Chương 1: Phá sản

Tôi là Mingyu. Người vừa mới bước qua tuổi mười bảy không lâu, người ta nói với tôi như vậy. Nhưng tôi tự hỏi tuổi thực của mình là bao nhiêu vì tôi cảm thấy mình già dặn gấp hai lần như thế. Hồi mười lăm, tôi cảm thấy mình mười lăm tuổi. Tôi cư xử như một thằng nhóc mười lăm và chờ đợi mỗi ngày để bước sang tuổi mười sáu. Ấy thế mà, trong vòng một năm qua, tôi đã già đi cả mấy tuổi.

Tất cả chỉ vì ba tôi đã phá sản.

Phá sản, chỉ là một từ, nhưng nó bao hàm đủ thứ, từ việc nhà băng nắm quyền sở hữu ngôi nhà của chúng tôi và mọi tài sản khác của ông đến việc mẹ bán mọi thứ để trả nợ, thậm chí đến cái thảm chùi chân cũng chẳng còn là vật sở hữu dưới tên chúng tôi nữa.

Tôi không bực với ba về thành công của ông, tôi không phải loại người đó, vì thành công của ông đương nhiên cũng là thành công của chúng tôi - và thật mỉa mai, cả những thất bại của ông cũng trở thành của chúng tôi luôn.

Mọi chuyện thật khủng khiếp và nhục nhã y như một cơn ác mộng giành cho giới nhiều tiền.

Ba tôi không phải người dễ mến. Đương nhiên là tôi yêu ba, nhưng ba không phải người tốt. Chúng tôi hiếm khi nói chuyện với nhau, mỗi khi nói thì lại tranh cãi về một chuyện gì đó, hoặc không đơn giản hơn thì ba quăng tiền cho tôi để tôi đi khuất mắt. Ông ấy cáu kỉnh, càu nhàu và nóng như lửa. Sở thích của ba là áp đặt suy nghĩ của mình lên người khác và khá ngạo mạn. Ông khiến người ta thấy không thoải mái, thấp kém và ông thích như thế.

Tôi sẽ không trút hết mọi tức giận vào ba tôi. Tôi cũng là một con người xấu xa, một đứa con độc đinh tồi tệ nhất trên đời. Ba mẹ cho tôi tất cả, nhưng tôi hiếm khi nào thèm nói cảm ơn. Nếu có nói thì tôi cũng không thực sự nghĩ như vậy.

Chúng tôi (từng) sống trong một dinh thự hiện đại bảy phòng ngủ rộng hơn 1.200 mét vuông ở bán đảo Sandbanks, tầm nhìn tuyệt đẹp ra vịnh Poole. Chẳng có gì là gia đình chúng tôi không có: hồ bơi, rạp chiếu phim tư nhân, hệ thống dự báo thời tiết ở trên mái, 7 điểm phát wifi trong nhà, hầm rượu hay một bãi biển riêng.

Bao quanh gia đình chúng tôi là những người "hàng xóm", tôi thường mỉa mai như vậy bởi tôi chẳng thể nhớ nổi tên họ, dù thỉnh thoảng vẫn thấy họ cười toe toét khi chiễm chệ trên bìa báo Kinh tế hoặc Phong cách sống. Điểm chung duy nhất mà gia đình tôi và họ có là tiền, rất nhiều tiền. Nếu không, sao có thể ung dung an nhàn sống ở nơi được mệnh danh là đoạn bờ biển có giá bất động sản đắt nhất thế giới cơ chứ.

Phòng tôi nằm ở phía bên kia ngôi nhà, đối diện với phòng ba mẹ, và có ban công nhìn ra bãi biển nhưng tôi nghĩ mình chưa bao giờ thèm ghé mắt đến. Phòng tắm cá nhân có vòi sen, bồn tắm mát xa và một chiếc tivi plasma treo phía trên tường. Tôi có một căn phòng riêng chỉ để chứa bộ sưu tập giày từ những thương hiệu nổi tiếng trên thế giới, một cỗ máy tính hàng khủng và vô số mô hình đắt đỏ mà nhiều đứa con trai cùng tuổi mơ ước.

Tôi không phải một đứa con ngoan. Tôi luôn tìm cách trốn khỏi phòng ngủ ban đêm để lẻn đi gặp bạn bè. Có một khu bãi biển riêng của chúng tôi nơi tôi và bạn bè hẹn nhau nhậu nhẹt mỗi cuối tuần, thỉnh thoảng là giữa tuần. Đám con gái lấy trộm một ít rượu từ tủ rượu của ba mẹ chúng nó, trộn tất cả lại với nhau rồi nâng ly như những người trưởng thành. Bọn con trai chúng tôi thì uống bất cứ loại rượu táo nào mà mình tìm được. Cuối buổi, đám trai đang ở độ tuổi hừng hực bắt đầu buông lời mời gọi đến lũ con gái. Tôi tự hào đã từng cướp tay trên một đứa con gái tên Dolly từ tay thằng bạn thân nhất của tôi, Zach. Mẹ Dolly là một minh tinh điện ảnh, nên nhỏ may mắn thừa hưởng toàn bộ nét đẹp của bà ấy, thiếu một chút, nhưng vẫn đủ để cho tôi có cảm giác chiến thắng trước Zach.

Gia đình chúng tôi nghỉ hè ở biệt thự ở Hy Lạp, tận hưởng ánh nắng Địa Trung Hải, tổ chức lễ Tạ ơn ở khách sạn Ritz hay thỉnh thoáng ghé xem các giải đua xe ở Monaco. Tôi đã sẵn sàng để nhận chiếc Maybach khắc tên mình trong ngày sinh nhật thứ 16 của tôi. Mọi thứ đều diễn ra theo đúng kế hoạch.

... cho đến khi ba tôi ngồi xuống chiếc bàn ăn dài đằng đẵng, khuôn mặt tái nhợt và thông báo tin động trời kia.

Chỉ trong chưa đầy một tháng, chúng tôi buộc phải rời khỏi thế giới mình từng sống. Ba cố gắng thương lượng với nhà băng để gỡ gạc lại thứ gì đó khá vô hình, mặc dù tôi biết điều đó là bất khả thi.

Mẹ tôi bán nữ trang, tủ váy áo và túi hàng hiệu. Nhưng vẫn chưa đủ. Nhà, xe và những bất động sản gia đình chúng tôi sở hữu cũng nhanh chóng biến mất để thế chấp vào số nợ khổng lồ.

Lòng tự trọng của ba tôi không cho phép bản thân nhận thất bại. Vậy là chúng tôi chuyển đến London, liều lĩnh đánh cược may rủi một lần nữa. Những người quen, đối tác làm ăn, người từng được bố tôi nâng đỡ khi nghe tin đều đồng loạt quay lưng, không tiếp.

Ba người chúng tôi chật vật ở một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới. Tôi xin được việc làm nhân viên trong một quán cà phê nhỏ, bố tôi dành cả ngày trong khói thuốc lá để nghiên cứu biến động của cổ phiếu, còn mẹ tôi... Bà từ bỏ. Bà không thể chịu khổ nên chỉ sau một tháng chuyển đến London, bà đã bỏ bố con tôi để đi theo người tình cũ, người mà bà giải thích cho tôi đó là tiếng gọi của con tim.

Tùy thôi, tôi cũng không thân thiết lắm với bà ngoài cái danh mẹ-con. Tôi hoàn toàn hiểu quyết định của mẹ, bà ấy vốn sinh ra trong gấm lụa, luôn mặc những chiếc váy ngủ phồng phấp phới như người đẹp miền Nam trong bộ phim Cuốn theo chiều gió. Mẹ tiêu nhiều tiền cho váy áo hơn cả thức ăn và hai lần một năm, mẹ phải lục lọi vứt hết những thứ mua về mà bà ghét và không thèm mặc, gửi chúng cho người em dâu Roxana sống ở vùng quê, trong trường hợp cô ấy muốn mặc một chiếc áo đầm Prada để vắt sữa bò.

- Bỏ điếu thuốc xuống, hút hít chẳng chứng tỏ mày là người lớn đâu.

Ba tôi cằn nhằn với cái giọng rề rà của tuổi trung niên. Trong lòng ban đầu có ý muốn đôi co nhưng cuối cùng tôi vẫn miễn cưỡng thỏa hiệp, rít hơi cuối rồi ấn điếu thuốc vào gạt tàn, nơi đã gập những đầu lọc từ ba, bốn nhãn hiệu khác nhau.

Nghe có vẻ khá nực cười, ba tôi bắt đầu hút thuốc nhiều hơn khi mẹ tôi bỏ đi, nhưng ông vẫn kiên quyết giữ chiếc gạt tàn mà bà ấy tặng trong buổi lể kỷ niệm mười năm ngày cưới. Tôi chẳng hỏi, bởi có lên tiếng cũng không khác gì đổ thêm dầu vào lửa. Lương tâm của một đứa con, bản thân có hỗn hào thế nào, thì ít nhất tôi vẫn chọn ở cạnh ba lúc này.

Hồi năm mười ba tuổi, tôi ngưỡng mộ ba nhất trên đời, với tâm lý trẻ con, tôi cố gắng bắt chước tất cả hành động của ba, từ cách đi đứng cho đến việc rít thuốc sao cho thật "nghề". Tôi nhớ có vài lần tôi lén mẹ để thử hút một điếu xì gà, vị khá kinh, nhưng mặc kệ, bởi tôi thấy so với đám bạn, tôi có can đảm làm việc này thì đã oách lắm rồi.

Sau biến cố gia đình, tôi hút nhiều hơn, ba tôi chẳng cấm nhưng lúc nào cũng phàn nàn. Tôi để ngoài tai.

Chiếc xe cũ lại xóc lên lần nữa sau mười phút chạy êm ả. Tôi ghét mùi cũ kỹ và nếu không cẩn thận, dầu nhớt của bộ phận nào đó trên chiếc xe cà tàng này sẽ chính vào chiếc áo Topman duy nhất của tôi.

Có lẽ chiếc xe bán tải này là tài sản lớn nhất mà ba con tôi có hiện giờ. Tôi biết ba cũng ghét cay ghét đắng nó, bởi nó là cách thức gián tiếp xúc phạm đến lòng tự trọng của ba. Chúng tôi đã từng du ngoại trên một chiếc Audi, lấy le với hàng xóm bằng con Roll Royce mới cóng và dự những buổi tiệc hạng sang với chiếc Lamborghini sản xuất giới hạn. Khi ấy, mỗi lần đi trên cao tốc, ngang qua các khu bán xe cũ, ba sẽ lầm bầm với kiểu khinh khỉnh nhà giàu, kêu ca dăm bảy loại dân thường tích tích cóp cóp mấy năm mới mua được một chiếc xe rẻ rách mà chắc chắn chả dùng được bao lâu thì hỏng.

Giờ thì chúng tôi đang ngồi sau tay lái thứ "rẻ rách" mà ba thường phỉ nhổ. Nhiễu nại ghê gớm.

À, tôi chưa kể cho bạn nghe tôi đang đi đâu phải không? Tôi có nhắc tới em dâu của mẹ tôi rồi. Cô ta là người chuyên được mẹ tôi tống khứ cho đống đồ mua trong cơn bốc đồng mà chưa bao giờ mặc tới. Đống đồ đó được dồn vào bao đen, còn nguyên nhãn giá. Tên cô là Roxana, cô ta lấy chú Charles, em trai ba tôi và chăm sóc bà nội tôi. Họ sống ở nông thôn, vùng đó có tên gọi là Dorelle, bao quanh bởi núi và những thung lũng.

Cả đời tôi, chúng tôi chỉ đến thăm họ vài ba lần và lần nào tôi cũng chán muốn chết. Phải lái xe hơn bốn tiếng ba mươi phút mới tới nơi, và đích đến chỉ mang tên thất vọng. Ở một nơi heo hút và vắng vẻ hết chỗ nói, tôi nghĩ bọn họ đúng là dân quê kệch chính hiệu. Tôi từng gọi bọn họ là "cặp người ngoài hành tinh". Đó là lần đầu tiên ba tôi cười trước lời nói đùa của tôi mà tôi còn nhớ được.

Mẹ không bao giờ đi cùng chúng tôi đến thăm bà nội cũng như gia đình của Roxana. Bố tôi dù có đi, thì cũng luôn bày ra vẻ mặt miễn cưỡng, cứ như là "Đây là lần cuối cùng tôi về lại Dorelle". Đối với tôi, mối quan hệ giữa ba tôi và chú Charles giống như chim cánh cụt và gấu Bắc Cực, họ sống quá xa nhau để có thể dành thời gian ở gần nhau. Sao cũng được. Đó là nơi chúng tôi sống hiện giờ. Trong căn nhà nằm giữa làng với "cặp người ngoài hành tinh".

Đó là một căn nhà xinh xắn, nhỏ bằng một phần tư căn nhà cũ của tôi, điều này cũng không có gì phiền muộn lắm. Nó khiến tôi nhớ đến căn nhà trong truyện Hansel và Gretel. Nhà được xây bằng đá sa thạch, cửa sổ viền gỗ cùng với mái ngói nâu đỏ, bao quanh cơ man là những bụi hồng. Có ba phòng ngủ trên lầu cùng một phòng bếp và một phòng khách dưới lầu. Vì phải chăm sóc bà nội nên Roxana và bà sẽ dùng chung phòng tắm trên tầng hai, còn tôi, ba và Charles buộc phải tắm ở một toilet nhỏ bên ngoài nhà chính. Từng sở hữu căn phòng tắm có bồn mát xa cùng ti vi plasma, tôi nghĩ dùng chung phòng tắm kiểu này thật là kinh tởm.

Trong căn nhà này, Roxana là một người sạch sẽ đến dị hợm, cô ấy mắc bệnh nghiền dọn dẹp, chẳng chịu bao giờ ngồi yên, lúc thì dời cái này, lúc thì thay đổi chỗ cái kia, khi lại xịt thuốc khử mùi và lảm nhảm về những chuyện xảy ra sáng nay ở chợ. Charles, chồng Roxana, cũng là chú tôi, là một người nông dân chính hiệu, cơ thể vạm vỡ do đã quen phải mang vác đủ thứ, tính cách thô kệch, cũng có chút cục cằn, thô lỗ giống bố tôi, nhưng theo kiểu "quê" hơn. Người bình thường duy nhất ở Dorelle, chắc hẳn là bà nội tôi, bà yêu tôi giống như nhiều người bà khác yêu quý cháu trai mình. Ngoại trừ người bà luôn bốc ra cái mùi bắp cải ngai ngái khó tả, nhưng tôi thích cái cách bà luôn lén lén dúi vào tay tôi ba đồng mỗi khi tôi về thăm nhà. Không phải tôi thích tiền, mà là tôi thích nhìn cái cách ba tôi và Charles hỉ mũi khó chịu vì chứng kiến tôi được bà chiều chuộng. Lần này cũng không phải ngoại lệ, bà dúi vào tay tôi năm đồng, nhiều hơn hai đồng so với những lần trước, có lẽ bà hiểu tôi và ba đang ở trong tình trạng tài chính khó khăn chăng.

- Cô Eugene vừa xin nghỉ đẻ nên cháu có thể thay cô ấy làm thủ thư trong thư viện của làng, công việc không có gì nhiều. Năm đồng một ngày và thưởng thêm cuối tháng nếu chăm chỉ là mười đồng. Ngày mai bà sẽ dẫn cháu đi.

Tôi ngoan ngoãn gật đầu trong khi cố gắng nuốt xuống thứ trà mà Roxana pha, mùi vị đúng là thách thức vị giác người khác. Tôi có ước mơ trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp, nếu như chuyện phá sản không xảy ra, có lẽ bây giờ tôi đã cầm chắc chiếc học bổng vào thẳng đại học nhờ khả năng bóng bánh của mình. Mà nếu tôi không may mắn, ba tôi vẫn sẽ "lót đường" cho tôi một công việc trong tập đoàn về thương mại hàng hải của mình.

Tình huống bây giờ không quá khác biệt, thay vì ba, bà tôi đi xin việc giúp tôi. Một công việc của thủ thư. Tôi đoán chừng nó khá tẻ nhạt và lỗi thời. Nhưng ít nhất thì tôi không phải ra đồng làm việc nặng nhọc như ba và Charles. Ồ, mà biết đâu đấy, ở thư viện có máy tính hay wifi thì sao, tuyệt hảo.

- Làm thủ thư cũng tốt, nó sẽ có thêm thời gian để tìm hiểu về Thor Bjorgolfsson, Hirotake Yano hay Richard Liu.

Ba luôn cố gắng nhồi nhét vào đầu tôi hàng tá những hành trình vực dậy sau khi phá sản của loạt tỷ phú nổi tiếng, với hy vọng tôi sẽ giúp ông gây dựng lại danh tiếng cũng như tài chính của mình. Cứ nói tôi nông cạn đi, nhưng cái tên duy nhất tôi nhớ được với cái danh "phượng hoàng hồi sinh từ tro tàn" là Iron Man - Robert Downy Jr và Walt Disney.

- Mọi người trong làng đang chuẩn bị cho hội chợ nông sản mùa thu, nếu rảnh, cháu có thể đến giúp. Mấy đứa trẻ khác cũng đến, rồi cháu sẽ sớm kết bạn được thôi.

Charles vừa nói xong, ngay lập tức nhận được cái hắng giọng của bà nội, như thể việc đồng áng sẽ làm đứa cháu trai duy nhất của bà bị thương chẳng bằng.

Nói mới nhớ, tôi là cháu trai duy nhất trong nhà. Charles và Roxana đều đã quá tuổi ngũ tuần nhưng vẫn chưa có một mụn con, đó là nỗi đau của chú tôi nên cả nhà không ai dám đả động gì đến.

- Có một sân bóng cuối làng, chiều cuối tuần bọn trẻ hay tụ tập ở đấy.

Cô Roxana hóa ra cũng không nông cạn như tôi nghĩ, có thể vừa nãy cô ta nhìn thấy quả bóng da trong túi đồ hành lý của tôi mà tế nhị gợi ý.

Tôi ráng dùng xong bữa trưa cùng với bốn người trong nhà rồi nhanh chóng tót lên cầu thang.

Căn phòng trú ngụ của tôi nằm dưới mái chìa, trần nhà nghiêng về phía cửa sổ, rộng chừng bằng cái nhà tắm có TV plasma khi trước. Một chiếc ghế gỗ sơn trắng loang lổ kê cạnh bậu cửa, bên trên là chiếc gối cũ được bọc lớp áo cắt ghép từ chiếc khăn choàng hiệu Burberry mẹ tôi "thảy" lại cho Roxana. Cửa sổ nhỏ với lớp rèm caro xanh-trắng mỏng đến mức chẳng cản được nắng. Tường sơn màu vàng nhạt, có lẽ để không gây cảm giác lạnh lẽo. Một tủ áo bằng gỗ đứng im lìm ở góc phòng. Khung giường làm bằng sắt, khăn trải giường vải lanh trắng, chăn lông vịt hoa xanh cùng một tấm chăn len màu xanh trứng đặt ở cuối giường. Bên trên cửa phòng có treo một chiếc thánh giá Thánh Bridget đơn giản.

Tóm lại, phòng tôi không có gì đặc biệt, nhạt nhẽo và lập dị như chủ nhân căn nhà, Charles và Roxana. Nhờ nó mà điều đầu tiên tôi ghi trong bucket-list của mình đã bị thay thế: từ "Rời khỏi Dorelle" sang "Dùng tháng lương đầu tiên để sửa lại căn phòng".

Tôi treo những chiếc poster về Messi và xe đua để choáng hết nhưng vết ố lỗ chỗ trên tường, ném đống quần áo vào tủ và đi tìm miếng gỗ mỏng nào đó để chiếc giường sắt khỏi kêu ken két vì bốn chân không đều. Hết rồi, không có nhiều việc để làm cho một chỗ "ngủ tạm".

Cuối buổi chiều, tôi dự định sẽ đi loanh quanh làng trước khi trở về để dùng bữa tối. Nghe có vẻ thanh cảnh nhưng thực chất là tôi muốn trốn công việc phụ bếp cho cô Roxana, tôi sợ nhìn thấy những công thức bí mật mà cô ta cho vào món bánh chanh hay súp cà rốt. Nếu biết, tôi sẽ ám ảnh cả tuần mất. Suy cho cùng, mắt không thấy, dạ dày sẽ ổn.

Làng Dorelle mang một vẻ trầm mặc nhưng quyến rũ. Những dãy nhà lát đá phủ một màu nâu đen trầm tư, dung dị. Con kênh Luve thơ mộng êm đềm chảy qua dọc con đường trong làng, phản chiếu sắc đỏ của hàng cây khi vào độ thu. Dorelle như một phiên bản chân thật nhất cho những ngôi làng người ta thường viết trong văn học Anh nổi tiếng. Cân bằng với nét bình dị, trầm buồn bao trùm mọi nơi, người dân trong làng đã tự tô điểm thêm những màu sắc tươi vui bằng hàng trăm loại hoa lẫn dây leo. Ngoại trừ mùa đông được phủ bởi tuyết và sự lạnh lẽo thì ba mùa còn lại, Dorelle luôn được đắm chìm trong sắc hoa nở rộ. Nhà thờ St.Mary cổ kính nằm ở trung tâm ngôi làng, vừa nổi bật với những ô cửa màu sắc cũng vừa ẩn mình sau lớp rêu xanh ẩm ướt bởi không quá nhiều người ghé thăm nơi đây trừ buổi đọc kinh cuối tuần.

Nằm giữa những ngọn núi và thung lũng đan xen cùng con đường duy nhất dẫn vào vô cùng gập ghềnh, ngôi làng này dường như chẳng có mối liên kết với thế giới bên ngoài. Tôi là người của thế kỷ 21, còn ngôi làng này, có lẽ vẫn đang đứng lại ở thế kỷ 18 hay 19. Đàn ông mặc những chiếc áo vải màu xanh hay nâu, quần bạc màu, vá hai ba chỗ rách như một kiểu phong cách thời trang vùng nông thôn, và bên dưới là đôi ủng luôn bám đầy bùn đất. Phụ nữ mười người thì mười một người mặc váy dài chấm gót, khi ra đường vẫn không quên đeo một chiếc tạp dề như thể nó là một phụ kiện không thể thiếu, trên đầu chùm những chiếc khăn giống như các bà lão sợ gió lớn thổi qua.

Tôi không giống họ, càng không muốn trở thành họ. Tôi là một cá thể riêng biệt và nổi bật. Thử nghĩ xem, thả một thằng nhóc thiếu niên trông như Zach Efron bước ra từ series nổi tiếng High School Musical, bị số phận ném vào trong bối cảnh bộ phim "Kiêu hãnh và định kiến" xem, có tức cười không cơ chứ.

Có vài người đi ngang qua hành trình của tôi, tất cả đều xì xào về tôi. Tóc tôi xòa xuống che kín mặt và tôi chỉ biết hy vọng không ai nhìn thấy đôi mắt đỏ của mình. Tôi cố gắng giữ bình tĩnh trước chuyện gia đình phá sản, nhưng giờ thì những chuyện buồn kia khiến tôi không khỏi đau nhói. Tôi có tất cả và mất tất cả. Tôi sống ở một nơi khỉ ho cò gáy, trong một căn nhà ở rìa cổng với một ông bố thất nghiệp, một bà nội luôn bốc mùi bắp cải và một cặp đôi "người ngoài hành tinh". Tôi hoàn toàn chẳng có gì để làm với cuộc đời mình. Tôi là người không có tương lai.

Bản hit Old Town Road của Lil Nas X dừng lại cũng vừa vặn lúc tôi đến được sân bóng cuối làng. Có vài đứa nhỏ tầm chín, mười tuổi đang chơi bóng ở đó, chúng nhếch nhách, bùn khô kết ở gấu quần và chiếc áo ba lỗ rách được vá bằng các loại vải khác nhau đến mức lố bịch.

Sự xuất hiện của người lạ khiến chúng dừng trò chơi của mình lại, tôi ghét cái ánh mắt tò mò chòng chọc chĩa vào mình, tôi không thể nhảy vào đầu chúng, xé nó ra và xem xem chúng đang nghĩ gì. Ngôi làng nhỏ này, một con gà xổng chuồng cũng đủ thành đề tài bàn tán, nữa gì là hoàn cảnh thất thế của gia đình tôi. Hẳn từ người lớn đến bé bú bình cũng đều nghe qua.

Tôi định quay đi thì một đứa đầu cua chạy lại, mặt hí hửng.

- Anh đá không?

Tôi không đọc được ý đồ của chúng, nhưng dựa vào ánh nhìn thèm khát quả bóng da trên tay tôi, tôi lờ mờ đoán được lý do mình được mời nhập hội.

Có bóng xịn, chúng liền đá văng quả bóng nhựa cũ ra khỏi đường biên "tưởng tượng". Tôi đá ở vị trí tiền đạo, với vài pha kỹ thuật đơn giản, chiếc lưới rách đã rung lên mấy hồi. Sự ngưỡng mộ của bọn nhỏ dành cho tôi cũng vì thế mà tăng cao. Chỉ trong vài giây, tôi được kéo tuột trở lại khoảng thời gian trước. Khi tôi lập cú đúp trong trận giao lưu giữa các trường trung học. Tiếng hò reo vang lên khắp khán đài, cô bạn gái trong đội cổ vũ nhảy cẫng lên ôm lấy cổ tôi, nhanh chóng selfie một cái để khoe với bạn bè. Hoạt cảnh không khác mấy bộ phim lãng mạn tuổi teen nào đó. Nhưng rồi thực tại đánh thức tôi, không có tiếng cổ vũ nào cả, cũng chẳng có cô nàng nóng bỏng thưởng tôi nụ hôn sau khi vô địch, chỉ có khuôn mặt lấm lem và cơ thể bốc mùi chua của đám nít ranh.

- Chúng mày định làm loạn ở đây hả?

Tôi giật mình bởi tiếng quát nạt phát ra từ sau lưng. Nó đến từ một gã to gấp rưỡi tôi, ăn mặc kiểu cao bồi Mỹ, không hề ăn nhập gì tới phong cảnh làng quê Anh Quốc. Điểm nhấn duy nhất trên người gã là chiếc còng tay móc lủng lẳng ở dây lưng quần. Khuôn mặt bặm trợn với cái sẹo dài ở đuôi mắt, người nồng mùi rượu, dáng đứng lảo đảo nên nếu thuyết phục tôi là gã thuộc nhóm tự trị trong làng, tôi phỉ nhổ vào. Chẳng lẽ tiêu chuẩn của Dorelle lại thấp kém đến mức cho một tên người không ra người, ngợm không ra ngợm này đi quanh quanh, quát tháo ầm ĩ và chỉ trỏ ra lệnh cho người khác.

Bọn trẻ con co rúm người lại khi bị gã quát, chúng chạy tán loạn như một đàn kiến mất phương hướng, chẳng mấy chốc đã biến mất khỏi sân. Đối với chúng, gã giống như ông Ba Bị vậy, chẳng có từ nào chính xác hơn từ "sợ hãi" khi vô tình chạm mặt.

- Còn đứng đây làm gì, mày điếc hả?

Gã đi ngang qua tôi, lúc đi còn cố tình hích cái còng tay sáng loáng như thể ra oai. Tôi khinh ra mặt, chúa ghét cái bọn cậy quyền, cậy thế mà ngông cuồng. Nếu so với khu tôi sống, gã chẳng khác gì đám du thủ du thực luôn gây rối với cảnh sát địa phương. Còn nếu so trong trường học, gã sẽ là kẻ cầm đầu nhóm cá biệt, bắt nạt mấy đứa mọt sách yếu đuối hay không vừa mắt để che đi sự thảm hại của mình. Cả hai loại đó, tôi đều chẳng muốn dây vào.

Tôi định đi thu lại quả bóng rồi về nhà, hoàng hôn bắt đầu xuống và có lẽ mọi người cũng đang chuẩn bị dùng bữa tối. Nhưng trước khi tôi tiến tới nhặt quả bóng da của mình, gã đã đá phăng nó, bay vút lên rồi bổ nhào xuống phía rừng cây.

- Mày?

Tôi quay phắt lại, gằn giọng phẫn nộ nhưng gã vẫn chỉ trưng ra bộ mặt hống hách, như kiểu chọc tức người xung quanh là trò tiêu khiển của gã. Nếu không vì gã cao hơn tôi cả cái đầu và cái thây to gấp rưỡi thì đảm bảo tôi sẽ giã hắn một trận không nhìn thấy mặt trời ngày mai. Bề ngoài tôi có vẻ bốc đồng và láo lếu nhưng tôi không ngu khi thử sức mình với một tay (có lẽ là) chăn bò chuyên nghiệp.

Vứt cho gã một cái nhìn cảnh cáo, tôi chạy về phía bức tường ngăn cách giữa làng Dorelle và khu rừng. Trước đây tôi đã từng thắc mắc với chú Charles sao dân làng lại dựng một bức tường cao chỉ để phân chia địa phận, thật quá sức phung phí. Chú Charles nghĩ ngợi vài giây không cần thiết, như đang cố gắng tìm lý do thuyết phục để nói với tôi, "Để bảo vệ mọi người khỏi thú dữ". Một cái cớ khá hợp lý cho thằng nhóc bảy tuổi khi đó.

Bức tường kiên cố cao khoảng hai mét, ngăn chặn mọi ý định của đứa nhóc nào đó tò mò muốn trèo qua. Nhưng với chiều cao hơn mét tám, gần mét chín của tôi, thứ này không phải thách thức gì lớn. Tôi nương vào vài hốc gạch vỡ, lấy đà, nhảy phốc qua "hàng rào" bảo vệ dân làng.

Tôi không biết mặt trời xuống nhanh như thế nào và mình đã mò mẫm tìm quả bóng ở trong khu rừng được bao lâu. Mọi dấu hiệu của ánh sáng đã khuất sau rặng cây, tất cả chỉ còn lại âm thanh của tán cây xào xạc. Tôi dõi mắt nhìn hồi lâu, tới khi tôi để ý thấy xung quanh đã chìm vào bóng tối nhá nhem.

Tôi không phải fan của những chương trình thực tế liên quan đến thử thách sinh tồn hay Tiếng gọi nơi hoang dã. Lúc nãy tung sức đá bóng, cộng thêm mất thời gian loanh quanh không phương hướng trong bóng tối, chân tôi cuối cùng cũng sưng lên vì mỏi lẫn tê nhức. Qua khóe mắt, tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một cái gì đó đang di chuyển. Một bóng đen. Một bóng người. Không phải một con vật, nhưng nó nhảy vọt qua. Tôi không chắc lắm. Không muốn bất cứ thứ gì hoặc bất cứ ai lẻn đến từ phía sau, tôi quay lưng ra lối vào rồi nhanh chóng lùi lại. Tôi nghe thấy một tiếng động khác, một con cú, một con chim hay một con gì đó kêu quác một tiếng, tôi nhảy dựng sợ hãi và chuẩn bị bỏ chạy. Không thể nhìn thấy mặt đất dưới lớp cỏ dại um tùm, tôi vấp phải một tảng đá và ngã bật ngửa ra sau. Đầu va phải thứ gì đó, tôi rên rỉ, và tôi có thể nghe thấy nỗi sợ hãi trong giọng nói của mình, tôi lại ngã vào một đám cỏ dại um tùm kinh tởm, có trời mới biết có thứ gì đang sống trong đó. Mắt tôi hoa lên, những đốm đen cũng từ từ mà xuất hiện.

Tôi nằm đó, như thể đó là nấm mồ của mình. Xui xẻo là tôi sẽ ra đi một mình, nhưng mặt lạc quan thì nơi này khá là mát mẻ, trước khi tôi mất nhận thức thì tôi vẫn biết cơ thể mình còn nguyên vẹn, chưa bị con thú nào nhòm ngó.

Một lúc sau, tiếng bước chân đạp lá cây dần dần tiếp cận tôi. Tôi chẳng nhúc nhích được nữa, trong lòng cầu nguyện với Chúa rằng người kia là dân làng được cử đi tìm mình. Âm thanh ngày càng gần, đột nhiên tôi lưỡng lự có nên kêu cứu hay không, hai mắt vô thức nhắm chặt, đến thở cũng không nổi.

Bóng đen lừ đừ tiến lại trong cái mù mờ của ban đêm, không vội vã đến gần tôi, thái độ vô cùng cảnh giác trước người lạ, tên đó đứng bên ngoài tầm độ bốn, năm phút, chờ xem phản ứng của tôi. Tôi không nói gì, cũng không động đậy, giống như con cá ngoắc ngoải trên thớt, chỉ thở và thở.

Sau một hồi xem xét tôi như một kẻ vô hại, người kia mới đánh bạo tiến tới, xốc nách tôi lên. Khi dựa vào anh ta, tôi biết đó là một người nam, dáng người nhỏ nhắn, có thể nói là gầy gò, mùi cơ thể được tạo nên hương đất và cỏ khô quyện lại, xộc thẳng vào mũi tôi

Anh ta biết rõ được mình nên bước chỗ nào, biên độ bước ra sao trong khu rừng thiếu ánh sáng này, khéo léo đưa tôi qua vài hố sụt hay bẫy bắt thú. Con đường tôi mất cả giờ đồng hồ loay hoay thì đối phương chỉ cần vài phút để hóa giải.

Chúng tôi dừng lại ở một căn nhà gỗ lụp xụp, chỉ bé bằng cái toilet bên ngoài nhà bà nội. Có lẽ đây là nơi nghỉ chân của những thợ đốn củi trong làng. Người lạ dìu tôi vào trong, để tôi nằm lên lớp cỏ khô ở góc nhà rồi lại thoăn thoắt nhóm lửa. Sương đêm xuống rất nhanh, nếu không sưởi ấm người, e rằng không tránh khỏi việc bị nhiễm lạnh.

- Tôi bị lạc, điện thoại không có sóng, anh có cách nào liên lạc với dân làng không. Hay có thể chỉ đường cho tôi về.

Người đó không nói năng gì, trọng tâm chú ý vẫn để ở những cục than hồng. Tôi nói lại một lần nữa, to hơn, rõ hơn nhưng đối phương không hề có ý định trả lời. Tuyệt, ngày hôm nay tôi vừa gặp một gã du côn vừa gặp một kẻ câm điếc. Quá sức ấn tượng cho ngày đầu tiên ở Dorelle.

Khuya hôm đó, khi bên trong và bên ngoài căn nhà im phăng phắc và tối om om, không thể nhìn thấy rõ bất cứ thứ gì, tôi mặc nhiên chấp nhận số phận của mình. Đánh thượt một cái thở dài, tôi cựa mình nhắm mắt ngủ, dự định ngày mai chân cẳng ổn sẽ tự tìm đường về.

Buổi sáng thức dậy trong rừng là trải nghiệm gì? Cả đời tôi cũng không có ham muốn được biết. Tôi bị đánh thức một cách tàn nhẫn bởi tiếng véo von của đám chim chóc gọi bầy. Tiếng hót líu lo và tiếng chuyện trò lách chách của chúng khiến tôi cảm thấy như căn nhà đã được nhấc bổng lên trong đêm và bay thẳng đến thế giới của các loài chim. Chiếc đồng hồ được thiên nhiên tạo ra, phiền nhiễu y hệt tiếng cằn nhằn của mẹ tôi mỗi sáng đi học.

Thứ đầu tiên xuất hiện dưới mi mắt nặng trĩu của tôi là một đôi môi hồng hơi hé mở, một hàng răng trắng lấp ló phía dưới. Tầm nhìn của tôi dời lên chiếc mũi, sống mũi thẳng tắp nhưng lại hơi xéo ở giữa chứng tỏ chỗ đó trước đó đã từng bị đánh gãy ít nhất một lần. Chiếc mũi nằm giữa hai gò má mượt mà hắt ánh tối lên xương gò má từ nguồn sáng ấm áp của ngày cuối tuần, người này phát ra âm thanh khò khè say ngủ.

Dù chỉ là cái nhìn mờ mờ của người mới tỉnh dậy, nhưng tôi đảm bảo nét mặt này không thuộc về Dolly, cũng không Sabrina, hay bất kỳ cô bạn gái nào của tôi. Cơ thể tôi cứng đờ như đá vì dường như cả đêm không xoay người bên nọ, bên kia. Tôi nhận ra tôi không nằm trên chiếc giường êm ái bồng bềnh của mình ở Sandbanks nữa, tôi đang nằm lên lớp đệm bằng lá khô, mùi thảo mộc đâu đó điếc mũi, đầu gối lên một khúc gỗ được vát phẳng.

Nhưng ít ra tôi vẫn có chỗ nằm, người còn lại yên vị phía bên kia căn chòi, đầu tựa lên chiếc bàn gỗ, cả người vặn vẹo trong tư thế nửa nằm, nửa ngồi. Ở giữa là lò than đã nguội lạnh từ lâu.

Tôi mơ hồ nhớ lại chuyện xảy ra đêm qua. Chân tôi sưng, không thể đi đứng được một mình nên người lạ kia mới đem tôi về căn chòi này. Tôi ngoắc ngoắc cổ chân, đỡ hơn một chút, nếu không yêu cầu đi lại nhiều thì vẫn miễn cưỡng di chuyển được. Vặn vặn người vài cái trước khi đứng lên, tôi hoảng hồn khi đồng hồ trên điện thoại đã chỉ sáu giờ hai mươi lăm. Chắc hẳn mọi người ở nhà đã lo phát dồ khi tôi biến mất suốt cả đêm.

Ra khỏi căn nhà gỗ, tôi cố gắng nghĩ cách làm sao để về nhà. Trời quang, số lượng cây trong rừng rất dày, nhưng vẫn đủ để những tia nắng kiên cường xuyên qua tán lá, soi rọi con đường cho tôi. Có điều, nhìn bốn phương tám hướng, tôi không biết làng Dorelle ở phía nào.

Tôi giật mình, nhảy lên vài bước khi người câm điếc kia vỗ lấy vai tôi từ phía sau. Khi này có ánh sáng, tôi mới nhìn kỹ anh ta được một lượt, anh ta mặc chiếc hoodie nâu đã sờn chỉ, quần rách mảng lớn ở đầu gối, không phải kiểu thời trang mà giống như vô ý quàng vào bụi cây gai mà toác ra, bàn tay thô ráp chai sần, bên dưới là đôi chân trần sứt sẹo. Ngũ quan vô cùng thu hút, nếu là trai thành phố, dám cá số lượng người theo đuổi anh ta không thể dưới ba con số.

Anh ta không nói, không rằng, đưa cho tôi một tấm giấy, trong đó đánh dấu hai điểm, và một đường vẽ ngoằn ngoèo. Tôi hiểu ngay đây là bản đồ tìm đường ra khỏi khu rừng. Đã giúp tôi không phải ngủ ngoài rừng lạnh nên dù anh ta không trực tiếp đưa tôi đi mà chỉ gián tiếp giúp bằng cách này thì tôi cũng không thể đòi hỏi gì hơn.

- Cảm ơn.

Đây là sự biết ơn hiếm hoi mà tôi dành cho ai đó. Thật lòng hơn cả những câu nói "cảm ơn" mà tôi từng nói với ba trước đây. Khi tôi toan bước đi theo hướng dẫn của bản đồ thì đột nhiên anh ta giữ lấy vai tôi lại, chần chừ một hồi mới lên tiếng.

- Đừng nói với ai là đã gặp tôi.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip