Tam Cốc Bích Động

thường đi tuyến chùa hương, hay tam cốc, hoặc ninh bình , các bạn hay kể 3 động đẹp nhất trời nam,đệ nhất động Hương Tích , đệ nhị động Bích Động, đệ tam động Địch Lộng, nhưng ít ai nói về động và chùa Địch Lộng , hôm nay chia sẻ với các bạn 1 chút về động và ngôi chùa này ,

Chùa Địch Lộng – Nam Thiên Đệ Tam Động
chùa địch lộng( hay động địch lộng) thuộc xã gia thanh huyện gia viễn , ninh bình , chùa ở lưng chừng núi địch lộng, độ cao so với chân núi khoảng 80m
Từ xa xưa, quá trình phong hóa castơ của núi đá vôi ở đây đã tạo ra hang động, nhưng cây cối mọc um tùm không ai biết. Tương truyền, vào năm 1739 một tiều phu đi kiếm củi, leo lên núi đã phát hiện ra cửa động, vào trong thấy có nhiều nhũ đá đẹp, đặc biệt trông thấy một nhũ đá có hình giống như tượng Phật nên lập ban thờ thờ Phật ngay từ đó.
Theo văn bia để lại, mãi đến năm Canh Thân, triều vua Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng thứ nhất, tức là năm 1740, động mới được biến thành chùa để thờ Phật, gọi là chùa Cổ Am. Gọi là chùa Địch Lộng, nhưng thực ra là một cụm kiến trúc gồm một hệ thống: đình, đền, chùa cổ kính và ba hang động thông nhau.
Dưới chân núi, hệ thống kiến trúc đình, đền, chùa được xây dựng theo thế chữ Tam (Hán tự) trên một khu đất rộng hơn một hécta. Vào chùa Địch Lộng, nếu đi theo lối phía Nam, đầu tiên qua Tam Quan uy nghiêm, thanh thoát, đến sân gạch. Tiếp đó là ngôi đình, nhân dân địa phương xây dựng từ thời Nguyễn. Khu vực phía đông của ngôi đình, là hồ bán nguyệt rộng và một vườn tháp, có 5 tháp cao 3 tầng – nơi chôn cất các vị sư đã trụ trì và mất ở đây. Ngoài ra còn có Trụ trì là nơi các nhà sư ở, Phương trượng là nhà tiếp khách. Phía Tây của ngôi đình, sát chân núi đi qua cầu Vòm nhỏ là đến ban thờ Phật Bà Quan Âm. Dưới cầu Vòm, lui vào chân núi là một hang Ngang xuyên qua núi Địch Lộng và những núi khác dài khoảng 3.000 mét, ăn thông ra đến sông Đáy. Nếu nước sông Đáy dâng cao, sẽ chảy theo hang này vào. Khu vực vườn chùa rộng, được trồng nhiều cây đại thụ, cây ăn quả, cây hoa đan xen với các công, trình kiến trúc. Đặc biệt có cây tai chua thân mọc thẳng, cành xiên ngang, tuổi thọ trên 100 năm; cây muỗm mọc trên núi đá đã sống gần 200 năm nay.
Ngôi đình 5 gian sừng sững được gọi là đình đá, vì tất cả các cột, tảng, xà đùi, cái bẩy đều bằng đá. Trước khi lên chùa, nên vào ngôi đình đá này để tưởng niệm Thiền sư Nguyễn Minh Không và thưởng ngoạn một công trình kiến trúc đình chủ yếu làm bằng đá. Tám cột cái bằng đá xanh nguyên khối, tròn, to, cao hơn 4 mét đều được chạm nổi những con rồng lớn đang uốn lượn trong mây để hút nước, cá chép theo nước vượt lên. Có con rồng đầu ngước lên như đang vươn lên mây. Nhìn các cột đá chạm khắc rồng, sẽ có cảm giác như được xem một đàn rồng lớn đang bay. Mỗi con rồng quấn quanh cột đều có một dáng vẻ khác nhau rất sống động. Tám cột quân to, tròn như cột cái, cao gần 3 mét, hai hàng trước, sau, mặt tiền đều được chạm khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán ca ngợi cảnh đẹp ở nơi đây, đồng thời ẩn chứa những ý tưởng sâu sắc.
Tất cả 16 cột đá này đều được đặt trên những tảng đá cổ bồng lớn cao 0,60 mét. Rất hiếm có ngôi đình toàn bộ phần chính của nhà được làm bằng đá xanh nguyên khối cao, to, chạm khắc công phu và tỉ mỉ đến như vậy! Gian giữa của ngôi đình đặt một sập gỗ và bàn thờ đế bài vị đá thờ Thiền sư Nguyễn Minh Không. Hai bên cắm bát bảo. Qua đình là đền thờ Nguyễn Minh Không ba gian. Hai gian tả hữu đặt hai bài vị thờ. Gian giữa thờ tượng Thiền sư Nguyễn Minh Không bằng gỗ sơn son thếp vàng lộng lẫy cao gần một mét. Hai bên tượng để các hộp đựng các sắc phong.
Quay trở ra qua ngôi đình đá, rồi ngược lại sẽ thấy chùa Hạ 3 gian ở sau đền thờ Nguyễn Minh Không. Chuôi vồ là Hậu cung của chùa Hạ thờ Phật. Trong gian giữa, phía trên cao treo một cuốn thư có hai chữ Hán “Lưu Ly”ở giữa, hai chữ hai bên là ‘‘Báo “Điện có nghĩa là chùa này quý như Lưu Ly. Gian bên trái phối thờ sư tổ và treo một quả chuông. Đặc biệt ở gian bên phải đặt một ngai đá thờ và các đồ thờ đều làm bằng đá như: đài, mâm tơ, bát hương…
Từ chùa Hạ, theo đường lên chùa, men sườn núi, bước lên 9 bậc đá, rẽ phải, sẽ đến Linh còn gọi là Phủ Đức Ông. Đây là bàn thờ thứ chín của chùa. Trong phủ Đức Ông đặt tượng Đức Ông mặt đỏ, có nhiệm vụ trông coi toàn bộ cảnh chùa. Dưới sân gạch, trước phủ Đức Ông có ba tấm bia đá tạc ở thời Nguyễn vào các đời vua: Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định đều nói về việc tu sửa chùa. Trình Đức Ông xong, men theo sườn núi, leo gần 100 bậc đá nữa, sẽ tới chùa Địch Lộng.
Lên đến đây, tức là đã bước qua 105 bậc đá để tới chùa chính, du khách sẽ sửng sốt trước cảnh trí mà tạo hóa đã kiến tạo nên một cửa động cao, rộng đẹp đến kinh ngạc. Nhìn lên cao, thấy trên cửa động có 6 chữ đại tự: “Nham Sơn động, cổ Am (chùa cổ Am, động Nham Sơn). Vì thế có thể gọi chùa Địch Lộng là chùa Cổ Am và động Địch Lộng là động Nham Sơn.
Hai bên tả hữu cửa động có hai tượng Hộ Pháp đứng đối diện nhau như đứng canh cổng chùa tạo cảm giác tự tin, ấm áp. Vách động bên trái, ở trên cao khoảng 8 mét có treo một quả chuông lớn cao hơn một mét, nặng khoảng một tấn, đúc ở thời Nguyễn.
Ngay giữa cửa động là ban thờ Mẫu công đồng. Hai cột đá, phía bên khắc đôi câu đối: “Cảnh trí thiên nhiên, Tây Hồ phong nguyệt Anh kì địa quýnh, Nam quốc sơn hà”.
(Cái non sông trăng gió chốn này vẫn là cánh thiên nhiên của nước Nam ta đó). Bước sang bên phải là đến động thờ Phật. Đây chính là chùa Địch Lộng quay hướng nam (là hướng của trí tuệ). Trước cửa chùa có các khối đá giống hình voi chầu, hổ phục, sư tử chầu như đang canh giữ bảo vệ cửa Phật.
Độ cao của động thờ Phật là 20 mét, trần động có nhiều nhũ đá đẹp lấp lánh như cái dù che, thạch nhũ rủ xuống như chuông treo. Chiều dài của động khoảng 50 mét. Động rộng chừng 15 gian nhà to, người dân ở đây đã lấy động làm chùa, động cao sâu nên chùa càng rộng lớn. Trước cửa động có hai giếng ngọc chứa nước từ nhũ đá chảy xuống quanh năm. Hai bên cửa động có hai tượng Hộ Pháp nữa. Hai tượng này đều cưỡi trên sư tử, chân đi giầy. Tượng Ông Thiện tay cầm quả đào trường thọ như muốn ban cho sự trường sinh. Tượng Ông ác tay cầm thanh gươm như muốn trừng trị những kẻ sống bạc ác ở trên đời.
Trong “chùa” bày nhiều tượng Phật, cuối động bên dưới hình thành một phiến đá tự nhiên đặt ba pho tượng thếp vàng ban từ thời Thiệu Trị (1841 – 1847), đó là Tam Thế Phật. Hàng dưới là Di Đà tam tôn và đến một tượng Phật do nhũ đá hình thành. Tiếp theo là các hàng đặt các tượng: Thích Ca Mâu Ni, Di Lặc tam tôn, Thích Ca sơ sinh, Ngọc Hoàng Thượng đế. Đặc biệt ở đây còn đặt hai tượng Phật Bà Quan Âm và A Di Đà được tạc bằng đá xanh nguyên khối, cả bệ, mỗi tượng nặng hơn một tấn. Tượng Phật Bà Quan Âm có rất nhiều cánh tay, bàn tay tua tủa mọc ra từ đá nhẵn lì trông rất đẹp.
Trên bàn thờ Phật còn để cây đèn sắt có 28 chỗ cắm nến tượng trưng cho 28 ngôi sao sáng ở trên bầu trời gọi là “nhị thập bát tú”. Từ động này, theo ngách đá bên tay trái, đi vào Hang Tối. Nếu động thờ Phật là hang thứ nhất, thì Hang Tối là hang thứ hai.
Vào Hang Tối sẽ thấy ngay khối nhũ đá to, tròn, nhẵn lì mọc từ nền hang nhỏ lên. Đó là bầu sữa mẹ của tạo hóa. Trong Hang Tối có nhiều nhũ đá từ trên nóc động chảy xuống nền, tròn, cao hơn chục mét như những nhánh rễ cây đa cổ thụ thả xuống mặt đất, được gọi là các cột chống trời. Xung quanh hang và trần hang toàn là các nhũ đá, theo trí tưởng tượng phong phú của con người mà có các tên gọi như: voi uống nước chum, hùm uống nước vại, voi chầu, hổ phục, phượng múa, cá giương vây, rồng cuốn nước, khỉ cõng con, gà ấp trứng, tầm ăn lá dâu, bà lão bán thuốc, bụt mọc, ngôi báu, điện ngọc, rồng vàng ấp tổ trong hang, sao sa, cây vàng, cây ngọc, có chỗ lô xô như ngàn lớp sóng, vân nhũ đá như những đám mây ngũ sắc đang bay…. Có thể nói đây là những “kì quan ” của thiên tạo. Mỗi không gian của vách động, trần động là một bức tranh nghệ thuật, những nét chạm khắc tuyệt vời của thiên nhiên, hấp dẫn về hình khối, sống động trong đường nét, đạt đến mức tinh xảo mà con người không thể nào làm được.
Đi hết Hang Tối, cửa hang thắt lại, phải bước lên cao khoảng 10 mét nữa mới đến Hang Sáng. Hang Tối và Hang Sáng ăn thông nhau. Ngay cửa Hang Sáng có lối lên trời và lối xuống âm phủ đối diện nhau. Cửa lên trời gọi là cửa động con, lộ thiên ở tận đỉnh núi. Từ đây ánh sáng lùa vào làm cho hang sáng lên, nên gọi là Hang Sáng.
Lối xuống âm phủ sâu, cũng có nhiều thạch nhũ có hình dáng như: tòa lầu của diêm vương, thuồng luồng, ba ba, rắn, rết và cả ngục quỷ sứ! Đường xuống âm phủ, nghe văng vẳng như có tiếng đàn thánh thót do nước từ các nhũ đá đều đặn rơi. Tương truyền, người xưa bỏ một quả bưởi có đánh dấu xuống hang sâu này vào mùa nước lớn, mấy ngày sau thấy quả bòng đó nổi lên ở sông Đáy.
Vì ở trên cao, cửa hang Sáng thắt lại, có khoảng lộ thiên, hai hang Sáng và Tối nối liền nhau, ăn thông, lại dài khoảng gần 250 mét nên khi có gió thổi mạnh, trong động phát ra âm thanh nghe như tiếng sáo. Động chính là một cái sáo đá khổng lồ của tạo hoá, ngàn năm vi vu giữa trời đất. Tên Địch Lộng có nghĩa là như thế ! (“Địch” nghĩa là sáo, “Lộng ” là gió).
Qua hai cột đồng trụ ở Hang Sáng, cũng nhìn thấy nhiều nhũ đá có các hình thù lạ như: tiên sa, cá chép hóa long, rùa vàng, chùa ba hang, cầu gẫy, lợn sế béo trắng, và cảnh:
“Lò rèn thổi bễ khoan khoan,
Ngổn ngang kìm búa rộn ràng cảnh ớ đây còn có ban thờ cô Chín Giếng (vì có 9 cái giếng nhỏ đựng nước, ở trong có cá chép và rùa bơi). Qua ban thờ cô Chín Giếng là ban thờ Mẫu Chúa Kho của Địch Lộng, bên cạnh có cây tiền, cây thóc do nhũ đá tạo thành. Tương truyền, ai có nhân duyên muốn nhiều tiền, lắm thóc, hãy sò vào đây, về sẽ có lộc.
Điều độc đáo ở Hang Tối và Hang Sáng là các thạch nhũ, khi lấy đá gõ vào thì nghe lanh lảnh như tiếng chuông, bập bùng như tiếng trống, âm u như tiếng mõ. Âm thanh trầm bồng lạ kỳ! Người ta gọi đó là những dàn chiêng, dàn trống, dàn mõ, những thạch cầm của thiên nhiên.
Một điều cũng rất đặc biệt nữa là, nhũ đá trong hang rất huyền diệu, có những dải nhũ thạch lấp lánh bảy sắc cầu vồng được gọi là sa và một số nho đá màu thay đổi theo ánh sáng mặt trời. Nó hồng hồng lúc rạng đông, lấp lánh sáng như pha lê lúc trưa hè và lại đỏ thẫm khi hoàng hôn buông xuống. Chính vì thế, nghe nói, chúa Trịnh Sâm khi ghé thăm động đã cho khắc thơ vào vách đá như sau:
“Nham sơn bán khải thanh thành mục, Thạch nhũ toàn nhu bích túc cầu.
Triều thủy thiên nhiên thường thướng hạ, Cây hoa chung cổ tự xuân thu”.
Dịch nghĩa:
“Cửa núi hé ra xanh xanh như cảnh màn che rủ
Nhũ đá mềm mại biêng biếc như quả cầu tròn. Nước thuỷ triều ngàn năm lên xuống,
Hoa trong khe núi đá bao thuở xuân thu
Rất tiếc là bài thơ khắc trên vách đá này của chúa Trịnh Sâm hiện nay không còn nữa.
Đi hết Hang Sáng, sẽ ra đến cửa hậu của động. Đứng đây nhìn xa, bao quát được cả một vùng rộng lớn của non nước Hoa Lư lịch sử. Kia là núi Dục Thúy, núi Ngọc Mỹ Nhân, các dãy núi của Cố đô Hoa Lư. Đây là sông Hoàng Long, sông Đáy uốn lượn như những dải lụa trắng phơi trên mặt đất. Nhà cửa, cây cối, đồng ruộng xanh tươi. Tất cả là một bức tranh sơn thủy toàn bích.
Thời ấy, muốn thăm chùa Địch Lộng, chỉ có một đường vào ra duy nhất theo hướng Bắc, phải đi thuyền qua hai bên núi sát liền nhau, vừa một lối nước chảy, thế rất chật hẹp giống như một cái cửa, gọi là Kẽm Trống (thuộc xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Núi Kẽm Trống có tên là Kiệm Lộng. Lê Thánh Tông có bài thơ khắc vào núi, nên còn gọi là núi Đề Thơ. Đến đời vua Lê Thần Tông, niên hiệu Đức Long thứ 2 (1630) đá lở sụt, bài thơ không còn. Ngồi thuyền, nhìn thế núi kỳ vĩ đặc biệt, đổ bóng xuống dòng sông, với khẩu khí thơ riêng của mình, Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã viết bài thơ “Kẽm Trống”
Hai bên thì núi,giữa thì sông,
Có phải đây là Kẽm Trống không?
Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong.
Ở trong hang núi hơi hẹp,
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng.
Qua cửa mình ơi ngắm lại
Nào ai có biết nỗi bưng bồng.
Bài thơ được lan truyền nhanh, rất nhiều người thuộc lòng. Theo tấm bia tạc năm Tự Đức thứ 7 (1854) chúng ta biết năm 1821, trong chuyến ra Bắc Hà, khi trở về kinh đô Huế, vua Minh Mạng nghe tiếng đồn chùa Địch Lộng đẹp, nên đã ghé thăm. Tương truyền, nhà vua ngự thuyền, sắp phải chui qua Kẽm Trống thì có một viên cận thần ngồi cùng thuyền đọc cho vua nghe bài thơ Nôm trên của Hồ Xuân Hương. Nhà vua nghe xong, mặt đỏ bừng, tức giận nói: Mụ quỉ! Bất kì cái chi, đến cả đất trời đẹp đẽ là mụ ta cũng ngó ra cái đó! ”.Vua Minh Mạng liền hạ lệnh dừng thuyền, cho đòi viên quan địa phương đến truyền, bắt đốc thúc nhân dân hai huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình và Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam phải đào một con sông khác vòng cung quanh núi Kẽm Trống, để ngự thuyền đến thăm chùa Địch Lộng. Vua đã truyền, quan, dân là bề tôi phải nghe và làm. Thế là hàng ngàn người trong một ngày, một đêm đã đào xong một con sông dài 3 kilômét, rộng 10 mét, sâu 5 mét.
Sông đào xong, Vua Minh Mạng ngự thuyền đến thăm chùa Địch Lộng. Quả là một cảnh đẹp diệu kỳ,Vua liền tặng cho 5 chữ “Nam Thiên Đệ Tam (Động đẹp thứ ba ở trời Nam). Ngày nay, ở xã Gia Thanh, huyện Gia Viễn còn di tích cái Bến Ngự và con sông Đào ấy. Trải qua gần 200 năm, con sông Đào nay chỉ còn là một lạch nhỏ.
Như thế, hai ông vua Minh Mạng và Thiệu Trị ở thời Nguyễn đã đến thăm chùa Địch Lộng và cúng tiến chùa. Ngày nay, các du khách bốn phương trong và ngoài nước cũng đến thãm thú chùa Địch Lộng và cúng tiến vào chùa. Chùa Địch Lộng hàng năm đều tổ chức lễ hội từ ngày 6 đến 10 tháng giêng âm lịch còn kéo dài đến hết tháng 3.
Toàn cảnh chùa Địch Lộng là sự hài hòa những công trình kiến trúc của con người và tạo hóa, có cao sâu, âm dương đối đãi, sáng tối, hư thực, có nhạc, có hoạ, có thơ và cây cối tươi xanh tạo nên cảnh Bồng lai,
Tiên cảnh giữa trần thế. Vào chùa để ngẫm sự cân bằng của tạo hóa, để con người tâm linh tìm ra chính mình, lễ Phật, cầu mong cho được nhiều phúc lành và thưởng thức những tuyệt tác nghệ thuật của tạo hóa đã giành riêng ban tặng cho nơi này. Đó là một thắng cảnh độc đáo vừa hoang sơ vừa kì vĩ với tiếng chuông ngân của chùa và “tiếng sáo thổi’’
(nguồn :  " chùa cổ việt nam" (nxb thanh niên)
trang mạng :  tienamphu.com..)
bài này chưa hoàn toàn đủ nhưng dài quá nên tạm như vậy.. anh chị em đóng góp ý kiến để hoàn thiện hơn ạ😂

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #bt