Phần 3

30 tháng tám, 1894

Đóng ngựa vào xe và ra đi lúc 7g10. Đường gồ ghề và toàn đá khi xuyên qua các hẻm núi nhưng không xấu lắm và suốt hai bên đường luôn có cây.

Chúng tôi qua các trại cây ăn trái Memphis, rộng 1500 mẫu, chiếm một phần hai bên đường đi.

Đó là một vườn cây non với những hàng cây nhỏ, táo và đào, trồng uốn vòng trên những ngọn đồi đã được cày đất.

Một vài cỗ xe xuất hiện ở phía sau chúng tôi và chúng tôi nối sau những người khác, tất cả ngựa đều bước chậm, kìm giữ khi xuống đồi và cố leo khi lên đồi. Lúc 11g30, chúng tôi tới Mansfield trong một đoàn dài 10 cỗ xe di dân.

Mansfield là một thị trấn tốt với khoảng 300 tới 400 cư dân gom trong một khu trung tâm và phát triển nhanh chóng. Đường sắt chạy bên một quảng trường và có hai tuyến xe chở khách từ nhà ga, một từ phía nam chạy tới vùng trung tâm của hạt Douglas và một từ phía bắc chạy tới vùng trung tâm của hạt Wright. Ở đây mọi thứ đều có sẵn sàng theo ý muốn dù rằng chúng tôi phải theo đuổi tín ngưỡng của mình không có một nhà thờ theo Giáo Đoàn. Có một nhà thờ của Giám Lý và một nhà thờ theo Giáo Đoàn Trưởng Lão. Có một trường học rất tốt. Quanh quảng trường có hai cửa hàng bách hóa, hai cửa hàng dược phẩm, ngăn hàng, chuồng nuôi ngựa thuê và cửa hàng đóng móng ngựa ở gần đó. Có rất nhiều ngôi nhà lớn đẹp trong những sân rộng trồng cây. Đường đi về phía nam cũng tốt như đường đi về phía bắc, hai hoặc ba ngôi nhà lớn và ở đó có một nhà máy xay bột bên một hồ chứa nước.

Hạ trại trong rừng ở phía tây của thị trấn và chiều nay, Manly tới thăm một địa điểm muốn bán nhưng thấy không thích hợp.

III.

Những dòng ghi chép của mẹ tôi dừng tại đây. Năm mươi năm sau tôi thường tình cờ nói về lần hạ trại của chúng tôi trong những khu rừng đã biến mất và mẹ tôi đã cắt ngang lời tôi một cách giận dữ:

- Mẹ không muốn nghĩ tới việc đó nữa.

Tôi không nhớ cha tôi đã mất bao nhiêu ngày lùng kiếm một khoảnh đất có thể mua nổi bằng tờ giấy 100 đô la bí mật. Mỗi buổi sáng cha tôi cưỡi ngựa đi với một nhân viên điền địa, lên xuống những ngọn đồi và quay về vào buổi tối không tìm được gì.

Paul, George và tôi đều rất vui. Sau tình trạng nhạt nhẽo kéo dài của những ngày buồn nản mà chúng tôi khó nhớ lại ở De Smet, lúc này mỗi ngày đều là ngày Chủ Nhật không cần có quần áo chải chuốt và cư xử đúng các khuôn phép. Lần hạ trại trở thành cắm trại ngày Chủ nhật với mấy cỗ xe của gia đình Cooley ở một bên, xe của chúng tôi ở một bên, ở giữa là bàn, ghế và chiếc võng giăng dưới bóng cây trong khu rừng nhỏ. Chiếc lò nấu được đặt ở một khoảng xa phía bên kia những cây tần bì mát rượi. Xa hơn nữa, những con ngựa được buộc dưới các cội cây và sau những cỗ xe là nơi quây lại làm chỗ tắm rửa của chúng tôi trong ngày Chủ nhật.

Chúng tôi phải quanh quẩn trong tầm nhìn hoặc ít nhất là nghe rõ tiếng gọi của các bà mẹ, nhưng ngay sau khi các công việc buổi sáng được làm xong, chúng tôi hoàn toàn tự do chơi ở trong rừng. Suốt ngày chúng tôi trèo cây, hái trái, ăn những quả óc chó, quả phỉ xanh, kẹp vỡ chúng giữa hai hòn đá. Chúng tôi ngắm những con thỏ mà chúng tôi không được phép đuổi theo ra xa, ngắm những con sóc, những con chim, những con bọ cánh cứng hoặc những ổ kiến. Không khí tràn ngập mùi vị nồng đậm của gỗ mục, hạt khô, những thảm lá sồi rụng từ năm trước ẩm ướt. Những cọng bồ công anh đắng nghét trên đầu lưỡi và những búp lá non rũ xuống quanh tai tôi.

Những phiến đá phẳng sắc cạnh xếp dầy dưới bàn chân. Chúng tôi chạm ngón chân vào chúng và ngón chân cái của chúng tôi phải bọc vải kín. Các vết bầm trên những gót chân chai sạn của chúng tôi không cản nổi chúng tôi chạy nhảy. Chúng tôi thấy những đám nấm và rêu mọc chen chúc như những khu rừng bé xíu, những cây leo màu xám xanh phủ trên các tảng đá, những lớp da châu chấu hoàn hảo, trống rỗng, mỏng giòn bám vào những cây lớn bằng các móng chân li ti.

Chúng tôi lượm được nhiều viên đá kỳ lạ. Khi tôi cho cha tôi một viên đá dẹt hình tam giác có gợn sóng phía trên và một mũi sắc nhọn, cha tôi bảo đó là một đầu mũi tên của người da đỏ. Chúng tôi sưu tập hàng tá những thứ này và Paul kiếm được một viên đá hình đầu rìu.

Một bữa tôi phải ở lại lều trại với bà Cooley. Tôi được nhắc nghe lời theo bà và không được rời khỏi tầm mắt của bà. Cha tôi đã tìm ra đất. Mẹ tôi đi cùng với ông tới coi và cả hai không muốn có gì lo ngại về tôi trong lúc đi vắng. Không bao giờ có một buổi sáng dài như thế. Tôi rất bối rối và bà Cooley cũng thế. Cuối cùng, khi tôi nhìn thấy những con ngựa và cha mẹ tôi đang trở về, tôi ngỡ như đang nổ tung ra. Tôi khó giữ nổi im lặng chờ được nghe nhắc tới.

Cha tôi tươi rói và mẹ tôi mặt mày rạng rỡ. Chưa khi nào mẹ tôi nói nhanh như thế. Mẹ tôi nói với bà Cooley rằng đúng là nơi cha mẹ tôi muốn có, và còn vượt nhiều hơn cả sự mong mỏi nữa. Một dòng suối chảy quanh năm với thứ nước tốt nhất để uống không biết chán, một căn nhà gỗ gọn gàng giữa những khu rừng, trên một ngọn đồi chỉ cách thị trấn một dặm rưỡi nên Rose có thể đi bộ tới trường và còn phải nghĩ thêm đến bốn trăm cây táo non đã được bao gốc để sẵn sàng đặt xuống khi đất được dọn xong. Cha mẹ đã mua khu đất và ngay khi ăn bữa trưa xong sẽ tới ngân hàng ký kết giấy tờ. Chúng tôi sẽ rời chỗ trong buổi chiều hôm đó.

Khi bị kích động, cha tôi luôn trấn tĩnh, im lặng đi lại và nói năng từ tốn. Nhiều lúc mrj tôi như vụt bay tới cha tôi, nhưng hôm nay mẹ tôi rất nhẹ nhàng, ấm áp. Mẹ để cho cha ngồi ăn trong lều trại, dặn tôi dọn dẹp bàn, rửa chén đĩa khi cha ăn xong rồi mẹ đi vào chỗ quây tắm để chuẩn bị cho cuộc gặp mặt tại ngân hàng.

Tôi ngồi chênh vênh trên một gốc cây, ngắm mẹ chải và bện tóc. Mẹ có mái tóc thật đẹp, màu nâu hung, dày và rất mịn. Không bện, tóc mẹ xõa tới gót chân, dài tới mức khi đã bện chắc lại, mẹ có thể ngồi trên các bím tóc của mình. Bình thường, tóc mẹ được bện thành bím lớn ở sau gáy nhưng khi kéo áo lên, mẹ phải lôi tóc ngược lên và đau đầu khủng khiếp.

Lúc này mẹ kết tóc thành bím rồi cuốn vòng thành một búi lớn sau gáy, cài chặt lại bằng chiếc kẹp mai rùa. Mẹ gỡ những lọn tóc phía trước cho hơi xõa xuống trán, nhìn vào chiếc gương nhỏ gắn trên một thân cây và thình lình, tôi nghe thấy mẹ đang huýt gió. Tôi nhớ rằng sau này tôi không còn nghe thấy mẹ huýt gió nữa. Mẹ đã nói một cách vui vẻ:

- Con gái huýt gió và gà mái gáy luôn đi đến những kết cục xấu.

Bây giờ mẹ vẫn đang huýt gió. Mẹ huýt gió theo một điệu chim hót nhẹ nhàng, trong trẻo, dịu ngọt, líu lo rồi luyến láy và buông rơi từng nốt như tiếng chim chiền chiện lảnh lót vọng xuống từ lưng trời. Tôi rất vui nếu được nghe mẹ huýt gió trở lại.

Vừa huýt gió, mẹ vừa đóng nút giầy. Mẹ lấy chiếc áo đầm vải ra rồi gấp lại gọn ghẽ. Trong bộ đồ lót mu-xơ-lin trắng và chiếc áo nịt có viền đăng ten, mẹ lôi chiếc áo đầm đẹp nhất, chiếc áo cưới màu đen vẫn nằm im trong thùng từ lúc mở đầu chuyến đi rời khỏi Dakota. Mẹ vẫn huýt gió: Em yêu quý, đừng vì anh rơi lệ. Mẹ vuốt thẳng lại những nếp váy. Tôi tiếc là chiếc váy che kín hết đôi giầy mới của mẹ. Mẹ xỏ tay vào những ống tay áo vừa khít và cẩn thận cài hàng nút ở phía trước lên tới sát cằm. Chiếc kẹp vàng được cài giữ dải nơ màu xanh trứng chim trước cổ áo thẳng đứng. Rồi, tới điều cuối cùng và cũng là đỉnh điểm: mẹ gắn lên chiếc nón màu đen dải nơ màu xanh và chiếc thoa mang hình bông lúa dựng thẳng đứng ở một bên. Những bím tóc ở sau gáy đẩy chiếc mũ hơi nghiêng về trước một chút và diềm mũ trước trán vừa chạm vào các lọn tóc.

Mẹ có vẻ dễ thương và thật đẹp. Qua ánh mắt của cha nhìn mẹ khi mẹ bước ra thì chắc cha cũng nghĩ thế.

Mẹ nhắc cha chuẩn bị nhanh để không trễ giờ, nhưng giọng mẹ như đang hát, không bận tâm thứ gì. Cha bước vào chỗ quây tắm để thay áo, chải tóc, râu và đội chiếc nón mới. Mẹ nói với tôi là lo dọn sạch bàn ngay rồi nhớ lo rửa chén đĩa khi cha mẹ đi vắng, và như thường lệ, mẹ nhắc phải cẩn thận để không làm vỡ chiếc nào. Tôi chưa bao giờ làm vỡ một chiếc đĩa.

Tôi vẫn nhớ rõ ràng chuyện bữa đó vì sự việc xảy ra. Tôi đã mang chén đĩa đi và lau sạch bàn. Mẹ tôi đặt lên bàn chiếc khăn tay, chiếc bóp vải nhỏ màu đỏ với các cạnh bằng xà cừ. Mẹ đang mang bao tay mỏng nhẹ. Cẩn thận, mẹ đem chiếc bàn viết ra đặt lên mặt bàn. Mẹ lật nghiêng phần đậy phía trên lên, lôi chiếc khay gỗ hẹp dùng đựng bút và lọ mực.

Tờ giấy một trăm đã biến mất.

Một cú sốc giống như bước hụt chân từ một đỉnh cao vào bóng tối. Nhưng không thể nào không phải chuyện thực. Chỗ cất tiền trong chiếc bàn trống lốc. Mọi thứ đảo lộn hết. Trong sự choáng váng căng thẳng, cha mẹ tôi như không còn là họ nữa và tôi cũng cảm thấy không còn là tôi.

Cha mẹ hỏi tôi có kể với ai không? Không. Tôi có khi nào nói một điều gì với ai về món tiền đó không? Không. Tôi có thấy người lạ nào tới gần xe trong lúc cha mẹ đi vắng không? Không.

Hoặc có ai vào lều không? Không.

Mẹ nói khó mà tin được, vì gia đình Cooley không làm chuyện này. Cha tôi đồng ý, gia đình đó không làm. Vậy thì nó phải ở đó. Mẹ tôi còn nhìn thấy tờ giấy bạc khi tới Kansas.

Cha mẹ lôi tất cả giấy tờ trong hộc bàn ra để tìm, mở từng bao thư để nhìn vào phía trong. Cha mẹ lật ngược chiếc bàn lên và lắc mạnh để lay động những chiếc nắp ở phía trong. Mẹ tôi nói không thể nào hiểu nổi. Đột nhiên, mẹ nảy ra một ý nghĩ và hy vọng, hỏi tôi có đem tờ giấy bạc ra chơi không?

KHÔNG! Tôi như bị phỏng lửa. Mẹ hỏi nữa coi tôi có chắc không? Tôi không một lần nào mở chiếc bàn để chơi chứ? Họng tôi như bị sưng nghẹt, tôi lắc đầu, không. Mẹ nói một cách tự nhiên:

- Đừng khóc.

Tôi không khóc, không khi nào tôi khóc, nhưng tôi tức giận, vì bị lăng mạ và khổ sở. Tôi không còn là đứa bé để đùa chơi với đồng tiền hoặc nghịch ngợm mở chiếc bàn ra. Tôi sắp tám tuổi rồi. Tôi cảm thấy nhỏ nhoi, đơn độc và kinh hoàng. Cha mẹ tôi ngồi đó, bất động. Trong sự lặng lẽ kéo dài, tôi từ từ chìm sâu vào nỗi khiếp hãi, một nỗi khiếp hãi hoàn toàn vô cớ, một nỗi khiếp hãi trong ác mộng.

Cuối cùng, mẹ tôi nói:

- Thôi.

Ý mẹ muốn nói vô ích khi than khóc cho số sữa bị chảy tràn. Điều gì không thể thay đổi được thì phải chịu đựng. Cha tôi nói mẹ không nên trách cứ mình vì không phải lỗi của mẹ. Một cách thận trọng, mẹ tháo những chiếc găng tay mỏng. Mẹ lộn phải trở lại từng ngón tay, vuốt cho phẳng. Mẹ nói tốt hơn là cha hãy tới giải thích với người của ngân hàng.

Bằng cách nào thì chuyện tệ hại nhất cũng qua, khi cha cố trì hoãn với câu nhắc nhở mọi chuyện còn có thể thay đổi và mẹ phát cáu nói lớn rằng cha đã quá biết là "chẳng có gì thay đổi khi chính mình không thay đổi nổi mình". Rồi mẹ nhắc tôi ra ngoài chơi và tôi nhớ tới những chiếc đĩa còn chưa rửa. Mẹ đã quên khuấy chuyện đó.

Nhiều ngày, tôi không nhớ rõ là bao nhiêu ngày, mọi việc có vẻ giống như thường lệ và cũng chẳng có vẻ gì giống như thường lệ. Tôi không nói một lời nào về chuyện xáo trộn, tôi không thích nhắc tới. Mẹ tôi nói với bà Cooley là tốt nhất cần có thời gian ổn định lại tinh thần. Cha tôi vào thị trấn kiếm việc làm. Mẹ tôi không quen ai ở đấy. Ông Cooley đã bán một cặp ngựa và một cỗ xe còn Paul với George sẽ tới giúp việc cho một khách sạn. Tôi biết chúng tôi có thể bán những con ngựa nhưng sau đó sẽ ra sao? Những cỗ xe vẫn chạy ngược xuôi mỗi ngày và đôi khi hạ trại ở gần bên. Tôi thường cố nghĩ xem chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng tôi không còn gì để ăn. Tôi không thể hình dung nổi thế nào.

Lúc này trái mâm xôi chỉ còn rất ít và nhỏ hơn. Tôi đi sâu hơn vào những lối đi đầy cây mọc chằng chịt để lùng kiếm nên khi mẹ gọi và gọi thêm nữa, tôi vẫn chưa thể ra khỏi những bụi cây đầy gai nhọn mà không bị rách áo để chạy trên các tảng đá sắc trở về lều trại. Cha tôi đang đóng ngựa và mẹ đang bỏ những món đồ cuối cùng vào trong thùng xe. Cha mẹ tôi đã mua trại. Mẹ đã tìm thấy tờ giấy bạc một trăm đô la. Trong ngăn dùng làm bàn viết. Sự dằn xóc đã đẩy nó vào trong một kẽ ván và tôi không còn thắc mắc nữa, bước lên xe. Ngay khi thấy tờ giấy bạc, mẹ tôi đi kiếm cha tôi và lo đi ký các thứ giấy tờ liền. Và bây giờ tôi ở đó, chưa kịp rửa chân đã nghe lời mẹ leo luôn lên ghế ngồi trên xe và không nói thêm một lời nào về chuyện đó.

Thị trấn mở đầu với hai căn nhà nhỏ ở hai bên đường trong một khu rừng. Rồi có hai ngôi nhà lớn giữa những khoảng sân rộng trồng cây và một căn nhà nhỏ thấp dễ thương ngay bên lề lối đi phủ sỏi. Bên kia đường, đối diện với căn nhà nhỏ là cầu thang lên khách sạn mà Paul và George sống ở đó. Trước khách sạn là Quảng trường với nhiều cây lớn và những sợi dây của các cọc buộc ngựa đóng xung quanh ngoại trừ phía xa bên kia dẫn tới đường sắt. Chúng tôi cho xe chạy dọc con phố chính, phố Main, nằm một bên chúng tôi và nằm cả ở phía trước và phía sau chúng tôi. Con phố bọc vòng ba phía Quảng trường. Có ba dãy cửa hàng phía sau ba con đường lát ván cao. Đó là thị trấn The Gem của vùng Ozarks.

Chúng tôi chạy ngang cửa hàng bách hóa lớn Reynolds có hai dãy tủ hàng rộng đầy ắp các món đồ với một khung cửa ra vào ở giữa. Nhiều người đàn ông đang thơ thẩn, tản rộng, chuyện trò và khạc nhổ dọc theo những lối đi lát ván cao. Có nhiều cửa hàng nhỏ, Ngân Hàng Mansfield, cửa hàng Boston Racket với hàng chữ "Kịch viện Opera" sơn trên các cửa sổ tầng trên, Nhà nuôi giữ ngựa Hoover's và những con ngựa trong khu chăn nuôi, rồi tới một ngôi nhà lớn nằm trong một hàng rào dây kẽm. Qua khỏi cửa hàng đóng móng ngựa, con đường đầy bụi chạy xuống đồi băng qua một cây cầu nhỏ. Sườn đồi dài là vườn cây và bãi chăn nuôi nhưng lại bắt đầu có những căn nhà khi con đường vươn lên ở phía bên kia cầu. Tính chung phải có tới một tá nhà trong những khuôn sân có hàng rào và cổng, phía sau những lối đi qua cỏ dại ở cả hai bên đường.

Hết thảy các ngôi nhà đều có cổng trước tô điểm bằng nan gỗ và nhiều màu sơn khác nhau. Phía sau cổng là những vườn rau với các hàng dây phơi, các nhà kho, chuồng gà và một số nhà có cả chuồng heo. Hai ngôi nhà có gác và một trong hai ngôi nhà này có cửa sổ lồi và mái vòm. Sau những căn nhà bên phải chúng tôi là nền đường sắt được be bờ và sau những căn nhà bên trái là hai ngôi nhà khác rồi tới một đồi cỏ cao in lên nền trời.

Trên đỉnh con đường dốc là ngôi trường mà tôi sẽ tới học. Trường đứng vuông vức, cao hai tầng với các ô cửa sổ xung quanh và một tháp chuông dựng đứng phía trên những khuôn cửa trống. Bên kia trường là rừng cây. Trường nằm trên bìa rừng nhưng không còn một gốc cây nào trên nền đất trần nện cứng ở xung quanh. Có một giếng nước ở gần trường và sau trường là một nhà lán bằng cây với hai khu nhà vệ sinh ghi rõ: Con Trai và Con Gái.

Tôi cố ngắm thật lâu nhưng con đường đã xoay khỏi trường học để hướng theo đường sắt.

Những vết bánh xe chạy cặp theo đường sắt với những hàng cột đỡ một sợi dây thép buộc trên các núm thủy tinh. Có hai ngôi nhà ở trong rừng rồi con đường chạy vào trong rừng bỏ đường sắt lại phía sau lưng chúng tôi.

Lúc này không còn gì khác ngoài rừng cây ở hai bên đường và hai vệt bánh xe chạy thẳng tren một đoạn hơi dốc xuống. Giữa hai vệt bánh xe là những gốc cây và các tảng đá lớn. Cỗ xe xóc nảy chao đảo trên những tảng đá chìm trong bụi rậm và tiếng vó ngựa bịt sắt vang lên.

Từ câu chuyện hiện qua trong trí, tôi bỗng nhận ra là may mắn biết chừng nào khi đồng xu cuối cùng vừa đủ trả cho món thịt ướp muối và bột mì. Bây giờ chúng tôi có thể ổn với viêc bán củi và sẽ khá hơn khi những cây táo ra trái. Lúc đó, việc thanh toán món nợ thế chấp sẽ dễ dàng. Ba trăm đô la với mười hai phần trăm phải trả mỗi ba tháng. (Tôi thắc mắc tại sao phải bắt buộc trả như thế?)

Mẹ tôi có thể nhẩm tính con toán trong đầu. Đám táo hẳn đủ giải quyết vấn đề nếu chúng sống nổi.

Lúc đó hoặc sau này, tôi được biết từ câu chuyện đó là có một người đàn ông hết sức ngớ ngẩn đã mua hết thảy những cây táo nhỏ kia từ một người buôn bán quỷ quái mặc dù ông ta chưa dọn xong đất. Khi những cây táo được đưa tới ào ạt, ông ta không có đất để trồng xuống, nhưng ông ta đã ký kết các thứ giấy tờ nên bắt buộc phải cầm thế đất để có tiền trang trải. Sau đó, ông ta bỏ cuộc. Chỉ trong hai ngày, ông ta rời bỏ hết từ đất đai, căn lều tới những cây táo nhỏ bao rễ trong một rãnh mương và món nợ thế chấp. Thế là cha mẹ tôi tiếp nhận tất cả từ người chủ ngân hàng.

Con đường lại vươn lên tựa hồ chạy thẳng đứng lên đỉnh một dốc đồi dài thăm thẳm, nhưng cha tôi cho lũ ngựa xoay theo một con đường mờ nhạt đi vào thung lũng. Lúc này bên cạnh chúng tôi là một dòng suối trong như gương chảy tràn trên những mặt đá phẳng và qua các hồ chứa đầy bóng mát.

Những con ngựa dừng lại uống nước và mẹ lên tiếng:

- Chúng ta ở đây!

Mẹ hỏi tôi nghĩ thế nào nhưng tôi không nhìn thấy gì để suy nghĩ. Mẹ nhắc lạch nước này khởi từ một dòng suối thuộc quyền sở hữu của chúng tôi. Bên kia lạch nước, rừng cây mọc trên một ngọn đồi thấp trong ánh nắng vàng của mặt trời đang lặn. Những vết bánh xe chạy xuống khúc quanh của lạch nước và mất hút vào lùm cây.

Cha tôi cho xe chạy lên đồi xuyên qua rừng cây. Lũ ngựa leo lên một cách khó khăn trên những tảng đá lớn chuội dưới chân chúng. Tại đỉnh đồi, chúng tôi tới một khoảnh đất nhỏ đã được dọn quang ở mé một hẻm núi sâu và tại đó có một căn nhà gỗ nhỏ.

Như một con sóc, tôi leo xuống khỏi bánh xe và chạy quanh các góc của căn nhà. Một khuôn cửa gỗ dày thô nhám đang mở. Tôi bước vào nhà trong gian phòng nhỏ hẹp, nền đất đầy xác lá khô và phía bên kia là một gian phòng lớn hơn có nền bằng sàn ván. Phòng này trơ trụi và sạch sẽ, nồng mùi gỗ và lá khô bị gió thổi dồn vào các góc. Có một lò sưởi lớn và quả đúng như người phụ nữ kia đã nói, không có cửa sổ. Có một lỗ hổng vuông vức trên bức vách ghép bằng những khúc cây tróc vỏ, một lỗ trống nhưng có một cánh cửa gỗ xù xù mở ra bằng cách treo lên giống như cửa ra vào của căn nhà.

Không còn gì khác nữa ở đây. Nhưng tôi đã không nhận ra rằng trong gian phòng hẹp, những khúc gỗ vách quanh khung cửa đều được dán dấy báo. Những chữ in lớn màu đen giữ tôi dừng lại. Tôi đứng nhìn và đọc: "Những Viên Thuốc Gan Nhỏ của Carter" và một vấn đề mang tính triết học mà tôi cố gắng hết sức nhưng vẫn không trả lời nổi dù tôi còn nhớ mãi: Cuộc sống là gì khi không có con người?

Vấn đề đó quá lớn đối với tôi nên tôi đành phải đẩy lui thời gian cho cuộc phấn đấu với nó.

Nhìn bên ngoài, một số mảng vỏ cây tróc khỏi vách nhà khiến giữa những khúc cây lộ ra những miếng đất sét màu vàng khô cứng và nứt thành nhiều mảnh. Không xa trước căn nhà con đường mòn từ cửa sổ theo một độ dốc lớn xuống hẻm núi. Như thường lệ, mẹ luôn gọi tôi để canh chừng.

Hẻm núi đầy bóng cây và tối hơn trong khoảng đáy hẹp tận cùng bằng một khối đá lớn ngang một ngôi nhà lớn. Phía sau khối đá vang lên tiếng nước chảy róc rách và nước chảy dưới gầm khối đá vào một vũng nhỏ hình tròn giống như một chiếc thùng tắm nhưng sâu gấp rưỡi. Trên vũng nước lủng lẳng những cây dương xỉ và từ một nhánh cây đung đưa một trái bầu lủng lỗ do nước xối.

Tôi uống một bầu đầy thứ nước mát lạnh tuyệt vời trong lúc ngước nhìn lên sườn núi phía trên dòng suối. Tất cả là rừng đen đặc chỉ có những ngọn cây cao nhất vươn lên trong ánh nắng đột ngột vàng hoe. Phía dưới hẻm núi tối tăm, tiếng nước như đang cười thầm một cách bí hiểm. Một thứ gì đó lén lút di chuyển trong những đám lá dưới các bụi cây. Tôi trèo ngược lên lối mòn trở về hết sức nhanh.

Lũ ngựa đã được tháo khỏi xe và buộc vào cọc, đám gà mái trong chiếc chuồng đặt trên nền đất. Cha mẹ đang lấy các thứ ra khỏi thùng xe từ cửa sau thùng xe mở rộng. Chúng tôi ăn bữa tối ở ngoài trời và ngủ thêm một đêm trên thùng xe. Mẹ tôi thấy cần lau dọn sạch tất cả căn nhà trước khi dọn vào. Chúng tôi vẫn có thể nhìn rõ dưới ánh sáng chiều chập choạng nhưng bên trong thùng xe không nhận ra nổi thứ gì. Cha tôi lúc kiếm cây đèn.

Ông nhấn lò xo, nhấc chiếc bóng thủy tinh lên, sờ soạng mồi lửa vào bấc đèn rồi cẩn thận hạ bóng đèn xuống đúng chỗ của nó và ánh đèn thình lình sáng bừng lên. Ông giơ ngọn đèn lên kiếm chỗ treo và dưới ánh đèn hiện ra một người đàn ông lạ đang đứng sừng sững.

Người lạ đi chân đất, quần vá chằng đụp và rách rưới. Ông ta cao lớn nhưng gầy trơ xương, hai con mắt lóe sáng trong đám râu tóc bờm xờm. Ông ta bước lại gần hơn và bàn tay mẹ tôi nhanh như một con rắn thọc vào trong túi, nơi cất cây súng lục. Mẹ tôi chờ đợi trong sự sẵn sàng. Cha tôi chậm rãi lên tiếng:

- Xin chào.

Người đàn ông nói ông ta muốn có việc làm, ông ta đang tìm kiếm cơ hội làm việc để có cái ăn. Cha tôi trả lời chúng tôi chỉ vừa chuyển đến, như ông ta có thể thấy, chúng tôi không có công việc gì dành cho ai cả. Thật là tệ, nhưng có lẽ tốt hơn là nên kiếm dịp may trong thị trấn, ở ngay bên kia ngọn đồi kế cận cách không hơn một dặm về phía tây.

Người đàn ông lên tiếng:

- Ông đã kiếm được một chỗ tốt ở đây.

Ông ta gầy hốc hác nhưng to dềnh dàng. Sau một phút, cha tôi nói ông mong một ngày nào đó chỗ này sẽ là một nơi tốt lành. Rồi tất cả đứng im lặng tựa hồ chúng tôi không nhấc bước nổi.

Người đàn ông bắt đầu nói chậm rãi, trầm tĩnh gần như không biết có ai ở xung quanh. Ông ta nói họ cần phải có thứ gì để ăn. Đó là vợ và năm đứa con của ông đang ở trên cỗ xe bên kia lạch suối.

Họ đã di chuyển suốt mùa hè để kiếm việc làm. Họ không thể đi thêm nổi nữa. Đã là ngày thứ ba họ không có gì để ăn. Ông ta phải kiếm ra việc làm nên cố leo theo vết bánh xe - Họ không thể tiếp tục đi khi không có gì ăn.

Ông ta ngưng lại, không còn gì để nói thêm nữa. Không có gì để làm. Lúc này tôi biết điều gì xảy ra khi không có thứ gì để ăn. Điều xảy ra là không còn gì nữa.

Thình lình cha tôi nói và di chuyển một cách mau lẹ, không từ tốn chút nào. Ông bảo ông cần một người phụ giúp để làm củi, sáng mai người đàn ông hãy tới giúp ông, tạm thời ông chia đỡ một chút – ông bước vào thùng xe. Liếc nhìn nhanh tảng thịt heo ướp muối, mẹ tôi kêu:

- Manly, không! Mình phải dành cho Rose.

Cha tôi không lưu ý tới. Con dao trong tay ông cắt ngang tảng thịt trắng toát. Ông mở một góc bao và trút bột mì vào chiếc xô thiếc nhỏ. Ông hỏi người đàn ông có chiếc rìu tốt không? Ông nói họ sẽ bắt đầu sớm, lúc mặt trời mọc, để công việc khá hơn và nếu củi bán được giá, ông sẽ đối xử hợp lý với người đàn ông. Nhớ mang rìu tới nếu có rìu. Cũng nhớ mang chiếc xô thiếc trở lại. Thế là xong, không cần bàn thêm nữa, hẹn gặp vào sáng mai.

Người đàn ông biến vào trong bóng tối. Ông ta không nói một lời nào. Sau đó, mẹ tôi nói không ngừng rằng không tin còn khi nào thấy lại gã ma cà bông kia và cả chiếc xô thiếc nữa. Rồi mẹ tôi im lặng. Cha tôi nhóm lửa dưới chiếc lò trại và mẹ nấu bữa tối. Chúng tôi ăn thịt ướp muối với bánh bột bắp và ngủ trong thùng xe.

Người đàn ông tới đánh thức chúng tôi trước lúc bình minh, mang theo chiếc xô thiếc và cây rìu. Ông ta là một người thợ rừng giỏi hơn hẳn cha tôi. Trọn ngày hôm đó, trong lúc mẹ tôi và tôi thu dọn nhà và lôi các món đồ từ thùng xe vào sắp xếp trên sàn nhà đã lau khô, họ làm việc trong rừng. Cả hai làm cho tới khi không còn nhìn rõ nữa. Rồi mẹ tôi cầm cây đèn và cả hai hạ mui xe, cuốn các tấm che lại, chất cao ngất trên thùng xe tất cả số củi đã bửa được trong ngày.

Sáng sớm hôm sau, cha tôi vào thị trấn bán củi. Người đàn ông kia làm việc rất chăm chỉ trong lúc cha tôi đi. Cha tôi đi trọn ngày, tối vẫn chưa về. Người đàn ông lạ đã xuống dốc đồi, mẹ tôi thắp đèn, vặn bấc thấp để tiết kiệm dầu. Một hồi sau chúng tôi nghe thấy tiếng xe xóc nảy. Mẹ tôi vặn đèn lên sáng hơn rồi nhắc tôi mang ra cho cha tôi.

Tôi cầm đèn bước ra ngoài. Thùng xe trống rỗng và tôi gần như la lên:

- Ba bán hết rồi!

Cha tôi nói một cách đắc thắng:

- Cuối cùng, ba đã bán hết.

Tôi hỏi:

- Ba bán được bao nhiêu?

Ông bắt đầu tháo cương ngựa và khoe:

- Năm mươi xu.

Tôi đặt cây đèn xuống và chạy vào trong nhà nói với mẹ:

- Năm mươi xu! Ba bán hết chỗ củi được năm mươi xu!

Mặt mẹ tôi như rung lên và tựa hồ dãn ra. Mẹ thở ra một hơi dài. Tôi hỏi:

- Mẹ không mừng hả?

Mẹ chộp lấy tôi kéo về phía mẹ:

- Mừng à? Dĩ nhiên mẹ mừng chứ. Ôi, tạ ơn đã được thế!

Tôi lại chạy ra ngời, nhảy choi choi khoe với cha là mẹ rất mừng. Và cha tôi gần như kêu lên khi lên tiếng:

- Ô, sao con lại cho mẹ biết? Ba muốn đem về cho mẹ một sự bất ngời mà.

Người ta thường làm những điều như thế, những điều nhỏ nhoi nhưng độc ác khủng khiếp mà không suy nghĩ, không dự tính gì. Nhưng điều đã làm rồi thì không thể nào lấy lại được. Nó sẽ là một thứ không bao giờ quên.

Tôi không nhớ rõ người đàn ông lạ làm việc với cha tôi bao nhiêu lâu. Tôi cũng không thể nhớ tên của ông ta và mọi chuyện về gia đình ông ta đang hạ trại gần bên lạch suối. chỉ chắc chắn là tôi quen biết những đứa trẻ kia, chúng có thể đã ở đó nhiều tuần lễ. Tôi còn nhớ ông ta và cha tôi đã lợp mái căn nhà kho nhỏ vào cái ngày tôi đuổi theo một con thỏ.

Lá đã rụng khỏi tất cả các thứ cây, ngoại trừ những cây sồi đã đổi sang màu đỏ thường có của chúng trong mùa đông vào ngày hôm đó. Tuyết rơi nhẹ hoặc có sương giá dưới chân và bàn chân trần của tôi lạnh buốt, hơi thở đọng trắng trong không khí. Tôi đuổi theo con thỏ lên đồi, xuống đồi, rồi vòng lại cho tới khi mệt lả và nó ẩn vào một hốc cây. Tôi lấp kín hốc cây bằng những viên đá rồi tới kiếm hai người lớn kêu ngưng lợp mái nhà tới bửa khúc cây ra bắt con thỏ.

Ngày đó là thứ Bảy vì sau đó tôi đi học. Bữa ăn trưa Chủ nhật, chúng tôi có món thịt thỏ hầm nước sốt trộn khoai tây nghiền và bánh mì. Vào ngày thứ Hai, tôi thấy trong xô đựng bữa ăn trưa của mình một chiếc đùi con thỏ đó. Mẹ tôi đã để dành lại, kẹp bánh bỏ trong chiếc xô thiếc nhỏ để tạo ngạc nhiên cho tôi.

Người đàn ông đó và gia đình ông ta phải về miền tây hoặc miền nam vào đầu mùa đông đó.

Ông ta hẳn đã kiếm được đủ thức ăn cho chuyến đi. Tôi nhớ khi đi với bộ với giầy vớ qua những khu rừng phủ tuyết, tôi đã nghe văng vẳng tiếng rìu của cha tôi và khi trở về nhà với ánh hoàng hôn đỏ lừ sau lưng, tôi nghe vang lên tiếng cưa sắc nhọn hơn trong không khí. Cây rìu quá nặng với mẹ tôi khiến cha tôi không thể tin cậy nhưng mẹ tôi có thể nắm chắc an toàn một đầu cưa.

Những chiều mùa đông rất ấm áp trong căn nhà. Lũ ngựa cũng ấm áp trong khu chuồng nhỏ và đám gà mái trong chiếc chuồng bằng gỗ mới. Tuyết đóng bờ trên các vách gỗ và những nhũ băng dài lơ lửng dưới các mái hiên. Trong lò sưởi, lửa cháy đều trên những khúc hồ đào. Trong hơi lửa nóng, trên tờ báo trải rộng trước lò sưởi, cha tôi đang trết dầu cho yên ngựa giữa những bàn tay đen ngòm dầu. Tôi ngồi trên sàn nhà, cẩn thận xếp một tòa nhà bằng lõi bắp và mẹ tôi ngồi bên bàn thoăn thoắt đẩy những cây kim đan trong lúc vừa đang cho cha tôi những chiếc vớ len vừa đọc cho chúng tôi nghe một cuốn sách tựa dưới cây đèn dầu. Mẹ đọc những bài thơ của Tennyson, của Scott trong các cuốn sách của chúng tôi. Và mẹ đọc những cuốn sách của Prescott như Cuộc Chinh Phục Mexico, Cuộc Chinh Phục Peru, Những Chàng Trai Vùng Núi Xanh, Nhà Quý Tộc John Halifax. Mẹ còn đọc cho chúng tôi nghe cuốn sách về những chuyện thực, cuốn sách lớn nhất so với những cuốn khác: Lịch Sử Cổ Đại, Trung Đại và Hiện Đại. Tôi mượn những cuốn sách này từ giá sách ở trường dành cho lớp Bốn. Thầy giáo bằng lòng cho tôi mượn dù tôi chưa học tới lớp Bốn.

Tôi nhớ buổi chiều Chủ nhật khi cha mẹ tính toán về ngôi nhà mới. Mùa xuân đó, chúng tôi có con bò cái; tôi chắc đã lên mười hoặc sắp mười một tuổi. Vào những buổi chiều Chủ nhật ấm áp, khi khách viếng thăm không ở trọn ngày với chúng tôi hoặc chúng tôi không dành trọn ngày ở thị trấn cùng gia đình Cooley, cha mẹ tôi mặc những bộ đồ Chủ nhật nhàn tản dạo bộ khắp vùng đất trong khi tôi cũng mặc quần áo đẹp tơ tưởng về căn nhà. Cha mẹ tôi đã chuẩn bị xong hai chục mẫu đất, đã trồng xong tất cả những cây táo nhỏ và chúng tôi có con bò cái nên chiều Chủ nhật đó cha mẹ tôi quyết định kiếm chỗ dựng nhà.

Từ chỗ chiếc đu của tôi dưới bóng một cây sồi bên cạnh căn nhà lều, Fido và tôi nhìn thấy cha mẹ dừng lại chuyện trò dưới một cây sồi già xum xuê không xa lắm. Cả hai nói chuyện khá lâu. Rồi cha tôi đi dắt con bò cái cho uống nước và đổi cọc buộc còn mẹ tôi gọi tôi tới để xem địa điểm sẽ dựng ngôi nhà của chúng tôi.

Ngôi nhà sẽ ở ngay dưới cây sồi già vĩ đại bên mé đồi, chỗ chúng tôi đang đứng. Độ dốc của sườn đất ở đây xuống hẻm núi thoai thoải hơn và dựng đứng về phía ngọn núi có rừng cây ở phía nam.

Có thể nhìn thấy lạch suối khởi từ miệng hẻm núi mở rộng uốn khúc tới phía bắc, phía đông bọc tròn quanh chân ngọn đồi. Có thể nghe rõ tiếng nước róc rách chảy trên những kẽ đá lô nhô. Vào mùa xuân, những cây hồ đào trên đồi trổ lá non xanh mượt còn lá sồi nhuộm màu hồng trong khi ở dưới chân những cây này phủ kín mặt đất cứng là một tấm thảm tím – xanh những bông hoa tím nanh chó.

Dọc theo lạch suối những cây bông trắng nở như một vùng sương giá. Trên cây sồi già có cả tá sóc đang sống, đang xù đuôi lăng xăng ra, vào ổ của chúng trên những hốc cành cây.

Mẹ tôi trong chiếc áo vải lanh trắng có hình nhánh cây màu nâu đứng ngay dưới gốc cây, bím tóc dài thả lủng lẳng sau lưng. Dưới những món tóc quăn buông xõa, mắt mẹ màu xanh tím như những bông hoa tím. Mẹ nói sẽ là một ngôi nhà màu trắng với tất cả vật liệu đều lấy từ trong trại. Mọi thứ chúng tôi cần để dựng nhà đều có sẵn trong khu đất: những thành đà, những tấm ván bằng gỗ sồi tốt, đá làm nền móng và lò sưởi. Ngôi nhà sẽ có những cửa sổ lớn mở về hướng tây nhìn qua lạch suối sang khu thung lũng nhỏ tới ngọn đồi che khuất thị trấn ngược lên những màu sắc hoàng hôn in trên nền trời.

Nhà cũng có một khung cửa mái vòm lớn hướng về phía bắc để đón hơi gió mát vào những buổi chiều hè nóng bức. Gian bếp cần đủ rộng để đặt một lò sưởi đốt củi trong mùa đông và một lò nấu dầu mới để không tạo thêm nhiều hơi nóng trong mùa hè. Mọi khung cửa sổ đều phải được đóng lưới muỗi. Còn cần có một giếng nước với ống bơm ngay phía ngoài cửa bếp để chấm dứt việc bê nước từ suối về. Và trong phòng khách sẽ có một giá sách, không, hai giá sách, những giá lớn đầy sách với một ngọn đèn treo bên cạnh lò sưởi để đọc sách vào những buổi tối mùa đông.

Khi món nợ thế chấp được trả xong, mẹ nói, vào khoảng vài năm nữa, và khi vườn táo ra trái, nếu lúc đó bán được giá, chúng tôi sẽ dựng một hàng rào dây kẽm quanh khu nhà và làm thêm một kho chuồng lớn hơn, vì lúc đó chúng tôi sẽ có nhiều gia súc hơn. Và sau việc đó, chúng tôi có thể bắt đầu dựng nhà.

Mẹ ra khỏi giấc mơ với một cái giật mình và tiếng kêu Chúa ơi! Đã tới giờ lo công việc trong nhà! Mẹ nhắc tốt hơn là tôi xách ngay chiếc xô đựng sữa tới cho cha rồi cho lũ gà mái ăn trước khi chúng đi ngủ, đừng quên đổ đầy nước vào các chảo và mang trứng về, nhớ cẩn thận không làm vỡ một trái nào. Ôi, bây giờ chúng tôi đã có con bò cái, chúng tôi sẽ có một bữa ăn tối Chủ nhật thịnh soạn, bánh mì trắng nướng giòn ăn với mật ong rừng để gây ngạc nhiên cho cha tôi. Kỳ diệu biết bao khi có một con bò cái.

Trong lúc tôi rải bắp cho đám gà mái, đổ đầy nước suối vào chảo đựng nước uống của chúng và lùng kiếm những quả trứng mà lũ gà mái muốn ấp giấu trong cỏ khô, ổ rơm, thậm chí cả trong các bụi cỏ, tôi nghe thấy mẹ đang vừa sửa soạn bữa tối vừa huýt gió trong căn nhà lều.

------------------Hết tập 10--------------------

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #kinhdien