121-125

Chương 121

*dabt

Khang thành, trong quân trướng.

Trinh sát vội vàng từ ngoài trướng bước vào, quỳ trên mặt đất ôm quyền nói: "Hầu gia, hôm nay phản tặc bên trong Khang thành vẫn tử thủ không ra khỏi cửa thành!"

Người ngồi trên ghế chủ vị mặc một bộ xiêm y màu đen, nhưng không mặc áo giáp, dáng người cao gầy thẳng tắp, đầu ngón tay trắng nõn thon dài cầm một quyển binh thư, đôi mắt phượng bình tĩnh không dao động, tựa hồ sớm đã có dự đoán trước với tình hình này, chỉ nói: "Tiếp tục công thành, đánh tới khi đầu của phản tặc không thể lấp đầy số lỗ châu mai trên tường thành mới thôi".

Trinh sát nhanh chóng lĩnh mệnh lui xuống.

Tạ Chinh ném quyển binh thư trong tay đi, gọi thân binh: "Mang chiến giáp của ta tới".

Công Tôn Ngân ở một bên hỏi: "Ngươi muốn tiến đến khiêu chiến?"

Tạ Chinh nói: "Tàn binh tại Khang thành không còn gì đáng sợ, chỉ có Tùy Nguyên Thanh vẫn là tai họa ngầm. Bây giờ trong thành quân tâm tán loạn, bản hầu xuất trận khiêu chiến, không sợ hắn không ra".

Công Tôn Ngân hiển nhiên hiểu rõ lợi và hại trong đó, tại Khang thành chỉ có Tùy Nguyên Thanh là người duy nhất có thể giao thủ, Tạ Chinh muốn loại bỏ Tùy Nguyên Thanh trước khi rời đi.

Hai ngày sau khi công thành lại đi khiêu chiến, điều này không thể nghi ngờ là đang dồn Tùy Nguyên Thanh vào ngọn lửa, nếu như hắn ta ứng chiến thì sẽ như ý muốn của Tạ Chinh, có thể trực tiếp giải quyết cái họa lớn này ở trên chiến trường.

Nếu hắn ta không ứng chiến, sĩ khí tinh thần trong thành vốn đã hoang mang chỉ càng sụp đổ hơn.

Bên dưới cửa thành Khang thành, quân Yến châu vốn đang công thành thì dừng lại nửa chừng, nhóm tiểu tốt sống sót trên cửa thành chưa kịp thở một hơi, đã nhìn thấy đội hình của quân Yến châu bên dưới đã phát sinh biến hóa.

Đội hình quân trận giống như kiến đen tách ra, để lại một con đường hẹp cho hai người song hành tới.

Trong cát vàng bụi mù mịt, một người một ngựa chậm rãi đi từ cuối con đường hẹp đến trước quân trận, kỳ lân trên vai uy nghiêm và dữ tợn dưới ánh mặt trời thiêu đốt, chiếc áo choàng đen kéo lê trên lưng ngựa phía sau, một thanh trường kích chuôi đen với hoa văn rồng từ sơn mài bằng vàng được đặt nghiêng.

Chỉ riêng con hắc mã với huyền giáp này, đã khiến cho đồng tử của nhóm tiểu tốt trên cửa thành giật mình run sợ.

Nhìn thấy rõ ràng chuôi kích bằng thiết đen, cùng chuôi kích có hoa văn rồng cuốn quanh lưỡi dao, thân phận của người tới càng thêm xác định, sắc mặt của đám tiểu tốt trên cửa thành càng thêm hoảng sợ.

"Kích hoa văn rồng vàng đen, là Vũ An hầu!"

"Vũ An hầu đích thân tới, Khang thành hôm nay hẳn không thể thủ được nữa!"

Võ tướng bình thường sẽ không bao giờ dám sử dụng binh khí có hoa văn rồng. Đuôi trường kích có hoa văn rồng vàng đen này chính là năm đó khi Vũ An hầu đoạt lại Cẩm châu, rửa sạch nỗi nhục cắt đất mười bảy năm trước, long nhan hoàng đế cực kỳ vui mừng, đích thân lệnh cho một trăm công tượng chế tạo và ban cho Vũ An hầu.

Thời điểm phong tước cho Vũ An hầu, hoàng đế cũng nói: "Có được Vũ An hầu, Đại Dận của trẫm sẽ an yên".

Triều chính đương thời, phàm là những võ tướng tâm cao khí ngạo, đều có mưu toan so sánh cao thấp với Vũ An hầu.

Nhưng từng sự kiện từng chiến công của Vũ An hầu hết lần này đến lần khác thật sự là những đỉnh cao mà bọn họ dốc cả một đời không thể vượt qua được.

Hai hàng trống trận được gióng lên trên chiến xa bên dưới cửa thành, khi tiếng trống trận dày đặc vang lên, đám tiểu tốt phòng thủ trên cửa thành đều giật mình nổi da gà, suýt chút nữa tay cũng cầm đao kiếm không vững.

Tay của những tiểu tốt cầm cung tên đưa ra khỏi các khe hở trên cửa thành đã run như chân gà, tên trên dây cũng không còn chính xác nữa.

Giữa tiếng trống trận, vị tướng quân trẻ tuổi ngồi trên lưng ngựa ngẩng đầu nhìn lên trên cửa thành, một đôi mắt phượng vô cùng lãnh đạm, khuôn mặt tuấn mỹ như ngọc điêu, trực tiếp hướng trường kích về phía tường thành, cuồng vọng kêu to: "Tùy Nguyên Thanh ở nơi nào, mau đi ra chịu chết!"

Quân lính truyền lệnh trên cửa thành cơ hồ là ngã lộn nhào quay trở về báo tin.

Khang thành bị vây mới có mấy ngày, nhưng trong phủ chủ thành đã là một mảnh u ám.

Tất cả mọi người đều biết lần này vây Khang thành chính là Vũ An hầu, đừng nói nhóm tiểu tốt phía dưới sợ hãi, ngay cả hạ nhân của phủ chủ thành cũng biết sớm muộn gì thành cũng sẽ bị phá.

Nhưng sợ là sợ, lại không ai dám nghị luận về chiến sự, những ngày này đã có mấy hạ nhân bị loạn côn đánh chết vì đã dám quá phận nghị luận Khang thành không giữ được nữa.

Quân lính truyền lệnh từ cửa thành vội vã quay trở lại báo tin, đi qua sân sâu, cuối cùng được dẫn đến chỗ của Tùy Nguyên Thanh. Hắn ta quỳ một gối xuống đất, run giọng nói: "Thế tử, Vũ An hầu đang ở trước cửa thành khiêu chiến, muốn ngài xuất chiến".

Đã gần sang hè, ánh mặt trời có chút gay gắt, rèm trúc trước cửa sổ thư phòng hé mở, ánh nắng chiếu vào cửa ra vào, nhưng càng vào sâu bên trong, đến một tia nắng cũng không có, nhìn có mấy phần đạm.

Tùy Nguyên Thanh ngồi bệt dưới đất với mái tóc hơi rối, trên chiếc bàn con trước mặt chất đầy thư tịch bút mực hỗn độn.

Lúc trước hắn ta rơi vào trong tay Tạ Chinh, chịu không ít thống khổ, sau khi được cứu ra, hắn ta đã tĩnh dưỡng nhiều ngày, vết thương trên người mặc dù đã lành, nhưng toàn thân lại gầy gò đi rất nhiều, vẻ u ám giữa hai lông mày càng ngày càng nghiêm trọng, chỉ nghe tiếng nói âm trầm: "Không đi, các ngươi tiếp tục tử thủ cửa thành là được".

Quân lính truyền lệnh có hơi do dự: "Thế tử, quân tâm của các tướng sĩ trong thành tán loạn, sĩ khí sa sút, nếu cứ tiếp tục như vậy, Khang thành có thể sẽ không công mà bị phá. Ngài đã từng đánh bại Vũ An hầu ở chiến trường Sùng châu, nếu như ngài xuất chiến, ít nhiều vẫn có thể vực dậy sĩ khí của các tướng sĩ".

Tùy Nguyên Thanh chế nhạo: "Nếu như bản thế tử thật sự xuất chinh, đó mới là rơi vào kế của Tạ Chinh. Hắn không chịu lấy Sùng châu, lại đích thân đến Khang thành để bắt ta, chẳng phải là muốn nóng lòng thoát thân khỏi việc đảng phái phân tranh trên triều đình sao? Nếu một ngày Sùng châu không bị phá, thì một ngày hắn cũng không dám bước qua cửa Khang thành".

Quân lính truyền lệnh bất đắc dĩ đành phải lui xuống.

Sau khi trong thư phòng chỉ còn lại một người là Tùy Nguyên Thanh, hắn ta đột nhiên gầm lên giận dữ, một tay vung rớt thư tịch trên bàn con xuống, nghiên mực rơi xuống đất, mực đen bắn tung tóe trên sàn gỗ.

Hai tay của Tùy Nguyên Thanh chống lên chiếc bàn con, gân guốc trên mu bàn tay gầy guộc nổi lên, quai hàm tái nhợt vì nghiến chặt răng mà căng vô cùng.

Từng có lúc, vượt qua Tạ Chinh luôn là tâm ma của hắn ta, dù sao đã nhiều năm như vậy, hắn ta đã sống là dựa theo dáng vẻ của Tạ Chinh, học qua những gì hắn đã học, luyện những võ nghệ mà hắn đã luyện.

Lần đầu tiên giao chiến trên chiến trường Sùng châu, hắn ta tưởng mình đã thắng, từ đó Tạ Chinh là bại tướng dưới tay hắn ta.

Đến bây giờ hắn ta mới nhận ra khi đó mình ngây thơ đến nhường nào.

Thậm chí hắn ta có một loại dự cảm, có lẽ hắn ta sẽ chết dưới tay của Tạ Chinh.

Loại dự cảm này dường như bị bao phủ bởi một tầng sương mù, khiến hắn ta càng ngày càng u ám, mấy ngày nay hắn ta chỉ biết nhốt mình trong thư phòng.

Hắn ta cần phải bình tĩnh lại, chỉ cần tìm ra điểm để kiềm chế Tạ Chinh và mục đích bất ngờ công thành của hắn, hắn ta sẽ có thể tìm được biện pháp đối phó.

Tùy Nguyên Thanh nặng nề nhắm mắt lại.

Ngoài phòng có tiếng bước chân run rẩy đến gần.

Lúc Tùy Nguyên Thanh mở mắt ra, nữ tử kia chấn kinh suýt chút nữa đánh đổ đĩa điểm tân trên tay.

Với đôi tay run rẩy, nàng ta đặt đĩa điểm tâm tinh xảo lên bàn con, giọng run run nói: "Là muội, biểu ca".

Nữ tử được nuông chiều lớn lên từ khuê phòng, khuôn mặt nhỏ nhắn chỉ bằng lòng bàn tay, làn da tỉ mỉ mịn màng như mỡ đông, đôi mắt hạnh hơi rưng rưng, rụt rè, chỉ khiến người ta liên tưởng đến bốn chữ mưa rơi hoa lệ.

Tùy Nguyên Thanh nheo mắt lại, đây là một loại vẻ đẹp hoàn toàn khác với mèo hoang mà hắn ta đã từng gặp, mèo hoang kia rất nóng nảy, có thể cào, cũng có thể cắn người.

Nữ tử trước mắt lại giống như một đóa hoa mỏng manh run rẩy nở rộ trong sương mưa, chỉ đợi người đến hái.

Nàng ta quá mỏng manh, dường như người khác đều có thể tùy thời làm gì nàng ta, mà nàng ta cũng hoàn toàn không có khả năng phản kháng, cho dù có phản kháng, chung quy cũng chỉ dùng đôi mắt ngập nước kia nhìn người bắt nạt mình mà lặng lẽ rơi lệ.

Lúc Tùy Nguyên Thanh giơ tay bóp quai hàm của nàng ta, cả người nàng ta đều run rẩy, hoảng hốt chộp lấy một miếng bánh ngọt tinh xảo trong đĩa muốn đút cho hắn ta: "Mẫu thân nói... mấy ngày nay biểu ca lo lắng hết lòng giữ vững Khang thành, đã để phòng bếp làm một ít điểm tâm, bảo muội lấy mang tới".

Tùy Nguyên Thanh không hé răng, nhìn dung nhan xinh đẹp trước mặt, tùy ý hỏi: "Biểu muội run sợ như vậy, là đang sợ cái gì?"

Nữ tử bối rối lắc đầu nguầy nguậy.

Tùy Nguyên Thanh nới lỏng cằm của nàng ta, nhìn miếng bánh ngọt nàng ta muốn đút cho mình, đột nhiên nở nụ cười, đưa tới đút lên môi nữ tử, nói: "Ta không thích đồ ngọt, biểu muội ăn đi".

Sắc mặt của nữ tử lập tức trắng bệch đi mấy phần, chỉ một mực lắc đầu: "Muội... muội cũng không thích".

Tùy Nguyên Thanh nắm lấy bánh ngọt, khi cúi đầu xuống, khóe miệng vẫn mang ý cười, nhưng thần sắc lại cực kỳ âm trầm, thấp giọng hỏi: "Vì sao?"

Tâm tính của nữ tử cuối cùng cũng bị hắn ta đánh bại, nàng ta suy sụp bật khóc nói: "Biểu ca, huynh chạy mau đi, phụ thân nghe nói Vũ An hầu tự mình đến trước cửa thành khiêu chiến, sợ sau khi thành bị phá, Lưu gia sẽ bị chém đầu toàn gia, cho nên mới bảo phòng bếp làm điểm tâm có độc, muốn độc chết huynh rồi chặt đầu mang đến cửa thành đầu hàng".

Tùy Nguyên Thanh nhếch miệng cười, trên mặt nụ cười càng rộng hơn, nói: "Thì ra là như vậy".

Nói xong, hắn ta trực tiếp cầm kiếm từ trên giá xuống đi ra ngoài.

.

Chương 122

Khi quân Yến công thành, binh lực chủ yếu bên trong thành đều phân bố ở bốn cửa thành lớn, chỉ có vài trăm gia binh ở lại phủ chủ thành.

Nữ tử tưởng rằng Tùy Nguyên Thanh muốn cầm kiếm chạy khỏi phủ, tay chân mềm nhũn đi ra khỏi thư phòng, hoảng sợ không biết làm sao trở về phục mệnh, lại nghe thấy phía trước có tiếng la hét gào khóc thảm thiết như quỷ kêu sói gào.

Nàng ta giật mình, chiếc khăn voan đang cầm trên tay rơi xuống đất cũng không buồn nhặt lên, nàng ta ôm váy chạy nhanh về phía phát ra tiếng khóc. Khi bước vào tiền sảnh, nàng ta nhìn thấy cả một căn phòng toàn là người chết, suýt chút nữa nàng ta đã ngất đi ngay tại chỗ mà không kịp đảo mắt.

Khi nhìn thấy phụ mẫu mình đều nằm trên vũng máu, nàng ta đã mất sức lực ngã xuống đất, nỗi đau buồn và sợ hãi tột cùng khiến nàng ta không thể khóc được, chỉ có những giọt nước mắt lăn dài như hạt châu, rất lâu sau mới có thể lấy lại được sức lực, đau buồn kêu lên: "Phụ thân... mẫu thân..."

Nàng ta nhìn dòng máu nhớp nháp chảy ra từ thanh kiếm tựa như nhìn ác quỷ, Tùy Nguyên Thanh đang đứng giữa đại sảnh, nghẹn ngào: "Tại sao... tại sao huynh lại giết phụ mẫu của muội? Với công phu của huynh, huynh có thể chạy đi, huynh chạy ra khỏi phủ chủ thành không phải là tốt rồi sao".

Tùy Nguyên Thanh lạnh lùng nhìn nữ tử mảnh mai tựa như muốn ngất đi, kéo kéo khóe môi.

Người biểu muội này của hắn ta, không biết là được nuôi dạy quá ngây thơ, hay thuần túy là quá ngu xuẩn.

Hoặc là, Lưu gia biết rõ những thế gia quyền quý khi cưới thê đều chỉ cưới những quý nữ được bồi dưỡng tỉ mỉ làm chủ mẫu, mà cưới mỹ nhân đương nhiên phải ôn nhu tỉ mỉ, tâm tư đơn thuần mới tốt, cho nên mới nuôi nữ nhi trong nhà thành dáng vẻ yếu đuối gian dối như vậy.

Theo một nghĩa nào đó, nữ tử trước mặt này sớm đã bị gia tộc ruồng bỏ.

Thật tội nghiệp, nàng ta vẫn còn khóc thương như thế cho những bậc phụ mẫu lúc nào cũng có thể tặng nàng ta cho người khác như món đồ chơi vậy.

Hắn ta ngồi xổm xuống trước mặt nàng ta, dùng bàn tay dính đầy máu sờ lên mặt nàng ta, hỏi lại nàng ta: "Bọn chúng đều muốn mang đầu của ta đi đầu hàng, vì sao ta không thể giết bọn chúng?"

Gò má tuyết trắng của Lưu Uyển Nhi đều là dấu tay dính đầy máu của hắn ta, nàng ta mở to miệng, lại không nói được lời nào, lông mi thật dài khẽ động, nước mắt lăn dài trên má, càng làm cho nàng ta trông mỏng manh đáng thương hơn.

Nàng ta rất xinh đẹp, không có nam nhân nào trên đời lại không mềm lòng trước một vẻ đẹp như vậy.

Nhưng Tùy Nguyên Thanh không hiểu vì sao, bỗng nhiên nhớ tới ánh mắt ngoan lệ lạnh lùng của Phàn Tiểu Linh khi nàng đâm một đao vào người hắn ta.

Trước đây hắn ta cũng thích mỹ nhân như Lưu Uyển Nhi, ngoan ngoãn đáng thương, giống như dây leo, sẽ khô héo khi lìa khỏi cây, cho nên chỉ có thể cố gắng hết sức để bám lấy hắn ta.

Nhưng đã nhìn thấy nhiều mỹ nhân giống như vậy, hắn ta khó nhớ rõ khuôn mặt của ai, khí chất giống nhau, dịu dàng giống nhau, bên cạnh nhiều thêm một người hay ít đi một người, hắn ta cũng không chắc là nhớ được.

Những người quyền quý tranh giành mỹ nhân đơn giản cũng là vì mỹ mạo hơn người kia, nhưng hồng nhan luôn dễ già, bất quá ba năm đến năm năm nữa lại sẽ có mỹ nhân mới dịu dàng như nước rơi vào tầm mắt của những người quyền quý.

Ai còn nhớ rõ mỹ nhân mấy năm trước bọn họ tranh đến bể đầu mẻ trán kia là bộ dáng như thế nào?

Tựa như hoa khôi trong thanh lâu, khi già rồi, sẽ có người mới leo lên.

Đã thấy qua nhiều mỹ nhân liên miên bất tận, ngược lại chỉ có mèo con cắn người khiến hắn ta nhớ nhung mãi không thôi.

Tùy Nguyên Thanh rút tay về, nhìn nữ tử nằm gục trên đất, bởi vì khóc quá thảm thiết, eo lưng đều run lên vì khóc. Chạm vào nữ tử, hắn ta nói: "Ngươi là đứa trẻ ngoan, đã nói sự thật cho ta biết, ta sẽ không giết ngươi".

Hắn ta thu kiếm lại, đứng dậy đi tới cửa, lại dừng bước, nghiêng đầu nói: "Từ nay về sau ngươi không còn là nữ nhi của Lưu phủ nữa, đi ẩn cư giữa nhân gian, tự mình sống thật tốt".

Lưu Uyển Nhi ngơ ngác nhìn bóng lưng Tùy Nguyên Thanh rời đi, lại nhìn phụ mẫu chết không nhắm mắt ở trong phòng, mười mấy năm qua nàng ta chưa từng gặp phải biến cố như vậy, ngoại trừ khóc ra, trong đầu nàng ta chỉ còn lại sự hoảng sợ và mờ mịt.

Nàng ta thậm chí không để ý đến nam nhân vừa rồi đã giết song thân của mình, gần như theo bản năng vịn cửa đứng lên, khóc lóc vịn vách tường đuổi theo: "Biểu ca".

Giữa trưa nắng gay gắt, Tùy Nguyên Thanh cũng đã lâu không ra khỏi thư phòng, đi qua cửa treo hoa liền dừng lại, hắn ta híp mắt nhìn mặt trời hình tròn treo lơ lửng trên bầu trời.

Ánh sáng mạnh khiến đôi mắt hắn ta mất đi màu sắc trong chốc lát, toàn bộ thế gian chìm trong bóng tối.

Hắn ta mím môi cười uể oải, như thể bình thản chấp nhận số phận của mình.

Thế gian này còn so một cách sống khác, gọi là... sống cho đến chết.

Quân Yến châu phía dưới cửa thành khiêu chiến đã lâu, nhưng không thấy Tùy Nguyên Thanh ra ứng chiến, ngược lại chờ được lại là tấm miễn chiến bài của đối phương treo trên cửa thành.

Quân Yến châu phía dưới càng mắng càng dữ dội, nhóm tiểu tốt Sùng châu phía trên cửa thành cả người bám đầy bụi đất, ánh mắt thậm chí có thể nói là có phần chết lặng, so với tra tấn bao vây ngày qua ngày, bọn họ bây giờ còn hy vọng quân Yến châu khẩn trương một chút, thống khoái hạ thủ đánh đổ Khang thành.

Sau khi Tạ Chinh và Công Tôn Ngân trở về doanh trại, Công Tôn Ngân đã tức giận đến mức vung mạnh chiếc quạt trong tay mình: "Con rùa đen rút đầu Tùy Nguyên Thanh kia, ngày đó trên chiến trường hẻm núi Nhất Tuyến còn dám cuồng vọng khiêu chiến với ngươi, bây giờ lại làm người cụp đuôi như thế! Thật không biết xấu hổ!"

Tạ Chinh nói: "Hắn chưa bị kích động ra ứng chiến, nhất định biết rõ ta ở đây là muốn hắn hao tổn, phải chờ Sùng châu bị phá trước. Nhưng sau ngày hôm nay, phản tặc bên trong Khang thành sẽ mất hết sĩ khí, nếu trong quân có người sinh hai lòng, có thể để bọn họ tự đau đầu nổi loạn một trận, trong thời gian ngắn tất sẽ không chủ động tấn công".

Công Tôn Ngân nguôi giận, nói: "Được rồi được rồi, ngươi là muốn đi Sùng châu đúng không?"

Hắn ta chậc chậc hai tiếng: "Đã nói là sau ba ngày, lúc này chỉ mới hai ngày rưỡi mà đã không ngồi yên rồi?"

Tạ Chinh chỉ thản nhiên nói: "Bản hầu có chút việc riêng cần giải quyết, Tùy Nguyên Thanh đã biết ta ở đây, cho nên không dám hành động thiếu suy nghĩ, sau khi ta đi, ngươi tìm người giả dạng ta ở lại trong lều trướng là được".

Công Tôn Ngân không khỏi nghi hoặc: "Ngươi đi gặp nàng ấy không phải là chuyện riêng rồi sao? Còn có chuyện riêng phải xử lý?"

Tạ Chinh nói: "Ta đã sai người chế tạo binh khí cho nàng ấy".

Lần trước Phàn Tiểu Linh giao thủ với Thạch Hổ, hắn đã sớm nghe Tạ Ngũ nói qua, bởi vì nàng không có binh khí thuận tay, suýt chút nữa đã bị nghiền nát.

Gần như lúc xuống núi, hắn đã sai người tìm thợ rèn chế tạo binh khí, vốn là muốn tạo bất ngờ cho Phàn Tiểu Linh, nhưng nàng lại có ý lớn muốn đến chiến trường Sùng châu tòng quân.

Tính toán thời gian một chút, binh khí kia hẳn là đã làm xong, lần này hắn đi lấy, vừa vặn có thể đưa cho nàng.

Công Tôn Ngân nhớ tới lần trước tự chuốc lấy nhục nhã, lần này chỉ nghe vài câu, lập tức nói: "Được rồi được rồi, ngươi đi nhanh đi!"

Ngoài trướng có một thân binh cầm thư tín tiến đến: "Hầu gia, Hải Đông Thanh đưa thư trở về".

Hải Đông Thanh đã bị Phàn Tiểu Linh mang đi, Hải Đông Thanh đột nhiên đưa thư trở về, tám phần là tin tức về Phàn Tiểu Linh bên kia.

Tạ Chinh giơ tay nhận lấy, sau khi đọc lướt qua, vẻ mặt vốn đang ấm áp trong nháy mắt chìm xuống, ném thư vào chậu than dùng để đốt những bức thư tín quan trọng, lạnh lùng nói: "Chuẩn bị ngựa!"

Công Tôn Ngân trong lòng như có móng mèo cào, vội vàng hỏi: "Làm sao vậy?"

Nhưng Tạ Chinh căn bản không thèm trả lời hắn ta, chỉ vén rèm nhanh chóng rời đi.

Công Tôn Ngân thoáng thấy trên tờ giấy trong chậu than còn chưa bị đốt xong, lại bị gió thổi bay ra ngoài, hắn ta không nhịn được tò mò nhặt lên xem một chút.

Mặc dù phần lớn giấy viết thư đã bị lửa than đốt cháy nhưng có thể nhìn thấy được dòng chữ "Lý Hoài An có ý đồ xấu với phu nhân" ở cuối vẫn còn nguyên vẹn.

Công Tôn Ngân cười "phì" một tiếng, không kìm được hả hê nói: "Tạ Cửu Hành a Tạ Cửu Hành, quả báo này của ngươi cũng đến quá sớm!"

Phàn Tiểu Linh ở Sùng châu xa xôi, vừa mới theo đại quân theo luyện chạy quanh núi hơn mười dặm, nhóm tiểu binh phía dưới ngã nhào như mì luộc, có binh lính phát hiện trước mặt có dòng sông, liền mang một thân mồ hôi nhễ nhại bẩn thỉu nhào tới, la ó ra bờ sông tắm rửa.

Thời tiết càng ngày càng nóng, Phàn Tiểu Linh cũng ra rất nhiều mồ hôi, nhưng nàng là một cô nương gia, lúc này vẫn có nhiều bất tiện, nàng không thể đi theo xuống sông tắm rửa, cho nên chỉ đứng dưới bóng cây uống vài ngụm nước.

Trước đây, nàng nghĩ rằng Đào Thái phó đã trực tiếp giúp nàng có được chức vị đội trưởng, kỳ thật cũng khá phô trương. Sau khi chia xong quân trướng, mới biết chí ít phải là đội trưởng mới có quân trướng riêng của mình, nàng lại cảm thấy Đào Thái phó đã dụng tâm lương khổ.

Nàng đến tìm Đào Thái phó để nói lời cảm tạ, nhưng Đào Thái phó lại nói nếu để nàng làm thập trưởng thì chỉ có chín người, ngoại trừ Tạ Ngũ thì chỉ còn lại tám người, nàng nhắm mắt cũng xoay sở được.

Nàng đã biết một cộng một bằng hai, lại đi học những thứ như vậy chắc chắn sẽ rất lãng phí thời gian, cho nên mới để cho nàng bắt đầu từ đội trưởng.

Nàng phải học cách quản ngày càng nhiều người hơn, hiện tại có mười mấy người, sau này sẽ là mấy trăm, mấy ngàn, thậm chí hơn vạn người.

Có quá nhiều người, nàng không thể tự mình đi quản giáo từng người một, cho nên nàng phải đề bạt những người nàng có thể dùng được.

Điều này liên quan đến một thứ phức tạp hơn — thu mua lòng người.

Lúc trước Tạ Chinh cũng đã nói, Phàn Tiểu Linh không am hiểu trong việc này, nàng đã quen với việc đi thẳng về thẳng, đột nhiên khiến nàng phải suy nghĩ nhiều khúc ngoặt như vậy, quả thật có chút làm khó cho nàng.

Tuy nhiên trên chiến trường, những tiểu binh tầng thấp nhất trước tiên chỉ muốn tìm cách sống sót rồi mới muốn nghĩ đến tiền đồ và tiền tài vật ngoài thân.

Những người ở đây tâm tư tương đối đơn giản.

Phàn Tiểu Linh bây giờ giống như một đứa trẻ mới tập đi, lại bước đi trên con đường gập ghềnh này.

Trước đó nàng đã luận võ cùng với Quách bách hộ, cũng coi như gặp họa được phúc, trong quân cũng có được uy danh, ít nhất trong trăm người dưới trướng Quách bách hộ, không có người nào dám coi thường nàng.

Các ngũ trưởng, thập trưởng dưới trướng nàng cũng rất kính trọng nàng.

Tạ Ngũ nói với nàng, trong số những người này, có thể có một số người sau này sẽ trở thành thân tín của nàng, hoặc có lẽ cũng không có ai có thể dùng được.

Nàng phải tự mình suy nghĩ ai có dùng được không, dùng được thì dùng như thế nào, không dùng được thì người đã ở trong tay mình rồi, vậy thì phải xử trí làm sao...

Phàn Tiểu Linh hiện tại ban ngày đi thao luyện, có thời gian rảnh thì phải đến chỗ của đào Thái phó học binh thư, buổi tối khi ngủ, hoặc là suy nghĩ về những điều mình không hiểu trong binh thư, hoặc là nghĩ về đạo dùng người.

Nhưng không biết có phải bởi vì nàng quá mệt mỏi quá không, thường thường nghĩ chưa tới hai hơi liền hoàn toàn chìm vào giấc ngủ.

Lúc này rảnh rỗi, Phàn Tiểu Linh nhìn chằm chằm mấy người dưới trướng không đến bờ sông, lại bắt đầu suy nghĩ chuyện lựa chọn thân tín, bỗng nhiên đột nhiên nhảy mũi hắt hơi một cái mà không hề báo trước.

Tạ Ngũ đứng bên cạnh Phàn Tiểu Linh, vội vàng hỏi: "Đội trưởng, ngài bị lạnh à?"

Phàn Tiểu Linh xua tay nói: "Tục ngữ có câu, nhảy mũi chỉ có 'một cái nghĩ, hai cái mắng, ba cái nhắc', có lẽ Ninh Ninh đang nghĩ tới ta".

Nói xong, nàng lại hắt hơi một cái nữa.

Phàn Tiểu Linh chết lặng.

Tạ Ngũ nghĩ đến bức thư mà mình đã để Tạ Thất gửi về, đột nhiên cảm thấy có chút chột dạ.

.

Chương 123

Trận chiến giữa quân triều đình và phản tặc Sùng châu đã đánh được gần một năm.

Tất cả áo giáp và binh khí đao kiếm cần thiết đều do giám sát binh khí trong quân phát xuống, nhưng nếu áo giáp và binh khí trong chiến loạn bị hư hao, cũng không thể lui về kinh thành nghỉ ngơi bổ sung, cho nên phần lớn các nơi trú quân đều sẽ trưng dụng các phường chế tác binh khí lân cận các châu phủ.

Ngoài việc sửa chữa binh khí bị hư hỏng, các thợ rèn bên trong phường chế tác cũng có thể chế tạo ra một số binh khí mới để cung cấp cho đại quân.

Mặc dù Hạ Kính Nguyên chấp chưởng binh quyền Tế châu, nhưng Tạ Chinh có thể điều động toàn bộ binh lực Tây Bắc, quân Tế châu của Hạ Kính Nguyên cũng nằm trong phạm vi điều động của hắn.

Ban đầu chỉ có Tạ gia quân ở Huy châu giao thủ với phản tặc ở Sùng châu, nhưng sau đó người Bắc Ngất tiến đánh Cẩm châu, Tạ gia quân lại chia ra tiến lên phía bắc chi viện, Trường Tín vương mới nhân cơ hội này muốn xuống phía nam đoạt Tế châu, khiến cho quân Tế châu bị liên lụy.

Trước khi Hạ Kính Nguyên dẫn quân Tế châu còn lại đến Sùng châu để tụ hợp với Đường Bồi Nghĩa, chỉ có hơn một vạn tân binh quân Tế châu dưới trướng Đường Bồi Nghĩa đặt chân đến địa giới Sùng châu.

Đường Bồi Nghĩa là một người thận trọng, khi bao vây Sùng châu, ông ta không chắc liệu Tạ Chinh sau khi đối phó được phản tặc dưới hẻm núi Nhất Tuyến, thì có đến Sùng châu để cùng nhau quét sạch phản tặc hay không. Bởi vậy ông ta cũng không dám liều lĩnh tiếp nhận các phường chế tác binh khí gần Sùng châu.

Cho đến tận bây giờ, những phường chế tác binh khí đó vẫn là những thuộc hạ dưới trướng của Tạ Chinh ở Huy châu xử lý, vì vậy lần này chế tác binh khí cho Phàn Tiểu Linh, hắn không cần phải giấu diếm thân phận của mình.

Vị tiểu tướng đóng quân ở đây vừa nghe thông báo, liền vội vàng ra khỏi doanh nghênh đón: "Gặp qua Hầu gia".

Tạ Chinh đem dây cương giao cho tiểu binh tiến lên nghênh đón, sải bước đi thẳng vào trong doanh trại, hỏi: "Thanh mạch đao kia rèn như thế nào rồi?"

Tiểu tướng vội vàng theo kịp tốc độ của Tạ Chinh, trả lời: "Lại thêm một lần lửa nữa liền có thể ra lò".

Vừa bước vào phường chế tác binh khí, đã cảm thấy một luồng hơi nóng phả vào mặt, như thể đang ở trong nồi hấp.

Vài dãy lò rèn kéo dài đến tận cùng, nhìn thoáng qua không thấy điểm cuối.

Những người thợ rèn cởi trần đang ở trước nơi làm việc của mình, xoay búa, nện từng búa vào những khối sắt trên thớt, tiếng hét trầm hùng vang lên khiến lòng người rung động.

Lửa bập bùng trong lò, bên cạnh mỗi thợ rèn có một phụ tá phụ trách kéo ống bễ, những người này cũng cởi trần, mồ hôi nhễ nhại như mưa.

Vị tiểu tướng dẫn Tạ Chinh đến trước lò rèn binh khí cán dài, bên cạnh lò có một giá để binh khí tạm thời, một thanh đao dài ba thước, chuôi đao dài năm thước được đặt nằm ngang trên đó.

Lưỡi đao sáng như tuyết, chuôi đao bằng thép đen, lớp thép hình thành lưỡi đao liên tục gấp lại sau khi được rèn, phản chiếu một hoa văn hình tròn rất mờ dưới ánh lửa.

Vị tiểu tướng nói: "Lưỡi đao được dùng thép đen mà bách luyện thành".

Tạ Chinh khẽ liếc mắt, nâng chuôi đao lên cân nhắc, múa một đường, tiếng đao như hổ gầm, vị tiểu tướng bị đao phong dọa sợ lùi lại một bước.

Tạ Chinh đánh giá lưỡi đao mang theo hàn quang kia, hỏi: "Lưỡi đao đã mở ra, tại sao còn phải cần luyện thêm?"

Vị tiểu tướng không thể trả lời câu hỏi này, vì thế lão thợ rèn phụ trách chế tạo thanh mạch đao này — cầm chùy thiết khua đinh đinh đang đang đánh vào một binh khí mới — cũng không ngẩng đầu lên, mà chỉ nói: "Quy củ của tổ tiên lưu lại, rèn đúc hung binh ra chiến trường, sau khi mở lưỡi đao sẽ đổ máu, phải luyện một lần lửa nữa mới được ra lò".

Không biết có phải vì quanh năm ở bên lò rèn không mà giọng lão thợ rèn khàn như tiếng chiêng vỡ, thậm chí còn hơi chói tai.

Đây đều là dân gian đồn đãi, trên chiến trường binh khí uống máu sẽ mang lệ khí nặng. Vì thế từ xưa đến nay, nghề võ tướng ít khi thấy người nào có kết quả yên lành. Lúc này mới có nhiều lời đồn truyền ra, hung binh thấy máu quá nhiều sẽ khắc chủ, bởi vậy khi rèn đúc binh khí, sau khi mở ra phải để thấy máu, rồi cần được đưa trở lại lò nung, đây được cho cách chấn nhiếp linh hồn.

Vị tiểu tướng sợ Tạ Chinh trách tội nên vội vàng nói: "Lão nhân này năm đó là đồng môn xuất sư cùng với Vân Nhai Tử đã đúc kích cho Hầu gia, nếu không phải lần này Hầu gia muốn đúc mạch đao bằng thiết đen, ti chức chỉ sợ còn không mời được lão nhân này xuống núi".

Thiết đen rất quý giá, thợ rèn bình thường không dám dùng nguyên liệu thiết quý giá như vậy để luyện binh khí.

Những bậc thầy rèn đúc nổi tiếng cũng hiếm khi có được vật liệu tốt như vậy, phần lớn đều là do vương hầu hoàng thất dùng số bạc lớn mới họ đến đúc luyện.

Kể từ khi Tạ Chinh ra chiến trường, hắn liền không tin vào quỷ thần, nhưng mạch đao này là làm cho Phàn Tiểu Linh, biết rõ là đồ vật hư ảo, hắn vẫn nguyện ý cầu an.

Hắn hỏi: "Dùng loại máu nào?"

Lão thợ rèn ngước đôi mắt già nua của mình lên, được ánh lửa chiếu sáng, rõ ràng là một bên mắt của ông ta đã bị hỏng, nhưng con mắt còn lại thì giống như chim ưng, trông ông ta không hề có chút sợ hãi, nói: "Hung binh dùng để giết người, tất nhiên là uống máu người để luyện là tốt nhất, nhưng bình thường ở chỗ này đều dùng máu chó mực".

Vị tiểu tướng vội vàng nói: "Hầu gia, ti chức đã sai người đi lấy máu chó mực".

Tạ Chinh nói: "Không cần phiền phức".

Hắn thờ ơ nhìn mạch đao lóe lên hàn quang, đưa tay kéo mạnh vạt cổ áo mình, hất tung chiếc áo bào thêu hoa văn sẫm màu tinh xảo ra ngoài, lộ ra nửa thân trên cường tráng.

Hai tay của vị tiểu tướng tiếp được áo bào của hắn, ý thức được hắn muốn làm gì, hoảng sợ nói: "Hầu gia không thể, ngài là thân thể ngàn vàng..."

Tạ Chinh ngoảnh mặt làm ngơ, cầm mạch đao vung một cái, dùng trái tay chém vào sau lưng hắn, lưỡi đao sắc bén lập tức để lại trên tấm lưng vạm vỡ một vết máu thật sâu.

Sau khi lưỡi đao quét được máu, nhỏ xuống một vòng hạt máu trên mặt đất.

Lão thợ rèn thấy thế thì kinh ngạc liếc nhìn Tạ Chinh một chút, sau đó nghiêm nghị hét lớn một tiếng như chiêng vỡ: "Lên lửa lớn!"

Hán tử phụ trách kéo ống bễ vội vàng kéo mạnh ống bễ, ngọn lửa trong lò rèn nháy mắt tăng thêm một độ, sóng nhiệt khiến da thịt người ta đau nhức.

Thanh mạch đao đã uống máu này được bỏ vào trong lò rèn nung nóng.

Vị tiểu tướng cũng vội vàng gọi người đắp thuốc lên lưng cho Tạ Chinh.

Sau khi lưỡi đao của thanh mạch đao nung đỏ, lão thợ rèn vung chùy đinh thiết đánh lại cẩn thận, sau khi bị nước dập tắt, một làn khói trắng lập tức bốc lên theo tiếng "xì xèo".

Sau khi nguội hoàn toàn, lão thợ rèn cầm thanh mạch đao lên nhìn kỹ hơn, ông ta thấy lưỡi đao kia cũng giống như chuôi đao lộ ra màu đen, nhưng hoa văn rèn lại lộ ra màu đỏ vàng, chỉ có phần rìa là màu tro, mừng rỡ muốn rơi lệ.

Ông ta lẩm bẩm: "Xong rồi, xong rồi".

Đám thợ rèn xung quanh bốn phía cũng reo lên, tụ tập vây quanh để xem binh khí thứ hai được dùng thiết đen chế tạo thành.

Lão thợ rèn dùng dụng cụ đánh bóng lại lưỡi đao lần nữa, cuối cùng dùng khăn lau sạch vết bẩn do quá trình rèn đúc để lại, sau khi bị nung lửa lớn, lưỡi đao màu trắng xám lập tức sáng loáng sắc bén, chỉ cần nhìn qua là có thể cảm nhận độ sắc bén của lưỡi đao.

Những hoa văn vòng tròn màu đỏ vàng trên thân đao lúc này cũng lộ ra một loại cổ quái khác lạ.

Lão thợ rèn dùng hai tay dâng mạch đao giao cho Tạ Chinh, có chút kích động nói: "Làm phiền Hầu gia thay thanh mạch đao này tìm một minh chủ, sở học suốt đời lão hủ đều nằm trong thanh đao này, ngày khác binh khí này có thể cùng với chủ nhân của nó vang danh thiên hạ, lão hủ cũng sẽ không thua Vân Nhai Tử hắn!"

Tạ Chinh đáp: "Đương nhiên".

Khi nhìn thấy thanh mạch đao cán dài, hắn biết nó rất thích hợp với Phàn Tiểu Linh.

Mạch đao vừa có thể bổ vừa có thể chém, mặc kệ là dùng tác chiến trên lưng ngựa hay là bộ binh, đều là binh khí thượng thừa.

Tạ Chinh sai người cất trường đao vào trong hộp, hắn vừa ra khỏi doanh trại, liền có thân binh cưỡi ngựa từ hướng Khang thành đuổi tới: "Hầu gia, Thái phó gửi thư!"

Tạ Chinh nhíu mày, Tạ Thất mới vừa để Hải Đông Thanh đưa thư, Đào Thái phó lại gửi một bức thư, chẳng lẽ Sùng châu có biến?

Hắn nhận lấy bức thư từ tay thân binh, mở ra đọc, rồi lại bỏ thư vào trong ngực, liếc nhìn thân binh: "Theo ta đến Sùng châu".

Thân binh nhanh chóng tuân mệnh.

Trong thư Đào Thái phó có nói, sau khi Lý Hoài An đến Sùng châu liền một mực ở lại trong quân, Đào Thái phó nghi ngờ Lý Hoài An đã từ kho hồ sơ của phủ Tế châu tra ra được nhược điểm gì của Hạ Kính Nguyên, đồng thời cũng xác nhận hoàng tôn có thể ở ngay tại Sùng châu, lúc này mới lưu lại ở trong quân.

Ánh tà dương buông xuống chiếu vào trong mắt của Tạ Chinh, ánh mắt của hắn càng ngày càng lạnh, ngồi lên lưng ngựa, nặng nề kéo dây cương, quát lớn một tiếng: "Giá!"

Khi Đào Thái phó đi tìm Hạ Kính Nguyên, Hạ Kính Nguyên nửa ngạc nhiên nửa nhẹ nhõm, nói: "Sau khi dìm nước phản tặc tiến đánh Lư thành, Đường tướng quân mang theo không đến hai vạn tân binh lại quyết đoán bao vây Sùng châu, tại hạ sớm nên nghĩ đến là có Thái phó bên cạnh thay Đường tướng quân bày mưu tính kế".

Đào Thái phó nói: "Tây Bắc hỗn loạn đã lâu như vậy, trên triều Lý đảng và Ngụy đảng lại tranh đấu với nhau, đã đến lúc khôi phục thái bình cho thiên hạ bách tính".

Hạ Kính Nguyên thở dài: "Bách tính của Đại Dận ta thật khổ sở".

Đào Thái phó nghe thấy lời này, hỏi ông ta: "Nếu ngươi đã lo do dân sinh thiên hạ, thì tại sao chỉ vì một ân tri ngộ đã đủ để khiến ngươi bán mạng thay Ngụy Nghiêm nhiều năm như vậy?"

Hạ Kính Nguyên cười khổ: "Năm đó Thái tử Thừa Đức và Tạ tướng quân tử chiến ở trận Cẩm châu, không còn tướng lĩnh để phòng thủ biên cảnh, Đại Dận tràn đầy hung hiểm, là do chính Thừa tướng đã trụ lại sống lưng Đại Dận. Không nói đến tình hình trước mắt thế nào, Hầu gia có thể chỉ huy phía bắc đoạt lại Cẩm châu, đây chính là vì Đại Dận đã được nghỉ ngơi lấy lại sức mười mấy năm mới có nội tình này, trong mấy năm đó, Thừa tướng đã vì Đại Dận mà làm rất nhiều. Nếu không phải gặp được Thừa tướng, Kính Nguyên hẳn là đã chết ở bên đường mấy chục năm trước, giờ chỉ là một bộ xương chết cóng mà thôi. Ân tri ngộ này, liền không dám quên".

Đào Thái phó nói: "Lão đầu tử Lý gia kia tự nhận là thanh lưu, nhưng dã tâm không nhỏ hơn so với Ngụy Nghiêm. Đám vây cánh dưới trướng Ngụy Nghiêm kia tham lam quốc khố no nê đầy đủ, còn có thể làm được việc gì cho bách tính? Ngụy Nghiêm rơi đài, đổi lại là Lý đảng tiếp quản, một đám bụng đói kêu vang đi lên, chờ đến khi bọn họ tham lam no bụng lần nữa, chỉ sợ quốc khố sớm đã trống rỗng, từ đó lại nghĩ bòn rút từ trong kẽ răng của bách tính tầng chót".

Ông ấy nhìn Hạ Kính Nguyên: "Dù lão phu có bất đồng chính kiến với Ngụy Nghiêm, nhưng lão phu lại càng không muốn nghênh đón Lý đảng. Lý đảng những năm này vì muốn tranh đấu cùng Ngụy Nghiêm mà để mặc việc cắt xén lương cứu tế, để nạn dân chết đói liên miên rồi dựa vào đó vạch tội Ngụy Nghiêm. Ngươi cũng biết rõ chuyện lão đầu tử Lý gia tranh quân công Sùng châu cùng với Ngụy Nghiêm, hiện tại Lý Hoài An cũng đã đến Sùng châu, lão phu nghĩ hẳn là hắn đã lấy được nhược điểm gì đó của ngươi. Đại khái Ngụy Nghiêm có thể sẽ không bảo vệ ngươi, nhưng niệm tình năm đó ngươi có ân chôn cất xương cốt thê nhi của lão phu, lão phu vẫn nguyện ý bảo vệ cho ngươi một mạng. Nhưng ngươi có nguyện ý nói cho lão phu biết, trên tay Lý Hoài An đang nắm giữ rốt cuộc là cái gì?"

Hạ Kính Nguyên nghe Đào Thái phó nói đến ân tình chôn xương cốt năm đó, hồi tưởng về chuyện cũ, trong lòng khó tránh khỏi nỗi buồn vô cớ.

Sở dĩ Đào Thái phó thưởng thức ông ta không chỉ vì ông ta thanh liêm, yêu dân như con, còn là bởi vì trong trận chiến loạn lúc trước, thê nhi Đào Thái phó đã chết thảm, mà ông ta đã hỗ trợ dựng lên phần mộ.

Thê nhi đã qua đời hơn hai mươi năm, Đào Thái phó vẫn luôn một thân một mình, chỉ là so với những tiến sĩ cùng tuổi nhìn vẫn già hơn một chút.

Sau khi Tạ Chinh xuất sư, ông ấy cảm thấy sở học cả đời đã có người truyền thừa, liền từ quan quy ẩn, vẫn chưa từng rời núi.

Có được cam đoan như thế của Đào Thái phó, Hạ Kính Nguyên nhớ lại lời hứa với Tạ Chinh ngày hôm đó, đột nhiên đứng dậy trịnh trọng khom người: "Hạ mỗ tham sống sợ chết đến ngày hôm nay, bất quá là trên vai còn gánh nặng không thể nhấc xuống. Nếu thật sự có một ngày như vậy, tính mạng của Hạ mỗ không đáng tiếc, chỉ khẩn cầu Thái phó thay Hạ mỗ bảo vệ tính mạng của một đôi tỷ muội".

Đào Thái phó nghe thấy câu trả lời này cảm thấy hơi kỳ lạ, hỏi: "Là ai?"

Hạ Kính Nguyên nói: "Đó là nữ nhi của cố nhân Hạ mỗ".

Đào Thái phó theo bản năng cau mày, nghe Hạ Kính Nguyên tiếp tục: "Vị cố nhân kia, có lẽ Đào Thái phó cũng biết".

.

Chương 124

Sau khi Đào Thái phó từ chỗ của Hạ Kính Nguyên trở về, đã ngay lập tức đi tìm Phàn Tiểu Linh. Khi đến doanh trại của nàng, ông ấy mới biết nàng đã trở về nhà.

Trước khi tân binh tham chiến, mỗi binh lính cứ nửa tuần sẽ có một ngày hưu mộc, đám tiểu binh cũng có một ngày rảnh rỗi. Những người như Phàn Tiểu Linh nếu có chỗ để ở gần đây, cũng có thể về nhà một ngày.

Đào Thái phó chắp tay sau lưng nhìn trời, lẩm bẩm: "Thiên ý trêu người, như thế nào mọi thứ lại trộn lẫn vào đây".

Đến khi Tạ Chinh dựa theo địa chỉ Tạ Thất đề cập trong thư, tìm thấy tiểu viện mà Phàn Tiểu Linh đã thuê thì sắc trời đã gần tối.

Trong sân có chút hẻo lánh, lối vào sân có một con đường đá kéo dài, trên tường viện có một cây lựu vươn ra cành lá, hoa đã rụng đi, trên đài hoa có điểm xuyết quả thạch lưu to bằng móng tay.

Cửa sân không đóng, có một đại nương trên năm mươi tuổi bưng một chậu rau ngồi trên ngưỡng cửa chậm rãi lặt, bên cạnh có một cô nương trẻ đã đổi một thân nữ trang ngồi trên chiếc ghế đẩu thấp, giúp đỡ đại nương cùng lặt rau củ.

Trong sân, một lão nhân gầy guộc đang đập một loại đồ dùng nào đó, còn một nam tử trẻ tuổi bên cạnh đang lúi húi phụ giúp bào gỗ.

Tạ Chinh dắt ngựa dừng lại, lặng lẽ quan sát một lúc lâu.

Có lẽ là do ánh hoàng hôn còn sót lại đã phủ một tầng ánh sáng vàng ấm áp lên mọi vật trước mắt, khiến hắn có cảm giác như đang ở nhà.

Những sóng ngầm mãnh liệt trên triều đình đều trở nên xa xôi, đáy lòng chỉ còn lại sự yên bình.

Bên kia đường lại vang lên tiếng bước chân, còn có tiếng trẻ con vui vẻ ngân nga những bài đồng dao lạc điệu.

Tạ Chinh nghiêng đầu nhìn qua, thấy Trường Ninh nhún nhảy lắc lư đi ở phía trước, hai cái búi tóc trên đỉnh đầu cũng lắc lư theo. Lại trông thấy Tạ Thất đang lùa một con vịt mẹ cùng một đàn vịt con đi phía sau, bất đắc dĩ nói: "Tổ tông, muội đi chậm một chút, coi chừng ngã".

Bệnh cạnh còn có Hải Đông Thanh cũng đong đưa đi theo sát. Có những con vịt con bị tụt lại phía sau, lúc Tạ Thất quản không nổi thì Hải Đông Thanh sẽ đi tới mổ chúng, dọa khiến cho mấy con vịt con lông vàng kêu líu ríu, sợ hãi lao về phía trước.

Bổng dưng Tạ Thất ngẩng đầu lên một cái, liền nhìn thấy Tạ Chinh đang dắt ngựa đứng ở ven đường, bị doạ giật cả mình, vội vàng gọi: "Hầu... Chủ tử".

Trường Ninh cũng kinh ngạc lên tiếng: "Tỷ phu?"

Phàn Tiểu Linh đang ngồi ở cửa sân, nghe thấy động tĩnh bèn nhìn ra ngoài, thấy một người một ngựa đứng dưới ánh chiều tà. Đầu tiên là sửng sốt một lúc, sau đó phủi tay vào áo đứng dậy, muốn đi tới giúp Tạ Chinh dắt ngựa, nhưng lại do dự đứng tại chỗ.

Ngược lại, Triệu đại nương nhìn thấy Ngôn Chính liền vui vẻ ra mặt, giục Phàn Tiểu Linh, nói: "Mau mau, tiểu Ngôn tìm tới rồi, sao cháu không tiến đến đón hắn".

Phàn Tiểu Linh căn bản là không ngờ Tạ Chinh lại xuất hiện ở Sùng châu sớm như vậy.

Hắn không phải sẽ dẫn binh tấn công Khang thành sao?

Tại sao lại đột ngột đến đây như vậy?

Phàn Tiểu Linh bước lên phía trước với sự nghi ngờ hiện ra ngay trên trán. Đương lúc nàng định nói giúp hắn dắt ngựa, thì Tạ Ngũ đang giúp Triệu thợ mộc bào gỗ trong sân đã lao tới cướp lấy công việc này.

Hắn ta cười nói: "Chuồng gia súc đang bỏ không, thuộc hạ trước đi buộc ngựa vào chuồng gia súc".

Sân này vốn là sân của nông dân, người ta đều có xây dựng chuồng lợn, chuồng gia súc.

Sau khi Triệu đại nương đến đây, ngoại trừ trồng một số loại rau, còn nuôi một đàn vịt. Ngày nào Trường Ninh cũng năn nỉ Tạ Thất dẫn mình đi cùng, lùa đàn vịt ra sông bơi lội rồi quay lại.

Triệu thợ mộc bị bắt đi trưng binh, vào trong quân chỉ làm công tượng kiêm đại phu chữa trị cho gia súc cho nên không cần theo đại quân thao luyện. Thời gian của ông linh hoạt hơn so với Phàn Tiểu Linh, sau khi Phàn Tiểu Linh đón Triệu đại nương đến đây thì đã đi tìm ông.

Triệu thợ mộc không nghĩ tới ở nơi tha hương còn có thể gặp lại bạn già của mình, lúc trước khi bị bắt đi trưng binh, ông đã chuẩn bị xong việc phải chết ở bên ngoài. Bây giờ đôi lão phu thê có thể ở bên nhau, nên phần lớn thời gian ông đều trực tiếp trở về tiểu viện bên này.

Ông là người không chịu ngồi yên, thấy bàn ghế trong sân đã cũ, liền bắt tay vào làm nhiều đồ dùng sinh hoạt.

Tiểu viện ban đầu dột nát, xiêu vẹo đã dần dần có mùi khói lửa.

Phàn Tiểu Linh nhìn người mới xa cách vài ngày, chân thành hỏi một câu: "Không phải huynh đến Khang thành sao, tại sao lại đến đây?"

Hoàng hôn màu cam rơi trên gò má nàng, khiến khuôn mặt nàng như phủ một lớp phấn hồng, Tạ Chinh nhìn nàng chằm chằm một lúc rồi nói: "Trên núi chẳng phải chỉ có mình ta, ta chỉ có thể đi tìm núi*".

Những ngày này Phàn Tiểu Linh bị Đào Thái phó dẫn đi đọc sách, mỗi ngày đều nghe ông ấy giảng dạy về đại đạo 'Chi, hồ, giả, dã', phương diện học thức cũng có chút tiến bộ, nghe hiểu được câu nói này của hắn, gương mặt bị ánh mặt trời chiều chiếu lên lại càng đỏ hơn.

Triệu đại nương bưng rau đã lặt xong đứng dậy, vui vẻ nói: "Tiểu Ngôn nhanh vào trong phòng ngồi đi".

Bà rất vui khi nhìn thấy Tạ Chinh, từ xưa đến nay có rất ít người đi chinh chiến có thể sống sót trở về, lão nhân đã không sao, phu quân của Tiểu Linh cũng không sao, Triệu đại nương cảm thấy đó là một là một đại sự vui vẻ, vì thế quay đầu gọi Triệu thợ mộc: "Lão đầu tử, mau mau giết con gà mái trong lồng làm thịt đi".

Tạ Thất vừa chăn một đàn vịt đi một vòng trở về nói: "Đại nương, để cháu làm đi".

Vừa nói, hắn ta vừa lôi một con gà mái trong lồng xách đi vào phòng bếp.

Triệu đại nương còn chưa biết thân phận của Tạ Chinh, sợ hắn hiểu lầm, nói: "Vừa rồi là tiểu Thất, khi nãy giúp cháu dắt ngựa là tiểu Ngũ, đều là binh lính dưới trướng của Tiểu Linh. Cháu không biết đâu, bây giờ Tiểu Linh thật có bản lĩnh, còn đang ở trong quân doanh làm quan, dưới tay trông coi đến mấy chục người!"

Lúc trước Phàn Tiểu Linh đã không nói cho lão phu thê Triệu đại nương biết thân phận thật sự của Tạ Chinh, thứ nhất là vì sợ hai lão nhân gia bị dọa, thứ hai là hôn sự lúc trước của bọn họ không phải sự thật, sợ nửa đường có biến cố gì nên muốn đợi mọi chuyện lắng xuống rồi nói chuyện sau.

Không ngờ Triệu đại nương lại khoe khoang về chức đội trưởng nho nhỏ của mình trước mặt Tạ Chinh, nàng vội vàng cắt lời ngang: "Đại nương, tối nay ăn gì?"

Triệu đại nương thật sự bị dời lực chú ý, suy nghĩ đến bữa tiệc chào mừng tối nay, nghĩ đứt quãng, nói: "Có một con gà... nhưng đáng tiếc chỉ có một con vịt mái, còn phải giữ lại để dẫn những con vịt con đó, không giết được, lại hầm canh sườn đi".

Có lẽ là vì muốn để cho hai người "đã lâu không gặp" có thêm cơ hội ở một mình, khi Triệu đại nương vào bếp đã bảo Triệu thợ mộc đi giúp nhóm lửa, Trường Ninh cũng bị bà dụ dỗ đi vào phòng bếp.

Sau khi đi buộc ngựa, Tạ Ngũ rất lâu vẫn chưa trở lại, trong sân thật sự chỉ còn lại Phàn Tiểu Linh cùng Tạ Chinh.

Nàng có chút ngượng ngùng nói: "Chuyện thân phận của huynh, ta vẫn còn chưa nói cho mấy người Triệu đại nương biết".

Tạ Chinh nói: "Không sao".

Hắn lại hỏi nàng: "Trong quân thế nào?"

Rõ ràng lúc hai người chia tay đều không có vấn đề gì, nhưng lúc này Phàn Tiểu Linh cảm thấy khắp nơi đều không thoải mái, nàng dùng đầu ngón chân vẽ vòng tròn trên mặt đất: "Nghĩa phụ đã tìm cho ta một chức đội trưởng trong quân, hiện tại mọi việc đều ổn".

Tạ Chinh nhàn nhạt "ừm" một tiếng.

Phàn Tiểu Linh không tìm được lời nào để nói nữa, nhìn thấy hắn đang chống một chiếc hộp gỗ dài cao bằng hình người, liền hỏi: "Đây là cái gì?"

Tạ Chinh đưa cho nàng, nói: "Cho nàng".

"Cho ta?" Phàn Tiểu Linh tò mò nhìn hắn một cái, giơ tay muốn nhận, phát hiện trên tay khá nặng.

Khi mở nó ra xem, nàng nhìn thấy một thanh đao đen nhánh hiện ra hoa văn đỏ vàng, chỉ có thanh mạch đao với lưỡi đao sắc bén sáng như tuyết được đặt trong đó, trông hoàn toàn mới tinh.

Phàn Tiểu Linh cầm lấy thanh trường đao lên ước lượng, chỉ cảm thấy trọng lượng này vừa phải, hợp múa may, nàng dùng đầu ngón tay nhẹ nhàng lướt qua lưỡi đao, liền bị rách da, giọt máu nhỏ bé chảy ra.

Nàng có chút kinh ngạc nói: "Đao thật bén!"

Nàng ngẩng đầu nhìn Tạ Chinh, hỏi: "Huynh sai người làm?"

Tạ Chinh không giấu giếm, chỉ nhướng mi, ngữ điệu lười biếng mang theo mấy phần ý cười: "Còn chờ nàng nhanh kiến công lập nghiệp".

Phàn Tiểu Linh kịp hiểu ra ý tứ trong lời nói của hắn, mặt nàng lại nóng như lửa đốt, siết chặt cán đao trong tay, nhưng vẫn nhướng ánh mắt kiên định nhìn hắn nói: "Ta biết rồi".

Tạ Chinh bị ánh mắt của nàng làm cho nao nao, ánh mắt sâu đi mấy phần, hỏi: "Có muốn luyện tập đao mới không?"

Phàn Tiểu Linh còn tưởng rằng hắn muốn cùng nàng luyện đấu tay đôi, vui vẻ nói: "Được".

Khi nàng nói xong liền bày ra tư thế đánh võ.

Tạ Chinh nói: "Đi ra ngoài đi".

Phàn Tiểu Linh nghĩ rằng hắn cảm thấy sân này quá nhỏ, sợ không thi triển được tốt, vì vậy nghe lời nói: "Vậy đến bãi sông đi, địa hình bên kia khoáng đạt".

Nàng hướng vào bếp hô một tiếng, nói trễ một chút sẽ trở về, sau khi nói xong liền mang theo thanh đao vừa lấy được đi theo Tạ Chinh ra ngoài.

Lúc này trời đã tối đen, trên bãi sông kia căn bản không có một bóng người.

Tạ Chinh ngẫu nhiên nhặt một thanh gỗ làm binh khí.

Lúc trước Phàn Tiểu Linh từng mang theo hai thanh đao mổ lợn, dùng phương thức chiến đấu đại khai đại hợp. Bây giờ lại có được thanh mạch đao cán dài tiện tay này, nàng càng có thể đem ưu thế của mình phát huy đến cực hạn.

Dưới ánh trăng, binh khí trong tay hai người giao thoa với nhau, cơ hồ chỉ có thể thấy tàn ảnh, thanh sắt và gậy gỗ va chạm phát ra tiếng vang, một bên thanh thúy, một bên trầm đục.

So với đoản đao, Phàn Tiểu Linh sử dụng trường đao càng thích hợp với chiêu thức hơn. Nhưng bởi vì khi thực chiến có rất ít cơ hội sử dụng trường đao, lại đang đối đầu với Tạ Chinh, đến cùng vẫn thể hiện ra mấy phần non nớt.

Chỉ là không biết vì sao, tối nay Tạ Chinh dường như không phát huy hết khả năng của mình, hắn rất ít khi dùng vũ lực để đấu với nàng, về cơ bản là dùng mưu trí. Phàn Tiểu Linh đã quen với việc mạnh công nhẹ thủ, bị đối phương so chiêu đôi co như thế này, chỉ cảm thấy sức lực toàn thân không thể phát tiết được, chỉ một vài đao liền lộ ra sơ hở.

Sau khi chém tới chém lui, Tạ Chinh xuyên qua khung cửa trống không, dùng cây gậy gỗ đánh bay thanh mạch đao trong tay nàng. Nàng giẫm phải đá vụn lảo đảo lui về phía sau một bước, lưng đụng phải cọc gỗ trên bến thuyền, đúng lúc nàng muốn cúi người nhặt đao, thanh gỗ trong tay Tạ Chinh đã cách vị trí trái tim nàng chừng nửa tấc.

Phàn Tiểu Linh âm thầm giật mình, vừa rồi bởi vì nàng dùng võ công nên đổ rất nhiều mồ hôi, hô hấp dồn dập, lồng ngực cũng kịch liệt phập phồng, vạt áo trước suýt chút nữa sát với thanh gỗ của Tạ Chinh chỉ vào nàng.

Trong bóng tối nhìn không rõ thần sắc Tạ Chinh, chỉ nghe hắn nói: "Nàng thua rồi".

.

Chương 125

Trong bóng tối nhìn không rõ thần sắc Tạ Chinh, chỉ nghe hắn nói: "Nàng thua rồi".

Tiếng nói của hắn không biết vì sao lại có chút trầm khàn.

Phàn Tiểu Linh nhớ lại từng chiêu từng thức vừa rồi, mấp máy môi, muốn nhúc nhích lại phát hiện thanh gậy gỗ trong tay Tạ Chinh không có ý định thu hồi lại. Nàng có chút không phục nói: "Lại đến đi!"

Nhưng người trước mặt không hề chớp mắt mà chỉ nhìn chăm chú vào nàng.

Phàn Tiểu Linh ngước mắt đối mặt nhìn hắn, bị sắc đen trong ánh mắt hắn làm cho giật mình, theo bản năng muốn quay đi chỗ khác, nhưng lại như bị thứ gì đó mê hoặc, chỉ ngây người nhìn hắn.

Khi Tạ Chinh cúi đầu hôn nàng, hô hấp của nàng có hơi cứng lại, chỉ nghe được tiếng nước chảy róc rách bên bờ sông, hàng mi dài khẽ run rẩy, từ từ nhắm mắt lại.

So với lần trước, lần này hắn hôn rất nhẹ nhàng, nhưng lại thêm trúc trắc.

Phàn Tiểu Linh cảm thấy mình hô hấp nhanh liền khó thở, cho nên đẩy hắn ra, nhưng hắn đã nắm lấy hai tay nàng ấn lên đỉnh đầu, tay còn lại thì nắm lấy cằm nàng để hôn sâu.

Không biết có phải vừa luyện võ qua hay không mà toàn thân nóng như lửa đốt, hơi thở như muốn bốc hỏa, chiếc áo mùa hè mỏng manh cũng không ngăn được thân nhiệt nóng như lửa đốt của hắn.

Hơi nóng càng làm cho mùi hương trên người hắn tăng nhiều hơn, không phải mùi huân hương hay là mùi mồ hôi, mà là một mùi đặc thù chỉ thuộc về hắn, rất dễ chiu.

Có lẽ là do thiếu dưỡng khí, không giống như môi lưỡi tê dại sau khi bị hôn lần trước, Phàn Tiểu Linh cảm thấy tay chân bủn rủn, hơi đứng không vững.

Người trước mặt hình như còn tệ hơn nàng, hắn vùi đầu vào hõm cổ nàng, thở hồng hộc như dã thú sắp phát cuồng, hơi thở phun ra ở bên cổ nàng có chút nóng bỏng.

Phàn Tiểu Linh theo bản năng cảm nhận được nguy hiểm, tận lực quay đầu sang một bên, suy nghĩ một chút, thử đề nghị: "Hay là chúng ta lại đánh thêm một trận đi?"

Người trước mặt đột nhiên oán hận cắn một ngụm nhỏ trên cổ nàng, một ngụm này như muốn trả thù.

Cảm giác đau đớn nhỏ bé mơ hồ khiến Phàn Tiểu Linh há hốc mồm không dám nói thêm nữa.

Nàng không biết nhiều về chuyện giữa nam nữ, nhưng nàng cảm thấy sau khi nghe thấy tiếng hít thở nhẹ của hắn, cơ thể hắn dường như trở nên căng thẳng hơn, hai bên thái dương có mồ hôi nhàn nhạt.

Phàn Tiểu Linh nhận thấy hắn không thoải mái, vì vậy nàng vỗ nhẹ vào lưng hắn để trấn an.

Tạ Chinh nới lỏng hàm răng cắn cổ nàng, lấy khoảng cách nửa thước nhìn chằm chằm vào nàng, con ngươi so với màn đêm còn đen hơn, trong giọng nói khàn khàn có chút mềm mại: "Phàn Tiểu Linh, khi nào thì ta mới có thể cưới nàng?"

Tạ Chinh thật sự rất đẹp mắt, mái tóc ướt đẫm mồ hôi rối tung trên trán, trong đôi mắt phượng sâu thẳm ẩn chứa một chút thỏa hiệp và ủy khuất không rõ ràng, đôi môi mím chặt đến mức khiến người ta muốn hôn lên.

Phàn Tiểu Linh cảm thấy trong lòng mềm nhũn, đưa tay sờ sờ mặt của hắn, vô cùng nghiêm túc nói: "Chờ khi nào ta tích đủ 'của hồi môn' cho mình, ta liền gả cho huynh".

Của hồi môn nàng muốn đương nhiên không phải tiền tài, mà là điều nàng đã nói qua với hắn, một phần sức mạnh có thể cùng hắn sóng vai.

Tạ Chinh nhìn chằm chằm nàng: "Được, ta sẽ chờ nàng. Đời này không phải nàng ta sẽ không cưới, nàng cũng không thể gả cho người khác".

Phàn Tiểu Linh buồn cười nói: "Ta đã lớn như vậy, chỉ thích có một mình huynh, không gả cho huynh thì gả cho ai?"

Những lời này khiến Tạ Chinh rung động một hồi lâu.

Phàn Tiểu Linh nói ra một câu như vậy liền cảm thấy có chút ngại ngùng, liền dời mắt đi chỗ khác nói: "Chắc là Triệu đại nương nấu cơm xong rồi, chúng ta trở về đi".

Tạ Chinh đột nhiên hỏi một câu: "Vị hôn phu trước đó của nàng thì sao?"

Từ khi Phàn Tiểu Linh rời khỏi huyện Thanh Bình đến nay đã xảy ra quá nhiều chuyện, đều đã sớm quên mất có một người như Tống Nghiễn, hiện tại nghe Tạ Chinh nhắc tới, không thể tin nhìn về phía hắn: "Huynh cho rằng ta sẽ thích hắn sao?"

Tạ Chinh nặn ra hai chữ: "Lúc trước".

Phàn Tiểu Linh không ngờ rằng hắn lại đột nhiên lại lôi ra chuyện cũ, phải biết rằng lúc trước hắn tuyệt đối khinh thường Tống Nghiễn. Nàng bất đắc dĩ nói: "Mặc kệ huynh có tin hay không, lúc trước cũng không có".

Nàng gãi đầu một cái, xấu hổ nói: "Kỳ thật... ta và hắn không thân thuộc lắm, lúc trước phần lớn hai nhà đều là trưởng bối tiếp xúc với nhau. Từ nhỏ đến lớn trong lòng hắn đều là sách thánh hiền, khi ta còn bé đi theo đám trẻ con trong ngõ chơi đùa, khi trưởng thành thì lại bị mẫu thân ta quản giáo, rất ít khi nhìn thấy hắn, cho dù có gặp phải, cũng không thể nói được mấy câu. Ta vẫn luôn cảm thấy hắn rất kiêu ngạo, tựa hồ như không quá muốn cưới một nữ đồ tể như ta, ta thậm chí còn từng nói với hắn chuyện bỏ qua hôn sự".

Tạ Chinh đột nhiên nói ra một câu: "Nàng đã cho hắn một đôi tượng đất sét".

Phàn Tiểu Linh quả thật trợn mắt há mồm, lần đầu tiên nàng cảm thấy trí nhớ của người này cũng quá tốt rồi.

Nàng lắp bắp nói: "Không phải, lúc đó ta còn chưa tròn tám tuổi, đưa cho hắn đôi tượng đất sét cũng không phải vì tình cảm nam nữ, chỉ là phụ thân của hắn vừa rời khỏi nhân thế, ta nhìn thấy hắn đáng thương nên mới đưa cho".

Khóe môi của Tạ Chinh nhếch lên không nói lời nào.

Phàn Tiểu Linh vò đầu bứt tóc hỏi: "Lúc trước có bao giờ huynh vì lễ tiết khách khí mà đưa đồ vật cho tiểu cô nương chưa?"

Đối phương lạnh lùng buông ra hai chữ: "Không có".

Phàn Tiểu Linh thật sự không biết nên giải quyết tình huống hiện tại như thế nào, phảng phất nàng tựa như một lãng tử tình trường đào hoa, gặp được cô nương mình ngưỡng mộ trong lòng, nhưng đối phương lại một mực quan tâm đến quá khứ của nàng, nàng thở dài: "Nếu như huynh để ý..."

Đối phương đánh gãy lời nói của nàng: "Ta không để ý".

Phàn Tiểu Linh: "..."

Lời này là như thế nào?

Nàng và người trước mặt mắt to mắt nhỏ trừng nhau.

Cuối cùng, Tạ Chinh rũ xuống đôi mi đen dày mảnh khảnh, nói: "Trở về thôi".

Nhìn bóng lưng Tạ Chinh xoay người rời đi, dưới ánh trăng thanh lệ có phần cô độc.

Khi Phàn Tiểu Linh kéo thanh mạch đao đuổi theo, nàng còn đang mê mang, không biết vì sao mình đột nhiên lại trở thành một kẻ đốn mạt làm tan nát cõi lòng thiếu nam.

Trên đường đi, Phàn Tiểu Linh có ý đồ muốn bắt chuyện với Tạ Chinh, nhưng hắn trên cơ bản chỉ đáp lại một hai chữ.

Phàn Tiểu Linh cũng nhìn ra trong khoảng thời gian ngắn hắn không muốn nói chuyện với nàng, vì vậy nàng cũng dứt khoát ngậm miệng không nói một lời nào với hắn nữa cho đến khi về đến nhà.

Trong lúc dùng cơm, Triệu đại nương có lẽ cũng nhận thấy bầu không khí kỳ lạ giữa hai người bọn họ.

Sau bữa ăn, Tạ Ngũ và Tạ Thất vội vàng tranh việc thu dọn bát đĩa, Tạ Chinh ngồi trong sân trò chuyện câu được câu không với Triệu đại thúc, còn Phàn Tiểu Linh thì đi tìm chăn bông trải trên sàn nhà.

Trong viện chỉ có ba gian phòng, ngày thường Triệu đại nương cùng Trường Ninh một phòng, Tạ Thất một phòng, phòng còn lại là dành cho Phàn Tiểu Linh.

Mỗi lần Phàn Tiểu Linh trở về, Triệu thợ mộc và Tạ Ngũ về cơ bản là cũng cùng nàng trở về. Bình thường, lúc này đều sẽ là Trường Ninh ngủ cùng Phàn Tiểu Linh, đôi lão phu thê Triệu gia ở một phòng, Tạ Ngũ thì chen chúc với Tạ Thất trong một phòng.

Nhưng tình huống như đêm nay, tất nhiên cần phải có người ngã lưng ra đất nghỉ ngơi.

Khi nàng ôm chăn định quay về phòng, Triệu đại nương nghiêm mặt chặn cửa lại nói: "Tiểu Linh, đại nương có mấy lời muốn nói với cháu".

Phàn Tiểu Linh cho là có chuyện gấp gì nên tạm thời đặt chăn xuống, sau khi Triệu đại nương đóng cửa lại ngồi vào trong phòng, nàng nói: "Người nói đi".

Triệu đại nương nhìn nàng thở dài: "Tiểu Linh à, đại nương biết hiện tại cháu rất phát đạt, nhưng dân gian có câu 'có vợ nghèo hèn không thể bỏ'. Thời điểm cháu gặp khó khăn như vậy, chính là Tiểu Ngôn ủng hộ cháu đi tới, về sau còn bị bắt đi trưng binh, phần tình cảm này, không ai có thể so sánh được. Bộ dáng tướng mạo của tiểu Ngôn không tệ, dù thế nào đi chăng nữa, đại nương vẫn hy vọng các cháu sẽ sống thật tốt, chớ đừng học những người kia, một khi phú quý liền vô tâm trở mặt không nhận người".

Phàn Tiểu Linh khó lòng giải thích được, chỉ có thể cắn răng nói: "Chúng cháu rất tốt".

Triệu đại nương nghiêm mặt lại nói: "Lúc hắn vừa mới tìm tới thì rất tốt, như thế nào sau khi đi ra ngoài một chuyến, đến khi trở về hắn lại có sắc mặt như thế? Nhất định là có chuyện khó xử, cháu đừng có dỗ đại nương, đại nương là người từng trải, chỉ cần một ánh mắt của mấy đứa không đúng đại nương đều có thể nhìn ra được".

Bà suy nghĩ một chút rồi hỏi: "Có phải tiểu Ngũ vẫn đi theo bên cạnh cháu khiến cho Ngôn Chính để ý không, nếu không thì để đại nương làm mối cưới cho tiểu Ngũ một thê tử?"

Phàn Tiểu Linh vội vàng nói: "Không phải chuyện này, đại nương cũng đừng lo lắng, kỳ thật cũng không phải chuyện gì to tát, cháu sẽ tìm cơ hội nói chuyện với huynh ấy".

Triệu đại nương nửa tin nửa ngờ, liếc nhìn đống chăn mà Phàn Tiểu Linh tìm được, bà đem nhét hết lại vào trong tủ, sau đó đóng cửa tủ lại nói: "Vậy tối nay hai đứa ở chung một phòng, rồi nói chuyện thật tốt đi, Ninh Ninh để đại nương dẫn theo".

Phàn Tiểu Linh như vùng vẫy giẫy chết: "Một cái chăn không đủ".

Triệu đại nương trừng mắt: "Sao lại không đủ, bây giờ đã sang hè, một người đắp một góc chăn cũng đủ rồi, cháu lấy nhiều chăn như vậy, định đuổi người ta xuống giường ngủ dưới đất sao?"

Khi bị đuổi về phòng, Phàn Tiểu Linh thậm chí còn ủy khuất hơn.

Tính khí này không phải là do nàng muốn làm ầm ĩ!

Không bao lâu sau, Tạ Chinh cũng vào phòng, không cần phải nói, chính là Triệu thím thuyết phục hắn đi vào.

Phàn Tiểu Linh ngồi ở mép giường, hai người nhìn nhau, nàng khô khốc nặn ra một câu: "Huynh muốn nghỉ ngơi sao?"

Tạ Chinh cởi ngoại bào ra, chỉ mặc quần áo trong nằm ở phía bên ngoài.

Phàn Tiểu Linh nhìn phần lớn chỗ nằm mà hắn chừa lại cho mình, mối quan hệ giữa hai người bọn họ căng thẳng đến mức này, cũng không tiện lại nói nhường cho một mình hắn nằm.

Nàng thổi tắt đèn, sờ soạng đi vòng từ dưới chân hắn đi tới, rồi nằm xuống cạnh mép giường ở phía trong, chừa một khoảng trống lớn ở giữa.

Trong đêm tối không ai phát ra âm thanh, thật lâu sau, Phàn Tiểu Linh mới thở dài nói: "Làm sao huynh có thể vô lý như vậy? Lúc còn nhỏ khi cho đồ người ta, căn bản không biết sau này Tống gia sẽ cư xử như vậy, cũng không biết bản thân có thể gặp được huynh. Huynh có thể vì chuyện hiện tại mà giận dỗi ta, nhưng huynh lại để tâm đến chuyện lúc trước, huynh muốn ta phải làm sao bây giờ?"

Người nằm bên ngoài không nhúc nhích, trong bóng đêm một giọng nói trầm thấp vang lên: "Năm ta bốn tuổi đã mất đi song thân".

Khi Phàn Tiểu Linh đột nhiên nghe thấy một câu này của hắn, còn tưởng rằng do hắn nghe nàng nói đã tặng Tống Nghiễn một đôi tượng đất sét vì phụ thân của hắn ta qua đời, cho nên cũng muốn đòi lễ vật của nàng.

Nàng bất đắc dĩ nói với hắn: "Đôi tượng đất sét kia kỳ thật là Triệu đại thúc nặn cho ta chơi, cũng giống như mấy con châu chấu rơm mà Trường Ninh hay chơi. Ta tự mình làm một đôi tượng đất sét cho huynh, có được hay không?"

Khi hỏi mấy từ cuối cùng, nàng đưa tay ra, nắm lấy tay hắn khẽ lắc.

Dường như có một chiếc lông vũ lướt nhẹ qua tim của hắn.

Hắn im lặng một lúc lâu, chỉ đáp một chữ "Được".

Không phải hắn để tâm, mà là hắn đang ghen tị.

Ghen tị vì khi hắn ở cái tuổi đó đã không gặp được nàng, chỉ có một mình hắn lẻ loi vượt qua khó khăn. Nhưng lại có một đứa trẻ khác bởi vì đau khổ mất đi phụ thân mà nhận được sự thương hại của nàng, được nàng tặng cho đồ vật, được cùng nàng lớn lên. Đến dáng vẻ của nàng ở mỗi độ tuổi hắn cũng không được nhìn thấy, vậy mà tên đó thậm chí còn từng có hôn ước với nàng.

Chỉ cần nghĩ về những thứ này, đáy lòng hắn liền có một cỗ ác ý không thể lý giải được lan tràn ra.

Nhưng hắn không dám nói những điều này với Phàn Tiểu Linh, hắn sợ Phàn Tiểu Linh cảm thấy hắn là một kẻ điên.

Phàn Tiểu Linh nhận được câu trả lời chắc chắn của hắn, cảm thấy có thể dỗ dành được người này, nàng nói với hắn: "Vậy thì quyết định như vậy đi".

Khi nàng định rút tay về, hắn liền giữ chặt lại, không cho nàng có chút cơ hội nào để rút tay.

Phàn Tiểu Linh kinh ngạc nhìn người bên cạnh, lại thấy hắn nhắm mắt lại, tựa hồ đã chìm vào giấc ngủ.

Nàng vừa bất lực vừa buồn cười, trong lòng mềm nhũn, cứ như vậy nắm lấy tay hắn, nằm xuống ngủ thiếp đi.

Chờ khi hô hấp của Phàn Tiểu Linh ổn định lại, nam nhân đang ngủ gật đột nhiên mở mắt ra, hơi quay đầu lại, trong màn đêm không hề chớp mắt nhìn nàng.

————————————————————

Tác giả có lời muốn nói:

Đại nương: Cháu không thể bội tình bạc nghĩa, cháu phải phụ trách với người ta bla bla...

Tiểu Linh (oan khuất): Cháu cũng không biết làm sao lại trở thành nữ cặn bã phụ lòng người...

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip