3. Tương Ngộ Hàn Huyên

Nửa tháng trước Tết, trời mưa gió dầm dề. Ông lang qua sông thăm một con bệnh nặng, bà lang sang chăm thị Hoài sinh nở đã mấy hôm. Thương muốn theo cùng, nhưng bà lang kiêng con giai thăm bà đẻ là vận rủi nên không cho, cậu đành ở nhà một mình.

Trời mù mịt, cậu ngồi bên song không dám thắp đèn, nương chút ánh sáng ban chiều đọc sách:

- Tăng Tử viết: Sĩ bất khả dĩ bất hoằng nghị. - Tăng Tử nói: Kẻ sĩ không thể không có hoài bão lớn lao và ý chí kiên cường¹...

Thương đọc đi đọc lại, cố gắng khắc ghi, nhưng hơi mưa buốt giá như lưỡi dao áp vào da thịt ngăn không cho người học chữ thánh hiền, càng đọc lòng càng bối rối, cuối cùng cậu đành tạm gấp sách, thừ người nhìn ra ngoài. Trời làm mưa mãi, không biết thầy bu và chị thế nào rồi? Những đứa bé lần lượt ra đời, thị Hoài bận bịu hầu chồng chăm con, số lần về nhà ngày một ít. Chồng nàng đèn sách bao năm nay mới đỗ đến Sinh đồ², tiền của trong nhà cơ hồ đổ cả vào y, mà y gần như chẳng đỡ đần được gì cho vợ. Đôi khi Thương tự hỏi, năm xưa thầy bu quyết gả chị cho cái đám xa xôi "môn đăng hộ đối" ấy, liệu có đúng đắn hay chăng? Cậu không thể trả lời. Chỉ biết, thoắt cái, chị em xa cách ngót nghét mười năm, mỗi lần gặp lại, chị Hoài càng thêm khác năm xưa.

Một trận gió to cuốn lá rụng rào rào xuống sân vắng. Giời mưa, lá mặc sức rơi đầy... Thương bỗng nhận ra, ngày nay không thấy mẹ con thị Diểu đâu cả. Vải chưa dệt xong, không thể vì nhẽ ông bà chủ đều đi vắng nên họ trốn làm. Hay là... có chuyện gì rồi?

Nghĩ vậy, cậu bèn bước khỏi phòng, khoác áo tơi đội mưa ra ngoài. Quả nhiên, vừa đi tới đầu làng, cậu đã thấy bóng Tương ướt lướt thướt chạy dưới mưa, điệu bộ luống cuống khác thường.

- Sao thế? - Thương gọi.

Tương nhìn cậu như bắt được cọng rơm cứu mạng, giọng lạc cả đi:

- Mạ tôi đang sốt cao lắm, cả ngày nay không dậy nổi rồi. Ông lang có nhà không cậu?

- Thầy... thầy tớ sang bên kia sông từ sáng, giờ chẳng biết có còn đò... - Thương luống cuống đáp, nhìn sắc trời loang lổ trong màn mưa tầm tã - Thế này đi, tớ biết xem mạch sơ sơ, để tớ xem cho vú rồi tính.

Tương nghe vậy vội dẫn cậu về cái quán bỏ hoang cạnh cừ đầu làng. Ngoài quán, những tấm phên mỏng tang mủn mục được vá tạm bằng vài manh chiếu rách để chắn bớt gió mưa. Bên trong chia làm hai gian nhỏ hẹp bằng một tấm sáo bạc phếch, gian trái có một cái ổ rơm lót tạm, thị Diểu nằm đó, trên mình đắp đủ thứ vải rách chiếu manh. Thị đã sốt đến lả cả đi, nghe tiếng người cũng chỉ khẽ cựa mình, cố mở mắt nhìn về phía con gái thều thào mấy câu, dường nói cô đừng làm phiền người khác. Đối mặt con bệnh, tim Thương hốt nhiên đập như trống, cậu vội vàng chạy lại bắt mạch xem lưỡi cho thị, đoạn hỏi Tương:

- Vú sốt như này được bao lâu rồi?

- Mạ tôi nhọc mấy bữa nay rồi, cứ ho hắt hơi và ngây ngấy sốt, đến ngày nay thì sốt bùng lên như ri.

- Thế vú ho có đàm không? Đàm mầu gì? Loãng hay đặc?

- Mạ tôi ho nhiều đàm lắm, đàm trắng... nhưng loãng thôi.

- Vậy thì đỡ... Em đã cho vú ăn uống gì chưa?

- Tôi lau người mạ bằng nước ấm, đắp khăn ấm và cho mạ uống nước cháo. Mạ tôi ít bệnh, mọi khi chỉ cần thế là khỏi, mà lần này nôn cả, sốt mãi không hạ.

- Tớ biết rồi. Nãy tớ xem mạch, nghe chừng mạ em chỉ bị thương phong thông thường, do khinh bệnh để lâu mới thành ra vậy. Thế này... tớ về nhà lấy thuốc, em ở đây trông mạ, và bắc sẵn cho tớ một nồi nước nhé.

Thương căn dặn xong liền quay đầu chạy vụt về nhà. Cậu lục tủ thuốc của thầy mà tay cóng đờ run rẩy, mãi mới cân xong một ít bạch chỉ, quế chi, trần bì, lại tức tốc chạy ra vườn vặt ít tía tô, bạc hà, giổ một củ gừng tươi, thêm mấy nắm lá bưởi, tre, hành. Xong xuôi, cậu lại quành vào nhà lấy chăn, hỏa lò và cái ấm chuyên dùng để sắc thuốc của thầy, rồi khệ nệ ôm tất cả lao vào màn mưa, chạy như bay tới cái quán đầu làng.

Gian bên phải quán đặt lèo tèo hai bộ bát đũa sứt mẻ và vài củ khoai dím trên cái chõng què chân, Tương đã đun sẵn một nồi nước sôi trên hai hòn gạch vỡ. Thương cho mấy nắm lá vào nồi đun làm nước xông cho thị Diểu, dặn:

- Đợi sôi rồi mang ra cho vú, trùm chăn kín để xông chừng một khắc. Trong lúc đấy em hãy đun lại cháo, bỏ ít hành, gừng, tía tô này vào. Cho tớ mượn cái đóm. Xông xong thì lau thật khô người và thay quần áo cho vú kẻo gió máy. Rồi cho vú ăn cháo, rồi uống thuốc. - Nói một thôi, dường sợ Tương không yên tâm, Thương lại an ủi - Phương thuốc này thầy tớ dạy, rất hiệu quả. Em đừng lo quá nhé.

Tương nhìn khuôn mặt bợt bạt đi vì lạnh và đôi tay hãy còn run run của cậu thiếu niên đang gắng sức an ủi mình, nỗi lo lắng bất giác vợi đi, trái tim hồ như có một thứ gì lạ lẫm mà nhẹ tênh mềm mại phớt qua, cô lúng búng cúi đầu nói cảm ơn, đoạn làm theo lời dặn dò của cậu. Sang canh một, thị Diểu quả nhiên đã hạ sốt, song vẫn còn lử đử lắm, thị chỉ thào thào lặp đi lặp lại một câu cảm tạ Thương, uống thuốc xong lại nằm thiêm thiếp. Trời tối sầm, gió bấc quần đảo, mưa mỗi lúc một như chì, Thương lo cho thị, đành ở lại chẳng dám về.

Tương cời tro bếp, lấy ra hai củ khoai còi đưa Thương:

- Cậu ăn tạm cho đỡ đói. Đợi mạ khoẻ, tôi và mạ sẽ lại cảm ơn cậu và ông bà đàng hoàng.

Thương gãi đầu cười:

- Chuyện nhỏ thôi mà. Bài thuốc này dễ kiếm, em hãy nhớ lấy để dùng, chớ để tà khí nhập sâu khó chữa.

- Dạ, cảm ơn cậu.

Hai đứa trẻ yên lặng ăn khoai. Bấy giờ Thương mới để ý, đầu chiếc "giường" rơm có một tấm gỗ khô ráo, bên trên để vài nụ ngọc lan héo, mấy thỏi than cùng một xấp tranh, một quyển Kinh Thi và vài cuốn sách cũ mèm không rõ tên khác, trên cùng tập sách tranh là một cuốn sách cũ đã quăn mép, ngoài bìa đề bốn chữ "Bạch Trúc ngữ lục" (帛竹語錄)³, nét bút thẳng cứng, hất móc rất cao, lại thoáng vẻ non nớt vụng về.

- Tớ xem cái kia được không? - Thương chỉ vào đám giấy vở.

- Sách đó của mạ tôi, không xem được.

- Còn tranh?

- Tranh... tôi vẽ linh tinh thôi.

- Tớ thích vẽ lắm, mà giời không cho hoa tay. - Thương cầm thanh củi vẽ lên nền nhà một hình người que nham nhở, cười hỏi - Sao nào? Đẹp không?

Thoáng chần chừ, Tương đưa tranh cho cậu. Tranh vẽ bằng than trên một thứ giấy sần sùi xám xịt, nom như ép lại từ giấy vụn. Thương thấy nhà mình, hàng huệ trắng nở dọc lối vào, tàn nhãn già tỏa bóng tối êm ru; bà lang vấn khăn lượt ngồi trên trường kỉ, tay đưa như vẫy, khuôn mặt trang nghiêm mà dịu dàng; ông lang đội khăn bát tiên, cầm bút lông đứng viết bên song, hình dung ưu tư lại hiền từ. Và Thương, ngồi một mình bên trang sách nơi đầu hè, trên đầu là những áng mây dày lơ lửng.

- Vẽ tài quá. - Thương khen.

Tương cúi đầu không đáp, vành tai thoáng đỏ.

- Thật đấy. Em cho tớ một bức nhé.

- Cậu thích bức nào thì cứ lấy.

Song Thương cũng không lấy tranh ngay, mà tỉ mẩn giở tiếp. Tranh có mây trời, bến nước, cỏ cây, nhà cửa, quang cảnh trên đường, cùng với rất nhiều người với đủ dáng dấp và sắc diện, nét chưa nhuần, nhưng thần hồn luôn phảng phất. Thương ngắm nghía hồi lâu, như muốn xuyên qua lần giấy mỏng manh để tận mắt thấy những phong quang và nhân dạng từng đến và đi trong đó, và có lẽ cậu sẽ trở thành một trong số họ. Cuối cùng, cậu dừng lại nơi một bức tranh sông nước mang mang, trên trời có cánh chim xiêu lạc.

Một cánh chim lang bạt muôn phương, chẳng hay đích đến. Những câu từ đọc đi đọc lại hồi sáng cứ chập chờn vang vọng: ý chí kiên cường, hoài bão lớn lao...

Sơn xuyên rộng nhường ấy, chim sẽ bay về đâu?

Thương chợt thấy lòng chấp chới. Cậu bỗng tha thiết muốn được nói một điều gì đó, bất cứ điều gì.

- Tớ nhớ khi trước đọc sách, có một đoạn viết về loài cá côn ở bể Bắc, mình dài không biết mấy ngàn dặm. - Cậu chỉ vào chú chim trong tranh - Cá côn hóa chim bằng, lưng cũng rộng không biết mấy ngàn dặm, cánh to như vầng mây che khuất bầu trời, nương gió lốc bay chín vạn dặm, đội trời xanh dời tới bể Nam... Lại có những loài, như ve sầu và chim cưu thì có khi chẳng bay lên nổi ngọn cây du, phương; như con chim sâu chỉ bay được vài chục thước trong đám cỏ hao, bồng...

Thiếu nữ bên cạnh ngồi yên ngả đầu tựa gối, nghiêng tai chăm chú lắng nghe. Cậu thiếu niên ngây thơ mà dịu dàng trước mặt, có điều gì từ lời cậu nói làm cô không dám động cựa rồi để lỡ dù chỉ một từ, tuồng như chỉ một tiếng động nhỏ cũng làm khoảnh khắc này vụt biến.

- Sách ấy viết, - Thương kể tiếp - có những loài cuộc đời ngắn ngủi, như loài nấm chỉ sống được một buổi sáng, như giống ve sầu chẳng biết đến xuân thu. Lại có những loài sống rất rất lâu, như cây minh linh ở miền nam đất Sở, như cây xuân lớn ở thời thượng cổ, mỗi mùa xuân thu dài tận năm trăm, tám trăm năm. Ông Bành Tổ sống bẩy trăm năm, so với những loài ấy cũng chẳng đáng là gì...

- Tiểu trí khôn bì đại trí, cuộc đời ngắn sao sánh với cuộc đời dài...⁴ - Tương bỗng thì thầm tiếp lời - Mấy năm trước tôi từng đọc những dòng này trong một hàng sách...

Hai đứa trẻ nhìn nhau. Đôi mắt thiếu nữ đen thẳm, phảng phất nỗi tịch mịch chơi vơi. Đôi mắt thiếu niên trong veo, lại có chút gì mịt mờ vô định.

Còn mình? Còn mình thì sao... mình thì là gì?

Mưa vẫn rơi miên man, đêm mỗi lúc một thẳm, cõi lòng hai đứa trẻ từ từ tan vào màn mưa đêm, chảy loang khắp không gian chật hẹp.

Tương cầm thanh củi vẽ phác trên nền đất một thân cổ thụ già nua trơ trọi. Thương nghiêng đầu tựa gối, chạm tay lên cội cây, thì thào:

- Nhìn như đang sống vậy.

- Thực ư?

- Thực.

- Vậy tôi vẽ tặng cậu một bức nhé.

- Được. Coi như mình trao đổi.

- À...

- Sao thế?

- Xin lỗi vì hôm bữa tôi nói chuyện hơi cộc. Cảm ơn cậu đã đi theo bảo vệ tôi.

- Chuyện nên làm thôi, không có gì...

- Vậy... tôi cũng kể cho cậu một câu chuyện nha?

Thương gật đầu, tỏ vẻ nghiêm túc lắng nghe.

- Ngày xửa ngày xưa, - thiếu nữ cất giọng nhẹ nhàng - có một người lang thang tứ chiếng...

Đêm đó, hai đứa trẻ thức rất khuya. Đôi câu chuyện từng đọc từng nghe, vài câu đố vui con trẻ, rồi tán gẫu về muôn sự trên đời, chúng không nhớ cụ thể mình đã nói những chi, chỉ nhớ rằng, đêm dường dài thênh, lại dường ngắn ngủi. Ngoài trời tối tăm, gió mưa vần vũ, trong quán nhỏ, hơi nóng mỏng tang từ bếp lửa ấp lấy không gian, quyện cùng mùi thuốc đắng dịu dàng...

Hôm sau, như thói quen mọi ngày, thị Diểu mở mắt từ khi trời còn mờ tối, mình hãy còn nhâm nhẩm đau, nhưng đã dễ chịu hơn nhiều. Thị định sang nhà bà lang luôn để làm bù hôm qua nghỉ, nhưng vừa nhổm dậy nhìn sang bên, thị đã khựng lại.

Cạnh ổ rơm, hỏa lò đã tắt ngấm, trên mặt đất là những hình vẽ ngổn ngang, có hai đứa trẻ đang tựa đầu bên nhau ngủ.

——————————

*Tên chương được lấy từ bài Đông môn chi trì 2 - Kinh Thi:

Đông môn chi trì,
Khả dĩ ẩu trữ.
Bỉ mĩ thục cơ,
Khả dữ ngộ ngữ.

Tạm dịch: Ao nước ở cửa đông có thể ngâm gai (để dệt vải). Người con gái đẹp đẽ hiền lành kia có thể cùng ta gặp mặt chuyện trò.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip