i
[ego]
Theron, đứa trẻ bất hạnh. Theron, thằng nhóc ở đợ nhà lão Grustav.
Đó là những lời nện vào tai tôi cả ngàn lần mỗi ngày, tiếng xì xào bàn tán về tôi, một kẻ với cái đời khốn đốn khi chẳng còn gì vào năm lên tám. Người cha chết trong xưởng mộc vì lao lực, và người mẹ biệt xứ chỉ vài tuần sau đó, để lại đứa trẻ cô cút trước cửa quán rượu của lão Grustav xui xẻo. May mắn thay, lão đã mủi lòng giữ nó lại làm thằng ở đợ, cho nó quán xuyến việc dọn dẹp và tất cả những gì đôi bàn tay sứt sẹo của nó gồng gánh được. Coi như trả công cho mấy phần ăn đạm bạc, đủ lèn vào cái bụng cồn cào vì cơn đói.
Phải, đó là cuộc đời của tôi, đứa trẻ luôn nhận được những ánh nhìn thương hại nhưng chẳng có đôi tay nào vươn ra vì mình. Trừ lão Grustav. Người đàn ông rậm râu với hàm răng bàn cuốc, lúc nào cũng trông thật cục mịch và bỗ bã. Tôi nhớ mãi ngày ấy, cái ngày tôi gần như sắp bị dìm chết bởi cơn mưa dày hạt, đôi vai trơ xương lọng cọng nằm dưới lớp da run lên bần bật, chỉ biết chôn chân trước cửa ngôi nhà duy nhất còn sáng đèn – nhà lão. Nếu lúc đó, chẳng có lão Grustav nào trở ra và cứu vớt tôi, liệu có còn kẻ tên Theron này trên đời nữa hay không?
"Củi đâu, Theron! Lẹ chân lên, khách đang run lập cập vì cái sự chậm chạp của cậu đấy!" – tiếng lão Grustav gọi với vào, vang tới tận góc bếp nơi tôi đang miệt mài lau dọn đống chén bát xếp hổ đốn.
"Dạ thưa!"
Tôi vội vã đứng dậy, lau sạch đôi bàn tay đầy bọt còn đương tấy đỏ lên vì cơn rét. Giữa tiết trời buốt tới từng thớ xương, tôi ôm một chồng củi nặng trĩu thân, quẳng cả thảy vào cái bếp đã chỉ còn đống tro tàn lạnh lẽo. Bên ngoài, khách đông nhồi kín những góc bàn cùng mấy vại bia, và vài lão đã quen cái thói xuồng xã, bắt đầu kể lể về con mãnh thú nọ là chiến tích sau chuyến săn li kì. Tôi lách người qua họ, thi thoảng cười xòa đáp lại mấy lời của ai đó í ới gọi tên mình, rồi mắt tôi va phải cô con gái của lão Grustav – chị Margaret đang đếm từng cắc lẻ sau quầy. Chị thừa hưởng tính láu cá từ người cha, cũng chính vì vậy nên thói "thẳng như ruột ngựa" cũng được di truyền từ lão.
"Già Gus đưa thiếu cháu ba xu đồng mà già khất cháu mấy tuần trước, già đừng nói mình quên tuột rồi nhé!" – chị đếm đi đếm lại mấy đồng dàn đều trong lòng bàn tay, cái vẻ gay gắt ấy khiến lão Gus già cả người toàn hơi men cũng trở nên lúng túng.
Thấy già Gus loay hoay với đôi chân thậm thọt, tôi cất lời đỡ cho ông như bao lần trước. Dẫu sao ông cũng là một trong số ít người mà lão Grustav vẫn luôn nể trọng.
"Mỗi lần trời đổ tuyết là già lại nhức chân, chắc lu bu quá nên trật mất mấy xu trên đường tới. Chị để già về rồi lần sau em thưa lại cho già nhớ."
Thế rồi chị để ông ra về như ý nguyện, đỏng đảnh vào trong bếp mà không nói với tôi câu gì. Tôi chẳng lấy làm lạ, bởi Magaret đã ở bên tôi từ tấm bé. Nhưng chính vì những suy nghĩ tai quái về "chim khách chiếm ổ" trong chị cứ ngày một bành trướng như một loại u nhọt theo thời gian, khiến chị luôn giữ phong thái bề trên với tôi trong mọi việc. Nhưng nó chưa từng là vấn đề với tôi, miễn là chẳng có từ ngữ nào sai quấy được thốt ra từ khuôn miệng xinh xắn của Margaret, và cha chị vẫn ban phát thứ thức ăn nuôi sống tôi hằng ngày, thì tôi chẳng việc gì phải phật lòng chị. Bởi lẽ thói đời đã dạy tôi phải kính cẩn nghiêng mình nếu muốn tồn tại, cái tôi là thứ quá lớn lao khi nhét vào hình hài những kẻ hèn kém.
Quầy rượu đóng cửa, tôi dọn dẹp chập cuối trước khi trở về bên cái ổ lặng lẽ, nơi lủi mình trong xó bếp. Bất chợt, dội bên tai tôi là tiếng ho khan trượt dài trong không gian phẳng lặng. Là Margaret. Dạo đây chị thường thở khò khè và ho kéo dài như vậy, điều ấy khiến lão Gustav lo sốt vó cả tuần ròng bởi từ nhỏ chị vốn khỏe mạnh hơn bạn bè đồng trang lứa, ít khi trải qua cơn ốm vặt nào lê thê nhường vậy. Tôi không vội vào trong ngay, mà nán lại để hai cha con họ thủ thỉ thêm vài câu nữa; xì xầm tiếng chị an ủi cha, thề thốt rằng mình sẽ không bị bệnh giống người mẹ quá cố, và giọng lão Gustav gần như tan vào trận tuyết lớn đổ trên mái nhà ọp ẹp, tôi chỉ nghe loáng thoáng lão sẽ mời thầy lang về xem bệnh cho chị khi trời ấm hơn.
Tình thân, chính là thứ thân thương với người ta đến thế, cũng là thứ mà tôi đã chẳng còn nhớ gì về nó nhưng thâm tâm tôi vẫn hằng khao khát. Tôi cũng từng có một gia đình, dẫu kí ức ấy lúc thì nhòe nhoẹt, khi lại sáng rõ tới nhói lòng. Người bố luôn bế thốc tôi qua vai, người mẹ hiền lành khâu áo xỏ kim, còn tôi với hình hài cậu nhóc ngồi một mình chơi xúc xắc gỗ, đó là món quà của cha mừng tôi lên sáu cách đấy vài hôm.
Tôi lụi hụi lau sạch sàn gỗ, gương mặt in bóng trên xô nước bẩn kéo tôi trở về hiện thực, đúng khoảnh khắc tiếng gót giày hai cha con nọ đã khuất dần về phía sau nhà. Ở đợ sáu năm, dẫu cho không bị bạc đãi gì, nhưng tôi chưa bao giờ là một phần trong gia đình họ. Đứa trẻ tám tuổi từng được sống trong tình thương khi ấy, cũng mong cầu mình được sưởi ấm một lần nữa bởi sự công nhận, nhưng thứ thực sự sưởi ấm nó sau cuối vẫn chỉ là cái bếp củi kế bên góc nó nằm mỗi tối. Cái khổ đã tôi đứa trẻ năm nào thành mình đồng da sắt, giờ đây đối với nó, tồn tại là điều đặt lên hàng đầu.
Thế nhưng, tôi vẫn vùi những mảnh kí ức rạn vỡ ấy vào một góc ẩn dưới quả tim này, như cái cách tôi đặt cạnh mình mỗi đêm với tấm áo đã theo bước tôi đi từ năm tám tuổi. Chiếc áo thấm đượm kỉ niệm của tháng ngày xưa cũ, khi dạt nhà là điều quá xa vời trong trí tưởng của tôi. Nơi cầu vai, mép áo còn những đường may chấp vá, trĩu nặng hơi ấm từ đôi bàn tay mẹ. Nó vỗ về tôi bằng tiếng ru hời êm ấm, dịu dàng ủ ấp tôi trong những đêm chập chờn với giấc ngủ nông, hay trừng đôi mắt nhìn sao trời đổi ngôi nhau qua khung cửa sổ.
Tuyết dần thưa đi và tiết trời ấm lên đúng như dự liệu của Grustav, lão chẳng chần chờ mà gọi thầy lang tới xem bệnh cho Margaret. Thế nhưng, số mệnh thích trêu ngươi những người khốn khổ như họ. Chị đã mắc lao phổi, căn bệnh từng cướp đi mạng sống của người mẹ quá cố. Thầy lang lắc đầu ngao ngán, dặn dùng rễ cây cam thảo sắc uống để làm dịu cơn ho, mong sao giúp chị cầm hơi tàn mà không quá đau đớn. Kể từ ngày ấy, lão Grustav lo toan mọi việc chỉ để con gái được nghỉ ngơi trên giường, và việc sắc thuốc được giao cho tôi như một tất lẽ dĩ ngẫu. Quán rượu cũ kỹ bỗng hóa thành một gian thảo dược, khi mùi cam thảo nồng nặc luôn quẩn quanh không khí, luồn lách vào từng thớ củi khô, và bám lấy tôi dai dẳng cả trong giấc ngủ.
Nhưng dẫu cho nỗ lực là vậy, Margaret vẫn chìm trong những cơn ho rũ rượi suốt đêm, lâu dần ho khan như bấu rễ vào cuống họng chị, bức người con gái tội nghiệp khạc ra bụm máu. Giờ đây, có lẽ chẳng còn ai nhận ra nàng Margaret nổi danh ngày nào, bởi hốc mắt sâu hoắm, đôi môi nứt nẻ cùng mạch máu cứ nổi vồng lên trên trán chị. Mỗi nhịp thở của chị khiến ngực co rút lại, như thể mấy cọng xương sườn sắp chọc thủng lớp da xanh xao ấy. Vạ vật với những cơn sốt bải hoải, ánh mắt chị dần dại đi và đôi mày thường chau chặt vì đau đớn mỗi khi Grustav lau người cho chị, điều ấy như những giọt sáp nóng rỏ xuống tâm can lão còn đương run rẩy. Tôi thấy được nếp nhăn đã cày sâu trên gương mặt Grustav, như thể suy nghĩ tai hại nào đó đang lớn dần trong lão, âm thầm nuốt chửng lão giữa nỗi sợ không tên.
Và rồi một ngày nọ, khi tôi bưng thuốc lên cho chị như mọi khi, tôi chợt khựng lại. Margaret đã tự ngồi dậy. Chị tựa đầu bên thành giường, yếu ớt như ngọn đèn cầy trước cơn gió lộng.
Margaret chờ tôi ngồi xuống gần chị rồi mới khẽ khàng tỉ tê:"Tôi sợ lắm, Theron. Cái chết. Mọi thứ. Tôi sợ mình giống mẹ, bỏ lại người cha vụng về chẳng ai săn sóc khi tuổi già đang ập tới đời ông. Và tôi nuối tiếc nhiều lắm, Theron ơi... ước mơ có một tấm chồng, đàn con thơ quây quần bên nồi súp. Nhưng đời thì... tàn nhẫn làm sao."
"Tôi có thể lấy chị, kể cả khi chị chết." – Tôi không yêu Margaret, nhưng tôi chẳng được học hành gì, cũng chẳng thấu đời bao nhiêu. Trong khối óc của đứa trẻ mười bốn tuổi khi ấy, đó dường như là cách duy nhất mà tôi nghĩ ra được để trả món nợ mà mình thiếu của gia đình chị.
Chị nằm vật lại giường, cơ thể bỗng suy kiệt tới chẳng thể nhấc nổi đôi bàn tay, nhưng ánh mắt chị vẫn quật cường tới lạ. Margaret thều thào lời sau cuối:"Cậu chẳng cần phải thế... Mà ngược lại, tôi muốn xin lỗi cậu vì những năm tháng trước đã hiểu sai về cậu, tôi từng muốn nói điều này nhưng do lòng tự trọng đốn mạt chẳng cho phép tôi cúi đầu. Vì vậy, mong cậu dung thứ cho lời thú tội muộn màng này... và hơn thế nữa, hãy chăm sóc cho lão Grutav thay phần tôi."
Tôi không biết lời xin lỗi ấy có thật lòng hay không, nhưng tôi tin chắc điều chị muốn chỉ gói vỏn vẹn trong mấy câu chữ cuối cùng, trước khi từ giã cõi đời trên chiếc giường ảm đạm. Grustav suy sụp suốt một tuần lễ sau cái chết của cô con gái, lão chẳng ăn gì cũng không chuyện trò với ai, cứ như Margaret đã kiệu cả linh hồn lão đi theo chị. Lão gầy sọp đi trông thấy, da vàng vọt và hốc mắt vằn lên đầy tơ máu, trông lão còn giống cái xác hơn người con gái đã nằm im trong quan tài kính. Tôi nghe bên tai tiếng lão khóc rấm rứt cạnh cái huyệt sâu chính tay mình đào cho Margaret, bỗng tim tôi quặn thắt khi nhớ về ngày nhận xác cha từ xưởng gỗ, dẫu khi ấy tôi vẫn còn quá nhỏ để hiểu rằng cái chết sẽ lấy đi điều gì ở chúng tôi, nhưng tôi hiểu rằng kể từ ngày hôm đó mình đã mồ côi cha tự bao giờ. Nỗi đau ấy phủ bóng lên gia đình tôi, giờ đây lặp lại lần nữa, phủ bóng lên nhà Grustav có đứa con yểu mệnh. Có lẽ mất mát này sẽ tồn tại vĩnh viễn, mòn vẹt trong tâm trí lão, tâm trí tôi và tâm trí những kẻ ở lại cho tới khi chỉ còn là một nhúm tro cốt.
Nhưng rồi lời thoái thác cuối đời của Margaret, tôi lại chẳng cách nào thực hiện được. Lão Grustav đã đổ hết vốn liếng vào chữa bệnh và lo tang tóc cho con gái, nên dù đã gắng gượng vực dậy tinh thần để nối dài hơi tàn của quán rượu, cùng sự góp sức từ già Gus thậm thọt với mấy xu đồng ông tích góp cho tuổi già, mọi thứ vẫn chẳng thể vãn hồi. Người ta rỉ tai nhau nơi đây ẩn chứa mầm mống của căn bệnh quái ác, kẻ độc miệng hơn thì bảo rằng đó là lời nguyền bởi món nợ máu nào đó, khiến lao phổi ngấm vào da thịt những người đàn bà trong gia đình lão, từ mẹ truyền cho con. Tấc cả chúng bủa vây lão trong những ánh mắt dò xét, như để lại vết phỏng rộp lên chính nỗi đau chưa lành sẹo của Grustav. Và thế là từng vị khách một lặng lẽ rời đi, quán rượu từng sầm uất ấy giờ đây như bóng ma ẩn dật giữa ngôi làng, đã chết chìm dưới miệng lưỡi người đời bạc bẽo.
Vào một buổi tối nọ, khi tôi lụi hụi lau dọn quán cuối ngày và lão Grustav đang ngồi một mình trên quầy, tay ôm vại bia lớn. Tĩnh lặng len vào giữa chúng tôi, chỉ còn tiếng chổi của tôi khùa khoạng lẫn với âm thanh Grustav cầm cái vại lên rồi đặt xuống. Lão đưa lưng về phía tôi, bóng lão trải dài, phủ chụp lên mũi giày nơi tôi đứng. Cô liêu và đơn độc vây lấy lão, khiến tôi cảm thấy mình thật nhỏ bé trước nỗi đau của Grustav. Hóa ra, tình thương có thể là động lực cho người gắng gượng tìm cách tồn tại, cũng có thể trở thành thứ cướp đi tất thảy của kẻ rỗng ruột, chẳng có gì ngoài tổ ấm.
Rồi bỗng Grustav mở lời:"Ngày mai, một con buôn người Slav từ xứ láng giềng sẽ đến, hắn đang tìm thương nhân chịu bán những đứa trẻ làm nô lệ để đem sang xứ Nivis. Cậu hãy thu xếp hành trang đi..."
Hơi thở bỗng thắt nghẹn lại trong buồng phổi, cơn choáng váng thình lình chộp lấy tôi khiến mình cứng đờ tại chỗ. Những lời ấy đến bên tai tôi chợt trở nên lùng bùng, tôi chẳng thể cắt nghĩa hay ghép nó lại để hiểu cho thấu đáo nổi, dù cho tôi biết rằng lời ông thật rành mạch và rõ ý. Lão muốn bán tôi đi, cứu lấy thứ lão đổi cả cuộc đời để vun đắp, nơi vương lại hình bóng người vợ và vang đâu tiếng cười giòn giã của đứa con gái quá cố. Điều đó cồn lên trái tim tôi, khiến tôi chẳng thể oán trách hay thậm chí phản kháng được gì trước câu nói như trời giáng tới từ Grustav.
"Vâng thưa." – tôi siết chặt cán chổi, chỉ hai từ vỏn vẹn nhưng quá sức đớn đau đến mức tôi tưởng như lòng mình đã bục vỡ.
Cơn bão lòng nổi dậy khi xúc cảm không cam tâm cứ dằn cho đôi chân tôi thôi bước, nhưng tôi vẫn bướng bỉnh lủi vào bếp. Sáu năm lão cưu mang tôi, không đồng nghĩa với việc lão phải có nghĩa vụ cưu mang hết phần đời còn lại của mình. Tôi hiểu rõ điều ấy, và rõ hơn cả rằng tôi nợ Grustav, món nợ mà có lẽ dùng cái mạng quèn này cũng chẳng trả đủ. Vì thế tôi cần phải đến Nivis, dẫu cho thân xác này chỉ trị giá vài cắc bạc đi chăng nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip