy ra một ý nghĩ, có lẽ Nấm mồ xanh chính là ác ma bị đày dưới núi Âm Sơn, sau đó vì một cơ duyên nào đó nên thoát ra khỏi lòng đất, nhưng ký ức trong đầu thì đã bị tòa núi từ này xóa sạch; lúc này trở về thạch thất, nhìn những họa tiết chữ triện cổ khác trên pho tượng ma, hắn mới chợt nhớ ra những chuyện cũ trước đây chăng?
Rốt cuộc, Tư Mã Khôi không hề biết gì về lai lịch gốc gác của Nấm mồ xanh, tuy anh suy đoán mấy khả năng, nhưng đều không lần ra manh mối. Chỉ có điều, căn cứ vào những sự kiện đã xảy ra, anh thấy rõ: Nấm mồ xanh dường như rất khiếp sợ núi từ dưới lòng đất, bởi vậy hắn mới xuất hiện trong gian thạch thất, để thỏa hiệp với mọi người. Nhưng hắn vốn là người nham hiểm, nên anh không biết liệu có phải hắn đang cố tình kéo dài thời gian, ngăn cản đội thám hiểm đang dần dần tiếp cận với lời giải, lợi dụng núi từ để nhốt mọi người đến chết ở đây không?
Nếu là khả năng thứ nhất, thì Tư Mã Khôi cam tâm tình nguyện: có chết cũng phải kéo hắn chết cùng; còn nếu là khả năng thứ hai, thì anh phải, nhanh chóng chấm dứt đôi co với Nấm mồ xanh, lập tức tìm cách thoát khỏi hang động hỏa thạch này. Cả hai tình huống đều có khả năng xảy ra, còn Tư Mã Khôi vốn là người quyết đoán, là kẻ liều mạng, sẵn sàng đem sọ ra đánh cược, nhưng lúc này anh lại do dự, không biết nên lựa chọn phương án nào.
Tư Mã Khôi nhất thời chưa thể quyết định, anh liền đánh mắt thăm dò ý kiến mọi người. Cả hội thống nhất phải bình tĩnh, thăm dò xem Nấm mồ xanh thực ra muốn gì trước đã.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ tám
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">TẤM BIA CỔ CỦA VŨ VƯƠNG
Nấm mồ xanh thấy hội Tư Mã Khôi không lập tức trả lời, thì đoán chắc vẫn còn đất thương lượng. Hắn nói từ thuở xa xưa, khi hồng hoang sơ khai, âm dương hòa hợp sinh ra trời đất, mặt đất là những vòng nham thạch dày mấy ngàn mét, trong tầng nham thạch có sông ngầm, vì trong huyệt địa, khe giếng, thường có dòng nước phun trào, mà trên thực tế là do áp lực tạo thành, nên thời cổ người ta gọi nước dưới lòng đất là “tuyền’, thủy thể khổng lồ nằm dưới vành đai 30° vĩ Bắc, chính là nơi có dòng suối lớn sâu vô tận.
Dòng suối này sâu như vực, không nhìn thấy đáy, phía trên bị bao phủ bởi lớp mây từ dày đặc, xung quanh là hỗn độn chưa phân chia, nhưng tận cùng dưới sóng nước còn có một cái máng lõm hình tròn, đó mới chính là vực sâu đích thực nằm dưới cửu tuyền. Thủy thể nguyên thủy dưới lòng đất chính là mô hình thu nhỏ của đại dương ngày nay, trong lòng nó từng tồn tại rất nhiều loài sinh vật có vỏ, sau này bãi biển hóa nương dâu, địa hình thay đổi đột ngột. Một số loài sinh vật như ốc anh vũ cổ đã bị dòng nước ngầm cuốn xuống vực sâu, và nhờ lớp vỏ có khả năng chịu thừa áp tốt, chúng chui vào không động rồi dần dần trở thành hóa thạch, sau đó lại bị dung nham phun ra từ tầng quyển manti đẩy ra ngoài thủy thể, trôi bập bềnh trong biển tối mênh mông, cho đến khi núi từ bị sụt lún xuống đây, những vỏ ốc này mới bị hút vào quanh lòng núi.
Khi Thần Nông gá gỗ làm ổ, người thượng cổ đã đi lạc vào lòng đất, lúc đó núi từ vẫn cao sừng sững, còn động nham thạch phía dưới biển Âm Hải lại thò hẳn vào trong sương. Sau vụ va chạm, mặt đất xảy ra địa chấn, khiến núi từ bị chặn lại tại chỗ, phần lòng núi sụt lở đã lộ ra một vòm hang lớn, nhờ vậy mà con người mới có thể chui vào bên trong và phát hiện ra vàng, mã não. Nhưng ngọn núi lại trôi nổi bất định, đến lúc họ muốn quay lại lấy tiếp, thì đã không thấy tung tích của nó đâu nữa. Người đời sau lắp ghép những phần khoáng vật giống như xương khô này thành một cỗ di hài, rồi gọi nó là thánh vật, vì trong núi từ không có mạch vàng, nên người cổ đại suy đoán: có lẽ di hài trong hang động trôi đến từ dòng suối lớn dưới lòng đất.
Đến thời Vũ Vương đào kênh trị thủy, ông ta muốn tìm nhật quỹ để đo xem trời cao bao nhiêu, đất dày mấy tấc. Lại được biết nước Toại Minh cổ đại có một cái cây thần, uốn lượn vạn mẫu, thông thiên tiếp đất, mây sương vờn vũ lưng chừng thân cây, núi từ cũng bị rễ của nó quấn chặt dưới lòng đất. Bởi thế Văn Vương đã nhìn thấy ngọn núi này, đồng thời cũng phát hiện con người không được lưu lại đây lâu, vì chỉ cần quá một ngày sẽ biến thành ác quỷ, nên đã đặt tên cho núi là Âm Sơn.
Lúc đó, người ta đã phát hiện ra một tấm bia cổ rất lớn ở Hoài Nguyên, trên đó khắc rất nhiều chữ triện hình long ly, đây là một phần bị thất lạc sớm nhất của chữ long triện triều nhà Hạ. Nghe nói sau đó Vũ Vương đã nhốt con rắn lớn dưới sông Hoài Thủy, còn tấm bia này là cổ vật của tộc người Bái Xà, trên đó ghi chép rất nhiều bí mật kinh thiên động địa. Thuở ấy, hồng hoang sơ khai, núi sâu đất mỏng, liên tục bị nứt đôi, nên bất kể thành quách, quốc gia hay con người, chỉ cần sụt xuống đó thì đừng mong có ngày lên được. Sau khi xin thần khấn phật, Vũ Vương liền ném tấm bia cổ xuống lấp kín hoàng tuyền, phân ra hai cực đất trời, sau đó lại cho chặt đứt cây thần, khiến núi Âm Sơn từ đó hoàn toàn biến mất giữa sóng nước mênh mông.
Trong khi đó, tộc người Bái Xà bị nhốt dưới Vũ khư lại cứ đau đáu muốn tìm lại tấm bia cổ, nhưng cho đến ngày họ bị diệt vong thì hoàn toàn vẫn không có kết quả gì; có điều, những sự tích này đều được ghi chép lại trên các di tích mà tộc Bái Xà để lại bằng chữ triện cổ triều Hạ.
Về sau, thời đại Xuân Thu Chiến Quốc, Sở U Vương đã lần lượt đúc chín pho tượng vàng hình người để tế ma, chặn kín trước núi Âm Sơn, và kết quả đã khiến địa tầng sụt lở, lớp sương từ nhanh chóng bủa vây khắp nơi, người nào vào bên trong, người đó tất bỏ mạng.
Nấm mồ xanh nói với mọi người, những pho tượng quỷ trong hành lang hóa thạch này đều là của tộc người Bái Xà để lại, nên chỉ cần làm theo lời hắn, thì sẽ khiến vỏ ốc thoát ra khỏi lực hút của núi Âm Sơn, tuy chưa thể đến nơi an toàn, nhưng có thể thâm nhập đáy vực sâu. Đến lúc đó, hắn sẽ tình nguyện nói ra toàn bộ bí mật kinh thiên động địa trên tấm bia cổ của Vũ Vương cho hội Tư Mã Khôi. Nếu hai bên cùng hợp sức, lo gì không tìm được đường sống, sao phải giằng co với nhau ở đây làm gì cho vô nghĩa.
Tư Mã Khôi nghe Nấm mồ xanh nói mà thầm kinh hãi, không ngờ hắn lại biết rành rẽ mọi chuyện đến thế, và chắc hắn vẫn còn giấu giếm hội anh rất nhiều thông tin quan trọng khác. Anh trầm ngâm một lát, tuy hiểu rõ Nấm mồ xanh sẽ không nói sự thật, nhưng anh vẫn không kìm được nên hỏi: “Hội tao có bốn người thoát khỏi núi Dã Nhân, Miến Điện, trừ tao và Hải ngọng ra, hai người còn lại bây giờ thế nào rồi?”
Nấm mồ xanh nham hiểm nói: “Thực ra, mi đã biết rồi, thì việc gì phải hỏi nữa? Nếu ta có lòng lừa dối, thì hoàn toàn có thể nói hai người kia vẫn còn sống; nhưng nếu thế ngươi sẽ thấy mọi lời nói của ta về sau đều không đáng tin. Thời gian không còn nhiều, ngươi phải tin lời ta, dịch chuyển pho tượng cụt đầu kia sang một bên, vì bản thân pho tượng là một khối huyền từ, nó có khả năng làm lệch vị trí của khối từ khác, rồi hang động cổ hóa thạch sẽ bị sóng đẩy đi, hoàn toàn thoát khỏi núi Âm Sơn. Người Bái Xà rất am hiểu từ tính, họ đã lợi dụng vẫn thạch sắt dưới lòng đất làm cột dẫn đường cho tàu thuyền. Phương pháp cổ xưa này khá hiệu quả, nếu bọn ngươi không muốn biến thành những cỗ hoạt thi, thì mau hành động theo lời ta nói”.
hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi thầm nghiến răng, anh nhất thời không biết nên quyết định thế nào, mấy lời Nấm mồ xanh vừa nói chẳng khác nào một quả lựu đạn khói, tin cũng không được, không tin cũng không xong. Anh không hề lo việc bị nhốt đến chết trong núi Âm Sơn, mà là không thể xác định được đối phương thực hư thế nào.
Cao Tư Dương tiến sát gần, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi: “Bây giờ hắn cách chúng ta một vách tường, chẳng ai làm gì được ai, chi bằng mình cứ đẩy pho tượng ra theo lời hắn, đợi khi xuống đến đáy vực, lo gì không có cơ hội tóm cổ hắn”.
Tư Mã Khôi nhíu mày, rồi lắc đầu không đồng ý, anh thầm nghĩ: cô chưa bao giờ tiếp xúc với Nấm mồ xanh, nên không biết tâm địa hắn thâm hiểm, ác độc đến mức nào đâu. Làm gì có chuyện hắn tốt bụng chỉ điểm đường sống cho chúng ta? Ngoài ra, chắc chắn đối phương biết tôi sẽ không tin mấy lời quỷ quái của hắn, và không biết hắn có cố ý bày kế “nghi binh” để khiến hội mình không dám chạm vào bức tượng không đầu đó không?
Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì quay sang nhìn Thắng Hương Lân, nhưng nét mặt Thắng Hương Lân cũng nghi hoặc không kém, cô nhè nhẹ lắc đầu, ra hiệu không thể đoán được thực hư.
Tình hình bây giờ không khác gì trong tay Nấm mồ xanh có một đồng xu với hai mặt sấp ngửa, trong đó có một mặt khi tung sẽ ngửa lên; trong lòng Nấm mồ xanh biết rõ mặt nào sẽ ngửa, đồng thời hắn cũng nói với mọi người kết quả, nhưng không rõ kết quả đó là thật hay giả. Trước khi hắn xòe bàn tay ra, thì không ai có thể xác định đồng xu sấp ngửa thế nào.
Nấm mồ xanh thấy mọi người vẫn do dự không quyêt, hắn lại tiếp tục bồi thêm đòn tâm lý, nào là bí mật dưới vực sâu và trên tấm bia cổ Vũ Vương kinh thiên động địa ra sao, nào là kết cục bị nhốt dưới núi Âm Sơn sẽ bi thảm, khủng khiếp đến mức nào.
Tư Mã Khôi nghe đến đây thì bỗng cười nhạt, mọi người giật mình, lòng thầm kinh hãi: “Tình thế đang lúc nước sôi lửa bỏng, cậu ta dở hâm hay sao mà đột nhiên lại cười nhăn nhở thế nhỉ?”
Nấm mồ xanh cũng bất ngờ: “Ngươi… ngươi có định đẩy bức tượng đó hay không?”
Tư Mã Khôi nói: “Suýt nữa ông bị mày lừa, dưới vực sâu có liên quan đếch gì đến ông, sao ông lại phải mệt người đi đẩy bức tượng đá đó?”
Nấm mồ xanh hỏi: “Thế ngươi muốn cả hội bị nhốt trong núi Âm Sơn đến chết sao?”
Cao Tư Dương chột dạ: “Sao Tư Mã Khôi dám tự tiện quyết định thay mọi người. Anh ta làm thế khác gì lấy mạng của bọn mình”. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cô lại thấy: “Bây giờ có trời mới biết mình đang ở chỗ nào, hi vọng sống sót sau khi chạy thoát khỏi lòng đất vẫn rất vô cùng mờ mịt, sao mình phải thể hiện sự nhát gan ra như vậy chứ?” – Thế là cô nhịn lại không nói gì.
Lúc này, Tư Mã Khôi cũng im lặng, chỉ bật đứng dậy, gọi Hải ngọng đến giúp, hai người hợp sức đẩy đổ một pho tượng xuống dất.
Hải ngọng chưa hiểu dụng ý của anh, thắc mắc: “Cậu lại định giở trò gì thế?”
Mặt Tư Mã Khôi thấp thoáng sát khí, nhỏ giọng trả lời: “Tớ đoán tượng đá rất nặng, nếu đập vỡ vách đá này, đến lúc đó, cậu nhớ nhanh tay lẹ chân một chút, đừng để cái thằng chó đẻ kia trốn mất đấy”.
Hải ngọng đỏ mắt từ lâu, vừa nghe đã hiểu Tư Mã Khôi muốn gì, anh lập tức nghiến răng ken két nói: “Bận này cậu cứ việc chống mắt mà xem, tớ không lột da nó không xong…”
Hai người vận hết công lực, dồn toàn bộ sức vào đôi bàn tay, đồng thanh hét lớn, ôm tượng đá nhất tề thúc mạnh vào vách, tai nghe thấy “rầm” một tiếng”, vách đá thủng một lỗ lớn.
Nấm mồ xanh tự thấy kế sách của hắn kín kẽ từ đầu chí cuối, chẳng ngờ Tư Mã Khôi còn có chiêu này, hắn quay người định trốn vào nơi sâu giữa tầng kép, chẳng ngờ lại bị gạch cổ sụt lở đè vào, hắn đành giãy giụa bò ra ngoài.
Tư Mã Khôi quăng tượng đá, nhìn chằm chằm vào Nấm mồ xanh hãy còn đang giãy đạp giữa đống đổ nát, quát lớn: “Phen này xem mày chạy đằng trời, để ông Khôi nhìn kỹ mày rốt cuộc là người hay ma?” – Nói xong, anh liền xách súng chạy đến gần.
Mọi người bám theo sau, Thắng Hương Lân khẽ nhắc: “Cẩn thận kẻo trúng quỷ kế của hắn!”
Ai ngờ, phía sau chợt vang lên âm thanh “kẹt kẹt kẹt”, đó là tiếng phát ra do gạch đá ma sát vào nhau. Hội Tư Mã Khôi lo bọn cương thi kịp bò vào trong, nhưng quay đầu lại thì thấy Nhị Học Sinh đang nhễ nhại mồ hôi, dùng vai đẩy pho tượng không đầu, gắng gượng di chuyển nó về phía trước. Pho tượng rất nặng, phần đáy còn bị từ thạch hút chặt, Nhị Học Sinh đã vận hết sức bình sinh, nó mới di chuyển nửa thước.
Mọi người đồng thanh hét “Dừng tay!” – Tư Mã Khôi bừng bừng sát khí, liền giương súng bắn, nhưng Thắng Hương Lân cảm thấy Nhị Học Sinh không phải thành viên của tổ chức ngầm, mà cậu ta làm vậy chẳng qua vì lòng hiếu kì quá lớn, chắc chắn bị mấy lời dụ dỗ của Nấm mồ xanh mê hoặc, muốn biết bí mật tồn tại trong vực sâu, nếu luận về tội trạng thì cũng chưa đến mức phải xử bắn; bởi vậy, cô đẩy cánh tay anh, viên đạn không bắn trúng đầu, mà bay thẳng vào phần thân pho tượng.
Khi nãy, Nhị Học Sinh còn nóng máu, nhưng giờ thấy hội Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa tức giận, thì lòng cậu ta phút chốc liền hối hận, nét mặt hốt hoảng, quỳ vội xuống đất: “Chắc chắn chúng ta… không ra khỏi đây được đâu. Trước khi chết, tôi chỉ muốn nhìn… nhìn xem trên tấm bia Vũ Vương viết gì mà thôi…”
Tư Mã Khôi chỉ sợ Nấm mồ xanh nhân cơ hội này lủi mất, anh mặc xác Nhị Học Sinh đang phân bua, vội quay đầu lại, nhưng vừa nhìn đã thấy hang động hóa thạch này không biết ngâm bao năm trong nước, thân nó bị xâm thực nghiêm trọng, nó đứng vững được ở đây hoàn toàn là nhờ pho tượng đá huyền từ cố định nó lại, sau khi Nhị Học Sinh di chuyển pho tượng, cực từ bị thay đổi, nên trong phút chốc nó trượt từ sườn núi xuống dòng nước xiết, rồi chìm vào Vũ khư sâu hun hút. Mọi người đứng trong thạch thất bỗng chốc thấy trời đất quay cuồng, tai không nghe thấy bất kì âm thanh gì nữa, những pho tượng quỷ và gạch đá xung quanh rơi xuống rào rào.
Tư Mã Khôi thầm biết tình hình không ổn, anh vội vàng cố gắng đứng vững, soi đèn ra xa, chỉ thấy gạch đá đang đè trên người Nấm mồ xanh trượt sang một bên, hắn nhân cơ hội này chạy thoát thân, nhanh chóng bò vào nơi sâu trong kẽ hở của vách đá. Mọi người định nhất loạt giương súng bắn loạn xạ, nhưng vì mất trọng tâm nên chẳng phát đạn nào phát huy được tác dụng. Giờ đây, cơ hội ngàn năm khó gặp đã vuột khỏi tầm tay, mọi người đành phải tự cứu mình trước.
Hỏa thạch ốc anh vũ cổ đại vốn là sinh vật không có sự sống, nó bị rơi xuống sóng nước cuồn cuộn, nước ngầm dưới lòng đất chảy tràn vào trong, nhưng cấu trúc từng gian từng gian thạch thất ăn thông với nhau, cũng giúp nó phần nào giảm nhẹ được áp lực và lượng nước tràn vào. Nó chìm xuống như đá rơi xuống biển, xuyên qua hỗn độn mịt mùng vô biên, rơi xuống vực sâu không đáy. Mọi người nhanh chóng mất hết tri giác trong gian thạch thất tối om.
Đến khi Tư Mã Khôi tỉnh lại, anh thấy đầu óc ong ong, gần như không thể nhớ chuyện gì đã xảy ra, còn tứ chi tựa hồ bị xé đứt, gân cốt cảm giác không có vấn đề gì lớn, nhưng khắp cả toàn thân đau tê dại. Anh thử mở đèn quặng, may mà thứ này cũng khá nồi đồng cối đá, rồi nhờ ánh sáng đèn quặng, anh thấy khắp vách động toàn là những vết rạn hình mai rùa, nhưng về tổng thể thì vẫn còn nguyên vẹn, trước mắt mịt mù hơi nước ẩm ướt, xung quanh lại toàn sương mây đen ngòm. Anh nghĩ, có lẽ mình đã rơi xuống không động dưới đáy cửu tuyền.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">Hồi thứ chín
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">NHỤC CHI DƯỚI LÒNG ĐẤT
Đầu Tư Mã Khôi đau như muốn vỡ tung, anh mặc kệ tất cả, nằm bất động tại chỗ giữa bóng tối mịt mùng không biết bao lâu, những người khác cũng lần lượt tỉnh lại, rồi mãi một hồi sau mới cố gắng gượng người dậy nổi.
Hải ngọng vừa hồi người lại đã sôi tiết lên, anh hùng hổ vung dao định băm Nhị Học Sinh một nhát, rồi moi tim ra xem màu gì mà khi nãy dám thò chân ngáng hội anh. Nếu khi nãy cậu ta không nhúng tay giữa đường, thì Nấm mồ xanh làm sao có thể trốn thoát lần nữa ngay trước mũi mọi người?
Cao Tư Dương vội vàng ngăn lại, cô đảm bảo Nhị Học Sinh tuyệt đối không hề có can hệ gì với Nấm mồ xanh, lúc đó chẳng qua chỉ vì bản năng sinh tồn thôi thúc quá mạnh mẽ mà thôi. Mọi người đều là người trần mắt thịt, gặp phải tình huống như vậy, ai chẳng run sợ chứ?
Lúc này, Nhị Học Sinh đang tự ăn năn hối, lỗi lầm lũi cúi đầu không dám nhìn mọi người, chỉ mong tìm thấy kẽ nẻ nào để chui mau xuống lòng đất cho rồi.
Ngược lại với Hải ngọng, Tư Mã Khôi bình tĩnh hơn nhiều, tuy anh cũng tiếc nuối cơ hội tốt vừa mới vuột khỏi tầm tay, vì khó khăn lắm mới tóm được chỗ sơ hở của Nấm mồ xanh và đẩy hắn vào vòng hiểm nguy, nhưng hắn vẫn tìm ra mắt xích lỏng lẻo và yếu ớt nhất trong tâm lý của mọi người, khiến bao công sức của anh đều đổ cả xuống sông xuống bể. Nấm mồ xanh không ngờ anh lại vác tượng đá đâm thủng vách tường, còn anh cũng không ngờ phòng tuyến tâm lý của bạn đồng hành phía mình lại bị phá vỡ vào khoảnh khắc then chốt nhất. Đây chính là những thay đổi đột ngột không ai dự tính trước được, có lẽ đó chính là số phận an bài. Nghĩ vậy, anh liền xua tay bảo Hải ngọng dừng lại: “Ai mà chẳng mưu cầu sinh tồn, nói thế chứ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng cũng đâu phải chuyện dễ. Thằng nhãi trí thức này không có hoàn cảnh giống chúng ta. Cậu ta không thù không oán với Nấm mồ xanh, nên trong thời khắc sinh tử nhất thời thấy sợ sệt cũng là điều dễ hiểu”.
Nhị Học Sinh, nước mắt trộn nước mũi, thề thốt từ nay về sau sẽ sửa đổi tư tưởng sai lầm tận gốc rễ và thành tâm hối cải tận sâu thẳm linh hồn, tuyệt đối không bao giờ dám tham sống sợ chết nữa.
Trước đây, Cao Tư Dương vẫn có thành kiến với Tư Mã Khôi, nhưng bây giờ thấy anh dễ dàng bỏ qua chuyện này, thì cô không khỏi thán phục sự độ lượng của anh.
Thực ra, Tư Mã Khôi cũng thầm cảm thấy hổ thẹn, lúc trước nếu Thắng Hương Lân không đẩy mũi súng, thì anh đã bắn Nhị Học Sinh vỡ sọ. Ngẫm lại, anh thấy mọi người thâm nhập vào vực sâu nơi tâm Trái đất, đã trải qua không biết bao nhiêu khó khăn, nguy hiểm, và có thể sống đến tận lúc này, là hoàn toàn là nhờ sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Tuy anh là kẻ liều mạng không sợ chết và sẵn sàng trả bất cứ giá nào để dồn Nấm mồ xanh vào chỗ chết, thậm chí là mạng sống của mình, nhưng làm sao anh có thể hi sinh cả tính mạng của những người xung quanh?
Mọi người ngồi quây quần trong gian thạch thất tính toán bước hành động tiếp theo. Tuy không rõ tình hình bên ngoài thế nào, nhưng có lẽ cả hội đã rơi xuống đáy vực cùng với hang động hóa thạch. Phía dưới thủy thể dường như là khe sâu, cũng chính là lòng máng hình tròn bị lún xuống quyển manti; ở giữa có vật chất là thể khí dày đặc, mù mịt cách tuyệt lòng máng với không gian phía trên, nước rơi xuống liền bị bốc hơi thành sương mù, bởi vậy dưới này lượng không khí rất dồi dào. Chỗ mọi người đang đứng chính là cửu tuyền hun hút, còn dưới sâu hơn không còn nước ngầm và nham thạch nữa, mà chỉ có vật chất thể khí nóng bỏng và biển cả, do những dòng dung nham ngưng tụ tạo thành, và thực thể sống chỉ cần lại gần là lập tức sẽ hóa thành tro bụi. Nên thật khó lòng tưởng tượng người cổ đại đã mang tấm bia của Vũ Vương xuống đây bằng cách nào, và càng không thể đoán ra được vì sao họ phải làm vậy. Nấm mồ xanh cũng đang có ý đồ dòm ngó bí mật được ghi chép trên tấm bia, dù bất kể phải nhận kết cục gì. Đội khảo cổ cũng chỉ còn cách phải tìm thấy tấm bia trong vực sâu trước hắn một bước, và họ tin rằng mọi đáp án cần tìm đang treo lơ lửng trong đó.
Trước khi xuất phát, hội Tư Mã Khôi tiến hành kiểm đếm súng ống đạn dược và trang thiết bị công cụ. Đến lúc này vẫn còn ba khẩu M-1887, sau khi phân phát đạn cho mọi thành viên, mỗi người vẫn còn hơn năm mươi viên, khẩu súng săn của Hải ngọng còn hơn 30 viên, khẩu súng lục P38 của Thắng Hương Lân còn mấy băng đạn dự phòng. Tuy đạn dược vẫn đủ duy trì một thời gian nữa, nhưng nước uống và thức ăn thì đã hoàn toàn cạn kiệt.
Mọi người hành quân ở nơi không khí ẩm ướt, sương khí bay la đà nên không thấy khát, nhưng ai nấy đều đói đến nỗi hai thành ruột dính sát nhau. Sau khi dần thích ứng với cảm giác huyết quản muốn vỡ tung, vì chịu áp lực quá tải, cả hội lại bật đèn quặng mò mẫm ra phía ngoài, bò từ khe nứt của tầng vỏ hang động hóa thạch ra. Thoát khỏi vỏ ốc, mọi người thấy không khí giăng ngập hơi sương, chỉ cách mấy bước chân mà đã không nhìn thấy nhau, còn dưới chân êm êm, mềm mềm, không biết là vật gì. Mọi người lần theo chỗ tương đối bằng phẳng để đi, chỉ thấy xung quanh toàn những vòng nấm khổng lồ màu sắc rực rỡ, to như những vầng mây, phía dưới có năm chân, trên đỉnh là đường vân hai màu vàng và trắng, xuôi xuống thân dưới là màu đỏ nhạt, dày hơn mười mét, chỗ đường diềm rong rêu buông rủ, hình thù trông rất kì dị.
Tư Mã khôi dự đoán hang động hóa thạch này đã bị rơi xuống đỉnh của một lùm địa chi, và đè bẹp một vạt lớn. Đang lúc đói meo, nhìn thấy đám nấm này thì chẳng khác nào buồn ngủ gặp chiếu manh, rồi không kịp phân biệt nó có độc hay không, cả hội đã ào tới cắt lấy mấy miếng, cho vào miệng nhai, nếm thử thấy vị nó giống như thịt gà, vừa bùi vừa ngậy, mà ngay cả linh chi hay nấm ngàn năm trong rừng sâu cũng không bằng một phần vạn của loại nấm này. Đúng là nó có thể ăn được, và có lẽ nó là một loài thuộc họ nhục chi sinh trưởng dưới lòng đất. Mọi người không nghĩ nhiều, mà người nào người nấy ai cũng phồng mang trợn má nhai nuốt.
hoatanhoano.wordpress.com
Trong bụng có thứ lót dạ, đầu óc cũng thấy linh hoạt hẳn lên, Tư Mã Khôi chợt nhớ là không được ăn bừa bãi loài nhục chi dưới lòng đất. Nghe nói thời Dân quốc có một người đi đào nhân sâm ở núi Bạch Sơn, bị rơi vào trong hang núi vì mặt đất đột nhiên sụt lún. Anh ta phát hiện có tầng nhục chi lớn dưới đáy động, liền vớ lấy ăn, và chẳng bao lâu sau anh ta đã hóa thành cây khô hình người. Nghe đồn, nhục chi là loại nấm có hình có khí hẳn hoi và được chia ra làm nhiều loại. Loại nhục chi giống hình người, mọc đủ cả chân tay mắt mũi là loại có linh khí, nếu ăn nó sẽ cải lão hoàn đồng, răng mọc lại như trẻ lên ba, nhưng loại nhục chi thành tinh thì sinh ra là do cảm ứng khí tăm tối của đất trời, nên nếu lỡ ăn phải loại này thì sẽ biến thành hóa thạch dưới lòng đất. Có điều, bây giờ mới phân biệt xem nó thuộc loại nào thi cũng đã muộn, ngước mắt lên lại thấy mọi người đang cắt lấy cắt để từng miếng địa chi cất vào ba lô, nên Tư Mã Khôi cũng mặc kệ ý nghĩ vừa nhen nhóm trong đầu.
Lúc này, xung quanh sương dày bao phủ trùng điệp, mọi người không thể phán đoán địa hình và phương vị trong vực sâu, càng không biết tấm bia của Vũ Vương đang nằm ở đâu. Hơn nữa, tuy đa số bọn cương thi núi Âm Sơn rơi theo hang động hóa thạch xuống đây, đều bỏ mạng vì không chịu nổi địa áp, nhưng cũng khó lòng đảm bảo tuyệt đối không còn tên nào may mắn sống sót. Đội khảo cổ lẩn quẩn mãi ở đây cũng rất nguy hiểm, bởi vậy mọi người định thăm dò địa thế, rồi đi tìm một nơi tương đối an toàn nghỉ ngơi lấy sức, sau đó sẽ nghĩ cách đi tìm tấm bia Vũ Vương và Nấm mồ xanh. Cả hội gắng gượng leo lên cao, đến tận cùng của quầng nhục chi vươn ra khỏi sương, rồi đi đến ven rìa thì thoát ra khỏi bụi nấm. Nhờ vệt sáng phát ra do ma sát điện từ trên đỉnh đầu, cả hội đã phát hiện mình đang đứng trong kẽ hẹp của biển sương mù mênh mông. Sương mù dày đặc trông như mây trút đổ từ trên trời xuống, che phủ cả thâm cốc sâu rộng bát ngát. Thâm cốc này chủ yếu được tạo thành bởi các mỏ vàng nhấp nhô tựa gò đồi và rừng rậm pha lê phân bố ở nơi sụt xuống. Tư Mã Khôi suy đoán những thứ này được sinh ra sau khi dung nham bị làm lạnh và biến đổi lại trong quyển manti.
Hội Tư Mã Khôi nhìn thấy cảnh tượng này đều hãi hùng, lòng máng trũng lún sâu trong tầng quyển Manti chắc vươn sâu xuống mấy chục ngàn cây số, còn số lượng của một nhóm người so với nó nhỏ bé chẳng khác nào hạt bụi giữa sa mạc. Nơi vệt sáng chiếu tới chỉ là một phần nhỏ, còn cả vùng đất rộng lớn đều nằm ẩn trong sương mù dày đặc tựa hồ như không thể xuyên qua. Thế giới dưới lòng đất hung hiểm khác thường, từ cổ chí kim đều hiếm bóng người lai vãng, hơn thế nữa phần lớn mọi thứ lại đang nằm trong bóng tối, nên chỉ cần bước hụt chân và tụt xuống hố pha lê hoặc động dung nham bị phong kín, thì đừng có nghĩ đến việc sổng sót ngoi lên.
Cao Tư Dương chỉ tay về hướng đông và nói: “Tôi thấy trong sương mù có một cái bóng đen rất lớn thì phải. Phía dưới vệt sáng vẫn là bóng tối, mà dường như ở sâu trong biển sương lại có một đường viền khe nứt, mà không rõ vị trí cụ thể của nó ở đâu.”
Tư Mã Khôi cũng cảm thấy bóng đen đó rất khác thường, anh ngạc nhiên nói: “Cơ hồ có thứ gì che mất sương mù thì phải, không biết có phải bia Vũ Vương đang chìm dưới vực sâu không nhỉ? Nhưng nếu là bia đá, thì… nó cũng hơi to quá”.
Thắng Hương Lân nói: “Đâu phải chỉ hơi to, không khéo nó phải cao đến trên ngàn mét ấy chứ…”, cô vừa nói xong thì vệt sáng đột nhiên tắt ngóm, cả lòng đất lại chìm vào miền tối vô tận, cô vội vàng đánh dấu phương hướng lại.
Mọi người hoàn toàn không xác định được vị trí cụ thể của bia Vũ Vương, bây giờ thấy cấu tạo địa chất dưới cửu tuyền hùng vĩ, sâu hút như vậy, lại càng không biết nên đi hướng nào, đành đi bừa, đến đâu hay đến đấy vậy. Cả hội thấy mạch núi hai bên chạy theo hướng đông tây, trong khi đó hướng xuất hiện chiếc bóng khổng lồ chìm trong sương lại là hướng tây, còn phía đông là khe núi phủ dày sương và sâu hun hút, xem chừng rất khó tiếp cận, thế là cả hội quyết định đi về hướng tây.
Tư Mã Khôi thấy mọi thứ ở đây đều rất thần bí, nên dẫu cả hội đều kiệt sức, anh cũng không dám cho dừng lại. Tư Mã Khôi bảo mọi người kiểm đếm lại dụng cụ chiếu sáng, đèn quặng có thể duy trì được thêm vài hôm, cácbua tiêu hao khá chậm, nên tạm thời vẫn còn đủ dùng, đuốc của đội thám hiểm Taninth thì chỉ còn mười mấy thanh, vì không biết phải đi bao nhiêu cây số trong vực sâu tối om nên chưa đến lúc thật cần thiết, mọi người không được sử dụng. Anh bảo bốn người còn lại chỉ dùng công cụ chiếu sáng để đảm bảo an toàn bản thân, không được lãng phí, mọi người phải giữ vững khoảng cách nhất định, không được tách khỏi đội ngũ.
hoatanhoano.wordpress.com
Nơi này đã hoàn toàn cách biệt núi từ, nên có thể sử dụng la bàn để xác định phương hướng, sau khi sắp xếp mọi thứ ổn thỏa, đội khảo cổ tìm chỗ giẫm chân lên và tiến về phía trước. Hai bên đường mọc đầy những lùm nhục chi cao trên trăm mét, chúng đan xen lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp, tán nấm che kín không gian phía trên đầu, phía dưới vương vãi rất nhiều vỏ cúc đá. Sự tĩnh lặng đến đông đặc đã khiến người ta cảm thấy bất an, con đường đi xuyên qua bụi nhục chi khó hơn mọi người tưởng tượng. Cả hội mò mẫm trong bóng tối, lúc đi lúc dừng, nên tốc độ rất chậm chạp.
Cao Tương Dương không ngờ còn cơ hội thoát chết khỏi cảnh đường cùng, nên từ đó về sau lúc nào lòng cô cũng thấp tha thấp thỏm. Cô có cảm giác: Nấm mồ xanh đã lợi dụng mọi người để xuống được khe sâu dưới cửu tuyền, thì cũng có thể lợi dụng mọi người để tìm ra bia Vũ Vương. Tư Mã Khôi chỉ mải ngẫm nghĩ về bí mật mà đáng lẽ ra vẫn chưa bị phanh phui, còn anh không hề nghĩ xem, rốt cuộc kết quả của cuộc hành trình này sẽ như thế nào. Hội anh rõ ràng đang đùa với lửa. Cao Tư Dương là người thẳng thắn, cô không ngại nói thẳng mọi suy nghĩ của mình với mọi người. Nhưng Tư Mã Khôi không sợ, anh xác định, dẫu sao cả hội sớm muộn cũng đã rơi vào nơi nước sôi lửa bỏng, đến giờ này thì còn gì để mất đâu mà không liều mạng xông lên?
Anh nhớ lại đoạn đường đã qua với những chuỗi sự kiện thần bí, chiếc máy bay tiêm kích rơi xuống khe núi Dã Nhân, loài thực vật thượng cổ Udumbara mọc um tùm dưới đáy khe núi, gương mặt như thần phật của quốc vương Chăm Pa trong thành Nhện Vàng, sóng điện u linh trong mật thất “thi nhãn”, khối sắt thần nằm sừng sững dưới sa mạc Lâu Lan cổ đại, trạm thám trắc trung tâm trong kính viễn vọng Lopnor, chiếc hộp thời gian giữa biển cát dưới cực vực, long triện triều Hạ mà người Bái Xà để lại, thần thú “tải” của người Sở trong biển Âm Dụ ở Đại Thần Nông Giá, thủy thể vòng tròn ma quái quấn quanh vành đai 30° vĩ Bắc, tàu ngầm Z-615 của Liên Xô bị mất tích, ngọn núi từ dưới lòng đất có thể biến người sống thành cương thi, hóa thạch nhật quỹ có khả năng đo độ sâu lòng đất… Tất cả lời giải của những ẩn số này đều lần lượt được mở ra trước mắt anh.
Giờ đây, những hiện tượng bí ẩn với lời giải còn bỏ ngỏ đã bắt đầu xuất hiện khung hình rõ rệt. Có lẽ, bí mật ghi trên tấm bia Vũ Vương chính là chân tướng của cả chuỗi ẩn số, và vấn đề then chốt bây giờ là liệu mọi người có đủ can đảm chạm tay vào lời giải ấy không. Bất luận là Triệu Lão Biệt từng chết hai lần, sau khi trốn ra khỏi chiếc hộp thời gian, đã tiết lộ bí mật cho Nấm mồ xanh, hay tấm bia Vũ Vương chìm sâu dưới đáy vực, thậm chí cả Nấm mồ xanh không bao giờ để lộ khuôn mặt thật, hay tộc người Bái Xà bị nhốt dưới lòng đất và diệt vong từ hàng ngàn năm trước… ẩn số của cả mớ hỗn độn này, có lẽ đều liên quan mật thiết với nhau, mà đáp án lại được lớp bụi trần ai niêm phong ở một nơi gọi là “miếu thần” nằm im lìm dưới vực sâu thăm thẳm.
Cao Tư Dương không khuyên giải được hội Tư Mã Khôi, cô thở dài: “Cho dù tìm thấy tấm bia của Vũ Vương dưới vực sâu, tìm ra được mọi ẩn số liên quan đến Nấm mồ xanh, rồi đẩy hắn ta vào chỗ chết, thì chúng ta cũng không thể sống sót mà quay trở về, số phận của tất cả mọi người đều sẽ kết thúc tại đây thôi”.
Tư Mã Khôi đăm đăm nhìn cái bóng đen khổng lồ trong màn sương mù dày đặc, anh không quay đầu lại, chỉ nói nhẹ bẫng: “Tôi tin rằng, tìm thấy đáp án không có nghĩa là mọi chuyện sẽ kết thúc, thậm chí cũng không phải là điểm khởi đầu của sự kết thúc, mà cùng lắm cũng chỉ là… điểm kết thúc của một sự khởi đầu”.
<strong style="border: 0px; font-family: inherit; font-style: inherit; margin: 0px; outline: 0px; padding: 0px; vertical-align: baseline;">HẾT TẬP 3
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip