Phần 1
Suốt bảy năm qua, mưa quá ít. Bụi bay mù khắp các đồng cỏ. Ngày nối ngày, mùa hè này tiếp mùa hè khác, gió nóng thổi như tiếng kèn đồng trong bầu trời vàng ửng. Mùa vụ thất bát liên tục. Đất đai cằn cỗi lại phải cầm thế để trang trải thuế khóa và mua hạt giống cho mùa sau. Đau đớn vì hết hy vọng ở mùa màng, không thể mua thiếu chịu, không còn tiền trả lãi và đóng thuế; chủ ngân hàng xiết đất. Rồi tới lượt ngân hàng sụp đổ.
Ròng rã bảy năm, một tai họa kỳ bí bao trùm khắp nơi. Tất cả các ngân hàng đều thua lỗ. Từ bờ đại dương này tới bờ đại dương kia, các cơ xưởng đóng cửa, việc kinh doanh ngưng hẳn. Đúng là một cuộc khủng hoảng kinh hoàng.
Không chỉ là một cơn suy thoái kinh tế. Không một ai nghe nhắc đến một tình trạng suy thoái nào vào năm 1893. Tất cả chỉ biết về những cuộc khủng hoảng kinh hoàng, những cuộc khủng hoảng đã có vào các năm 1797, 1820, 1835, 1857, 1873. Cuộc khủng hoảng chẳng có gì lạ với ông Ngoại là người từng đối mặt nhiều lần trước với chúng. Ông Ngoại nói đây chỉ là một cuộc khủng hoảng tệ hơn những cuộc khủng hoảng đã có và chẳng có gì tồi bằng thời chiến tranh. Lúc này mọi người còn được yên ổn trên giường của mình, không có những kẻ hung hãn ngoại trừ đoàn quân Coxey.
Tất cả các ngả đường từ California, những đoàn quân thất nghiệp Coxey chiếm xe lửa, chất đầy lên các toa, vét sạch nhiên liệu chạy hết tốc lực ráng tới Washington càng nhanh càng tốt. Họ đi vào các thị trấn với cơn bão gào thét "Công bằng cho người Lao Động" rồi họ ngưng lại chen lấn nhung nhúc đòi thức ăn và cung cấp đủ phần ăn cho ba ngày đường, nếu không họ sẽ đốt cháy thị trấn.
Mọi người phải lo cung cấp đủ những thứ họ đòi để tống khứ họ đi ngay. Trong khắp các thị trấn, quân đội Liên Bang đều canh gác cẩn mật các văn phòng Nhà Nước.
Tôi tròn bảy tuổi, đang học lớp Hai ở trường học nhưng đã đọc được các sách lớp Ba, Bốn và các truyện Robinson Crusos, Gulliver phiêu lưu ký. Về sau, khi lớn hơn, tôi đã đọc tờ The Chicago Inter-Ocean được gửi đến hàng tuần. Tôi đọc nhưng không hiểu hết những điều mình đã đọc.
Tờ báo nói không còn xe lửa trên các đường sắt phía đông vùng Mississipi. Đã có nhiều người được phái đi gỡ hết đường sắt dẫn tới miền Đông để không cho các đoàn quân Coxey tràn tới. Lúc đó các đạo quân biến thể, đi bộ tiến về Washington vừa đi vừa cướp bóc, trộm cắp và ăn xin.
Một thời gian khá dài tôi sống với ông bà Ngoại và các dì tại De Smet vì không ai rõ cha mẹ tôi lúc đó ra sao. Chỉ có Trời mới biết nổi. Họ chẳng giống ai, một từ khó hiểu và khủng khiếp. Tôi không biết đích xác nó là gì mà chỉ thấy nó tối tăm và hàm ý là tôi không bao giờ còn gặp lại cha mẹ nữa.
Lúc đó cha tôi, đúng cung cách đàn ông, bất chấp mọi lý lẽ khuyên nhắc cần ngồi trên giường.
Bà Ngoại gần như luôn ca cẩm chuyện này với các dì. Dứt khoát và quả quyết, cha tôi vẫn ra ngoài lo chăm sóc đám gia súc. Và do làm việc quá độ, không bao lâu ông ngã bệnh. Bây giờ ông phải nằm liệt trên giường suốt ngày và mẹ tôi, Laura làm được gì? Ngoài ra, còn phải ôm tôi trên tay.
Nhưng khi tôi thấy lại cha tôi, ông đã đi lại được một cách chậm chạp. Ông kéo lết như thế qua hết những năm chín mươi và không bao giờ khỏe lại như bình thường trước kia.
Lúc đó chúng tôi sống trong căn nhà riêng của mình ở thị trấn De Smet, cách xa phố Main, tại nơi chỉ có một lối đi bộ chạy trên những đám cỏ ngắn màu nâu. Đó là một căn nhà mướn lớn và trống rỗng. Cả tầng trên lẫn tầng dưới đều tối tăm và về đêm đầy những âm thanh rón rén, nhưng đó là lúc mà ánh đèn được thắp sáng ở nhà bếp, chỗ chúng tôi sinh hoạt. Lò bếp cùng bàn, ghế đều kê ở đây, giường ngủ kê trong gian trống và vào giờ ngủ, chiếc giường có bánh lăn của tôi được kéo tới gần hơi ấm của lò bếp. Mẹ tôi nói mình đang cắm trại mà, có thích không? Tôi biết mẹ muốn tôi nói thích và tôi nói như thế. Với tôi, mọi thứ đều đơn giản.
Tôi đi học trong lúc cha và mẹ tôi làm việc. Học bài, chép bài, đánh vần, làm toán, tập viết gần như lấp kín mỗi ngày với niềm vui đáp ứng đúng những yêu cầu nghiêm ngặt của cô Barrow. Tôi viết hai mươi lần không có một lỗi nhỏ nào câu "Chần chừ là kẻ ăn cắp thời gian" trong cuốn vở tập viết; viết chính xác từ nét chữ tới độ cao của những chữ t, chữ d, chữ Laura và từng dấu chấm của những chữ i trong các câu "Truyền đạt sai làm hư những cung cách tốt" và "Ngọt ngào là cách vận dụng nghịch cảnh".
Buổi chiều trên đường về nhà, lũ học trò cần cù chúng tôi nhớ lại một cách ấm áp gương mặt nghiêm trang, chu đáo của cô Barrow và thường chúng tôi cùng cất tiếng hát một bài hát vui nhộn. Bài hát thường nghe thấy nhất trong thời gian này là bài Ta-ra-ra boom-de-ay. Dì Grace của tôi, một nữ sinh lớn xinh đẹp, thường hát bài này, mẹ tôi đôi khi cũng hát và gần như lúc nào cũng có một người đàn ông hoặc một học sinh con trai huýt sáo theo bài hát:
Ôi Dakota! Dakota đất lành trìu mến
Bỗng khô cằn màu mỡ dưới nắng hun
Bát ngát đồng xanh biến thành cỏ cháy
Mưa sao nhẫn tâm trước cảnh vô hồn
Cho tới khi tiếng kèn đồng trỗi dậy
Gọi mưa về và nổi gió từng cơn
Ta vẫn ở đây nhưng không sống nữa
Còn chi đâu mà nghĩ tới lên đường.
Mẹ tôi không phải ra ngoài đi làm nữa vì cha tôi là người lo cung cấp mọi thứ. Cha tôi làm việc mọi nơi, có thể lái xe chở đồ, làm thợ mộc, sơn nhà, thay phiên cho một chủ cửa hàng đi ăn cơm trưa và có lần ông còn làm bồi thẩm tại thị trấn. Lúc đó, mẹ tôi và tôi mỗi đêm tới ngủ ở nhà bà Ngoại vì bồi thẩm đoàn cần tránh mọi giao tiếp nên cha tôi không thể về nhà. Mỗi ngày trong thời gian liên tục năm tuần đó cha tôi được trả hai đô la và ông mang về nhà đủ số tiền.
Mẹ tôi cũng làm việc để dành dụm thêm. Mẹ đi may ở một cửa hiệu may từ sáu giờ sáng tới sáu giờ chiều mỗi ngày, trừ ngày Chủ Nhật, rồi trở về nhà lo bữa ăn tối. Tôi đã thái mỏng khoai tây để sẵn trên bàn. Tôi không được phép đụng tới lò bếp. Một ngày mẹ tôi thùa xong sáu chục chiếc khuyết áo trong vòng một giờ đồng hồ, vỏn vẹn sáu mươi phút; không một ai có thể làm tốt và nhanh như thế.
Và một tuần với sáu ngày làm việc, mẹ lãnh được một đô la mỗi ngày.
Chúng tôi sẽ đi về Vùng Trái Táo Đỏ khi có đủ tiền. Một người có tên là ông Sherwin đã tới đó và thấy rõ trái táo nên hình ảnh do ông ta gửi về là thực; hình chụp các trái táo lớn màu đỏ cùng những hàng cây nhỏ hơn nhiều so với những cây lớn ở đây và những tòa nhà lộn xộn có tên là Mansfield. Quang cảnh chẳng giống như cái tên diễn tả chút nào, không phải là cánh đồng của người đàn ông, và hàng chữ in ở dưới thì cho biết đó là thành phố Gem trong vùng Ozarka.
Xung quanh và phía dưới những bức hình in trên giấy bóng rất đẹp, tôi đọc thấy thành phố Gem của Ozarka thuộc Vùng Trái Táo Đỏ ở Missouri. Lúc này tôi biết có ba bang mang tên Miss là Miss-issipi, Miss-consin và Miss-ouri. Paul nói với giọng miệt thị rằng không phải Miss-ouri mà là Wis-consin, nhưng với tôi thì Wis không có nghĩa gì cả.
Paul và George Cooley cùng đi với chúng tôi tới Vùng Trái Táo Đỏ. Paul lớn nhất rồi tới George còn tôi bé nhất, nhưng tôi được cả hai dành cho quyền ra lệnh vì tôi là con gái. Chúng tôi luôn biết rất rõ mọi chuyện của nhau. Cha hai đứa có hai cặp ngựa kéo lớn và hai cỗ xe và Paul được phép điều khiển một cặp ngựa. Paul nói cha nó bảo nó làm được. Tôi không muốn tin chuyện này nhưng tôi biết Paul không bao giờ nói dối. Nó cũng là một đứa con trai lớn, sắp mười tuổi rồi.
Mẹ tôi đã để dành được một trăm đô la để có tiền đi tới Vùng Trái Táo Đỏ. Tất cả số tiền này chỉ vỏn vẹn là một tờ giấy gọi là "tờ một trăm đô la". Mẹ giấu tờ giấy bạc trong chiếc bàn viết vốn là một hộp gỗ rất lôi cuốn do cha tôi làm và chuốt bóng tới mức tạo một cảm giác thật khoan khoái khi vuốt tay lên. Chiếc hộp được mở ra trên những bản lề bằng đồng làm thành một mặt phẳng rộng nằm nghiêng để làm mặt bàn viết được trải một lớp nỉ xanh. Phía trên mặt bàn có một khay gỗ nhỏ giữ chiếc bút có quản gắn hạt trai của mẹ và bên cạnh là chỗ đặt lọ mực. Và lớp nỉ xanh phủ trên chiếc nắp có thể nhấc lên quanh những bản lề thật nhỏ để mở ra chỗ cất giấy tờ nằm bên dưới. Tôi chỉ được phép ngắm và sờ chiếc bàn khi nào mẹ mở ra.
Tờ một trăm đô la là một bí mật. Mẹ khóa kín nó trong chiếc bàn. Ông bà Cooley biết và có lẽ Paul và George cũng biết, nhưng chúng tôi không nên nói về nó. Tôi không bao giờ, không bao giờ hé môi nói một lời về tờ một trăm đô la đó với ai. Không bao giờ, không thể nào có một vấn đề gì về nó.
Dưới bóng mát của căn nhà trống trơn, cha tôi sơn cỗ xe. Quả đúng thực sự là một cỗ xe lớn hơn hẳn mọi cỗ xe cùng loại. Nó là một cỗ xe hai băng ghế hai chỗ ngồi dù lúc này nó chỉ có một băng ghế trước. Cha tôi sơn xe màu đen bóng loáng. Phía trên ông căng mui phẳng bằng vải dầu màu đen và thả những tấm che cũng bằng vải dầu màu đen ở hai bên và phía sau. Những tấm che này sẽ cuốn lên khi cha tôi kéo một sợi dây. Ngay sau ghế ngồi, cha tôi căng vừa khít một khung nhún và mẹ tôi làm giường trên đó. Buổi tối, mẹ làm giường cho tôi trên sàn xe ngay phía trước ghế ngồi.
Mẹ nướng hai tá bánh khô để ăn trong chuyến đi. Bánh lớn hơn một chiếc đĩa, dẹt và cứng.
Phải cứng và khô để bánh không bị hư như những thứ bánh thông thường. Bánh thật khó gặm nhưng cũng có mùi vị gần giống bánh quy xốp.
Một ngày chúng tôi hối hả sắp xếp để sớm được lên đường tới kịp Vùng Trái Táo Đỏ trước mùa đông. Chúng tôi không thể ngưng lại để xem xét công việc nhưng cần lo thêm nhiều thức ăn cho chuyến đi nên cha tôi mua thêm một hộp mồi lửa a-mi-ăng để sẽ đổi chác hoặc bán lại với giá mười xu một sợi.
Mồi lửa là một thứ mới mẻ chưa từng nghe thấy. Nó giống như những miếng giấy bồi hình tròn màu trắng xám với một đường mép mỏng bằng thiếc. Không ai có thể tin rằng nó không cháy cho tới khi cha tôi làm cho thấy. Ông thúc đẩy sự ngờ vực gấp đôi khi đốt lửa cho nóng thêm lên mãi, rồi ông bỏ một chiếc mồi lửa vào giữa những ngọn lửa. Nó đỏ rực lên và mọi người lên tiếng chế nhạo, nhưng miếng mồi lửa không hề hấn gì. Đặt miếng mồi lửa vào dưới một chiếc bình, cha tôi bào bình không chỉ nấu khô mà có thể làm cháy xém một củ khoai tây. Mỗi người phụ nữ đều cần có một hộp mồi lửa như thế.
Tất cả những thứ chúng tôi mang theo trong chuyến đi đều chất trước hết dưới khung giường nhún. Sau đó là những thứ chúng tôi đang dùng như bàn, ghế xếp chân, vỉ sắt nấu nướng mà cha tôi làm; chiếc võng mà người dì mù Mary của tôi móc tặng cho chúng tôi làm một món quà cùng chiếc bàn viết được gói kỹ lại; đĩa, ly, chảo chiên, bình lọc cà phê, thùng giặt, xô nước, cọc buộc gia súc và cọc lều được nhồi cứng trong thùng xe. Cha tôi buộc tấm che phía sau lại. Phía ngoài ông cột thêm chiếc chuồng gà trong lúc những con gà mái trong chuồng la quang quác sau tấm lưới sắt. Nhưng không bao lâu chúng sẽ quen với việc di chuyển.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi chào từ biệt ông bà Ngoại, các dì Mary, Carrie, Grace. Tất cả đứng xung quanh nhìn theo chúng tôi ra đi, dù cặp mắt xanh tuyệt đẹp của dì Mary không thể nhìn thấy chúng tôi. Cặp ngựa cái được đóng vào xe còn những con ngựa con của chúng, Pet và Prince Nhỏ chạy theo sau. Xe của ông Cooley dẫn đầu và Paul điều khiển cỗ xe chạy kế theo. Tôi tự mình leo lên bánh xe ngồi vào ghế. Mẹ tôi ngồi cạnh tôi và bên cạnh mẹ tôi là cha tôi ngồi nắm dây cương trong tay. Mọi người đều nói:
- Tạm biệt, tạm biệt!
- Đừng quên gửi thư về nghe.
- Chắc chắn là không quên đâu. Sẽ có thư. Tạm biệt!
Và, chúng tôi ra đi.
Thế là xa nhà bà Ngoại với những tấm thảm và chiếc ghế đu; xa những cuốn sách thánh ca trên cây đàn dương cầm; xa chiếc ghế đẩu dành riêng cho tôi; xa ngôi trường đầy bụi phấn có cô giáo hiền hòa Barrow dạy Mẫu giáo, Vỡ lòng, lớp Một, lớp Hai; xa những bờ tường mùa hè với những con châu chấu trong cỏ khô và những nhánh lá dương kẻ chỉ bạc xào xạc trên đầu; xa ngôi nhà xám xịt trống hoang; xa bà Sherwood và em gái của bà thỉnh thoảng vào những buổi chiều ngột ngạt đã yêu cầu tôi chạy đi mua mười xu kem lạnh từ một hiệu bán kem ở xa rồi chia cho tôi; xa thị trấn De Smet để tới Vùng Trái Táo Đỏ.
Hàng ngày mẹ tôi đã ghi lại mọi chuyện về chuyến đi này trong cuốn sổ tay khổ nhỏ mua 5 xu bằng cây bút chì và dĩ nhiên ghi trên cả hai mặt giấy. Lúc đó, không ai hoang phí giấy cả. Sau đây là những ghi chép của mẹ tôi
R.W.L
II.
17 tháng bảy 1894
Khởi hành lúc 8g30. Ra khỏi ba dặm chỉ là những cây kế Nga. Những người cắt lúa với mùa lúa mì èo uột. Vào ranh giới hạt Miner lúc 2 giờ. Hạ trại bên một dòng suối cạn nhưng đủ lo cho lũ ngựa. Lúa cao khoảng 8 inch may ra sẽ đạt nổi sản lượng một giạ rưỡi mỗi mẫu. Trời nóng.
18 tháng bảy
Nhiều nông dân cắt lúa làm cỏ khô. Lúc 11g30, chúng tôi rời khỏi Howard một dặm về phía đông. Trồng trọt ở đây còn đỡ. Kéo lết tới mùa tới là việc đã xong hết, không còn lo lắng về thu hoạch trong mùa này. Tuy nhiên mùa vụ vẫn tệ hại chưa từng thấy. Cỏ không mọc nổi. Lúa cao chừng 3 inch héo úa và chết khô.
Đi ngang đường sắt Tây Bắc R.R lúc 2g25. Vào ranh giới hạt McCook lúc 5 giờ, cho xe chạy thêm hai dặm rưỡi và hạ trại. Trong buổi chiều có một đợt bão bụi nhỏ và chúng tôi phải kéo xe chụm chung lại vì không thể thấy rõ những gì đang xảy ra. Gió nam nóng hực đổi thành gió bắc lạnh lẽo, cả hai thứ đều gay. Dù vậy, nhiệt lượng kế trong xe đứng ở 102 độ.
19 tháng bảy
Ban đêm trời đổ mưa nhưng không có gió. Không vật gì trong thùng xe bị ướt ngoại trừ một tấm mền phủ lưng ngựa. Chúng tôi rán thịt gà làm thức ăn điểm tâm và khởi hành lúc 9g15. Thời tiết lạnh và dễ chịu, gió thổi từ phía bắc và bụi lắng dưới mưa. Những khu rừng nhỏ rậm rạp và có vẻ rất tươi tốt nhưng nông dân đang cắt lúa phơi làm cỏ khô.
Chúng tôi kiếm được điểm cắm trại vừa ý trong một hẻm núi khuất gió và khuất mọi tầm nhìn.
Bữa tối đã được nấu nướng và ăn xong. Khi chúng tôi đang rửa chén đĩa, một người đàn ông đi tới và nói ông ta là chủ một khu đất và thấy chúng tôi cần chỗ nghỉ nên tới làm rộn. Vì ông ta sống ngay phía bên kia đồi nên chúng tôi nghĩ là chúng tôi có thể di chuyển qua con đường và tới ở yên ổn tại đó. Thế là chúng tôi đóng ngựa vào xe lái đi. Đây là một nơi hạ trại rất tốt. Buổi tối có thêm hai người đàn ông tới chuyện trò. Nhiệt lượng kế đứng ở 92 độ.
Bà Cooley và tôi đi vào một ngôi nhà để mua sữa. Ngôi nhà xúm xít đầy trẻ con và heo, tất cả đều lem luốc y hệt nhau.
20 tháng bảy
Khởi hành lúc 1g10. Một con ngựa của gia đình Cooley bị cứa đứt một vết nhỏ trên chân do vướng phải hàng rào kẽm gai.
Chúng tôi rời khỏi Bridgewater nửa dặm về phía đông. Ông Cooley lái xe vào thị trấn nhưng tất cả chúng tôi tiếp tục đi về phía nam và đến một khu lúa mạch đầu tiên tương đối có giá đang được cắt. Từ khi rời De Smet lúc này chúng tôi mới thấy thu hoạch nhưng lúa không tốt lắm.
Chúng tôi cho ngựa uống nước tại một giếng nước công cộng chạy bằng cánh quạt gió ngay bên đường. Nước trên khắp hạt McCook đều tốt. Các giếng có độ sâu trung bình chừng 120 bộ và gần như giếng nào cũng có cánh quạt gió. Đây là một hạt ổn định. Khắp hạt McCook, năm nay là năm mất mùa đầu tiên kể từ 16 năm qua. Có rất nhiều rừng cây nhỏ, những ngôi nhà xinh xắn, những vựa lúa lớn và rất nhiều leo, nhưng chúng tôi không thấy có nhiều bò dù có một xưởng sản xuất bơ và phomai tại Bridgewater. Mọi người nói mùa lúa quá xấu nhưng đây là mùa lúa tốt nhất mà chúng tôi được thấy lần đầu trong năm.
Vào địa phận hạt Hutchinson lúc 10 giờ. Ở đây người ta đang cắt cỏ để phơi khô. Chúng tôi đi ngang một đống đá khổng lồ đã được dọn sạch khỏi một khu đất. Thấy một số lúa mì khá tốt. Ông Cooley bắt kịp chúng tôi lúc 12 giờ khi chúng tôi tới một khu định cư của người Nga. Ông ấy không kiếm nổi lúa mì hoặc thực phẩm gì ở Bridgewater mặc dù có ba nhà máy xay trong thị trấn.
Khu định cư người Nga là những căn nhà, những lán kho xây bằng gạch sống, nhưng khu chuống gà và những đống than trữ để đốt. Nhà đều lui xa khỏi đường cái và hầu hết đều dựng thật dài, một đầu là nhà ở còn đầu kia là lán kho. Chúng tôi ngưng trước một nhà để kiếm nước. Ở đó có một gã ngớ ngẩn, một người đàn ông, một kẻ khủng khiếp.
Chúng tôi có thể thấy rừng cây dọc sông Jim nằm cách bên phải chúng tôi chỉ sáu dặm nhưng xa tới 18 dặm ở phía trước mặt. Đây là một vùng dễ thương, nhưng lại có một người Nga nói "Chẳng có gì tốt cho năm nay, chẳng có gì tốt cho năm ngoái". Chúng tôi mang nước lên xe và hạ trại không có nước tại một nơi rất tốt ngoại trừ việc thiếu hụt trên. Nhiệt lượng kế trong xe ghi 100 độ.
Đường đi gần như hoàn toàn bằng phẳng suốt hai ngày, chỉ thỉnh thoảng có một hẻm núi nhỏ, không có đồi. Đất ở đấy giá từ 2500 đô la tới 3000 đô la cho một khu 160 mẫu.
21 tháng bảy
Chúng tôi tưởng là đương nhiên khởi hành sớm, nhưng lại có sự cố. Hết bánh mì nên chúng tôi phải nướng bánh quy và làm nước sốt với món thịt gà nấu trong đêm trước tưới lên bánh quy rồi đặt tên là bánh thịt gà hấp. Khi đóng ngựa vào xe, chúng tôi dùng con ngựa Pet và nó phóng đi.
Manly đã bỏ cương cho con ngựa con Pet Nhỏ nên nó không thể chạy theo mẹ. Tôi kêu "oa" cho xe dừng lại và tiến về phía con ngựa con. Ngay khi nhìn thấy tôi đi tới, nó vùng chạy. Tôi không thể chụp nó lại. Ông Cooley cưỡi một con ngựa giống da đỏ rượt theo nó và khi xấn lên nổi để chận ngang đầu nó thì nó đã chạy một đỗi khá xa. Nó sắp đi tới Missouri không chờ chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi khởi hành vào lúc 8g20.
Chúng tôi di chuyển dần dần về phía bờ sông chỉ còn cách chúng tôi năm dặm về phía tây bắc. Dọc theo bờ sông rừng cây rậm rạp. Ở đây mùa vụ đã thu hoạc xong và đang bắt đầu cày đất.
Đúng 10g30, những bờ đất phía bên kia sông Jim đã nằm trong tầm mắt.
Chúng tôi vào địa phận hạt Yankton lúc 12 giờ và lúc này, 2g15, chúng tôi đang ở trên bình nguyên sông Jim. Mặt đất phẳng lì như mặt nền nhà với một vài khu ruộng lúa chen giữa các đồng cỏ.
Chúng tôi nhìn thấy lần đầu tiên những hàng cây mọc tự nhiên hai bên đường và cũng là những bụi cây nhỏ.
Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi nhìn thấy một khu 160 mẫu trồng lúa nằm một bên đường và một khu khác 80 mẫu ở mé đường bên kia.
Chúng tôi hạ trại bên sông Jim dưới những cây lớn gần một nhà máy xay chạy bằng sức nước.
Đây là một địa điểm rất dễ chịu. Chúng tôi ở không xa một gia đình hoặc một khu định cư người Nga.
Họ hình như là một gia đình nhưng Manly nói anh đếm được 36 đứa trẻ đủ các cỡ tuổi còn ông Cooley nói có cả thảy 50 đứa nhỏ dưới 15 tuổi. Tất cả bọn họ kéo tới chỗ chúng tôi hạ trại, đứng bao quanh ngắm chúng tôi.
Người đàn ông có vẻ là thủ lĩnh của bộ lạc, hoặc cộng đồng hoặc là một thứ gì đó, nói họ tới đây từ năm năm trước và lúc này họ đã có 17 lô đất. Họ có nhiều đàn gia súc, những con ngựa rất tốt và 300 con ngỗng.
Vào lúc hoàng hôn, một đứa con trai mang tới một con cá lớn và hỏi chúng tôi có muốn mua không. Những người đang ông đã đi hết nên tôi và Emma Cooley không biết định giá con cá bao nhiêu.
Cậu bé nói chúng tôi có thể trả cho cậu ta một dime nhưng Emma và tôi không thể moi đâu ra một dime. Chúng tôi chịu thua khi những người đàn ông trở lại và mua con cá. Vài phút sau cậu bé lại tới với hai con cá nhỏ hơn, đòi được trả 15 xu, nhưng cuối cùng chịu bán với giá mười xu.
Ban đêm chúng tôi ngủ trong tiếng nước chảy xuôi. Manly đập chết một con rắn vào chiều hôm đó.
Chủ nhật 22 tháng bảy
Sáng nay tất cả chúng tôi đều đi tắm. Ông Cooley cùng lũ trẻ kéo nhau xuống sông. Paul và George quấn dây quanh người và tập bơi. Rose đi với bà Cooley cũng có một sợi dây quanh người do tôi giữ đầu dây. Cô bé ra tới chỗ nước sâu ngang người, lội nước loanh quanh rồi ngồi xuống cho nước dâng lên tới cằm. Suốt ngày những người Nga, gồm cả người lớn và con nít, không ngừng đeo theo chúng tôi. Họ không thể nói chuyện và chỉ hiểu rất ít. Họ khá tử tế, mang tới tặng cho chúng tôi sữa và một thùng lớn bánh quy. Bánh quy của họ xốp và rất ngon. Chúng tôi có cảm giác như đã quen biết với họ, nói cho họ biết tên của từng người trong chúng tôi và hỏi tên của họ rồi để họ ngồi đung đưa trên võng và trên những chiếc ghế. Họ hết sức tò mò, muốn xem xét mọi thứ rồi bàn tán với nhau.
Họ mời chúng tôi tới thăm nhà họ và Manly cùng đi với tôi. Họ chỉ cho chúng tôi những con ngỗng và những người đàn bà vắt sữa bò đang vắt sữa. Những người này giống hệt như trong những bức hình vẽ các cô gái vắt sữa và các nông dân Đức và Nga. Tóc họ vàng óng, chải thật mượt xuống hai bên má rồi kết bím thả lỏng phía sau và mỗi người đều buộc khăn ở trên đầu. Tất cả đều mặc cùng kiểu áo đầm. Đó là những chiếc áo dài bằng thứ vải màu xanh, không có ống tay nhưng những chiếc sơ mi màu trắng phía trong của họ lại có những ống tay thật dài. Đám đàn ông đều để râu quai nón dài và hoe vàng. Những ngườ này đều mặc áo choàng màu xanh dương dài gần tới đầu gối với đai lưng buộc quanh eo. Tất cả đều lễ độ, tươi cười hình như đang cố cho thấy họ rất mừng vì chúng tôi tới thăm. Họ cho thêm chúng tôi một thùng sữa tươi còn ấm và Manly tặng lại họ một mồi lửa. Một người đàn ông có vẻ đã Mỹ hóa được Manly chậm rãi chỉ dẫn về chiếc mồi lửa không thể bị cháy và ông ta nói ông ta hiểu. Nhưng ông ta không tin nó lại không bị cháy cho tới khi Manly thử cho thấy.
Khi chúng tôi sắp đi, một người đàn bà tới mở phần áo phía trước ngực lôi ra một bọc bánh quy đang áp ngay trên làn da trần của bà và tặng cho tôi. Người đàn ông nhắc tôi nên cất vào trong áo nhưng tôi buộc lại trong chiếc khăn tay sạch của Manly. Người đàn ông nói không dễ nướng bánh quy với những người đang di chuyển. Đáng tiếc là phải hoang phí bánh quy nhưng chúng tôi không thể ăn được.
Những người Nga có một con chó cực lớn. Nó cao hơn thắt lưng tôi và đầu nó y hệt đầu một con chó sói nhưng to hơn. Tai nó được xén tỉa để giống như tai chó sói và lông nó toàn bộ màu nâu sáng. Nó rất dễ thương, cọ người vào Rose và tôi và chúng tôi vòng tay ôm quanh cổ nó. Có một con chó con giống nó như đúc và Manly vật nài mua nhưng họ không chịu bán.
Họ có những nhà kho rất đẹp, những máng lúa lớn và một chiếc cối xay gió. Đất đai của họ chạy dọc bờ sông. Mỗi người trồng trọt trên đất riêng của mình nhưng lợi tức được gom chung lại hết.
Chúng tôi đã qua một ngày Chủ Nhật thoải mái nhất và được nghỉ ngơi. Paul leo lên lưng con Pet Nhỏ và con ngựa con không bận tâm về chuyện này, nó khá ngoan ngoãn.
23 tháng bảy
Chúng tôi khởi hành lúc 8 giờ. Thấy ghét phải rời khỏi chỗ hạ trại có vẻ như đã là nhà của mình. Chúng tôi qua sông James và chừng hai mươi phút sau đã tới đỉnh của những bờ dốc thẳng đứng phía bên kia. Tất cả chúng tôi đều dừng lại nhìn ngược về quang cảnh phía sau và tôi ao ước mình có được bàn tay của một họa sĩ hay khối óc của một thi sĩ hoặc có khả năng kể lại bằng những đoạn văn xuôi khúc triết cảnh sắc tuyệt vời như thế nào. Nếu tôi là người da đỏ, tôi sẽ lột da đầu thêm nhiều người da trắng nữa trước khi rời bỏ nơi này.
Chúng tôi có thể nhìn thấy dòng sông uốn vòng dưới thung lũng với mặt nước rạng ngời qua những hàng cây lớn mọc trên bờ. Bên kia dòng sông, những vách đất vươn cao trần trụi nâu cháy trên màu xanh mượt mà của cây cỏ và mặt nước lấp lánh. Phía bên này cũng lại những vách đất giống các đợt sóng khổng lồ màu nâu dâng lên hỗn độn.
Phía bên này sông James, chúng tôi đi ngang những cánh đồng lúa cao 8 bộ. Dọc các vệ đường là những cây bông gòn lớn cỡ 10 inch và cao tới 35, 40 bộ. Nhưng tất cả hình như đều cháy xém và trơ trụi sau những vùng đất chúng tôi hạ trại.
Đã 10 giờ. Nhiệt độ là 101 độ trong bóng mát và không khí ngột ngạt.
Lúc 11 giờ, còn cách Yankton 9 dặm, chúng tôi ngừng lại bên một cối xay gió cho ngựa uống nước. Ông chủ của căn nhà nói với chúng tôi là ông phải tốn 5000 đô la suốt ba năm trong thập kỷ 80 không có nhà.
Không xa Yankton, chúng tôi băng qua một trảng đất khô với những vách đất trơ trụi ở hai bên. Khắp nơi chỉ có những tảng đá và những cụm cỏ lúa khô giống như những đống cát lớn trôi dạt dồn tụ lại.
Chúng tôi tới Yankton lúc 4 giờ. Xe chạy ngang một dưỡng trí viện. Những tòa nhà trông khá đẹp được dựng ở giữa một trang trại lớn với nhiều mẫu bắp và khoai tây. Manly muốn ngưng lại vào dưỡng trí viện nhưng tôi không chịu nên chúng tôi tiếp tục đi. Chúng tôi đi ngang trường Cao Đẳng Yankton cũng là những tòa nhà khá đẹp.
Nhưng tôi vô cùng thất vọng khi vào Yankton với quang cảnh của một vùng bùn đất. Chúng tôi lái xe chạy khắp thị trấn tìm mua một chút lương thực cho lũ ngựa, qua khắp các nhà máy xay, các kho hàng, cuối cùng chỉ mua nổi vỏn vẹn hai bao hạt vụn và khắp thị trấn không có nổi một miếng cao dán. Trong các cửa hàng bán thực phẩm không có rau tươi và cũng chẳng có một thứ trái cây nào. Sẽ là một ân huệ lớn cho Yankton nếu cửa hàng Carpenter chuyển tới đây hoặc các người dân ở thị trấn này được tới De Smet để kiếm những thứ cần dùng. Thị trấn có hai vựa lúa, hai hoặc ba nhà máy xay, 6 kho thực phẩm, nhưng chúng tôi chỉ kiếm nổi số thức ăn mang theo khoảng hai túi xách.
Tôi không phải đụng tới túi tiền dù đã bỏ rất nhiều thời gian lùng mua thực phẩm khắp thị trấn đến nỗi ông Cooley qua phà trước. Bà Cooley và Paul qua sông rồi phà quay lại đón ông Cooley. 6 giờ, đúng lúc phà sắp rời bến trở lại đón chúng tôi đang đợi ở mé sông bên này thì một cơn bão nổi lên.
Không có mưa mà chỉ có gió và bụi.
Chúng tôi phải quay mặt ra phía sông ẩn sau xe để tránh bị gió thổi đi. Gió nhấc bổng bánh xe sau lên hai lần trước khi Manly cột chặt vào cọc. Người lái phà không dám qua sông trong lúc đang có bão. Ông ta chờ ở phía bên kia cho tới khi bão tan và chúng tôi sợ rằng ông ta không chịu qua trong đêm đó. Nhưng ông ta đã qua. (*)
Khúc sông Missouri mà chúng tôi băng qua rộng khoảng một dặm và rất nhiều bùn lầy. Tôi không hề thắc mắc về việc chỗ này có tên là Vũng Bùn Lớn và khi nhìn thấy bụi đất bị gió cuốn xuống đó, tôi đã nghĩ không có gì ngạc nhiên khi chỗ này đầy bùn. Sông Missouri chẳng có gì đẹp như sông Jim.
Pet không bối rối chút nào ở trên phà mà chỉ kéo xe lên một cách ngoan ngoãn rồi đứng yên tối đa trước khi lặng lẽ kéo xe rời khỏi phà. Con ngựa con Pet Nhỏ thong thả lên phà và đứng im bên cạnh mẹ như một con chuột.
Đi khỏi sông chừng một dặm, chúng tôi hạ trại. Nhiệt độ là 98 độ.
(*) Khi những bánh sau của cỗ xe nhấc lên tựa hồ xe lăn nhào xuống sông, cha tôi nhảy ra ngoài, đặt dây cương vào tay mẹ tôi. Trong lúc mẹ tôi nắm dây cương và trấn an lũ ngựa đang căng thẳng, tôi vươn cổ ra ngoài tấm vải che bên cạnh xe để nhìn xem cha tôi đang làm gì. Ông đang đóng những cây cọc buộc sâu vào trong đất rồi dùng dây buộc chặt bánh xe vào đó. Ngay sau chúng tôi là một cỗ xe phủ kín mít và sau cỗ xe đó là một cỗ xe khác rồi một cỗ xe khác nữa. Xa hút tầm nhìn của tôi, các cỗ xe nối đuôi nhau đứng thành một hàng dài. Sau một cỗ xe là một cỗ xe khác và phía sau những cỗ xe nhưng ở trên cao là nửa vùng trời phủ trong lớp sóng bụi màu vàng đang cuồn cuộn kéo tới. Mẹ tôi nói với tôi: "Đó là cái nhìn cuối cùng của con hướng về Dakota đó".
24 tháng bảy
Ông Cooley dậy sớm đi câu nhưng chẳng được gì. Tất cả chúng tôi đều mệt nhoài vì đêm trước thứ khuya nên mãi 9 giờ mới khởi hành nổi. Do đi lạc đường chúng tôi phải quay về bờ sông để bắt đầu khởi hành trở lại. Chúng tôi đi theo sông một đoạn đường ngắn và có thể nhìn xuống một khoảng bốn năm dặm trên mặt nước trong dòng sông. Đó là một quang cảnh thật tuyệt dù rằng cảnh sắc trên bờ chẳng có gì đáng kể. Điều gì khiến mặt nước luôn gây xúc động cho người ta như vậy? Tôi chưa từng được thấy một dòng sông hay một mặt hồ lớn nhưng tôi nghĩ là tôi vô cùng thích thú được nhìn thấy một vùng chỉ có nước và thích thú được nhìn mặt nước qua mọi đổi thay của nó.
Hai bờ sông Missouri đang bị xói mòn và trút đất lở xuống nước. Một khúc đường đã trụt hết và trên dòng sông là những khoảng đất bằng. Trước khi tới sát các vách đất, chúng tôi nhìn thấy một loạt 24 đống cỏ khô và việc cắt cỏ chỉ mới bắt đầu. Bốn chiếc máy cắt cỏ đang hoạt động. Giá cỏ khô ở Yankton là 9 đô la một tấn.
Rồi, chúng tôi đã tới các bờ vách. Trên bờ sông bên kia, các vách đất giống như bị xén bởi một nhát dao nhấn thẳng từ trên xuống. Trên mặt vách không có một cọng cỏ. Dọc theo chân bờ vách, cây lớn đang vươn lên thành một hàng rào chắn gió nam. Mận, nho, lý chua đen, cỏ ba lá ngọt mọc hoang trong thung lũng. Cỏ ba lá cao tới 8 bộ. Và, chúng tôi đã nhìn thấy những cây sồi đầu tiên.
Chúng tôi đang đi qua những vách đất, những ngọn đồi trơ trụi, không có nhà cửa, đồng lúa, cây lớn và một ngọn cỏ. Manly nói không bao lâu nữa anh có thể làm chủ toàn bộ vùng Nebraska, nếu có thể rào bọc lại. Xét qua những gì được nhìn thấy, vùng này vẫn có thể là một bãi chăn nuôi nếu không nuôi nhiều gia súc quá. Nhưng trước mắt tôi thì vùng này chẳng có gì, chẳng có gì ở đây cả.
Chúng tôi gặp những cỗ xe thùng đang đi về hướng bắc. Manly nói chuyện với hai người đàn ông đang đi từ Kansas tới Nam Dakota. Họ nói tại Kansas không còn gì.
Nhưng lũ gà mái đang đẻ trứng. Nhiệt độ là 110 độ.
25 tháng bảy
Chúng tôi nghỉ đêm giữa những ngọn đồi Nebraska, dưới một trũng đất thấp, không nhìn thấy một mái nhà. Buổi sáng, tôi thích ngắm những ngọn đồi nhưng không có gì quyến rũ trong sự đơn điệu của chúng.
Chúng tôi khởi hành lúc 7g35. Buổi sáng se lạnh dễ chịu. Qua Hartington lúc 8h30. Thị trấn này khá đẹp, tôi thích ở đây hơn hẳn Yankton dù nó nhỏ hơn. 12g30 qua Coleridge, một nơi không khá gì. Gió đang thổi và bụi bay mù mịt. Chuyện trò về những con đường đất nên tại Dakota.
Cho tới lúc này, tôi chưa hề nhìn thấy những con đường như thế. Càng thấy rõ Nebraska hơn, tôi càng không thích vùng này. Suốt ngày chúng tôi leo trèo trên những vách đất.
Ngay phía nam Coleridge có 22 gia đình sẽ lên đường đi Missouri trong vòng 6 tuần tới, dù vùng này rất thưa người định cư. Một người đàn ông nói là ông ta đã sống tại đây 6 năm nhưng chưa lấy một lần được mùa nào.
Chúng tôi hạ trại bên con suối cách thị trấn Beldon một dặm về phía đông nhưng vẫn nhìn thấy thị trấn. Không có ngay cả một bụi cây để ngắm. Manly bận làm các việc vặt nên ông Cooley đi câu. Ông ấy câu được 11 con cá. Nhiệt độ là 109 độ.
Người đàn ông ở gần chỗ chúng tôi hạ trại đang làm cho một người ở thị trấn Sioux là chủ cả thảy 3000 mẫu đất ở đây trong đó có 500 mẫu bãi chăn nuôi và 250 mẫu đồng cỏ.
26 tháng bảy
Ông Cooley lại đi câu sáng nay và câu được hai con cá. Chúng tôi lên đường lúc 8g40. Tại đây mưa nhiều và mùa màng khá tốt cho cả bắp, lúa mì, lúa mạch. Nhưng quá ba dặm về phía tây lại không có gì hết. Giá đất ở đây là 25 đô la một mẫu.
Gặp một đoàn di dân vào buổi trưa. Họ đang đi về phía bắc. Nhiệt lượng kế chỉ 110 độ trong bóng mát.
Buổi trưa chúng tôi gặp một gia đình di dân gồm một người đàn ông, một phụ nữ và hai đứa nhỏ. Họ đã tới Missouri và đang quay lại. Họ rời khỏi hạt Moody, Dakota ngày 8 tháng Năm và tới hạt Taney, Missouri. Họ chỉ ở đó được mười ngày và quay về nên luôn di chuyển kể từ đó. Họ bảo dù có được toàn bộ đất đai vùng Missouri cũng không thể sống tại đó.
- Có gì lạ đâu, tại đó khó tìm nổi một căn nhà có cửa sổ, tất cả chỉ là những lỗ hổng và rất nhiều phụ nữ chưa từng thấy đường sắt hoặc cây đàn dương cầm.
Còn đất đai thì lổn nhổn đá khủng khiếp. Họ nghĩ là họ sẽ dừng lại hạt Cedar, Nebraska.
Đang buổi trưa nên các cánh đồng đều xơ xác, toàn vùng khô cằn không khác Dakota. Ngang qua Winside vào khoảng 4 giờ chiều. Đường đi nhiều đồi dốc một cách dễ sợ và ông Cooley mong là chúng tôi tiếp tục đi xa hơn về miền tây tới tận Columbus thay vì tới Schuyler.
Qua vùng Suối Humbug và hạ trại gần ngôi nhà đầu tiên ở hướng nam. Dân ở đây là người Đức, rất dễ chịu, đem sữa ra cho chúng tôi. Suối Humbug và Winside là những cái tên rất quen thuộc, nhưng họ đánh vần là Windside. Suốt ngày chúng tôi đối mặt với thứ nóng dữ dội.
27 tháng bảy
Khởi hành lúc 8g15. Chúng tôi đã qua hạt Cedar và sắp qua hạt Wayne, Nebraska. Chúng tôi không thể nói khi nào sẽ tới địa hạt như khi còn ở Dakota vì đường đi ở đây không chú trọng đến ranh giới các khu nhà mà chạy lòng vòng lên xuống quanh những ngọn đồi.
Đất màu ở hạt Wayne mịn tốt, không phải đất sét mà giống như phủ bằng đất sét. Những người ở đây nói rằng đây là thứ đất trồng tốt nhất để chịu đựng khô hạn.
Vượt ranh giới vào hạt Stanton lúc 9 giờ. Có những bãi chăn nuôi lớn và những vùng đồng lúa được rào kín xung quanh. Một đàn gia súc mập mạp hiện ra trước mắt. Những cánh đồng lúa kéo dài ba dặm và sâu hút tầm nhìn. Có một vài khu rừng nhỏ. Gió thổi mạnh nhưng sáng nay trời mát.
Lúc 10g20, chúng tôi nhìn thấy một vườn táo.
Những ngọn đồi phủ kín lúa mì, nối tiếp nhiều mẫu theo tầm mắt. Rất nhiều rừng cây nhỏ.
Gần như tất cả dân cư tại đây là người Đức. Một người tặng Manly hai trái táo ngắt từ trên cây trồng của ông ta. Ông ta có một vườn táo lớn với những cây táo chi chít trái.
Đã qua ngôi nhà của người chủ 540 mẫu đất và 300 con heo.
Hơi xa hơn một chút là một trang trại 500 mẫu. Người chủ có 450 con heo và chỉ có 50 giạ lúa cũ. Ông ta nói nếu nội 24 giờ tới mà không có mưa các bông lúa của mùa tới sẽ héo và ông ta sẽ không còn một hạt thóc nào. Trước mắt chúng tôi lúa khá tốt nhưng chúng tôi nghĩ rằng các nông dân biết rõ ở đây thế nào. Lúa mì của họ năm ngoái bán với giá 32 xu và hiện nay giá vẫn 32 xu.
Chúng tôi tới thung lũng Elkhorn lúc 1g45 và đây là một vùng đất bằng phẳng khá đẹp với nhiều rừng cây nhỏ, những ngôi nhà xinh xắn cùng một khu rừng tự nhiên dọc theo bờ sông.
Một toán di dân tới sau chúng tôi và mỗi phút tôi chờ nghe những điều như thường lệ. Các ông từ đâu tới? Các ông sẽ đi đâu? Mùa vụ của các ông ra sao? Lần này không bao giờ - ít khi là mãi mãi thất bại.
Tìm thấy một trái bắp dài 10 inch, chu vi 7 inch rưỡi.
Ba giờ chiều tới Stanton. Thị trấn có vẻ khá đẹp với những khu xây cất lớn xinh xắn, những ngôi nhà rộng rãi thoáng sạch. Ở đây hầu hết vẫn là người Đức. Những bảng hiệu Đức trên các cửa hàng và những bản văn bằng tiếng Đức tại các nhà thờ. Lúa mì sẽ thu khoảng từ 16 tới 20 giạ mỗi mẫu.
Bắp đã chết khô dưới gió nóng. Hôm qua là 126 độ trong bóng mát ở đây, Stanton.
Qua sông Elkhorn trên một cây cầu. Đi xa thêm chừng vài dặm chúng tôi hạ trại bên cạnh đường dưới bóng vài cây lớn. Có một toán người buôn bán ngựa bên bờ sông và chúng tôi không muốn hạ trại gần họ.
28 tháng bảy
Sáng nay chúng tôi giặt đồ, nói cho đúng thì bà Cooley giặt đồ và tôi giặt 4 bộ quần áo. Tôi đã giặt hầu hết đồ dơ trong giỏ nên không còn nhiều đồ giặt. Những người ở xung quanh gửi cho chúng tôi một thùng sữa lạnh do họ ngâm để làm kem và mới được lấy ra khỏi nước ngâm.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip