Mua la rung
BI KỊCH GIA ĐÌNH TRONG TÁC PHẨM
MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN CỦA MA VĂN KHÁNG
Mùa lá rụng trong vườn được Ma Văn Kháng viết xong tháng 12 năm 1982, xuất bản lần đầu năm 1985. Từ đó đến nay tác phẩm được tái bản nhiều lần. Năm 2001, nhà biên kịch Đặng Minh Châu chuyển thể Mùa lá rụng trong vườn và Đám cưới không giấy giá thú thành kịch bản văn học; đạo diễn Quốc Trọng dựng thành phim nhiều tập Mùa lá rụng.
Với vai trò là một trong những cuốn sách "tiền trạm" của Đổi mới mà ở đó chứa đựng nhiều dự báo sáng suốt, ngay khi vừa ra đời,Mùa lá rụng trong vườn đã được độc giả đón nhận một cách nhiệt tình. Chỉ trong hai năm 1985 và 1986 đã có hàng chục bài báo viết về tác phẩm này; báo Người Hà Nội đã tổ chức thảo luận bàn tròn về tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn; Hội Nhà văn Việt Nam trao giải B về văn xuôi cho Mùa lá rụng trong vườn. Đã hơn hai mươi năm trôi qua, trong khi biết bao tác phẩm một thời được coi là tiếng nói của thời đại, là "sách gối đầu giường" đã vơi cạn sức hút, Mùa lá rụng trong vườn vẫn còn được tìm đọc và còn gợi được nhiều suy nghĩ.
Mùa lá rụng trong vườn viết về đề tài gia đình, một đề tài không mới trong văn học Việt Nam hiện đại. Ngay từ những năm ba mươi của thế kỷ XX, nhiều sáng tác của Tự lực văn đoàn đã khai thác đề tài này. Các tiểu thuyết Đoạn tuyệt, Lạnh lùng (Nhất Linh);Nửa chừng xuân, Thừa tự, Gia đình, Thoát ly (Khái Hưng); Gánh hàng hoa (Nhất Linh - Khái Hưng)... đã tập trung phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng cá nhân, đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của người phụ nữ chống lại sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến trong đại gia đình phong kiến. GS. Trương Chính đã đánh giá rất cao đóng góp của Tự lực văn đoàn trên vấn đề kêu gọi giải phóng phụ nữ và tự do hôn nhân (dĩ nhiên là bằng văn học và theo kiểu của văn học). Ông viết: "Các nhà văn Tự lực văn đoànđã công kích nhiều mặt của chế độ phong kiến, đặc biệt là luân lý phong kiến đối với phụ nữ. Họ chủ trương tự do hôn nhân, tự do yêu đương xây dựng hạnh phúc gia đình trên tình yêu đôi lứa. Họ căm thù cảnh mẹ chồng nàng dâu, họ chủ trương đàn bà trẻ được tự do cải giá, họ vạch bộ mặt giả dối, xảo quyệt của những người mẹ ghẻ. Họ đứng về phía những người chống lại lớp người cũ. Họ đứng về phía cá nhân chống lại chế độ gia đình" [3, tr. 15]. Từ sau 1945, đất nước phải trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc. Lúc này vận mệnh dân tộc được đặt lên hàng đầu. Vấn đề cá nhân, gia đình trở thành thứ yếu. Theo GS. Nguyễn Đăng Mạnh, các nhà văn thời kỳ này "chủ yếu làm công việc đốt lửa nhiệt tình trong độc giả bằng cách mô tả và ngợi ca những tấm gương chói lọi trong chiến đấu, hy sinh... Những tác phẩm viết về sản xuất hay những đề tài khác cũng thế, vấn đề đặt ra chủ yếu cũng là vấn đề ý chí cách cách mạng, nhiệt tình cách mạng [4, tr. 460]. Mặt khác, một thời do nhận thức rằng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa không có bi kịch nên người ta nghĩ là có thể bỏ qua việc nghiên cứu các quan hệ gia đình, cho rằng các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em... hình như chẳng có gì phải bàn bạc nữa. Mọi người đều đặt quyền lợi của tập thể, của dân tộc lên trên hết. Cả dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Trong các sáng tác lấy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc làm bối cảnh, nếu có miêu tả xung đột gia đình, các nhà văn thường khai thác mâu thuẫn nảy sinh giữa lớp trẻ sục sôi nhiệt huyết, say mê lý tưởng với các thành viên thủ cựu trong gia đình (thường là ông bố - kẻ đại diện cho quyền lực của chế độ gia trưởng) để khẳng định con đường làm ăn tập thể, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Riêng với những tác phẩm viết về đề tài "chiến đấu", gia đình lại được nhìn nhận như một "tổ chức" thống nhất, tất cả mọi người đều ủng hộ, giúp đỡ nhau hoàn thành tốt công việc của tập thể, của xã hội. Đó là gia đình chị Tư Hậu (trong Một truyện chép ở bệnh viện - Bùi Đức Ai), má Bảy (trong Gia đình má Bảy - Phan Tứ), chị Út Tịch (trong Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi)... Một cách nhìn nhận, thể hiện như thế về gia đình là do yêu cầu lịch sử, do quy định của hoàn cảnh, nên khó có thể khác được.
Đặt trong bối cảnh đó, có thể nói, Ma Văn Kháng, với Mùa lá rụng trong vườn, đã có công khơi lại mạch viết về chủ đề gia đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỷ trong văn học Việt Nam.
Cũng đề cập chuyện gia đình, nhưng là gia đình Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, Mùa lá rụng trong vườn không nói lại những vấn đề từng được các tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn giải quyết khá ổn thỏa, mà tập trung bàn về tính phức tạp trong các mối quan hệ thuộc nội bộ gia đình hoặc giữa gia đình với xã hội, với dân tộc. Dưới cách đặt vấn đề mới của tác giả, các mối quan hệ thông thường giữa cha và con, vợ và chồng, anh và em, bố chồng và nàng dâu, chị dâu và em chồng... bỗng trở thành điểm thử thách sự bền vững của kiểu gia đình truyền thống trong cuộc va chạm với kiểu gia đình hiện đại. Nguy cơ rạn nứt, đổ vỡ trong từng gia đình do vậy cũng được dự báo kịp thời. Ngoài những điều đó, ở Mùa lá rụng trong vườn, tác giả còn nêu lên sự tác động đáng ngại của xã hội thời mở cửa đối với tổ chức gia đình vốn dĩ rất dễ bị thương tổn. Việc đề cao đồng tiền quá mức, việc sống buông thả theo dục vọng thấp hèn (mặt trái của nền kinh tế thị trường) rất dễ làm xói mòn mọi giá trị truyền thống, làm đảo điên xã hội.
Mùa lá rụng trong vườn kể chuyện một gia đình trí thức còn giữ nhiều nền nếp cổ truyền. Nhìn trên nét lớn, đây cũng là một gia đình kiểu "tứ đại đồng đường" (dù không thật điển hình), bởi ở trong gia đình lớn có sự tồn tại của các gia đình nhỏ (gia đình Đông - Lý, gia đình Luận - Phượng và sau này có thêm vợ con Cừ). Bề ngoài đây là một gia đình mô phạm mẫu mực, có nề nếp gia phong: "Ôi cái gia đình gồm hai ông bà xưa nay được tiếng là mô phạm mẫu mực, với năm anh con trai, năm hòn ngọc quý, anh là liệt sĩ, anh đóng trung tá, anh làm nhà báo, anh đi học nước ngoài... anh nào cũng đẹp người đẹp nết, cùng mấy cô con dâu cán bộ nhà nước, cô nào cũng đảm, cũng dễ thương, ưa nhìn, cái gia đình rất đáng tự hào về sự hoà mục, tiêu biểu cho các quan hệ của con người trong một gia đình thuộc xã hội mới". Vậy mà cuộc sống khó khăn, đầy biến động của đất nước sau chiến tranh đã đẩy gia đình "mẫu mực" ấy vào một bước ngoặt với những dấu hiệu rạn nứt rõ ràng, không dễ khắc phục.
Sự xáo trộn dữ dội như một quy luật tất yếu của xã hội trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường đã ảnh hưởng đến mọi gia đình Việt Nam. Ma Văn Kháng đã dùng hình ảnh ẩn dụ mùa lá rụng để nói lên qui luật đó. Mọi loài cây trong vườn vào mùa thay lá đều biến đổi. Chúng trút bỏ những chiếc lá vàng cũ kỹ, thay vào đó là những chiếc lá non tơ mơn mởn. Nhưng những chiếc lá mới ấy cũng mọc lên từ những cành mà trước đó không lâu nó đã rũ bỏ không thương tiếc những chiếc lá cũ. Bởi thế, Mùa lá rụng trong vườn không chỉ đề cập vấn đề "thời kỳ quá độ đôi khi cuốn hút chúng ta vào những mục tiêu kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ thuật... mà xem nhẹ việc xây dựng con người, xây dựng cá nhân, xây dựng cá tính..."[4. tr. 280] hay "lối sống ích kỷ, buông thả theo những dục vọng thấp hèn, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp những nguyên tắc luật lệ của đạo đức xã hội đang có nguy cơ xâm nhập vào từng gia đình, làm đảo lộn những gì trước đây cho là thiêng liêng, cao cả" [1, tr. 46] mà còn nêu lên yêu cầu đổi mới gia đình truyền thống cho phù hợp với xã hội mới. Truyền thống văn hoá dân tộc và truyền thống gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng của nó trong thời đại mới là những vấn đề cơ bản mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Khăng khăng giữ lại tất cả những gì của ngày xưa không phải là chuyện hợp thời, nhưng thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi nề nếp nhất định sẽ dẫn tới bi kịch.
Mùa lá rụng trong vườn trước hết là hồi chuông cảnh tỉnh những người có tư tưởng thủ cựu, cố duy trì, níu kéo kiểu gia đình truyền thống. Trong tác phẩm, ông Bằng là người đại diện cho lớp người đó. Ông cố gắng duy trì cái nề nếp cổ xưa, với hàng trăm điều nhỏ nhặt nhằm xây dựng gia đình hoà thuận, trên kính dưới nhường, trọng nghĩa khinh tài, hướng về sự phát triển đạo đức tinh thần. Đối với ông danh dự gia đình là trên hết. Ông luôn khuyên dạy các con mình phải giữ gìn danh dự: " Phải giữ gìn các con ạ. Giữ gìn từ những cái nho nhỏ vì từ những cái nho nhỏ cộng lại, hợp thành văn hoá, nền tảng đạo lý đấy". Vì danh dự gia đình mà ông đánh Cừ - người con trai mới mười ba tuổi - một trận đòn "thiếu sống thừa chết", rồi thẳng thừng đuổi con ra khỏi nhà, mặc dầu không biết đích xác Cừ có phải là người lấy cắp đồng hồ của khách hay không. Ông muốn dựa vào một nền tảng tinh thần vững bền để chống lại tất cả cái xấu đang tàn phá cuộc sống. Trong những dịp chuyện trò với con cái hay dịp cúng gia tiên vào cuối năm, ông luôn nhắc đến những kỷ niệm đẹp, những đứa con ngoan, thành đạt mà cố lảng tránh Cừ - người con trai bất trị đã bỏ cơ quan trốn đi biệt tích - nhưng lòng ông luôn nổi sóng. Ông chống chọi với hoàn cảnh, với sự thật phũ phàng, thực ra là ông tự dối lòng mình. Trong con người ông luôn có cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội. Ông dùng lý trí để khước từ Cừ nhưng tình cha con trong ông không bao giờ phai nhạt. Hình ảnh Cừ luôn in đậm trong trái tim ông. Bởi vậy, khi nghe Đông nói: "Theo con, ba nên có một động tác: làm một cái đơn đưa tới uỷ ban khước từ nó, không chịu trách nhiệm về nó", ông đã bị tăng huyết áp, mặt tối sầm lại. Hoặc khi cầm bức thư Cừ từ nước ngoài gửi về tay ông run rẩy và không dám mở ra xem. Khi biết Cừ vỡ mộng về "miền đất hứa" và dùng cái chết để sữa chữa lỗi lầm, ông đã ngã gục. Ông Bằng ngã gục không hoàn toàn vì việc Cừ phản bội tổ quốc chạy ra nước ngoài làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến thanh danh gia đình. Ông vốn quá hiểu con mình: ngay từ nhỏ Cừ đã là một đứa trẻ hư hỏng, bất trị, vào bộ đội rồi mà vẫn sống buông thả, sau đó phụ bạc vợ con và bỏ cơ quan trốn đi biệt tích... Cái chết thương tâm, sự hối hận muộn màng của người con trai nơi đất khách quê người cùng việc nó nói ra sự thật về cách giáo dục câu nệ, cứng nhắc, hà khắc, lỗi thời của chính ông đã làm ông gục ngã! Chính vì vậy, trước lúc từ giã cõi đời, ông đã hối hận, nhận ra sai lầm của mình. Ông dặn các con: "Thằng Cừ, lá rụng về cội, thương xót vong linh nó".
Cũng vì thanh danh gia đình mà ông hy sinh cả tình cảm riêng tư. Vợ chết, ông mất thăng bằng. Cả nhà toàn là người lớn. Ban ngày họ đi làm. Hầu như ông phải sống thui thủi một mình ở nhà. Láng giềng có bà Lang Chí nhân từ, hiền dịu và nhiều khổ đau. Đời bà là một chuỗi những mất mát thiệt thòi. Bà không được hưởng cái hạnh phúc thiêng liêng và giản dị như rất nhiều người đàn bà khác. Nay bà thường xuyên đến chữa mắt và săn sóc ông. Họ là những con người cô đơn đang khao khát một tình bạn khi tuổi xế tàn. Trong lần cùng bà hành hương về cội nguồn vào đầu xuân, ông đã tìm được sự yên ổn. Những tưởng bà sẽ là người bạn tri kỷ, tâm giao của ông, nhưng ông lại dùng lý trí cưỡng lại khát vọng cháy bỏng và chân thật đó. Đây là những suy nghĩ và hành động mang nặng tư tưởng cổ hủ, lỗi thời. Trong con người ông đầy mâu thuẫn. Bề ngoài ông tỏ ra vững vàng, kiên định nhưng bên trong ông rất hoang mang. Ông lo sợ khôn nguôi về một sự đổ vỡ trong gia đình. Sự chênh vênh, chao đảo, bất ổn trong tâm hồn ông Bằng cũng phản ánh phần nào thái độ chênh vênh, phân vân của ngòi bút Ma Văn Kháng. Một mặt, nhà văn lờ mờ cảm nhận được có cái gì đó không ổn, không hợp thời của kiểu gia đình xưa nhưng mặt khác ông lại luyến tiếc những nề nếp, những tôn ti trật tự tạo nên truyền thống gia đình người Việt. Do đó trái tim ông đập cùng nhịp với trái tim ông Bằng nhưng lý trí lại mách bảo ông điều ngược lại. Quả thật, phải xét thời điểm ra đời của tác phẩm (viết xong năm 1982, trước Đổi mới bốn năm), chúng ta mới thấy hết tính dự báo của nó; mới nâng niu, trân trọng những cách tân táo bạo của nhà văn.
Mùa lá rụng trong vườn còn đề cập một thực trạng đáng báo động nữa của xã hội buổi giao thời: không ít người có lối sống ích kỷ, chỉ biết chạy theo dục vọng cá nhân, chạy theo đồng tiền, thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi chuẩn mực đạo đức xã hội... Tất cả những điều đó đang hàng ngày, hàng giờ làm băng hoại mọi mối quan hệ gia đình. Trong gia đình ông Bằng xuất hiện hai con người nổi loạn muốn hê tung tất cả, phủ định sạch trơn mọi chuẩn mực đạo đức truyền thống là Cừ và Lý. Cừ vốn là kẻ "trong người đã có sẵn cái mầm hư hỏng". Mọi lời khuyên bảo, dạy dỗ của ba mẹ đối với Cừ chỉ là hành động "đạo đức giả". Trong thâm tâm Cừ "coi đạo đức là con số không vô nghĩa", nên dù bị chửi mắng, đánh đập, doạ nạt đủ điều Cừ vẫn chứng nào tật nấy. Đi bộ đội, Cừ luôn viết thư về nhà kêu khổ để "tróc" cho được nhiều tiền của ba mẹ. Cừ lại coi việc hệ trọng "trăm năm" chỉ là "chuyện sinh hoạt vặt vãnh". Hơn thế, sau khi để lại cho một cô gái nhẹ dạ hai đứa con, Cừ rũ bỏ trách nhiệm làm chồng, làm cha rồi rủ rê một người đàn bà khác trốn chồng cùng mình vượt biên. Chỉ khi đến được "miền đất hứa" thì Cừ mới tỉnh ngộ và nhận ra rằng "làm kẻ nô lệ dẫu có đeo đầy vàng thì cũng vẫn nhục", và "con đã đánh mất cái quý giá lắm! Mỗi người chỉ có thể thuộc về một dân tộc nhất định, từ trong tâm hồn. Con người sống có hai nhu cầu vật chất và tinh thần. Phá vỡ đạo đức thì gặp ngay hung bạo. Khinh rẻ giá trị tinh thần thì đời sống trống rỗng, hoang tàn... Con đã oán giận một cái gì đó, cay cú một cái gì đó. Rồi lại ước ao một cái gì đó. Bây giờ thì vỡ mộng, phản tỉnh với cái ước ao, tiếc nuối cái đã oán giận, cay cú". Như người đi vào đường hầm, càng vào sâu càng bế tắc, Cừ đã chọn cái chết nơi đất khách quê người để chuộc lỗi lầm của mình.
Khác với Cừ là nhân vật chỉ hiện lên gián tiếp thông qua lời kể của các thành viên trong gia đình và qua nội dung bức thư tuyệt mệnh anh để lại, Lý là nhân vật được Ma Văn Kháng khắc hoạ rất đậm nét trong tác phẩm. Lý là nhân vật phức tạp, có cá tính, có đời sống nội tâm phong phú. Có lúc chị đôn hậu đáng yêu, có lúc chị đanh đá tàn nhẫn. Nhà nghiên cứu Vân Thanh đã có những đánh giá về Lý như sau: "Nhân vật này mang nhiều nét đổi mới trong bút pháp tác giả. Đó là một phụ nữ đẹp, sắc sảo, tháo vát nhưng ít học. Khi còn trẻ, là một thiếu nữ mơ mộng, chị đã lấy một anh bộ đội hiền lành. Tự hào về sự anh dũng chiến đấu của chồng, chị đã chung thuỷ với chồng suốt những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt, đã một mình nuôi con thành người. Nhưng chị lại là một con người thích quyền hành muốn sai khiến người khác, dám đứng mũi chịu sào, tự coi mình hơn người, chị lại thích ăn diện, thích theo đòi cuộc sống xa hoa"[2, tr 161]. Đánh giá trên tuy chính xác nhưng còn thiếu phần lý giải. Nhà nghiên cứu chưa chú ý chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những thay đổi dữ dội trong con người Lý.
Trước hết, kiểu gia đình nề nếp gia phong như nhà ông Bằng hoàn toàn xa lạ với Lý. Lý mồ côi bố mẹ từ lúc còn rất nhỏ. Tuổi thơ chị không được sống trong mái ấm gia đình, lớn lên lại không được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ khác và sớm bị tiêm nhiễm lối sống xô bồ nơi thị thành. Ngay từ những năm đầu lên thành phố sống với chú, Lý đã quen với "những câu đùa cớt nhả, những lời ướm hỏi bóng gió và cái lối tán tỉnh sàm sỡ của đám trai hàng phố". Tuổi mười lăm, Lý " đã thinh thích một cái nhìn đưa đẩy, một cái vuốt má nghịch ngợm của một người đàn ông". Nhà Lý ở cạnh nhà vợ chồng viên quan ba tàu bay. Hàng ngày chứng kiến cảnh cô vợ anh ta thướt tha trong bộ áo dài hoa hiên đi ra chợ, tìm đến những hàng bún, hàng phở ngon nổi tiếng, rồi nửa buổi trở về với một làn đầy thức ăn, niềm ao ước cuộc sống lứa đôi, cuộc sống đủ đầy, xa hoa, hưởng lạc thức dậy mãnh liệt nơi chị. Chị sớm tìm được thần tượng cho mình. Vì vậy, khi Đông xuất hiện trong bộ quân phục sĩ quan, sao vàng lấp lánh trên mũ, khẩu súng ngắn K54 kênh kênh bên hông là "Lý cảm mến và chẳng bao lâu đã yêu tha thiết anh đại uý quân đội nhân dân Việt Nam nọ". Yêu Đông, lấy Đông là Lý yêu và lấy một thần tượng, là biến cái mộng thành vợ một sĩ quan như nữ sinh Đồng Khánh vẫn hằng lưu giữ trong tâm trí thành hiện thực chứ thực ra Lý chưa hiểu gì về con người Đông. Tiếp đó, Đông đi chiến đấu biền biệt. Năm thì mười hoạ anh mới được sống cùng vợ trong dịp nghỉ phép hay ra Hà Nội công tác. Trong chiến tranh những dịp ấy vô cùng hiếm hoi. Bởi vậy, thời gian họ sống với nhau vô cùng ít ỏi. Từ khi Đông trở về "hình ảnh một ông trung tá trong nỗi nhớ, một ông trung tá được miêu tả hết sức trừu tượng nhưng đầy hãnh diện trước mọi người" ở chị không còn. Bây giờ Đông là xương thịt như mọi người, đã về hưu, tự coi mình đã hoàn thành nghĩa vụ, sống đơn giản, bằng lòng với cuộc sống buồn tẻ - điều đó đã làm cho Lý hoàn toàn vỡ mộng. Câu nói: "Không hiểu tại sao tôi lại lấy ông đấy, ông Đông ạ?" trở thành câu nói thường nhật mỗi khi chị không bằng lòng với chồng. Thêm nữa, tuổi 40 là tuổi hồi xuân, sắc đẹp của người phụ nữ đạt đến độ viên mãn nhất. Lý vốn đẹp, nay càng đẹp và hấp dẫn hơn. Chị vẫn giữ nguyên vẻ tươi mát và duyên dáng. Nhiều người vẫn trầm trồ, ngưỡng vọng chị. Bản thân Lý cũng cảm nhận và tự hào về vẻ đẹp hình thể của mình. Sáng sáng, chị thường đứng trước gương ngắm tấm thân ngọc ngà, trẻ trung gần như khỏa thân của mình. Nhưng Đông thờ ơ trước vẻ đẹp và những đòi hỏi chính đáng của chị, không còn là chỗ dựa tinh thần để chị có thể xẻ chia hay bộc bạch nỗi niềm tâm sự. Trong khi đó, bên chị không hiếm những kẻ nhăm nhăm lợi dụng cái phần tối tăm mà thực sự chị cũng có thừa. Sự năng động, tháo vát của chị được lãnh đạo xí nghiệp sử dụng triệt để. Có điều, họ chỉ chú ý vào kết quả mà không quan tâm đến hành vi và cách thức làm việc để đạt được kết quả đó của chị nên Lý không phân biệt được tốt - xấu, trắng - đen, phải - trái. Mặt khác, họ tâng bốc chị quá mức. Nào là "cô là con người năng động nhất", nào là "chị ấy là con dao pha của chúng tôi". Vì thế, Lý nhầm tưởng những hành động "đi cửa sau" của mình là thức thời, năng động phù hợp với xu thế thời đại. Từ đó, Lý có cái ảo tưởng mình có vai trò rất quan trọng "chị ngây ngất vì vinh quang, lòng tràn ngập cái cảm giác mình là nhân vật nổi trội nhất, tài năng nhất, có quyền hành cao nhất lúc này". Chị thường kể một cách hào hứng với vẻ đầy tự hào về những việc làm của mình. Hơn thế, hàng ngày chị trực tiếp làm việc với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá, lẳng lơ, lắm tiền nhiều mưu kế. Hắn sử dụng mọi mánh khoé xảo quyệt để quyến rũ chị. Sự chiều nịnh khéo léo cùng sự sành điệu trong các ngón ăn chơi của hắn đã đẩy Lý từ chỗ không làm chủ được cám dỗ vật chất đến sa ngã, hư hỏng. Tuy nhiên những lúc tỉnh táo chị hoàn toàn phân biệt được đâu là phải đâu là trái, đâu là tốt đâu là xấu. Chị nhận ra chân tướng, thủ đoạn của tay trưởng phòng và vạch trần bản chất xấu xa của anh ta. Chị cảm thấy ghê tởm anh ta, ghê tởm cả chính mình và thề sẽ không bao giờ gặp lại hắn nữa. Lúc ấy, chỉ cần có người tin cậy nâng đỡ, an ủi, sẻ chia là chị vượt qua được sự chông chênh đó. Nhưng người chồng vô lo đến mức vô tâm của chị đã không làm được việc ấy. Vì thế, tâm trạng Lý xáo động: có nhiều chiều lang thang vô định như kẻ mắc bệnh trầm cảm, có những buổi vẩn vơ một mình trên ghế đá và những đêm dài ngột ngạt, trơ trọi trong buồng vắng. Cuối cùng, Lý phó mặc cho "những cảm giác đòi thoả mãn và bất chấp" sai khiến, dẫn chị đến chỗ buông xuôi, trượt ngã.
Bản tính Lý là người thích quyền hành, thèm sai khiến người khác, tự coi mình là quan trọng, là hơn người. Từ ngày có Phượng chuyển về, vai trò của Lý trong gia đình giảm dần. Tệ hại hơn, sự tin cậy của mọi người đối với chị cũng không được như xưa. Luận gián tiếp nói lên điều đó khi ca ngợi chị Hoài là người chín chắn, trung thực, "hoàn toàn tin cậy được". Cần khéo léo từ chối sự mối mai của chị khi thông báo tháng sau cưới vợ. Còn ông Bằng, trong chúc thư, trao sổ tiết kiệm ba ngàn đồng cho Phượng chứ không phải cho chị, mặc dù chị là cô dâu trưởng và từ trước đến nay mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do bàn tay chị xếp đặt. Thêm nữa, Luận vốn là người hiểu và kính phục chị, luôn ca ngợi chị tài giỏi, tháo vát, chân tình... nhưng bây giờ công khai lên án chị gay gắt, gọi chị là "quỷ sa tăng". Niềm tin cậy, chỗ bám víu của chị trong gia đình không còn. Chị trở nên cô độc, trơ trọi. Gia đình giờ đây đâu còn là nơi an lạc của chị! Mọi người trong nhà giờ đâu còn chở che, nâng đỡ, vỗ về, an ủi chị! Bao nhiêu bực dọc, bao nhiêu cay đắng, bao nhiêu ấm ức bấy lâu chất chứa trong lòng chị tuôn ra. Chị như kẻ cùng đường, xù lông xù cánh chống trả: "Đối đáp bốp chát, ăn miếng trả miếng, chửi vỗ mặt nhau đanh đá hàng tôm hàng cá, thơn thớt dựng chuyện, vu khống đê tiện một cách nanh ác". Những nét thô kệch, phàm tục do thiếu văn hoá căn bản trong Lý bộc phát ra hết, vì thế lúc này con người chị chỉ rặt những nét trâng tráo, vô liêm sĩ, bản năng và hoang dã.
Lý cùng đường. Mọi sợi dây ràng buộc chị với chồng và các thành viên trong gia đình đứt tung. Chị buông thả theo lối sống phóng túng, sa đoạ, trác táng với tay trưởng phòng vật tư thoái hoá biến chất. Sự hư hỏng của Lý diễn ra dần dần theo một quá trình buông thả mà không được sự hướng dẫn, giáo dục của tập thể, người thân. Chị vừa thiếu một nền tảng, căn cốt văn hoá vừa thiếu một người tri kỷ, định hướng nâng đỡ về tinh thần, lại chịu tác động mạnh mẽ những mặt trái của kinh tế thị trường, khiến chị không cưỡng lại được sự cám dỗ vật chất, lối sống vị kỷ, thực dụng, bản năng. Nhà văn luôn dõi theo những bước chân của Lý. Ông sung sướng, hả hê khi Lý là một nàng dâu xinh đẹp, đảm đang; một viên chức mẫn cán. Ông hóa thân vào ông Bằng ca ngợi Lý hiếu thảo; hóa thân vào Luận khen Lý tài giỏi, chân tình; mượn lời Phượng, lời ông thiếu tá khen Lý trẻ đẹp hay lời ông giám đốc xí nghiệp đánh giá Lý năng nổ, tháo vát. Ngược lại khi Lý sa ngã, hư hỏng, ông đau đớn, xót xa. Nỗi đau xót có khi nhà văn âm thầm nuốt vào lòng nhưng phần nhiều được bột phát thành những lời phê phán khá quyết liệt. Giận Lý, trách Lý chủ yếu là để trách cứ những thành viên trong gia đình đã không nâng đỡ, che chở và định hướng cho Lý; là trách tập thể, xã hội không giáo dục, uốn nắn kịp thời những sai phạm của chị mà lại bỏ mặc và cuối cùng bỏ rơi chị. Chính vì thế, nhà văn đã chọn giải pháp để chị hối hận, nhận ra sai lầm và xin trở lại mái nhà xưa. Mọi người trong gia đình cũng nhận thức được trách nhiệm của mình về sự sa ngã của chị và mở rộng cánh cửa đón chị trở về.
Một năm trôi qua, gia đình ông Bằng xẩy ra biết bao chuyện. Có ai ngờ ngôi nhà bề ngoài tưởng là êm ấm, thuận hoà ở đầu cái phố đẹp, ẩn mình dưới vườn cây yên tĩnh lại là một vùng chứa nhiều sóng gió đến thế. Một số thành viên trong gia đình có người phải từ giã cõi đời, có kẻ phải tìm đến cái chết, có kẻ thương tích đầy mình, nhưng tất cả đã nhận ra chân lý: gia đình dù chỉ là giọt nước của biển cả, song nếu thiếu những giọt nước nhỏ bé ấy thì làm sao có được đại dương bao la! Chúng ta, những độc giả của Mùa lá rụng trong vườn không phải không có lúc băn khoăn về những trang viết có phần cường điệu về tính vô tâm, vô trách nhiệm và thái độ thụ động trước hoàn cảnh của Đông - một trung tá đã trải qua mấy chục năm "vào sinh ra tử". Chúng ta cũng không hoàn toàn bằng lòng với một số giải pháp tác giả đặt ra trong tác phẩm, chẳng hạn việc ông để các nhân vật "nổi loạn" nhận ra lỗi lầm của chính họ quá dễ dàng. Nhưng về cơ bản Mùa lá rụng trong vườn là một tác phẩm tốt, để lại nhiều dư âm trong lòng người đọc, giúp họ thức nhận được vai trò quan trọng của mái ấm gia đình và những thông điệp nhà văn gửi gắm trong tác phẩm là đổi mới phải gắn liền với kế thừa. Đổi mới nhưng không bao giờ quên những tinh hoa truyền thống. Có như vậy, chúng ta vừa tránh được tụt hậu vừa giữ vững bản sắc dân tộc trong việc xây dựng gia đình, xã hội Việt Nam hiện đại phù hợp với xu thế hội nhập của thời đại mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bùi Lan Hương, Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn, Đại học sư phạm Hà Nội, Hà Nội 2004.
2. Vân Thanh, Một mảnh đời trong trong cuộc sống hôm nay qua Mùa lá rung trong vườn, Tạp chí văn học số 3- 1986, tr. 159 - 166.
3. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (Giới thiệu và tuyển chọn), Văn chương Tự lực văn đoàn, NXB Giáo dục- 1999.
4. Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng (Sưu tầm và biên soạn), Văn học 1975 - 1985: Tác phẩm và dư luận, NXB Hội nhà văn, Hà Nội 1997.
(Bài đã đăng Tạp chí khoa học Đại học Vinh số 4B-2006)
ĐẾN VỚI MỘT KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN ĐẦY HƯƠNG TẾT
TRONG TIỂU THUYẾT MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN
Trương Vũ Thiên An
Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn - được viết ra nhằm chia sẻ với người đọc giữa đời về niềm lo lắng sâu sắc cho các giá trị truyền thống trước những biến động, đổi thay của thời buổi kinh tế thị trường - được Ma Văn Kháng hoàn thành vào năm 1985. Tác phẩm được xét tặng giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1986. Tác phẩm gồm 20 chương. Đoạn trích được chọn đưa vào Sách giáo khoa Ngữ văn 12 là một đoạn dẫn từ phần 4, chương II của tác phẩm.
Bằng một giọng kể ấm áp và cảm động, khi thì qua trật tự tuyến tính dẫn dắt, khi thì qua ngôn ngữ đối thoại, khi thì để cho sự việc phơi trải giữa thời gian hiện tại, khi thì để sự tình xa xôi sau một bức màn hồi ức, tác giả đã đưa người đọc trở về với một buổi chiều cuối năm đầy bình yên và trầm hương. Trong buổi chiều cuối năm đầy thiêng liêng mang tính truyền thống đó, người đọc nhận ra những nét đẹp rất phương đông, rất Việt Nam của ngày Tết cổ truyền: sự đoàn tụ, lễ cúng gia tiên và bữa cơm tất niên, những lời ước nguyện...
Có thể tiếp cận với không gian và thời gian đầy hương Tết của đoạn trích được dẫn ở ba toạ độ nghệ thuật sau:
Thứ nhất, chị Hoài và sự trở về trong buổi chiều ba mươi Tết.
Chị Hoài - người vợ của một liệt sĩ. Chấp nhận sự vô thường, chị tái giá, nhưng vẫn giữ sự hằng thường: sự trong sáng thuỷ chung với gia đình nhà chồng (gia đình ông Bằng). Hết mùa lá rụng năm ấy, chị như chiếc lá tìm về cội nguồn, trở về thăm lại gia đình cũ đúng thời khắc buổi chiều tất niên. Chị Hoài (mà cái tên như ngầm gợi lên một cái gì ổn định, hằng thường, thuỷ chung) hiện lên trong tác phẩm và đoạn trích trong một lát cắt bất ngờ của đời sống, cũng là trong chặng cuối cuộc hành trình của một năm tàn tháng tận. Chị đem đến cho khu vườn của nhà chồng một tiết tấu bình yên - như bù lại cho những gì mà thế giới yên tĩnh ấy đã, đang và sẽ vừa bị tước đoạt vừa được bồi đắp mới để thích nghi trước một nhịp điệu gấp gáp của đời sống thị trường. Lời nhắn gọn gắn mà mênh mang biết bao, ít chữ mà nhiều nghĩa biết bao ở chương XX - chương cuối cùng của truyện - của chị Hoài sau một mùa lá rụng nữa như hoàn chỉnh thêm diện mạo tâm hồn của một người vợ liệt sĩ đã thanh thản chọn cho mình cách sống vì mọi người (trước hết là mọi người trong gia đình dù đó chỉ là một gia đình đã xưa cũ với chị mà chị hoàn toàn có quyền không phải chia sẻ trách nhiệm nữa): "Bao giờ cậu Cần cưới vợ, cô Phượng ở cữ, cô Lí về, nhớ điện cho tôi lên".
Đúng như suy nghĩ của ba nhân vật Đông, Lí và Luận: "Quan hệ của chị ở gia đình này đã thuộc về quá khứ. Kỉ niệm của chị ở đây đẹp nhưng buồn. Chị có quyền quên mà không ai được trách cứ." Nhưng đoạn trích đã cho người đọc đến với một nhân vật chị Hoài của hiện tại chứ không phải là của quá khứ. Vẫn còn đó trong mùa tết năm này của tác phẩm sự chu đáo, lo toan, nghĩa tình vẹn toàn của một người dâu trưởng. Điều đó làm tất cả mọi người trong gia đình ông Bằng đều cảm động. Qua cách miêu tả ấy của Ma Văn Kháng, người đọc cũng bất giác bồi hồi theo tâm hồn nhân hậu, cách sống vị tha, trong sáng nghĩa tình, thuỷ chung của người đàn bà đã một thời là dâu trưởng. Ma Văn Kháng đã ưu ái dành cho nhân vật đặc biệt này cả hai cách giới thiệu, miêu tả vừa trực tiếp (qua ngoại hình và diện mạo bình dị mà có nét tươi tắn: "một phụ nữ nông thôn trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áo bông chần hạt lựu. Chiếc khăn len thắt nâu ôm một khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng tươi."; qua hai con mắt "đậm nỗi bồi hồi" cảnh cũ người xưa; qua ngôn ngữ thô mộc dân dã mà không phải là không tinh tế: "Cô Phượng đấy như?") vừa gián tiếp (qua hồi ức của mọi người: "Chị Hoài, vợ anh cả Tường liệt sĩ. Chị Hoài, dâu trưởng, nết na, thuỳ mị."; qua cảm nhận của Phượng trong hiện tại: "Người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối dây liên hệ với gia đình này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống cuả gia đình này"). Chín năm chưa gặp lại người cha chồng kính yêu. Phút gặp lại, chị Hoài "gần như không chủ động được mình, chị lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép...". Ma Văn Kháng tinh tế và sắc sảo để chị "kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa" - hai hàng gạch hoa của lễ giáo và sự xa cách của một lần tái giá. Chị thốt lên tiếng "Ông" nghe như một tiếng nấc. Nhưng đến lễ cúng gia tiên, chị Hoài đã thật sự trở về với niềm tin trong trẻo cũ. Người đàn bà đó đã giản dị một cách hồn nhiên để tin rằng chị vẫn là một phần không thể tách rời của cái gia đình xưa cũ. Vì vậy, ngay khi ông Bằng vừa khấn vái và buông tay chắp xong, chị liền "thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực." để cất lên lời khấn vái tổ tiên.
Có phải chính từ hình tượng này mà Ma Văn Kháng đã muốn nói lên một điều không được nói ra nói tác phẩm: thì ra, con người ta có quyền vừa hội nhập với cái mới mà vẫn vừa giữ gìn được những nét tinh tuý hằng thường của cái xưa cũ.
Thứ hai, ông Bằng và cuộc gặp lại người con dâu.
Qua cách khắc hoạ của Ma Văn Kháng, ông Bằng vừa là hiện thân vừa là biểu tượng cho giá trị mang tính chuẩn mực của đời sống gia đình. Ông tìm bình yên trong tiết tấu cổ điển của bản "Vườn khuya". Nhưng giai điệu thong thả du dương êm đềm ấy cũng không giúp ông chống đỡ nổi sự biến động phức tạp đầy tăng tốc của đời sống thị trường. Ông phải chứng kiến dần dần sự đổ vỡ của gia đình: con trai (Cừ bỏ xí nghiệp và có tin là đã vượt biên), con dâu (Lí - vợ của Đông) đang có biểu hiện chê chồng lạc hậu để đua theo lối sống xa hoa phù phiếm. Khu vườn nhỏ và yên tĩnh của gia đình ông Bằng vừa phải đối mặt với quy luật rụng lá của thiên nhiên, vừa phải đối mặt với quy luật biến động của đời sống xã hội. Ông Bằng chưa chịu nhận ra một điều - mà điều này cho đến cuối tác phẩm, sẽ xuất hiện trong một chiêm nghiệm của con dâu ông là Phượng: "Ai có thể ngờ được căn nhà yên tĩnh, ở đầu cái phố dài yên tĩnh, lại chỉ có được sự yên tĩnh bề ngoài. Gia đình, cái giọt nước của biển cả, có ai ngờ lại là một vùng chứa nhiều sóng gió đến thế."
Cuộc gặp mặt giữa ông Bằng và người dâu trưởng là chị Hoài là một cuộc gặp gỡ vừa vui mừng vừa xót xa. Trong một chừng mực nào đó, cuộc gặp lại này xoa dịu niềm cô đơn và tiếp thêm niềm tin cho ông Bằng trong cảnh ngộ gia đình hiện tại. Ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế của Ma Văn Kháng tỉ mẫn ghi lại cận cảnh phút giây rớm nước mắt đó: ông Bằng sững lại khi nhìn thấy chị Hoài, trên gương mặt còn vướng vất ưu tư của ông "thoáng một chút ngơ ngẩn", rồi mắt ông "chớp liên hồi", môi "lật bật không thành tiếng". Tác giả nói thay người đọc và thay cho cả nhân vật người cha chồng giàu cảm xúc này là "có cảm giác ông sắp khóc oà". Khi chị Hoài lao về phía cha, thốt lên tiếng "Ông" nghe như tiếng nấc, giọng ông Bằng nghẹn ngào đẫm nước mắt: "Hoài đấy ư, con?". Đúng là một cuộc gặp gỡ nhiều tâm trạng, nhiều nỗi niềm mà một nhân vật trong truyện đã nhận ra : "Cảnh gặp gỡ vui mừng nhiễm một nỗi tiếc thương, đau buồn, ê nhức cả tim gan.".
Mùa lá rụng. Cây cối trong thiên nhiên lớn của đất trời và thiên nhiên hẹp là khu vườn của gia đình ông Bằng cũng đều chấp nhận quy luật vừa khắc nghiệt vừa thanh thản của tiết mùa cho một lần thay lá. Để lên non. Cũng như cây cối trong khu vườn nhà ông Bằng, những con người trong Mùa lá rụng trong vườn phải đối mặt cho một lần "lên đời" (cũng là một kiểu "thay lá") để bước vào cuộc sống đầy năng động, đầy biến động của cơ chế thị trường. Trong cuộc sống tất bật để đi lên đó, một mặt những con người trong đoạn trích và tác phẩm phải phấn đấu để trang bị thêm những giá trị mới để thích nghi với cuộc sống mới; mặt khác, phải ra sức níu giữ, neo giữ những giá trị hằng thường đã trở thành chuẩn mực bất biến của đời sống. Giá trị cần được giữ gìn trong mùa lá rụng của tác phẩm và cũng chính trong đoạn trích là giá trị gia đình.
Thứ ba, mọi người trong gia đình ông Bằng và lễ cúng tất niên.
Tất cả đều mong đợi chị Hoài lên thăm, chị Hoài trở về. Và "cầu được, ước thấy". Niềm vui mừng của mọi người trong gia đình ông Bằng khởi phát từ tiếng reo to mừng rỡ của Phượng, tiếp theo là cảnh Đông, Lí, Luận hấp tấp vội vã từ phòng khách "ùa ra vệt đường lát xi măng đi qua vườn cây ra cổng...". Cảnh Lí ôm chầm lấy chị Hoài. Rồi một loạt lời hỏi han, trao đổi rộn rã. Rồi cảnh người cha chồng và con dâu trưởng gặp lại nhau trong nghẹn ngào cảm xúc.
Lễ cũng tất niên tràn ngập không khí trang nghiêm nhưng ấm cúng, lời khấn thành kính mà chân thành. Đứng trước bàn thờ tổ tiên, ông Bằng "như quên hết xung quanh và bản thể". Ông thành tâm theo khói hương ngày Tết trôi về quá khứ hằng thường, cất lên lời vọng tưởng đầy tri ân với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với người vợ đã qua đời, với người con trai cả đã xanh mồ. Để rồi từ quá khứ thiêng, ông trở về với hiện tại bề bộn. Hơn ai hết trong gia đình này, ông ý thức sâu sắc sự kết nối giữa truyền thống và hiện tại, giữa tổ tiên và con cháu.
Mâm cỗ tất niên thịnh soạn được cả nhà - nhất là Lí - tươm tất chuẩn bị. Nỗi buồn năm cũ như qua đi, chỉ còn đó đêm trừ tịch đầy sự vui vẻ, hân hoan, ấm cúng của một gia đình tưởng chừng không bao giờ có thể chia cắt.
Có lẽ người đọc tuy không nói ra nhưng đều cảm động hướng đến và sẻ chia suy nghĩ lặng thầm của ông Bằng trong đêm cuối năm lặng gió ấy ở cuối chương II: "Gia đình và sự sum họp đêm giao thừa, có gì đầm ấm, thiết tha hơn. Kỳ diệu thay thời khắc này. "
Tết, trong nỗi thiêng liêng thẳm sâu giản đơn mà huyền diệu đêm trừ tịch, sau những bổi hổi đoàn tụ, cuối những hoài niệm xao xác và khởi đầu thinh lặng những ước mơ, nghe vườn khuya rùng mình búng lá, nghe trước đường theo gió có ai đó lất phất xuyên qua trầm hương đi về hát khẽ lời "anh đến thăm em đêm ba mươi..." mà chợt làm huyên náo cả tách trà thơm, lặng thầm giở từng trang Mùa lá rụng trong vườn...
Cũng là một cái thú giữa ngày xuân chăng!
Mùa lá rụng trong vườn
( Ma Văn Kháng )
Người thực hiện:
Nhóm văn trường THPT Thái Hoà
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
Mục tiêu cần đạt :
- Giúp học sinh biết vài nét về thân thế và sự nghiệp văn học của nhà văn Ma Văn Kháng, vị trí của tiểu thuyết "Mùa lá rụng trong vườn" trong đời văn của ông.
- Học sinh hiểu tình nghĩa chân thành, đằm thắm, nét ứng xử đẹp giữa những người trong gia đình ông Bằng vào một chiều tất niên; qua đó các em hiểu thêm văn hoá Việt ở ngày Tết nguyên đán.
- Học sinh cảm thụ tài miêu tả nội tâm nhân vật - một phương diện thành công của Ma Văn Kháng ở tiểu thuyết này.
- Học sinh vận dụng những hiểu biết trên để đọc hiểu những nội dung còn lại của tác phẩm.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
I/ Tiểu dẫn:
1. Tác giả:
Bút danh Ma Văn Kháng để ghi nhớ ân tình bà con dân tộc thiểu số vùng núi cao bắc bộ mà một thời nhà văn đã gắn bó.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
2. Tiểu thuyết : Mùa lá rụng trong vườn :
- Sáng tác: 1985.
- Tóm tắt:
- Vị trí: Được tặng giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 1986.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
II/ Đọc hiểu văn bản:
1. Đọc và tóm tắt:
- Đọc.
- Tóm tắt trích đoạn:
- Vị trí trích đoạn.
2. Phân tích.
a. Nhân vật chị Hoài:
Thảo luận nhóm:
Nhóm 1,2,3:
Nhóm 4,5,6:
Tìm các chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động của nhân vật chị Hoài ?
Cách xưng hô của chị Hoài khi xuất hiện trong nhà ông Bằng cho thấy tình cảm của chị với gia đình như thế nào? Tại sao những người trong gia đình ông Bằng quý yêu mà không níu kéo chị về với mình ?
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Nhân vật chị Hoài:
- Thời gian xuất hiện: chiều 30 tết.
Quan hệ với gia đình ông Bằng: là dâu trưởng (vợ anh cả
Tường) nay đã tái giá.
- Ngoại hình:
+ Người phụ nữ nông thôn, trạc 50
+ Người thon gọn trong chiếc áo bông trần hạt lựu
+ Khuôn mặt rộng có cặp mắt đằm thắm và cái miệng tươi.
=> Đẹp một cách giản dị, tươi tắn.
- Hành động:
+ Biết hết mọi việc trong nhà-> vẫn chia sẻ với gia đình.
+ Tíu tít hỏi han khắp lượt mọi người trong gia đình.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
+ Mang quà quê: gạo nếp và giò thủ do chồng chị làm .
+ Lúc gặp ông bằng: Chị Hoài gần như không chủ động,
lao về phía ông Bằng (..) thốt lên một tiếng như tiếng nấc + Chắp tay trước bàn thờ tổ tiên ngay sau khi ông Bằng lui gót.
=> Quan tâm, săn sóc mọi người thân tình.
- Ngôn ngữ: xưng hô với ông Bằng và các em rất thân thiết.
Vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong truyền thống gắn với mô hình gia đình nền nếp gia phong, sống nặng nghĩa tình thuỷ chung son sắt.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
b. Nhân vật ông Bằng:
- Ngoại hình:
cao, gầy hơn mọi ngày nhưng trang trọng và chỉnh tề hơn, gương mặt ánh lên cảm xúc của con người trước ngưỡng cửa năm mới.
- Tâm trạng khi gặp Hoài:
sững lại, thoáng ngơ ngẩn, mắt chớp liên hồi, môi ông lật bật không thành tiếng, có cái cảm giác ông sắp khóc oà, giọng ông khê đặc khàn rè, rút khăn tay chấm kẽ mắt.
Nỗi niềm xúc động rưng rưng.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
Đọc đoạn văn sau:
Thoáng cái, ông Bằng như quên hết mọi thứ xung
Quanh và bản thể. Dâng lên trong lòng ông cái cảm
xúc thiêng liêng rất đỗi quen thân và tâm trí ông
bỗng mờ nhoà, phiêu diêu lãng đãng gần xa, ẩn hiện
tầng tầng lớp lớp những hình ảnh khi tỏ khi mờ,
chập chờn như trongchiêm bao. Thưa thầy mẹ đã cách
trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
Con vẫn nghe vằng vẳng đâu đây lời giáo huấn ông cha, tiên tổ. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc ông bà, cha mẹ tổ tiên, con như thấy từ trong tâm linh, huyết mạch sự sinh sôi nảy nở, phúc thọ an khang của cháu con đời đời nối tiếp trong cộng đồng dân tộc yêu thương.Và em, cùng con trai cả của ba mẹ. Em cùng con đã mất mà vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ đỡ nâng, dắt dìu tôi cùng các cháu, các con, các em,.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
Trong giây lát, nhập vào dòng xúc động tri ân cùng
tiên tổ và những người đã khuất, ông Bằng lâng lâng
trong những hoài niệm hư ảo, thoát trần.Nhưng ông
chỉ ở trong dòng tình cảm trôi lững lờ đó trong giây
phút. Quá khứ không cắt rời với hiện tại. Tổ tiên
không tách rời với con cháu. Tất cả liên kết thành một
mạch bền chặt thuỷ chung. Bởi vậy, ông lại trở về với
những ngày đang sống, với những người đang sống.
Mắt ông bỗng cay xè. Lòng ông lại bồn ngộn. Và
ông vội cúi xuống, bật trên đôi môi những lời cầu
khấn thành kính và run rẩy..
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
b. Nhân vật ông Bằng:
- Tâm trạng khi đứng trước bàn thờ:
+ Quên hết mọi thứ xung quanh kể cả bản thân.
+ Trôi ngược về quá khứ: tri ân với cha mẹ, tổ tiên; tâm tình với vợ và con trai cả.
+ Trở lại thực tại: mắt cay xè, lòng lại bồn ngộn.
Ông là gạch nối giữa qúa khứ và thực tại của gia đình ấy trong giây phút thiêng này .
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
Ông Bằng là kiểu nhân vật đặc trưng
cho lớp người rất phổ biến trong xã hội ta một thời trọng đạo đức gia đình và các chuẩn mực xã hội truyền thống nhưng đang phải gánh chịu nỗi đau từ cơn lốc kinh tế thị trường tàn phá vào giá trị của gia đình.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
c. Khung cảnh tết trong nhà ông Bằng và truyền thống văn hoá dân tộc:
- Chiều 30 Tết: gia đình sum họp, thăm hỏi lẫn nhau, dâng cúng tổ tiên rồi cùng nhau ăn bữa tất niên.
- Dòng tâm tư của ông Bằng khi đứng trứơc bàn thờ gia tiên: tri ân tổ tiên, tưởng nhớ những lời gia huấn; tâm tình với người đã khuất.
- Cách ứng xử giữa các nhân vật giàu giá trị nhân bản.
Biểu hiện của văn hoá dân tộc: truyền thống gia đình, ý thức đặt gia đình trong mối tương quan với cộng đồng.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
III. Tổng kết.
1. Nội dung.
- Tình nghĩa chân thành, đằm thắm,
nét ứng xử giữa những người trong
gia đình ông Bằng vào một chiều tất niên
Hiểu thêm về văn hoá Việt ở ngày Tết
nguyên đán.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
2. Nghệ thuật:
- Xây dựng kết cấu truyện hợp lí.
Thành công trong những đoạn văn miêu
tả diễn biến tâm lí con người.
Mïa l¸ rông trong v ên (Ma V¨n Kh¸ng)
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip