Tiểu luận CCCT

MỤC LỤC

Trang

      MỞ ĐẦU

1

     CHƯƠNG I: NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN

4

    1. Một số vấn đề lý luận về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý

4

      2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt Ở Chi cục Bảo vệ thực vật hiện nay.

10

       CHƯƠNG II: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO PHẨM CHẤT NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở  ĐƠN VỊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

16

      1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay

17

      2. Những yêu cầu về năng lực tổ chức thực tiễn của người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở và cơ quan đơn vị hiện nay

18

      3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý nhà nước

19

      4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt đơn vị đến năm 2020

22

      5. Tổ chức thực hiện

32

       KẾT LUẬN

35

      TÀI LIỆU THAM KHẢO

36

MỞ ĐẦU

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

          Chúng ta đang ở những năm đầu của thế kỷ XXI, đây là một thời điểm lịch sử hết sức quan trọng đối với nước ta. Văn kiện Đại Hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt nam đã nêu rõ: bên cạnh những thuận lợi do tiến trình đổi mới tạo ra, nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức do những yếu kém vốn có của nền kinh tế trình độ thấp; thiên tai, dịch bệnh xảy ra ở nhiều nơi; tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp. Trong hoàn cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Nhìn khái quát cả 20 năm đổi mới, chúng ta thấy những thành tựu đạt được là to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đã đưa lại cho đất nước ta một sự thay đổi cơ bản và toàn diện, làm cho thế và lực, uy tín Quốc tế của nước ta tăng lên nhiều so với trước.

Nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, nặng nề đang đặt ra cho Cách mạng Việt Nam là phải tạo ra những tiền đề căn bản cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp tục phát triển với quy mô lớn và tốc độ cao. Trong tiến trình của công cuộc đổi mới, cần phải tiếp tục khắc phục những tồn tại từ cơ chế quan liêu, bao cấp, đồng thời phải giải quyết một cách có hiệu quả nhiều vấn đề hết sức mới. Tình hình đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm công tác lãnh đạo, quản lý phải có đầy đủ phẩm chất cách mạng, bản lĩnh chính trị, hiểu biết lý luận và tinh thông nghiệp vụ, vững vàng kiên định, đồng thời thông minh, sáng tạo trong thực hiện các nhiệm vụ.

          Công tác lãnh đạo, quản lý có tầm quan trọng đặc biệt do tác động chính trị, kinh tế, xã hội của nó; đồng thời cũng mang tính đặc biệt tinh tế, phức tạp do đối tượng tác động của công việc. Để có thể điều chỉnh được các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải hiểu được bản chất và tính quy luật của các hiện tượng , quá trình xã hội đó, làm sao có thể tập hợp, tổ chức, định hướng suy nghĩ và hành động của quần chúng, phải hiểu và “biết làm việc với con người”. Đó là công việc hết sức khó khăn và phức tạp, để làm được việc đó, người cán bộ lãnh đạo, quản lý không thể chỉ có ý chí và lòng nhiệt thành mà còn phải được trang bị kỹ lưỡng về tri thức và nghiệp vụ công tác lãnh đạo, quản lý.

          Hoạt động lãnh đạo, quản lý chủ yếu là làm việc với con người, là sự ảnh hưởng tác động qua lại giữa các chủ thể- nhân cách, là cách giải quyết giữa các mối quan hệ giữa con người với con người. Để được mọi người đánh giá và thừa nhận là người lãnh đạo, quản lý, nhân cách chủ thể lãnh đạo, quản lý không những phải mẫu mực, hoàn thiện cao hơn những người dưới quyền là đối tượng, khách thể bị lãnh đạo, quản lý mà họ còn phải thể hiện rõ vai trò định hướng, gương mẫu, có ưu thế ảnh hưởng tác động về nhiều mặt, biết tổ chức, tập hợp, lôi cuốn và thúc đẩy mọi người cùng hoàn thành nhiệm vụ.

          Chiến lược cán bộ lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ mới cũng chính là xác lập cho người cán bộ lãnh đạo, quản lý những tiêu chuẩn mới, mà mục tiêu của nó là tạo nên, duy trì, phát triển những thể chế, những quan hệ nhất định cho các thể chế, cho các mối quan hệ khác nhau nhằm bảo đảm cho mọi hành vi, hoạt động cá nhân, các nhóm, các tổ chức xã hội đạt được mục tiêu đề ra. Để thực hiện chiến lược này, rõ ràng sự hiểu biết về đặc điểm, cơ chế và quy luật tâm lý cá nhân và tâm lý xã hội có ý nghĩa không nhỏ đối với các cán bộ quản lý.Ứng dụng những tri thức tâm lý học để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cá nhân, các cộng đồng người luôn là yêu cầu bức thiết của mọi xã hội trong mọi thời đại và mọi cá nhân trong mọi tình huống. Nhân cách các cán bộ lãnh đạo, quản lý có ý nghĩa hết sức quan trọng trong giai đoạn Cách mạng của nước ta hiện nay - giai đoạn công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước trong nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành và phát triển nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý phù hợp với môi trường, điều kiện mới của Cách mạng Việt Nam và phù hợp với xu thế của thời đại, sẽ góp phần vào sự thành công của công cuộc đổi mới ở đất nước ta.

 

 

2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

          - Xác định các vấn đề lý luận và thực tiễn về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong điều kiện mới của Cách Mạng Việt Nam.

          - Xác định những phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao phẩm chất và năng lực của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, cơ quan, đơn vị hiện nay.

          - Nêu được một số yêu cầu, biện pháp nâng cao phẩm chất, năng lực của bản thân trong công tác lãnh đạo, quản lý  cán bộ chủ chốt ở Chi cục Bảo vệ thực vật từ nay đến năm 2020.

3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

          Từ lý luận nghiên cứu học tập ở nhà trường, trường đời, đặc biệt là dựa trên cơ sở những lý luận chung về khái niệm, đặc điểm, con đường hình thành nhân cách người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn Cách mạng hiện nay của Đảng, đồng thời kết hợp với thực tế ở địa phương, đơn vị trong thời gian qua về công tác cán bộ mà chúng tôi nghiên cứu tìm kiếm, đề xuất những giải pháp cho vấn đề xây dựng một đội ngũ cán bộ Lãnh đạo, Quản lý đáp ứng những yêu cầu phát triển tỉnh nhà từ cán bộ cấp cơ sở trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên do điều kiện thời gian, không gian và khả năng người viết có hạn nên trong tiểu luận chỉ trình bày một số vấn đề cơ bản mang tính khái quát, cơ bản.

Chương 1

NHỮNG CĂN CỨ LÝ LUẬN - THỰC TIỄN

 

            1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

          1.1. Khái niệm về nhân cách

          Nhân cách là kết quả của quá trình con người tự đặt mình vào mối quan hệ tác động đa chiều của hoàn cảnh (tự nhiên, xã hội), tự xử lý toàn bộ các mối quan hệ đó trong đời sống hiện thực và thông qua đó tự đánh giá, chọn lọc, tích luỹ các giá trị xã hội nhằm đạt tới sự khẳng định trình độ phát triển của mình.

          Theo quan điểm của Triết học Mác, nhân cách chính là cái khẳng định bản chất của người “trong tính hiện thực của nó, là tổng hoà các mối quan hệ xã hội” và phải tìm trong nó sự thống nhất biện chứng giữa cái tự nhiên và cái xã hội, giữa tính chung “tính tộc loại”, bản chất xã hội với tính riêng, tính cá thể với tất cả sự phong phú, độc đáo trong đời sống hiện thực của mỗi cá nhân. Khi xem xét con người với tư cách là một thành viên của xã hội nhất định, là chủ thể các quan hệ xã hội, của những hoạt động có ý thức chính là nói đến nhân cách của người đó. Nhân cách là hệ thống thuộc tính tâm lý cá nhân tạo nên bộ mặt tinh thần tiêu biểu cho giá trị xã hội của người đó.

          Một số điểm chủ yếu khi xem xét về nhân cách

          Một mặt nhân cách là sản phẩm của sự phát triển lịch sử -  xã hội, mặt khác nhân cách là người tạo ra hoàn cảnh, điều kiện, làm ra các giá trị của cải cho xã hội khác nhau (kinh tế, chính trị, đạo đức...) và cũng xuất hiện đồng thời tự thể hiện bằng các quan hệ của chính nó. Nhân cách biểu hiện sự trưởng thành của từng cá nhân con người. Ở mỗi cá nhân con người có bao nhiêu mối quan hệ , có bao nhiêu vị trí, vai trò trong xã hội thì cũng có bấy nhiêu những yêu cầu của nhân cách tương ứng.

          1.2. Một số vấn đề cơ bản của nhân cách

          1.2.1. Đặc điểm của nhân cách

          Nhân cách gồm có 4 đặc điểm cơ bản sau:

          - Một là: Tính thống nhất của nhân cách: Nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài, giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, giữa bên trong và bên ngoài, giữa cá nhân với xã hội. Đức và tài có mối quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau, trong cái đức có cái tài, trong cái tài có cái đức.

          - Hai là: Tính ổn định của nhân cách: Nhân cách là cái sinh thành và phát triển trong suốt cuộc đời của mỗi con người, vì vậy nhân cách có tính ổn định tương đối của nó, tính ổn định của nhân cách cao hay thấp tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thiện của nhân cách của người đó.

          - Ba là: Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách là của một chủ thể hoạt động tích cực, thúc đẩy xã hội phát triển. Nhân cách được hình thành nhờ hoạt động tích cực của cá nhân trong các quan hệ xã hội, là sản phẩm của xã hội.

          - Bốn là: Tính giao lưu của nhân cách: Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển và tồn tại trong hoạt động và giao lưu. Thông qua giao lưu, giao tiếp với xã hội mà con người gia nhập được vào các quan hệ xã hội vốn có, lĩnh hội được các chuẩn mực đạo đức, văn hoá và các giá trị xã hội, đồng thời qua giao lưu, giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận, được đóng góp các giá trị của mình vào sự phát triển chung của xã hội.

          1.2.2. Cấu trúc của nhân cách

          Cấu trúc tâm lý của nhân cách khá phức tạp. Nó gồm nhiều mặt (hoặc nhiều tầng, nhiều thuộc tính). Các thành tố này có mối quan hệ qua lại với nhau và chế ước lẫn nhau. Với sự phát triển của nhân cách thì cấu trúc của nó cũng có những thay đổi nhất định. Đồng thời cấu trúc nhân cách lại tương đối ổn định, nó chứa đựng những thuộc tính điển hình cho mỗi người, đặc trưng cho người đó. Nhân cách con người là một hệ thống mở và động, là một chỉnh thể của các biến động và ổn định (tương đối) nó cho phép mỗi người vươn lên làm chủ chính mình và thích nghi được với các điều kiện sống. Xét về mặt tâm lý, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấu trúc tổng quát của nhân cách có hai thành phần chính đó là đức và tài, trong đó đức là nền tảng. Đức thể hiện phẩm chất và tài thể hiện năng lực con người. Có 4 nhóm: Xu hướng, tích cách, khí chất, năng lực đan xen trong phẩm chất đức và tài. Chính đức và tài cấu thành bốn phẩm chất trên.

          Nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý bao gồm:

          - Phẩm chất chính trị tư tưởng:

          Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phẩm chất chính trị cao thể hiện qua bản lĩnh chính trị, lòng trung thành với Đảng, với lý tưởng, có năng lực tư duy và hành động nhạy bén trước tình hình kinh tế, chính trị của đất nước. Cái sâu sắc nhất, cái vững chắc nhất của bản lĩnh chính trị là sự kiên định lập trường của giai cấp công nhân, mọi suy nghĩ và hành động của họ luôn lấy lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động làm điểm xuất phát. Mục tiêu vì con người, do con người phải trở thành lẽ sống, tiêu chí hành động của người cán bộ. Hoạt động lãnh đạo, quản lý thể hiện ở khả năng nhạy bén, sự am hiểu thành thục, những yếu tố, khía cạnh của bầu không khí chính trị đồng thời phải có thái độ, cách xử lý đúng và phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

          - Phẩm chất tâm lý đạo đức:

          Đó là trình độ trưởng thành về ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và lập trường đạo đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Một số phẩm chất tâm lý cụ thể gồm: Lòng say mê công việc, lòng nhân ái, sự công bằng, tinh thần lạc quan tin tưởng trong công việc, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, tính tự chủ, sự cân xứng hài hoà giữa lý luận và thực tiễn, giữa nghị lực và trí tuệ, giữa nói và làm. Người cán bộ lãnh đạo phải tạo niềm tin và chỗ dựa vững chắc cho quần chúng, nói phải đi đôi với làm, tuyên truyền, giải thích, vận động, thuyết phục quần chúng làm tốt công tác được giao, đồng thời phải luôn là tấm gương sáng để mọi người soi vào, thể hiện rõ lẽ sống của người cộng sản trên thực tế, trung thực, liêm khiết, đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực của xã hội.

          - Năng lực tổ chức chuyên môn:

          Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết tổ chức hoạt động, sử dụng đúng người, đúng việc. Phải có trình độ chuyên môn, trình độ văn hoá tương ứng, phải có kinh nghiệm xã hội  nhất định, đặc biệt là trình độ văn hoá và kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý bao giờ cũng là người “biết trước, nghe hết và nói sau cùng”.

          Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải hội đủ ba năng lực chuyên biệt, nếu thiếu thì khó mà hoàn thành được nhiệm vụ của mình, đó là:

          + Năng lực tổ chức công việc tập thể:

          Hoạt động của một đơn vị tổ chức là một hoạt động của một tập thể chứ không phải là một hoạt động của từng cá nhân riêng lẻ. Vì vậy đòi hỏi năng lực tổ chức của người lãnh đạo, quản lý phải có phong cách dân chủ, biết cách tập hợp quần chúng, giữ mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhằm đề ra những quyết định đúng, phù hợp với thực tiễn, đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả.

          + Năng lực sư phạm:

          Đây là khả năng lan truyền nghị lực và ý chí của người cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với tập thể, từ đó khơi dậy ở mọi người tính tích cực hoạt động và lao động một cách tự giác. Về năng lực này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có tính kiên quyết, tự phê bình và phê bình một cách đúng mực; có khả năng khai thác trí tuệ của người khác, có tính tự chủ, có văn hoá và có cái tâm trong sáng.

          + Tính năng động về trí tuệ:

          Trước hết người cán bộ lãnh đạo, quản lý  phải có sự hiểu biết nhất định về thế giới, nắm vững quan điểm đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước; có tầm nhìn chiến lược, có trình độ về lý luận chính trị; có năng lực lãnh đạo, quản lý Nhà nước, quản lý xã hội và pháp luật; có trình độ chuyên môn ngang tầm với yêu cầu, đảm bảo đủ năng lực tư duy, đề xuất được phương án lãnh đạo có hiệu quả, dám nghĩ, dám làm, nắm quyền chủ động trong mọi công việc, tình huống của đơn vị mình. Có tinh thần phê phán một cách khoa học đối với mọi sự vật và hiện tượng, có năng lực dự báo sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tế để lãnh đạo, lãnh đạo có hiệu quả. Như vậy, tiêu chuẩn cơ bản của người cán bộ lãnh đạo, quản lý theo Nghị quyết III, Ban chấp hành TW khoá VIII là:

          - Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tuỵ phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và cương quyết đấu tranh chốnh tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân.

          - Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có trình độ văn hoá, chuyên môn, đủ năng lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật. Thuyết phục và tổ chức mọi người thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.

          - Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả năng tập hợp quần chúng, đoàn kết tốt nội bộ.

          - Có kiến thức về khoa học lãnh đạo, quản lý.

          - Có tư duy học tập và sáng tạo, có ý thức hợp tác, say mê trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ.

          - Bám sát đời sống xã hội, có khả năng tổng kết thực tiễn.

          1.2.3. Uy tín của người cán bộ lãnh đạo, quản lý

          Khi bàn luận về nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý thì không thể không nhắc đến vấn đề uy tín, bởi lẽ uy tín là kết quả của nhân cách, uy tín và nhân cách có quan hệ nhân quả với nhau.

          Lê Nin cho rằng sự thành công trong công tác quần chúng không phụ thuộc vào quyền lực – khía cạnh thứ nhất của uy tín mà phụ thuộc vào khía cạnh thứ hai: Sự tôn trọng, tin tưởng.

          Khi người cán bộ lãnh đạo, quản lý có uy tín thì mọi mệnh lệnh đưa ra sẽ được cấp dưới xem như là chân lý, họ ít đặt nghi ngờ tính chính xác của mệnh lệnh. Còn khi người cán bộ lãnh đạo, quản lý không có uy tín thì cấp dưới thường suy nghĩ, cân nhắc trước khi bắt tay vào thực hiện, hoặc thực hiện mang tính phục tùng bởi mệnh lệnh đã trở thành quyền lực và uy tín bấy giờ chỉ là uy tín giả tạo.

          Uy tín giả tạo là trường hợp người cán bộ lãnh đạo, quản lý không đủ phẩm chất về chính trị, đạo đức; yếu kém về năng lực chuyên môn, vì vậy không thực sự có uy tín để chinh phục cán bộ dưới quyền và quần chúng. Uy tín giả tạo được tạo ra bởi áp lực và sự sợ hãi, đó là khi người cán bộ lãnh đạo, quản lý tỏ rõ quyền lực của mình bằng cách khống chế cấp dưới với những áp lực của các hình phạt, không khí làm việc của họ với cấp dưới thường nặng nề, căng thẳng, họ luôn tự đề cao vai trò của mình mà xem thường cấp dưới, giữa họ và cấp dưới luôn có một khoảng cách nhất định, trong quan hệ công tác của họ đối với cấp dưới luôn thiếu vắng những quan hệ giữa người và người.

          Một dạng khác của uy tín giả tạo là sự ngạo mạn. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngạo mạn thường thường cho mình hơn cấp dưới về mọi mặt cho nên không chịu sự phê bình của cấp dưới, nếu họ dám phê bình thì tìm mọi cách trù dập. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý ngạo mạn chỉ thích vây quanh mình một hàng rào những người nịnh bợ và trung thành với cá nhân họ, lúc nào họ cũng muốn ôm đồm, dài tay đến công việc của cấp dưới, hứa người này về một công việc nhàn hạ hơn, hẹn người kia một chức vụ lớn hơn... Mỗi lần làm một việc như thế, họ thường làm ra vẻ ban ơn, bố thí,... cứ như lấy của cải gia đình mình ban cho người khác!

          Đối lập với dạng uy tín giả tạo nêu trên là dạng uy tín giả tạo được tạo ra khi giữa người cán bộ lãnh đạo, quản lý và cấp dưới có quan hệ quá giới hạn cho phép dẫn tới mức suồng sã. Trường hợp này người cán bộ lãnh đạo, quản lý không những có thể đánh mất khả năng lãnh đạo quản lý của mình mà ngược lại còn bị cấp dưới lãnh đạo lại.

          Như vậy, có thể thấy uy tín giả tạo đã tạo nên những cá tính xấu ở cả người cán bộ lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý. Ở một nước, người ta đã tiến hành hàng loạt các cuộc điều tra về những phẩm chất của người cán bộ lãnh đạo, quản lý có khả năng thu hút quần chúng, kết quả cho biết:

* Những phẩm chất được ưa thích hơn cả là: Trình độ nghề nghiệp giỏi, quan hệ đồng chí với người dưới quyền, có năng lực tổ chức, công bằng, biết đòi hỏi nghiêm túc, lịch sự, dám bảo vệ quyền lợi tập thể trước các cấp hành chính, có tính hài hước, biết tiếp thu phê bình.

* Những phẩm chất không được ưa thích: Sự thô lỗ trong quan hệ, mệnh lệnh thuần tuý, không quan tâm đến nhu cầu của người dưới quyền, thiếu kiềm chế, coi thường tập thể, cảm tình cá nhân, hình thức trong quan hệ.

2. THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở CHI CỤC BẢO VỆ THỰC VẬT TỈNH QUẢNG TRỊ HIỆN NAY:

2.1. Tầm quan trọng của cán bộ chủ chốt trong đơn vị:

Muốn dân giàu, nước mạnh, quốc gia vững bền thì chính quyền phải mạnh, đội ngũ cán bộ, trong đó cán bộ chính quyền cơ sở phải giỏi.

Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, là yếu tố quyết định trong việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính Nhà nước. Với ý nghĩa quan trọng đó, từ trước đến nay, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước coi trọng.

Cán bộ chủ chốt ở cơ quan, đơn vị (bao gồm các chức danh) là người có mối quan hệ trực tiếp hàng ngày với nhân dân, có vị trí đặc biệt quan trọng trong lãnh đạo, triển khai và tổ chức thực hiện thắng lợi mọi đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ quan, đơn vị. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt là yếu tố quyết định đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở đơn vị, nên việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ thường xuyên, vừa cấp bách từ nay đến năm 2020, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chuẩn hoá và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức theo ……………Nghị quyết và chương trình hành động Đại hội Đảng bộ Sở Nông nghiệp & PTNT lần thứ V.

2.2.Về cơ cấu, chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt đơn vị:

          - Số lượng Phòng, Trạm trực thuộc Chi cục BVTV quản lý: 10 đơn vị;

          - Tổng số cán bộ, công chức toàn đơn vị: 52 cán bộ;

          - Tổng số cán  bộ chủ chốt trưởng phó phòng trạm trở lên: 22đồng chí.

- Cơ cấu:

+ Đảng viên                   :  đồng chí (%);

+ Tôn giáo            :         đồng chí (%);

+ Nữ                              :         đồng chí (%);

+ Dân tộc thiểu số         : đồng chí (%);

Về tuổi đời:

+ Dưới 35             :  đồng chí (%);

+ Từ 35 đến 50 tuổi       :  đồng chí (%);

+ Trên 50 tuổi                : đồng chí (%);

          - Chất lượng:

Về học vấn:

+ Tiểu học            :         đồng chí (%);

+ Trung học cơ sở :         đồng chí (%);

+ Phổ thông trung học:    đồng chí (%);

                   Về chuyên môn, nghiệp vụ:

                    + Trung học                   :         đồng chí (%);

+ Cao đẳng, đại học       :         đồng chí (%);

+ Trên Đại học :               đồng chí (%);

                   Về lý luận chính trị:

                   + Sơ cấp                        :         đồng chí ();

+ Trung cấp                  :  đồng chí ();

+ Cao cấp, cử nhân        :         đồng chí (%);

          Độingũ cán bộ chủ chốt hầu hết có phẩm chất chính trị tốt, kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, không giao động trước tình hình trong nước và trên thế giới diễn biến phức tạp; có đạo đức, lối sống trong sáng, lành mạnh được quần chúng tín nhiệm; nền nếp làm việc, tác phong công tác, năng lực lãnh đạo, quản lý điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ từng bước được nâng lên; công tác đào tạo, bồi dưỡng được quan tâm, chú trọng và đi vào nề nếp hơn. Từ những chuyển biến trên, đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững tình hình an ninh chính trị trên địa bàn.

Chất lượng hoạt động của cán bộ chủ chốt ở đơn vị:

- Đối với các chức danh cán bộ chủ chốt chính quyền ( Cấp Uỷ Đảng, Trưởng phó Chi cục, trưởng phó Phòng -Trạm, người đứng đầu các tổ chức đoàn thể quần chúng): đã từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, phối hợp trong công, xây dựng được quy chế làm việc, quy chế phối hợp với các cấp, cụ thế hóa được các chỉ thị nghị quyết của cấp trên bằng chương trình, kế hoạch cụ thể và có biện pháp tổ chức thực hiện có hiệu quả ở một số lĩnh vực. Tuy nhiên một số nơi chưa thực hiện tốt chức năng, quyền hạn trong việc quyết định các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, chưa nắm chắc và đồng bộ các quy định của pháp luật nên công tác chỉ đạo điều hành chưa sát với yêu cầu nhiệm vụ, có nơi còn thực hiện sai quy định, chưa thực hiện tốt vai trò quản lý  ở lĩnh vực chuyên ngành.

- Đối với cán bộ chuyên môn (Dự báo viên BVTV, Kiểm dịch viên BVTV, Thanh tra chuyên ngành BV-KDTV...): Đã có bước nâng lên so với trước về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, số lượng cán bộ trẻ chiếm tỷ lệ lớn, có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ về lâu dài. Tuy nhiên số cán bộ mới được đào tạo khả năng tác nghiệp còn hạn chế và thiếu thực tiễn, đa phần trong số cán bộ tuổi đời cao hiện nay chưa qua đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nên không theo kịp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Cán bộ khác:

          - Tồn tại:

          Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ chủ chốt ở đơn vị nhìn chung vẫn còn yếu ở nhiều mặt, trong thực tế công tác, đã bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện, năng lực quản lý chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa đảm bảo qui định, trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ còn thấp, còn đến 50,58 % chưa đạt chuẩn về học vấn trung học phổ thông; 59,4% chưa đạt chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị là 20,32%

          Về phẩm chất, đội ngũ cán bộ chủ chốt  đơn vị vẫn còn không ít đồng chí chưa thật sự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, một số ít đồng chí thiếu gương mẫu, vi phạm kỷ luật làm ảnh hưởng đến uy tín và hiệu quả công tác. Nền nếp làm việc tuy có chuyển biến nhưng còn chậm, chưa tạo được bước đột phá rõ rệt; công tác xây dựng và thực hiện quy chế làm việc, quy chế phối hợp chưa nghiêm túc, thiếu sự phối hợp đồng bộ trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ còn nhiều nơi cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Việc bố trí sử dụng có nơi còn chắp vá, bị động và chưa thực sự gắn với công tác quy hoạch, đào tạo, nhất là những nơi có một số đồng chí đương chức yếu kém về năng lực nhưng chưa đến tuổi nghỉ hưu. Công tác đào tạo tuy có nhiều cố gắng nhưng chất lượng, năng lực và hiệu quả công tác của cán bộ sau đào tạo chậm được nâng lên; chưa tạo được bước chuyển để thúc đẩy chuẩn hoá đội ngũ cán bộ chủ chốt; trong đào tạo chưa thật sự chú trọng đến đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học - kỹ thuật.

          - Nguyên nhân:

          Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên, là do trình độ học vấn phổ thông còn thấp; đối với các chức vụ chủ chốt, phần lớn là các đồng chí lớn tuổi, không có điều kiện tham gia học bổ túc văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ, bên cạnh đó đội ngũ cán bộ kế cận chưa được bổ sung, thay thế kịp thời do đó đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã còn tình trạng hẫng hụt, chắp vá. Bên cạnh đó số ít đồng chí thiếu tu dưỡng, rèn luyện, tự giác học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, phấn đấu vươn lên để hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao.

Mặt khác, cấp uỷ huyện, thị và cơ sở chưa thật sự quan tâm đến chất lượng quy hoạch và đưa cán bộ đi đào tạo theo kế hoạch của trên. Công tác đào tạo bồi dưỡng còn có những bất cập về nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều mà chưa tập trung thoả đáng cho công tác đào tạo. Bên cạnh đó, chính sách đối với cán bộ cơ sở chưa tạo được động lực để thu hút và động viên cán bộ yên tâm, nhiệt tình công tác; chế độ chính sách hiện hành chưa thật sự động viên cán bộ tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng.

 

 

 

 

 

 

 

 

Chương 2

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

NHẰM NÂNG CAO PHẨM CHẤT NGƯỜI CÁN BỘ

LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở ĐƠN VỊ CHCI CỤC BẢO VỆ THỰC VẬT TỈNH QUANG TRỊ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

          Nghị quyết TW 3 (khoá VIII) của Đảng ta thừa nhận: “Việc đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ, công chức nhiều khi còn chủ quan, chưa thật công tâm, thiếu dân chủ hoặc thiếu hình thức”. Phải nói rằng đánh giá nhân cách người cán bộ là một việc khó, đó là khoa học về sự hiểu biết con người hay nói cách khác phải hiểu được tâm lý của cán bộ để bố trí cán bộ và sử dụng phù hợp.

          Đánh giá là khâu đầu tiên và là khâu quan trọng trong công tác cán bộ, vì đánh giá có đúng thì mới phát hiện được cán bộ tốt, cán bộ xấu, người có tài, người bất tài; có đánh giá đúng mới phát huy được mặt tích cực và hạn chế được mặt tiêu cực trong mỗi con người cán bộ; có đánh giá đúng thì mới bố trí và sử dụng đúng cán bộ và có đánh giá đúng thì việc bổ nhiệm, đề bạt cán bộ mới tránh được thiếu sót, sai lầm...

          Trong giai đoạn Cách mạng mới, Đảng ta lãnh đạo trên mọi mặt đời sống xã hội, số lượng công việc và độ phức tạp tăng lên nhiều lần so với các giai đoạn Cách mạng trước đây, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở mọi cấp, mọi ngành phải được nâng cao về chất, không thể rập khuôn về trước. Ngoài các tiêu chuẩn chung mà cán bộ Cách mạng thời kỳ nào cần cũng phải có, còn cần phải tri thức hoá người đứng đầu theo yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức trong giai đoạn Cách mạng mới.

          Tuy vậy, thời gian qua, ở một số cấp, một số ngành chưa quán triệt, và coi trọng sự chỉ dẫn của khoa học tổ chức, các Nghị quyết TW về công tác tổ chức, cán bộ, nên vẫn sử dụng mẫu hình người đứng đầu tổ chức của giai đoạn Cách mạng trước đây, quá chú trọng lịch sử chính trị, thành tích của quá khứ, xem nhẹ trang bị kiến thức cho người đứng đầu. Vì vậy đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cấp, các ngành chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao trong giai đoạn hiện nay.

            1.QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

          Theo quan điểm Đức – Tài cấu thành nhân cách của người cán bộ của Bác Hồ, tiêu chuẩn người cán bộ trong văn kiện Hội nghị lần thứ 3, Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII được xác định “coi trọng cả Đức và Tài, Đức là gốc”. Và theo lịch sử, từ ngàn xưa, ông cha ta trong cách dùng người rất coi trọng hiền tài. Những người vừa có đức, vừa có tài luôn luôn được xã hội trọng dụng.

          Về mặt tâm lý, nói tới đức của người cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ yếu chỉ là thái độ, phẩm chất chính trị, tư tưởng, tác phong và một số nét phẩm chất cá nhân. Nói đến tài chủ yếu chỉ năng lực công tác, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của từng người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Theo quan điểm đó, một số tiêu chuẩn của người cán bộ lãnh đạo, quản lý (Theo văn kiện Hội nghị lần thứ 3 – Ban Chấp hành TW khoá VIII) cụ thể là:

          - Có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên quyết thực hiện đường lối chính trị và quan điểm kinh tế của Đảng. Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết chống tham nhũng. Trung thực, không cơ hội, không lạm dụng chức quyền để mưu lợi, thu vén cá nhân, buôn gian bán lận, lãng phí, xa hoa. Có tác phong dân chủ, khoa học, biết sử dụng, phát huy tài năng của đội ngũ cán bộ. Gương mẫu về đạo đức, lối sống, liên hệ mật thiết với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm...

          - Có năng lực am hiểu chuyên môn, am hiểu kinh tế thị trường, có kiến thức về khoa học lãnh đạo, quản lý. Hiểu biết khoa học, công nghê, pháp luật. Nhanh chóng nắm bắt và xử lý thông tin, nhạy cảm với cái mới. Có năng lực dự báo, định hướng phát triển, đề xuất, thiết kế được mục tiêu, kế hoạch, tham gia xây dựng đường lối, chính sách và có năng lực tổ chức thực hiện đưa đường lối chính sách vào cuộc sống. Có năng lực tổ chức thực tiễn, dám quyết đoán thông minh, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

          Về mặt tâm – sinh lý, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có thể lực tốt, có hệ thần kinh vững vàng để luôn luôn sáng suốt bình tĩnh trước mọi công việc, kể cả khi gặp tình huống đặc biệt chưa được chuẩn bị nhưng có đối sách đúng đắn, hợp lý mang lại hiệu quả.

          Người lãnh đạo, quản lý giỏi đòi hỏi phải có một giác quan tinh tế, phải có “con mắt tinh đời” để quan sát con người và sự vật, để dùng người đúng việc, dùng vật đúng chỗ, tạo nên hiệu quả quản lý cao. Phải có “cái tai thính” để nghe đúng tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, phát hiện dư luận chung quanh để điều chỉnh hoạt động quản lý của mình.

            2. NHỮNG YÊU CẦU VỀ NĂNG LỰC TỔ CHỨC THỰC TIỄN CỦA NGƯỜI CÁN BỘ VÀ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO CẤP CƠ SỞ, CƠ QUAN, ĐƠN VỊ HIỆN NAY:

          Một trong những yêu cầu trên đối với người cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay là phải có phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng chính trị vững vàng. Nhưng đó mới chỉ là khía cạnh nhân cách của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Nhìn chung, phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý được rèn luyện trong hai cuộc kháng chiến đều có phẩm chất đạo đức tốt, tư tưởng chính trị vững vàng. Tuy nhiên trong xu thế của thời đại hiện nay, ở nước ta cũng như các nước khác trên thế giới ngoài hai yếu tố trên, rất cần có những người cán bộ lãnh đạo, quản lý giàu khả năng sáng tạo, có năng lực tổ chức thực tiễn, đó là:

          - Tính thực tiễn của trí tuệ: Nghĩa là có khả năng ứng dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình trong nhiều lĩnh vực và tình huống cụ thể.

          - Tính quảng giao: Biết cởi mở, chan hoà với mọi người, biết tiếp xúc và giao thiệp rộng rãi.

          - Tính sâu sắc của trí tuệ: có khả năng tìm ra bản chất của vấn đề và giữa nhiều vấn đề tìm ra ngay được vấn đề cơ bản cốt lõi. Trong ngữ cảnh không gian và thời gian xác định phải nhận biết vấn đề nào là chính yếu, vấn đề nào là thứ yếu.

          - Tính tích cực: Biết hành động sôi nổi, nhiệt tình khi giải quyết những nhiệm vụ được giao.

          - Tính sáng tạo: Có khả năng đề ra những giải pháp mới, những kiến nghị hợp lý.

          - Tính tự chủ: Có khả năng tập trung tình cảm và hành vi của mình để giải quyết những vấn đề phức tạp.

          - Khả năng làm việc: Có khả năng làm việc, đôi khi làm việc căng thẳng, tập trung cao độ một thời gian mà không mệt mỏi.

         - Có khiếu quan sát: Biết ghi nhận, tổng hợp được các chi tiết của vấn đề.

         - Tính tổ chức:  Có khả năng tự làm chủ mình theo một quy trình nhất định, lập kế hoạch hoạt động cho bản thân, thể hiện được tính tuần tự và khả năng tập trung cao độ cho những vấn đề bức thiết nhất.

          Ngoài những phẩm chất trên, người cán bộ lãnh đạo, quản lý cần có:

          - Tính nhạy bén về tâm lý:  Nghĩa là nhanh chóng hiểu được và phản ánh đúng tâm lý của người khác, biết thay đổi cách thức giao thiệp và tìm được cách nói thích hợp với tập thể và từng cá nhân quanh mình, biết cách phân loại cán bộ theo từng nhóm hợp nhau và xác định được nhân viên dưới quyền của mình có khả năng gì. Một người cán bộ lãnh đạo, quản lý như thế thường thích đi sâu tiếp xúc và tìm hiểu những người xung quanh, quan tâm đến người khác và nắm được đặc điểm tâm lý của họ.

          - Khả năng lan truyền nghị lực ý chí và tình cảm đến người khác: Nghĩa là truyền nhiệt tình đến mọi người và biết yêu cầu cao đối với bản thân mình và người khác như: Về tính liên tục, bền bỉ, tính nguyên tắc, thái độ dũng cảm, chịu trách nhiệm và tinh thần sẵn sàng học hỏi.

            3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC:

          3.1.Xây dựng những tiêu chuẩn cơ bản của người cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhà nước

          Nếu xây dựng được hệ tiêu chuẩn một cách tỉ mỉ, chặt chẽ làm tiền đề cho việc lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ thì sẽ tìm được những người có phẩm chất, tài năng đủ sức đảm đương được trách nhiệm nặng nề đó. Từ những yêu cầu cơ bản về chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhà nước, xin nêu một số tiêu chuẩn sau:

          Về phẩm chất chính trị tư tưởng

Là người tán thành và ủng hộ nhiệt tình con đường của Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn, đó là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, công bằng, dân chủ và văn minh. Trung thành với đất nước, với sự nghiệp của toàn dân. Chấp hành nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

          Về đạo đức

          Phải là người trung thực: Nếu không trung thực thì không quản lý hàng chục, hàng trăm con người, người cán bộ lãnh đạo, quản lý rất dễ có hành vi thiếu lành mạnh và dễ dẫn đến mất lòng tin của cán bộ cấp dưới cũng như của quần chúng nhân dân.

          Phải là người có trách nhiệm: Trước hết người cán bộ lãnh đạo, quản lý Nhà nước cần phải có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với bạn bè và đồng sự. Khi đã hứa là làm, làm đến nơi, đến chốn, hoàn thành bổn phận của mình.

          Phải là người am hiểu tâm lý, sống tế nhị: Cán bộ lãnh đạo, quản lý không chỉ là người tốt, mà còn phải biết ứng xử khéo léo, tế nhị để lôi cuốn động viên cấp dưới của mình tích cực hoàn thành các nhiệm vụ được giao.

          Phải là người sống cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư: Đó là bốn đức tính quý mà Bác Hồ luôn luôn căn dặn người cán bộ phải giữ gìn.

          Về năng lực:

          Trước hết người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải là người thông minh, trí tuệ cao, tự tin trong ứng xử hàng ngày với mọi người. Có thể dùng các chỉ số để đo hệ số thông minh của một người cán bộ lãnh đạo, quản lý như trí nhớ, ứng xử nhanh, chính xác các tình thế và giải quyết các tình huống.

          Trình độ kiến thức: Người cán bộ lãnh đạo quản lý cần phải có hiểu biết rộng về văn hoá, xã hội. Phải có kiến thức cơ bản về chuyên môn, phải tốt nghiệp đại học về ngành nghề của lĩnh vực mà mình phụ trách. Về ngoại ngữ nên có khả năng thực tế tương đương trình độ “B” trở lên đối với một ngoại ngữ nào đó.

          Về trình độ tổ chức quản lý:

          Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải trải qua một lớp quản lý, phải biết sắp xếp lao động hợp lý. Có khả năng thu thập nhanh các nguồn thông tin, chính xác, thận trọng, có phương pháp, tác phong lãnh đạo đúng đắn. Biết tạo quyền uy và sử dụng quyền uy một cách hợp lý. Có lòng tự tin và bản lĩnh của người làm công tác quản lý; là  người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết chấp nhận khó khăn để vươn lên.

          Về đối nhân xử thế:

          Người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Sống sòng phẳng về kinh tế. Có thái độ mềm mỏng, lịch thiệp, khiêm nhường trong tiếp xúc với cán bộ cấp dưới và quần chúng. Biết tự đánh giá mình, nhận ra yếu kếm, thiếu sót và sẵn sàng rèn luyện, sửa chữa.

          Về sức khoẻ, tuổi tác:

          Có khả năng làm việc dẻo dai và sức bền về tâm lý. Độ tuổi từ 35 đến 55 là tốt nhất; đã làm việc và hoạt động trong thực tiễn ít nhất là 5 năm và ở cương vị lãnh đạo không quá 60 tuổi.

          3.2. Hoàn thiện phương thức, cơ chế, nhận xét, đánh giá và lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý

          Trước hết phải xác định chủ thể, người có quyền hạn, trách nhiệm lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý cho từng lĩnh vực là ai. Trên cơ sở đó, thực hiện truy cứu trách nhiệm liên đới về các hành vi và kết quả hoạt động. Đây là vấn đề rất quan trọng, vì trước khi nêu ra cơ chế, phương thức đánh giá, lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý phải xác định rõ ai là người thực hiện cơ chế đó.

          Khi lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đặt họ trong phạm vi công tác và môi trường mà người đó hoạt động theo một chỉ số sau:

          - Năng lực hoàn thành các nhiệm vụ được giao của đối tượng cần tuyển chọn.

          - Nhu cầu đặt ra là cần chọn nhiều ứng cử viên và so sánh mỗi ứng cử viên với những yêu cầu công việc đặt ra.

          - Đánh giá phải dựa vào tính hệ thống tức là phải chú ý cả quá trình công tác, có ý kiến phối hợp của tổ chức Đảng, Đoàn thể, chính quyền; kết hợp hài hoà giữa phẩm chất và năng lực.

          - Có thể dùng phương pháp sát hạch để hội đồng đánh giá, nhận xét các ý tưởng và kế hoạch phát triển phù hợp của ứng cử viên.

          - Lượng hoá một số chỉ tiêu bắt buộc như: bằng cấp chuyên môn, ngoại ngữ, tuổi đời...

          3.3. Nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

          Đào tạo phải có chất lượng, tránh đào tạo tràn lan chạy theo bằng cấp. Quy trình đào tạo phải nghiêm ngặt, giữa người học hệ chính quy và tại chức không có khoảng cách về nội dung, chương trình đào tạo. Đặc biệt trong đào tạo cán bộ, quản lý cấp cơ sở không nên học nhiều kiến thức chung chung, không thiết thực, học không đi đôi với hành hoặc ngược lại nặng về lượm lặt kinh nghiệm thực tế một cách rời rạc, bị động, không vận dụng những điều đã học để phân tích, chủ động tiếp thu một cách khoa học những kinh nghiệm đó. Chỉ khi nào kết hợp được cả hai mặt học và hành thông qua kinh nghiệm thực tiễn việc đào tạo cán bộ mới có hiệu quả thực sự thể hiện ở việc chuyển biến mạnh về chất của họ trên mọi mặt. Để làm được như vậy cần có những cải cách có tính cách mạng trong tổ chức việc đào tạo, nội dung và phương pháp đào tạo.

            4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT Ở ĐƠN VỊĐẾN NĂM 2020:

          4.1.Quan điểm chỉ đạo

          Tất cả cán bộ chủ chốt đương chức ở cấp xã chưa đạt chuẩn về học vấn phổ thông, lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ trong độ tuổi theo quy định (xác định ở tiêu chí cụ thể), có khả năng công tác lâu dài phải được đưa đi đào tạo ở trình độ trung cấp trở lên; phải chú trọng, đầu tư mọi nguồn lực cho công tác đào tạo; bên cạnh đó, tập trung bồi dưỡng các mặt còn yếu, cán bộ thiếu, yếu mặt nào thì bồi dưỡng, tập huấn mặt đó.

          Từng bước cải thiện và nâng cấp trụ sở làm việc đảm bảo tiêu chuẩn mới, đồng thời trang bị đầy đủ, đồng bộ các trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác  nhằm nâng cao hiệu quả trong quản lý, điều hành ở cấp cơ sở.

          4.2. Mục tiêu

          Phấn đấu đến năm 2020, có trên 80% cán bộ chủ chốt được chuẩn hoá, trong đó có trên 80% có trình độ cao đẳng, 20% trình độ trên đại học. Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt đơn vị đủ về số lượng, cơ cấu phù hợp; có phẩm chất chính trị tốt, đạo đức, lối sống trong sáng; có năng lực, kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý, điều hành chuyên môn tốt.

          Chỉ tiêu cụ thể:

          - Về công tác đào tạo:

          + Về học vấn: Cán bộ chủ chốt cấp xã dưới 45 tuổi, phải tốt nghiệp phổ thông trung học.

          + Về lý luận chính trị: Tất cả các chức danh Bí thư, Phó bí thư, Thường trực Đảng uỷ dưới 50 tuổi, đủ tiêu chuẩn về học vấn phổ thông phải có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên; cán bộ đương chức và dự nguồn các chức danh chủ chốt HĐND, UBND là Đảng viên phải có trình độ sơ cấp chính trị trở lên.

          + Về chuyên môn nghiệp vụ: Cán bộ dưới 45 tuổi có đủ tiêu chuẩn về học vấn phổ thông phải có trình độ trung học về chuyên môn.

          - Về bồi dưỡng: 100% cán bộ phải được bồi dưỡng, tập huấn về chuyên ngành, chuyên môn, lĩnh vực công tác.

          - Về chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt: Hàng năm qua đánh giá phân loại có trên 80% cán bộ chủ chốt hoàn thành tốt nhiệm vụ, không có cán bộ vi phạm về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống.

          - Về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc: 100% trạm BVTV huyện có trụ sở làm việc đươc xây dựng kiên cố, trang bị đầy đủ và đồng bộ phương tiện làm việc. 100% Phòng ban tham mưu có nơi làm việc đủ tiện nghi và năng lực hoạt động phcụ vụ tốt công tác chuyên môn.

          4.3.Nhiệm vụ và giải pháp

          4.3.1.Về nhận thức:

          - Các cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan, đơn vị có liên quan quán triệt, nhận thức sâu sắc nội dung, yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở đơn vị. Xem đây là một trong những yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên, trọng tâm nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết, chương trình hành động Đại hội Đảng bộ Sở NN&PTNT về chuẩn hoá và tạo nguồn cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, đơn vị giai đoạn 2010-2020.

          - Đề cao vai trò, trách nhiệm của cấp uỷ, trước hết là Chi Uỷ trong quá trình triển khai thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong đơn vị.

          - Làm tốt công tác giáo dục, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi để cán bộ được cử đi đào tạo yên tâm học tập.

          4.3.2.Về công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng

          a.Thực hiện tốt công tác quy hoạch cấp uỷ, cán bộ chủ chốt gắn với công tác tạo nguồn lâu dài

          -Trên cơ sở thực hiện kế hoạch 48/KH- TU ngày 18/5/2005 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Hướng dẫn 47/HD- BTCTW ngày 24/5/2005 của ban Tổ chức Trung ương và Hướng dẫn của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về thực hiện Nghị quyết 42/NQ- TW ngày 30/11/2004 của Bộ chính trị về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; các huyện, thị uỷ hướng dẫn, chỉ đạo các cấp uỷ xã, phường, thị trấn làm tốt công tác quy hoạch cấp uỷ, ban thường vụ, cán bộ chủ chốt, trưởng, phó Mặt trận, các đoàn thể và các ban, ngành cấp xã đảm bảo về số lượng, cơ cấu, tiêu chuẩn. Trong quy hoạch chú trọng đối tượng là nữ, cán bộ  trẻ…

          - Gắn với công tác quy hoạch  phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho từng năm, từng chức danh, con người cụ thể để báo cáo Ban Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ đạo các cơ quan đơn vị có liên quan phối hợp triển khai thực hiện. Trước mắt, trong quý I/2007 phải tiến hành bổ sung xong công tác quy hoạch A1 và xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với các chức danh đương chức và dự nguồn Bí thư, Phó bí thư, Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND.

          - Hàng năm, ngay sau đánh giá phân loại cán bộ phải tiến hành bổ sung quy hoạch; thực hiện tốt công tác tạo nguồn cán bộ lâu dài, quản lý, bồi dưỡng nguồn hiện có theo quy hoạch. Đẩy mạnh công tác kết nạp Đảng viên mới, nhất là đối với cán bộ đương chức, dự nguồn cho nhiệm kỳ tới.

          b. Tiếp tục đẩy mạnh nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng

          - Trên cơ sở danh sách cán bộ chủ chốt đương nhiệm, nguồn quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho các chức danh cán bộ chủ chốt, dự nguồn của cấp xã, các huyện, thị uỷ, cơ quan đơn vị có liên quan xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cụ thể cho từng loại chức danh cán bộ chủ chốt. Ngoài đào tạo để chuẩn hoá về trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý, các chức danh Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND, UBND phải được đào tạo chuyên môn về các chuyên ngành kinh tế, nông – lâm, chăn nuôi, trồng trọt... nhằm đáp ứng với yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

          - Chấn chỉnh và thực hiện nghiêm túc các quy định, quy chế về đào tạo, chỉ có cán bộ đương chức, dự nguồn các chức danh chủ chốt mới được đưa đi đào tạo. Chấm dứt trường hợp lấy chức danh cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn để đi học, nhưng sau khi học xong không trở về xã, phường, thị trấn đó công tác hoặc các trường hợp cán bộ sau đào tạo không được địa phương bố trí công tác hoặc bố trí công tác không phù hợp với chuyên môn đã được đào tạo.

          - Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp để nâng cao chất lượng đào tạo lý luận chính trị, chuyên môn- nghiệp vụ theo phương châm: “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, trước mắt lấy phương châm”thiết thực” làm mục tiêu đào tạo để có đội ngũ cán bộ chủ chốt sau đào tạo nắm và vận dụng thành thạo kiến thức đã học và thực hiện chức trách, nhiệm vụ, lĩnh vực công tác được giao. Đổi mới hình thức học bổ túc văn hoá theo hướng học bổ túc PTTH tại huyện, thị và bổ túc THCS theo từng xã, cụm xã.

          - Các huyện, thị uỷ mạnh dạn áp dụng mô hình các cơ quan, đơn vị của huyện, thị tiết kiệm chi ngân sách thường xuyên để nhận đỡ đầu, nuôi dưỡng con em người dân tộc thiểu số ở các xã, phường, thị trấn có trình độ học vấn chưa hết PTCS và số cán bộ đương chức còn trẻ, có trình độ học vấn chưa hết PTTH, trong quy hoạch cán bộ chủ chốt để đào tạo theo hình thức vừa học văn hoá, vừa có điều kiện học lý luận chính trị, chuyên môn- nghiệp vụ, vừa tập việc nhằm đào tạo nguồn cán bộ lâu dài cho cơ sở.

          - Đối với những cán bộ chủ chốt trên 50 tuổi, không có khả năng phát triển và số không nằm trong quy hoạch nếu  thiếu, yếu mặt nào thì bồi dưỡng mặt đó. Nội dung bồi dưỡng đi vào từng chuyên đề, với cách thức tổ chức, phương pháp xử lý những tình huống cụ thể đặt ra.

          - Hàng năm bằng nguồn ngân sách của TW và địa phương dành nhiều kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, trong đó tập trung ưu tiên cho công tác đào tạo.

c. Thực hiện việc luân chuyển, sắp xếp, bố trí đội ngũ  cán bộ chủ chốt

          - Thực hiện việc sắp xếp, bố trí cán bộ  theo đúng quy hoạch, chuyên ngành, chuyên môn được đào tạo. Trường hợp không thể bố trí theo chuyên ngành đào tạo(do đồng chí đương chức chưa thuyên chuyển sang vị trí công tác khác, nghỉ hưu...) cấp uỷ cơ sở phải báo cáo và được sự đồng ý của Ban Thường vụ huyện, thị uỷ.

          - Trước mắt những nơi hẫng hụt cán bộ, cấp uỷ mạnh dạn bố trí, sử dụng cán bộ trẻ, có triển vọng phát triển, đạt chuẩn về trình độ học vấn, chuyên môn- nghiệp vụ để giữ các chức vụ chủ chốt nhằm trẻ hoá đội ngũ cán bộ chủ chốt. Gắn với việc bố trí, sử dụng, cấp uỷ phải giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi, phân công những đồng chí có năng lực, kinh nghiệm thực tiễn theo dõi, giúp đỡ để cán bộ đó hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

          - Mạnh dạn giới thiệu những cán bộ, Đảng viên đang giữ các chức vụ chủ chốt không đạt chuẩn về trình độ học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn- nghiệp vụ, do tuổi cao không có điều kiện đào tạo để nâng cao trình độ, nhưng vẫn đảm bảo tiêu chuẩn, năng lực, kinh nghiệm công tác tham gia ứng cử, bầu các chức danh chủ chốt của Mặt trận, các đoàn thể nhiệm kỳ 2006- 2010. Thực hiện việc bố trí cán bộ phải linh hoạt, có lên, có xuống, trên cơ sở quy hoạch nhằm phát huy được năng lực, sở trường công tác của từng cán bộ.

          - Kiên quyết xử lý và kịp thời thay thế những cán bộ yếu về năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của cán bộcông chức, quần chúng nhân dân.

          - Mạnh dạn luân chuyển một số chức danh quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các Sở, Ban, Ngành, Đoàn thể cấp tỉnh, dưới 40 tuổi và số quy hoạch cấp uỷ, cán bộ chủ chốt cấp huyện (ưu tiên số chưa giữ các chức vụ chủ chốt ở cấp xã) về giữ các chức vụ chủ chốt ở cấp xã. Trước hết tập trung ưu tiên cho những xã, phường, thị trấn có trên 60% cán bộ chủ chốt chưa đạt chuẩn, đội ngũ cán bộ yếu kém nhằm củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, đồng thời tạo điều kiện cho số cán bộ ở xã có điều kiện học tập, nâng cao trình độ học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn- nghiệp vụ.

- Tăng cường cán bộ, công chức hiện đang công tác tại các cơ quan của huyện, có trình độ, năng lực, có khả năng để phát triển cao hơn, am hiểu cơ sở, được đào tạo tiếng dân tộc ở trình độ 2 trở lên về nắm giữ những chức vụ chủ chốt của Đảng, chính quyền và các chức danh chuyên môn đối với những xã, phường, thị trấn còn yếu và thiếu đội ngũ cán bộ cần phải tăng cường.

Kiện toàn cán bộ không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và cán bộ thôn, tổ dân phố: Đảm bảo tất cả các lĩnh vực công tác cần thiết ở cơ sở đều có cán bộ đảm nhiệm (chuyên trách hoặc kiêm nhiệm);

- Chính sách cho đội ngũ cán bộ không chuyên trách làm từng bước, chắc chắn, đáp ứng cơ bản với yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện ngân sách tỉnh.

Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tế ở cơ sở, tiến hành rà soát các chức danh kiêm nhiệm để bố trí cán bộ hưởng phụ cấp đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ phát sinh ở cơ sở trong từng giai đoạn.

          d. Thực hiện tốt chính sách cán bộ:

          - Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Đảng, Đoàn HĐND, Ban cán sự UBND tỉnh tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đúng, đủ, kịp thời chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã theo chế độ hiện hành. Mặt khác, sớm nghiên cứu, bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với cán bộ công chức cấp xã như: chế độ, chính sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức cấp xã và chính sách cho cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng; chính sách thu hút đối với học sinh tốt nghiệp THPT, sinh viên tốt nghiệp về xã công tác; chế độ chính sách đối với cán bộ tăng cường, luân chuyển từ tỉnh và từ huyện, thị về cơ sở.

          - Ưu tiên dành một nguồn ngân sách nhất định để thực hiện việc luân chuyển, điều động một số cán bộ chủ chốt sắp đến tuổi về hưu, nhưng trình độ học vấn, lý luận chính trị, chuyên môn- nghiệp vụ chưa đạt chuẩn, năng lực hạn chế về làm Bí thư chi bộ, trưởng thôn được hưởng nguyên lương để thay thế những đồng chí trẻ có trình độ năng lực. Đồng thời sớm nghiên cứu có chế độ phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách và cán bộ thôn, làng, tổ dân phố.

- Hàng năm tổ chức cho các Già làng có thành tích tiêu biểu đi tham quan các di tích lịch sử, văn hoá, các công trình lớn về phát triển kinh tế, xã hội: dự kiến 1 năm tổ chức 1 chuyến, mỗi chuyến trên 20 Già làng tiêu biểu.

- Tặng quà Già làng nhân ngày Lễ, Tết, ngày hội của thôn, làng; thăm hỏi khi ốm đau, cứu trợ khi gặp khó khăn.

- Tổ chức họp định kỳ, Hội nghị sơ kết các phong trào, tổng kết hàng năm, khen thưởng, động viên về tinh thần và vật chất cho những Già làng có thành tích trong thực hiện các phong trào và trong năm.

- Tổ chức quán triệt, học tập các văn bản về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số, kiến thức pháp luật về công tác dân tộc, tôn giáo cho đội ngũ Già làng.

- Đến cuối năm 2007 đảm bảo 100% trụ sở HĐND & UBND các xã, phường, thị trấn được trang bị các thiết bị văn phòng cơ bản: máy vi tính, máy in ... phục vụ công tác chuyên môn. Đến cuối năm 2010: 100% trụ sở làm việc cho các xã, phường, thị trấn được sửa chữa, xây dựng kiên cố từ nhà cấp 4 trở lên, cơ bản đáp ứng phòng làm việc cho các bộ phận trong hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

- Tiến hành bồi dưỡng kiến thức pháp luật và kỹ năng hoạt động cho đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn 2 lần trong 1 nhiệm kỳ: lần 1 vào đầu nhiệm kỳ, lần thứ 2 vào giữa nhiệm kỳ, nhằm giúp cho các đại biểu nắm kỹ hơn các kiến thức đã bồi dưỡng vào đầu nhiệm kỳ và bổ sung những điểm mới cho phù hợp với từng giai đoạn; nguồn kinh phí thực hiện được bố trí từ ngân sách tỉnh theo quy định.

Hàng tháng Thường trực HĐND xã phải cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương và những chủ trương chính sách mới của Đảng và Nhà nước liên quan đến địa phương cho các đại biểu HĐND, giúp cho các đại biểu nắm chắc các thông tin để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.

Hàng năm Thường trực HĐND cấp xã phải xây dựng kế hoạch tiếp xúc cử tri của các đại biểu HĐND và thực hiện đầy đủ việc tiếp xúc cử tri của các đại biểu trước và sau mỗi kỳ họp HĐND.

Thường trực HĐND phải xây dựng kế hoạch công tác hàng tháng, quí, 6 tháng và hàng năm và lên lịch công tác hàng tuần để triển khai thực hiện.

 Hàng tháng Thường trực HĐND tổ chức giao ban với UBND và các ban, ngành ở xã, các thôn trưởng.

Xây dựng quy chế phối hợp giữa HĐND, UBND và ủy ban MTTQVN xã.

Hàng tháng các Tổ đại biểu HĐND tiến hành họp để kiểm điểm, đánh giá tình hình và có kiến nghị đề xuất để báo cáo về Thường trực HĐND xã, phường, thị trấn.

Nội dung kỳ họp HĐND phải được chuẩn bị kỹ, theo qui định của Luật để đảm bảo cho kỳ họp có chất lượng cao. Dự thảo Nghị quyết kỳ họp HĐND phải được chuẩn bị một cách chu đáo và lấy ý kiến tham gia  của các ngành và nhân dân ở xã.

Hằng năm tiến hành đánh giá, phân loại từng đại biểu HĐND để biểu dương những đại biểu hoạt động tốt, hoàn thành nhiệm vụ và có hình thức xử lý đối với những người không hoàn thành nhiệm vụ, không còn tín nhiệm với nhân dân.

Hằng năm HĐND kết hợp với ủy ban MTTQVN xã, phường, thị trấn tổ chức lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh Chủ tịch HĐND và Chủ tịch UBND cấp xã.

 Thường trực HĐND các huyện, thị xã có trách nhiệm hướng dẫn Thường trực HĐND các xã, phường, thị trấn xây dựng và thực hiện các nội dung trên, đồng thời thường xuyên kiểm tra để uốn nắn kịp thời những tồn tại, yếu kém.

Định kỳ hàng tháng, quí, 6 tháng, hàng năm phải xây dựng chương trình công tác của UBND; hàng tuần phải lên lịch công tác cụ thể. Việc xây dựng chương trình công tác và lịch công tác phải đảm bảo thời gian làm việc vừa giải quyết công việc tại trụ sở, vừa sát dân, sát thôn làng để nắm bắt tình hình và chỉ đạo kịp thời.

Hàng tháng tổ chức giao ban với Thường trực HĐND, các thôn trưởng và các ngành ở xã. Nội dung giao ban phải thiết thực, nắm bắt được tình hình ở địa phương và triển khai kịp thời các nội dung công tác.

 Hàng tháng phải duy trì họp UBND để đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ trong tháng và xác định nhiệm vụ tháng sau trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng...

 UBND phải xây dựng được kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng ủy, HĐND cùng cấp và cấp trên; định kỳ tổ chức sơ kết việc thực hiện các Nghị quyết.

 Hàng năm UBND họp đánh giá phân loại công chức xã, phường, thị trấn mình theo hướng dẫn của cấp trên và quy định của Trung ương.

 Hàng tháng UBND các huyện, thị xã tổ chức giao ban với Chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn để thông qua đó kiểm tra, đánh giá được tình hình ở cơ sở và chỉ đạo kịp thời.

 UBND các huyện, thị xã chịu trách nhiệm hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra UBND xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng và thực hiện các nội dung trên. Đồng thời hằng năm tiến hành đánh giá phân loại chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã để có những biện pháp hợp lý, kịp thời xử lý những tồn tại yếu kém, kiên quyết thay thế những cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, tinh thần trách nhiệm và phẩm chất đạo đức kém.

          4.4.Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực công tác của đội ngũ cán bộ chủ chốt đơn vị:

          - Đồng thời với việc đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng theo hệ thống trường lớp do trên mở, cấp uỷ, chi bộ phải thực sự quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong thực tiễn, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta. Qua đó tạo sự thống nhất chung về quan điểm, lập trường tư tưởng, mối đoàn kết thống nhất cao trong Đảng, trong tập thể lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức điều hành, thực hiện hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ ở địa phương. Nâng cao năng lực, sức chiến đấu của cấp uỷ, chi bộ trong đấu tranh và kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, mơ hồ, giao động, giảm sút niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; xử lý nghiêm những cán bộ thoái hoá, biến chất.

          - Tiếp tục chỉ đạo các xã, phường, thị trấn thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc, quy chế phối hợp; tất cả cán bộ công chức thực hiên nghiêm ngày làm việc 8 giờ, ngày nghỉ có người trực lãnh đạo tại trụ sở để giải quyết công việc đột xuất; làm việc có trọng tâm, trọng điểm, có chương trình, kế hoạch cụ thể; hạn chế thời gian hội họp, tập trung xuống thôn, làng đôn đốc, kiểm tra, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.

          4.5.Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện và kinh phí hoạt động cho các bộ phận:

          - Sớm có chủ trương, kế hoạch và đẩy nhanh tiến độ xây dựng trụ sở làm việc đối với những xã, phường, thị trấn còn thuê, mượn, hoặc xuống cấp không còn khả năng sửa chữa, nâng cấp. Tuỳ vào vị trí quy hoạch đặt trụ sở của từng xã, phường, thị trấn để có thiết kế xây dựng phù hợp, đảm bảo có hội trường hội họp, đủ phòng làm việc theo từng chức danh, ban, ngành, đoàn thể ở cấp xã. Những nơi thiếu phòng làm việc, huyện, thị phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng thêm phòng làm việc nhưng phải đảm bảo mỹ quan, thiết kế tổng thể.

          - Bố trí ngân sách hợp lý để mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc của cấp xã một cách đồng bộ, hiện đại.

          - Nghiên cứu bổ sung và thống nhất việc phân bổ ngân sách cho cấp xã, đảm bảo đủ kinh phí cho hoạt động, nhất là đối với Mặt trận và các Đoàn thể.

          5.TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

          5.1.Phương châm chỉ đạo

Việc chuẩn hoá đội ngũ cán bộ chủ chốt phải gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác; quy hoạch là cơ sở cho công tác đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng, đi đôi với việc củng cố, kiện toàn nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.

          Thực hiện đồng bộ các giải pháp, chính sách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã có phẩm chất, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.

          5.2.Đối với các cơ quan liên quan của tỉnh

          Ban Tổ chức Tỉnh uỷ: Tham mưu giúp Ban Thường vụ Tỉnh uỷ hướng dẫn thực hiện về công tác cán bộ; phối hợp với Sở Nội vụ, các huyện, thị lập danh sách đào tạo, bồi dưỡng cho số cán bộ chủ chốt đương chức và dự nguồn; theo dõi việc thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; chủ trì việc sơ kết, tổng kết thực hiện chương trình.

          Sở Nội vụ: chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh uỷ xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ chủ chốt đương chức và dự nguồn.

          Sở Giáo dục- Đào tạo: Phối hợp với Sở Nội vụ, Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, các huyện, thị hướng dẫn, chỉ đạo phòng Giáo dục, các trường DTNT, PTTH, THCS mở lớp bổ túc văn hoá đối với số cán bộ chủ chốt đương chức và dự nguồn.

          Trường Chính trị tỉnh, Trường Cao đẳng Kinh tế-Kỹ thuật, Trung tâm GDTX tỉnh căn cứ vào nhu cầu, danh sách đào tạo, bồi dưỡng xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng.

          Đảng, Đoàn HĐND, Ban Cán sự UBND tỉnh nghiên cứu, bố trí ngân sách cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt và dự nguồn; xây dựng mới, nâng cấp trụ sở làm việc và mua sắm trang bị phương tiện làm việc cho cấp xã. Chỉ đạo các ngành có liên quan xây dựng hướng dẫn, kế hoạch thực hiện.

          Các đồng chí Bí thư huyện, thị uỷ, các đồng chí Tỉnh uỷ viên phụ trách địa bàn, lãnh đạo các cơ quan liên quan nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong việc chỉ đạo, triển khai thực hiện.

          5.3.Đối với Ban Thường vụ các huyện, thị uỷ

          Căn cứ vào chương trình đã đề ra và hướng dẫn, kế hoạch của các cơ quan có liên quan xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể sát với điều kiện của từng huyện, thị, xã, phường, thị trấn.

          Chỉ đạo cấp uỷ cơ sở xã, phường, thị trấn thực hiện tốt công tác quy hoạch, bổ sung quy hoạch và đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng; nhận xét, đánh giá chất lượng cán bộ. Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan đưa cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng; mở lớp học bổ túc văn hoá; lý luận chính trị sơ cấp cho cán bộ đương chức không đủ điều kiện học ở bậc cao hơn.

          Chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Sở Nội vụ xây dựng kế hoạch luân chuyển, tăng cường cán bộ về cơ sở; kịp thời củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ ở cơ sở, nhất là cán bộ chủ chốt, ở những nơi yếu kém, nội bộ mất đoàn kết kéo dài. Tạo mọi điều kiện và kiên quyết đưa cán bộ đi đào tạo theo kế hoạch và chiêu sinh hàng năm.

          Thường xuyên kiểm tra, chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác  của đội ngũ cán bộ và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở. Chỉ đạo, kiểm tra việc phân bổ kinh phí hoạt động cho Mặt trận và các đoàn thể quần chúng để đảm bảo hoạt động chung.

          5.4.Đối với cấp uỷ cơ sở xã, phường, thị trấn

          - Tiến hành phổ biến, quán triệt đến mọi cán bộ, Đảng viên về chương trình hoạt động và các hướng dẫn, kế hoạch của các cơ quan liên quan. Thực hiện tốt việc đánh giá, phân loại cán bộ, bổ sung quy hoạch hàng năm. Đẩy mạnh công tác kết nạp Đảng viên mới để tạo nguồn cán bộ. Kịp thời thay thế những cán bộ yếu về trình độ, năng lực, thiếu trách nhiệm trong công tác.

          - Khi có kế hoạch chiêu sinh, tập trung cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng phải bố trí người thay thế, tạo mọi điều kiện để cán bộ yên tâm học tập. Kiên quyết xử lý kỷ luật, thuyên chuyển công tác, hoặc buộc thôi việc đối với những cán bộ không đi học mà không có lý do chính đáng.

          - Cán bộ, công chức sau đào tạo, kể cả số dự nguồn phải được bố trí đúng chuyên ngành, chuyên môn đào tạo. Thực hiện tốt việc phân công, giao nhiệm vụ, tạo điều kiện, giúp đỡ để cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhất là đối với số cán bộ trẻ, cán bộ nữ.

          - Thực hiện nghiêm túc nề nếp, chế độ làm việc theo đúng quy chế, chương trình công tác.

 

 

 

 

 

KẾT LUẬN

 

          Muốn có một đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý tốt thích ứng với mọi công việc đổi mới đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập thì vấn đề cốt tử là phải có công tác cán bộ thật sự khoa học, phù hợp với nhiệm vụ chính trị từng giai đoạn, từng thời kỳ Cách mạng, đặc biệt là công tác đánh giá đúng cán bộ.

          Qua mỗi lần xem xét đánh giá lại đội ngũ cán bộ thì chúng ta lại tìm thấy nhân tài mới nổi lên, mặt khác chúng ta cũng thấy được những mặt xấu cần khắc phục loại bỏ. Có đánh giá đúng mới có thể bố trí đề bạt, bổ nhiệm đúng cán bộ.

Chuyển sang thực hiên cơ chế thị trường -  một cơ chế năng động, linh hoạt, nhưng cũng chứa đựng không ít yếu tố tự phát, nên càng phải đòi hỏi phải dân chủ hoá trong công tác cán bộ. Bởi cán bộ hoạt động ở khắp các lĩnh vực, chủ động,sáng tạo ở mọi khâu công tác, hàng ngày, hàng giờ. Chỉ có bằng phương pháp dân chủ mới phát hiện ra những cán bộ thật sự có tài năng, có đức độ. Quần chúng và cán bộ ở cơ sở có điều kiện phát hiện ra những cán bộ làm ăn giỏi, thông minh, tháo vát, chứ không phải chỉ có cán bộ lãnh đạo cấp trên hay cán bộ chức năng làm được việc đó, như thời còn cơ chế quan liêu bao cấp.

Đội ngũ cán bộ chủ chốt là yếu tố quyết định đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, nên việc chăm lo, xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ con người, bổ sung những điểm còn khuyết thiếu ở mỗi người là công việc không phải ngày một, ngày hai có thể làm được, đó là công việc đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ. Sự nghiệp đào tạo cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở nói riêng của tỉnh vẫn đang từng ngày đòi hỏi sự quan tâm, chăm lo của các cấp lãnh đạo Đảng và Nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vững mạnh, bảo đảm an ninh, quốc phòng toàn dân, góp phần vào việc bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

          1.Sổ tay công tác chính quyền cơ sở, (Ban Tổ chức CBCP- 1993);

          2.Vấn đề về cán bộ và công tác cán bộ (Nhà XB Chính trị Quốc gia-  2003);

          3.Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước (Nhà XB Chính trị Quốc gia-  2005);

          4.Văn kiện Đại hội Đảng bộ Tỉnh Kon Tum lần thứ XIII – 2006;

          5.Đề án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã đến năm 2010;

          6.Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 04- NQ/TU của Tỉnh uỷ khoá XII về tiếp tục đẩy mạnh công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ đến 2005 và 2010;

          7.Nghị quyết TW 3, khoá VIII;

          8.Tạp chí Cộng sản số 22/1998;

          9.Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X của Đảng Cộng sản Việt nam 1996, 2001, 2006.

          10.Giáo trình Tâm lý học lãnh đạo quản lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – 2002.

Ï&Ò

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: