Phần 2
Đồ giặt đã khô nên chúng tôi bắt đầu đi cho tới quá giờ ăn trưa. Đường đi thật kinh hoàng với lũ ngựa. Đi được chừng ba dặm thì chúng tôi lạc mất con chó của ông Cooley. Ông Cooley muốn tiếp tục đi nhưng bà Cooley không chịu. Cuối cùng đã có quyết định là ông ấy quay lại tìm con chó còn tất cả cứ tiếp tục đi.
Chúng tôi theo một con đường bờ không còn phải lên đồi xuống dốc nữa mà cứ theo dọc các bờ ruộng vượt qua hết mẫu này tới mẫu khác. Chúng tôi không nhìn thấy ông Cooley ở đâu cho tới giờ hạ trại nhưng chúng tôi hạ trại ngay bên đường đi trên đồng cỏ. Chỉ cần vượt qua hàng rào là có thứ cỏ thật tốt cho ngựa ăn.
Chúng tôi đưa ngựa đi uống nước và buộc vào cọc xong thì ông Cooley vượt qua một ngọn đồi từ phía nam về tới nơi. Một ông già lang thang đã xuất hiện, ngăn không cho ông vượt qua cánh đồng như chúng tôi nên ông phải đi vòng quanh những ngọn đồi để trở về. Ông đã tìm thấy con chó tại nơi chúng tôi hạ trại đêm trước.
Ở đây, lúa mạch và lúa mì khá tốt, bắp không xấu lắm, nhưng dĩ nhiên vẫn cần có mưa nên mọi người đều chán nản, bực bội và keo kiệt.
Cũng có ở đây những cây dâu tay dại và những con rắn đuôi chuông cực độc.
Chủ nhật 29 tháng bảy
Nấu nướng bữa điểm tâm, tắm rửa và nằm quanh quẩn dưới bóng của mấy cỗ xe. Nhiệt độ là 96 độ. Nghỉ trọm ngày và đi ngủ sớm.
30 tháng bảy
Khởi hành đúng 8 giờ và hai mươi phút sau vào địa phận hạt Colfax. Lúc 10 giờ đi ngang Leigh, một thị trấn nhỏ sinh động. Mùa màng cũng vậy nhưng đường xá ở đây không phải lên đồi xuống dốc.
Chúng tôi hạ trại trong rừng, bên bờ suối Shell. Một địa điểm thật tuyệt, đẹp hơn cả nơi chúng tôi hạ trại bên bờ sông Jim. Bà Cooley cùng tôi và mấy đứa nhỏ đi lội nước. Bờ thẳng đứng tới nỗi chúng tôi phải dựa chắc vào nhau để đẩy và kéo nhau lên. Chúng tôi lội và chơi đùa trong làn nước mắt rượi. Rose ngồi bệt trong nước, té tát! Chúng tôi tìm được hai con trai lớn.
31 tháng bảy
Trong đêm gió thổi dữ dội. Chúng tôi cảm ơn vì có được những cây lớn che bớt gió. Chắc ở đâu đó có mưa vì mực nước suối dâng cao thêm 8 inch.
Khởi hành lúc 9 giờ. Chúng tôi đi trong thung lũng bên dòng suối trên một con đường bằng phẳng khá đẹp.
Buổi trưa tới gần Schuyler. Tất cả đường đi đều bằng phẳng. Tại đây chúng tôi ráp lại bánh xe nên 3 giờ mới ra đi. Tôi gặp một người phụ nữ rất hay. Bà ta lái chiếc xe độc mã và lên tiếng hỏi chúng tôi đi đường có nóng không. Tôi thấy thích bà ta và chúng tôi nói chuyện một hồi lâu. Chồng bà ta sở hữu một nông trại lớn ở phía bắc Schuyler nhưng trong ba tuần nữa, họ sẽ đi về miền West Indies. Họ là người Gia Nã Đại, nhưng chồng bà ta ở West Indies khi còn là một cậu bé và họ đã sống ở đó nửa đời người.
Họ ngỡ là thích sống ở đây nhưng đã thấy không đúng như thế nên họ lại cho mướn trang trại và bà ta cho rằng vợ chồng bà ta sẽ sống tại West Indies khi họ về tới đó. Bà ta nói cuộc sống ở đó rất buồn nản nhưng dễ chịu, mọi công việc đều do gia nhân làm. Bà ta biết hết về Dakota và những điều bà ta biết đều thực tế. Bà ta là một người lớn tuổi và tôi nghĩ là người Tô-Cách-Lan.
Đất phía nam Schuyler cách sông Platte khoảng hai dặm là đất cát. Chúng tôi qua sông Platte trên một cây cầu dài nửa dặm dồn cao ở chính giữa khiến chúng tôi phải lên xuống như qua một ngọn đồi. Sông đầy những thanh cản cát để giữ cho dòng nước chảy.
Qua bên kia sông nửa dặm, chúng tôi hạ trại trong một rừng liễu. Gia đình Cooley la cà trong thị trấn cho tới khi chúng tôi dựng trại xong vẫn chưa tới. Manly và tôi vội vã ăn bữa tối rồi để Rose trông chừng trại trong lúc chúng tôi "trút bụi" trả lại dòng sông vì tôi có thể lội nước khi trời còn sáng.
Nước trong, ấm. Cát cũng ấm và trượt nhẹ. Chúng trượt dưới bàn chân tôi khi tôi lội nước và tiếp tục trượt khi tôi dừng lại. Thật thú vị khi tôi đứng im cho cát phủ đầy các bàn chân. Khi Manly nhắc đã "trút bụi" thì chúng tôi lại "xúc cát" về.
Trên đường quay về, chúng tôi thấy một con rắn và hai con cóc lớn. Chúng tôi đi vào một bãi chăn nuôi và thấy một vài cây lớn. Cát trôi khỏi những cây này cho tới khi gốc cây lộ ra cao hơn đầu tôi với chiếc rễ xương xẩu, trần trụi. Tôi có thể đi qua giữa những chiếc rễ này và chỉ cần hơi cúi xuống một chút.
1 tháng tám
Trong đêm có mưa nhỏ. Khởi hành lúc 8g40 và đường bằng phẳng cho tới buổi trưa nhưng suốt buổi chiều thì lên xuống đồi một cách dễ sợ. Chúng tôi hạ trại bên suối Oak trong một khu rừng thưa, giữa những cây sồi, một điểm hạ trại dễ chịu nhất.
2 tháng tám
Khởi hành trễ vì một con ngựa khập khiễng, con ngựa của ông Cooley. Họ phải chăm sóc bàn chân đau cho nó. Chúng tôi gặp một toán lưu động đang thu thuế đường sắt. Hạ trại sớm, chỉ cách suối Oak một khoảng đường ngắn.
3 tháng tám
Khởi hành lúc 9 giờ. Đường rất dễ đi cho tới Lincoln, thủ phủ bang Nebraska và là một thành phố lớn đẹp. Từ khách sạn đầu tiên tới trụ sở bưu điện cách xa hai dặm. Tòa Thị Chính Hạt và Trụ Sở Viện Dân Biểu là những tòa nhà lớn và nhà giam cũng vậy. Chúng tôi thấy hai người tù mặc quần áo kẻ sọc đứng ngoài cửa trong vòng tường bao. Một cỗ xe chất đầy những chiếc thùng mới nằm bên mé đường ở gần họ và tôi nghĩ đây là những thứ do tù nhân làm ra. Một bức tường đá cao bao quanh nhiều tòa nhà và nối liền phía sau của tòa nhà chính. Bên trong vòng tường có nhiều khu nhà nhỏ hơn giống như những xưởng máy và một tòa nhà giống như lò đúc.
Tám cỗ xe di dân kéo theo ba cỗ xe của chúng tôi xuyên qua nhiều đường phố trong thành phố. Tại Lincoln có những đường phố dành cho loại xe có động cơ. Pet và Pet Nhỏ không sợ những chiếc xe này nhưng lũ ngựa của bà Cooley kinh hoảng phóng lên bờ đường khiến cỗ xe do bà điều khiển suýt bị lật. May là mọi chuyện đều ổn cả. (*)
Hôm nay chúng tôi đã vượt qua 11 lạch suối hoặc vượt qua một lạch suối 11 lần, tôi
(*) Paul không được phép điều khiển xe qua các thị trấn và những nơi nguy hiểm khác. Lúc đó, mẹ của cậu ta điều khiển xe và cậu ta không có trách nhiệm gì. Cậu ta đã bị coi rẻ và tôi cảm thấy nóng mặt do cách đối xử bất công ấy. Suốt phần đường còn lại, cậu ta đã điều khiển xe một cách hoàn hảo. George đi cùng xe với cậu ta, nhưng Paul chịu trách nhiệm về cỗ xe và lũ ngựa.
không biết rõ và chúng tôi qua hồ Salt ở phía tây bắc Lincoln. Chúng tôi hạ trại cách nhà giam cỡ một dặm đường. Nhiệt độ là 74 độ.
4 tháng tám
Lên đường lúc 7g45, đường bằng phẳng rất đẹp và các nông trại đều có hàng rào bằng ván. Chúng tôi theo đường dây thép tới Beatrice, rồi không theo đường sắt mà đi ngang vùng nông thôn.
Chúng tôi đi ngang hồ Salt Nhỏ và hồ Salt Lớn. Ở đây vườn táo cũng thường gặp như nhà cửa.
Manly đổi một mồi lửa lấy một giở đầy táo lớn chín. Mận cũng gần như chín hết. Trước mắt chúng tôi, mùa màng có vẻ tuyệt vời nhưng mọi người đều nói với Manly rằng họ rất nghèo khổ và chưa kể đến chuyện không sản xuất được lúa gạo. Chúng tôi đã đi ngang những đồng lúa mạch tốt nhất mà Manly từng được nhìn thấy.
Đoạn đường dài mệt nhọc đưa tới một điểm hạ trại tốt và khi chúng tôi tìm thấy tại đó một dòng suối cạn không có cỏ mà chỉ có những khóm cối xay mọc trên cát. Hạ trại ở mé ngoài thị trấn.
Chủ nhật, 5 tháng tám
Giống như Chủ Nhật trước. Nhìn thấy năm cỗ xe của di dân. Bị mất chiếc nhiệt lượng kế.
6 tháng tám
Khởi hành 8h30 và tới Bratrice vào buổi trưa. Tất cả bắp đều khô và không có bông. Lúa mì và lúa mạch đã thu hoạc xong và khá nhiều đất đã được cày.
Beatrice không lớn bằng Lincoln, nhưng tôi nghĩ đây là một thị trấn khá đẹp. Chúng tôi thấy tòa nhà hành chính rất đẹp.
Suốt ngày đi đường thật tuyệt. Chúng tôi qua sông Blue ngay phía nam Beatrice, qua vùng Blue Springs lúc 5 giờ chiều và lại qua sông Blue. Không thấy rõ thành phố vì chúng tôi lái xe đi ở phía ngoài từ hướng bắc xuống phía đông ngang qua một nhà máy xay chạy bằng sức nước. Một khúc sông hết sức đẹp chảy bên phía đông thành phố. Tôi không kể tới những vườn táo nữa vì ở đây có quá nhiều vườn táo.
Chúng tôi thấy tám mẫu táo giống cao chừng 12 inch gần vùng Blue Springs. Hôm nay, khá mát mẻ, nhưng hơi nhiều gió một chút.
7 tháng tám
Lên đường lúc 7g30, chúng tôi qua ranh giới vào địa hạt Kansas đúng 10g28p15giây. Dựa theo những gì chúng tôi nhìn và nghe thấy, miền đông nam Nebraska là một vùng quê khá tốt, nhưng toàn thể thì vẫn "chẳng có gì tốt". Tôi không thích Nebraska.
Đi ngang Suối Deer lúc 11 giờ. Khoảng 4 giờ chiều, chúng tôi tới Marysville, khu trang trại lớn của hạt Marshall trên bờ sông Blue. Tại đây có một nhà máy xay chạy bằng thủy lực với khả năng 300 thùng một ngày. Chúng tôi thấy rất nhiều ngôi nhà xinh xắn và hai tòa dinh thự nguy nga trong thị trấn. Bao quanh một tòa dinh thự này là một bức tường gạch cao 5 bộ, dầy và kiên cố. Mỗi bên cổng chính có một con sư tử lớn bằng đá xám trong tư thế thu mình sắp phóng nhảy và mỗi bên cổng phụ có một con chó lớn cũng bằng đá xám đang nằm.
Phía bên kia Marysville, chúng tôi nhìn thấy một mẫu khoai lang với những dày khoai đầy lá xanh sậm bò kín mặt đất.
Hôm nay chúng tôi đã cho xe chạy hai mươi bảy dặm và hạ trại gần một ngôi nhà có hai người đàn ông đang uống rượu. Họ bị mất những gióng bánh xe, muốn đổi chác ngựa v.v.. Manly đã có thời gian tống khứ họ đi không khó khăn lắm.
8 tháng tám
Khởi hành lúc 8g30. Không lâu sau đã qua Suối Little Elm, Suối Big Elm và chạy xuyên những khu rừng du, sồi, tần bì, hồ đào, mao lương, óc chó thật đẹp. Nho, mận, lý mọc hoang đầy rẫy và có đủ mọi thứ tầm xuân và hoa hồng dại. Một cảnh tượng nhìn đã mắt.
Lại qua sông Blue, con sông quyến rũ, với dòng nước luôn mát rượi và trong vắt. Chúng tôi qua sông trên một cây cầu. Cầy này dài khoảng 300 bộ. Irving là một thị trấn nhỏ xíu, nhưng có một Hí Viện mái tròn giống như một nồi hơi.
Rồi chúng tôi lại qua sông Blue. Mỗi lần chúng tôi qua con sông này, nó lại như dễ thương hơn lần trước. Đất đã cải thiện ở đây giá từ 15 đến 25 đô la một mẫu. Có thể mua một khu đất 80 mẫu trong thung lũng Blue đã được chuẩn bị tốt với giá 3000 đô la. Đất thấp đều là đất trồng tốt. Các vách đều có đá.
Chúng tôi hạ trại gần Springs Side, một cái tên thật hay. Mọi phía đều có những dòng suối. Tôi lấy nước từ một dòng suối chảy tràn trên đá cứng, mước mát và sạch.
9 tháng tám
Khởi hành lúc 8g30. Đường đá và lên đồi xuống dốc khủng khiếp. Chúng tôi thấy một trại sữa xây bằng đá với một dòng suối chảy qua, một điều kỳ diệu. Đất tại hạt Pottawatomie giá 4 đô la một mẫu.
Hạ trại bên mé Westmoreland, khu trung tâm của hạt. Vào giờ ăn tối, chúng tôi có khách, mấy người đàn ông, hai phụ nữ và một đám trẻ nhỏ. Họ là người sinh sống tại miền nam đang trên đường di chuyển lên miền bắc và hạ trại ở gần chúng tôi. Có lẽ họ tới Nebraska hoặc Dakota để kiếm việc làm.
10 tháng tám
Khởi hành 8g30 và qua một vùng nông thôn khô kiệt nhất mà chúng tôi nhìn thấy từ khi rời khỏi Dakota. Chạy ngang Louisville, đi thêm ba dặm và hạ trại trên bờ sông Vermille mà một số người còn gọi là Suối Stony.
11 tháng tám
Hôm nay không đơn điệu như thường lệ. Ba cỗ xe di dân vượt qua chúng tôi chạy về hướng nam và một cỗ xe chạy về hướng bắc. Manly và ông Cooley thay phiên hỏi chuyện mọi người. Năm cỗ xe đang đi về phía Missouri hoặc Arkansas, một cỗ xe hướng tới Arkansas, một cỗ xe khác tới vùng Indian Territory.
Chúng tôi kiếm được chỗ hạ trại tốt trên một gò đất cao bên cạnh sông. Tôi cưỡi Pet Nhỏ một lúc, trên chiếc lưng trần của nó, không đi đâu – nó đang được thả cho ăn cỏ. Hai di dân tới nói chuyện với tôi, một thanh niên và mẹ của anh ta ngồi trên cỗ xe của họ. Họ đã quen sống tại Missouri mới đi tới Colorado và lúc này đang trên đường quay trở lại Missouri.
13 tháng tám
Xe chạy qua St.Mary's. Một thị trấn dễ chịu nhưng xa lạ, hoàn toàn mang đặc tính phương nam và Thiên Chúa giáo. Có một ngôi nhà thờ lớn tuyệt đẹp với những khối đá cẩm thạch trắng muốt trên các khuôn cửa ra vào và hai bức tượng Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng bằng cẩm thạch ở trong sân. Các ngôi nhà đều gọn gàng và xinh xắn. Một thị trấn phong quang.
Chúng tôi lái xe lên đỉnh một vách đất nhỏ trông xuống sông Kansas và ở đó, trên trũng đất thấp, chúng tôi thấy những cánh đồng bắp trải dài tới hết tầm nhìn. Manly nói anh nghĩ có đến hàng ngàn mẫu đất trồng ở trước mắt.
Theo cách của chúng tôi, Manly tới một nhà trại đổi một mồi lửa lấy một ít bắp tươi về nấu bữa tối và chúng tôi được mời ở lại dùng bữa trưa và đưa ngựa của chúng tôi vào kho chuồng cho ăn no. Người phụ nữ đã ngưng làm việc để tiếp đón tôi. Người và cảnh ở đây đều hết sức dễ thương. Dĩ nhiên chúng tôi không thể ở lại. Chúng tôi không thể tiếp đãi họ để đáp lễ và chúng tôi phải tới Missouri cho kịp ổn định trước mùa đông.
Buổi trưa chúng tôi qua Rossville, một vùng nhỏ nhưng khi chúng tôi đi ngang một nhà ga thì xe lửa tới. Đầu máy xe lửa khiến Prince hoảng sợ và nó đâm vào hàng rào kẽm gai. Nó lao thẳng qua hàng rào, nhảy tràn tới, đụng đứt một dây phơi quần áo rồi chạy ngược lại hàng rào. Nó ngưng lại khi Manly nói:
- Oa, Prince.
Và, Manly giúp nó gỡ ra khỏi dây kẽm gai. Nó chỉ bị một vết cắt dài khoảng một inch do kẽm gai xóc vào. Thật kỳ lạ khi nó vượt qua tình trạng đó như thế.
Dưa hấu đã chín và ê hề. Manly và ông Cooley mua những trái lớn với giá 5 xu. Chúng tôi ngưng lại dưới bóng cây bên đường và tất cả đều mặc sức ăn dưa hấu.
Chúng tôi đi ngang căn cứ Kingsley ở cách thành phố Kansas, Missouri 80 dặm về phía tây và cách Denver, Colorado 558 dặm về phía đông. Qua hồ Silver. Hồ ở phía nam thị trấn dài 4 dặm, rộng nửa dặm với nhiều cây lớn bao quanh. Có một địa điểm cho mướn thuyền.
Chúng tôi hạ trại trong sân một trường học. Có một hàng rào cây bao quanh và một ống bơm gần ngôi nhà, thêm một cây ngô đồng. Hai gia đình dừng xe lại lấy nước. Họ đã tới Missouri và đang trên đường trở về nhà để giải quyết tài sản tại Nebraska, rồi sẽ quay trở lại Missouri.
Bụi khủng khiếp. Chúng tôi hít bụi suốt ngày và mọi thứ đều đầy bụi phủ.
14 tháng tám
Khởi hành lúc 8g30. Bụi trên đường dày từ 3 tới 5 inch và gió thổi không ngừng ở phía sau khiến chúng tôi luôn bị bụi bao phủ. Dọc đường là những hàng rào cam Osage cao 20 hoặc 30 bộ mọc khít nhau. Cây đều xù xì gai. Trái của chúng giống như trái cam thường nhưng ăn không ngon và cũng không dùng làm gì được hết.
Chúng tôi dừng lại ăn bữa trưa ở cách Topeka chừng một dặm rồi cho xe chạy thẳng vào thành phố. Có rất nhiều người da màu sống xung quanh thành phố. Ở Topeka Bắc, xe chở khách là xe điện còn ở Topeka Nam là xe động cơ.
Đường phố đều trải nhựa nên lái xe thật kỳ thú, êm và nhẹ giống như không phải thực. Mặt đường tựa hồ biến chân ngựa thành cao su. Những vết bít trên mông chúng lõm xuống rồi từ từ đầy lên cho tới khi phẳng phiu trở lại.
Chúng tôi lái xe vòng quanh một khu nhà để nhìn thấy Viện Dân Biểu, nơi làm việc của cơ quan lập pháp. Toad nhà thật đẹp nhưng đất đai xung quanh còn hết sức lôi thôi chưa có gì được làm xong.
Chúng tôi qua sông Kansas trên một cây cầu sắt có thể dài tới 400 hoặc 500 bộ. Con sông giống như sông Platte, không phải về bề rộng mà do cũng có đầy những gióng cản cát.
Tại nam Topeka, một người đàn ông đưa cho chúng tôi mấy tờ báo mới nhất. Ông ta có 240 mẫu đất ở đây nhưng nhà của ông ta ở Colorado. Tại đó ông ta còn có lợi tức về khai thác mỏ. Ông ta nói với Manly rằng cơn nhốn nháo về tiền bạc tại Washington khiến ông ta thiệt mất một triệu đô la.
Chúng tôi hạ trại gần một nhà thờ, giữa bụi bậm.
15 tháng tám
Khởi hành lúc 7g20. Bắt gặp một con chó nhỏ vá vàng-đen đi lạc trên đường. Nó chỉ còn da bọc xương do phải nhịn đói và rất sợ chúng tôi. Chúng tôi dừng lại nhiều nhà để hỏi nhưng không ai biết con cho là của người nào nên chúng tôi mang nó theo. Lũ trẻ rất thích cho nó ăn. Chúng tôi đặt tên cho nó là Fido.
Hôm nay tôi cứu một cây dẻ ngựa và lần đầu tới với những quả phỉ.
Buổi trưa qua Richland. Chúng tôi lái xe ngang nhà thờ. Trên sân nhà thờ có một buổi cắm trại của lớp học Chủ Nhật.
Chúng tôi hạ trại gần một trường học ở khu tây nam hạt Douglas. Có nhiều cỏ tươi cho ngựa và có một vòi bơm tràn trề nước sạch, mát. Đây là một vùng trồng trọt tốt nhất mà chúng tôi chưa từng thấy với đồng cỏ có những khu rừng tự nhiên rải rác và những rừng cây dọc theo các dòng suối.
Lúc chúng tôi đi đường, Manly đã bán và trao đổi mồi lửa và một chủ trại muốn cho mướn một nông trại với điều kiện lấy một phần ba lợi tức mùa vụ. Một người khác kiếm tới chỗ chúng tôi hạ trại bên trường học, đề nghị chúng tôi ở lại và thuê trại của ông ta. Chúng tôi cứ tới Missouri nhưng chúng tôi có thể quay lại đây nếu không thích ở đó. Đất ở đây giá từ 20 tới 40 đô la một mẫu.
16 tháng tám
Lên đường lúc 7g25. Sáng nay, Fido hoàn toàn thân mật vào sáng nay. Nó vẫn có vẻ rầu rĩ, nhưng không còn run rẩy và hình như dễ chịu khi ngồi im trong lòng tôi nhìn quang cảnh đồng quê mà chúng tôi đang đi qua. Mùa lúa ở đây xum xuê và mùa bắp cũng khá tốt. Có một kho lưu trữ than ở nơi những người đào than và than được bán với giá 1 đô la 25 một tấn.
Lúc 5 giờ chiều, chúng tôi qua Ottawa. Sông Maradegene chia thành Ottawa Nam và Ottawa Bắc, nhưng hạt trung tâm là hạt Franklin. Người Ottawa giành hạt trung tâm này của một thị trấn khác vào ban đêm, dùng quân sự giữ một thời gian rồi chiếm luôn. Tòa hành chính là một tòa nhà có vẻ ngoài rất đường bệ.
Bệnh viện Hỏa Xa Santa Fe nằm ở phía bắc của Ottawa Bắc là một tòa nhà lớn xây bằng gạch. Tại Ottawa Nam có một trường học rất đẹp dựng bằng đá. Lúc này có rất nhiều người da màu ở các thị trấn.
Chúng tôi hạ trại bên bờ Suối Rock thuộc vùng ngoại ô Ottawa nam. Hai người đàn ông di tới, dừng lại ngắm Prince một hồi và khi họ bước đi, người lớn tuổi hơn nói với người kia:
- Đó là một con ngựa tốt nhất mà tôi được nhìn thấy từ nhiều năm nay.
Lũ gà mái vẫn đang đẻ trứng.
17 tháng tám
Fido là một con chó canh chừng thật tốt. Nó sủa mọi người lạ đến gần cỗ xe và về đêm sủa mọi người lảng vảng qua lại.
Chúng tôi khởi hành lúc 7g30. Ánh sáng hoang dại của buổi sớm rọi hỗn độn khắp nơi với những màu sắc tẻ nhạt. Chúng tôi băng ngang một cánh đồng lớn trồng tiêu. Tiêu được trồng như mùa vụ ở đây với mức thu hoạch 10 tới 15 giạ mỗi mẫu, giá bán từ 1 đô la 25 tới 1 đô la 50 một giạ. Tiêu được hái hai tuần một lần, chất đống dưới nắng cho tới khi nổ tách ra thì đưa vào quạt và đóng bao.
Chúng tôi tới Lane lúc 4 giờ và Pet được đóng móng. Người đóng móng ngựa từ Kentucky đến đây vào hai năm trước và trông giống hệt những hình ảnh chụp người đàn ông Kentucky. Ông ta có 130 mẫu đất trũng chạy dài tới sông Pottawatomie và có một ngôi nhà bằng đá lớn như mọi ngôi nhà lớn ở De Smet. Ngôi nhà rất đẹp và đã làm xong hoàn hảo. Nhà dựng trong phố Main tại Lane và đất nằm về phía tây bắc ngôi nhà. Ông ta sắp quay về Kentucky và muốn bán tất cả. Ông ta đòi 4300 đô la.
Cho cả cửa hàng, nhà và đất.
Chúng tôi dừng lại tại một nông trại phía nam Lane để xin nước và người phụ nữ nói không đủ nước để chia cho chúng tôi nhưng chúng tôi có thể có "vô khối trên đường đi".
Lại hạ trại bên một trường học và vòi bơm nước. Giặt một ít đồ sau bữa ăn tối. Chúng sẽ khô trong đêm.
18 tháng tám
Sáng nay khởi hành lúc 7 giờ, đi ngang qua Goodrich và tới Park vào buổi trưa. Cả hai nơi này đều là những thị trấn nhỏ và vùng quê bao quanh không tốt như những nơi chúng tôi từng thấy. Mọi người nói ở đây gần như không có mưa nên nhiều người đã đi xa hơn về hướng bắc.
Hạ trại gần Suối Big Sugar, trên một bờ dốc cao bên cạnh đường đi trong rừng.
Chủ nhật 19 tháng tám
Mảnh ván chặn của ông Cooley bị long ra. Ông ta và Manly gắn chặt lại để có thể di chuyển bình thường. Bà Cooley cùng tôi và lũ trẻ đi xuống suối kiếm một ít trai sò. Một phụ nữ và hai đứa trẻ tới ngó chúng tôi. Họ từ Missouri tới và đang hạ trại bên con đường đưa họ đi về hướng Nebraska.
20 tháng tám
Mở đầu khởi hành thật tốt vào lúc 7g30 nhưng đường đi lởm chởm đá dễ sợ. Mùa màng xơ xác. Mọi người đều nói với chúng tôi rằng họ không bao giờ thấy mưa đúng khi họ cần ở đây. Chúng tôi qua Wall Street chỉ có vỏn vẹn một kho hàng nhỏ và không còn gì khác. Buổi trưa chúng tôi tới thành phố Mound có vẻ là một thành phố tương đối. Chúng tôi mua bánh mì, một chiếc bánh nhồi 8 xu và 2 xu cà chua. Cà chua ở đây có giá 30 xu một giạ.
Chúng tôi dừng dưới bóng cây bên đường để ăn bữa trưa. Ba cỗ xe chở di dân vượt qua trong lúc chúng tôi ăn. Hai đi về hướng Missouri và một đi ngược lại. Manly không hỏi han những người đó.
Suốt ngày không kiếm ra nước và nếu kiếm ra một chút thì lại là thứ nước tệ đến mức không uống nổi. Nước trong nhưng có mùi dầu và đắng nên làm hư hết vị trà. Lũ ngựa quá khát.
Hạ trại bên con đường trên đồng cỏ. Mua một ít cỏ khô và chỉ kiếm được một chút nước. Trời có vẻ muốn mưa.
21 tháng tám
Mưa nặng hạt gần hết đêm và vẫn còn tiếp tục vào lúc thức dậy. Manly choàng chiếc áo cao su đi nhóm lửa và đặt nước lên lò rồi cho ngựa ăn. Khi mưa ngớt, tôi bước ra lo bữa ăn sáng. Chúng tôi ngồi ăn ở trên xe để tránh bị ướt.
Đường đi lầy lội nhưng trời đã quang đãng. Chúng tôi đi ngang Prescott, thực sự chỉ là một trạm nhỏ. Gặp một gia đình di dân đã qua hai tháng vừa rồi di chuyển trong miền tây nam Missouri. Họ không thích miền đó một chút nào. Người đàn ông nói:
- Đúng là một nơi để mà đi nếu muốn trốn khỏi thế giới và sống với bánh bột bắp.
Người vợ cũng tán đồng lời nói đó.
Chúng tôi vượt qua một cỗ xe khác dừng ở bên đường và những người này đang hướng về Missouri. Khắp xứ đầy những di dân, đi và đến. Nhiều người có vẻ dồn tụ lại tại Fort Scott. Chúng tôi tới Fort Scott lúc 6 giờ và một người đàn ông ở đó nói hôm qua có 15 xe di dân chạy trên đường.
Fort Scott rợp bóng cây. Nhà cửa sạch sẽ và dễ chịu, các khu nhà buôn bán khá đẹp. Thôn quê bao quanh Fort Scott có vẻ là một vùng quê trù phú. Mùa vụ tốt ở những chỗ có gieo trồng nhưng có khá nhiều đất bỏ trống và nhiều khu đã hoang hóa trở lại. Hình như có nhiều người không chịu xoay xở và không thể nào hiểu rõ lý do. Một người đàn ông bảo vùng quê này vô giá trị và khi Manly nói theo ý anh đất ở đây có vẻ tốt thì ông ta nói "Ôi dào, đất có thể trồng được mọi thứ cây do mình gieo nhưng nếu anh không bán nổi sản phẩm gieo trồng ngang với phí tổn do anh bỏ ra thì có thể coi là đất có giá trị không?"
Than vương vãi đầy trên mặt đất và gom được ở mọi nơi. Tại các mỏ than hoặc các vựa than như người ta gọi, than bán với giá 5 đô la một giạ.
Chúng tôi nhận được ba lá thư tại Fort Scott, hai lá được gửi từ nhà. Đi thêm một đoạn ngắn khỏi phía nam thành phố, chúng tôi hạ trại bên cạnh đường.
22 tháng tám
Khởi hành lúc 7g15 và sáng nay chúng tôi chạy qua một vùng quê khá đẹp. Mùa vụ có vẻ tươi tốt. Lúa mạch được ước thu từ 30 đến 60 giạ một mẫu và lúa mì khoảng từ 10 tới 30 giạ. Tất cả củi muốn có có thể thuê kéo tới và giá than cung cấp tại nhà là 1 đô la 25 một tấn. Giá đất là 10 đô la một mẫu nếu chưa khai khẩn và từ 15 tới 25 đô la đất đã được chuẩn bị sẵn và ở cách Fort Scott chừng 12 dặm.
Đúng 2g24p45giây, chúng tôi vào địa giới Missouri. Và ngay những cánh đồng bắp đầu tiên chúng tôi nhìn thấy đã vượt xa những cánh đồng bắp ở Kansas.
Chúng tôi gặp bảy cỗ xe di dân đang rời khỏi Missouri. Một gia đình có một con chim màu đỏ, một con két bách thanh và rất nhiều hoàng yến nuôi trong lồng treo dưới mui xe. Chúng tôi nói chuyện gẫu một hồi và nghe con két bách thanh hót. Hạ trại bên một ngôi nhà trong rừng.
23 tháng tám
Khởi hành lúc 7g30. Vùng quê sáng này có vẻ khá đẹp. 9g35, chúng tôi tới Pedro, một thị trấn nhỏ nằm bên đường sắt và ngay chỗ đường sắt cắt chéo nhau về phía bên kia là thị trấn Liberal. Một người ở Pedro nói với chúng tôi rằng một trong những vùng nông thôn tốt nhất trên thế giới là khu bao quanh Mansfield.
Gần lúc chiều tàn, chúng tôi đi ngang Lamar, thành phố nhỏ xinh đẹp nhất mà chúng tôi thấy với 2860 cư dân. Tất cả đều sạch sẽ, tươi mát, hết thảy đường phố đều rợp bóng cây.
Chúng tôi hạ trại giữa những cây sồi không xa chỗ hạ trại của những người đến từ Kentucky.
Dọc hai bên đường, những cây sồi thật đẹp đứng sừng sững.
24 tháng tám
7g20 đã có mặt sớm trên đường. Thời tiết lạnh và nhiều mây, giống như sắp mưa. Qua Carvona trong buổi sáng. Đây là một vùng nhỏ. Buổi trưa chúng tôi đi ngang thành phố Golden, cũng là một vùng nhỏ nhưng đẹp hơn. Nông thôn có vẻ tốt nhưng xét qua những thứ cây trồng trong vườn và ngoài đồng thì người ở đây cũng không năng nổ lắm. Vùng đất này có rất nhiều suối, lạch. Màu đất chỗ thì vàng, chỗ thì đỏ. Đường đi thường có đá lổn nhổn.
Qua một thị trấn nhỏ khác, Lockwood, vào lúc 4 giờ chiều và hạ trại bên một dòng suối nhỏ nước trong veo chảy xiết. Đây là thứ nước uống ngon nhất, mát rượi rất thích hợp.
Ngoại trừ trong các thị trấn, chúng tôi chỉ thấy một ngôi trường ở rất xa trong vùng Missouri.
Chiều nay chúng tôi lái xe đi dưới mưa lần đầu tiên từ khi rời Dakota. Mưa như trút nước nhưng chúng tôi hoàn toàn khô ráo trong xe và trước giờ hạ trại, mưa dứt.
25 tháng tám
Nhổ trại lúc 7g35. Trời lại mưa trong đêm và đường đi lầy lội nhưng chỉ qua vài dặm đường lại khô ráo vì ở vùng này không có mưa. Các gò đất cao lởm chởm đá nhưng đất dưới các trũng thấp đều là đất trồng trọt tốt. Chúng tôi nhìn thấy nhiều loại cây như sồi, hồ đào, óc chó và đủ thứ táo gai, táo dại và mận hoang.
Tại miền Nam Greenfield, hai nhân viên điền địa xuất hiện và muốn chúng tôi dừng tại đó.
Một người là C.C Akin đã gặp ông Sherwin. Ông ta nói ông Sherwin mới ở đó và vừa đi khỏi. Ông Sherwin đã đi khắp hạt Weight và trở về hạt Cedar rồi cư trú ở đây. Nhưng sau hết ông Akin nói ông Sherwin chỉ mua những vùng đất tốt ở trong hạt Wright.
Thế là cuối cùng chúng tôi đã tới ngay phần mở đầu của vùng Ozakas và đất đai khá đẹp.
Chúng tôi đi dọc dưới chân nhiều ngọn đồi và nhìn lên các sườn đồi. Cây và đá rất dễ thương. Manly nói chúng tôi gần như có thể sống với việc ngắm nhìn chúng.
Chúng tôi ngưng lại ăn bữa trưa ngay trước khi tới nơi đẹp nhất bên một dòng nước chảy xiết, sông Turnback. Chúng tôi băng qua khúc sông cạn với mặt nước gợn sóng lấp lánh.
Chúng tôi còn băng ngang thêm một dòng nước trong nữa trước khi tới Everton vào lúc 5 giờ.
Tại đây chúng tôi dừng lại để đóng móng ngựa nhưng không có thời gian đóng móng cho chúng suốt ngày hôm nay nên chúng tôi hạ trại bên ngoài thị trấn chờ qua ngày Chủ nhật.
Chủ nhật 26 tháng tám
Một ngày để viết, đọc và ngủ. Chúng tôi cho lũ trẻ lội nước ở khúc suối cạn trong tầm nhìn của chúng tôi. Tôi dành gần trọn thời gian viết cho gia đình về vùng quê từ Fort Scott tới những ngọn đồi và những khu rừng ở đây.
27 tháng tám
Nhổ trại lúc 7g10. Chúng tôi rất thích vùng này. Một người đàn ông cố nói chúng tôi định cư ngay phía bên kia đường từ chỗ của ông ta và bảo chúng tôi có thể mua 40 mẫu đất với giá 700 đô la.
Đất khá tốt.
Chúng tôi băng ngang sông Litte Rock và tới Ash Grove, một thị trấn nhỏ sống động được lưu ý với nghề nung gạch. Hai khu nhà gạch mới đang được dựng trên phố Main.
Hạ trại cách Springfield 12 dặm. Manly đang tháo ngựa thì một người đàn ông cùng vợ và một đứa con gái lái một cỗ xe tới hỏi thăm chỗ nào có thể lấy nước cho ngựa. Họ sống cách Springfield 14 dặm về phía đông trong hạt Henderson và đang đi thăm anh của bà vợ tại Ash Grove.
Sau khi trờ chuyện một hồi, họ bảo họ thích hạ trại gần chỗ chúng tôi nếu chúng tôi có thể bán lại cho họ một ít thịt để nấu nướng. Họ không có ý định hạ trại nên không mang theo thức ăn. Chúng tôi nhường cho họ một ít thịt, cho họ mượn lò bếp thế là mau chóng trở thành quen nhau. Họ là những người tốt, dễ thân. Tên họ là Davis. Sau khi làm xong các việc lặt vặt, họ mang ra một trái dưa hấu lớn.
Chúng tôi gọi gia đình Cooley tới và tất cả chúng tôi cùng ăn hết trái dưa. Ở đây có thể mua một trái dưa hấu lớn gần mười ký chỉ với giá 5 xu.
28 tháng tám
Rời trại lúc 6g28. Đường tốt từ Ash Grove cho tới Springfield, không có đồi dốc và đá. Đây là cao nguyên Ozarks và vùng quê rất giống vùng đồng cỏ dù có nhiều rừng nhỏ hoặc rừng cây và luôn có những lạch suối.
9g25 tới Springfield. Đây là một thành phố phát đạt với những ngôi nhà hoàn hảo và bốn khu buôn bán đứng quây quanh một quảng trường. Các cửa hàng đều dự trữ tốt và bận rộn. Manly đóng ngựa và chúng tôi mang giầy cho Rose. Tôi cũng mang giầy, mặc áo đầm còn Manly đội chiếc mũ mới. Không mất nhiều thời gian và chúng tôi cho xe chạy dọc thành phố. Chúng tôi rời thành phố trước buổi trưa. Thành phố có 21.850 cư dân và là một thành phố đẹp nhất mà chúng tôi được thấy. Đơn giản là nó rất lớn.
Chúng tôi có thể nhìn thẳng suốt hai dặm theo phố Walnut, một thành phố tương đối ít nhộn nhịp với những bóng cây ở hai bên đường, những ngôi nhà đẹp và mặt đường phẳng lì sạch bóng.
Cách Springfield năm dặm về phía đông là Suối Jones. Nước ở đây trong như thủy tinh, chảy ra từ một mạch ngầm trong một hầm đá. Hầm đá rộng khoảng 10 bộ, ở độ cao 4 bộ và không ai biết nó ăn sâu vào phía sau bao nhiêu. Manly và ông Cooley đi sâu vào phía trong một khoảng và vận hết sức liệng đá đi thật xa vào phía trong để thăm dò nhưng những viên đá vẫn rơi xuống nước trong bóng tối.
Những vòi nước tuôn ra từ hầm đá sâu 14 inch chảy tràn qua những khối đá giữa các cây lớn làm thành một lạch suối chảy không ngừng.
Chúng tôi nghe nói cách Suối Spring 7 dặm về phía đông bắc là một dòng suối chảy ra từ một hầm đá lớn đến mức có thể bơi thuyền sâu vào trong đó suốt nửa ngày.
Sau khi vượt qua Pierson's Creek, chúng tôi gặp liên tục nhiều ngày 10 cỗ xe di dân đang rời khỏi Missouri. Chúng tôi hạ trại phía ngoài Henderson, một thị trấn nhỏ nằm bên bờ của một con suối.
29 tháng tám
Rời trại lúc 7g10. Chúng tôi đi dọc con đường chạy xuyên qua rừng và được che mát bởi những cây sồi. Càng đi xa hơn, chúng tôi càng thấy thích vùng này. Một số vùng ở Nebraska và Kansas cũng khá tốt, nhưng Missouri rõ ràng rực rỡ. Manly đã cắt lời tôi để nói:
- Đây là một vùng quê tuyệt đẹp.
Đường đi lên rồi xuống đồi và là một đường mòn bụi bặm, lởm chởm đá, nhưng mỗi khúc quanh của bánh xe đều thay đổi cái nhìn của chúng tôi về cảnh rừng và đồi cây. Ở đây bầu trời như thấp hơn và có màu xanh sáng hơn. Những khoảng xa và các thung lũng cũng xanh màu trời ngay khi nhìn thấy. Đây là một vùng dễ ru ngủ khiến người ta cảm thấy cần tỉnh táo nhưng rất dễ chịu theo một cách nào đó.
Chúng tôi đi qua một nhà ga nhỏ trên đường sắt và đi thêm vài dặm nữa thì tới một trại cây ăn trái rộng 400 mẫu. Trại cây này thuộc quyền sở hữu của một công ty. Có 26.000 cây con đã được đặt thành hàng và toàn thể 400 mẫu đất sẽ được trồng kín không lâu. Những mẫu dâu tây và cây ra trái nhỏ khác đang nặng trĩu. Chúng tôi ngưng lại để nhìn cho no và Manly say mê trò chuyện với một số người của công ty. Họ bảo anh có thể mua 40 mẫu đất với giá 400 đô la, tất cả đã được dọn sạch, ngoại trừ năm mẫu rừng và còn có thêm một dòng suối không ngưng chảy, một ngôi nhà gỗ tiện nghi và một kho chuồng.
Gần cuối buổi chiều chúng tôi qua Seymour. Ở đây các phố chính của thị trấn được dựng quanh các quảng trường và trên quảng trường là những cây cọc buộc ngựa. Trong văn phòng một xí nghiệp, một cô gái đang ngồi đánh máy. Một người đàn ông cho chúng tôi hay ông ta đã sống nhiều năm tại Dakota, gần Sioux Falls. Lúc này ông ta còn một người anh em đang sống tại đó. Ông ấy canh tác gần Seymour. Ông ta bảo khí hậu ở đây là nhất, chúng tôi sẽ không bao giờ muốn rời khỏi những ngọn đồi này, nhưng cũng cần có một thời gian để làm quen với những khối đá.
Chúng tôi qua nhiều dòng suối lớn rồi qua nhiều lạch suối nhỏ. Các hàng rào bằng những khúc cây chẻ chạy ngoằn ngoèo và đầy những cây ăn trái mọc hoang trong các góc. Có hàng đống những thứ như cây mâm xôi, đào và mận giống, anh đào và những loại trái cây đang chín trên cành mà tôi không biết là cây gì, một sự tụ hội phong phú những trái cây dại. Tất cả dường như bỏ mặc cho bất kỳ ai muốn hái cũng được.
Hôm nay chúng tôi không thể tới Mansfield. Hạ trại bên một dòng suối chỉ dài chừng 10 dặm rưỡi. Không có đủ thời gian cho Rose và tôi chất đầy một góc xô những trái mâm xôi mọng nước.
Chúng mọc thành bụi lớn trong rừng và đang chín nẫu, rụng xuống một cách phí phạm.
Thêm sáu cỗ xe di dân hạ trại quanh dòng suối trước khi trời tối.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip