MỘT ĐỜI CHINH CHIẾN (part 1 - haley774)

LỜI GIỚI THIỆU

Trong và sau cuộc chống Mỹ cứu nước có 3 vị tướng đều xuất thân từ Trung đoàn 397 (Bà Rịa) thời kháng chiến chống Pháp. Nếu kể thêm những người từng một thời gắn bó với mành đất địa đầu vùng duyên hải Nam Bộ này không thể không nhắc tới 2 vị tướng khác đó là các anh: Nguyễn Hồng Lâm (Nguyễn Văn Bứa) và Hai Nhã (Lương Văn Nho) từ những năm 50 của thế kỷ trước, cả 2 đều là Tỉnh đội phó tỉnh Bà Rịa-Chợ Lớn. Anh Hai Bứa phụ trách luôn Tiểu đoàn 300 của tỉnh. Anh Hai Nho thì kiêm nhiệm Tham mưu trưởng Tỉnh đội. Một tướng nữa Nguyễn Minh Ninh, trưởng thành từ Tiểu đoàn 445 (Tiểu đoàn bộ đội địa phương Bà Rịa - Long Khánh thời chống Mỹ) coi như cùng thế hệ với Nguyễn Nam Hưng. Nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu tự hào đã có công đóng góp 6 vị tướng vào đội ngũ các tướng lĩnh Việt Nam.

Ba vị tướng xuất thân từ Trung đoàn 397 tôi nói ở trên là: Tám Quang (Đặng Quang Long), Ba Trung (Nguyễn Đệ) và Năm Hưng (Nguyễn Văn Trịnh). Trẻ nhất và lên tướng muộn nhất trong 6 vị tướng của Bà Rịa - Vũng Tàu là Năm Ninh và Năm Hưng. Năm Ninh, Năm Hưng là thế hệ nối tiếp các tướng kia.

Tôi quen biết Đặng Quang Long từ đầu mùa kháng chiến chống Pháp, lúc chúng tôi ở Chi đội 10 Biên Hòa, Chi đội  Huỳnh Văn Nghệ, và ít lâu sau, khoảng giữa năm 1947 chi tôi cùng chuyển chiến trường hoạt động về Chi đội 16 Bà Rịa. Khi mới  thành lập Trung đoàn 397 có lúc Đặng Quang Long, đảm nhiệm quyền Chính ủy Trung đoàn trước khi đồng chí Phan Trọng Bình từ Khu 7 xuống làm Chính ủy. Bấy giờ Nguyễn Đệ đã là Đại đội Trưởng Đại đội Độc lập 3568 hoạt động bám trụ ở  Long Điền và Đất đỏ.

Năm 1949, Đại hội bầu Đảng ủy Trung đoàn. Tôi tham gia với tư cách Đảng ủy viên dự khuyết/Bí thư liên chi Trung đoàn Bộ. Tôi biết Nguyên Văn Trịnh khi chi bộ Văn phòng Trung đoàn giới thiệu Trịnh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Lúc này, Trịnh đang làm thư ký trong tổ  văn thư của Văn phòng Trung đoàn.

Trịnh đang bước vào tuổi thanh niên rất hăm hở cầu tiến. Đi theo kháng chiến từ lúc 13-14 tuổi, Trịnh đang độ trưởng thành. Việc Trịnh đến với Đảng sau hơn 4 năm thừ thách trong quân đội và được kết nạp vào Đảng coi như một tất yếu.

Khác với anh Đặng Quang Long và Nguyễn Đệ là cán bộ ngang xương ngay từ khi vào bộ đội, Trịnh từ thiếu sinh quân lớn dần lên. Trong chống Mỹ, Ba Trung (Nguyễn Đệ) và Năm Hưng (Nguyễn Văn Trịnh) giống nhau ở một điểm: Cả 2 đều là cán bộ chỉ huy quân sự, là người của chiến trận mút mùa. Cả 2 cùng có mặt ở Campuchia suốt 10 năm giúp bạn thoát khỏi họa diệt chủng của Pol Pốt. Đặng Quang Long khác họ ở cái gốc là cán bộ Đảng, cán bộ chính trị trong quân đội.

Cho đến nay, 6 vị tướng của Bà Rịa - Vùng Tàu chì còn 3 người. Các anh Hồng Lâm, Hai Nhã và Ba Trung đã mất. Ba Trung mất ít lâu sau khi từ mặt trận Tây Nam (979) Campuchia về, là Trung tướng Tư lệnh Quân khu 9, từ những năm đầu 90 của thế kỷ trước. Anh mất vì ung thư gan.

Đặng Quang Long nghỉ hưu khi là  Tư lệnh phó Quân khu 7, bỏ Sài Gòn về quê Khánh Hòa, sống ở Nha Trang, nay đã hơn 80 tuổi. Năm Hưng (Nguyễn Văn Trịnh) cũng đã nghỉ hưu sau khi về làm Chỉ huy trưởng đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo (thay Thiếu tướng Năm Ninh sang làm Chủ tịch Ban nhân dân đặc khu, nay cũng nghỉ hưu). Thiếu tướng Năm Hưng đang sống với gia đình vợ con ở thành phố Vũng Tàu.

Đầu năm 2005, tôi được Năm Hưng tin cậy giao cho đọc hơn 200 trang hồi ký viết tay và yêu cầu tôi góp ý.

Bản thảo của Năm Hưng viết khá thoáng đạt, như rút ruột mà ra, không  chút màu mè lảm dáng, lối kể chuyện thật tự nhiên.

Nét đặc sắc của hồi ký giúp người đọc hiểu rõ hơn về một thế hệ tướng Việt Nam như Năm Hưng. Tác giả hồi ký đã không che giấu những nhược điểm của mình trong chỉ huy chiếu đấu, đặc biệt là  trong ứng xử với cấp trên. Nhưng qua đó nhân cách và tính cách riêng hiện lên rõ nét:

Một ông tướng trưởng thành từ chiến sĩ lên, được Đảng và quân đội chăm lo, đào tạo và  bồi dưỡng, ông tướng ấy không chỉ trong sáng về tâm hồn mà còn rất giàu tình cảm, rất keo sơn với đồng bào, đồng đội. Và cùng rất tự biết mình. Trung thực, thẳng thắn, dân chủ và kỷ luật, dám nói những gì cần nói, nói có nơi có chỗ, không e dè, không sợ định kiến, dám chịu trách nhiệm về những ý kiến đề xuất của mình. Nhưng cũng có những trường hợp đã không tự kìm chế được

Tôi thực sự xúc động trước những trang viết về đồng đội của tác giả, nhất là khi nói đến những tổn thất của đơn vị. "Nhất tướng công thành vạn cốt khô". Năm Hưng đã nhắc lại câu nói này. Như một đánh giá đầy tự hào song cũng rất đau xót của cuộc chống Mỹ cứu nước. Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,chiến thắng ấy thật quyết liệt và gian nan không thể nào tả xiết. Những gì Năm Hưng nếm trải chỉ như một giọt nước giữa đại dương mà đã cam go đến thế. Sự nghiệp chiến đấu giải phóng miền Nam lớn lắm. Song, nó phải trả giá không nhỏ. Cái giá ấy không ai được phép quên và không thể nào quên được, cho dù cuộc chiến tranh đang trôi dần về quá khứ sau 30 năm đất nước hòa bình, thống nhất.

Mới đây, tôi rất vui được Năm Hưng cho biết: có sự giúp đỡ của cấp ủy tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia có khả năng tập hồi ký sẽ được in thành sách. Tôi mừng, nó sẽ bổ sung vào kho tàng hồi ký của nhiều tướng lĩnh khác. Giúp cho bạn đọc trẻ tuổi đọc nó sẽ hiểu hơn về cha anh họ.

Với sự hiểu biết về chiến trường về con người trong quân đội ở Bà Rịạ. Tôi hiểu rất rõ về Thiếu tướng Năm Hưng, xin giới thiệu và xin mời độc giả đi cùng với tác giả, để nhớ lại một thời và nghiền ngẫm.

LỜI NGỎ

Tôi đi theo cách mạng lúc mới 14 tuổi, liên tục phục vụ trong quân đội từ tháng 11 - 1946 cho đến ngày nghỉ hưu, vừa tròn 50 năm (1946 - 1996).

Năm mươi năm ấy, tôi và đồng đội, qua các đơn vị, từng nằm gai nếm mật, từng mặt đối mặt với kẻ thù, nhiều phen ranh giới giữa cái sống và cái chết chỉ như đường tơ sợi tóc, thắng lợi hay thất bại phụ thuộc vào quyết định trong khoảnh khắc. Chúng tôi giành nhau cái chết, nhường nhau sự sống, tình thân hơn ruột thịt.

Được Đảng lãnh đạo, đồng đội thương yêu nhau, được nhân dân đùm bọc, chở che, tiếp tế, động viên... cùng với sự nỗ lực, năng động, phấn đấu của bán thân và đơn vị, chúng tôi đã vượt qua tất cả, hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Hằng ngày, hằng giờ trong cuộc chiến tranh dài dằng dặc ấy, tôi đã chứng kiến bao đồng chí, đồng đội ngã xuống. Trước khi trút hơi thở cuối cùng không ít người còn gắng gượng nhắn lại: "Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ". Những tấm gương sảng ngời ấy đã động viên tôi trong suốt cuộc đời chinh chiến. Tất cả những điều đó như một giấc mơ đẹp, oanh liệt và hào hùng hiển hiện giữa cuộc đời.

Nay trở về với cuộc sống bình thường, tôi ghi lại một số nét cuộc đời mình, của các đơn vị mà tôi đã từng gắn bó trong những năm tháng khói lửa chiến trường. Vừa để kỷ niệm, vừa để tri ân với đồng đội, đồng chí, nhất là các đồng chí không còn nữa: vừa là biết ơn Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam đã giáo dục, dìu dắt tôi từ một đứa trẻ nghèo khổ, phải đi ở đợ, trở thành một đảng viên một cán bộ cao cấp trong quân đội; vừa để biết ơn nhân dân đã cưu mang đùm bọc, chở che, tiếp tế cho cách mạng đến ngày toàn thắng.

Sự nghiệp của người lính còn có hình bóng của những người mẹ, người vợ đã âm thầm hy sinh cái riêng của mình âm thầm chịu đựng những gian khổ ác liệt của chiến tranh động viên chồng con hoàn thành nhiệm vụ, xứng đáng là người con của dân tộc Việt Nam. Họ có thể là người lính, người thợ hay chỉ là người phụ nữ bình thường trên đồng ruộng nhưng lại vô cùng vĩ đại.

Sự trưởng thành và hoàn thành nhiệm vụ qua các thời kỳ của tôi có hình bóng của mẹ tôi, có phẩn công lao đóng góp của người vợ thân yêu của tôi. Vợ tôi cũng là một người lính không chỉ chịu đựng gian khổ, ác liệt của chiến tranh mà còn âm thầm hy sinh tình cảm riêng tư, động viên tôi trên tất cả nẻo đường nhiệm vụ.

Tôi sống thật với chính mình, không quanh co, che đậy suy nghĩ của mình về những gi đã trải qua!

Qua tập hồi ký này, tôi xin thể hiện lòng biết ơn Đảng, quân đội, nhân dân và đồng đội, chân thành cám ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã giúp tôi hoàn thành cuốn sách này.

TUỔI THƠ

Tôi sinh năm 1933 (năm Quý Dậu) tại ấp Tân Kiều, làng An Phú Tây, tổng Long Hưng Trung, Trung Quận, Chơ Lớn (nay là xã An Phú Tây, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh) trong một gia đình nghèo, ông nội, rồi cha tôi làm nghề hạ bạc kiếm sống qua ngày. Tôi có một người anh là anh Trình, hơn tôi bốn tuổi. Ông nội tôi giáo dục con cái có nề nếp gia phong, tôn ti trật tự, trên nói dưới phải nghe.

Khi tôi lên hai tuổi thì mẹ mất. Anh em tôi sống mồ côi từ đó. Sau khi mẹ mất, cha tôi đi làm ăn xa, có khi cả tháng mới về. Hai anh em quấn quít nhau sống với ông bà nội, thỉnh thoảng lại được phép dẫn nhau về sống với ông bà ngoại, với dì Năm và cậu Sáu ở làng Phong Đước, huyện Cần Giuộc. Tôi thích về ngoại vì ông bà ngoại dễ hơn ông bà nội.

Sáu tuổi, tôi được đi học ở trường hộ 17, cách nhà 3 cây số, phải qua rạch Lồng Đèn. Sảng sảng, bà nội nấu cơm cho ăn, giỡ theo một mo cơm với cái trứng vịt chiên hoặc con cá khô. Xuống xuồng, bà đưa qua rạch Lồng Đèn, tự đi đường ruộng tới trường. Học đến trưa nghỉ, lật mo cơm ra ăn, uống nước lã, nằm tại bàn học. Chiều học xong về thì gọi bà nội đem xuồng qua rước. Cứ như thế tôi học đến lớp êlêmăngte (lớp 3).

Tôi nhớ, năm 1944, có người của đạo Hòa Hảo đến làng tôi tuyên truyền: “Sau này máu chảy thành sông, xương chất thành núi, lụt cao mười tám mét, ma quỉ cùng đường chó tru cùng ngõ, phải tìm nơi tu hành lánh nạn".

Ông bà nội và gia đình cô Năm tôi cùng xuống một chiếc ghe lớn để đi tu, tôi và anh Ba Trình đi theo, lúc đó cha tôi về bắt lại. Sau này, nghe nói ông bà nội và cô Năm xuống núi Tà Lơn - Thất Sơn (Bảy Núi) gì đó tu hành, đến nay tôi cũng không biết tin.

Cha tôi, sau khi giữ anh em tôi lại, ông cũng bỏ nhà đi luôn. Mãi về sau, tôi nghe loáng thoáng ông đã đi theo cách mạng. Hai anh em tôi còn nhỏ dại ở lại bơ vơ từ đó.

Năm 1945, Đồng minh ném bom Xóm Chiếu (Sài Gòn). Quân Nhật tràn vào làng tôi. Chúng thuê dân đi đào đất đắp công sự giả ở đầu cầu Bình Điền. Tôi và anh tôi cũng đi làm, một ngày được năm cắc. Hết làm công sự thì anh em tôi mò cua, bắt cá bán để sống.

Phong trào thanh niên nổi dậy diễn ra rầm rộ và có sức lôi cuốn lớn. Anh Ba theo phong trào bỏ tôi lại một mình. Tôi tiếp tục mò cua, bắt cá, theo anh Hai Ngọc - con người bác họ - đi đăng kiếm ăn.

Ở Cần Giuộc, những người theo Tây hoặc có nghi vấn theo Tây mà trong mình có các loại vật dụng đủ ba màu xanh - trắng - đỏ (giống màu cờ tam tài của Pháp) thì khó tránh khỏi bị Thanh niên Tiền phong cho 

“mò tôm”

, nghĩa là bắt trói lại, đeo đá, ném xuống sông. Có lần, đang neo xuồng trải đăng, tôi đụng phải 

“thằng chỏng"

(Xác chết trôi)

. vướng vào đăng, tôi không sợ, lấy sào đầy ra cho trôi đi.

Thời gian này, Pháp lập lại tổ chức tề ở làng. Một hôm, bọn Pháp và tề đi càn đến trước nhà tôi, tên hương quản Lễ nói: “Nhà Mười Tân (tên ông nội tôi) không ai ở, để làm chi, đốt!”. Chúng xúm lai đốt trụi nhà tôi.

Tôi còn nhớ, lúc Đồng minh ném bom Xóm Chiếu, có gia đình chú Hùng (người Hoa) tản cư xuống ở nhờ nhà tôi. Nay chú có tiệm nước ở ngã ba Rạch Cát, hộ 17. Tôi lần mò lên tìm chú, được chú nhận vào làm phổ ky (bưng bê) và trả mỗi tháng 15 đồng. Tôi bắt đầu cuộc đời ở đợ từ đây.

Đầu năm 1946, vừa sảng, mờ cửa tiệm tôi đã thấy cô Ba Gắt (con cô Năm, vai em tôi, đã có chồng, đang ở gần nhà máy Kiến Quang) đứng trước cửa vừa khóc vừa nói:

-   Anh Năm ơi ! (cô gọi tôi theo thứ), anh Ba chết rồi.

-   Tại sao chết? Tôi sửng sốt.

-   Tây nó chôn sống ở cầu Bà Tàng.

Tôi lặng người, không khóc:

-   Thôi, cô về đi.

Từ đó, tôi buồn vô tận nhưng không nói với ai. Ông bà đi tu, cha đi không thấy về, nay anh lại bị Tây chôn sống.

Tôi làm phổ ky ở tiệm chú Hùng, hàng ngày có nhiều khách ra vào ăn uống. Trong ngày, vắng khách nhất là từ 12 giờ đến 14 giờ. Giờ này, thường có một số khách tìm vào chỗ bàn vắng ngồi, mặt ngó ra phía cửa. Tôi bưng cà phê, hù tiếu từ phía sau lưng họ đi tới nên có khi tỏi dụng phải cán súng ngắn của họ đeo ở nách. Tôi chú ý, biết họ là người đánh Tây.

Một hôm, nhân lúc vắng người, tôi bưng trà đến và nói:

-   Các anh cho em theo với !

Các anh nhìn tôi lom lom, một anh thốt lên:

-   Thằng này là em Ba Trình mới bị Tây chôn sống ở cầu Bà Tàng.

Thì ra anh Ba tôi đã hoạt động chung với các anh. Các anh rất thông cảm và đồng ý cho tôi theo. Một anh nói:

- Em theo các anh chạy Tây không nổi đâu. Để anh đưa em lên chiến khu, đồng ý không?

Tôi mừng quá nhận lời ngay. Nhân lúc vắng người, các anh hỏi và ghi tên cha mẹ, hoàn cảnh của tôi rồi hẹn ba ngày nữa sẽ đến đón.

Ba ngày chờ đợi, lòng tôi ngổn ngang, vui buồn lẫn lộn. Tôi chưa biết chiến khu là gì, nghe hai tiếng “chiến khu” thấy lạ và bí hiểm làm sao. Tính tò mò làm tôi chỉ mong mau tới ngày lên đường, nhưng cũng buồn vì phải xa mộ mẹ tôi. Đối với tôi, đó là điều thiêng liêng nhất. Dù mẹ mất sớm, anh em chúng tôi vẫn cảm nhận được tình thương của mẹ. Mẹ mất lúc tôi hai tuổi mà đến sáu tuổi tôi vẫn được mặc quần áo vải xá, xị trắng do mẹ tôi may để lại.

Để giã từ mẹ và xin phép mẹ ra chiến khu, tôi làm hai con vịt luộc để vào một cái mâm, rồi đội ra mộ mẹ.

Nỗi đau xưa vỡ òa cùng niềm lưu luyến của người con sắp đi xa. 

“Mẹ ơi ! Sao mẹ sớm bỏ con đi. Con cô đơn quá. Nay mẹ phù hộ cho con đi vào chiến khu mạnh giỏi nghe mẹ !

.

Về lại tiệm nước, tôi báo với chú Hùng vài ngày nữa tôi đi, không nói là đi đâu. Chú Hùng đối với tôi là quan hệ chủ tớ, song chú cũng rất mến tôi, không muốn tôi đi.

-   Mày đi, tía mày về hỏi, tao biết trả lời ra sao?

-   Tía tôi có về hỏi, chú cứ nói tôi đi rồi.

Lần đầu tiên, tôi quyết định khúc quanh cho cuộc đời mình. May thay, đó lại là một quyết định đúng.

Vào một ngày đầu tháng 11 năm 1946, đúng hẹn, trời vừa sụp tối có hai anh đến tiệm nước dẫn tôi di. Trong đêm đó, vượt đường 4 (quốc lộ 1 bây giờ), rồi qua Chợ Đệm, lên Láng Le - Bàu Cò, đến sáng tới kênh Lý Văn Mạnh (Vườn Thơm) thì nghỉ. Từ nhỏ, chưa lần nào đi xa, đi suốt một đêm, sảng ra tôi mệt rã rời và lăn ra ngủ li bì đến trưa mới dậy. Chiều, các anh lại tiếp tục đưa tôi vượt sông Vàm cỏ Đông, qua Thạnh Lợi, lên Bình Hòa Nam, đưa vào Chi đội 25. Sau này, tôi biết các anh thuộc ban tiếp liệu của Chi đội.

Tôi được biên chế vào Ban tình báo của Chi đội do anh Mười Be làm Trưởng ban, anh Tư Lân - Phó ban. về Ban tình báo, tôi không ngỡ ngàng lắm, vì có nhiều bạn nhỏ cùng trang lứa với tôi, như các anh Trường Sa, Chín Thẹo, Xe, Tiểu...

Đây là mốc đầu tiên trong đời quân ngũ của tôi.

THEO KHÁNG CHIẾN Ở CHI ĐỘI 25

Ở Ban tình báo Chi đội 25, tôi được các anh dạy cách quan sát, ghi nhớ, canh gác, tuần tra vòng ngoài vùng đóng quân, cách đi tiền trạm chọn chỗ đóng quân cho Chi đội.

Chi đội 25 có hai đại đội. Đại đội 2 do anh Ngọc chỉ huy và Đại đội 4 do anh Ở - Đại đội trưởng chỉ huy. Chi đội có Ban tình báo, Ban quân khu, Ban tiếp liệu thành và Văn phòng Chi đội. Theo tôi biết, Chi đội trưởng là ông Tư Tỵ, Chi đội phó là ông Bảy Quới và Chính trị viên là ông Tươi.

Cuối tháng 11 năm 1946, Chi đội đang đóng quân ở làng Bình Hòa Bắc. Sáng sớm, Ban tình báo chúng tôi chia làm nhiều tổ, đi nhiều hướng để đề phòng Tây càn. 7 giờ, tôi thấy có máy bay chuồn chuồn lên quần đảo từ Bình Hòa ra hướng Hội đồng sầm, rồi máy bay 

“cồng cộc”

 lên ném bom quanh vùng. Tôi chạy về thì đơn vị đã ra chiếm lĩnh các ngả đường có trâm bầu. Tiếp sau, một tốp máy bay đakôta thả xuống từng dãy cục tròn, treo lủng lẳng và rơi dần xuống. Tôi không biết là gì, cứ đứng núp trong bụi trâm bầu mà ngó. Anh Mười Be chạy lại kéo tôi núp xuống bờ. 

“Nó nhảy dù đó!”

 -  anh nói.

Xuống tới đất là chúng hành quân vào làng ngay, cả hai đại đội chúng tôi nổ súng đánh suốt buổi. Tôi cũng lăn, lê hết chồ này đến chỗ khác theo hướng dẫn của anh Mười Be. Đến tối, giặc rút đi đâu tôi cũng không biết.

Trong ban có anh Tiểu, anh Chín cũng trạc tuổi tôi, nhưng các anh lanh lắm. Tối, các anh rủ tôi bò ra chỗ địch nhảy dù, thấy vô số dù rằn ri và dây. Chúng tôi chạy về báo cho đơn vị ra lấy dù. Anh Tiểu nhặt được cả một cây Tômsơn rời hai khúc. Anh lắp lại thành một cây súng hoàn chỉnh.

Liên tiếp mấy ngày sau đơn vị cơ động đánh thêm mấy trận rồi trở về Bình Hòa Nam đóng quân. Lần đầu nếm mùi súng đạn, tôi sợ lắm nhưng thấy anh em làm được mình cũng dạn ra. Được các anh lớn thương yêu và an ủi động viên, tôi càng thêm ấm lòng.

Sau trận này, tôi được trang bị một quả lựu đạn OF và một con dao găm. Tôi coi hai món vũ khí này như lá bùa hộ mệnh, dạn dĩ hắn lên, đi đâu cũng không sợ.

Năm 1947, các lực lượng miền Đông Nam Bộ thành lập các liên quân để hoạt động lưu động. Chi đội 25 được chia làm hai. Đại đội 4 vào liên quân C hoạt động ở vùng Đông Thành. Đại đội 2 xuống khu 8 liên quân với Chi đội 14 hoạt động tại địa bàn Long An và Mỹ Tho bây giờ.

Đại đội 2 xuống Khu 8, thường đóng quân ở Lương Hòa Lạc, Tà Yến, Kiến Văng, Long Trì. Tôi ở bộ phận tình báo thuộc Đại đội 2, do còn nhỏ nên thường đi trinh sát công khai để nắm tình hình khi có dấu hiệu Pháp đi càn, phục vụ cho đơn vị đánh nhiều trận như Long Trì, Tà Yến.

Một lần, tôi đi nghiên cứu đồn Tà Yến với chị Chín Sớm, tình báo của Chi đội 14, di chuyển bằng xuồng, tôi bơi mũi, chị bơi lái. Chị Chín khá xinh xắn nên khi đi ngang đồn, bọn lính gọi vào giữ rất lâu để chọc ghẹo. Lợi dụng lúc bọn lính đùa cợt với chị, tôi lên đồn chơi, quan sát và ghi nhớ trong lòng. Khi về, vẽ lại sơ đồ của đồn Tà Yến phục vụ cho đơn vị diệt đồn. Ta đã tiêu diệt đồn Tà Yến và thu được 30 súng.

Qua đợt liên quân với Chi đội 14, tôi dần quen với công tác trinh sát, tình báo, quen với tiếng súng và lanh lợi dần trong việc đi tiền trạm chọn chỗ và phân công nhà dân tin cậy cho đơn vị đóng quân. Lúc bấy giờ tôi không biết sợ là gì nữa. Có lúc, tôi và anh Chín (hơn tôi hai tuổi) đi tiền trạm, hai anh em chỉ có trong tay hai quả lựu đạn, hai dao găm mà dám bơi xuồng ba lá suốt đêm theo kênh Bo Bo từ Tà Yến về Hội đồng Sầm, Bình Hòa Bắc để chuẩn bị chỗ cho đơn vị đêm sau hành quân về. Hai chúng tôi còn nhỏ, 14 và 16 tuổi đã là lính Vệ quốc đoàn, đi tới dâu củng được nhân dân thương yêu, nhất là các mẹ, các chị nên chúng tôi dễ dàng mượn được nhà cho bộ đội đóng quân.

Thời bấy giờ, Đồng Tháp Mười còn âm u lắm. Đúng như câu vè dân gian truyền miệng: 

“Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh”

. Chúng tôi ngồi trên xuồng, be xuồng gần mặt nước, đỉa nghe hơi người bò theo be xuồng lên bám vào chân, vào đùi cắn no nê mà không biết. Tôi đã quen với cuộc sống vất vả lúc ở nhà nên đỉa, muỗi không làm tôi sợ và nản lòng.

Đầu năm 1948, Đại đội 2 trở về với đội hình Chi đội 25 hoạt động trên khu vực Vườn Thơm, Lý Văn Mạnh... ra Bàu Cò, Láng Le. Về đây, Ban tình báo của tôi có thêm nhiều bạn mới. Anh Cớt (Hà), Mía, chị Sặt, chị Hồng Ân mới vào, làm cho ban thêm đông vui.

Hàng ngày, tôi và các bạn được phân công ra Bàu Cò - Láng Le, cầu Xáng nắm tình hình. Một hôm, chúng tôi vừa ra khỏi đơn vị về hướng cầu Xáng hơn hai cây số thì anh Chín phát hiện Tây từ cầu Xáng đổ vào. Hai anh em chạy thục mạng về, ngang qua trung đội anh Mộng, tôi hô: “Tây vô, ra phục kích!’’. Anh em đơn vị nghe chúng tôi báo đều lao ra phục kích theo kế hoạch chống càn đã chuẩn bị sẵn.

Hôm dó, địch kéo vào theo cả hai hướng: Cầu Xáng và Bàu Cò - Láng Le. Đơn vị quần nhau với địch suốt ngày. Tôi cũng suốt ngày lăn, lê, bò từ mương này qua mương khác thông báo, truyền đạt lệnh của đại đội. Đến chiều, Tây rút ra Cầu Xáng và đường số 4 (quốc lộ 1 bây giờ). Đêm đến chúng tôi mới thu dọn chiến trường. Ban tình báo của tôi có chị Sặt hy sinh (chị làm văn thư của ban). Chị Sặt hy sinh rất dũng cảm, lúc bọn Tây đánh vào, anh em đều tiến lên phía trước, để chị ở phía sau vì chị là phụ nữ nhưng chị quyết bám theo. Chúng tôi đem chị về mà lòng xót xa vô hạn.

Tháng 3 năm 1948, toàn Chi đội được lệnh hành quân về chiến khu Rừng Sác (huyện Cần Giờ bây giờ). Chỉ trong một đêm, từ kênh Lý Văn Mạnh, toàn đơn vị đã hành quân ra Bàu Cò - Láng Le, vượt đường 4 (quốc lộ 1 bây giờ), qua làng An Phú Tây (huyện Bình Chánh ngày nay), đến rạch Lồng Đèn, đi ghe theo sông Cần Giuộc, xuống cầu Xóm Rượu huyện Cần Giuộc thì đơn vị tạm dừng chân để đêm sau vượt sông Soài Rạp vào chiến khu Rừng Sác.

Trong khi dừng lại ở rạch Lồng Đèn chờ xuống ghe đi tiếp, lòng tôi nôn nao khó tả, vui buồn lẫn lộn cùng với niềm tự hào. An Phú Tây, rạch Lồng Đèn là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, nơi mộ mẹ tôi còn nằm đây, nơi tôi đã sống bơ vơ những tháng năm mồ côi mẹ, đi mò cua, bắt ốc... Đồng bào xung quanh, trong đó có gia đinh bác Năm Hoài, anh Hai Ngọc (bà con với tôi), thấy bộ đội về cũng kéo ra thăm, gặp tôi ai cũng mừng rỡ, cũng ào lại xem 

"Thằng Trịnh bao lớn rồi”

.

Trước đây, tôi là một đứa trẻ mồ côi. Nay, mọi người đến thăm, ai cũng thương mến, ai cùng cho tiền, quà.

Lúc đến chỗ ở mới, tôi kiểm lại được cả mấy trăm đồng. Số tiền đó lúc bấy giờ lớn lắm, tôi hiểu đó cũng là tấm lòng của bà con quê hương chòm xóm dành cho mình.

Trong đêm ấy, có anh Tư - con chú Bảy Sung nhà ở đầu rạch Lồng Đèn - rủ tôi trốn lại thăm nhà ngày hôm sau mới đi nhưng tôi kiên quyết không ở lại. Anh Tư đã ở lại và từ đó anh không trở về đơn vị nữa.

Đêm thứ hai, toàn đơn vị vượt sông Soài Rạp về đóng quân ở Tắc Cá Bạc trong chiến khu Rừng Sác.

Rừng Sác, tôi đã biết từ khi bảy, tám tuổi khi theo ông nội và cha làm nghề hạ bạc. Toàn bộ vùng này là sình lầy, ngập mặn quanh năm, sông rạch chằng chịt. Diện tích rộng cả ngàn cây số vuông chỉ toàn rừng đước, mắm, chà là, bần... ngập chìm dưới nước mặn, thỉnh thoảng mới có gò nồi trên mặt nước.

Đơn vị xuống đây, lợi dụng những chỗ gò nổi ấy để làm nhà sàn ờ. Nhà sàn thì lấy cây chà là làm sàn, lợp bằng lá dừa nước. Cơ cực nhất là nước ngọt, phải đi chở từ Bà Bông, Long Thành về. Lấy nước phải qua sông Lòng Tàu rất nguy hiểm vì thường xuyên có tàu Tây chạy, gặp xuồng là chúng bắn chìm. 

Ở chiến khu Rừng Sác, dần dà tôi biết được thêm các chi đội của liên chi Bình Xuyên, những Chi đội 2 -3 của ông Năm Hà, Chi đội 4 của ông Mười Trí, Chi đội 21 của ông Tư Hoạnh, Chi đội 9 của Bảy Viễn, Chi đội 7 của ông Bảy Vĩnh và Chi đội 25 mà tôi đang ở - vẫn ông Tư Tỵ là Chi đội trường, tất cả đều tụ tập ở đây.

Tháng 5 năm 1948, xảy ra cuộc thanh trừng trong lực lượng Bình Xuyên. Việc này sách báo đã nói nhiều. Lúc ấy, tôi còn nhỏ và cũng không biết sâu lắm về chính trị. Chỉ nghe nói phải thanh trừng vì có bọn phản động chui vào lũng đoạn các chi đội, thậm chí còn mưu toan kéo một số chi đội về thành, trong đó có Chi đội 9 của Bảy Viễn (Lê Văn Viễn).

Sau cuộc thanh trừng, đơn vị tôi hành quân vượt sông Lòng Tàu về Long Thành, đóng quân ở Bà Bông. Tại đây, đơn vị hoạt động bình thường. Tôi tiếp tục làm tình báo, cùng các anh đi nghiên cứu đồn Phú Hội, đưa cả hai đại đội 2 và 4 cùng đi đánh đồn. Trận đánh diễn ra quyết liệt đến sáng vẫn không diệt được đồn, ta phải rút về Sở Ngựa Bà Bông. Trận đánh đêm ấy, ta hy sinh bảy người, trong đó có anh Thi (chồng chị Sặt, hy sinh ở Vườn Thơm). Cả gia đình anh khi vào đơn vị có hai vợ chồng và đứa em, giờ chỉ còn đứa em tên Mía. Đến nay Mía vẫn còn sống ở thành phố Hồ Chí Minh.

Thời gian hai năm ở Chi đội 25 tuy ngắn ngủi nhưng đã rèn cho tôi sự rắn rỏi, tôi quen với hiểm nguy chiến trận, nhận thức rõ ràng hơn về danh dự Vệ quốc đoàn, với mục đích đánh Tây cứu nước. Được các anh lớn như Phương Tùng, Thiết Sơn, Mười Be thương yêu và ân cần chỉ bảo, có thêm những người anh, người chị, những người bạn rất thân thiết khác, cuộc đời đơn côi của tôi đã ấm áp dần lên. Với tôi, bạn bè chính là anh em và đơn vị chính là nhà, ngôi nhà đầm ấm tràn đầy tình cảm cách mạng.

Cuối năm 1948, Chi đội 25 lại chia làm hai. Đại đội 4 và một nửa cơ quan trực thuộc hành quân về Thủ Biên. Đại đội 2 và một nửa cơ quan trực thuộc còn lại hành quân về Bà Rịa, tăng cường lực lượng để thành lập Trung đoàn 397. Tôi theo đơn vị hành quân về Bà Rịa.

VỀ TRUNG ĐOÀN 397

Những năm 1949 - 1950, tôi được biên chế làm thư ký đánh máy cho văn phòng Trung đoàn 397.

Tôi trưởng thành hơn về nhận thức, tư tưởng, bước đầu hiểu thế nào là quan điểm lập trường, biết về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vốn liếng chính trị cơ bản dần được trang bị, tôi cảm thấy mình lớn lên thật sự dù vẫn đang tuổi thiếu niên.

Những năm ấy, phong trào chiến tranh du kích ở Nam Bộ nói chung, Bà Rịa nói riêng đã có thế và lực mới. Lực lượng vũ trang đã hình thành ba thứ quân, có chủ lực, có các đại đội độc lập và du kích tập trung, du kích xã làm nòng cốt cho chiến tranh nhân dân địa phương.

Ở Bà Rịa, các căn cứ địa được mở rộng. Căn cứ Xuyên Mộc - Phước Bửu trải rộng tới Hồ Tràm, Lộc An giáp biển, là căn cứ của Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính kháng chiến tỉnh và Trung đoàn 397. Ở ngã tư trong rừng Phước Bửu dân cư đông đúc, mua bán sầm uất. Thời bấy giờ dân kháng chiến thường gọi khu vực này là 

“Sài Gòn mới”

.

Ngoài căn cứ Xuyên Mộc - Phước Bửu, còn có càn cứ Cơ Trạch tiếp giáp với Xuân Lộc, các căn cứ này nối liền nhau và được gọi là chiến khu Xuyên - Phước - Cơ. Ở phía tây lộ số 2 có căn cứ Hắc Dịch, Phú Mỹ (thuộc địa bàn huyện Tân Thành ngày nay) gọi tắt là Khu Tây.

Trong vùng căn cứ có tổ chức sản xuất, mua bán sôi nổi. Tại căn cứ Khu Tây, bộ đội phát rừng làm rẫy, trồng lúa, mì, bắp, khoai lang, bí đỏ... đế giải quyết nạn thiếu lương thực.

Lúc này, tôi làm việc dưới quyền anh Châu Quang Kiều, Chánh văn phòng Trung đoàn, cùng tổ văn thư với các anh Khôi, Giác... Bộ phận nhân sự có anh Rằng – Trưởng ban, các anh đều là đảng viên cộng sản. Tôi là người nhỏ tuổi nhất trong cơ quan, được các anh thương yêu, dạy bảo, dìu đắt đến nơi đến chốn về mọi mặt.. Do trình độ văn hóa còn kém, trước kia chỉ được học tới lớp 3 nên các anh khuyến khích tôi đi học thêm bổ túc văn hóa, vừa học vừa làm, ngày làm, đêm học.

Được đi học, lại có máu nóng của tuổi trẻ vốn ham hiểu biết, gặp sách gì tôi cũng đọc, hấp dẫn nhất là sách chính trị, sách viết về Đảng Cộng sản. Thời gian này, tôi đã ngấu nghiến đọc 

"Tư bản luận”

 của Các Mác, tuy hiểu không sâu nhưng tôi vẫn say mê đọc đi đọc lại nhiều lần; dễ nhớ và dễ hiểu là quyển 

“Sửa đổi lối làm việc’’

 của Hồ Chủ tịch, quyển 

“Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi”

 của đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Đảng.

Đang lúc khát khao về một cuộc sống tốt đẹp sẽ đến, tôi ham đọc, ham học và cũng rất ham làm. Tôi nghĩ, làm cũng là một cách học, có làm mới mở mang đầu óc, kiến thức được mở rộng, nắm vấn đề mới chắc và sâu hơn.

Do làm việc có hiệu quả, các 

"anh lớn”

 càng chăm chút bồi dưỡng chính trị cho tôi. Trong các cuộc học tập về Đảng do Liên chi cơ quan Trung đoàn tổ chức (anh Hoàng Kim Chung là Bí thư Liên chi), anh Kiều đề nghị cho tôi đi học. Được đi học, tôi học rất chăm chú, ngày càng tỏ ra tiến bộ, sau này tôi mới biết các anh quyết tâm giáo dục, bồi dưỡng tư tưởng, củng cố lập trường quan điểm cho tôi để kết nạp tôi vào Đảng.

Ngày 19 tháng 12 năm 1949, hai anh Châu Quang Kiều Bí thư chi bộ - Chánh văn phòng Trung đoàn và anh Võ Văn Rằng, Chi ủy viên - Trưởng ban nhân sự Trung đoàn đứng ra giới thiệu tôi vào Đảng.

Lễ kết nạp được tổ chức trong rừng Láng Sim, Phước Bửu anh Hoàng Kim Chung 

(Anh Hoàng Kim Chung, khi tập kết ra Bắc, anh về công tác ở Tổng Cục chính trị. Năm 1958. anh được phong quân hàm Đại úy. sau anh trở thành nhà văn, nhà báo quân đội. Hiện nay, anh đang nghỉ hưu, là cán bộ cách mạng lão thành 60 năm tuổi Đảng (hiện ngụ tại 206 Đồng Khởi – Trảng Dài - Biên Hòa. Bút danh là nhà văn Anh Hoàng – Đồng Nai))

 - Bí thư Liên chi cơ quan - đứng ra kết nạp tôi vào đội ngũ của Đàng. Ngày 5 tháng 5 năm 1950, tôi trở thành đảng viên chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vào Đảng là một vinh dự lớn cho tôi. Cuộc đời bơ vơ thời niên thiếu của tôi đã chấm dứt, không chỉ trở thành Vệ quốc đoàn mà còn được tổ chức đánh giá và thừa nhận là chiến sĩ tiên phong, là người của Đảng. Từ đây, cuộc đời tôi bước sang trang mới, với trách nhiệm của người đảng viên đối với đất nước, với nhân dân. 

(Năm 1949, vì muốn sớm vào Đảng tôi đã khai thêm cho mình 2 tuổi thành ra sinh năm 1931. Còn chính xác tôi sinh năm 1933. Năm 1955, trong đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất có yêu cầu xác định tuổi Đảng lại, tổ chức đã xem xét vả chấp nhận tuổi Đảng của tôi, vì động cơ vào Đảng tốt)

Tôi tiếp tục làm thư ký văn thư - đánh máy cho văn phòng Trung đoàn đến hết năm 1951. Thời kỳ này anh Trần Thắng Minh về làm Trung đoàn trưởng. Cơ quan vẫn ở Láng Sim, Phước Bửu, cặp theo sông Hỏa ngày nay.

Năm Nhâm Thìn (1952), năm xảy ra trận bão lụt khủng khiếp ở Nam Bộ, lương thực bị mất trắng, bộ đội bị đói và ốm đau nhiều, địch lợi dụng thời cơ này tăng cường đánh phá, mở rộng lấn chiếm. Các cơ quan Trung đoàn phải giảm bớt quân số. Những bệnh binh nặng được đưa về thành để hợp pháp chữa bệnh. Số thiếu sinh quân được các cơ quan tập trung lại thành lớp học, vừa học văn hóa, vừa học quân sự, chính trị. Tôi được Trung đoàn phân công phụ trách lớp thiếu sinh quân, chuyển lên xây dựng căn cứ ở Sông Sót, Xuyên Mộc, vừa xây dựng chỗ ăn ở, vừa sản xuất tự túc, chuẩn bị cơ sở học tập. Ngoài tôi là phụ trách chung, Ban quân nhu tài chánh (hậu cần) Trung đoàn còn cử một cán bộ là ông Năm Tâm trên 40 tuổi, về làm quản lý, lo chỉ đạo sản xuất tự túc.

Đây là thời kỳ thử thách của tôi. Sau trận lụt năm 1952, mùa màng bị mất trắng, không có gạo đã đành, đến bắp, củ mì cũng thiếu. Trong tay lại nắm một đơn vị trên 40 người, tuổi từ 15 đến 18 đang sức ăn, sức lớn. Cả đơn vị chỉ có tôi là đảng viên, lúc ấy mới 19 tuổi. Làm sao cho đơn vị có cái ăn, có chỗ ở, tổ chức học hành thế nào để ổn định tư tường và giữ vững tinh thần anh em?

Ông Năm Tâm chịu trách nhiệm xin đất, mượn dụng cụ như dao, cuốc và chạy lo củ mì, muối, bắp để ăn tạm hàng ngày. Tôi lo tổ chức sản xuất xen kẽ với làm nhà, tổ chức sinh hoạt, học văn hóa. May thay, nhờ giúp đỡ, đùm bọc của các mẹ, các chị, của đồng bào Xuyên Mộc, cuối cùng đơn vị cũng vượt qua tất cả. Sản xuất bắp, mì, lúa, đủ ăn, rau thì nhiều, cá bắt dưới sông Sót, lán trại đủ để ở. Cuối năm 1952, đơn vị thiếu sinh quân đã đi vào ổn định học tập.

Lần đầu tiên làm nhiệm vụ lãnh đạo, tôi đã gây được lòng tin đối với Trung đoàn. Tôi tự tin hơn, vững vàng hơn, tôi

“già”

 đi nhiều trước tuổi. Dù bận rộn tôi vẫn giữ thói quen đọc sách. Tôi đọc nhiều sách nói về Cách mạng Tháng Mười, về Chiến tranh thế giới thứ hai, về vai trò và những chiến công của Hồng quân Liên Xô. Những sách này tôi

“mượn”

 của Ban Chính trị Trung đoàn, từ những cán bộ Nam tiến đem vào, tặng lại Trung đoàn. Tôi sùng bái tướng Giucốp và càng sùng bái Đại nguyên soái Xtalin. Cuối 1953, Xtalin mất, tôi đã khóc.

Cùng khoảng thời gian này, có một đoàn cán bộ cao cấp của miền Nam ra Bắc học tập gồm các anh Đồng Văn Cống. Lê Hiền, Đào Sơn Tây, nhà thơ Bảo Định Giang và nhiều người nữa. Tôi được Ban chỉ huy Tỉnh đội Bà Chợ (

gồm Trung đoàn 397, Tỉnh đội dân quân Bà Rịa sáp nhập lại. Cộng thêm các huyện Nhà Bè, Cần Đước, Cần Giuộc, Nam Chợ Lớn

) chọn đi phục vụ và bảo vệ đoàn vượt Trường Sơn ra Bắc.

Cuối năm 1953, đoàn vẫn đang ở vùng giải phóng Liên khu 5 (đoạn từ Phú Yên ra Quảng Ngãi). Tháng 7 nàm 1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết.

Từ đây, cả đoàn được tàu của Ba Lan đưa từ Quy Nhơn ra Bắc.

Tôi hoàn toàn không hề biết gì cảnh tập kết của lực lượng miền Nam ra Bắc. Nhưng biết rằng ở miền Đông Nam Bộ, Phước Bửu là địa điểm duy nhất tập kết quân và rút quân sớm nhất so với các điểm Cao Lãnh và Chắc Băng ở Khu 8 và Khu 9 (miền Trung và Tây Nam Bộ) .

Các đơn vị miền Nam tập kết ra Bắc được chia thành hai Sư đoàn 330 và 338. Tôi được đưa trở về Sư đoàn 330 (gồm các đơn vị miền Đông Nam Bộ là chủ yếu) và được phân công làm trợ lý quân lực sư đoàn.

***

Nhìn lại chặng đường kháng chiến chống Pháp, từ một đứa trẻ mồ côi, tự quyết định đời mình bằng việc đi theo bộ đội, từ đơn vị này sang đơn vị khác, từ đồng bằng lên rừng núi, từ miền Nam ra miền Bắc, tôi đã hoàn toàn trở thành một con người mới.

Tôi vào quân đội lúc còn rất trẻ, mới 14 tuổi. Lúc bấy giờ, phong trào kháng chiến đang sôi nổi, tôi chỉ chạy theo phong trào, chưa biết giác ngộ cách mạng là gì. Qua một thời gian dài được Đảng, được quân đội rèn luyện, giáo dục, được các “anh lớn", lớp người đi trước chăm lo, dìu dắt, tôi mới phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù, mới có lòng yêu nước, biết yêu giai cấp nghèo khổ, càng căm thù thực dân Pháp xâm lược đã làm mình tan nhà, nát cửa, đã đẩy cả dân tộc mình đến cái thế chẳng đặng đừng buộc phải cầm súng chống lại chúng. Tôi đã nhận thức được phải kháng chiến trường kỳ, từ yếu ta sẽ mạnh dần lên nhờ có chiến tranh nhân dân, nhờ dựa vào nhân dân. Cuộc kháng chiến nhất định thắng lợi, tôi đinh ninh như thế.

Phần thưởng cao nhất trong thời kỳ đánh Pháp đối với tôi là được kết nạp chính thức vào Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc ấy mang tên Đảng Lao động Việt Nam) lúc mới 17 tuổi. Thử thách lớn nhất đối với tôi là khi được giao nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy Trường Thiếu sinh quân Trung đoàn 397, trong hoàn cảnh đầy rẫy khó khăn, gian khổ  khi mới 19 tuổi. Và tôi rất tự hào đã không phụ lòng tin cậy của cấp trên.

Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhận thức về Đảng, về chủ nghĩa xã hội, về đấu tranh giai cấp, về hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội đồng thời đầy mạnh đấu tranh giải phóng miền Nam... trong tôi đã có một tầm nhìn mới, nhất là sau các cuộc chỉnh huấn về quân đội nhân dân về cải cách ruộng đất trên miền Bắc.

NHỮNG THÁNG NĂM SỐNG TRONG LÒNG MlỀN BẮC

Với tinh thần lạc quan của một thanh niên tràn đầy sức sống, tư tưởng lại không vướng bận gì, tôi lao vào công tác, học tập và lao động.

Trong đợt chỉnh huấn cải cách ruộng đất, khi kiểm điểm cá nhân tôi đã xác định lại tuổi đời, tuổi quân và tuổi Đảng của mình. Tôi có cái sai là đã khai tăng tuổi khi vào quân đội và cả khi vảo Đảng. Tôi khai là sinh năm 1931, tăng hai tuổi để đủ tuổi vào quân đội và vào Đảng. Lúc bấy giờ tổ chức xét động cơ của tôi là tích cực, từ khi vào Đảng đến nay tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ nên kết luận: Chỉnh lại tuổi đời, chính thức sinh năm 1933, tuổi Đảng giữ nguyên nhưng tuổi quân (từ 16 tuổi trở lên mới được tính) cắt hai năm theo quy định của Bộ Quốc phòng

Năm 1995, trong lúc chờ nghỉ hưu, một lần nữa tôi đề nghị Bộ Quốc phòng xem xét lại vụ cắt hai năm thâm niên và được Bộ Quốc phòng đồng ý – Tuổi quân khi về hưu của tôi vẫn được tính đủ 50 năm phục vụ trong quân đội.

Từ năm 1956 đến 1958, tôi được Cục cán bộ gửi đi học đại học ở Trường Sĩ quan Lục quân khóa 10, lớp sĩ quan đầu tiên sau hòa bình lập lại. Trong vòng hơn hai năm học, Trường Sĩ quan Lục quân đã rèn luyện cho tôi quan điểm toàn diện về chính trị, quân sự, thể lực, văn hóa. Riêng về quân sự, không chỉ nắm vững chiến, kỹ thuật mà còn được đào tạo về phương pháp công tác, về tác phong chỉ huy binh chủng hợp thành. Trường Sĩ quan Lục quân dã bồi dưỡng cho tôi rất cơ bản về những phẩm chất cần có của người sĩ quan chỉ huy. Sự thành công trong quá trình chỉ huy chiến đấu và chiến thắng trong kháng chiến chống Mỹ sau này của tôi là nhờ cái nền tảng quân sự, chính trị mà Trường Sĩ quan Lục quân đã đào tạo. Tôi luôn ghi nhớ những gì đã học được tại Trường Sĩ quan Lục quân (khóa 10).

Tôi ra trường tháng 6 năm 1958, trong đợt phong quân hàm đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, tôi được Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký quyết định phong hàm thiếu úy. Tôi coi đây là bước ngoặt mới nữa trong cuộc đời của mình.

Nhìn lại những tháng năm sống trong lòng miền Bắc, tôi thấy mình lớn hẳn lên. Tình cảm yêu nước, thương dân ngày càng ngấm sâu vào lòng tôi. Là một quân nhân từ miền Nam ra, sống, lao động và học tập rất lâu trên đất Bắc, tôi nhớ quê hương da diết, nhớ đồng bào, nhớ những nơi tôi đã công tác trong kháng chiến chống Pháp đến cồn cào. Tôi căm thù Mỹ - Diệm nhẫn tâm chia cắt đất nước, càng đau đáu muốn sớm được trở về Nam chiến đấu.

Trong lúc học tại Trường Sĩ quan Lục quân, có một số đồng chí nôn nóng muốn trở về Nam rủ tôi cùng đi, tôi đã can các đồng chí ấy. Là đảng viên, là sĩ quan đang học, việc gì cũng phải có mệnh lệnh, không được tự ý vô nguyên tắc. Nhưng một số vẫn bí mật tổ chức đi, sau bị bắt lại và bị kỷ luật. Với tôi, đó là bài học sâu sắc về tính kỷ luật.

Tốt nghiệp Trường Sĩ quan Lục quân, tôi được thực hành huấn luyện một thời gian ở đơn vị Đại đội 2, Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 3, Sư đoàn 330, được Bộ chỉ huy Sư đoàn đánh giá là một sĩ quan có năng lực.

Cuối tháng 12 năm 1960 (năm Canh Tý) là thời điểm mùa đông miền Bắc lạnh cắt da. Đại đội hai của chúng tôi là đại đội huấn luyện giỏi nhất Sư đoàn, phải hoàn thành khoa mục cuối cùng để ăn tết. Bắn đạn thật đại đội tấn công, trên một thao trường không biết trước. Đơn vị đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: bắn đạn thật thuộc loại giỏi.

Kết thúc khóa huấn luyện, đơn vị hành quân trở về Bái Thượng, Thanh Hóa. Cùng một lúc, tôi nhận hai quyết định: đề bạt từ thiếu úy lên trung úy và điều động về làm Đại đội phó Đại đội 1. Lòng tôi phơi phới với kết quả 1 năm huấn luyện tuyệt đẹp của đơn vị, cũng rất vui với tiến bộ của bản thân. Tôi chuẩn bị sẵn sàng để nhận nhiệm vụ mới.

Nhưng rồi anh Hứa Bá Lộc - Chính ủy Trung đoàn thông báo: 

“Sớm bàn giao công việc ở Đại đội 2. Không nhận nhiệm vụ ở Đại đội 1 nữa. Lên ngay Trung đoàn bộ nhận lệnh mới”.

-   Thưa Thủ trưởng, tôi sẽ nhận nhiệm vụ gì?

-   Cứ lên đây ăn Tết rồi sẽ biết cụ thể.

Tết năm 1961 (năm Tân Sửu), tôi ăn tết ở Trung đoàn bộ Trung đoàn 3. Không vướng bận công việc, bạn bè ờ Đại đội 2 liên tục lên thăm tôi, thăm dò xem sắp tới tôi làm việc gì.

Lúc đó, có anh Nguyễn Tấn Phước cũng mang quân hàm trung úy và là bạn rất thân ở đại đội của tôi. Đêm vắng, chỉ còn hai đứa, Phước khóc và nói:

-   Mày sẽ làm gì, tao đoán biết rồi. Mày sẽ về Nam chiến đấu. Mày là thành phần cơ bản, cốt cán nên tổ chức chọn mày đi. Tao có lẽ chôn chân ở đất này vì tao thuộc thành phần địa chủ. Tao sẽ lấy vợ.

Phước đã đoán đúng. Trước đó, tôi đã được Chính ủy Trung đoàn phổ biến nhưng không được phép lộ bí mật. Tôi an ủi Phước.

-   Tao tin trái đất tròn, tao với mày sẽ còn gặp nhau. Hãy kiên trì chờ đợi như tính khéo léo của mày.

Mà đúng vậy, năm 1964, Phước về công tác ở Phòng quân báo, Bộ Tham mưu Miền. (

Kết thúc chiến tranh, anh là Phó Phòng quân báo Quân khu 7. Trưởng Phòng Quân báo Mặt trận 479 CPC. Từ trần vì cơn đau đột tử nhồi máu cơ tim tại Phnôm Pênh năm 1989...

)

Đêm đó, tôi và Phước rủ rỉ, thức đến tận sáng.

Mồng 6 Tết năm Tân Sửu (1961), tôi có mặt ở Sư đoàn bộ Sư đoàn 330. Cả đoàn tập hợp ở nhà Bộ Tư lệnh, khoảng trên 20 đồng chí. Tất cả đều vui vẻ, ngồi uống trà ăn kẹo chờ Chính ủy Sư đoàn giao nhiệm vụ mới.

Đồng chí đại tá Nguyễn Bảo bước ra. Tất cả đứng dậy.

   - Chào các đồng chí. Ngồi xuống, uống trà đi. Trong tâm trạng xúc động, đồng chí nói tiếp:

   - Hôm nay, Đảng và Nhà nước phân công các đồng chí trở về Nam chiến đấu chống Mỹ - ngụy giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Các đồng chí thấy sao? Có ý kiến gì không?

Cả mấy chục đồng chí đều nhao nhao lên, Thiếu úy Khen mau mắn đứng dậy.

-   Thưa thủ trưởng, đến nay mới được phân công trở về miền Nam, chúng tôi thấy chậm quá rồi.

Cả chục đồng chí đồng thanh: “Chậm quá rồi!”

Đồng chí Khen tiếp:

-   Chúng tôi không có ý kiến gì. Chỉ mong làm sao tổ chức đi càng nhanh càng tốt.

Tất cả lại đồng thanh: “Càng nhanh càng tốt !”.

Chính ủy Sư đoàn vui ra mặt:

-   Tốt rồi. Tổ chức sẽ sắp đặt mọi việc. Chúc các đồng chí lên đường mạnh khỏe, nhanh chóng về đến miền Nam. Bây giờ, các đồng chí uống nước xong về nghỉ, đi đứng theo kế hoạch của các cơ quan Sư đoàn.

Mọi hành động của chúng tôi từ đây đi vào bí mật.

Ba giờ sáng, chúng tôi lên xe tải bịt bùng chở ra ga thị xã Thanh Hóa. Các đồng chí tổ chức đoàn đã gọi phở sẵn. Ăn phở xong lại lên tàu hỏa nhưng ngồi toa riêng, không tiếp xúc với ai. Ba giờ sáng hôm sau tới ga Hàng Cỏ. Xuống tàu, cả đoàn kêu đói. Các anh tổ chức cho tản ra ăn tự do. Xong, lên xe bịt bùng chạy thẳng vào trạm 66 Bộ Quốc phòng trong vòng thành, ở riêng biệt, được đãi bánh bao và cà phê. Nghỉ tới chiều tối lại lên xe bịt bùng đi một mạch lên thị xã Hòa Bình, vào tập kết ở một căn cứ chuẩn bị cho các đồng chí được trở về miền Nam do một đồng chí thiếu tá là anh Cẩm - người Bến Cát - phụ trách.

Về đây, nhiệm vụ của chúng tôi là rèn luyện thể lực và bắn đạn thật, làm quen với các loại súng của Mỹ. Hằng đêm tập hành quân từ hai đến ba giờ. Cứ sau mười tám giờ tập bằng cách bắt đầu lấy 10 viên gạch ống bỏ vào balô và cứ tăng dần lên 20, 30 rồi 40 viên. Ban ngày,

từng tổ ba người tự lập kế hoạch tập bắn súng và nộp kết quả cho ban huấn luyện. Đúng theo lịch đã báo cáo, lấy phiếu đến kho nhận vũ khí và đạn ra trường bắn đã tổ chức sẵn, tự cắm bia, tự bắn và tự ghi thành tích. Mỗi ngày ít nhất cũng tập bắn một buổi từ hai đến ba loại súng: súng trường tự động của Mỹ, súng Cạcbin, Tômsơn, côn 12 ly, đại liên Mắcxim, trung liên Anh đầu bạc, trung liên Mát của Pháp... Đạn bắn tự do, tư thế bắn do tổ tự chọn. Mục đích là để chúng tôi quen với súng của Mỹ.

Chúng tôi đã được học tập cơ bản về bắn súng nên cũng dễ làm quen với các loại súng khác nhau và thành tích đều đạt rất cao. Chúng tôi sáng tác ra nhiều động tác bắn, như đang chạy do bị địch rượt đuổi ngã sấp quay lại sau bắn ngay, bắn lỗ châu mai lô cốt ban đêm không đèn, phải nhắm đế đầu ruồi, trừ hao, ước lượng mà bắn, bắn mãi rồi cũng trúng mục tiêu.

Rèn luyện hơn một tháng, chúng tôi được đưa về Cầu Phùng, nơi tập trung cuối cùng để các đồng chí lãnh đạo tới thăm, bồi dưỡng thêm về tinh thần, vật chất, hoàn chỉnh trang bị cho từng người vừa tổ chức biên chế lại trước lúc lên đường.

Trong một ngày nắng ấm đầu xuân, sau giờ cơm trưa, mọi người đều nghỉ. Tôi và một số đồng chí rủ nhau xuống nhà bếp gặm chân, cánh gà luộc vì đây là những thứ không dùng trong bữa ăn chính theo tiêu chuẩn (Lúc này, tiêu chuẩn ăn rất cao, gà ăn bữa chính toàn thịt nạc. Thân gà, chân gà, cánh gà luộc sẵn, ai muốn ăn vã chơi lúc nào cứ xuống bếp). Tôi và các đồng chí đang vừa ăn vừa trò chuyện rôm rả thì chợt có xe vào. Một đồng chí buột miệng reo lên: “Bác Hồ!”.

Chúng tôi bỏ ăn, chạy về chỗ ở. Các đồng chí ở nhà cũng như ong vỡ tổ, nhanh chóng mặc quân phục vào vừa xong thì được lệnh lên hội trường.

Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đi từ bếp lên. Cả hội trường như vỡ ra vì tiếng vỗ tay khi Bác và Đại tướng bước vào. Nước mắt chúng tôi trào ra vì cảm động không tài nào kìm chế được.

Khi hội trường ổn định, im phăng phắc, Bác nói:

-   Bác vào thăm các cháu. Các cháu về làm nhiệm vụ cũ cần hết sức cố gắng. Ngoài này, Bác và các đồng chí Trung ương cũng lo. Dưỡng sức lúc này để mai kia đi đến nơi, về đến chốn. Chúc các cháu lên đường mạnh khỏe. Trung ương luôn dõi theo từng bước đi của các cháu.

Cả hội trường hô to: “Chúc Bác khỏe!’’.

Các đồng chí bảo vệ đã đưa Bác ra đến xe mà cả hội trường chưa hết bàng hoàng vì bất ngờ được gặp Bác và Đại tướng trước lúc lên đường.

Đoàn Cán bộ trở về Nam được đặt tên là Phương Đông 2. Ban chỉ huy đoàn gồm các anh: Lê Quốc Sản (sau là Tư lệnh Quân khu 9) – Trưởng đoàn, Nguyễn Hồng Lâm (anh Hai Bứa, sau là Phó tư lệnh Quân khu 7) — Phó đoàn, Hứa Bá Lộc (sau là Chính ủy Đoàn 600) là Chính ủy và Lê Hoàng Lâu (sau là Tham mưu phó Quân khu 9) - Tham mưu trưởng.

Trước khi lên đường, theo quy định cùa tổ chức, mọi người đều tự đổi tên để giữ bí mật. Tên được thống kê giao cho Cục cán bộ. Từ ngày lên đường là bắt đầu dùng tên mới cho quen, về tới Nam Bộ không được dùng tên cũ nữa vì nhiệm vụ cách mạng giao cho.

Đoàn được chia làm ba phân đội. Phân đội 1 do anh Nguyễn Văn Tốt (Hai Bình) làm Phân đội trưởng và tôi làm Bí thư. Các anh trong Ban chỉ huy đoàn chia ra đi cùng các phân đội. Anh Hai Hồng Lâm đi với Phân đội 1. Anh Lê Quốc Sản và anh Lê Hoàng Lâu đi với Phân đội 2. Anh Hứa Bá Lộc đi với Phân đội 3.

Trang bị cho từng người gọn, song không nhẹ chút nào. Mỗi người một khẩu cạc bin, một khẩu P.38, đạn mang nổi bao nhiêu lấy bấy nhiêu, 2 quả lựu đạn và dao găm. Thuốc trị bệnh khoảng một ký, lương thực hai ruột tượng gạo và hai ký mắm cô đặc. Ngoài ra còn võng, tăng, quần áo lụa cho nhẹ, tổng cộng nặng chừng 25 ký trở lên.

Phân đội tôi còn đảm nhận một nhiệm vụ là mang 2 triệu đồng tiền miền Nam, tuy là giấy nhưng cũng khá nặng, lại thêm cái máy phát cho đài 15 oát. Cục sắt 16 ký này không chẻ ra được nên đồng chí thông tin được đặc trách mang máy và được miễn mang gạo.

Mọi công việc chuẩn bị đã xong. Trong cuộc họp cuối cùng của đoàn để phổ biến kế hoạch và thời gian hành quân, cả đoàn ai cũng yêu cầu chạy xe vòng quanh Hà Nội để được ngắm nhìn Hà Nội một lần nữa trước lúc về miền Nam. Ai cũng tưởng như có thể đây là lần cuối cùng được thỏa thích nhìn ngắm Hà Nội thân yêu.

Cuối cùng cũng đã đến ngày mà ai cũng chờ đợi, tháng 3 năm 1961, ban đêm trời còn se lạnh. 3 giờ sáng đoàn xe Phương Đông 2 rời doanh trại cầu Phùng. Tất cả bạt xe được tốc lên nóc để mọi người nhìn thấy xung quanh. Xe nối đuôi nhau chạy về đường Bưởi, ra đường Thanh Niên, Hồ Tây, chạy lên đê sông Hồng xuôi về Nhà Hát Lớn, ra Tràng Tiền và chạy rất chậm quanh hồ Hoàn Kiếm. Thuở ấy Hà Nội còn nghèo lắm. Phố phường cũ kỹ, đường phố vắng vẻ, im ắng lạ lùng, đèn đường mờ nhạt, leo lét như đom đóm, vì tất cả còn phải lo cho miền Nam ruột thịt vẫn đang bị giày xéo dưới gót giày giặc ngoại xâm, công việc xây dựng lại Thủ đô còn chờ sau.

Xe chạy hai vòng bờ hồ Hoàn Kiếm, xuống đường Trần Hưng Đạo, rẽ phải ra ga Hàng cỏ, xuôi đường Nam Bộ vào Thanh Hóa.

Những đường phố Hà Nội, nơi tôi đã từng qua lại và thuộc lòng từng con đường, góc phố, là nơi an ủi tôi những năm xa quê hương mỗi khi tìm tới Câu lạc bộ Thống Nhất gặp gỡ anh chị em đồng hương Nam Bộ. Không sống ở Hà Nội song tình cảm của tôi với Hà Nội thật sâu lắng vì Hà Nội là Thủ đô, là biểu tượng của cả nước, là nơi Bác Hồ và những người thân yêu của tôi đang ở đó, là nơi đã nuôi lớn trong tôi những điều thiêng liêng nhất về Tổ quốc, về lý tưởng, là nơi tôi trở thành con người thực thụ như ngày nay, đã nung nấu trong tôi tình cảm của một đứa con xa xứ sắp trở về giải phóng quê hương khỏi những đau thương, uất hận, giải phóng đất nước khỏi nạn đạn bom, chết chóc của quân thù.

Chào Hà Nội ! Tạm biệt Thủ đô yêu dấu ! Hẹn gặp lại!

Quá trưa hôm ấy, đoàn xe qua khỏi Cầu Bố, thị xã Thanh Hóa. Đến cánh đồng trống đoàn xe dừng lại để ăn trưa, thực phẩm gọn nhẹ là cơm nếp và thịt gà quay đem theo.

Chiều, xe chạy một mạch đến trạm đầu tiên ở miền núi Hà Tĩnh, mọi người được tạm nghỉ ngơi sau một đoạn đường dài. Ngày hôm sau, tất cả bỏ lại bất kỳ thứ gì mang dấu vết miền Bắc tại trạm, kể cả tiền bạc. Tôi giao chứng minh thư sĩ quan cho trạm. Còn hơn 40 đồng tôi cho đồng chí lái xe.

Kỷ luật rất nghiêm, ai mang theo vật gì có dấu vết miền Bắc nếu bị phát hiện sẽ không được đi Nam. Vậy mà vẫn có chuyện rất vui. Anh Huệ ở Tiểu đoàn 8 (sau này về làm Chính trị viên Tiểu đoàn Hirông) vẫn giấu được một chiếc đồng hồ đeo tay Liên Xô về để tặng người yêu, còn tôi chỉ mang theo cuốn tiểu thuyết Ruồi Trâu nhưng để xóa dấu vết, tôi buộc phải xé hết bìa. Vậy mà cuốn tiểu thuyết ấy có về được tới miền Nam đâu. Dọc đường, các anh nghiện thuốc xin giấy để quấn thuốc hút thế là cứ xé dần cho đến hết.

ĐƯỜNG VỀ NAM

Từ trạm đầu tiên này bắt buộc hành quân bằng đường bộ vượt Trường Sơn theo đường mòn đến từng trạm. Trèo núi liên tục, hết núi này sang núi khác, họa hoằn lắm mới có một khoảng rừng bằng phẳng. Có núi dốc đứng, trán người đi sau đụng gót chân người đi trước. Mỗi người đều chặt một đoạn mây rừng uốn cong một đầu làm gậy chống để tăng thêm lực cho đôi chân. Có ngọn núi càng lên cao càng lạnh, đỉnh núi nằm trong mây. Với trọng lượng mang từ 25 đến 30 ký mà phải leo dốc, mọi người đều mồ hôi nhễ nhại. Thỉnh thoảng được tạm nghỉ 10 phút mà gặp khí hậu mát mẻ, người dễ chịu, khỏe lại ngay. Nhờ vậy mà hết ngày này đến ngày khác cứ lên đỉnh lại xuống đèo, mà vẫn vượt qua được.

Bí mật là một yêu cầu cao trong quá trình hành quân. Thông thường, đoàn phải theo dường mòn do liên lạc là một người dân tộc dẫn dường, có đoạn là một em nhỏ cũng người dân tộc, cắt rừng đi mà không được để lại dấu vết. Lương thực dựa vào các rẫy khoai, mì của đồng bào là cơ sở cách mạng trồng, có trạm được tiếp tế ít gạo. Khi có điều kiện nấu ăn thì không được để khói nhiều. Có một lần đoàn được Hà Nội tiếp tế gạo và nhu yếu phẩm bằng máy bay thả bao, rơi tự do xuống đất ở đoạn hành quân sang biên giới Lào. Hàng ngày, đoàn đều phải điện báo cáo với anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) vào 21 giờ.

Khoảng tháng 5, miền núi đã bắt đầu có mưa. Qua sông, suối luôn gặp rất nhiều khó khăn Ba phân đội của đoàn hành quân đi cách nhau hai tiếng để không bị ùn lại khi leo núi hoặc khi qua suối, qua sông. Phân đội 1 của tôi đi đầu đến sông Xêrêpốc gặp nước lớn phải vượt sông bằng bè tre. Chỉ với hơn 30 người vượt sông mà từ sáng sớm đến 9 giờ chúng tôi mới qua hết, giao bè lại cho Phân đội 2. Chúng tôi về đến lán nghỉ thì đã hai giờ chiều. Mọi người đang căng võng nằm nghỉ tạm sau một chặng đường dài hành quân vất vả thì anh Lê Hoàng Lâu, Tham mưu trưởng của đoàn, cùng đi với Phân đội 2 chạy đến lán báo tin: Phân đội 2 sau khi vượt sông Xêrôpốc, hành quân được một đoạn thì bị địch phục kích. Do chủ quan có Phân đội 1 đi trước, cả phân đội cứ thế mà đi, mất cảnh giác nên bị địch đánh bất ngờ, hy sinh 9 đồng chí, bị thương 1 đồng chí.

Lập tức, anh Hồng Lâm ra lệnh tất cả theo anh quay trở lại giúp Phân đội 2, chỉ để lại một tổ giữ đồ đạc.

Đêm đó, Phân đội 1 và Phân đội 2 chôn cất tử sĩ đến sáng mới xong. Cả hai phân đội thay nhau mang đồng chí bị thương đến tận 8 giờ sáng hôm sau mới về tới lán nghỉ.

Việc đầu tiên là điện báo cho Phân đội 3 cắt đường khác mà đi vì đường đi theo kế hoạch đã bị lộ. Lúc này, Phân đội 3 đi sau nghe tiếng súng đã dừng lại. Nhận được điện, Phân đội vòng đường khác, đoàn cũng báo cáo với anh Văn việc bất trắc vừa xảy ra và hạ quyết tâm đi tới. Mãi 10 ngày sau các Phân đội mới gặp lại nhau.

Trước đau thương mất mát của Phân đội 2 và 1 đồng chí bị thương phải để lại trạm, cả đoàn như lặng đi, không tiếng nói cười. Ban chỉ huy đoàn quyết định dừng lại một ngày. Anh Hồng Lâm tổ chức lập bàn thờ, mặc niệm các đồng chí vừa hy sinh. Ngay trước bàn thờ, anh cho họp đoàn lại.

-   Địch đánh Phân đội 2 - anh Hồng Lâm phán đoán có thể là bọn phỉ ở Lào, không phải ngụy Sài Gòn. Vì nếu là ngụy Sài Gòn, lẽ nào chúng đánh ta rồi lủi mất? Nhưng dù thế nào thì hướng hành quân của đoàn đã bị lộ. Từ đây, phải tăng cường cảnh giác. Tổ chức hành quân cần chu đáo, có tiền vệ, đi thưa, đụng địch nằm tại chỗ chiến đấu, phải tổ chức tấn công tới, không chạy lùi, dồn cục nếu không sẽ có thương vong lớn.

Anh Hồng Lâm quyết định nhập hai phân đội thành một đội hình hành quân (vẫn giữ nguyên chỉ huy hai phân đội). Sau đó anh điện chỉ đạo Phân đội 3 cắt rừng đi đường vòng, không đi theo đường Phân đội 1 và 2, rồi anh điện báo cáo với anh Văn đoàn vẫn tiếp tục hành quân.

Chặng đường từ Xêrêpốc đến đường 14 đều an toàn do cảnh giác cao, tổ chức hành quân chặt chẽ dù địch có ra sức chặn đánh. Tổ chức đường dây liên lạc tốt để giữ bí mật hai đầu, có trạm giữa để hai bên bàn giao đoàn rồi quay lại. Có một chặng đoàn bị địch phục kích, địch bắn bị thương đồng chí liên lạc từ phía Nam ra đón. Vị trí liên lạc đều không đến chỗ giao nhận như thỏa thuận được, nên cứ sáng đoàn hành quân, trưa đến điểm hẹn là một gốc cây, hay một cục đá to theo quy ước của trạm - nếu không thấy liên lạc đến đón thì đoàn lại quay về chỗ cũ. Cứ như vậy, hết 10 ngày vẫn chưa bắt được liên lạc, gạo gần hết, khoai mì ở rẫy cũng sắp hết.

Ban chỉ huy họp đoàn đánh giá tình hình: có thể trạm phía Nam đã bị lộ phải dời đi, chưa ổn định nên chưa đến vị trí liên lạc. Cũng có thể tình huống xấu nhất là anh em đã hy sinh. Và đoàn hạ quyết tâm: bất cứ giá nào cũng khắc phục để lên đường, phải về đến miền Nam. Khó khăn chính là vấn đề lương thực, sau đó là tổ chức bắt liên lạc. Chuẩn bị phương án cắt rừng theo góc phương vị. Ra nghị quyết mỗi người phải giữ ba lít gạo không được ăn, đó là lương thực phục vụ cho chặng đường phải cắt rừng sắp tới.

Từ ngày thứ 11 trở đi, cử một tổ đến chỗ hẹn bắt liên lạc. Vấn đề gay go lúc này là hết gạo, gạo dự trữ mỗi người ba lít thì không được đụng đến. Theo kinh nghiệm nhiều năm hoạt động ở rừng miền Đông Nam Bộ thời chống Pháp của anh Hồng Lâm, anh đi tìm một bụi khoai chụp, lấy toàn bộ dây đem về, cắt ra từng đoạn hai tấc, đem chia cho từng người và hướng dẫn cách đào. Toàn đoàn tỏa ra đi tìm và đào củ chụp. Từng tổ hai người thay nhau đào bằng dao găm, bằng cây vạt nhọn, đào liên tục, đủ cho hai người ăn trong ngày và dự trữ cho ngày hôm sau.

Đến ngày thứ 15 cũng chưa bắt được liên lạc với trạm phía Nam. Củ chụp cũng bắt đầu khó kiếm. Không thế nấn ná được nữa, đã đến lúc phải thực hiện phương án cắt rừng.

Sáng sớm hôm sau, toàn đoàn bắt đầu hành quân. Đoạn từ trạm phía Bắc đến điểm giữa thì đi theo đường cũ, có hai liên lạc của trạm cùng đi. 11 giờ, đoàn nghỉ ăn cơm, củng cố quyết tâm, chỉnh lại đội hình, bắt đầu cắt rừng theo góc phương vị.

Một đồng chí đi trước chặt cây dọn đường, đồng chí kế tiếp cầm la bàn hướng dẫn. Đồng chí thứ ba, thứ tư sẵn sàng súng đạn yểm trợ khi cần. Cứ thế, đoàn đi 50 phút lại nghỉ 10 phút. Đến 3 giờ chiều, tổ cắt rừng phát hiện có dấu vết người ở trong một hốc đá.

Nghi ngờ là người của ta, anh Hồng Lâm trao đổi với hai đồng chí liên lạc. Đồng chí liên lạc người dân tộc đưa tay lên miệng hú gọi. Mừng không kể xiết, nghe có tiếng trả lời.

Đồng chí liên lạc dẫn tổ đi đầu đến chỗ có tiếng trả lời mới biết các đồng chí từ trạm phía Nam ra bị địch phát hiện bắn bị thương một người. Các anh dìu nhau trốn vào rừng không đến chỗ hẹn được, cũng không trở về trạm cũ được do đường đi đã bị địch phát hiện. Đồng chí còn khỏe mạnh đào củ, lấy măng ăn tạm qua ngày và chăm sóc cho đồng chí bị thương.

Người dân tộc khi đã giác ngộ cách mạng rất trung thành, rất tận tâm và chung thủy. Khi gặp hoạn nạn không bao giờ bỏ nhau. Có lần, tôi trò chuyện với đồng chí liên lạc còn rất trẻ, mới 17, 18 tuổi, hỏi lúc mở đường đầu tiên trên rừng núi này đồng chí đi bằng cách nào. Đồng chí trả lời:

- Theo hướng mặt trời. Ngày đi, đêm leo lên cây chọn chỗ có chạc hai lấy dây bó vào cây mà ngủ để tránh gặp cọp, voi. Lương thực là măng tre và củ rừng. Cứ vậy một mình đi, có khi đi hàng 7 ngày, 10 ngày...

Gương anh em liên lạc người dân tộc được đoàn đem ra sinh hoạt trong các chi bộ. Chính tấm gương của các đồng chí ấy đã củng cố thêm quyết tâm của toàn đoàn.

Bắt được liên lạc, đoàn tổ chức khiêng đồng chí bị thương đưa về lán trại phía Nam. Từ đây, đoàn không phải cắt rừng theo góc phương vị nữa mà nối vào đường dây đi tiếp.

Càng vào sâu phía Nam, rẫy khoai mì của đồng bào dân tộc càng ít đi, lương thực càng khó khăn. Có đồng chí ăn măng không chịu nổi, ăn vào là ói ra hết, như anh Hai Hương - sau này về T67/Quân khu 7 - phải tranh thủ đào củ mà ăn, anh Tốt, người to như bồ tượng – sau này về Long Đất, Bà Rịa. Đói quá, đêm anh lén lấy gạo (trong số ba lít gạo buộc phải giữ) để nấu ăn. Có đồng chí phát hiện, phản ánh. Tôi là Bí thư buộc phải đưa chi bộ kiểm điểm mà trong lòng xót xa vô cùng. Nếu không vì nhiệm vụ cách mạng, tôi cũng không cam lòng nhìn đồng chí mình vất vả, thiếu thốn. Lòng căm thù giặc càng cao.

Khi đoàn đến trạm bắc đường 14 - Bà Rá, có ý kiến đề xuất: nhân lúc vượt đường, ta tổ chức kiếm lương thực luôn. Ý kiến này bị bác bỏ ngay.

-   Đã giữ bí mật hai phần ba đoạn đường, phải giữ bí mật đến cùng.

-   Đã đói dài còn chịu được, bây giờ phải chịu được.

-   Lúc này hơn lúc nào hết đã tới đích rồi, phải vươn lên tới đích.

Đoàn lại âm thầm, lặng lẽ, bí mật vượt qua đường 14.

Sau hơn 5 tháng, từ tháng 3 đến đầu tháng 9 năm 1961, cuối cùng đoàn cũng đến Căn cứ R tại đồi 300 Bình Long.

Phân đội 1 của tôi cùng anh Hồng Lâm được bổ sung về T1 (Quân khu 7 bây giờ). Đưa nhau về đến Đất Cuốc giữa lúc T1 vừa chiến thắng vang dội trận Phước Thành hôm mùng 9 tháng 9. Khắp vùng, từ Đất Cuốc đến Mỹ Lộc, Thường Long, đâu đâu cũng một không khí hồ hởi, phấn khởi khiến chúng tôi càng náo nức. Toàn phân đội được lệnh đóng quân ở Suối Cái.

Sau mấy tháng đói khát, lần đầu tiên được nấu cơm với bao nhiêu gạo cũng được. Tôi cho ba lon sữa bò gạo vào cái hăng gô vuông, khi sôi lên cạn nước, sợ không chín, tôi đặt hăng gô sát xuống than và trở đi trở lại mấy phía. Sau mấy tháng đói dồn, ai cũng thèm một bữa cơm no.

Trong đời tôi có lẽ bữa cơm hôm ấy là bữa cơm ngon nhất và cũng nhiều nhất. Chỉ ăn với muối tiêu trộn bột ngọt mà tôi ăn một hơi hết ba lon sữa bò gạo.

Một bữa cơm rất ngon lành!

VỀ T1 (QUÂN KHU 7)

Cách mạng miền Nam đã chuyển sang giai đoạn chiến lược mới. Đế quốc Mỹ thi hành chiến lược Chiến tranh đặc biệt, cuộc chiến tranh bằng quân đội ngụy với tiền của, vũ khí và sự chỉ huy của Mỹ. Thời kỳ đen tối của cách mạng miền Nam đã qua, thời kỳ ta chỉ đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ mà không được vũ trang, còn địch thì tha hồ bắn giết cán bộ, đồng bào yêu nước. Từ sau đồng khởi, quân giải phóng ra đời và nhanh chóng phát triển.

Anh Hồng Lâm về làm Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng T1. Tôi được phân công về làm trợ lý của Phòng tác chiến T1, do anh Út Đặng làm Trưởng phòng. Các anh trong phân đội được phân công về các tỉnh Phước Thành, Biên Hòa, Bình Dương, Bà Rịa, một số về Tiểu đoàn 500 và Tiểu đoàn 700.

Công việc đầu tiên của tôi là làm thư ký cho cuộc họp kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh Tiểu khu Phước Thành của Tiểu đoàn 500. Anh Hồng Lâm dặn tôi:

-   Mới về, dự họp nghe và ghi, không nên phát biểu, nhất là phê phán ưu khuyết điểm. Tích cực thâm nhập vào cán bộ và chiến sĩ để hiểu rõ anh em.

Tiểu đoàn 500 mới thành lập. Toàn những cán bộ, chiến sĩ là du kích cũ, ý chí quyết tâm cao, có bản lĩnh chiến đấu vừa mới chiến thắng một trận lớn. Đây là trận đầu tiên Quân giải phóng miền Nam diệt một tiểu khu của địch. Lòng tự hào chính đáng của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn đang dâng cao. Trong niềm tự hào ấy còn hàm ý: “Để rồi xem “cán bộ mùa thu” đánh đấm như thế nào với địch”.

Thấu hiểu tâm tư của anh em, đồng chí, tôi xác định thái độ tiếp xúc của mình. Phải vui vẻ, khiêm tốn, lắng nghe và học hỏi anh em, ca tụng và biểu dương cái tốt của anh em, tuyệt đối không được khoe khoang những kiến thức quân sự mình đã làm, đã học.

Sau hơn 10 ngày ở Phước Thành để đơn vị kiểm điểm trận đánh, làm lễ biểu dương thắng lợi, có đồng bào Đất Cuốc, Tân Tịch, Thường Lang lên dự, củng cố lại tổ chức tiểu đoàn, điều chỉnh trang bị vũ khí... tôi đã cùng sinh hoạt với Ban chỉ huy Tiểu đoàn, với các đại đội 59 và 80, với đội trinh sát...

Các anh trẻ, vui vẻ và cởi mở. Anh Xứ - Tiểu đoàn trưởng - mới 24 tuổi, nhỏ hơn tôi 4 tuổi. Anh Tư Luông - Chính trị viên Tiểu đoàn. Anh Tư Lòng - Tiểu đoàn phó. Tất cả các anh là những cán bộ phong trào. Anh Sáu Quang tức Sáu Thế từ ngoài Bắc về trước tôi một đợt, cũng là Tiểu đoàn phó.

Các cán bộ đại đội và trung đội như các anh Út Thắng, Út Hiệp, Hai Phê, Thành, Huệ, Bá... đều rất tình cảm. Tôi trạc tuổi các anh, cảm mến các anh thật lòng nên mới nửa tháng sau chúng tôi đã rất thân nhau. Các anh yêu cầu tôi bỏ hết trang bị từ ngoài Bắc vào, quần áo bà ba, ba lô con cóc, thắt lưng, cả súng ngắn P.38 của tôi cũng đổi. Các anh trang bị lại cho tôi quần técrông giặt mau khô, áo sơmi, ba lô Mỹ có gắn tấm bản đồ phía sau, thắt lưng Mỹ, súng côn 12 ly... giống hệt các anh.

Sau lễ mừng chiến thắng ở Phước Thành, Bộ Tư lệnh T1 phân công tôi đi theo Tiểu đoàn để góp sức xây dựng huấn luyện, nghiên cứu chiến trường và tổ chức chiến đấu. Tôi nhủ với lòng: sau bao nhiêu năm được Đảng, quân đội rèn luyện và giáo dục, bây giờ là lúc mình có thời cơ biểu hiện lòng trung thành với Tổ quốc, thể hiện năng lực lãnh đạo và chỉ huy, phát huy bản lĩnh xây dựng và chiến đấu. Chỉ có tinh thần dũng cảm, dám đổ máu, không sợ hy sinh mới chứng minh được sự trung thành, mới thuyết phục được nhân tâm, mới chiếm được tình cảm của anh em Tiểu đoàn.

Tôi cùng ăn, cùng ở, cùng nghiên cứu huấn luyện và chiến đấu, vào sinh ra tử với Tiểu đoàn 500, Tiểu đoàn chủ lực đầu tiên của T1 (Khu 7) thời ấy. Tôi đã cùng Tiểu đoàn rong ruổi khắp các chiến trường.

Ở Tây Ninh, đánh bót cầu Xe, phá ấp chiến lược suối Bà Tươi, đánh tàu trên sông Sài Gòn, đoạn Dầu Tiếng.

Ở Bình Dương, đánh diệt giao thông trên lộ 13 Mỹ Phước, phá ấp chiến lược Bến Tượng, đánh Lai Khê...

Ở Phước Thành, diệt địch trên đường giao thông, ở Nha Bích, diệt địch tại Bàu Cá Trê, diệt đồn Bà Cẩm, phá các ấp chiến lược Sình, Bà Đã, Ván Hương... giải phóng, vùng nam Sông Bé, mở rộng căn cứ Chiến khu Đ. lên hướng bắc.

Lại cùng Tiểu đoàn xuống Bà Rịa, ra Tánh Linh (Bình Thuận).

Liên tục mấy năm liền, tôi chỉ là cán bộ tác chiến T1 đi với Tiểu đoàn. Song Ban chỉ huy Tiểu đoàn rất tín nhiệm tôi, mọi việc đều hỏi ý kiến tôi, từ huấn luyện, nghiên cứu chiến trường đến tổ chức và thực hành chiến đấu. Anh em cán bộ các đại đội, trung đội và chiến sĩ coi tôi như cán bộ của Tiểu đoàn, lúc nào cũng thân tình chăm sóc, hỏi han. Khi có khó khăn anh em đều xin ý kiến. Tôi cũng coi Tiểu đoàn như ruột thịt của mình, cùng vui khi chiến thắng và cũng không ít lần rơi nước mắt trước cảnh anh em đồng chí mình hy sinh.

Tình đồng chí, đồng đội giữa tôi và anh em cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn đã gắn bó thật keo sơn. Ý chí chiến dấu, tác phong công tác, cách sử dụng lực lượng và động tác chiến đấu... tôi và anh em Tiểu đoàn rất ăn ý và dễ thống nhất với nhau.

Ngày 5 tháng 10 năm 1964, đồng chí Tư Lòng - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 500 được điều động về làm Chỉ huy trưởng thị xã Biên Hòa, Tiểu đoàn phó vẫn là đồng chí Út Thắng.

Qua anh Hai Sỹ, cán bộ biệt phái của Bộ Tư lệnh T1, tôi biết cấp trên cân nhắc rất nhiều giữa tôi và Út Thắng ai sẽ là Tiểu đoàn trưởng.

Về tài năng, phẩm chất và bản lĩnh thì anh em tôi như nhau. Tôi được đào tạo cơ bản hơn. Cái lo lắng của các anh là liệu tình cảm của anh em Tiểu đoàn có chấp nhận tôi không vì tôi là cán bộ “mùa thu”, Út Thắng lại là cán bộ phong trào, mà cán bộ phong trào lúc này vẫn được nhiều ưu ái. Nhưng cân nhấc tới lui, xét gần ba năm tôi sống và chiến đấu với Tiểu đoàn, cán bộ và chiến sĩ Tiểu đoàn thương yêu tôi như ruột thịt, cuối cùng Bộ Tư lệnh quyết định tôi làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 800 (phiên hiệu mới của Tiểu đoàn 500 cũ) thay anh Tư Lòng.

Từ ngày 5 tháng 10 năm 1964, tôi chính thức chỉ huy Tiểu đoàn 800 của T1 (Khu 7).

TIỂU ĐOÀN 800 TRONG CHIẾN DỊCH BÌNH GIÃ

Năm 1964, chiến tranh cách mạng miền Nam phát triển mạnh đi kèm với nó là các phong trào ngày càng rầm rộ và chính quy hơn, các lực lượng của ta liên tục tiến công địch ở khắp nơi: nông thôn, miền núi và cả ở đô thị. Ta đã phá hỏng trên 5000 ấp chiến lược.

Ở Chiến khu Đ, ta đã phá banh các ấp chiến lược: Sình, Bà Đã, Ván Hương... mở rộng vùng giải phóng chiến khu Đ đến tận đường 16.

Ở Bà Rịa, vùng tam giác giữa các con đường số 1, đường số 2 (cả đông và tây), đường 15 đều giải phóng.

Phong trào chiến tranh du kích được mở rộng, bộ đội địa phương lớn mạnh và tác chiến có hiệu quả.

Cấp trên nhận định: “

Ta đã đánh bại một bước quốc sách ấp chiến lược của địch

’’. Nhưng đế quốc Mỹ và ngụy quyền tay sai vẫn ngoan cố tiếp tục chiến tranh bằng kế hoạch Mắc Namara, với mục tiêu bình định Việt Nam trong 3 năm, đẩy mạnh chiến lược Chiến tranh đặc biệt hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Mỹ - ngụy ở miền Nam.

Chủ trương của ta lúc này là khống chế và thắng địch trong Chiến tranh đặc biệt. Với phương châm chiến lược: “

đánh lâu dài, đồng thời tích cực tranh thủ thời cơ để thắng địch trong thời gian tương đối ngắn

". Trước mắt, phải ra sức xây dựng lực lượng ba thứ quân, đẩy mạnh tác chiến tập trung trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, diệt một bộ phận sinh lực địch, vừa để rèn luyện bộ đội chủ lực vừa hỗ trợ có hiệu quả cho phong trào đấu tranh chính trị cùa đồng bào.

Sau khi nghiên cứu nhiều mục tiêu trên khắp địa bàn, Bộ Chỉ huy Miền quyết định chọn Bà Rịa - Long Khánh - Biên Hòa và một phần địa bàn Bình Thuận để mở chiến dịch. Với quyết tâm cụ thể, hướng chủ yếu là Bà Rịa - Long Khánh, hướng thứ yếu là Nhơn Trạch - Long Thành. Lực lượng gồm hai trung đoàn chủ lực của Miền Q761, Q762, 4 tiểu đoàn trợ chiến, Tiểu đoàn 800 Quân khu 7 và bộ đội địa phương các tỉnh. Tổng cộng khoảng 7000 quân chủ lực cộng với lực lượng địa phương và du kích cùng tham gia chiến dịch.

Tháng 11 năm 1964, Tiểu đoàn 800 của Quân khu 7 đang đứng chân ở suối Xà Môn, Gia Kốp, huyện Châu Đức thì được anh Hồng Lâm, Chỉ huy phó Chiến dịch Bình Giã, đến giao nhiệm vụ.

Sau khi được nghe phổ biến toàn bộ tình hình địch - ta, đặc điểm địa hình, nhiệm vụ chiến dịch, hướng chủ yếu và thứ yếu, lực lượng tham gia, phương châm, phương thức tác chiến và các mặt bảo đảm, anh giao nhiệm vụ cụ thể cho đơn vị: “

Tiểu đoàn cùng bộ đội địa phương và du kích hoạt động trên hướng thứ yếu của chiến dịch. Phạm vi hoạt động cả nam và bắc đường 15, thuộc hai huyện Nhơn Trạch và Long Thành. Tùy theo yêu cầu và thời gian chiến dịch cần dể đánh nghi binh, đánh lạc hướng và thu hút địch, tạo thuận lợi cho hướng chính cơ động và tác chiến. Tiểu đoàn chuẩn bị các mục tiêu trên đường 15 có thể chặn đánh địch trên đường giao thông bất kỳ đoạn nào. Chuẩn bị đánh các đồn bốt hai bên lộ 15, cả An Viễn, Bình Sơn, Nhơn Trạch. Chuẩn bị phương án thọc sâu xuống phía nam lộ 15. Thời gian chuẩn bị cho mục tiêu và thông qua quyết tâm trong tháng 11

Mới cầm quân, nhận ngay nhiệm vụ chiến đấu với quy mô lớn (ở miền Nam tại thời điểm này với lực lượng chiến dịch như vậy là lớn lắm), tôi vừa phấn khởi vì đây là thời cơ để biểu hiện năng lực và bản lĩnh tổ chức, chỉ huy chiến đấu của mình, vừa lo là nhiệm vụ quá nặng nề, không được đánh tự do mà phải đánh theo yêu cầu và thời gian của chiến dịch. Tuy nhiên, tôi tuyệt đối tin vào trình độ, ý chí quyết tâm và bản lĩnh chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn. Tiểu đoàn phó Út Thắng đã 3 năm cùng chiến đấu bên tôi từ Tiểu đoàn 500 cũ, người trầm tĩnh, dũng cảm, có trình độ tổ chức và chỉ huy chiến đấu. Trong suy nghĩ, đánh giá về địch - ta, trong hành động chiến đấu anh rất hợp với tôi. Các đại đội trưởng Hai Phê - Đại đội 1, Chín Hướng - Đại đội 2, Ba Thành - Đại đội 3, Hai Lô - Đại đội 4 là những đại đội trưởng giỏi, ý chí quyết tâm cao, đoàn kết tốt. Một ưu thế nữa là trinh sát của Tiểu đoàn thuộc loại giỏi lúc bấy giờ. Họ đều là những người không chịu nổi sự áp bức của Mỹ - ngụy nên đã lên đường theo cách mạng, nhập ngũ Tiểu đoàn, có đồng chí từng là du kích ở địa phương, rất gan dạ và có bản lĩnh trong chiến đấu.  

Bắt tay vào chiến dịch, vì phải đánh theo yêu cầu của chiến dịch nên chúng tôi phải chuẩn bị nhiều mục tiêu, tôi chia tiểu đoàn thành 2 bộ phận để chuẩn bị cho chiến trường.

Tôi và một bộ phận trinh sát cùng với trưởng các đại đội đi chuẩn bị đánh giao thông trên đường 15 và các đồn bốt ở nam đường 15 như Phước Thọ, Tam An, huyện Long Thành.

Tiếu đoàn phó Út Thắng cùng một bộ phận trinh sát và cán bộ đại đội cấp phó đi chuẩn bị đánh địch ở Bình Sơn, An Viễn và Dốc 47, bắc đường 15 (đường 51 ngày nay).

Ngày 10 tháng 11, anh Hồng Lâm, Phó Tư lệnh Chiến dịch điện đề ra nhiệm vụ cho tiểu đoàn: “

để thu hút địch chú ý đối phó trên đường 15, nghi binh cho chủ lực cơ động xuống chiến trường Bà Rịa, tiểu đoàn tổ chức đánh ngay một trận trên đường 15

".

Nhận lệnh, tôi và các cán bộ họp bàn xem các mục tiêu đã chuẩn bị giờ phải chọn đánh mục tiêu nào. Đánh phải chắc thắng, giòn giã, diệt gọn, buộc địch phải dồn lực để đối phó.

Trinh sát báo cáo về, có đoàn xe 12 chiếc với 2 bù lu (bọc thép), 1 xe Jeep và 9 xe GMC chạy từ hướng Vũng Tàu về Sài Gòn.

Chúng tôi thống nhất đánh đoàn xe mà trinh sát đang theo dõi ở đoạn Phước Thái. Rạng ngày 15 tháng 11, toàn Tiểu đoàn hành quân ra phục kích cách đường 15 trên dưới 100m.

Tôi ra lệnh Đại đội 3 chuẩn bị chặn đầu và toàn tiểu đoàn sẵn sàng chiến đấu.

9 giờ, đoàn xe lọt vào trận địa. Đại đội 3 chặn đầu rất hiệu quả. Toàn tiểu đoàn nổ súng và xung phong. Sau 30 phút chiến đấu, tiểu đoàn diệt gọn đoàn xe 12 chiếc, tiêu diệt và làm bị thương 50 tên, thu 52 súng.

Trận đầu nghi binh cho chiến dịch thắng lợi giòn giã. Cả tiểu đoàn ai cũng phấn khởi. Tôi thấy lòng lâng lâng, rất vui vì anh em tỏ ra tin tưởng vào khả năng chỉ huy của mình.

Khi chiến dịch Bình Giã chính thức nổ ra, vào giai đoạn gay cấn nhất trên chiến trường, để chia lửa, tiểu đoàn hành quân nghi binh xuống nam đường 15, ép sát phía nam thị trấn Long Thành, thọc qua phía tây đánh tiêu diệt dồn Tam An sát thị trấn. Địch tưởng ta có một cánh quân lớn đang ép sát Sài Gòn - khoảng 20km theo đường chim bay - chúng phải phân tán lực lượng tăng cường đối phó trên đường 15.

Để tiểu đoàn không bị cô lập dưới nam đường 15, không bị ép về một phía, phải gây rối địch mọi hướng, tôi phân công Út Thắng dẫn Đại đội 2 vượt đường 15 về phía bắc, chọn vùng Bình Sơn, An Viễn hoạt động.

Đêm đầu năm 1965, Út Thắng cùng Đại đội 2 vượt qua đường an toàn và bí mật. Từ đó đến ngày 15 tháng giêng năm 1965, Út Thắng tổ chức đánh nhỏ lẻ liên tục làm cho địch phải phân tán đối phó trên bắc lộ 15, giảm bớt sức ép của địch đối với tiểu đoàn ở nam lộ.

Út Thắng chỉ huy đánh một trận sáng tạo, bất ngờ tiêu diệt đồn bảo an Bình Sơn khiến địch hoang mang. Nắm được quy luật, buổi trưa khi xe chở công nhân cạo mủ cao su đi ngang qua đồn bảo an, bọn lính hay túa ra trêu ghẹo chị em công nhân, Út Thắng lợi dụng ngay sơ hở này để “gậy ông đập lưng ông”.

Đại đội 2 vào giờ ấy cũng đi 4 xe như chị em công nhân cạo mủ đi làm về. Xe chạy đến cổng đồn thì bất ngờ từ trên xe, 8 quả cối 60 ly phóng vào đồn. Anh em từ trên xe nhảy xuống, xung phong thẳng vào cửa đồn. Địch không trở tay kịp, ta diệt đồn nhanh gọn, thu hơn 30 súng. Nhân thời cơ này, du kích địa phương nổi dậy phá kìm, phá ấp chiến lược giành thắng lợi lớn.

Tháng 3 năm 1965, tổng kết chiến dịch Bình Giã ở suối Nhung, Chiến khu Đ, Tiểu đoàn 800 được đánh giá là “

đã hoạt động tốt và liên tục làm tiêu hao nhiều sinh lực địch, có một số trận diệt gọn, hiệu suất chiến đấu cao như trận đánh giao thông trên lộ 15, các trận diệt bót Tam An, đồn Bình Sơn... hoàn thành tốt nhiệm vụ nghi binh, thu hút địch, buộc chúng phải phân tán để đối phó tạo thuận lợi cho hướng chủ yếu của chiến dịch

".

Qua chiến dịch Bình Giã, tình đồng chí, tình thương yêu trong đơn vị càng gắn bó. Giữa cán bộ, chiến sĩ, giữa đại đội này với đại đội khác, càng tin tưởng nhau hơn trong chiến đấu.

Tôi và anh em đơn vị có dịp gần gũi cán bộ địa phương và du kích nhiều hơn. Anh em chi bộ, anh em du kích không muốn tiểu đoàn đi nơi khác. Chúng tôi cũng rất quý mến anh em. Rõ ràng, chỉ có trong chiến đấu, tình người mới càng đằm thắm. Nhưng tiểu đoàn là đơn vị chủ lực của quân khu. Nó không thể là của riêng của một địa phương nào.

TIỂU ĐOÀN 1 TRUNG ĐOÀN 4 T1 (QUÂN KHU 7)

Hoàn thành tốt nhiệm vụ trong chiến dịch Bình Giã, chiến dịch đầu tiên của Quân giải phóng miền Nam, bước đầu tôi đã chiếm được niềm tin trong lòng anh em Tiểu đoàn.

Tết Ất Tỵ (1965), Tiểu đoàn đón một cái Tết vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi. Sau chiến dịch Bình Giã phong trào đấu tranh chính trị, phá ấp chiến lược, phong trào du kích các tỉnh miền Đông phát triển mạnh. Vùng giải phóng các nơi được mở rộng.

Bộ Tư lệnh Miền chủ trương, tập trung xây dựng các đơn vị chủ lực để đánh những đòn tiêu diệt lớn nhằm tiếp tục mở rộng vùng giải phóng. Bộ Tư lệnh T1 (Quân khu 7) quyết định thành lập trung đoàn đầu tiên của Quân khu tại vùng căn cứ Chiến khu Đ, lấy phiên hiệu là Trung đoàn Đồng Nai, sau đổi là Trung đoàn 4 (Q764) theo phiên hiệu do Bộ Tư lệnh Miền đặt.

Tổ chức ăn Tết cho Tiểu đoàn xong, theo lệnh của Bộ Tư lệnh Tl, tôi tổ chức cho Tiểu đoàn tạm biệt chiến trường Bà Rịa hành quân về Chiến khu Đ.

Khi mới thành lập, trực thuộc Trung đoàn 4 có 2 tiểu đoàn bộ binh, một đại đội trợ chiến, một trung đội trinh sát và cơ quan trung đoàn bộ gồm các ban Tham mưu, Chính trị và Hậu cần. Tiểu đoàn 800 chúng tôi là đơn vị đã kinh qua chiến đấu nhiều năm, đội ngũ cán bộ chiến sĩ được rèn luyện và trưởng thành, lại thông thạo địa hình miền Đông Nam Bộ nên được giao nhiệm vụ là lực lượng chủ công của Trung đoàn với phiên hiệu là Tiểu đoàn 1. Tiểu đoàn 308 (gồm các đơn vị vận tải, sản xuất bảo vệ căn cứ) mới thành lập mang phiên hiệu Tiểu đoàn 3. Ban chỉ huy Trung đoàn gồm đồng chí Trần Minh Tâm - Trung đoàn trưởng, Đặng Kỷ - Chính ủy Trung đoàn, Đặng Ngọc Sĩ - Trung đoàn phó. Tôi làm Tiểu đoàn trường Tiểu đoàn 1, Hồ Văn Nam (Sậm) làm Chính trị viên, Trần Minh Thắng làm Tiểu đoàn phó. Huỳnh Thìn làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, Út Minh làm Chính trị viên và Tư Thinh làm Tiểu đoàn phó.

Biên chế ban đầu của trung đoàn còn thiếu, vũ khí trang bị của cấp trung đoàn cũng thiếu. Riêng Tiểu đoàn 1 chúng tôi, quân số trên 500, biên chế có 3 đại đội bộ binh, 1 Đại đội trợ chiến, 1 đại đội trinh sát, 1 trung đội thông tin, 1 trung đội vận tải, 1 trung đội quân y, vũ khí được trang bị rất tốt về chủng loại và rất đầy đủ.

Ngày 31 tháng 1 năm 1965, để chào mừng ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư lệnh Quân khu ra chỉ thị cho Trung đoàn tổ chức đánh một trận đánh thắng lợi giòn giã trên khu vực đường 16 Tân Uyên để xây dựng truyền thống Trung đoàn. Thật là một nhiệm vụ rất khó khăn lúc bấy giờ. Vì đơn vị mới thành lập, cán bộ chưa quen tính cách nhau, cơ quan chưa biết ưu thế của đơn vị, đặc biệt là chưa đánh kết hợp lực lượng trung đoàn lần nào...

Trước khó khăn ấy, anh Hai Sỹ  - Trung đoàn phó, người hiểu Tiểu đoàn 1 nhất xuống Tiểu đoàn và bàn với tôi, Út Thắng, Ba Nam về nhiệm vụ được giao. Sau khi cân nhắc kỹ, chúng tôi hạ quyết tâm với anh Hai Sỹ:

-   Tiểu đoàn sẽ làm nòng cốt đánh một trận trên đường 16.

Tôi nói tiếp:

-   Anh Hai báo cáo với anh Năm Tâm để anh yên tâm.

Trung đoàn tổ chức đi nghiên cứu chiến trường, lực lượng tham gia gồm cán bộ Tiểu đoàn 1 và 3, cùng Đại đội 61 của Bình Dương để hình thành phương án đánh phục kích địch trên đường 16, vận động cấp trung đoàn tham gia, vị trí là khu vực ngã ba cổng Xanh.

Ngày 2 tháng 2 năm 1965, Trung đoàn hành quân phục kích gần khu vực ngã ba cổng Xanh đến khu vực Nhà Đỏ trên đường 16 Tân Uyên đi Phú Giáo. Tiểu đoàn 1 được tăng cường thêm Đại đội 61 của Bến Cát (Bình Dương), từ bắc đường 16 trong đêm hành quân xuống nam đường 16, phục kích chặn đầu và đánh từ nam lên bắc đường 16 khi địch lọt vào. Tiểu đoàn 3 phục kích đối diện với Tiểu đoàn 1. Do địa hình trống trải, Tiểu đoàn 3 phải phục cách đường hơi xa, khoảng 700 - 800 mét, nghe Tiểu đoàn 1 nổ súng thì phải nhanh chóng đánh lên mặt đường.

Đúng như dự kiến trong kế hoạch, 8 giờ ngày 3 tháng 2, Tiểu đoàn 31 biệt động quân ngụy thuộc Chi khu Phú Giáo hành quân lọt vào trận địa phục kích của ta. Đại đội 61 nổ súng khóa đầu. Toàn tiểu đoàn 1 xung phong lên mặt đường.

Bị đánh bất ngờ, ngay từ phút đầu, địch đã rối loạn đội hình, bị tiêu diệt một số. Tôi cử Út Thắng nắm trinh sát chạy nhanh đến báo tin cho Đại đội 1 của Hai Phê thúc đánh nhanh, chậm sẽ bị phi pháo. Út Thắng nhận lệnh, thực hành chỉ huy xuất sắc. Địch lợi dụng địa hình chống đỡ, gọi trực thăng chi viện làm cho trận chiến thêm quyết liệt.

Tiểu đoàn 3 không thấy xuất kích, để địch chạy thoát về Phú Giáo. Sau một giờ chiến đấu, chiến trường im hẳn tiếng súng chỉ còn trên đầu trực thăng đang quần đảo, tôi ra lệnh mỗi đại đội cho một tổ bắn máy bay, tất cả nhanh chóng rút quân theo kế hoạch.

Trận mở đầu của Trung đoàn thắng lợi. Ta diệt 2 đại đội địch, bắn rơi một máy bay trực thăng thu trên 40 súng, địch chết và bị thương 300 tên. Ta hy sinh 3 đồng chí, bị thương trên 10 đồng chí trong đó có Hai Phê, Đại đội trưởng Đại đội 1.

Họp rút kinh nghiệm trận đánh, Ban Chỉ huy Trung đoàn kết luận:

-   Trận đánh có hiệu suất cao. Tiểu đoàn 1 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiểu đoàn 3 không xuất kích kịp thời do tổ chức quan sát không tốt, không nghe rõ tiếng súng của Tiểu đoàn 1, đến khi xuất kích thì trận đánh đã kết thúc.

Họp xong, tôi đến gặp Huỳnh Thìn, Tiểu đoàn trưởng Tiếu đoàn 3 và an ủi anh:

-   Anh chưa quen địa hình ở đây. Hơn nữa, Tiểu đoàn phục kích dưới triền thấp nên không nghe tiếng súng. Tôi hiểu anh. Anh yên lòng, chúng ta còn chiến đấu với nhau dài dài…

Ngày 3 tháng 2 năm 1965 trở thành ngày thành lập Trung đoàn 4.

Chiến thắng Nhà Đỏ - Cổng Xanh đường 16 khởi đầu xây dựng truyền thống Trung đoàn “ĐÃ ĐÁNH LÀ THẮNG".

Tiểu đoàn 1 bước đầu gây được lòng tin với cán bộ Trung đoàn, với các đơn vị bạn trong Trung đoàn.

MÙA KHÔ 1965 TRÊN QUỐC LỘ 20

Để mở rộng và củng cố vững các cứ địa cách mạng khu vực miền Đông Nam Bộ, cũng để rèn luyện Trung đoàn mới thành lập, chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh T1. Ngày 6 tháng 5 năm 1965, Trung đoàn hành quân với khí thế quyết chiến quyết thắng về hướng đường 20 từ Long Khánh đi Đà Lạt.

Đến bàu Nước Sôi (Định Quán), Trung đoàn dừng lại và liên hệ với anh Sáu Vịnh, bộ phận Định Quán, tổ chức trinh sát và đánh nhỏ lẻ xung quanh Chi khu Định Quán, Tà Lài...

Trung đoàn trưởng Năm Tâm giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 1 nghiên cứu, tổ chức đánh một trận giao thông trên đường 20. Đánh giao thông đối với Tiểu đoàn 1 đã quen thuộc. Tôi và Út Thắng tổ chức nghiên cứu quy luật hoạt động của xe và bộ binh địch trên đường 20. Vài ngay sau, Tiểu đoàn đã hình thành quyết tâm và kế hoạch đánh địch, báo cáo với Trung đoàn và được duyệt.

Thông thường, địch có một đội tuần tra đường gồm 3 xe bọc thép, 4 xe GMC đi từ hướng Long Khánh lên, qua Định Quán, tới Tà Lài thì quay về Long Khánh.

Đêm mùng 6 rạng sáng mùng 7 tháng 5, Tiểu đoàn hành quân bố trí ở phía nam đường 20, đoạn giữa Định Quán đi Tà Lài. Đánh chặn đầu là Đại đội 3 của Ba Thành, được tăng cường 2 khẩu ĐKZ 57, tổ chức bắn chặn xe đi đầu. Trinh sát Đại đội 3 bố trí một quả mìn định hướng đặt từ ta luy cao thổi ra mặt đường. Như vậy, bảo đảm chặn đầu buộc xe địch phải dừng lại. Đồng thời đội hình Tiểu đoàn phục dài trên 1 km. 8 giờ, đài quan sát báo đoàn xe đã tới cách đài 300m.

Tôi ra lệnh cho Đại đội 3 chuẩn bị chặn đầu khi xe tới, ĐKZ phát hỏa cũng là lệnh nổ súng của toàn Tiểu đoàn.

Hai khẩu ĐKZ bắn liền hai quả, mìn nổ nhưng một xe bọc thép vẫn chạy thoát lên Tà Lài, Đại đội 3 đuổi theo không kịp.

Sau 20 phút chiến đấu, Tiểu đoàn diệt 2 xe bọc thép, 4 xe GMC, một trung đội bảo an, thu 21 súng các loại. Mặc dù vẫn bảo đảm an toàn lực lượng nhưng đây là một trận đánh không diệt gọn.

Đại đội 3 họp kiểm điểm và tôi xuống dự. Nguyên nhân trận đánh chưa được xuất sắc là do anh em bố trí 2 khẩu ĐKZ bắn vào cùng một điểm, mìn định hướng cũng tập trung vào điểm bắn của hai khẩu ĐKZ để bảo đảm chặn chiếc xe đầu chắc ăn. Đúng như vậy, chiếc xe đầu trúng đạn đứng ngay. Nhưng chiếc thứ hai tăng tốc chạy vọt ra khỏi đội hình, chiếc thứ ba vì chạy sau 4 xe GMC nên bị diệt.

Sau trận đường 20 của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn trưởng Năm Tân thấy không hài lòng, trận đánh không diệt gọn. Song vì ngại nên anh không phê bình mà cử anh Hai Sỹ - Trung đoàn phó xuống Tiểu đoàn góp ý với anh em. Tôi trình bày với anh Hai Sỹ:

-   Ý chí thì không có vấn đề. Quyết tâm đánh địch rất cao nhưng kế hoạch chặn đầu có khuyết điểm. Hỏa lực ĐKZ và mìn chỉ nhắm vào một điểm. Không lường trước được chiếc sau lại càn chạy về trước quá nhanh. Tiểu đoàn đã họp rút kinh nghiệm. Anh Hai yên lòng, chúng tôi đã kiểm điểm rất nghiêm túc.

Anh Hai Sỹ, người đàn anh rất hiểu cán bộ, hiểu nết chiến đấu của Tiểu đoàn, song anh cũng nhắc nhở:

-   Trung đoàn trưởng không hài lòng đó. Chú ý !

Sau trận đánh giao thông trên đường 20 của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn cùng địa phương làm chủ đường 20 đoạn từ Định Quán đi La Ngà, cô lập Chi khu Định Quán, buộc địch phải lập cầu hàng không vận chuyển từ Sài Gòn lên Đà Lạt. Ý định của Ban Chỉ huy Trung đoàn là buộc địch phải chi viện quân lớn để giải tỏa Chi khu Định Quán, mở thông đường 20. Đúng theo kế hoạch của ta, Trung đoàn tổ chức trận địa phục kích từ cây số 109 đến cây số 111 đoạn phía bắc cầu La Ngà. Trận này, ta tổ chức đánh cấp trung đoàn, phân công Tiểu đoàn 3 chặn đầu, Tiểu đoàn 1 khóa đuôi.

Sau khi nhận nhiệm vụ, tôi về làm công tác tổ chức cho cán bộ khảo sát trên bản đồ và đi thực địa. Tôi phân công: Đại đội 2 của Chín Hướng bố trí giáp với Tiểu đoàn 3. Đại đội 3 do Ba Thành làm Đại đội trưởng giáp với Đại đội 2 còn Đại đội 1 do Hai Phê làm đại đội trưởng khóa đuôi. Đài quan sát do trinh sát bố trí cách đội hình Đại đội 1 khoảng 500 mét. Trận địa cối của Đại đội 4 do anh Lô - Đại đội trưởng bố trí sau khi quan sát sở của Tiểu đoàn, đối diện bên kia đường chuẩn bị lực lượng bắn tỉa và bắn theo yêu cầu.

Làm công tác tổ chức trên bản đồ xong, có ý kiến bàn:

-   Trung đoàn không tin Tiểu đoàn 1 nữa mới để Tiểu đoàn 3 chặn đầu.

-   Đánh thế này nhẹ hều ! Từ 10 xe trở lại thì Tiểu đoàn 3 xơi. Tiểu đoàn 1 thất nghiệp.

Nhận thấy tư tưởng cán bộ bị phân tán, có vẻ xem thường trận này, tôi bàn với anh Ba Nam - Chính trị viên cần phải chấn chỉnh kịp thời, bảo đảm đoàn kết và quyết tâm. Phần quân sự, tôi phân tích thêm về thực lực của địch

Họp anh em cán bộ lại, tôi nói:

-   Không phải trung đoàn không tin Tiểu đoàn 1 mà ngược lại, ta đã cắt lộ 20, cắt đường tiếp tế đi Đà Lạt cô lập Định Quán, buộc địch phải dùng lực lượng lớn đi giải tỏa. Có thể từ 20 đến 30 xe GMC chở quân và từ 2 chi đội xe thiết giáp trở lên yểm trợ, đội hình địch sẽ dài.

Tôi tiếp tục lý giải:

-   Tiểu đoàn 3 chặn đầu, địch sẽ dồn cục lại. Mật độ xe và sinh lực địch sẽ dày đặc trước chính diện với Tiểu đoàn 1. Nhiệm vụ Tiểu đoàn rất nặng. Các đồng chí phải tổ chức chiến đấu trong đại đội thật chu đáo, quyết tâm cao, xung phong thật nhanh, thật quyết liệt, không được coi thường.

Anh Ba Nam phân tích thêm cái hại của chủ quan, động viên toàn Tiểu đoàn quyết tâm “ĐÃ ĐÁNH LÀ THẮNG”.

Vào những ngày này, Trung đoàn kết hợp với lực lượng địa phương liên tiếp pháo kích Chi khu Định Quán, phá rã hết hệ thống ấp chiến lược trên đoạn Định Quán đi Tà Lài, làm cho địch càng thêm hoang mang rất có lợi cho ta.

Nhận thấy nguy cơ mất đường 20 lâu dài, Đà Lạt rất dễ bị cô lập; Đà Lạt kêu cứu, Định Quán hoang mang, dao động. Bằng mọi giá, Sài Gòn phải mở thông đường 20. Ngày 15 tháng 5, địch dùng Tiểu đoàn bảo an số 41 với 2 chi đội xe bọc thép 8 chiếc, tổ chức hành quân giải tỏa đường 20 đoạn Định Quán - Tà Lài và cứu nguy cho Chi khu Định Quán.

Sáng sớm, địch cho một phi đội trực thăng 2 chiếc lên rà soát, sục sạo dọc theo trục lộ và bắn phá những nơi chúng nghi ngờ.

8   giờ 30 phút, đài quan sát của Tiểu đoàn 1 báo cáo phát hiện xe địch đến cách cầu La Ngà 300 mét đang dừng lại, thả bộ binh xuống lục soát hai bên đường. Tôi ra lệnh toàn Tiểu đoàn ẩn nấp kỹ, không để lộ. Sau khi lục soát hai bên đầu cầu không thấy gì, địch lên xe, hành quân tiếp.

Đi đầu là 4 xe bọc thép qua khỏi đội hình Đại đội 1 thì tới xe GMC chở quân, mỗi xe cách nhau từ 10 đến 15 mét, tổng cộng là 15 xe.

Khi đội hình địch đến điểm phục cuối của Tiểu đoàn 3, ta nổ súng khóa đầu chính xác, ngay loạt đạn đầu, xe thiết giáp đi đầu bốc cháy và dừng lại.

Tôi ra lệnh cho Đại đội 1 của Hai Phê nhanh chóng khóa đuôi chiếm cầu La Ngà, không cho địch tháo chạy về Sài Gòn và cắt đuôi nếu chúng còn đuôi dài phía sau, cho Đại đội 2 xung phong ngay ra mặt đường đánh cắt đội hình chúng ra, chúng đã cảnh giác nhưng vẫn bị bất ngờ vì không ngờ lực lượng ta lớn vậy.

Cả tiểu đoàn địch rối loạn, chạy dồn về phía sau làm cho trận địa của Đại đội 1 mật độ địch dày đặc. Bốn thiết giáp của địch phía sau bắn như vãi đạn hòng ngăn chặn Đại đội 1 đang tiến công. Bộ binh Tiểu đoàn 41 địch chạy dồn về phía bên kia đường, kết hợp với thiết giáp chống cự quyết liệt.

Đại đội 2 nhận lệnh tập trung hỏa lực xung phong vượt đường, đánh tạt về trái, về hướng cầu La Ngà để cùng Đại đội 1 giải quyết địch co cụm.

Sau hơn 1 giờ chiến đấu quyết liệt, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Trên chính diện trận địa của Tiểu đoàn 1, địch chết và bị thương trên 100 tên. Tiểu đoàn bắt sống 11 tên, bắn cháy 19 xe, trong đó có 4 xe thiết giáp, thu trên 70 súng các loại.

Chiến thắng cầu La Ngà của Tiểu đoàn 1 nằm trong đội hình Trung đoàn 4 làm tôi nhớ về trận La Ngà đầu tiên năm 1948. Cũng tại đoạn đường lịch sử này, Chi đội 10 của anh Huỳnh Văn Nghệ thời đánh Pháp đã lập chiến công vang dội. Trận đánh gây tiếng vang mạnh mẽ dư âm đến tận nước Pháp.

17 năm sau trận La Ngà lần thứ nhất, Trung đoàn 4 giờ đây lại tô đậm thêm truyền thống “

miền Đông gian lao mà anh dũng

”. Chiến thắng La Ngà khuấy động toàn vùng đông - tây lộ 20, nam - bắc đường số 1, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng địa phương Long Khánh, Định Quán, Gia Ray, Trà Tân, Xuân Lộc, phát triển và hoạt động có hiệu quả trên một địa bàn rộng lớn.

Trong sơ kết trận La Ngà. tôi nhắc lại với anh em:

-   Như vậy, không thể nói Trung đoàn không tin Tiểu đoàn 1. Mà ngược lại, vì rất tin nên Trung đoàn đã giao phần chiến đấu nặng nhọc nhất cho Tiểu đoàn.

Tổng kết trận đánh ở Trung đoàn, đồng chí Năm Tâm, Trung đoàn trưởng nhận xét:

-   Tiểu đoàn 1 giữ bí mật tốt trước trận đánh. Địch đi qua đội hình mà không phát hiện được. Trong chiến đấu, Tiểu đoàn thực hành động tác chiến thuật khóa đuôi và chia cắt tốt, chiến đấu dũng mãnh, đánh tiêu diệt. Tiểu đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Đánh giá của Trung đoàn thêm niềm hứng khởi cho cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn. Riêng tôi, tôi thầm cám ơn anh em đã không phụ lòng tin cậy của Tiểu đoàn trưởng, giúp tôi hoàn thành nhiệm vụ.

TIÊU DIỆT YẾU KHU QUÂN SỰ GIA RAY

Tiếp tục kế hoạch hoạt động của Trung đoàn, trinh sát Trung đoàn và Tiểu đoàn 1 nghiên cứu yếu khu Gia Ray.

Yếu khu Gia Ray án ngữ ngã ba Ông Đồn, sát đường sắt Long Khánh - Phan Thiết, là trung tâm huân luyện biệt kích của vùng 3 chiến thuật ngụy. Lực lượng thường xuyên có 3 đại đội học viên đầy đủ vũ khí huấn luyện, 1 đại đội bảo an phòng thủ yếu khu. Hệ thống công sự của yếu khu khá kiên cố, với bờ thành đất xung quanh, các lô cốt, 3 lớp rào dây thép gai, hào sâu bên ngoài, mìn và lựu đạn gài.

Tôi và trinh sát Tiểu đoàn bò vào tận bờ tường, nhìn được vào bên trong, lên được sơ đồ hoàn chỉnh cách bố trí của yếu khu. Một tình huống rất quan trọng là qua các đêm nghiên cứu có đêm có 1 đoàn xe lửa với 6 toa trong đó có 3

ét cọt

 (như xe bọc thép) dừng ở yếu khu. Trường hợp tấn công yếu khu mà có xe ét cọt thì thêm một mục tiêu cứng bên ngoài phải giải quyết. Tôi lên quyết tâm, bàn trong Đảng ủy và Ban chỉ huy Tiểu đoàn, dù thế nào vẫn đánh và đánh phải thắng.

Lên báo cáo với Ban chỉ huy Trung đoàn, Trung đoàn ra lệnh:

-   Tiểu đoàn 1 được tăng cường Đại đội 12 của Tiểu đoàn 3 và một Trung đội ĐKZ của Trung đoàn. Tiểu đoàn đảm nhiệm tấn công toàn bộ yếu khu Gia Ray. Ngày N nếu phát hiện có 

ét cọt

 thì không đánh, lùi lại N+1 hoặc N+2.

-   Tiểu đoàn 3 thiếu, làm dự bị của Trung đoàn. Sẵn sàng chiến đấu theo lệnh Ban chỉ huy Trung đoàn và bảo đảm chặn viện, hướng từ Long Khánh ra.

-   Trận địa cối của Trung đoàn bố trí bắn theo yêu cầu của Tiểu đoàn 1.

Nhận lệnh xong, tôi chỉ có một đề nghị: dứt điểm yếu khu Gia Ray, cho phép Tiểu đoàn đổi vũ khí. Tôi nắm được trong yếu khu có kho vũ khí dùng cho học viên học toàn súng tốt và mới.

Trung đoàn trưởng Năm Tâm đồng ý.

Tôi xây dựng Tiểu đoàn có nếp tỉ mỉ và thận trọng trong nghiên cứu địch và tổ chức chiến đấu. Sau khi nhân lệnh, chúng tôi đắp sa bàn để phổ biến nhiệm vụ, sau đó xây dựng thao trường tương ứng như yếu khu để anh em tập. Được mấy đêm mới kết luận lại nhiệm vụ từng cánh. 

Tiểu đoàn hạ quyết tâm: Đánh tiêu diệt gọn, nhanh. Có ét cọt cũng đánh. Đã hành quân phải chiến thắng!

Chúng tôi đã có kế hoạch dùng 1 ĐKZ và một trung đội bộ binh đánh 

ét cọt

. Tiểu đoàn 

“không theo lệnh”

 của Trung đoàn, nếu có 

ét cọt

 thì lui lại ngày N.

Đêm 8 rạng ngày 9 tháng 6, theo kế hoạch, Tiểu đoàn 1 hành quân chiến đấu. 21 giờ đội hình cách mục tiêu 2 km. Tổ trinh sát Trung đoàn bám mục tiêu là đồng chí My chạy về ngang tiểu đoàn báo “

có ét cọt

”. Tôi nói với đồng chí My: “

Anh về báo cáo với Ban chỉ huy Trung đoàn. Tiểu đoàn 1 vẫn hành quân

'’.

My chạy về báo cáo với anh Năm Tâm. Anh hỏi:

    - Có báo cho Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 biết chưa?

    - Dạ, đã báo anh Năm Hưng rồi. Ảnh nói tôi báo với Trung đoàn, ảnh vẫn hành quân.

Anh Năm Tâm ngỡ ngàng mất một lúc rồi quay sang hỏi anh Hai Sỹ, Trung đoàn phó. Anh Hai Sỹ nói: “

Nó đánh đó! Nếp Tiểu đoàn 800 là vậy, đã hành quân là không dừng. Nó đã có kế hoạch đánh ét cọt rồi. Để nghị anh cho dự bị Trung đoàn sẵn sàng chi viện cho nó

”. Anh Hai Sỹ hiểu Tiểu đoàn 1 hơn ai hết.

23 giờ ngày 9 tháng 6, toàn Tiểu đoàn đang triển khai tiếp cận mục tiêu. Anh Châu, Đại đội phó Đại đội 1, bò lại quan sát sở tiểu đoàn báo cáo với tôi:

-   Có một tiểu đội địch phục kích bên ngoài.

Tôi chỉ thị ngay:

-   Cho một tiểu đội của ta phục kích ém sát nó. Khi nổ súng, anh cho nổ vào bọn phục kích cho nó chạy luôn vô núi Gia Ray.

Đúng 24 giờ, giờ G. Tổ đặc công đánh trung tâm đã lọt vào trong và cho nổ mìn làm địch rối loạn. Các khẩu ĐKZ bắn vào các lô cốt. Toàn bộ lực lượng Tiểu đoàn xung phong qua các cửa mở đặc công đã mở sẵn. Bị đánh bất ngờ, quyết liệt địch không trở tay kịp.

Sau hơn nửa giờ chiến đấu, Tiểu đoàn đã làm chủ hoàn toàn yếu khu Gia Ray. Địch chết và bị thương trên 100 tên. Ta thu toàn bộ vũ khí và rất nhiều lương thực, được dân công tỉnh Bà Rịa - Long Khánh tải về núi Mây Tào cất giấu. Chỗ cất giấu kho la ve, sau thành “ngã ba la ve".

Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn không chỉ thành thạo động tác chiến đấu  mà còn rất nhanh tay. Chiếm lĩnh trận địa xong, chiếm được kho súng, tất cả Tiếu đoàn đều bỏ súng cũ tại chỗ cho dân công tải đi và tự trang bị cho mình toàn súng mới. Từ súng trường Mỹ tự động đến Carbin, trung liên, cối, cả đến súng ngắn Côn 12 ly của cán bộ đại đội cũng mới hoàn toàn.

Sau chiến thắng yếu khu Gia Ray, toàn Tiểu đoàn thay đổi hoàn toàn trang bị. Súng cũ của Tiểu đoàn, dân công tải về, sau Trung đoàn lấy trang bị cho các đơn vị khác trong Trung đoàn. Từ đó nảy sinh thắc mắc: Toàn súng cũ của Tiểu đoàn 1. Chính ủy Trung đoàn định ra lệnh cho Tiểu đoàn 1 kiểm điểm. Nhưng anh Năm Tâm cản lại: “

Tôi cho phép Tiểu đoàn 1 đổi súng mới nếu chiến thắng

Sau trận đánh, địch bỏ luôn yếu khu Gia Ray. Hệ thống đồn trên đường số 3 từ suối Cát qua Trà Cổ, đến Đồng Hiệp, địch đều hoang mang bỏ chạy. Nhân dân Bảo Chánh, Bảo Bình, Tân Phong nổi dậy phá kìm. Cả một vùng rộng lớn ven lộ 1 và lộ số 3 dài gần cả trăm cây số được giải phóng.

TỪ NÚI THỊ VẢI

Giữa năm 1965, vùng giải phóng càng ngày càng mở rộng, ngụy quân ngụy quyền đứng trước nguy cơ sụp đổ, quân Mỹ ồ ạt đưa quân với quy mô lớn vào miền Nam, đồng thời đẩy mạnh chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Trên địa bàn Biên Hòa, Bà Rịa — Long Khánh, Vũng Tàu, quân Mỹ cũng bắt đầu triển khai lực lượng.

Trước yêu cầu mới của nhiệm vụ, Tiểu đoàn 1 nằm trong đội hình trung đoàn 4 .chuyển về địa bàn đông — nam Long Khánh, phối hợp với lực lượng Biên Hòa 9 Bà Rịa tổ chức đánh dịch trên quốc lộ 1, quốc lộ 15 và Hên tỉnh lộ số 2, hỗ trợ cho phong trào du kích chiến tranh Bà Rịa - Biên Hòa, sẵn sàng đương đầu với quân Mỹ và chư hầu. Trở về chiến trường cũ quen thuộc, tuy có gian khổ song tôi và đơn vị thấy không có gì bỡ ngỡ. Tháng 7 năm 1965, toàn Trung đoàn đã cơ động hết đội hình xuống đông

- Tây lộ 2, Tiểu đoàn 1 xây dựng căn cứ ở suối Xà Môn

- Gia Kốp thuộc xả Hắc Dịch huyện Châu Thành, tỉnh Bà Rịa.

Sau khi ổn định căn cứ của Tiểu đoàn, Trung đoàn trưởng Năm Tâm, cũng quen thuộc địa hình này, trực tiếp xuống Tiểu đoàn. Anh thăm dò tôi:

- Mới về đây, Năm Hưng thấy nên triển khai chiến đấu hướng nào? Đã đánh phải diệt gọn, gây uy thế cho đơn vị mới về.

- Mới về là Trung đoàn, chứ Tiểu đoàn 1 vốn là Tiểu đoàn 800 trước đây thì vùng này là chiến trường quen thuộc

Tôi báo cáo với anh:

- Đánh dễ nhất, gọn nhất là đánh giao thông đường 15. Có thể nghiên cứu trên nhiều đoạn. Tiểu đoàn 1 đảm bào đánh chắc thắng.

Anh Năm Tâm giao nhiệm vụ luôn:

- Vậy, Năm Hưng tổ chức nghiên cứu đánh giao thông trên đường 15. Nghiên cứu xong, thông qua trực tiếp tôi.

Ngày 4 tháng 7, Tiểu đoàn đang làm công sự. Út Thắng - Tiểu đoàn phó được giao nhiệm vụ ở nhà chỉ huy, tôi dẫn đoàn cán bộ có các đại đội trưởng và một tiểu đội trinh sát xuống núi Thị Vải để nghiên cứu đường 15. Trung đoàn có anh Năm Tâm - Trung đoàn trưởng, anh Mô - cán bộ tác chiến Trung đoàn và một tiểu đội trinh sát cùng xuống để khi tôi nghiên cứu xong thì trực tiếp thông qua quyết tâm với Trung đoàn trưởng. Đến Thị Vải, đoàn tôi ở hang 90. Đoàn cán bộ Trung đoàn ở trên tôi một đoạn.

Xuống đây, tôi gặp anh Bình (Tốt) - Tham mưu trưởng Tỉnh đội Bà Rịa. Hồi đoàn Phương Đông 2 về Nam, anh Bình là Phân đội trưởng, tôi là Bí thư chi bộ. Gặp nhau, hai anh em rất mừng, trò chuyện như bắp rang. Gặp cả anh Quang, Huyện đội trưởng Châu Thành. Như vậy, phía địa phương có đủ thành phần tỉnh, huyện và xã Phủ Mỹ sở tại, rất thuận lợi cho công tác nghiên cứu và kết hợp tổ chức chiến đấu sau này.

Ngồi ở lưng chừng núi Thị Vải, phóng tầm mắt nhìn xuống đường 15, thấy từ bên trái là Chu Hải - Kim Hải đến Đồng Lớn, đến Phú Thạnh... nhìn xa hơn, thắng trước mặt thấy cả vùng Rừng Sác, sông Thị Vải, sông Lòng Tàu... Tôi xác định rõ, khu căn cứ phía tây này của Tỉnh đội Bà Chợ thời chống Pháp. Trên đoạn đường này, lúc chiến dịch Bình Giã Q762 đã đánh một lần. Tôi nghĩ muốn đánh lại trận Đồng Lớn phải có cách tác chiến khác Q762, nếu đánh kiểu Q762 dễ bị thiệt hại. Tôi họp các cán bộ đại đội của Tiểu đoàn và phác họa kế hoạch:

- Tối nay, ta đi nghiên cứu đoạn từ Đồng Lớn đến Phú Mỹ. Chọn đội hình phục kích là nam đường 15, tức phục kích phía bên kia đường, đánh xong vượt đường về phía rừng vồng. Đường rút, không vào núi Thị Vải, dễ bị máy bay ném bom. Khi rút, đi xuống Eo Ông, vòng ra sau núi. Đánh, như Hoàng Thọ thời đánh Pháp, táo bạo, thật táo bạo và bất ngờ, giải quyết nhanh và gọn.

Các đại đội trưởng đều nhất trí. Sau khi bàn sơ bộ kế hoạch, tắm rửa nghỉ ngơi, chờ đội du kích Phú Mỹ đi công tác về sẽ bàn kế hoạch du kích dẫn đường. Lâu ngày mai gặp lại, các anh Bình, Quang và tôi ngồi tâm tình. Anh Bình nói:

- Thôi, chuyến này lo vợ cho Năm Hưng đi.

- Chiến tranh ngày càng khó, biết đâu mà lo. Tôi đáp.

Anh Bình nói:

- Tại đây chớ đâu.

Rồi các anh bàn riết, chọn người này người kia. Người thi được cái này, chưa được cái khác. Cuối cùng anh Bình bảo:

- Chọn cô Tuyết (vợ tôi bây giờ). Tuyết được đấy.

Tôi nửa đùa nửa thật, thả lỏng một câu:

- Tùy các anh. Các anh đồng ý, tôi đồng ý.

Thế là các anh bố trí kế hoạch, đêm nay, sau khi đi nghiên cứu về, cho tôi gặp.

14 giờ, cán bộ xã Phú Mỹ và đội du kích đi công tác về. Tôi mặc quần cụt áo thun lá, đứng trên dốc nhìn xuống thấy đoàn đang đi lên. Đi đầu là một chị mang một khẩu Tôm-sơn trước ngực, có vẻ hiên ngang lắm. Sau tôi mới biết đó là chị Sáu Phượng, Bí thư chi bộ xã. Đi sau chị còn 3 phụ nữ khác (trong đó có Tuyết) và 4 nam, có đồng chí Thâm - Xã đội trưởng.

Đoàn đi gần tới chỗ tôi đứng. Buột miệng, tôi nói bâng quơ: 

- Phải chi mình có cây súng như của chị đeo trước ngực thì sướng quá.

Cả đoàn nhìn tôi, không hỏi một câu, đi luôn về căn cứ. Sau này mới hay: anh chị cho tôi là tân binh ham súng, có ý xem thường. Thật thì lúc đó tôi đã 31 tuổi, nhưng nhỏ con, ốm, trắng, xem thư sinh lắm. Các anh chị lầm cũng phải!

16 giờ, anh Quang - Huyện đội trưởng tổ chức cuộc họp giữa huyện, tỉnh, xã - có Bí thư và Xả đội trưởng - với cán bộ Tiểu đoàn 1. Tất cả mọi người có mặt đầy đủ, riêng tôi chưa vào, còn mặc quần técrông, áo sơmi đứng ngoài, như người gác cuộc họp. Chị Sáu Phượng nhìn tôi, không hỏi, đi vào hàng 90 ngồi ngay vị trí giữa. Tôi vẫn chưa vào.

Anh Ba Quang, Huyện đội trưởng gọi:

- Đã đủ thành phần cán bộ theo yêu cầu của Năm Hưng rồi. Năm Hưng vào chú trì hội nghị. Có yêu cầu gì, đêm nay xã sẽ giúp đỡ.

Tôi vào, nhìn mọi người:

- Xin chào tất cả các anh chị.

Chị Sáu Phượng nhìn tôi trân trân. Chị không ngờ hồi chiều còn nghĩ tôi là tân binh ham súng, giờ lại chủ trì hội nghị. Đây là dấu ấn đầu tiên của chị với tôi, cũng là dấu ấn chị lo xây dựng vợ cho tôi sau này.

Tôi vào đề ngay. Tôi nói mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp, nhờ du kích xã giúp dẫn đường cho đoàn cán bộ Tiểu đoàn 1 nghiên cứu đêm nay đoạn Đồng Lớn đến cầu Phú Mỹ để đánh một trận giao thông trên đường 15. Sau khi kết thúc hội nghị, tôi đến gặp chị Sáu Phượng:

- Nếu đơn vị tôi đánh trận này tốt, tôi sẽ đổi cho chị một khẩu Carbin tự động nhẹ hơn cây Tômsơn của chị và sẽ trang bị đầy đủ cho đội du kích xã.

Đêm, đoàn cán bộ của Tiểu đoàn, có trinh sát và tác chiến của Trung đoàn đi theo, nghiên cứu thực địa. Tôi phân công phạm vi phục kích, phương pháp tấn công cho từng đơn vị. 24 giờ, đoàn về đến chân núi. Tôi sinh hoạt lần cuối về kế hoạch thời gian, tổ chức quan sát theo dõi quy luật an ninh, lộ trình và quy luật hành quân của địch hàng ngày. Kế hoạch thời gian N và G tính từ ngày hôm sau. Xong xuôi mọi việc, theo kế hoạch bố trí của anh Bình và anh Quang, tôi đi gặp Tuyết. Anh Năm Tám - Trung đoàn trướng đêm đó không đi nghiên cứu, ở căn cứ du kích Phú Mỹ thức chờ tôi dài cổ về thông qua quyết tâm. Khi thấy anh Mô, tác chiến của Trung đoàn về, anh hỏi:

- Năm Hưng đâu?

- Ảnh đang sắp xếp công việc cho đơn vị. Xin sáng mai thông qua quyết tâm.

Anh Mô cũng ủng hộ việc “tình cảm” của tôi. Trong lúc đó tôi và Tuyết gặp nhau trên một tảng đá bằng phẳng của núi Thị Vải, vùng căn cứ của xả Phú Mỹ. Đêm ấy, trăng trong, gió mát. Sắp xếp xong mọi việc cho một trận chiến đấu sắp tới, lòng tôi củng rảnh rang thoái mái. Nhưng tôi không biết mở đầu như thế nào, bằng cách nào. Thực ra mà nói, tôi cũng thuộc loại có tướng tá hào hoa: đẹp vừa phải, sĩ quan cấp cao vì bấy giờ Tiểu đoàn trưởng là hiếm lắm. Nhưng hào hoa là vẻ bên ngoài, thật tình đối với người khác giới tôi còn nhát lắm. Lúng túng, ngượng ngập mất một lúc, mãi tôi mới được một câu:

- Các anh có ý tốt, muốn xây dựng em với anh.

Sau câu mở đầu ấy, chúng tôi tìm hiểu cặn kẽ về hoàn cảnh gia đình của nhau. Gia đình Tuyết ở xã Hòa Long, còn cả cha mẹ và các chị em. Tuyết thoát ly sớm, là du kích xã cũng được mấy năm rồi (làm y tá ờ xã).

Gần 3 giờ sáng, tôi mới nói:

- Anh mồ côi mẹ từ lúc 2 tuổi. Tứ cố vô thân, khi theo cách mạng mới 13, 14 tuổi. Từ đó đến giờ chỉ sống với tình đồng chí, đồng đội. Tình cảm riêng tư rất thiêu thốn. Nếu em thấy bù đắp được tình cảm cho anh thì thương, thương là thương Năm Hưng. Còn thương Tiểu đoàn trưởng thì thôi. Thương anh thì mới lâu bền. Chớ thương Tiểu đoàn trường rất dễ mất, chiến tranh mà, biết thế nào. Em cứ suy nghĩ thật kỹ, khoan trả lời.

Trong đêm tối, tôi nghe tiếng thờ đều đều của Tuyết dường như Tuyết nhích lại gần tôi. Tiếng em thì thào như gió thoảng: 

- Em thương anh, thương hoàn cành của anh, em cảm động lắm nhưng em còn cha mẹ, mà cha em khó lắm, em còn phải xin phép, anh chờ!

Theo kế hoạch, đêm 9 tháng 7, tôi tổ chức cho Tiểu đoàn hành quân từ suối Xà Môn - Gia Kốp xuống Phú Mỹ. 23 giờ, đầu đội hình đã tới gần đường 15 đoạn trận địa. Tôi cho cảnh giới hai đầu và cho anh em lót nilông lên mật đường để vượt dường. Một giờ sáng chiếm lĩnh xong. 5 giờ đã hoàn thành công sự và sần sàng chiến đấu. 

Trận địa phục kích là một khu vực rừng dầu, cây thấp và thưa, xen kẽ với cỏ ống cao, địch ít nghi ngờ hơn bên. phía rừng vồng. Khoảng 6-7 giờ sáng, dân ra đường đi lại mót củi. Có tiếng người dân nói rất lớn:

- Bữa nay không có gió sao lá dầu lật ngược nhiều quá !

Hóa ra anh em làm công sự ngụy trang bằng nhánh cây dầu, không chú ý dể lá dầu lật ngược, dân phát hiện và báo dộng cho ta. Qua dường dây điện thoại, tôi chỉ thị cho anh em bí mật kiểm tra lại hết lá ngụy trang. Nếu dân không báo động, lúc nửa bọn tuần tra địch ngoài dường phát hiện thì nguy.

9 giờ, đài quan sát báo tin bọn an ninh lộ trình đi trên đường, đang thay nhau sục về phía rừng vồng, ít sang bên rừng sác. Vậy là yên tâm.

10 giờ, đoàn xe 12 chiếc có xe bọc thép, 2 chiếc đi đầu, 1 đi sau cùng. Khi địch đến cua Phú Mỹ- Đại đội 2 nổ ĐKZ chặn đầu. Toàn tiểu đoàn đổng loạt nổ súng. Bị đánh bất ngờ, quân địch bỏ xe nhảy xuống. Chưa kịp chống trả thì bị các chiến si ta đã dũng mãnh xung phong lên, diệt và bất sống gần hết.

Chưa có kinh nghiệm tháo súng trên xe bọc thép anh Giàu - Chính trị viên phó Đại đội 2 lấy súng trường Mỹ kề gần cất súng bắn đứt ra dể lấy. Giàu bị thương.

Trong số tù binh bắt được có một tên da trắng, mũi lõ. Anh em báo cáo có một tên Mỹ. Nó nghe được tiếng Việt hoảng quá la lên: “Không phải Mỹ, tôi là Pháp". Nó đúng người Pháp thật.

13 giờ, toàn Tiểu đoàn rút vòng qua núi Eo Óng về sau núi Thị Vải, tránh được trận bom 0 trước núi Thị Vải. Tiểu đoàn về đến cản cứ ở Xà Môn - Gia Kốp lúc 17 giờ, trời đang chập choạng tối.

Kết quả trận đánh: diệt một chi đội xe bọc thép 3 chiếc, 9 xe GMC, diệt một đại đội ngụy, bắt 16 tù binh có 1 tên Pháp, thu 32 súng có 4 đại liên và 4 máy bộ đàm. Một đồng chí ta bị thương nhẹ ở đùi. Trên đường hành quân về, lúc đi ngang chỗ anh Ba Nam - Chính trị viên Tiểu đoàn cho đào sẵn 7 cái huyệt, anh em nói vui: “Vậy là Chính trị viên thất nghiệp rồi”.

Út Thắng - Tiểu đoàn phó dẫn quân về. Tôi cùng trung đội trinh sát ở lại núi Thị Vải, đến gặp Trung đoàn trường báo cáo. Anh Năm Tám khen:

- Tiểu đoàn đánh tốt. Ở trên núi nhìn xuống, như xem phim chiến đấu.

Thực hiện lời hứa, tôi trao ngay cho chị Sáu Phượng một khẩu Carbin, tặng đội du kích của anh Năm Thâm 7 khẩu súng trường, trao cho anh Quang - Huyện đội trưởng hơn 20 khẩu, giao tù binh cho anh Bình tỉnh Bà Rịa giải quyết. Mọi người hồ hởi, phấn khởi. Anh Bình nói vui:

- Năm Hưng đánh một trận tuyệt cú mèo xuất sắc.

Đúng là trận này có dấu ấn của tình yêu tôi và Tuyết. Thái độ tin cậy và tình thương của Tuyết đã khích lệ tôi trước khi bước vào trận đánh. Một trận đánh nhanh và gọn đến tôi cũng không khỏi ngạc nhiên. Đúng là Tiểu đoàn 1 đã đánh tốt như nhận xét và đánh giá của Trung đoàn trưởng Năm Tâm.

NHIỆM VỤ MỚI - CƯƠNG VỊ MỚI

Giữa năm 1965 đến 1966, trước sự tan rã của quốc sách ấp chiến lược, để cứu vãn tình hình suy sụp của chính quyền Sài Gòn, Mỹ ồ ạt đổ quân vào cảng Đà Nẵng, nâng tổng số quân Mỹ lên trên 200.000 tên. Trung đoàn 11 thiết giáp Mỹ với xe tăng nặng, thiết giáp, xe công trình, xe chỉ huy, tổng cộng trên 650 chiếc đổ lên Vũng Tàu, kéo về lập căn cứ ở Suối Râm, nam ngã ba Tân Phong - Long Khánh. Lữ đoàn Hoàng gia sức lập căn cứ ở Núi Đất xã Hòa Long, huyện Châu Thành (Bà Rịa) với trên 6.000 quân. Sư đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan lập căn cứ ở Nước Trong, Long Thành. Dàn pháo Tân Tây Lan chiếm lĩnh trận địa ờ núi Da Quy với 37 khẩu 105 và 155 ly. Bộ Tư lệnh dã chiến 2 và Lữ 173 Mỹ đóng ở Biên Hòa. Sư đoàn 18 ngụy đứng chân ở Long Khánh.

Địch liên tục đánh phá vùng nam - bắc lộ 1, đông -   tây lộ 2 và nam - bắc lộ 15, gom dân về các ấp chiến lược, dùng xe ủi phá rừng nhằm bóc các căn cứ của ta, đánh phá các cửa khẩu mua lương thực của hậu cần ta. Cuộc kháng chiến của toàn miền Nam nói chung, của Bà Rịa - Long Khánh nói riêng đang đi vào một giai đoạn mới: “Chiến tranh cục bộ’. Chiến trường Bà Rịa — Long Khánh ngày càng gian khổ, ác liệt. Khu tam giác đường số 1, số 2 và đường 15 bị các căn cứ Núi Đất, Suối Râm về Nước Trong vây xung quanh. Việc mua lương thực của hậu cần ta trở nên rất khó khăn.

Trung đoàn 4 vừa được bổ sung Tiểu đoàn 265 từ miền Tây lên, mang phiên hiệu Tiểu đoàn 2, do anh Lê Phải làm Tiểu đoàn trưởng. Trung đoàn đầy đủ 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc vẫn tiếp tục đứng chân cả ở đông lẫn tây lộ 2 hoạt động.

Tháng 9 năm 1965, Sư đoàn 5 được thành lập. Anh Năm Tâm - Trung đoàn trưởng về làm Sư đoàn phó. Anh Hai Sỹ làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, tôi làm Tham mưu trưởng Trung đoàn, út Thắng - Tham mưu phó và Hai Phê thay tôi làm Tiểu đoàn trường Tiểu đoàn 1 (anh Hai Phê quê ở Bến cầu, Tây Ninh, không chịu nổi sự đàn áp của địch, chạy vào rừng từ những năm 1958, đã làm du kích địa phương, về Tiểu đoàn từ những ngày đầu mới lập. Người chắc khỏe, rất dũng cảm trong chiến đấu, thận trọng và tỉ mỉ trong nghiên cứu và xây dựng kế hoạch, nghĩa tình sâu đậm với đồng đội, đồng chí. Sau này anh là Sư đoàn trường Sư đoàn 302 trong cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam, Thiếu tướng Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự Sông Bé - nay nghỉ hưu ở Sông Bé).

Vậy là tôi rời Tiểu đoàn 1 thân yêu của mình, nơi tôi đã sống cùng anh em, cùng xây dựng đơn vị, cùng chiến đấu từ năm 1961. Chia tay anh em nhiều bịn rịn, song tôi tin anh em sẽ tiếp tục chiến thắng và trưởng thành, tiếp tục giữ vững vai trò đơn vị chủ công của Trung đoàn.

Từ cuối năm 1965 trở đi, chiến trường Bà Rịa - Long Khánh ngày một ác liệt. Với ưu thế lực lượng, quân địch liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá vùng căn cứ ta.

Ban chỉ huy Trung đoàn 4 gồm anh Hãi Sỹ, tôi và Út Thắng (Anh Hai Sỹ tức Đặng Ngọc Sỹ, quê ở Long Xuyên. Thời đánh Pháp, anh là cán bộ Đại đội của Tiểu đoàn chủ lực miền Đông 303, tập kết ra Bắc, trong đợt phong quân hàm đầu tiên 1958 anh được phong hàm, đại úy. Anh về Nam trước tôi 1 đoàn, người anh phúc hậu, đức độ, trong làm việc anh có sức thuyết phục, rất nghĩa tình, thương yêu dìu dắt đàn em Sau anh làm  trưởng Sư đoàn 6, Thiếu tướng Tư lệnh phó Quân khu 7 anh từ trần năm 2004. Anh Út Thắng tức Trần Minh Thắng, quê ở Châu Thành, Tây Ninh, khống chịu nối sự đàn áp của địch nôn chạy vào rừng từ năm 1958, là chiến sĩ đặc công trưởng thành lên, người chắc khỏe, rất mưu trí và dũng cảm trong chiến đấu, sống với nhau rất tình cảm, luôn giành khó khăn, sự hy sinh về mình; nhường thuận lợi và sự sống cho đồng chí, cho bạn. Năm 1972 anh về làm Sư đoàn phó Sư đoàn Đặc công 429 của Miền đi chuẩn bị cho chiến dịch Nguyễn Huệ, anh bị địch phục kích và hy sinh ở An Nhơn Tây - Củ Chi). 

Ba anh em chúng tôi thương yêu nhau như ruột thịt, hiểu tâm tư tình cảm của nhau, hiểu nết chiến đấu từng người, cùng hiểu đơn vị và địa bàn hoạt động như từng đường chỉ trong lòng bàn tay, chúng tôi đã chia nhau di chỉ đạo, tổ chức chỉ huy trực tiếp với các tiểu đoàn, tổ chức đánh lẻ, nhỏ, đánh cấp đại đội, tiếu đoàn liên tục. Không ngày nào không có tiếng súng trên địa bàn Trung đoàn. Ta tiêu hao rộng rãi, tiêu diệt bộ phận sinh lực địch, nâng lòng tin đánh và thắng Mỹ của anh em lên, làm cho địch chùn bước khi càn quét các vùng căn cứ ta.

Để phân tán lực lượng dịch và mở rộng vùng căn cứ len phía đông bắc Long Khánh, Sư đoàn chủ trương nghiên cứu chiến trường Võ Đắc, Võ Xu ở đông bắc Long Khánh - mở hành lang lên Chiến khu Đ.

Chấp hành quyết tâm của Sư đoàn, tôi tổ chức đoàn nghiên cứu chiến trường gồm anh Hai Sỹ - Trung đoàn trưởng, tôi, các tiểu đoàn trưởng, đại đội trưởng trực thuộc và một trung đội trinh sát cắt rừng hành quân ngược lên quốc lộ 1, lên Suối Kiết - Tánh Lính, cắt thẳng ra khu rừng nam Võ Xu, bí mật đóng quân và tổ chức nghiên cứu chiến trường. Được sự giúp đỡ của chính quyền và lực lượng vũ trang Tánh Linh, cuối tháng 1 năm 1966, đoàn đã nghiên cứu xong ấp chiến lược Võ Xu và lên phương án tiêu diệt cứ điểm này.

Ở ấp chiến lược Võ Xu, lực lượng dịch có Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 43 thuộc Sư đoàn 18 ngụy, 1 trung đội cánh sát, một đại đội bảo an 738, tổng cộng trên dưới 500 tên. Chúng đóng căn cứ dã ngoại với công sự dã chiến, tổ chức thành 3 khu vực phòng ngự. Hàng ngày, chúng bung ra hoạt động, đêm co về phòng thủ.

Sau khi thông qua quyết tâm với Ban chỉ huy Sư đoàn, anh Năm Hòa (Hòa điếc) cùng đi khảo Rát thực địa với Trung đoàn. Đến cầu Lăng Quăng, phía nam vị trí địch 2 cây số, anh Năm bát gặp nhiều truyền đơn địch rải. Anh nhặt và xé ném đi, vẻ giận dữ. Anh Hai Sỹ nhẹ nhàng vỗ vai anh, nhắc: ‘Chỉ có Việt cộng mới xé truyền đơn này” Anh vội vàng nhặt hết và nhét vào túi quần.

Khảo sát thực địa xong, trở về chỗ tạm trú, Ban chỉ huy Sư đoàn chính thức thông qua quyết tâm, tăng cường cho Trung đoàn 4 đại đội địa phương Tánh Linh và 2 khẩu 81 ly.

Ngay tại địa bàn nghiên cứu, tôi làm công tác tổ chức với các tiểu đoàn trường, đại đội trưởng trực thuộc, đồng thời điện cho Út Thắng tổ chức Trung đoàn hành quân ra Tánh Linh. Ngày 24 tháng 2, Út Thắng đưa Trung đoàn tới nơi. Ngày 26, Trung đoàn hoàn thành mọi công tác chuẩn bị. 13 giờ ngày 27, Trung đoàn tổ chức hành quân chiếm lĩnh.

Tiểu đoàn 1 do Hai Phê chỉ huy được tăng cường một trung đội bộ đội địa phương đánh hướng chủ yếu từ nam lên.

Tiểu đoàn 3 do Tư Thinh làm Tiểu đoàn trưởng đánh từ hướng tây bắc xuống.

Tiểu đoàn 2 thiếu, làm dự bị. Một đại đội của Tiểu đoàn đánh cầu Lăng Quăng.

Trận địa cối của Trung đoàn đặt sau Tiểu đoàn 1 chi viện cho hướng chủ yếu. 23 giờ, các mũi tiến công áp sát mục tiêu. 24 giờ, theo kế hoạch, trận địa cối bắn vào mục tiêu. Sau 15 phút pháo bắn chuẩn bị, các mũi đồng loạt nổ súng xung phong. 20 phút sau, Tiểu đoàn 1 đã chiếm tiền duyên. Đặng Văn Đâu - người sau này được phong Anh hùng lực lượng vũ trang đã dũng cảm dẫn đầu đội hình diệt hết mục tiêu này đến mục tiêu khác, khi bị thương nặng vẫn không rời trận địa. Tiểu đoàn 3 diệt địch cụm ngoài, phát triển thuận lợi. Một đại đội của Tiểu đoàn 2 đánh sập cầu Lăng Quảng dài 40 mét bảo đảm chặn viện tốt.

Sau một giờ chiến đấu, Trung đoàn làm chủ 2 cụm địch và diệt địch ở cầu Lăng Quăng. Trung đoàn củng cố đội hình. Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 3 quyết tâm tập trung hỏa lực đánh phá công sự địch, thực hành xung phong tiêu diệt toàn bộ quân địch.

Tôi được lệnh anh Hai Sỹ - Trung đoàn trưởng, dẫn đội dự bị của Trung đoàn vào tăng cường cho hướng đột kích chủ yếu. Mặc dù bị đánh thiệt hại nặng nhưng địch ngoan cố lợi dụng hầm hào đào sẵn chống trả quyết liệt. Đưa đội dự bị vào, tôi cùng Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 tổ chức hai lần xung phong cũng chỉ phát triển chiếm được một đoạn chiến hào của địch.

Tình hình lúc này trở nên quyết liệt. Máy bay địch ném bom bi trùm lên đội hình ta và địch nhưng địch trong công sự, ta phơi lưng, rải vào trận địa phòng không, trận địa cối của Trung đoàn. Lực lượng các tiểu đoàn bị thương nhiều, sức chiến đấu giảm.

Tôi cũng bị thương vào ngực phải, vào chân, máu ra nhiều nhưng không dám nói với anh em, cũng không dám báo cáo với Trung đoàn. Anh em trinh sát theo tôi băng bó. Tôi ra lệnh: Không được báo cáo tôi bị thương. Anh Mười Hy — Đại đội trường ĐKZ bò lại:

- Anh Năm ơi, tôi gãy chân.

- Anh em lại băng cho, yên tâm.

Anh Hai Sỹ từ Chỉ huy sở điện cho tôi:

- Tình hình thế nào?

Lúc này đã 3 giờ sáng. Tôi báo tóm tắt tình hình và kết luận: "Không dứt dược, đành bỏ nửa thôi !”.

Anh Hai Sỹ rất tin tôi, ra lệnh thu dọn chiến trường, lui quân.

6 giờ sáng ngày 28, trận chiến đấu kết thúc. Các cánh đưa thương binh, tử sĩ rời khỏi trận địa. Anh em trinh sát khiêng tôi về chỗ đại đội trinh sát ở. Lúc này anh Hai Sỹ mới biết tôi bị thương.

Sau 5 giờ chiến đấu quyết liệt, Trung đoàn 4 và đại đội địa phương Tánh Linh đã tiêu diệt đại đội địa phương 738, cùng 2 đại đội của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 43 ngụy, bắt sông 20 tên, thu 76 súng các loại, phá kho tàng, đốt cháy 2 xe GMC, phá sập cầu Lăng Quăng. Tôi bị thương, trăn trở rất nhiều về trận đánh. Tại sao ta không diệt gọn? Sơ sót về nghiên cứu, hay sơ sót về chiến thuật? Hay là gì nữa?

Tất cả thương binh đều được dân công Bình Thuận khiêng. Riêng tôi. anh Tư Quang - Chính trị viên Đại đội trinh sát (nay là đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang, nghỉ hưu ở thành phố Hồ Chí Minh), phân công 6 anh em trinh sát khiêng. Khiêng 2 đêm từ Tánh Linh về đến đường số 1 có cuộc đổi ca, dân công Bà Rịa lên tiếp nhận.

Tôi nói với anh em trinh sát:

-   Thôi, anh em trở về đơn vị đi. Tới đây, được rồi. Anh em không nỡ xa tôi, cứ bịn rịn đòi khiêng tiếp, đưa tôi về tới bệnh viện 1500. Một lần nữa, tôi thúc giục anh em:

-   Đơn vị tiếp tục làm nhiệm vụ. Anh em về đi, chung lo với đơn vị chớ !

Đến lúc ấy anh em mới chịu trở về.

Thương binh nằm dọc trên dường số 1, chờ dân công Bà Rịa tới. Có nhiều ánh đến pin rọi sát mặt. Một ánh dèn pin rọi sát mật tôi rất lâu, tôi kêu lên: “chói lắm". Chị rọi đèn tắt đèn, ngồi xuống gần đầu tôi:

-   Cậu Năm phải không?

Nghe tiếng, tôi biết:

-   Chị Tư phải không? Tôi đây.

Chị hơi buồn:

-   Sao vậy?

Tỏi cười:

-   Thì không đi nổi, người ta khiêng chớ sao !

Chị Tư Anh là chị của Tuyết, người yêu tôi. Từ khi quen biết, bà con bên phía Tuyết không ai kêu tôi bằng dượng cả. Chị Tư chỉ kêu tôi bằng cậu, cậu em.

Trong đêm, tất cả thương binh được khiêng về bệnh viện 1500 ở núi Mây Tào. Chị Tư cũng đi dân công. Sáng, chị đến thăm tôi. Tôi dặn: ‘Khi về, chị đừng báo cho Tuyết và bà con biết tôi bị thương’’. Nhưng rồi sau, ai ở xã Long Phước cũng đều biết cả. Tuyết cũng biết, nôn nao trong lòng, song biết làm sao. Danh chính ngôn thuận chưa cưới, chưa thành vợ. Phần thì rừng núi, địch đón hà rầm... Mẹ của Tuyết cũng được tin. Từ Hòa Long bà sang Long Phước tìm Tuyết, đôn đốc đi thăm tôi. Nghĩa tình của mẹ khi chúng tôi còn chưa cưới là vậy, tôi rất cảm động. Tôi nghĩ, nếu mẹ ruột tôi còn sống, chắc mẹ cũng xốn xang như thế.

Nằm dưỡng thương ờ bệnh viện, tôi trăn trở mải về trận đánh không dứt điểm Võ Xu. Vì từ lúc tôi làm Tiểu đoàn trường 800 đến sau này là Tiểu đoàn 1, chưa lần nào đánh mà không tiêu diệt gọn. Võ Xu là trận đánh bỏ mứa của Trung đoàn, tôi xót lắm. Sơ sót hiển nhiên thuộc về phần chiến thuật. Điểm mạnh của Tiểu đoàn 1 trong đánh cứ điểm là tiền đặc công, hậu xung kích, tại sao mình không vận dụng, lại dùng pháo không đủ mạnh để cấp tập? Đánh không gọn, Trung đoàn còn bị thương vong khá nặng nề. Trung đoàn đã phải trả giá không tương xứng với những gì Trung đoàn đạt được. Như tôi, tay phải vẫn “xuội", chưa đưa lên được...

Cuối tháng 3, tôi mới ra viện. Tôi trở về căn cứ của Tiểu đoàn 1 ở suối Quít. Lúc này, Trung đoàn còn đang hoạt động ở suối Kiết - Núi Ông, Bình Thuận. 

TẦM BÓ, TRẬN ĐẦU TIÊN DIỆT MỸ

Đầu tháng 4 năm 1966, tôi đang nghỉ dưỡng thương tại căn cứ Tiểu đoàn 800 ở Tầm Bó thì anh Hai Sỹ - Trung đoàn trưởng dẫn đoàn cán bộ Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 3 và trinh sát về. Gặp tôi, anh giao nhiệm vụ:

- Lo vị trí đóng quân cho Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 3, trực thuộc và trung đoàn bộ. Hai ngày nữa đơn vị về tới. Anh đi nghiên cứu chiến trường ở đường số 2 để đánh một trận diệt Mỹ trên khu vực đông - tây lộ 2. Sáng hôm sau, tôi giao Hai Phê - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 đóng quân chỗ cũ của Tiểu đoàn, tăng cường công sự khi Tiểu đoàn về. Tôi và trinh sát đi nghiên cứu cùng anh Tư Thinh - Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 bố trí cho Tiểu đoàn 3 và Trung đoàn bộ.

Ngày 10 tháng 4, đội hình Trung đoàn đã về đủ, tăng cường công sự trên khu vực Tầm Bó và tổ chức trinh sát ra các hướng, tập trung lộ 2.Trên chiến trường đông - tây lộ 2 lúc nào cũng có máy bay địch bắn phá. Mấy ngày nay mức độ đánh phá ác liệt hơn. Chúng đánh tập trung vào Chòi Đồng, Suối Cả, núi Gác Ma... tây lộ 2. Các đơn vị của Trung đoàn thời kỳ này đều ăn, nghỉ trên miệng hầm, ngủ dưới hầm Đơn vị luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Sáng sớm ngày 11, tôi và Trung đoàn trưởng Hai Sỹ ngồi uống trà với Ban chi huy Tiểu đoàn 1: Hai Phê, Ba Nam... Anh Tư Ré - Đại đội trưởng cối đang xem cụ thể vị trí đặt cối chạy về báo: “ Mỹ vô !” Có một cánh quân Mỹ từ đường số 2 cắt vào Suối Gia Hoét, tiến thẳng vào vị trí của Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 1 chỉ còn cách vài trăm thước. Anh Hai Sỹ chỉ thị Hai Phê ra lệnh Tiểu đoàn chuẩn bị chiến đấu. Tôi và anh Hai Sỹ lui về Sở chỉ huy Trung đoàn.

10 giờ, quân Mỹ cách 20 đến 50 mét chỗ Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 1. Đồng chí Khanh, Y tá Tiểu đoàn, nổ loạt đạn đầu, diệt mấy tên Mỹ. Bị bất ngờ, địch dừng lại, củng cố và tổ chức tấn công. Từ đó đến 13 giờ, lính Mỹ liên tục tấn công nhiều đợt. Các đơn vị quân y, thông tin, trinh sát Tiểu đoàn kiên cường bám trụ, đánh trả quyết liệt, diệt một bộ phận sinh lực địch. Không thế chọc thủng Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 1, địch lui ra xa rồi dùng pháo ở Suối Râm, Núi Đất, núi Da Quy bắn cấp tập vào trận địa ta.

Qua mấy giờ chiến đấu, ta phát hiện địch dùng hỏa lửa chế áp, một mũi đột phá, đầu nhọn đuôi dài. Ta lợi thế có công sự, rừng rậm, địch di chuyển ta dễ phát hiện, đề phòng địch mở nhiều cánh. Cứ như thế trong ngày, Tiểu đoàn 1 đánh lui hàng chục đợt tiến công của quân Mỹ, giữ vững trận địa.

16 giờ 30, sau khi đánh giá tình hình địch, nắm vững địa hình, Trung đoàn hạ quyết tâm xuất kích tiêu diệt quân Mỹ trước khi trời tối. Dùng Tiểu đoàn 1 tăng cường Đại đội 12 cùa Tiểu đoàn 3, Đại đội cối Trung đoàn, Đại đội phòng không Trung đoàn hạ nòng bắn thẳng.

17 giờ, hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, anh Hai Sỹ ra lệnh tấn công. Cối bắn vào đội hình lính Mỹ, 12 ly 8 hạ nòng bắn quyết liệt, đồng thời đội hình Tiểu đoàn 1 nhích lên. Cối vừa dứt, toàn đội hình Tiếu đoàn 1 xung phong...

18 giờ, ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Lần đầu anh em nghe lính Mỹ khóc. Trời tối, các trận địa pháo địch bắn mật độ tối đa vào sau đội hình Tiểu đoàn 1 trúng công sự Trung đoàn và Tiểu đoàn 3, trúng công sự Đại đội thông tin. Lần đầu tiên, tôi biết thế nào là pháo bắn mẫu.

Đồng thời với pháo bắn, máy bay Đakôta của địch lên thả pháo sáng để những tên Mỹ bị lạc nhận hướng Lợi dụng lúc pháo sáng, ta thu dọn chiến trường. Đây là trận diệt Mỹ đầu tiên của Trung đoàn. Ta diệt 1 tiểu đoàn lính Mỹ của Lữ 199, thu nhiều súng và trang bị.

Trong đêm, toàn đội hình Trung đoàn rời khỏi Tầm Bó và đồi Vú Sữa. Tiểu đoàn 3 và anh Hai Sỹ với Trung đoàn bộ vượt đường số 2 sang tây lộ. Tôi đi với Tiểu đoàn 1, ra gần lộ 2 thì Trung đoàn 11 thiết giáp địch đã hàn đường không qua được. Tôi bàn với Hai Phê – Tiểu đoàn trường cho đơn vị trụ lại công sự ở đồi Vú Sữa, giấu thương binh, lính Mỹ vào đánh tiếp.

Ngày sau, quân Mỹ vào giải quyết hậu quả ở Tầm Bó. Đêm tối, tôi cho tổ trinh sát Trung đoàn do đồng chí Thái chỉ huy cắt rừng dán Tiểu đoàn 1 vé Bảo Bình. Đến Bảo Bình được đồng bào, cán bộ địa phương tiếp tế rau, củ, quà bồi dưỡng. Hai đêm sau Tiểu đoàn 1 vượt đường 2 đoạn Ông Quế về tây lộ, về với đội hình Trung đoàn.

Trên địa bàn Bà Rịa - Long Khánh lúc này, Mỹ - ngụy huy động một lực lượng lớn thường xuyên đánh phá. Ngoài lực lượng tại chỗ, địch còn huy động cả Lữ 173, Lữ 2 Sư đoàn 1 anh cả đỏ Mỹ tham gia. Chiến trường gian khổ ác liệt hơn bất cứ lúc nào. Ta thiếu gạo, muối, thuốc men. Đời sống quân giải phóng càng khó khăn hơn. Nhưng Trung đoàn 4 vốn quen thuộc địa hình vẫn vững vàng đứng chân trên cả đông và tây lộ 2, vẫn tổ chức đánh liên tục quân Mỹ và Úc.

ĐÁNH TRƯỜNG BẮN VẠN KIẾP

Sau chiến thắng Tầm Bó, Trung đoàn quần thảo với địch liên tục trong khu tam giác đường số 1, 2 và 15.

Ngày 20 tháng 10, Trung đoàn tổ chức phục kích phía đông lộ 2, đoạn Kim Long, trận địa cấp Trung đoàn, quyết tâm đánh diệt xe tăng và thiết giáp của Trung đoàn 11 thiết giáp địch thường đi càn đánh phá đông - tây lộ 2.

Cơm đùm cơm vắt phục kích cả tuần địch không đi. Anh Hai Sỹ - Trung đoàn trưởng gọi tôi và út Thắng lại:

- Sượng rồi. Địch không đi, bộ đội phục kích hoài, oải lắm. Bây giờ, Năm Hưng với một tiểu đội trinh sát cùng lực lượng Tiểu đoàn 2 xuống hướng đường 15. Út Thắng với một tiểu đội trinh sát dẫn Tiểu đoàn 1 lên Hưng Nghĩa đường số 1. Anh nào chuẩn bị mục tiêu trước cứ đánh trước. Cho hai anh quyền quyết định.

Anh ra lệnh thu quân. Trung đoàn bộ và Tiểu đoàn 3   về tây lộ 2. Tôi và út Thắng tổ chức Tiểu đoàn 1 và 2 đi hai hướng theo chỉ thị của anh.Tôi đưa Tiểu đoàn 2 xuống đứng chân ở Hắc Dịch. Gặp các anh huyện Châu Thành, xã Hắc Dịch, anh hai Trung (thị xã Bà Rịa) và cả các anh chị xã Phú Mỹ, tay bắt mặt mừng.

Tôi hỏi từng nơi, tìm hiểu tình hình để chọn mục tiêu. Sau khi sàng lọc, còn 3 mục tiêu đáng chú ý: trường bắn Vạn Kiếp, đại đội ngụy an ninh lộ trình đường 15 tới cụm đông ở Phước Hòa và đánh giao thông trên đường 15 Tôi gút lại với cán bộ Tiểu đoàn 2 và trinh sát Trung đoàn: nghiên cứu trường bắn Vạn Kiếp.

Trường bắn Vạn Kiếp nằm ở Phước Tân, sát chân núi, phía sau là sông Dinh, đối diện trường bắn là tỉnh đoàn bảo an. Có một đại đội bảo vệ trường bắn, quy luật bắn đêm của địch như sau: 15 giờ, từ trường bắn Vạn Kiếp chúng hành quân đến. 18 giờ đến 21 giờ, bắn đêm. Từ 21 giờ tập hợp nhận xét, đi về. Tôi xác định đối tượng đánh là lính bắn bia. Giờ G từ 21 giờ trở đi. Vấn đề là nghiên cứu từ đâu, hành quân cách nào, triển khai ra sao. Tôi bàn với cán bộ Tiểu đoàn 2 và trinh sát:

- Mục tiêu này hồi Chiến dịch Bình Giã các anh đã nghiên cứu từ trên đỉnh núi dòm xuống. Cuối cùng không đánh được vì thời gian hành quân không kịp, đến mục tiêu đã 23 giờ, địch về rồi.

Tôi vạch kế hoạch: Bây giờ ta không nghiên cứu từ đỉnh núi xuống. Lợi dụng sông Dinh, chúng ta lội theo sông ban ngày, Núi Đất không thể nhìn thấy. Đến nhà máy nước, trời vừa tối chúng ta bò xéo qua đập, tiếp cận sau trường bắn, lưng quay về phía tỉnh đoàn bảo an. Làm sao 19 giờ tới sau trường bắn là tốt nhất. Hướng này địch bất ngờ, ỷ lại tỉnh đoàn bảo an phía sau. Chúng cảnh giới hướng núi nhiều hơn.

Theo kế hoạch, tôi tổ chức cán bộ Tiểu đoàn 2 đi gọn trên 10 đồng chí, 2 tổ trinh sát trung đoàn và tôi. Chỉ một đêm đầu đi nghiên cứu rất thú vị: đến mục tiêu đúng thời gian, chọn được trận địa triển khai, quan sát được hành động bắn bia và cảnh giới.

Cán bộ Tiểu đoàn 2 đều thỏa mãn. Vấn đề còn lại là: chiến sĩ phải biết lội. Những đồng chí không lội được thì không đi đánh. Rất may, Tiếu đoàn 2 là tiểu đoàn đồng bằng khu 8 tất cả đều biết lội. Tôi chỉ thị cho Tiểu đoàn 2 làm công tác tổ chức và quyết định: N - ngày 18 tháng 11, G - 20 giờ 30 phút, lúc quân địch đang tập hợp nhận xét kết quả bắn.

15 giờ ngày 18, Tiểu đoàn 2 hành quân. Cả Tiểu đoàn trầm mình xuống sông Dinh và lội. 18 giờ, đầu đội hình gần đến nhà máy nước. Tôi ra lệnh: “Khuất mình, 18 giờ 30 mới bò qua nhà máy nước”.

20 giờ, toàn Tiểu đoàn đã vào chiếm lĩnh. Hai khẩu 12 ly 8 hạ nòng bắn quét mặt đất. Cối 82 chuẩn bị phần tử bắn vào tỉnh đoàn bảo an.

Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn căng thẳng chờ đợi tới lúc địch tập hợp nhận xét. Địch vừa ổn định đội hình, Tiểu đoàn ra lệnh cho 2 khẩu 12 ly 8 nổ súng phát lệnh. Trước họng 12 ly 8 như hai cây đèn măng xông sáng chói, cả Tiểu đoàn nổ súng, xung phong mãnh liệt. Cối 82 bắn dồn dập vào tỉnh đoàn bảo an. Bị đánh quá bất ngờ, cả đại đội bảo vệ và lính bắn bia đều trở tay không kịp, trừ số chết, tất cả chạy tán loạn và đầu hàng.

Sau 30 phút chiến đấu, Tiểu đoàn 2 diệt 2 đại đội bắn bia, một đại đội bảo vệ, bắt sống 187 tên, thu 71 súng các loại. Tiểu đoàn rút về tới Hắc Dịch với 187 tù binh đả 3 giờ sáng. Cả ngày sau, thanh lọc số tù binh, thả trên 100 tên, có 80 tên tình nguyện theo bộ đội.

Trung đoàn tổ chức giáo dục bổ sung cho Trung đoàn một nửa số tình nguyện, giao cho tỉnh Bà Rịa một nửa. Lần đầu tiên quân giải phóng giáo dục tù binh bổ sung thành quân giải phóng. Số anh em này về sau đều tốt, có anh trưởng thành lên tới cán bộ đại đội. Tiểu đoàn 2 vẫn đứng chân ở Hắc Dịch tiến hành rút kinh nghiệm trận đánh:

- Ngoài quyết tâm cao, phải sáng tạo trong chiến thuật. Nếu theo vết mòn hồi Chiến dịch Bình Giã thì không đánh được.

- Táo bạo trong hành động, trên cơ sở thận trọng và tỉ mỉ của kế hoạch.

- Đánh nhanh, giải quyết nhanh, tránh được phi pháo địch.

Chính quyền, nhân dân vùng giải phóng cũng như đồng bào thị xã rất phấn khởi sau chiến thắng Vạn Kiếp của ta.

Trước đó, tôi được tin út Thắng, nhanh hơn tôi, đã tổ chức cho Tiểu đoàn 1 đánh một số trận trên đường số 1, thu được một số súng. Hai chúng tôi là đồng chí, là bạn thân của nhau, cũng là hai cánh tay đắc lực của Trung đoàn trưởng Đặng Ngọc Sỹ.

Sau một tuần lễ phục kích trên lộ 2 bị sượng, Trung đoàn bung ra hoạt động chiến đấu thắng lợi ở cả hai đầu khu tam giác. Đảng, chính quyền, nhân dân Bà Rịa - Long Khánh đã tin tưởng càng thương yêu Trung đoàn 4.

ĐÁM CƯỚI TÔI

Từ sau trận đánh "o mèo" trên đường 15, tôi mải miết đi chiến đấu, không một lần gặp mặt Tuyết. Mọi việc vun đắp cho tình yêu chúng tôi đều do chị Sáu Phượng, Bí thư chi bộ xã Phú Mỹ, các anh Quang, Bình... chăm chút lo lắng. Qua thư từ hiếm hoi, chúng tôi đến với nhau.

Trong lúc chiến trường căng thẳng, anh Hai Sỹ và tôi cùng một trung đội trinh sát đi nghiên cứu các xã Bình Ba, Long Tân, Long Phước, xung quanh căn cứ Núi Đất của Úc. Hôm tạm nghỉ ở xã Long Phước, anh Hai Sỹ nói:

-   Tối nay, sang Hòa Long hỏi vợ cho Năm Hưng.

Nhà cha mẹ vợ tôi chỉ cách chi khu Long Lễ tại xã Hòa Long 500 mét đường chim bay. Tôi ngần ngại:

-   Không cần thiết đâu anh. Lỡ xảy ra đụng địch có thương vong thì ân hận.

Anh Hai Sỹ không đổi ý:

-   Năm Hưng không đi, tôi đi.

Tôi đành móc với du kích Long Phước và Hòa Long bố trí trung đội trinh sát ém hết các ngả đường vào nhà cha mẹ vợ. Sáu giờ tối, anh Hai Sỹ và tôi từ Long Phước sang, vào nhà cha mẹ vợ tôi, ở cho đến chín giờ đêm. Anh Hai Sỹ làm xong mọi thủ tục hỏi vợ cho tôi ngay trong đêm ấy.

Cuối 1966, chiến trường ngày càng ác liệt. Không ngày nào không có bom, pháo. Không ngày nào không có tiếng súng đánh nhau. Đi, cắt rừng tránh biệt kích, ở, ngủ dưới hầm. Ngày nào cũng trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đầu óc căng thẳng, bận rộn tối không có thời gian rảnh rỗi nhớ đến Tuyết, càng không nghi gì việc cưới vợ. Sau khi rút kinh nghiệm trận đánh trường bắn Vạn Kiếp và giải quyết mọi việc, sáng 19 tháng 12 tôi về căn cứ Trung đoàn để báo cáo. Họp xong, anh Hai Sỹ cho biết:

-   Ngày mai, đi xuống Tiểu đoàn 1 cưới vợ cho Năm Hưng.

Tôi ngơ ngác:

-   Vợ đâu mà cưới?

Anh Mười Khoan chủ nhiệm chính trị mắt như cười:

-   Yên chí. Tôi đã đưa cô Tuyết về phòng chính trị rồi.

Anh Hai Sỹ tiếp lời:

-   Trung đoàn định tổ chức “tuyên bố" cho Năm Hưng. Nhưng Hai Phê và anh em Tiểu đoàn 1 giành làm. Anh em nhắc lại Năm Hưng là Tiểu đoàn trường từ hồi còn là Tiểu đoàn 800. Cuộc tình giữa Năm Hưng và cô Tuyết có phần vun đắp của anh em Tiểu đoàn 1. Xin Trung đoàn để Tiểu đoàn tổ chức cho trọn tình nghĩa với Năm Hưng.

Tôi đành đồng ý.

Sáng 20, tôi và đoàn cán bộ cơ quan Trung đoàn có anh Hai Sỹ cùng đi xuống Tiểu đoàn 1. Trước đó, anh Mười Khoan đã cho anh em Phòng Chính trị đưa Tuyết xuống Tiểu đoàn 1 rồi. Tuyết rất thân quen với anh em trinh sát Tiểu đoàn. Gặp tôi, Hai Phê nói luôn:

-   Đã chuẩn bị một đợt có đủ thịt cheo, chồn... mà Năm Hưng không về, ăn hết rồi. Bữa nay chỉ có đậu phộng và trà, thuốc.

Quây quần trong buổi họp mặt ngoài đông đủ cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 1 còn có các anh đại diện huyện Châu Đức. Vui hơn nữa, hôm đó anh Hai Hồng Lâm (Thiếu tướng Nguyễn Vãn Bứa), Tư lệnh phó T1 (Quân khu 7) đi công tác cũng ghé vào dự. Gia đình Tuyết không có ai. Trước đó, Trung đoàn đã mời mẹ vợ tôi lên Kim Long, xin phép ngày đó đơn vị tổ chức “tuyên bố" của tôi, gia đình đã đồng ý, vì khó khăn quá không lên dự được.

Làm nghi thức vừa xong, đang uống trà, ăn đậu phộng rang vui vẻ thì trinh sát tuần tra vào báo cáo có mẹ vợ tôi vào căn cứ. Thật bất ngờ và cảm động. Mẹ vợ tôi nhớ ngày. Với tình mẫu tử, ngày con gái lấy chồng mà không có mặt thì mẹ bứt rứt không chịu nổi. Mẹ mặc quần áo đi rẫy, mang một túi bàng trong có lít gạo và mấy con khô, vai vác rựa cứ thế lên đường. Mẹ không biết căn cứ nằm đâu, chỉ nhắm hướng rừng đi hú họa, may gặp anh em trinh sát dẫn về đơn vị.

Tôi hỏi mẹ:

-   Lỡ không gặp các con, má làm sao?

-   Thì... chiều tối má lội về. Ở nhà không chịu nổi.

-   Rủi gặp biệt kích, má làm sao?

-   Má nói má đi rẫy. Có sao!

Các anh Hồng Lâm, Hai Sỹ, Hai Phê, Mười Khoan xoay quanh mừng má vợ tôi vào. Anh Hồng Làm bảo họp lại, làm lại. Lại giới thiệu mẹ vợ tôi với mọi người. Thấy tình nghĩa của đơn vị đối với vợ chồng tôi mẹ vợ tôi rất xúc động, bà hớn hở ra mặt.

Chiều, Hai Phê cho một tổ trinh sát đưa mẹ vợ tôi ra Kim Long để về nhà. Đến sông Xoài, bà bị một trận pháo cùa địch phải bò lê bò càng. May mắn mẹ vẫn an toàn. Tổ chức đám cưới cho tôi xong, toàn đơn vị triển khai ngay nhiệm vụ đánh Mỹ, Úc càn vào căn cứ. Vợ tôi được trinh sát Trung đoàn đưa đi trong đêm, vượt đường số 2 sang phía đông lộ, về công tác ở đội phẫu thuật của Sư đoàn bộ binh 5 do anh Ba Lư phụ trách.

Cà một tháng trời, đơn vị liên tục chống càn. Tôi cưới vợ, không một ngày trăng mật.

Ngày chúng tôi nên vợ nên chồng, không hẹn lại trùng với ngày kỳ niệm lần thứ 6 thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Với chúng tôi, ấn tượng này thật sâu sắc !

ĐƯƠNG ĐẦU VỚI QUÂN MỸ

Bước sang 1967, trên chiến trường Bà Rịa - Long Khánh, quân Úc, Trung đoàn 11 thiết giáp, Lữ 199 Mỹ, sư đoàn 18 ngụy, quân Thái Lan với sự yểm trợ của phi pháo liên tục đánh phá vào vùng căn cứ khu tam giác giao lộ giữa ba con đường 1, 2 và 15, hòng phá kho tàng hậu cần, ra sức “tróc” các cơ quan huyện, tỉnh của ta. Các đơn vị của Trung đoàn luôn bám sát mọi hoạt động của địch, thực hành đánh lẻ, đánh nhỏ trên khắp địa bàn.

Ngày 30 tháng 1, Trung đoàn tổ chức diệt một bộ phận của Lữ 199 và 2 chi đoàn thiết giáp càn quét đóng quân dã ngoại ở ngã ba Kim Long, đánh thiệt hại nặng một đại đội Mỹ, bắn cháy 7 xe thiết giáp, bắn rơi 3 máy bay trực thăng.

Ngày 2 tháng 4, Trung đoàn tổ chức tập kích hỏa lực vào căn cứ Trung đoàn 11 thiết giáp địch ở suối Râm với trên 300 viên đạn cối 81 và ĐKZ, phá hủy trên 100 xe địch, làm chết và bị thương nhiều tên Mỹ. Khói xăng dầu cháy suốt ba, bốn ngày vẫn còn bốc lên cuồn cuộn.

Bằng những đòn tiến công bất ngờ, táo bạo kết hợp với từng tổ hỏa lực B40 đánh lẻ bọn lính thiết giáp, Trung đoàn cùng lực lượng địa phương đã gây cho địch những tổn thất không nhỏ. Để trả đũa cho trận ta tập kích suối Râm, quân Mỹ liên tục càn quét khu vực đông - tây lộ 2 hòng đánh bật lực lượng Trung đoàn 4 ra khỏi địa bàn. Thông thường, địch càn ban ngày, đêm cụm lại đóng quân dã ngoại.

Trinh sát Trung đoàn bám sát mọi hành động của địch. Ngày 10 tháng 6, trinh sát báo cáo nắm vững quy luật cụm đóng quân địch ở Kim Long, trên cánh đồng Hê An. Trong lúc Trung đoàn trưởng và Chính ủy lên Sư đoàn nhận nhiệm vụ, không để mất thời cơ, tôi trao đổi với anh Mười Khoan, thường vụ Đảng ủy Trung đoàn - Phó chính ủy, hạ quyết tâm tiêu diệt cụm địch ở đồng Hê An. Báo cáo lên Sư đoàn, anh Năm Tâm - Sư đoàn trưởng trả lời: “

Đồng ý quyết tâm của Trung đoàn. Tăng cường cho Trung đoàn 1 đại đội cối, 1 đại đội 12 ly 8 và 1 trung đội B40 cúa Sư đoàn cho Trung đoàn thực hành tập kích

’’.

Tôi khẩn trương tiến hành mọi công tác tổ chức. Ngày 19 tháng 6, đội hình Trung đoàn từ đông lộ 2 vượt đường tiếp cận mục tiêu. Tiểu đoàn 1 do Hai Phê làm Tiểu đoàn trưởng được tăng cường một đại đội địa phương, 1 trung đội ĐKZ75 đánh hướng chủ yếu từ bắc mục tiêu xuống nam. Tiểu đoàn 2 do Chín Hướng làm Tiểu đoàn trưởng hành quân xuống đường tiếp cận nam mục tiêu đánh lén. Đại đội 13 Tiểu đoàn 3, dự bị. Tiểu đoàn 3 thiếu, chặn viện hai đầu đường số 2. Trận địa cối ở sau Tiểu đoàn 1 chi viện trực tiếp cho Tiểu đoàn 1. Trận địa phòng khỏng bảo đảm toàn mặt trận. 23 giờ 30, các mũi đã vào vị trí. Cách địch từ 50 đến 70 mét, anh em đã quan sát thấy xe tăng và pháo.

0 giờ 5 phút ngày 20 tháng 6, tôi ra lệnh cho tiểu đoàn 1 và trận địa cối nổ súng. Cối bắn chính xác vào trận địa pháo và xe tăng địch. Hỏa lực bắn thẳng Tiểu đoàn 1 bắn phá tuyến phòng ngự bên ngoài. Dứt pháo Tiểu đoàn 1 xung phong dùng B40, thủ pháo, tiểu liên nhanh chóng chiếm tiền duyên.

Sau 30 phút chiến đấu, các trận địa pháo địch từ Núi Đất, Suối Rám bắn cấp tập vào sau Tiểu đoàn 1. Anh em Tiểu đoàn 1 đề nghị cho Đại đội 13 Tiểu đoàn 3, đội dự bị vào chiến đấu, đánh sâu vào trung tâm bắt liên lạc được với Tiểu đoàn 2 từ nam đánh lên.

Lúc này, trực thăng vũ trang của địch đã thả trái sáng, bắn phá quyết liệt vào sau Tiểu đoàn 1 và 2, cùng các trận địa hỏa lực của ta, gây cho ta thương vong. Mặc cho phi pháo địch chi viện liên tục, Đại đội 13 do Tám Luông dẫn vào đã tăng thêm sức mạnh cho Tiểu đoàn 1 đánh thẳng vào Chỉ huy sở của địch.

 Địch cụm lại điên cuồng phản kích cố giữ Sở chỉ huy. Khoảng 2 giờ sáng, cả hai tiểu đoàn đều báo cáo đạn hỏa lực hết, không diệt được số cơ giới còn lại. Tôi bàn với anh Mười Khoan:

- Cả hai tiểu đoàn sức chiến đấu đã giảm. Đạn B40 hết. Địch bị đánh thiệt hại nặng. Ta lui quân được rồi.

Anh Mười Khoan nhất trí. Tôi lệnh cho thu quân nhanh gọn, không được để sót thương binh, liệt sĩ.

Trong trận Kim Long hai này, Trung đoàn 4 đã cơ bàn tiêu diệt tiểu đoàn bộ binh cơ giới Mỹ, bắn cháy 78 xe các loại, phá hủy 3 khẩu 106, 7 và 105, diệt hàng trăm tên Mỹ. Ta phá tan ý đồ càn quét của giặc Mỹ hòng tiêu diệt lực lượng ta và phá kho tàng dọc đông - tây lộ 2 của ta. 

Sau trận đánh, quân ngụy phải co cụm về các đồn bót. Tuy nhiên, ta không diệt gọn được và thương vong cao. Bài học quý cho đơn vị là rút được nhiều kinh nghiệm trong tổ chức tập kích bộ binh và cơ giới Mỹ đóng quân dã ngoại.

Tháng 8, anh Hai Sỹ được điều về Sư đoàn. Tôi làm Trung đoàn trưởng. Anh Tám Nghi làm Chính ủy và út Thắng làm Trung đoàn phó. Trung đoàn vẫn trụ vững trên chiến trường Bà Rịa - Long Khánh, nhưng tách ra khỏi đội hình Sư đoàn 5, về lại T1 (Quân khu 7).

Hầu như đã thành lệ, hễ Sư đoàn 5 xuống chiến trường Bà Rịa - Long Khánh thì kéo Trung đoàn 4 về đội hình chiến đấu Sư đoàn. Hễ Sư đoàn 5 đi, lại “nhả’' Trung đoàn 4 đứng lại chiến trường này. Thông lệ này chúng tôi quen rồi.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: