Một chậu tùng hương, một con se sẻ
Hạ tuần tháng Giêng, Đan duỗi tay ra khỏi chăn để tắt chuông báo thức lúc sáu giờ ba mươi sáng mà nghĩ mình đang ở đâu đó trong tháng Mười - tê tái lạnh và màu xám ngập ngụa muôn nơi.
Dẫu hồng thuỷ đã bào mòn mọi loại khí hậu thành mây xám từ hơn ba mươi năm trước, Đan vẫn đinh ninh rằng bầu trời tháng Giêng mỏng đi và các tầng mây rút lên cao hơn. Nên có nắng nhạt rọi xuống giếng trời giữa cư xá, để thấy rõ đường viền của những viên gạch lát và những mảng tường. Nhưng Đan chỉ nghe từ cơn mưa dai dẳng đêm qua, nước vẫn còn nhỏ tí tách xuống các máng xối dọc theo bờ tường xư xá.
Đan khoác thêm chiếc cardigan màu ô liu, bỏ chiếc ô xám xếp gọn vào túi vải trước khi đóng cửa nhà. Từ cư xá đến sở làm mất hơn một tiếng đồng hồ. Nơi ấy cũng không xa lạ. Cô rời khỏi đó vào thánh Mười năm kia, lý do không đủ sức khoẻ để tiếp tục. Cô quay lại vào hạ tuần tháng Giêng năm nay, lý do tiền tiết kiệm đã cạn. Mà Đan lại muốn nuôi thứ gì đó hữu cơ. Một chậu tùng hương, một con se sẻ. Cô cần tiền.
-
Đan bước xuống ga tàu điện rồi đi bộ thêm mười lăm phút, nép mình dưới bóng chiếc ô che đầu, len lỏi qua những bóng người xám xịt và những cửa hàng thắp sáng bằng những ngọn đèn leo lét.
Ở thời buổi thành phố ngoài người ra không còn gì sống sót, những sạp hàng vẫn cố níu chân khách qua lại bằng những tiêu bản hoa cỏ đã cũ mấy chục năm, những tượng đất nung hình muông thú, và những tấm bưu thiếp in quang cảnh các dòng sông và núi non thuở đất trời còn nhiều màu sắc. Những ki-ốt bán cà phê sáng với mùi cà phê nhân tạo thơm nồng đến ngạt thở. Nhưng Đan không còn thói quen tự bao dung cho mình một cốc cà phê nhân tạo mỗi tuần nữa, cô cũng không còn đủ sức chi trả cho những chuyến đi ra vùng rìa thành phố để tìm kiếm những mầm cây hoạ hoằn lắm còn ở trong lớp bùn phân huỷ của bãi phế thải lớn. Nhưng cô vẫn hy vọng về cà phê, khi cô có tiền trở lại, đủ để nuôi một chậu tùng hương, hay một con sẻ sẻ, rồi cà phê.
Đan không biết làm gì khác ngoài nghề viết. Cô cảm thấy mình nhỏ nhoi và vô dụng, bởi không thể soay sở được sinh kế khác. Rất nhiều người nếu không thể làm việc này có thể làm việc khác, và dù những ngày của họ nhiều giằng xé và cạm bẫy, họ vẫn có những cánh cửa mở ra khi con đường trước mặt rẽ ngoặt vào bóng tối. Còn Đan, cô không biết dưới chân mình là một con đường hay một dòng nước không dò được nông sâu.
Nơi Đan từng làm, và đang bước vào trở lại, giúp khách hàng viết nên mọi thứ họ muốn. Thư chào mời, công văn, báo cáo, đơn xin ly hôn, khế ước, thư giới thiệu... hay bất cứ việc gì cần đến thứ văn phạm trang trọng gần như đã tuyệt chủng. Công ty được thành lập tầm hơn sáu năm trước, có một giám đốc tuổi chưa đến ba mươi và một nhóm làm việc ít người. Một tổ hợp nhỏ như một nguyên tử, làm việc trong một khối vuông được bao bởi những bức tường của một tòa nhà sáu mươi tầng. Ở thành thị bây giờ, sáu mươi tầng cũng không cao lắm. Có những toà nhà xuyên qua mây như một ngọn giáo, mà ở trên đó có thể là một thành phố hoàn toàn khác so với thế giới của Đan dính liền vào mặt đất và những tầng hầm bên dưới. Cô vào thang máy lên tầng hai chín, nơi Doãn đang đợi cô trong văn phòng.
Từ tháng Tám năm trước, cô đã viết cho anh ta một lá thư mà cô cho rằng rất đỗi chỉn chu, rằng cô mong muốn anh xem xét cơ hội để cô làm việc lại. Đã không có một hồi âm nào trong gần bốn tháng, như hòn cuội ném vào bùn.
Cho đến ba hôm trước đây, Doãn gửi lại.
Lá thư nhỏ chỉ bằng một phần tư cỡ giấy thông thường, để ở hòm thư bằng sắt ở dưới cư xá. Thư đề ngắn gọn ngày và giờ hẹn bằng mực in, và Doãn, bằng nét chữ tròn trịa, viết thêm bên dưới "Vừa có công việc cho cậu."
Đan đứng trước chiếc bàn đặt gần kín hồ sơ, nhìn người thanh niên trước mặt đang cau mày đọc một hồ sơ mở ra trước mặt. Anh dong dỏng cao, mái tóc rẽ ngôi gọn gàng để lộ vầng trán cao và trông lúc nào cũng lịch sự và bình tĩnh. Nhìn anh luôn cảm thấy anh đã lớn lên rất đầy đủ, và trở thành một cá nhân rất xuất sắc.
Doãn rõ ràng nhận ra sự hiện diện của cô, nhưng không có vẻ gì muốn mở lời trước. Phía sau cặp kính, đôi mắt anh còn chuyên chú nhìn xuống tập hồ sơ dán đầy hình và chi chít chữ. Đan nhắm mắt, nghĩ về bốn tháng bặt tăm tin tức, cố giữ giọng không cay đắng.
"Bây giờ ư?"
Lúc ấy Doãn mới ngước mắt lên nhìn cô. Anh nói. "Phải, bây giờ."
"Có phải lá thư mình gửi cậu hồi tháng Tám tệ đến mức cậu nghĩ mình không còn đủ năng lực cho việc này phải không?"
Doãn mỉm cười, "Lúc ấy mình đã có đủ người. Sau khi cậu đi, mình thuê được một thợ viết rất khá và một thực tập sinh. Mình đào tạo thực tập sinh trong sáu tháng và bạn ấy đang bắt đầu nhận đơn hàng, vẫn đang với chi phí của một thực tập sinh."
"Phải rồi."
"Nhưng bây giờ thì mình có một việc cho cậu."
Lời anh nói làm Đan chợt nhớ, vào một ngày tháng Tư của nhiều năm trước, Doãn đến trước cửa cư xá, đứng đợi từ lúc trời còn trưa đến khi vào đêm. Đan rời khỏi công việc bán thời gian về đến nơi đã thấy Doãn ở đấy, sau ba, bốn năm dài không gặp. Khi ấy, Doãn còn chưa đeo kính và trông anh còn trẻ đến mức cô đã nghĩ lời anh nói thật ngây ngô.
"Mình mở một công ty. Được vài tháng. Mình có một việc. Cho cậu."
Doãn giờ đây nói mạch lạc hơn hẳn ngày ấy. Anh cũng đã không còn ngây ngô. Anh là chủ một doanh nghiệp nhỏ với nguồn lực vô cùng hạn chế, đang đánh giá một ứng viên không thực sự nổi trội, đã bỏ đi, rồi lại nài nỉ xin về.
"Việc này không liên quan đến công ty, mà là từ cá nhân mình. Tất nhiên mình không thể cử nhân viên giỏi của mình đi được. Mình không thể đánh đổi một cách đầy rủi ro như thế."
Đan đưa mắt nhìn ra bên ngoài, nơi các nhân viên khác đang chăm chú giải quyết các đơn hàng họ đã nhận cho tuần này, tháng này và có lẽ là nhiều tháng sắp tới.
"Mình luôn biết rằng mình không phải là thợ giòi."
"Cậu chưa bao giờ là. Rất nhiều đơn hàng, các thợ khác làm xong trong một giờ, còn cậu lấy mất của công ty một buổi."
"Vậy công việc cậu muốn mình làm là gì?" Đan nghe giọng mình run lên.
Doãn tháo kính, nhắm mắt lại và xoa hai bàn tay lên hốc mắt như để kéo dãn các cơ cùng các luồng suy nghĩ. Vẫn không nhìn Đan, anh nói:
"Một việc không có giới hạn thời gian. Hoặc cần rất nhiều thời gian. Mình cần một người mà dù có qua bao lâu đi chăng nữa, dù kết quả trả về không hề nổi trội nhất, nhưng luôn là chân thành nhất."
Có lẽ Đan thoáng thấy Doãn nhẹ cười.
"Mà chẳng phải đó chính là cậu đấy sao?"
Cô gái - giờ đây lại trở thành một thợ viết - về đến nhà lúc mười một giờ trưa. Túi của cô không kéo khóa, bởi có một tập tài liệu dày nhô lên. Doãn gửi cho cô bản sao đã mất rất nhiều trang của quyển Gương mặt của chúng ta, trái tim tôi, ngắn gọn như ảnh chụp của John Berger*,* những ổ dữ liệu lưu lại một số hình chụp, một số bài nhạc, một số đoạn quay phim. Anh dành hơn một giờ để kể cho cô nghe những điều mà tại thời điểm này cô cần biết. Sự bồn chồn của anh không nằm trên khuôn mặt, càng không nằm trong từng vần, từng từ ngữ anh đang nói, mà nằm đâu đó trong một luồng suy tư từ bên trong, chỉ để lộ ra một ít tín hiệu khi anh hơi cúi mắt nhìn vào tập hồ sơ trước mặt.
Rồi anh nói cô về đi, công việc này không phải ở văn phòng mỗi ngày. Năm mươi phần trăm thù lao sẽ trả dần mỗi mười ngày một lần, phần còn lại sẽ trả khi bàn giao kết quả. Không nhiều lắm, nhưng Đan nhẩm tính, khi xong việc, cô sẽ có thể chăm sóc cho một con se sẻ ít nhất một năm.
Khuây khoả, với Đan, nhỏ xíu như một con sẻ nhỏ chỉ sống một năm trong êm ấm.
-
Sáng hôm sau, Đan mang theo giấy giới thiệu của Doãn, bút và sổ giấy trong túi, đi hết ba tuyến tàu điện dài và thêm một lần tàu lửa loại chở hàng hoá nhiều hơn chở người, đi mãi đến khi thành phố lùi lại thành một ụ xám phía sau. Cô xuống ga và đi bộ theo toạ độ được cho. Công việc của Đan bắt đầu bằng việc cô phải đến gặp được Quái Thú, được giam giữ trong một hầm ngục khoan xuống lòng đất sâu, ở cách xa mọi nơi có sự hiện diện của con người.
Đan biết mình đã đến nơi khi một cánh cửa bỗng xuất hiện giữa bãi đất, ở phía sau có một gốc cây - dường như là cây bàng lá rộng, đã chết từ thời buổi nào không biết.
Đan hít sâu, bấm mã số được cho, bước vào bên trong và lần hồi xuống những bậc thang nửa chìm vào bóng tối, rồi một hành lang ngầm dẫn đến một căn phòng rộng và kiên cố như thể dù trời đất có vỡ vụn, nơi này vẫn còn đó, lầm lũi mà kiên cố, tách rời khỏi thời gian và tất cả mọi điều khác trên đời.
Ở giữa phòng là một miệng giếng tròn, với cửa sập là những lớp lưới thép tích điện. Đan mà chỉ ngồi một bên rồi cố gắng nhìn xuống, cẩn thận không chạm vào lưới, cố gắng tìm tòi bên dưới hình thù của Quái Thú.
Ở thăm thẳm dưới đáy màn đêm, Quái Thú nghe thấy có tiếng chân người, bèn trồi lên từ giấc ngủ mê man chìm lút.
Gã phơi mình ra trong bóng tối, hấp háy mắt rồi cố cử động những đầu ngón tay. Gã sờ cổ tay mình, mặt mình, cả thân thể, những gì xúc giác tiếp nhận được là sự trơ gầy tuyệt đối. Gã rướn người ngồi dậy, thấy da thịt mình đau đến gần như rữa nát. Quái Thú nhìn luồng sáng xanh lơ soi từ từ miệng giếng xuống, soi rọi một khoảng sàn đá. Giữa gã và miệng giếng xa đến nao núng cõi lòng.
"Tiếp tế à?" Gã thều thào hỏi, giọng như có lớp mạng nhện dày trong thanh quản. Tiếng nói của gã vọng vào lớp tường đá và chạm đến miệng giếng.
Đan ngập ngừng nói vọng xuống, cũng lắng nghe âm vang của giọg mình xếp chồng lên nhau, cuốn xuống sâu hun hút, "... Không. Cháu là thợ viết."
Quái Thú lặng im một lúc, rồi cười khùng khục, "Hết ký giả, bác sĩ tâm thần, lũ thầy bùa giả danh rồi đến bây giờ là thợ viết à?"
"Cháu được trả công để viết lại lời ông kể."
"Ta không có gì để cho cô viết đâu. Ta đã ở quá lâu trong bóng tối, trí nhớ và tư duy đã bị hao mòn đến dị dạng rồi."
"Cháu đã thất nghiệp quá lâu, sợ đói, nên phải cố làm thôi." Đan mỉm cười.
"Ta không có gì cho cô ăn đâu, cô nhỏ. Tất cả những gì chúng vứt xuống nơi này đều bủn xỉn. Chúng không để ta chết, nhưng để sống thì lại càng không. Ở bên dưới này cằn cỗi như đang ở giữa màn đêm của một sa mạc vĩnh cửu. Làm sao ta có thể cho cô thứ gì đó, một công việc hay một bữa ăn khi ở giữa sa mạc?"
Đan cảm thấy thái dương bắt đầu đau nhức. Cô đã nghĩ đến mọi loại kịch bản mà Quái Thú có thể gào thét, khóc rống hay gầm gừ điên loạn. Cô chỉ không sẵn sàng với việc Quái Thú từ chối cô bằng giọng nói dù thều thào nhưng đâu đó vẫn nhã nhặn, cô không thể nào chối cãi được.
"Ông ở đây bao lâu rồi?" Công việc vẫn là công việc, Đan ngồi xuống bên miệng giếng và rút sổ ra định ghi chép.
Nhưng Quái Thú không hề đáp lại nữa. Có vẽ như gã đã cuộn mình vào bóng tối và đớn đau mà ngủ vùi.
Đan ôm gối ngồi bên miệng giếng, mãi đến khi thấy bản thân trơ trọi như cây bàng chết ở trên mặt đất. Cô gượng dậy, cất sổ vào túi, lau một giọt nước rơi ra từ trong mắt, rồi đi.
-
"Cậu cần phải tìm thấy An Dao, ít nhất là bất cứ gì còn sót lại của An Dao trên mặt đất này."
"Mà chỉ có Quái Thú còn cất giữ An Dao trong ký ức. Thứ ký ức gã chưa bao giờ chịu kể với một ai, mà đã sắp khô cạn rồi."
-
Trong suốt ba tuần sau đó, cứ mỗi ngày lẻ trong tuần, Đan cố nhận chìm nỗi thất vọng trong lòng mình, lại ba chuyến tàu điện và một chặng tàu hoả dài, đến bên miệng bong-ke lầm lũi nằm trước cây bàng chết héo, bước xuống cầu thang và đi qua hành lang thăm thẳm.
Cứ mỗi lần cô hỏi đến câu thứ hai, Quái Thú không nói nữa. Rồi vọng từ đáy giếng có tiếng sột soạn trở mình, tiếng đằng hắng khục khạc, rồi im lặng. Đan hiểu Quái Thú đã ngủ. Thật lạ lùng, thứ ngủ mà cô đang chứng kiến. Không một giây chần chừ thao thức, cứ nhắm mắt lại rồi để giấc ngủ bủa vây, mài mòn mọi giác quan, xoá nhoà mọi biên giới Đan đã ngồi bên miệng giếng đủ lâu để biết rõ rằng Quái Thú ngủ như sống một phần đời riêng biệt, có nhịp sinh học tịnh tiến và bất biến. Ở dưới đáy sâu là bóng tối lấp đầy và gã chìm tận dưới sâu hun hút tối tăm. Não dừng hoạt động, ký ức xoá nhoà, rồi bản thể của gã cùng dần bị bào mòn trong giấc ngủ ấy.
Đan tuyệt vọng nghĩ, có lẽ nào những giấc ngủ dài làm rữa nát hết mọi hồi ức cuối cùng về An Dao hay không?
An Dao đã từng sống, từng thở và bước đi trên mặt đất. Trong dòng thời gian của cô, hồng thuỷ vẫn còn là một khái niệm xa xôi và đất trời còn chưa nổi cơn thịnh nộ. Hình hài của cô lẽ ra phải được ghi nhớ một cách hữu cơ, sống động, trong một phòng học đầy ánh sáng và khi chiều sang sẽ đổ bóng từ những vòm lá rộng, trong một phòng nhạc nơi cô mở loa nghe những bản sonata khi đang đọc John Berger viết "nhà là nơi khởi đầu và kết thúc của mọi hành trình trên mặt đất này", hay ở cung đường lên núi thông xoà bóng xanh ngăn ngắt mà cô thích đi bộ trong những ngày ấm áp, cùng những người bạn mà cô thương mến. Tất cả những gì Đan có về An Dao thật nhỏ bé, mà từng chút một đều lấp lánh rạng ngời.
Rồi An Dao biến mất.
Ở thời điểm những lỗi lầm nghiêm trọng trong vật liệu di truyền được cấy vào phôi thai cô chỉ còn một năm là phát tác.
Cùng tan biến khỏi mọi cơ sở dữ liệu của cô là người diều dưỡng chăm sóc An Dao và những đứa trẻ nuôi cấy được cài đặt vật liệu lỗi. Gã đưa cô đi nơi nào không một ai biết đến, mà cũng không còn ai chịu để tâm. Hồng thuỷ tưởng như xa xôi mà thực ra đã kéo đến rất gần. Đã có những tín hiệu u ám của bầu trời thường xuyên trút thịnh nộ bằng bão giông, và sông ngòi dần nhận chìm các bờ bãi.
Sau một năm kể từ khi dường như hoàn toàn biến mất khỏi mặt đất, khi hồng thuỷ còn chưa rút đi hẳn, người ta chỉ nhận về một lọ đựng vài sợi tóc của cô cùng một tập hồ sơ phân tích đủ loại kết quả xét nghiệm và những giả thuyết điên rồ, như một lời van xin hãy làm gì đó để cứu An Dao qua khỏi đớn đau và giông bão, nhưng đã quá muộn rồi.
Đan lẽ ra phải mở được cánh cửa hồi ức của người dn bị giam cầm dưới lòng đất lạnh để tìm kiếm nơi An Dao nằm lại, hoặc nơi cuối cùng còn lưu lại bóng hình cô trên mặt đất này. Một mẩu xương cũng đã gọi là thành công.
Để cô có thể nuôi một chậu tùng hương, một con se sẻ.
Để Doãn biết anh đến từ đâu trong đất trời hoang lạnh.
-
Trung tuần tháng Ba, mưa nặng hạt dần. Những cơn bão lớn đầu tiên trong năm bắt đầu gầm thét trên đỉnh những toà nhà lặng im sừng sững. Có lẽ xuyên qua mây mù là trời trong đổ nắng, có lẽ chỉ có Đan và những người mắc kẹt vào đất mới phải chịu đựng cái lạnh đến ê buốt những khớp xương này.
Quái Thú vẫn không hề hé răng. Hy vọng của Đan mỗi lúc một le lói. Cô nghĩ mình sắp bỏ cuộc đến nơi, bất lực như An Dao không thể làm gì khác để bản thân lành lặn.
Cô nghĩ đến Doãn. Lẽ nào anh cũng biết cô thất bại từ lúc còn chưa bắt đầu. Rõ ràng bao năm qua, không ai có thể bắt Quái Thú nói được thêm một lời. Làm sao một thợ viết tầm thường như cô có thể viết lại câu chuyện nằm sâu nhất trong tâm trí, thuật lại những bí mật cất giữ dưới đáy của những tầng nước của cơn đại hồng thuỷ và màn đêm thẳm sâu?
Đan đến toà nhà công ty, nép mình dưới tán ô xám, đợi Doãn từ trưa đến khi đêm buông xuống và những ánh đèn trải thành mê cung trong thành phố. Khi trông thấy bóng dáng anh với chiếc áo khoác màu nâu đỏ, cô đến trước anh, không dám nhìn thẳng vào anh, cố nặn ra một nụ cười:
"Mình xin lỗi. Mình bỏ cuộc."
Doãn nhìn cô bạn đứng trước mặt anh. Trông cô giờ đây giống hệt buổi đêm mà anh đứng đợi dưới cư xá, với những bước chân trĩu nặng, với bóng dáng vùi chôn vào màn đêm. Đôi mắt cô, dù chưa bao giờ khóc, nhưng đã cạn khô từ thuở nào. Môi cô mỏng và nhợt nhạt, hơi mím lại để ngăn cơn lẩy bẩy từ tận sâu bên trong. Bất cứ lúc nào Doãn gặp Đan, cô đều cố gắng đứng vững đến mức cô gần như sụp đổ lúc nào không hay biết.
"Cậu ăn gì chưa đấy?" Doãn hỏi, bước gần đến Đan thêm một chút và cảm nhận thứ xót xa khôn kể toả ra từ trên vai cô. "Trên văn phòng có thức ăn nóng. Bao lâu cậu không ăn đồ nóng rồi?"
Doãn nắm lấy tay Đan và đưa cô ngược trở lên tầng hai chín. Văn phòng đã vắng người từ lâu và Doãn chỉ mở đèn trong phòng làm việc. Từ tủ giữ nhiệt ở góc phòng, cậu lấy ra hai khay đồ ăn nóng. Doãn nói đúng, đã mấy tháng liền Đan không thể phung phí những đồng tiết kiệm cuối cùng của mình vào một suất ăn ấm bụng.
Cô cũng không ngần ngại nữa, mở nắp và ăn đến no lòng. Dẫu sao có lẽ hôm nay sẽ là ngày cuối cô còn gặp Doãn. Cô đã làm cậu thất vọng quá nhiều lần rồi.
"Mình xin lỗi", Đan nói, "Mình không giỏi như mình đã mong. Mình đã không thể mở cửa được hồi ức của ông ấy. Giấc ngủ và bóng tối dưới giếng sâu đã niêm phong tất cả mọi thứ. An Dao mãi mãi đã chìm vào màn đêm. Doãn ơi, mình xin lỗi. Mình đã không tìm thấy hình hài cô ấy trong sự hư vô đến tuyệt vọng ấy."
Doãn ăn hết phần mình, bê khay của cả hai đi dọn dẹp và đứng bên cửa sổ nhìn xuống thành phố xù xì chênh chao một lúc lâu. Anh ngăn một giọt nước rơi ra từ mí mắt và, trong phong thái lịch thiệp thường ngày, anh quay lại, cười nhẹ.
"...Có lẽ thế cũng tốt."
Anh ngồi xuống trước Đan, một lần nữa cầm lấy tay cô và áp vào bên má. Nỗi buồn của anh, dù đã kềm chế đến cùng tận, vẫn lan ra và suýt làm Đan nấc lên.
"...Thật kỳ quặc, mình đôi khi nghĩ giữa mình và An Dao tồn tại một chiếc khoá. Nếu mở chiếc khoá ấy ra, bao nhiêu tổn thương cô ấy đã chịu đựng sẽ tràn hết vào trong mình như lũ. Không biết có cái hay của không biết. Ít nhất mình không đau thương và sống hết phần đời hiện tại mà An Dao đã để dành lại cho mình."
Cả hai im lặng ngồi bên cạnh nhau, không nói thêm lời nào nữa, mà ngỡ như ngàn vạn từ ngữ đều đã được cất lên, bí mật ngân nga và bí mật xót thương.
-
...Đan không quay lại giếng, cho đến mãi tháng Năm. Doãn nói, cô đợi anh thêm ít lâu, anh đang tìm cho cô một con sẻ đỏ. Tùng hương thì nguồn gien cấy chưa ổn định, trồng được vài ngày rồi chết, chắc phải ba-bốn năm sau.
Đan gặp anh dưới nhà thêm lần nữa, nhìn anh thốt ra những lời hứa hẹn tỉ mỉ mà thấy vì sao mình lại có thể gặp phải một người ngây ngô như Doãn trong cuộc đời này.
Khi anh đi rồi, cô thầm nghĩ, có lẽ trong ngàn vạn những điều chưa thể nói, đâu đó đã có những tín hiệu về thứ ngôn ngữ mà Quái Thú đã muốn thốt lên.
...Hôm sau, Đan lại đến bên miệng giếng.
Cô gõ ba lần "boong, boong, boong" lên thành giếng chỗ sát rìa những tấm lưới thép tích điện.
Quái Thú chỉ hừ nhẹ, không có vẻ gì chịu tỉnh.
"Cháu đến đọc thơ."
Rồi không đợi Quái Thú nói thêm, cô mở đến trang thơ còn sót lại của John Berger.
Là quyển sách mà người điều dưỡng tặng An Dao năm nào, để cô nguôi ngoai cơn đau đâm vào trong xương tuỷ.
"Tim tôi chào đời trần trụi
Được quấn tã trong lời hát ru
Về sau chỉ riêng tim ấy
Mặc áo bằng thơ
Như tấm áo tơ
Tôi mang trên lưng
Vần thơ đã đọc
Nên hết nửa thế kỷ mòn mỏi tôi sống
Đến khi ta gặp nhau không nói nên lời
Từ chiếc áo vương trên ghế
Tôi học được, đêm nay
Rằng biết mấy năm dài
Thuộc làu trong tâm khảm
Chuyện đã đợi chờ em"
"A...."
Đan nghe tiếng nấc vọng lên từ đáy giếng. Người cô run run.
"Cháu thích bài này. An Dao cũng thích, cô ấy đọc đi lọc lại, cất lên thành lời khi ngồi trên chiếc ghế mây trong phòng nghe nhạc. Hết nửa thế kỷ dài ta sống chỉ để gặp được nhau mà không thốt được nên lời. Khi ấy là không thể nói được thành lời, hay mọi tiếng lòng đều được cất lên? Mọi thứ đều đứng im, hay mọi thứ đều đang tiếp diễn? Ông bảo không còn nhớ hồi ức nào, hay tất cả ký ức của ông đều đã ở đây rồi?"
Đan nhớ đến bao nhiêu là ngày đáng đi về giữa hầm ngục và cư xá với hai bàn tay trắng mà tủi thân khôn cùng. Đời cô chưa có bao giờ tủi thân đến quặn lòng như thế.
"Ông biết không, cháu chẳng muốn nhiều. Hồi ức của ông có thể giúp cháu nuôi một con se sẻ."
"Còn Doãn, cậu bạn ngây ngô khờ khạo đến mức chịu tin cháu tìm được An Dao, sẽ biết được rốt cuộc cậu ấy đã bắt đầu từ đâu."
"Ông tin không nhỉ? Tất cả những gì còn lại của An Dao mà ông gửi lại, giờ đây chính là Doãn."
"Người ta có thể sửa hết mọi khuyết tật di truyền của An Dao. Họ có thể tạo ra cậu ấy khoẻ mạnh và cậu sẽ sống thật lâu. Chỉ nhìn bên ngoài trông cậu thật hoàn hảo, với dáng hình dong dỏng cao, mái tóc rẽ ngôi gọn gàng và vầng trán êm dịu, với ánh mắt sáng bừng và mỗi lần cậu nói, cậu thường chỉ nói những lời thật ưu tú. Nhưng làm sao họ có thể sửa được sự khờ khạo, tính tình nhẹ dạ cả tin, cả sự bồn chồn và xót xa của cậu, hở ông?"
Nói đến đây, Đan rống, lên khóc lớn.
Cứ như hồng thuỷ một lần nữa tuôn chảy và nhận chìm mọi thứ, trong cô.
Quái Thú tỉnh dậy dưới đáy giếng, ngoài người ra khỏi một bãi bờ im vắng mà giấc ngủ đã che chắn suốt nhiều năm.
Chỉ trong lặng thinh tuyệt đối, hồi ức mới có vẹn nguyên.
Khi mặt cỏ còn xanh
đồng còn dế hát
rừng còn rụng lá
én nhạn còn tổ
biển chưa nổi sóng.
An Dao. Một ngày kia em rời bỏ.
Từ đó đến nay, vật đổi sao dời.
Chỉ còn dấu tích của em, vùi trong đất lạnh, thành một hạt mầm kiên cường nảy chồi vươn lá dưới đất trời vần vũ đổi thay.
Đan lờ mờ thấy mình được ai đó ôm lấy, đưa ra khỏi căn hầm. Tiếng động cơ còn rì rầm hoà vào tiếng mưa gió. Dường như cô đang ở trong một chiếc ô tô.
Đan mệt quá, cô không thể nào nghĩ gì thêm được nữa. Cố gắng truy hồi ký ức về nỗi đau của một người rút cạn sức lực của Đan mất rồi.
Doãn đến nhà mà không thấy, biết cô đã đến đây. Anh đưa Đan ra ngoài lúc nào không hay biết. Anh lấy áo khoác của mình che cho cô đỡ gió mưa rồi đưa cô vào trong xe. Anh mở máy sưởi cho tay chân cô ấm lại. Anh cầm lấy tay cô thật lâu, lặng lẽ nhìn cô ngủ say.
- tạm hết -
Lời người viết:
Doãn và Đan sẽ còn tiếp tục hành trình của họ trong tiểu thuyết "Thuyết Khuây Khoả" mà Như đang xây dựng.
Phiên bản bốn ngàn chữ của truyện đã được đăng tại HIVE stories trong khuôn khổ cuộc thi truyện ngắn "Nuôi".
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip