3. Sắp xếp phân chia thánh nữ với gái điếm.

          Ở chương trước tôi đã nói, đàn ông để trở thành chủ thể tình dục mà trồng sâu hạt nhân sự coi rẻ việc tự nhận dạng đối với phụ nữ, đây chính là chứng chán ghét phụ nữ. Mà căm ghét đồng tính luyến ái, thì có thể hiểu được rằng là sợ hãi của có bất an đối với sự mập mờ mờ nhạt của ranh giới nam nữ mang tới cho đàn ông. Những người đàn ông phải tiếp tục chứng minh không ngừng, rằng bản thân không phải "đàn ông giống như phụ nữ".

          Nhưng mà, chứng kiểu chán ghét phụ nữ này có một nhược điểm chí mạng, chính là mẹ. Ngang nhiên làm nhục người phụ nữ sinh ra bản thân, sẽ dẫn đến khủng hoảng tinh thần đối với nguồn gốc địa vị xã hội xuất thân của bản thân. Vì vậy trên thực tế, chứng chán ghét phụ nữ không chỉ là khinh miệt phụ nữ, còn có một khía cạnh khác ngưỡng mộ phụ nữ. Đây là sự tự mâu thuẫn chăng?

          Tiêu chuẩn kép về tình dục (sexual double standard) cho chúng ta biết, đây thực ra cũng không mâu thuẫn.

          Trong lịch sử tư tưởng chán ghét phụ nữ, chúng ta có thể lấy ra rất nhiều cái tên của nhà tư tưởng nam giới từ thế kỷ 18 tới 19: Arthur Schopenhauer, Otto Weininger. Điều đáng chú ý là, các thủ lĩnh tư tưởng của Hệ nhị nguyên giới cận đại này, đồng thời cũng là nhà phát minh tiêu chuẩn kép tình tình dục. Trong lịch sử, tiêu chuẩn kép về tình dục, là sự thành lập của thời kỳ hình thành chế độ gia đình cận đại lấy vợ chồng làm trung tâm, mà đây cũng là thời kỳ hình thành quy định gái mại dâm như một ngành công nghiệp. Chế độ gia đình cận đại và quy định gái mại dâm, hai cái trong ngoài phụ thuộc. Chương đầu tiên danh tác "Lịch sử tình dục" của Michel Foucault (1976), tiêu đề "Chúng ta cũng là người Victoria" để ngụ ý mỉa mai. Đầu thế kỷ 19, nước Anh dưới sự trị vì của nữ hoàng Victoria là thời kỳ ban sơ đặt nền móng cho nhiều hệ thống xã hội cận đại. Vào thời kỳ này, được coi như thiết lập đồng thời chế độ một chồng một vợ và mua dâm bán dâm. Vì vậy, cụm từ "kiểu thời đại victoria" đồng nghĩa với ý "đạo đức giả". Những quý ông của cái thời đại ấy, vừa tâng bốc thục nữ xinh đẹp vừa nhìn thấy gián một cái liền phải hốt hoảng kêu gián, vừa thường xuyên ghé thăm nhà thổ. Vào cái thời đại ấy, đây được coi như là chuyện đương nhiên.

          Cái gọi là tiêu chuẩn kép về tình dục là chỉ luân lý tình dục hướng đến phụ nữ, không giống với luân lý tình dục hướng đến đàn ông. Ví dụ như, tà dâm của đàn ông được chấp nhận (như Yoshiyuki Junnosuke, Nagai Kafeng,vv...), mà phụ nữ thì dựa vào vô tri trong trắng đối với tình dục là tốt. Chế độ một chồng một vợ cận đại ở bề ngoài ca tụng "trinh tiết đồng đẳng lẫn nhau", nhưng trên thực tế từ khi vừa mới đầu đã đưa "phạm lỗi" của đàn ông vào trong quy định rồi (nếu đã không cách nào tuân thủ ngay từ đầu thì đừng thề nguyền ok). Cho nên, phụ nữ ngoài ra còn phải đóng vai trò "đối tượng phạm lỗi" của đàn ông.

          Kết quả chính là, tiêu chuẩn kép về tình dục chia phụ nữ thành hai nhóm. Chính là, "thánh nữ" với "gái điếm", "vợ - mẹ" với "đĩ", "đối tượng kết hôn" với "đối tượng chơi đùa", "phụ nữ không chuyên" (phụ nữ ngoài ngành công nghiệp tình dục) với "phụ nữ trong nghề" (phụ nữ trong ngành công nghiệp tình dục), phân chia đồng đều thông thường. Mỗi một người phụ nữ sống sờ sờ tồn tại hiện giờ, đều là có thân thể có linh hồn, có tử cung có âm đạo. Thế nhưng, "phụ nữ dùng để sinh đẻ" đã bị cướp đoạt vui vẻ; "phụ nữ dùng để vui vẻ" chuyên để phục vụ vui vẻ, chuyển hóa để rời xa sinh đẻ. Gái điếm đeo theo con cái, chính là bởi vì xáo trộn được cái đường ranh mà khiến người ta cụt hứng ấy.

          Đương nhiên, vui vẻ trong này là niềm vui đơn phương của đàn ông, đàn ông không cần để ý niềm vui của phụ nữ. Cho dù như vậy, cái từ "phụ nữ giải khuây" (*) này vẫn là quá tuyệt diệu rồi, thật sự không biết là ai nghĩ ra nó. "Giải khuây", dĩ nhiên là giải tỏa khuây khỏa của đàn ông. Đối với phụ nữ giải khuây mà nói, đó là nô lệ lao động cỡ địa ngục. Chính bởi vì như vậy, khi những người phụ nữ giải khuây sống sót cất tiếng nói để lại tờ khai, trong họ có người từ chối kiểu tên gọi này, thanh minh: "Tôi không phải phụ nữ giải khuây." [Ban chấp hành "Buổi tụ tập để tưởng nhớ và tưởng nhớ các nạn nhân chiến tranh ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, 1997]

(*) tức phụ nữ giải khuây hay phụ nữ mua vui cho quân Nhật trong Thế chiến II. (theo Hanzii)

          "Chia để trị" (divide and rule) là quy luật xác định vững chắc của khống chế cai trị. Kẻ thống trị luôn tách rời ngăn cách đối tượng cai trị, để họ đối lập lẫn nhau, tuyệt đối không cho phép giữa họ sản sinh cảm giác liên quan. Từ góc độ nữ giới mà nói, chính là sự sắp xếp phân chia "thánh nữ" với "gái điếm" đến từ đàn ông, lại cộng vào rạn nứt của giai cấp và chủng tộc.

          Dưới đây, để chúng ta lấy ví dụ về phụ nữ giải khuây để mổ xẻ cái hiện tượng này. Trong phụ nữ giải khuây cũng có nữ giới Nhật Bản, nhưng đãi ngộ phụ nữ giải khuây người Nhật với phụ nữ giải khuây không phải người Nhật (nhất là người Triều Tiên) là không giống nhau. Phụ nữ giải khuây người Nhật chuyển cho sĩ quan dùng nhiều, được xem như vợ người bản địa (đương nhiên cũng không phải toàn bộ); mà phụ nữ giải khuây người Triều Tiên thì là công cụ phát tiết cho binh lính. Trong quân đội thậm chí có tiếng lóng "phòng bi Triều Tiên". Nghe nói "bi" là tiếng lóng chỉ bộ phận sinh dục phụ nữ trong tiếng Trung. Cái tiếng lóng biểu lộ trần trụi này, nữ giới Triều Tiên bị coi khinh toàn bộ nhân cách, họ đã bị khôi phục về thành một bộ phận sinh dục triệt để. Chính kiểu ấy, đã vạch ra đường ranh giới giống người giữa những phụ nữ giải khuây. Như thể khác biệt giống người thì không thể coi như con người mà xem.

          Đồng thời, trong quân đội còn có một loại nữ giới, chính là y tá tham gia quân ngũ. Khi phụ nữ giải khuây chăm sóc binh lính bị thương trên chiến trường, đường ranh giữa phụ nữ giải khuây và y tá trở nên mập mờ không rõ ràng, các y tá vì vậy không vui. Những y tá tham gia quân ngũ nhận vai trò "người mẹ" hoặc "chị em", nhưng từ chối bị coi là đối tượng tình dục. "Đừng cho rằng tôi là phụ nữ giải khuây" trở thành kiêu hãnh và tự phụ duy trì tôn nghiêm của bọn họ. Đây chính là "kỳ thị gái điếm" của phụ nữ, phụ nữ bị phân chia ngăn cách bởi tiêu chuẩn kép về tình dục, một bên miệt thị một bên khác. Có ví dụ thế này, có một binh sĩ trẻ tuổi trước khi chết cầu xin y tá "trước khi chết cho tôi xem vú của cô một cái", có người trong bọn họ đã đồng ý. Dùng cách hiện tại mà nói, này chính là quấy rối tình dục. Trong đó có thể sẽ có người vì thương hại mà đồng ý, nhưng cũng có trường hợp là bị bắt ép hăm dọa đi. Nhưng mà, hình tượng "thánh nữ" của y tá, khiến họ thiên về hướng phủ nhận khả năng bản thân bị coi là đối tượng tình dục. Có lẽ vì chính nguyên nhân này, trong nhật ký của y tá tham gia quân ngũ để lại không nhìn thấy dấu vết của quấy rối tình dục và cưỡng hiếp một cách khó tin. "Kỳ thị gái điếm" của phụ nữ hết sức sâu sắc, đây ngay cả chính bản thân bị coi như là đối tượng tình dục cũng càng khiến họ cảm thấy dơ bẩn. Cho nên, đối với việc bản thân bị quấy rối tình dục cũng không muốn thừa nhận, cũng không chịu tố giác.

          Từ trong tường trình của phụ nữ giải khuây, chúng ta biết được, trên chiến trường dần dần thiếu thốn nhân lực, ban ngày họ phải vận chuyển đạn dược, chăm sóc người bệnh và bị thương ở hậu phương, cũng được coi là đối tượng tình dục của binh lính. Ngoài ra, bọn họ còn sắm vai trò của "Hội phụ nữ yêu nước" vẫy cờ Thái Dương đưa binh sĩ đến tiền tuyến. Những cái này xuất phát từ những phụ nữ giải khuây của nước thuộc địa lấy tên Nhật Bản, mặc yukata Nhật Bản, hóa trang bắt chước là "nữ giới quê nhà" của binh lính. Tới thời kỳ cuối chiến tranh rồi, rất nhiều người trong họ có số phận giống với những binh lính đến bước đường cùng.

          Vào thời kỳ chiến tranh, Nhật Bản có hai nhóm nữ giới hỗ trợ hệ thống quân phiệt lớn, Hội phụ nữ quốc phòng và Hội phụ nữ yêu nước. Nhiều thành viên của Hội phụ nữ yêu nước là phụ nữ gia đình trung lưu tử tế, mà Hội phụ nữ quốc phòng bắt nguồn từ Osaka thì vì sắc thái bình dân hạ tầng trong đó mà giành được ủng hộ rộng khắp. Một trong những bí mật nổi tiếng của Hội phụ nữ quốc phòng là đã phát minh đồng phục tạp dề và đây nịt (buộc tay áo) đồng bộ màu trắng. "Tạp dề màu trắng" là một loại biểu tượng "thánh nữ", chỉ cần mặc trên người cái biểu tượng này, chớp mắt, rạn nứt giai cấp và giống người liền có thể tạm thời vượt qua. Tài liệu ghi chép của Hội phụ nữ quốc phòng đã lưu lại sự việc thế này: Những nữ giới khu làng chơi của Osaka vì mặc vào "tạp dề màu trắng" mà có thể gia nhập hàng ngũ "Hội phụ nữ quốc phòng", vì bản thân, họ cũng có thể làm đóng góp mà "cảm kích rơi nước mắt" vì quốc gia.

"Tạp dề màu trắng" đã tạm thời che lấp "ranh giới giai cấp" giữa phụ nữ tử tế với phụ nữ khu đèn đỏ. [Kano, 1987]

          Một loại nữ giới khác trong chiến tranh: "vợ ở hậu phương" lại là thế nào, dạng thí dụ khác ư? Nếu như tiết tháo của vợ hoặc góa phụ của binh sĩ không thể đảm bảo, sĩ khí tiền phương sẽ bị ảnh hưởng. Cho nên, "vấn đề tiết tháo" trở thành một vấn đề quốc gia bí mật giữ kín. Từ việc Mikiyo Kano vạch trần (1987) nghiên cứu "lịch sử hậu phương", một nhiệm vụ bí mật của Hội phụ nữ quốc phòng là dùng thăm hỏi gia quyến binh sĩ vì danh nghĩa giám sát tiết tháo kiên trinh của những người vợ. Góa phụ của binh sĩ chết trận và vợ của binh sĩ ra trận chỉ có thể là làm người vợ với người mẹ, tình dục của họ bị đè nén trong suốt sinh dục nghiêm ngặt, không thể có niềm vui. Mặc dù quốc gia kêu gọi "sinh thêm đẻ nữa", nhưng tử cung của họ không thể hoài thai giống nòi của đàn ông ngoài chồng.

          Nước Đức trong thế chiến thứ hai, nam giới chết trong chiến tranh tới hơn năm triệu. Đến cuối chiến tranh rồi, thiếu hụt đàn ông, quốc sách khuyến khích sinh con khó mà thực hiện. Thế là có người gợi ý, khuyến khích vệ binh Đảng Quốc xã "có giá trị" (giống người Aryan dòng máu thuần) (*) "yêu đương vụng trộm" với những người vợ ở lại hậu phương. Có điều cái đối sách này chung quy là quá khiến người ta cau mày phản cảm, kết quả chẳng được gì.

(*) Giống người Aryan/Chủng tộc thượng đẳng (tiếng Đức: Herrenrasse, còn được gọi là Herrenvolk "Người thượng đẳng") là một khái niệm trong ý thức hệ của Đức Quốc xã, trong đó các chủng tộc Bắc Âu hay chủng tộc Aryan giả định, chiếm ưu thế trong số người Đức và các dân tộc Bắc Âu khác, được coi là cao nhất trong hệ thống phân cấp chủng tộc. Thành viên của tộc người này được gọi là Herrenmenschen ("người thượng đẳng"). (theo wikipedia)

          Bị dị hóa hạn chế sinh sản, bị dị hóa tách rời sinh đẻ, mặt trái được coi là chuyển hóa cách biệt niềm vui và bị chuyển hóa hạn chế vui vẻ (đương nhiên vui vẻ đều là đàn ông), đều là đè nén đối với phụ nữ. Không phải chỉ có phụ nữ giải khuây mới bị đè nén, những người vợ ở hậu phương cũng đang bị đè nén. Tình dục của phụ nữ bị phân chia làm hai loại: "để sinh đẻ" với "để vui vẻ". Đối lập nhau, nhưng đều bị dị hóa. Dĩ nhiên, đè nén và bóc lột có khác biệt mức độ, trong đó còn có sự tồn tại của giai cấp và phân biệt đối xử. Nhưng cũng không thể vì vậy mà có thể để bản thân được coi như là "thánh nữ" để tôn thờ mà vui mừng cảm kích. Nói cách khác, "thánh nữ" và "gái điếm" là hai loại hình thái đè ép nữ giới, chẳng khác nào đều là "othering" (*). Những "thánh nữ" yêu cầu "Đừng coi tôi là gái điếm" kỳ thị gái điếm lộ liễu; đồng thời, những "gái điếm" lại mang theo bên mình kiêu ngạo của người phụ nữ nghề nghiệp tự nuôi sống bản thân, cười thương hại cho sự ỷ lại và mềm yếu của "phụ nữ ngoài ngành" đối với đàn ông.

(*) othering: đề cập đến hành động rút gọn của việc dán nhãn và xác định người khác là một sinh vật hạ đẳng. Nó coi ai đó thuộc tầng lớp thấp kém của xã hội .(theo wikipedia)

-----

Đây là bản dịch phi thương mại chỉ đăng duy nhất ở wattpad, vui lòng không sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác. 

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip