ngoncogiodua4e

Ngọn Cỏ Gió Đùa

Chương 16

Quyển thứ V - Nghĩa nặng tình sâu

Tiết tháng hai, mặt trời chen lặng chói cây cỏ, chỗ đỏ-đỏ, chỗ vàng-vàng. Lúc gần tối, chim trở về rừng bay có bầy, tốp kéo ngang, tốp kéo dọc. Trong xứ Cần-Ðước, tại chỗ ông Thiên-Hộ Trần-chánh-Tâm ở cách hai năm trước người ta xúm-xít đông đầy, nhà cửa cất chật đất, bây giờ người ta thưa thớt, nhà cửa lại tan-hoang. Mấy lẫm lúa hồi trước lẫm nào cũng vun-chùn, bây giờ trống trơn chứa gió chứa mưa, chớ không chứa lúa nữa. Mấy dưỡng đường hồi trước để nuôi người bịnh, chỉ thấy thằn-lằn rắn mối mà thôi. Trường học ngả nghiêng, nhà dưỡng lão hư sập. Cả ngàn nông phu đã tản lạc, hồi trước mười phần bây giờ còn không được ba phần. Trong sở ruộng ngày xưa cày cấy không bỏ sót một chỗ nào, bây giờ thấy gốc rạ từ khoảnh từ chòm, còn bao nhiêu thì cỏ mọc cao lên tới ngực. Có một người cao lớn vạm-vỡ, tóc xấp-xải chấm hai vai, quần xà lỏn, áo cụt tay, thủng thẳng lội xa xa trong ruộng, mà đi ít bước rồi lại đứng ngóng dòm mấy tòa nhà của Thiên-Hộ Chánh Tâm ngày trước. Mặt nhựt đã lặn mất rồi, một lát kế thấy nửa mặt nguyệt treo giữa bầu trời. Cây cỏ ruộng đồng lần-lần lu lờ mà người lội trong ruộng hồi nãy đó lại lần lần đi sát phía sau vuông rào của ông Thiên-Hộ. Nếu lúc ấy ai rình mà coi, thì ắt thấy người ấy ngó vô nhà, mà hai hàng nước mắt rưng-rưng. Ngặt vì trong nhà thấy đốt đèn leo lét mà không thấy dạng người vô ra, bởi vậy người ấy xẩn bẩn đi tới đi lui, cho đến hết nửa canh một rồi mới nhằm phía vàm rạch Cần-Ðước mà đi. Người nầy chẳng phải là ai lạ, ấy là Lê-văn-Ðó, lúc thanh niên vì lén bưng một trã cháo heo tính đem về cho mẹ và cháu ăn đỡ đói, mà phải bị đày 20 năm. Khi mãn tù nhờ được nghe lời phải nên đổi lòng sửa tánh, cải tên là Chánh-Tâm, thi ân bố đức, cứu khổ phò nguy, sau được triều đình phong chức Thiên-Hộ. Cách 2 năm trước, vì không để người thọ tội thế cho mình, nên mới xưng thiệt tên họ cho quan xử trảm giam hậu và đày vô Hà-Tiên. Nhơn vì đã nặng lời hứa sẽ bảo bọc con Thu-Vân thế cho Ánh-Nguyệt, nên ra thọ tội rồi lại lập mưu làm cho người ta tưởng mình đã chết, đặng lén trở về đây. Lê-văn-Ðó nhắm phía vàm Cần-Ðước mà đi, song hễ đi ít bước thì quày đầu ngó ngoái lại chỗ mình ở hồi trước một cái, mà mặt mày buồn xo, dường như trong lòng còn tiếc hay là mến chỗ mình dày công sáng tạo. Anh ta đi đến trăng gần lặn, lên tới vàm Cần-Ðước, gặp một người câu hỏi thăm rồi đi lần lại nhà ông sáu Thới. Trong nhà im-lìm, mà lại tối mò, Lê-văn-Ðó thấy có một gốc cây để ngoài sân, bèn lại đó mà ngồi. Ông sáu thức dậy chống cửa bước ra sân. Lê-văn-Ðó vùng đứng dậy rất gọn-gàng. Ông sáu Thới giựt mình la bài-hãi hỏi rằng: - Ai đó? Lê-văn-Ðó liền bước lại nói nhỏ-nhỏ rằng: - Tôi. Xin ông đừng nói lớn. - Tôi là ai? - Tôi là Lê-văn-Ðó. - Lê-văn-Ðó nào? - Lê-văn-Ðó là Thiên-Hộ Chánh-Tâm, ông quên tôi hay sao? - Húy! Mẹ ơi! Nói chơi hay hay sao chớ! Ông sáu Thới và nói và đi xít lại gần đặng nhìn mặt, ngặt vì cặp mắt ông đã lờ rồi, mà trời thì lại còn tối, bởi vậy ông dòm mà không thấy rõ. Tuy vậy mà ông nắm tay Lê-văn-Ðó vô nhà và hỏi nhỏ rằng : - Vậy mà họ nói ông chết rồi chớ! Sao ông lại được trở về đây? Lê-văn-Ðó không trả lời, lại hỏi ông sáu Thới rằng : - Con Thu-Vân còn ngủ phải hôn? Ðâu ông đốt đèn lên coi. - Cha chả! Nhà tôi không có đèn. Tôi nghèo, hễ tối thì ngủ, đốt đèn làm chi cho tốn dầu tốn mỡ. Còn con Thu-Vân tôi rước nó không được. - Sao vậy ông. - Có tiền đau mà chuộc! - Vậy chớ tiền tôi đưa cho ông hồi đó ông để làm gì? - Ông biểu bà Bạch-Thị đếm cho tôi một trăm quan. Tôi chưa kịp vác, kế lính nó áp tới bắt ông, nó làm dữ quá, nó đuổi tôi về, rồi niêm nhà niêm cửa hết, tôi có lấy tiền được đâu. Lê-văn-Ðó nghe nói như vậy thì chắc lưỡi lắc đầu, rồi ngồi khoanh tay thở ra, không nói chi nữa hết. Ông sáu Thới hỏi nữa rằng : - Mà ông làm sao được về đây? Lê-văn-Ðó lặng thinh một hồi rồi nói rằng : - Tôi trốn, nên về đây tôi không dám cho ai thấy mặt. Vì tôi chắc ông không nỡ hại tôi, nên tôi mới dám vô nhà ông. Vậy ông dám dấu dùm tôi ít ngày hay không? Ông sáu Thới cười và đáp rằng : - Ông hỏi kỳ quá! Sao tôi không dám? Tôi nhờ ơn ông vớt tôi khỏi chết chìm năm trước nên tôi mới còn sống cho đến bây giờ đây. Nói cùng mà nghe, ví dầu tôi dấu ông trong nhà, mà quan có hay, họ bắt họ giết tôi đi nữa, thì tôi lại càng vui lòng, bởi vì tôi muốn đem thân già nầy mà thế mạng cho ông đặng tôi trả ơn ngày xưa, nên chết tôi có sợ chi đâu. Thân già nầy dầu còn hay là mất nghĩ cũng không ích lợi gì, chớ ông sống thì có ích cho nhiều người ; tôi tưởng trong xứ nầy chẳng luận là nhà tôi, dầu ông đến nhà nào họ cũng sẵn lòng dấu-diếm dùm cho ông hết thảy. Lê-văn-Ðó gật đầu rồi hỏi rằng : - Hồi chiều tối tôi có lén về gần nhà tôi mà thăm coi những công nghiệp của tôi gầy-dựng hồi trước, bây giờ ra thể nào, tôi thấy nhà cửa xơ-rơ, nông phu tản lạc tôi buồn quá. Vậy chớ từ khi họ bắt tôi rồi họ làm sao đâu, ông nói lại cho tôi nghe thử coi. Quan Tri-Huyện là người đi với ông Ðội đó, có dạy chôn cất con Ánh-Nguyệt cho tử tế hay không? Ông sáu Thới nghe hỏi ông rất cảm động, bởi vậy ông nói bệu-bạu rằng : « - Ông nhắc tới chuyện đó tôi buồn quá-- rồi ông ngồi trên sập mà khóc rấm-rức. Nãy giờ hai người nói chuyện thầm trong nhà, vì trời còn tối, mà lại không có đèn, nên không thấy mặt nhau cho rõ. Ông sáu Thới khóc một hồi, trời đã sáng bét. Ông bước lại nắm tay Lê-văn-Ðó dắt ra cửa mà dòm mặt cho kỹ, thì thấy Lê-văn-Ðó cặp con mắt cũng ướt rượt. Ông nhìn rồi nói rằng : - Ông bây giờ coi ốm hơn hồi trước, mà da mặt da trán lại dùn nữa. Người như ông biết thương kẻ nghèo hèn, lẽ thì trời cho hưởng sung sướng mới phải, chớ sao lại khiến hoạn nạn cực khổ như vậy không biết. Lê-văn-Ðó không giống như người thường, nên nghe than như vậy mà không buồn, đứng nói hòa huởn rằng : - Kiếp trần nầy còn cũng vậy mà mất cũng vậy, sướng cũng vậy mà cực cũng vậy, tôi có sá chi đâu. Tôi về đến đây tôi thấy sự nghiệp của tôi hư hết, thiệt tôi buồn, nhưng mà tôi buồn chẳng phải là tiếc chức Thiên-Hộ hay là tiếc tiền tiếc của chi đâu, tôi buồn là vì tôi vừa ra khỏi nhà rồi thì đã thấy thiên-hạ không còn ai biết thương yêu cứu giúp con nhà nghèo nữa. Mà thôi, chuyện ấy nói không hay cùn, vậy ông thuật sơ công việc của tôi, trong 2 năm nay ở nhà họ làm làm sao, cho tôi nghe một chút. Lê-văn-Ðó nắm tay ông sáu Thới kéo trở vô nhà. Ông sáu Thới và đi và nói rằng : - Việc ấy nói lại nghe buồn lắm. Ông Ðội với lính bắt dắt ông đi rồi, thì quan Tri-Huyện dạy lính bao nhà hết thảy, cấm không cho ai ra vô. Tôi sợ quá nên ngồi chồm hổm trong hốc, ngó cái thây ma của con Ánh-Nguyệt mà khóc. Ðến chiều có một cậu lính vô đuổi tôi ra. Tôi chỉ con Ánh-Nguyệt mà nói rằng cháu tôi nó chết còn nằm đó, xin cho phép tôi vác nó về tôi chôn. Cậu nạt tôi, biểu phải đi cho mau. Tôi ra ngoài rồi tôi lại xin phép lên nhà lớn mà vác một trăm quan tiền của ông cho tôi. Họ nhảy lại đạp tôi rồi xô đùa tôi đi. Tôi ra tới mé sông, tôi gặp Bạch-Thị, Hồng-Thị, thầy thuốc, thầy giáo đương ngồi chùm-nhum mà khóc. Mấy ông già bà già và sắp con nít mồ-côi đều bị đuổi ra hết thảy. Tôi hỏi thăm mới hay quan Tri-Huyện dạy đuổi ra hết, không cho ai ở trong sở của ông nữa. Ðêm ấy ngài coi cho lính đào xới cùng trong nhà ngoài sân đặng kiếm coi ông có chôn vàng bạc chi hay không. Qua bữa sau ngài dạy làng lấy hai chiếc ghe lớn mà chở tiền bạc và đồ đạc của ông đem về tỉnh. Người thiệt ác quá, tiền bạc thì biết lấy, còn cái thây con Ánh-Nguyệt người ta không thèm dạy lính chôn dùm. Quan Tri-Huyện đi rồi, cái thây sình bay hơi thúi quá, lính ở lại giữ lúa họ chịu không nổi, nên túng thế họ mới bắt dân khiêng ra ruộng đào lỗ mà dập. Lê-văn-Ðó nghe nói tới đó thì nổi giận nên trợn mắt nói rằng : - Quân khốn nạn! Không có lương tâm. - Ông nói ai? - Thằng Tri-Huyện Hải-Yến đó chớ ai. - Hễ làm quan thì họ làm như vậy hết thảy. - Ông biết Tri-Huyện là ai hay không? Nó là chồng của con Ánh-Nguyệt đó đa. - Húy! Sao ông biết? - Hồi nó bước vô bắt tôi, con Ánh-Nguyệt thấy mặt, nó la om, ông không nghe hay sao? Con Ánh-Nguyệt ngó thấy nó giận quá, nên làm xung mới chết đó chớ. Nó nhìn cũng biết con Ánh-Nguyệt, nên mặt mày nó tái xanh. Vậy mà nó không lo chôn cất cho tử-tế, để lo kiếm tiền bạc, quân đó thiệt là ác nghiệt. - À! Ông nói tôi mới nhớ, con Ánh-Nguyệt hồi trước nó có nói với tôi rằng người chồng bạc bẽo bỏ mẹ con nó đó, tên là Hải-Yến. Té ra Hải-Yến là quan Tri-Huyện nầy hay sao? Bất nhơn dữ hôn! Tôi có dè đâu! Hồi họ áp bắt ông đó, tôi thất kinh, hồn vía bay mất hết, có hiểu chuyện gì nữa đâu. - Tri-Huyện chở đồ-đạc của tôi đi về tỉnh rồi quan trên dạy lẽ nào? Ông có nghe nữa hay không? - Không biết quan trên dạy làm sao, mà ít bữa ghe tới chở hết mấy lẫm lúa của ông đi đâu không biết. Ông Ðội với lính bỏ đồn, vô nhà ông mà ở, đốc dân làm ruộng, tính làm như ông hồi trước, mà không làm phước cho ai hết. Mấy ông già bà cả với sắp nhỏ mồ-côi, không có chỗ nương dựa, nên tản lạc đi đâu không biết. Ông Ðội làm ruộng năm ngoái thất, phần thì ổng thâu góp gắt gao, phần thì đánh khảo hành-hạ người ta, nên dân lần lần trốn đi xứ khác. Năm nay còn ít người làm chút đỉnh, còn bao nhiêu thì bỏ hoang. Tôi nghe nói quan trên rút đội lính về tỉnh chi đó không biết mà hôm tháng trước đi hết, để lại có một người lính ở lại giữ nhà đó mà thôi. - Ứ hự! Tôi lo cứu giúp thiên-hạ mà cứu không được! Tội nghiệp cho kẻ nghèo quá! - Bây giờ ông về đây, ông ra mặt làm như ngày trước được hay không? - Không được. - Sao vậy? - Quan trên làm án trảm giam hậu tôi, nên tôi phải đày chung thân. Vì tôi thấy thân con Ánh-Nguyệt tôi thương xót lắm nên lúc nó tắt hơi, tôi có thề với nó rằng tôi sẽ hết lòng lo bảo bọc con nó. Khi vô tới Hà-Tiên, tôi thầm nghĩ trong mấy năm tôi ở Cần-Ðước, tôi dốc lòng lo cứu khổ phò nguy ; con Ánh-Nguyệt là đứa hiếu nghĩa, vì nhà nghèo nên phải chịu lao khổ, rồi lại bị kẻ bất lương gạt gẫm nên xủ tiết ô danh, nó xiêu lạc khắp xứ, mà cũng giữ chặt một lòng trinh bạch. Khi nó vô ở nhà tôi, tôi không xem xét mà cứu vớt nó, để cho Bạch-Thị đuổi lầm nó đi, làm cho thân nó phải trở ra đê tiện. Cái lỗi ấy tại tôi mà ra. Tôi nghĩ đến việc đó tôi ăn-năn vô cùng, rồi tôi nhớ lời tôi thề với nó nữa, thì tôi càng xốn-xang chịu không được. Trong 2 năm nay tôi thường lo mưu tính kế trốn về đặng bảo bọc con Thu-Vân, mà tôi tính hoài không biết làm thế nào trốn cho khỏi. Cách năm sáu tháng trước, tội nhơn có một chiếc ghe bị giông đang chìm ngoài khơi, tôi ngồi ghe nhỏ xông ra mà vớt. Tôi ra đến đó thì họ đã chìm mất hết, không vớt được người nào. Tôi bèn thừa dịp ấy nhận luôn chiếc ghe của tôi rồi ôm bánh lái nương theo lượn sóng mà vô mé. Tôi trôi trọn nửa ngày một đêm vô tới Hòn Chông. Quan làng ở Hà-Tiên đều tưởng tôi bị chìm ghe chết rồi. Tôi lên bờ rồi lần lần tìm đường đi mấy tháng nay mới về tới đây. - Hèn chi họ đồn ông chết cũng phải lắm. Ông giỏi quá. Ở ngoài biển mà ai dám nhận ghe đặng lội vô bao giờ. - Bây giờ ông dắt tôi đi tìm con Thu-Vân được hay không? - Ðược chớ, mà tìm nó rồi có tiền đâu mà chuộc. Hồi trước vợ chồng Ðỗ-Cẩm đòi thêm 37 quan, con Thu-Vân ở thêm trong nhà nó 2 năm nữa, bây giờ chắc nó đòi cả trăm quan, tiền đâu có mà chạy cho đủ. - Ông đừng lo. Tôi có tiền. - Tiền bạc của ông thì Tri-Huyện đã tịch mà chở đi hết rồi, tiền đâu ông còn nữa? - Tôi có tiền. Ông cho tôi mượn một chiếc ghe tôi đi chở về đây cho ông coi. - Ðược. Thằng cháu tôi là Hiển nó có một chiếc ghe trọng đến. Ðể tôi đi mượn về cho ông. Ông tính chừng nào ông đi? - Chừng nước rồng tôi mới đi. Vậy ông có gạo thì nấu cho tôi ba hột cơm đặng ăn rồi ông sẽ đi mượn ghe. - Ghe ở gần một bên đây. Muốn lấy chừng nào cũng được. Ông sáu Thới lật đật đi lấy gạo nấu cơm. Chừng cơm chín rồi hai người dọn ăn với nhau, mà cửa thì chống sụp-sụp, không dám cho người ngoài thấy. Ăn cơm rồi thì nước đã dậy nhà, ông sáu Thới đi mượn ghe đem về đậu trước cửa. Lê-văn-Ðó đứng dậy tính xuống ghe mà đi, mà chừng bước được một bước anh ta đứng lại suy nghĩ một hồi rồi nói với ông sáu Thới rằng : - Tôi muốn nói với ông một chuyện, không biết ông chịu hay không. - Ông muốn nói mấy chuyện cũng được mà, cần gì ông phải ái-ngại. - Ông ở có một mình, mà thân tôi đây cũng một mình, vậy ông với tôi kết làm anh em, từ rày về sau sanh tử có nhau, đi hay ở gì cũng chung với nhau, chẳng biết ông có bằng lòng hay không? - Ông đã cứu tôi khỏi chết, ơn ấy tôi phải theo làm tôi mọi mà đền cho ông ; ông muốn sai khiến việc chi tôi cũng vưng hết thảy, tôi đâu xứng làm anh em với ông. Khi trước ông dặn tôi phải lo bảo bọc con Thu-Vân, mà ông đi rồi tôi có tay, không chuộc nó được, tôi buồn quá, bởi vậy từ hồi khuya cho đến bây giờ tôi hổ thẹn vô cùng. - Việc con Thu-Vân ông đừng ngại. Ông đã già cả mà lại nghèo, còn vợ chồng Ðỗ-Cẩm thì đòi tiền trăm, ông làm sao mà lo cho được. Tôi chịu gian-nan mà về đây là vì con Thu-Vân. Vậy xin ông hãy hiệp lực với tôi mà nuôi dưỡng dạy dỗ nó, cho khỏi thất ước với con Ánh-Nguyệt. - Tôi xin vưng. - Vậy thì ông đi với tôi. Hai người dắt nhau xuống ghe rồi gay chèo chèo ra sông Bao-Ngược mà đi xuống rừng sát. Khá khen Lê-văn-Ðó trí nhớ giỏi, từ vàm Cần-Ðước xuống rừng sát, rạch nẻo rất nhiều, mà anh ta còn nhớ cái vàm rạch có 2 cây đước lớn, nên khi ghe đến đó thì anh ta cạy (dùng mái chèo hay mái dầm lái ghe xuồng để thay hướng) vô, chèo hết năm khúc sông rồi chúi mũi vô doi (vùng cạn của sông rạch tại khúc quanh, vùng sâu gọi là vịnh) mà nhảy lên bờ. Ông sáu Thới cột ghe vô cây rồi lót tót theo sau. Lê-văn-Ðó đếm bước nhắm hướng mà đào hai chỗ, lấy lên đủ hai ché bạc chôn năm trước. Ông sáu Thới phụ đem 2 ché bạc xuống ghe. Lê-văn-Ðó móc bạc ra thì chén với bình còn đủ. Anh ta để riêng đồ ấy một chỗ, còn bạc thì đếm được 200 nén, rồi bỏ dưới khoang ghe móc bùn trét lên trên. Các việc xong rồi, Lê-văn-Ðó tính đi luôn lên Vũng-Gù mà tìm con Thu-Vân. Ông sáu Thới không chịu, khuyên phải trở về lấy gạo rồi sẽ đi. oOo Dựa mé sông Vũng-Gù có một xóm đếm hết thảy chừng 10 cái nhà, mà mỗi cái đều trở cửa xuống sông, day hè ra ngoài ruộng, lại ở cách nhau xa xa, chớ không phải khít nhau. Cái nhà lá 3 căn ở đầu dưới chung quanh có trồng mấy bụi chuối đó là nhà Ðỗ-Cẩm. Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới chèo ghe lên tới đó, thì đã gần hết nửa canh một rồi. Bữa ấy nhằm ngày mùng 8 nên trăng không được tỏ. Ông sáu Thới chúi mũi ghe đậu ngay cửa Ðỗ-Cẩm. Lê-văn-Ðó thấy trên nhà có đốt đèn, lại nghe có tiếng mắng chửi om-sòm. Anh ta mò trong khoang ghe lấy 5 nén bạc lận vào lưng, rồi bước lên bờ. Trước khi đi anh ta kêu ông sáu Thới mà dặn nhỏ-nhỏ phải dời ghe xuống chỗ bụi bần rạch dưới kia mà đậu, phải thức canh ghe, và phải coi chừng đừng cho Ðỗ-Cẩm thấy mặt. Ghe sụt ra rồi, Lê-văn-Ðó đi nhẹ-nhẹ vô sân, lại đứng núp trong bụi chuối rậm đặng lóng tai mà nghe. Trong nhà có tiếng đờn-bà la lớn rằng : - Thu-Vân, sao tao biểu mầy đi kiếm con heo mà mầy còn lục-đục ở đó. Kế có tiếng con nít nói nhỏ-nhỏ nghe không được. Thoạt có tiếng đờn-bà la lớn nữa rằng : - Kiếm trong xóm không có thì mầy ra ngoài đồng mà kiếm chớ. Mầy đi hay không hử? ... Cha chả! Thứ mới bây lớn mà biết sợ ma nữa. Nói vừa dứt tiếng lại nghe tiếng roi quất trót-trót, rồi đứa nhỏ la ôi-ôi. Nghe trót-trót hơn 10 tiếng nữa, rồi cái cửa vụt hé ra, có một con nhỏ chạy ra sân, hai tay ôm đít mà khóc hụ-hụ. Trong nhà có tiếng đờn-bà nói lớn nữa rằng : - Phải kiếm cho được con heo đem về đây cho tao. Mầy kiếm không được tao giết mầy chết. Cái mạng của mầy đó không bằng con heo của tao đâu, nói cho mà biết. Trăng mờ-mờ, Lê-văn-Ðó lum-khum trong bụi chuối, thấy con nhỏ chừng chín mười tuổi, dưới bận một quần rách lang thang, trên ở trần không có áo. Ðứa nhỏ ấy và khóc và đi vòng sau hè rồi băng xuống ruộng. Lê-văn-Ðó biết con nhỏ nầy là Thu-Vân, bèn đi theo xa xa mà nom coi nó đi đâu. Ruộng tháng nầy trời nắng nên khô queo, song gốc rạ còn đứng sững, nên cản chưn khó đi lắm. Con nhỏ đi xa-xa nhà một chút, rồi bộ nó sợ hay sao nên đứng ngó dáo-dác. Lê-văn-Ðó đi riết theo mà kêu nhỏ-nhỏ rằng : - Thu-Vân, cháu đi đâu đó? Con nhỏ day lại rồi đứng mà chờ. Lê-văn-Ðó theo kịp, lấy tay vuốt đầu nó mà nói rằng : - Cháu đi kiếm heo phải hôn? Cháu có sợ ma, thì ông đi dùm với cháu. Con Thu-Vân thấy mặt lạ hoắc, không biết là ai, nên đứng run. Lê-văn-Ðó bèn cười và nói rằng : - Cháu đừng có sợ, ông đây là người ta, chớ không phải ma quỉ chi đâu. Ông thấy cháu đi đêm hôm trong ruộng một mình cháu sợ, nên ông đi theo mà kiếm dùm heo cho cháu. Ði, đi với ông. Lê-văn-Ðó nói dứt lời bèn nắm tay Thu-Vân mà dắt đi. Thu-Vân đi theo mà còn khóc thút-thít. Lê-văn-Ðó hỏi rằng : - Vợ thằng Ðỗ-Cẩm nó đánh cháu hồi nãy đó phải hôn? - Phải. - Nó đánh đau hôn? - Ðau. Thu-Vân nói đau mà một tay lại rờ sau lưng. Lê-văn-Ðó cúi xuống coi thì thấy lưng con nhỏ có năm sáu lằn roi đỏ lòm. Anh ta vạch quần coi mông đít, thì lại thấy lằn ngang lằn dọc nữa. Lê-văn-Ðó biểu con nhỏ vận quần lại rồi dắt nhau đi nữa. Anh ta thấy con nhỏ như vậy thì cảm động, nên lặng thinh cúi đầu mà đi, không nói chuyện nữa được. Anh ta dắt con nhỏ đi lẩn-quẩn trong ruộng gần một canh mà không gặp con heo. Thu-Vân mỏi chơn, nên đi lệt-bệt, xảy gặp một cái gò, Lê-văn-Ðó bèn dắt nó lên đó ngồi nghỉ chơn, Lê-văn-Ðó mới hỏi nó rằng : - Cháu năm nay mấy tuổi? - Mười tuổi. - Cha mẹ cháu là ai? - Cha tôi là Từ-Hải-Yến, còn mẹ tôi là Lý-Ánh-Nguyệt. - Cháu biết cha cháu ở đâu hôn? - Cha tôi ở trên An-Giang, còn mẹ tôi về dưới Cần-Ðước. - Sao lại bỏ cháu ở đây? - Không biết nữa ... - Cháu có bà con chi với vợ chồng Ðỗ-Cẩm hay không? - Có. - Cháu kêu nó bằng giống gi? - Ông bà. - Vợ chồng nó thương cháu không? - Không. - Cháu sợ nó hôn? - Sợ. - Thuở nay nó hay đánh khảo cháu, hay là mới đánh bữa nay? - Ðánh hoài chớ. Ông tôi thì hay bạt tai, đạp, bà tôi thì ngắt véo đau quá. - Cháu ở với nó cực hay sướng? - Cực. - Mỗi bữa cháu ăn cơm no hay không? - Không. - Cháu muốn đi theo về ở với ông hay không? Thu-Vân nghe hỏi tới câu đó thì ngó Lê-văn-Ðó rồi day mặt chỗ khác, không trả lời. Lê-văn-Ðó ngồi ngó nó, mà cũng lặng thinh. Cách một hồi lâu anh ta hỏi nữa rằng : - Cháu nhớ má cháu hôn? Thu-Vân nói "nhớ nhỏ-nhỏ rồi xụ mặt bộ coi buồn bực lắm. Nó nằm ngoẻo trên đám cỏ, hai chơn co rút lại, còn hai tay thì nắm vuốt lá cỏ. Lê-văn-Ðó ngồi khoanh tay một bên, mà ngó mông trong đồng. Trăng non đã xế bóng, mà vì mây bay từ cụm, nên khi tỏ khi lờ, ngọn gió thổi lao rao, đèn đầu cỏ ngã qua ngã lại. Tư bề vắng vẻ, chẳng thấy một bóng đèn, chẳng nghe một tiếng người, duy lâu lâu hoặc thấy vài con vạc bay kiếm ăn, hoặc nghe tiếng dế gáy ro-re trong gốc rạ. Lê-văn-Ðó ngồi nghĩ cuộc đời, trong dạ bắt não-nề. Cách một hồi anh ta ngó lại thì thấy con Thu-Vân đã ngủ khò. Anh ta lấy tay vuốt đầu nó, rồi rờ xuống mặt, đụng cặp con mắt nó ướt rượt, mới hay nó khóc. Vì nó ở trần, lại bị gió thổi mát, nên mình nó lạnh ngắt. Lê-văn-Ðó bèn cởi áo mà đắp cho nó ngủ ấm. Lê-văn-Ðó thấy thân con nhỏ như vậy thì thương xót hết sức, thương con nhà nghèo phải chịu cay đắng trăm chiều, rồi lại giận kẻ giàu sang không biết nghĩa nhơn danh dự. Anh ta ngắm-nghía muốn bồng con Thu-Vân đem tuốt xuống ghe mà chở đi phứt cho rồi. Ðỗ-Cẩm bắt con nhỏ làm tôi mọi cho nó mấy năm nay, lại đã lấy 10 quan tiền rồi, nghĩ chẳng hẹp chi đó. Mà rồi anh ta lại nghĩ chớ chi con Ánh-Nguyệt còn sống, mình bắt trộm đem về cho mẹ con nó gặp nhau, con thấy mẹ vui mừng ắt nó không oán hờn mình chi hết, chớ phần mình là người lạ, còn Ðỗ-Cẩm tuy đày đọa nó song cũng là người quen, mình quyết đem nó đi mà dưỡng nuôi dạy dỗ nó đặng ngày sau nó trở nên người phải, mà mình dùng chước bất lương, mình bắt trộm nó, thì dầu bây giờ nó thoát khỏi tay Ðỗ-Cẩm nó không buồn, nó không oán mình đi nữa, mà chừng nó khôn lớn rồi, nó nhớ tới chuyện mình làm hôm nay đây, sợ e nó không kính trọng mình chăng. Anh ta xét như vậy nên không nỡ bắt trộm con Thu-Vân, quyết chờ đến sáng đem nó về cho Ðỗ-Cẩm rồi sẽ nói mà chuộc cho minh bạch. Thu-Vân nằm giữa trời, trên cỏ, mà nhờ có mảnh áo của Lê-văn-Ðó đắp ấm-ấm nên nó ngủ ngon giấc, đến trăng lặn, trời tối thui nó cũng không hay. Lê-văn-Ðó ngồi một bên coi chừng, lâu lâu nó cựa mình thì nó mớ kêu « má » rồi ngủ nữa. Lê-văn-Ðó thấy tình cảnh như vậy càng thêm áo-não. Ðến khuya, chừng sao mai ló mọc, con Thu-Vân thức giấc, nó lồm cồm ngồi dậy lấy tay dụi hai con mắt rồi ngó quanh quất tứ phía. Lê-văn-Ðó ngồi khoanh tay liếc mắt coi chừng coi nó làm sao. Thu-Vân rờ đụng cái áo bao chung quanh mình nó, nó bèn thò tay phăng mà rút rồi trao lại cho Lê-văn-Ðó và hỏi rằng : - Áo của ông phải hôn? Lê-văn-Ðó cười và đáp rằng : - Áo của ông. Cháu có lạnh thì để mà quấn cho ấm. - Không lạnh. Tôi ở trần quen rồi. - Cháu còn buồn ngủ nữa hôn? - Không. Ông làm giống gì mà ngồi đây? - Ông ngồi coi chừng ma cho cháu ngủ. Cháu sợ ma hôn? - Sợ. - Có ông đây, cháu còn sợ hôn? - Không. - Ừ, cháu đừng có sợ. Hễ có ông thì ma nó không dám lại gần đâu. - Ma nó sợ ông phải hôn? - Ừ. - Vậy ông làm phước dắt dùm cho tôi đi kiếm con heo được hôn? - Cháu biết nó đi đâu mà kiếm? - Hồi chiều tôi kiếm cùng trong xóm mà không có. Chắc nó ăn nội đồng nầy chớ đâu. - Ðồng rộng minh-mông biết nó ăn chỗ nào. Thôi, bỏ nó cho rảnh, đừng thèm kiếm. - Không kiếm nó đây, về bà tôi đánh chết. - Ông thường [1] cho. - Ông đâu có heo mà thường. - Ông thường tiền. Thu-Vân ngó Lê-văn-Ðó rồi chúm-chím cười, trong trí nó tưởng Lê-văn-Ðó ăn mặc lèn-xèn, tiền đâu có mà thường con heo cho nổi. Lê-văn-Ðó hiểu ý nó, nên nói tiếp rằng : - Ông thiếu gì tiền. Cháu chịu đi theo về nhà ông mà ở hôn? Cháu về, ông may áo quần tốt cho cháu bận, ông mua bánh trái cho cháu ăn, cháu muốn vật chi ông mua cho hết thảy, cháu chịu hôn? - Không dám. - Sao vậy? - Ông bà tôi đánh chết. - Ông nói với vợ chồng Ðỗ-Cẩm rồi ông mới đem cháu đi chớ. Thu-Vân ngồi chim-bỉm, không trả lời nữa. Cách một hồi lầu, Lê-văn-Ðó mới hỏi nữa rằng : - Sao? Cháu chịu đi với ông hay không? - Không. - Cháu ở với Ðỗ-Cẩm nó đánh đập chưởi bới tối ngày, còn ở với ông cháu sung-sướng lắm, sao cháu không chịu đi với ông? - Tôi đi với ông rồi, chừng má tôi trở lên đây, biết tôi đâu mà kiếm. Lê-văn-Ðó nghe con nhỏ nói mấy lời như vậy thì biến sắc, hết biết lời chi mà dỗ nó nữa. Anh ta ngồi suy nghĩ, vừa muốn nói thiệt cho con Thu-Vân nó biết mẹ nó đã chết rồi, mà rồi anh ta lại hồi tâm, nghĩ rằng con nhỏ còn khờ dại quá, nó chịu lao khổ phần xác đã nhiều rồi, mình không nên làm cho nó đau-đớn phần trí nữa. Chi bằng mình dùng lời giả dối mà dụ nó, chừng nào mình nói hết sức mà không được thì mình sẽ nói thiệt, gẫm cũng không muộn gì. Anh ta mới nói với Thu-Vân rằng : - Ông biết cha mẹ cháu hết thảy. Nhơn vì có việc riêng nên cha mẹ cháu không thế nào gặp cháu nữa đâu. Cháu hãy đi với ông ; ông thề với cháu rằng ông thương cháu, ông cưng cháu còn hơn cha mẹ cháu nữa. - Tôi không biết cha tôi. Má tôi có nói cha tôi bạc lắm, vậy tôi không cần cha tôi. Còn má tôi thương tôi lắm, lẽ nào má tôi bỏ tôi. Vì như má tôi không kiếm tôi đi nữa, thì trong ít năm nữa, tôi khôn lớn rồi, tôi cũng xuống Cần-Ðước mà tìm mẹ tôi. - Cháu nhỏ mà có lòng thương mẹ như vậy thì tốt lắm, phải lắm. Như cháu đi với ông, ông nói cho Ðỗ-Cẩm nó biết ông ở chỗ nào, đặng mẹ cháu có trở lên Ðỗ-Cẩm nó chỉ cho mẹ cháu để tìm. Mà ở đây cháu cũng chờ, về với ông cháu cũng chờ. Chi bằng về nhà ông chờ mà khỏi bị đòn bị chửi, chừng cháu khôn lớn rồi ông sẽ dắt cháu đi tìm cha mẹ cháu, cháu nghĩ thử coi có phải đi với ông tốt hơn là ở đây hay không. Thu-Vân ngồi suy nghĩ một giây lâu rồi ngước mặt ngó Lê-văn-Ðó và hỏi rằng : - Nhà ông ở đâu? - Ở dưới vàm Cần-Ðước. - Họ nói má tôi về đâu dưới Cần-Ðước. Vậy chớ xưa nay ông có gặp má tôi hay không? - Không. - Kỳ dữ hôn! Vậy chớ má tôi đi đâu kia. Má tôi lén tôi mà đi, tôi không hay. Chớ hồi đó tôi hay thì tôi đi theo. - Nếu má cháu đi xuống phía Cần-Ðước thì cháu nên đi với ông, đặng rồi sau cháu tìm má cháu cho dễ. Thu-Vân ngồi lặng thinh một hồi nữa, không biết trong trí nó tính lẽ nào mà nó vùng đứng dậy và nói rằng : - Tôi chịu đi, mà ông phải nói với ông bà tôi hay rồi tôi mới dám đi. Lê-văn-Ðó nghe con Thu-Vân chịu đi thì mừng rở hết sức. Anh ta liền đứng dậy bận áo vô. Hướng đông mây đã giăng ngàng mấy vừng, yến mặt trời đã lố rạng đỏ-đỏ. Xóm Ðỗ-Cẩm ở đã thấy lúp-xúp nóc nhà dạng-dạng, dàn bần mọc theo mé sông đã thấy lúm-khúm đen-đen. Lê-văn-Ðó vói tay ẳm con Thu-Vân rồi nhắm xóm mà trở về. Ði dọc đường Lê-văn-Ðó nói rằng : - Chừng về gần tới nhà ông thả cháu xuống đặng cháu về trước, rồi thủng thẳng ông vô sau. Ông nói thế nào tự nơi ông, cháu đừng có nói gì hết, miễn là Ðỗ-Cẩm nó hỏi cháu thì cháu cứ nói chịu đi với ông. Có ông nó không dám đánh cháu đâu, cháu đừng sợ. Thu-Vân nói rằng : - Mất con heo đây tôi bị đòn chết. - Ậy, không sao đâu. Như nó bắt thường thì ông thường cho. Ông thiếu gì tiền mà cháu lo. Thu-Vân nghe nói như vậy thì nó bớt buồn song trong lòng cũng còn bưng-khuâng hoài. Bước vô tới xóm thì trời đã sáng thiệt mặt rồi. Lê-văn-Ðó thả con Thu-Vân đứng xuống đất rồi biểu nó đi trước về nhà. Anh ta đứng ngó cho nó đi khuất rồi lội xuống mé sông, dòm thấy chắc chắn ghe của ông sáu Thới còn đậu dưới lùm bần, cách xóm chừng 10 công đất, anh ta gật đầu rồi trở lên đi lại nhà Ðỗ-Cẩm. oOo Con Thu-Vân đi về nhà, mà ngoài mặt xẻn-lẻn, trong dạ bồi hồi. Khi nó bước vô sân, nó thấy con heo quẳn đương đứng mà ủi dựa bụi chuối thì nó mừng quýnh, nên chạy a lại. Sân khô-khốc, mà đất lại long-chong. Con Thu-Vân chạy vấp một cục đất, té nằm sấp sải tay. Tuy té đau, song nó mừng khỏi mất con heo nên nó lồm cồm đứng dậy phủi sơ bụi dính bụng và dính mặt rồi phăng-phăng đi lại con heo, bụng bị đất khô quào rướm máu mà nó không kể. Con heo quẳn dạn lắm, nghe Thu-Vân té một cái đụi thì nó day lại mà ngó, đuôi ngoắc phất-phơ miệng kêu ịch-ịch, rồi cúi xuống ủi đất nữa. Con Thu-Vân lại ngồi chồm-hỗm một bên, choàng một tay qua lưng con heo mà gãi, còn một tay thì vỗ gáy nó mà nói rằng : - Em đi đâu dữ vậy em? Em báo hại qua bị đòn quá! Phải mà em đi mất thì qua chết còn gì. Thị-Phi là vợ Ðỗ-Cẩm thức dậy, nghe lụi-hụi ngoài sân, thì chống cửa bước ra. Chị ta thấy con Thu-Vân đương ngồi ôm con heo quẳn, khỏi mất heo đã không mừng, bắt con Thu-Vân đi sáng một đêm đã không thương, mà lại còn nói những tiếng bất nhơn rằng : - Con mắc dịch về hồi nào đó! Ờ tao tưởng mầy kiếm không được con heo, tao giết mầy chết. Tao nói cho mầy biết, cái mạng của mầy không bàng con heo tao đâu. Nếu mầy muốn sống thì phải giữ nó. Con Thu-Vân đứng dậy, cúi mặt xuống đất, không nói chi hết. Lê-văn-Ðó tay cầm một cái cây, ở ngoài hăm-hở đi vô. Thị-Phi thấy người lạ tới nhà mà bộ coi hầm-hừ lắm không biết người ấy đi đâu, nên đứng ngó trân-trân. Lê-văn-Ðó hỏi lớn rằng : - Phải nhà nầy là nhà Ðỗ-Cẩm không thím? Thị-Phi dụ-dự một chút rồi đáp rằng : - Phải. Chú đi đâu? Hỏi chi vậy? Lê-văn-Ðó day qua phía con Thu-Vân đứng, đưa cái cây cầm trong tay lên mà chỉ nó và hỏi Thị-Phi rằng : - Phải con nhỏ con của Ánh-Nguyệt hay không? - Phải. Sao chú biết nó? - Ờ, biết. Chồng thím có ở nhà hay là đi khỏi? - Ở nhà. Lê-văn-Ðó xốc-xốc đi vô cửa, Thi-Phi cũng quày-quã trở vô nhà. Ðỗ-Cẩm đã thức dậy rồi mà còn leo lên võng nằm ráng. Chừng anh ta nghe tiếng nói om-sòm ngoài sân, anh ta mới lồm-cồm ngồi dậy. Anh ta vừa đứng dậy bới đầu, thì Lê-văn-Ðó đã bước vô tới nhà. Anh ta liền hỏi Lê-văn-Ðó rằng : - Anh đi đâu? Có chuyện chi hay không? Lê-văn-Ðó đứng ngó ngay Ðỗ-Cẩm rồi đáp rằng : - Tôi ở dưới Cần-Ðước, lên thăm chú. Tôi là cậu của con Ánh-Nguyệt. - Vậy hay sao? Anh ngồi trên ván đây. Con Ánh-Nguyệt nó mạnh anh há? - Ừ, mạnh. - Nó làm ăn khá hay không? - Làm giống gì mà khá. Nó nghèo quá. - Nó báo hại tôi quá! Nó mướn tôi nuôi con nhỏ nó mấy năm nay, nó không trả cho tôi một đồng tiền làm tôi tốn hao phải mang nghèo. Tôi tốn cơm nước quần áo đã nhiều, mà con nhỏ nó bất nhơn, cứ đau hoài, nay nhức đầu, mai nóng lạnh, mốt có ban, bữa kia kiết, vợ chồng tôi chạy thuốc chơn không bén đất, tốn tiền bạc không biết bao nhiêu. Tôi bị nó đó mà lần lần vợ chồng tôi bán đồ đạc hết ráo. Anh coi đó mà coi trong nhà tôi bây giờ trống lỗng, có còn vật gì đáng năm bảy tiền hoặc một quan đâu. Hồi trên Gia-Ðịnh tôi khá lắm tôi mới trở về quê quán chớ, chẳng dè về đây tôi vì thương con Ánh-Nguyệt mà gia tài tôi tiêu hết. - Chú nuôi có một con nhỏ xíu mà tốn hao giống gì tới hết gia tài lận? - Thiệt chớ, ai nói chơi hay sao! - Chú nuôi dùm con cho Ánh-Nguyệt thì nó biết ơn, chớ không phải quên. Ngặt vì nó nghèo mà nó lại thương nhớ con nó quá, nên nó cậy tôi lên năn-nỉ với chú mà rước dùm con nó về cho nó. Bạn nghèo xin thương nhau. Tôi chắc ngày nào nó làm ăn khá thì nó không dám quên ơn hai ông bà đâu. - Ý! Ðược đâu. Lươn phải nắm đàng đầu, chớ vuốt đuôi sao được. Vì con nhỏ đó mà vợ chồng tôi tan nát. Phải đem tiền cho đủ mà chuộc tôi mới cho chơ rước không vậy sao được. - Nó nghèo khổ tội nghiệp quá. Chú bó buộc nó quá như vậy nó làm sao. - Nó làm sao được nó làm chớ. Nó nghèo mà nó còn báo hại vợ chồng tôi mang nghèo nữa đây, ai tội nghiệp cho tôi? - Nó phải trả cho chú bao nhiêu tiền, chú mới cho bắt con nhỏ? - Không biết. Anh tính lấy. Nó có làm giấy hẳn-hòi, nó mướn tôi nuôi con nhỏ mỗi tháng một quan tiền. Tiền đó là tiền cơm và tiền giữ. Tôi nuôi 4 năm nay anh tính coi là bao nhiêu. Còn tiền áo tiền quần, tiền thầy tiền thuốc cho nó nữa, cộng hết thảy có hơn tiền trăm chớ phải ít ỏi gì hay sao. - Cách vài năm nay con Ánh-Nguyệt có cậy một ông già đem lên trả cho chú được 10 quan. - Ðâu có! Hồi nào? Mấy năm nay tôi có thấy ông già nào đâu. - Tôi hỏi thiệt chú vậy chớ bây giờ chú đòi bao nhiêu tiền? Ðỗ-Cẩm đứng gãi đầu suy nghĩ một hồi rồi nói rằng : - Thôi em cháu nó nghèo tôi không nỡ làm gắt nó. Bây giờ nó trả đỡ cho tôi một trăm quan mà thôi. Lê-văn-Ðó chau mày đáp rằng : - Nhiều quá. - Nhiều sao? Vậy là tôi thương nó lắm chớ. Anh tính thử coi, tiền cơm 4 năm là 48 quan, tiền áo quần ít nào cũng 30 quan, còn tiền thuốc trên 50 quan nữa, cộng hết thảy gần một trăm rưỡi quan, mà tôi biểu trả có 100 quan, sao lại kêu là nhiều? - Tôi nói thiệt với chú như vầy -- Tôi cũng nghèo chớ không giàu có gì, song tôi thấy con Ánh-Nguyệt nó thương nhớ con nó quá, tôi cầm lòng không đậu, tôi mới đi dùm cho nó đây. Vậy như chú có bằng lòng lấy 50 quan tiền, thì tôi cho nó mượn mà trả cho chú, bằng không chịu thì thôi, chớ chú đòi nhiều quá tiền đâu tôi trả cho chú đủ. - Không được. Phải cho đủ 100 quan, chớ thiếu một quan tôi cũng không chịu. Lê-văn-Ðó ngồi lặng thinh một hồi rồi nói rằng : - Ðâu chú kêu con nhỏ ra đây cho tôi coi một chút. Ðỗ-Cẩm cất tiếng kêu con Thu-Vân om-sòm. Con Thu-Vân ở ngoài bụi chuối chạy vô, đứng dáo dác. Lê-văn-Ðó ngó nó rồi day lại nói với Ðỗ-Cẩm rằng : - Chú nuôi nó như vầy mà chú đòi mắc quá. Ðỗ-Cẩm làm bộ không nghe, bỏ đi lại ghế ăn trầu. Lê-văn-Ðó hỏi Thu-Vân rằng : - Cháu chịu đi với ông hay không? Con Thu-Vân cúi đầu nói nhỏ-nhỏ rằng : « Chịu », mà hai hàng nước mắt nó chảy rưng-rưng. Lê-văn-Ðó liền day lại nói rằng : - Tôi thấy con nhỏ tôi thương quá. Thôi, tôi trả phứt cho chú một nén bạc đây, đặng tôi dắt nó về cho rồi. Anh ta và nói và lần lưng lấy ra một nén bạc mà để trên ghế. Ðỗ-Cẩm thấy nén bạc thì mừng nên chúm chím cười và nói rằng : - Anh nghĩ đó mà coi, tôi nuôi 4 năm trường cực khổ tốn hao nhiều quá mà. Trả cho tôi một nén bạc có nhiều đâu. Thu-Vân, thôi con sửa soạn rồi đi với ông nghe hôn con. Thị-Phi ở nhà sau bước lến nói rằng : - Mình cho chuộc con Thu-Vân hay sao? Chuộc bao nhiêu đó? - Một nén. - Không được. Tôi nuôi nó mấy năm nay đã mến tay mến chơn, nên tôi không bằng lòng để cho nó đi. Tôi không có con, bởi vậy tôi thương nó lắm, tôi không đành rứt nó đâu. - Thôi mà! Mình kiếm đứa khác mà nuôi, con nầy xui lắm. Phần thì má nó nhớ nó, thôi để cho nó về má nó. - Mình không biết anh nầy, mà mình làm bướng giao con Thu-Vân cho ảnh, rồi sau con Ánh-Nguyệt nó lên nó đòi con nó, mình mới liệu làm sao? - Anh nầy là cậu con Ánh-Nguyệt mà. - Hứ! Khôn dữ! Thị-Phi nguýt một cái, rồi bỏ đi ra nhà sau. Ðỗ-Cẩm biểu Thu-Vân lấy quần áo rồi có đi với ông cậu cho sớm. Thu-Vân vô trong buồng lục lộp-cộp một hồi, lấy ra một cái áo cụt cũ xì và rách tan nát. Lê-văn-Ðó hối nó bận vô, lấy nén bạc đưa tới tay Ðỗ-Cẩm, rồi từ giã nắm tay con Thu-Vân mà dắt đi. Ðỗ-Cẩm cầm nén bạc đi ra sau, cười ngỏn-ngoẻn mà khoe với vợ. Thị-Phi trợn mắt và nói rằng : - Nhiều lắm hay sao mà mừng? Thằng cha đó coi bộ nó còn nhiều bạc nữa, không biết chừng Hải-Yến sai nó đi chuộc con Thu-Vân đó đa. Ta kiếm chuyện cản trở đặng nó đòi bạc nữa, mà cứ làm lanh theo cãi hoài. Giỏi dữ! Ðỗ-Cẩm xụ mặt chau mày, bỏ đi lên nhà trên rồi leo lên võng nằm đưa tòn-ten. Không biết anh ta suy nghĩ thế nào, mà cách một hồi lâu, anh ta ngồi dậy đi ra nhà sau đưa nén bạc cho vợ, rồi chạy ra đường. Anh ta hỏi thăm người ở gần có thấy một người mới dắt con Thu-Vân đi ngang đó hay không. Họ nói mới thấy dắt nhau đi xuống. Ðỗ-Cẩm xăn quần tốc theo, xuống tới lùm bần, thấy Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đã ngồi dưới ghe rồi, và ghe đương dang ra mà đi. Anh ta tay ngoắc miệng kêu rằng : - Anh ơi anh không được. Anh phải đem con nhỏ trả lại cho tôi ... Vợ tôi nó không chịu, nó rầy quá. Lê-văn-Ðó không thèm trả lời, cứ chèo ghe mà đi. Ðỗ-Cẩm đi dọc theo mé sông kêu hoài mà ghe không chịu ghé, anh ta giận nên chửi láp-dáp. Lê-văn-Ðó buông chèo, chỉ Ðỗ-Cẩm mà mắng rằng : « - Mầy là quân ăn cướp, quen thói ngược-ngạo hoài. Giựt một nén bạc rồi chưa đủ hay sao, mà còn ào-ào nữa hử? Lấp-lửng tao đập nát đầu, chớ không phải chơi đâu. Chẳng hiểu Ðỗ-Cẩm thấy bộ Lê-văn-Ðó hầm-hừ mà sợ, hay là nghĩ mình ăn cướp một nén bạc đã nhiều rồi, mà anh ta nghe Lê-văn-Ðó nói như vậy rồi nín khe, ríu-ríu trở về, không theo nữa. Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới rước được con Thu-vân thì cả hai đều mừng, nên theo nói với con nhỏ hoài đặng cho nó quen. Ði đến mặt trời nửa buổi mới đậu ghe lại nấu cơm mà ăn. Lê-văn-Ðó nhìn con Thu-Vân tỏ-rõ, mới thấy gương mặt nó giống hịch Tri-Huyện Hải-Yến còn cặp mắt với miệng thì lại giống Ánh-Nguyệt. Con Thu-Vân thấy trái bần rạch lòng-thòng trước mũi ghe nó mới ra hái mà ăn ngổm-ngoảm. Ông sáu Thới vo gạo rồi, đương ngồi nhúm lửa mà nấu cơm. Lê-văn-Ðó lết lại gần dặn nhỏ-nhỏ đừng cho con Thu-Vân hay Ánh-Nguyệt chết, mà cũng đừng nhắc tới tên Ánh-Nguyệt. Hai người bàn tính với nhau coi bây giờ phải đi đâu mà ở cho yên đặng nuôi con Thu-Vân. Lê-văn-Ðó nói rằng trở về Cần-Ðước mà ở sợ lâu ngày bể chuyện, quan bắt buộc, thành ra công việc dỡ-lỡ nữa. Vả khi Ánh-Nguyệt tắt hơi anh ta có hứa với nàng sẽ hết lòng lo dưỡng nuôi dạy dỗ con Thu-Vân đặng ngày sau nó trở nên người phải. Bây giờ anh ta thì dốt nát, mà kiếm chỗ cất nhà ở, rồi rước thầy dạy riêng nó nghĩ cũng bất tiện,chi bằng cạo đầu dắt nhau đi kiếm một cảnh chùa yên tịnh rồi vô đó mà tu, làm như vậy mình có thế nuôi con Thu-Vân, mà nó cũng có sẵn người hay chữ mà học nữa. Ông sáu Thới khen phải. Lê-văn-Ðó tính đưa ổng về nhà, rồi anh ta mua đứt chiếc ghe mà đi với Thu-Vân. Ông sáu Thới quyết chí không chịu lìa Lê-văn-Ðó, nên cứ nài-nỉ xin cho ông theo mà đỡ tay đỡ chơn. Lê-văn-Ðó thấy ông già có lòng với mình, không nỡ phụ rãy ổng, nên bằng lòng cho ổng theo. Hai người tính xong rồi mới chèo ghe trở về Cần-Ðước. Lê-văn-Ðó cho thằng Hiển một nén bạc mà mua đứt chiếc ghe. Ông sáu Thới lại cho nó cái nhà của ông đặng rảng tay mà đi cho yên. Thằng Hiển theo cật hỏi ổng đi đâu, ổng cứ nói đi buôn bán, không chịu nói thiệt. Nước vừa lớn, Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới dắt Thu-Vân xuống ghe. Nhổ sào xô ghe ra rồi, Ðó gay chèo lái, Thới gay chèo mũi mà chèo ra vàm. Con Thu-Vân ngồi trong mui ngó ra, mặt tươi rói, miệng chúm chím cười bộ nó hân-hoan, chớ không phải ưu sầu như hồi ở nhà Ðỗ-Cẩm nữa.

Chú thích : [1] đền bù Ngọn Cỏ Gió Đùa

Chương 17

Quyển thứ V - Nghĩa nặng tình sâu

Trong quyển thứ ba chúng tôi có thuật truyện Vương-thể-Hùng, là người trọng nghĩa hơn tình, vì muốn phỉ chí anh hùng, nên lén vợ con đi lên thành Gia-Ðịnh mà giúp với Lê-văn-Khôi. Chàng đi rồi thì vợ con nương náu ở với cha vợ là Ðàm-tự-Chấn. Khi chàng ra đi thì con của chàng là Vương-thể-Phụng mới được 6 tuổi. Vợ của chàng là Ðàm-kim-Diệp, vì muốn trưởng chí cho chồng, nên chàng ra tùng chinh nàng không nỡ cản, nhưng mà nàng đối với chồng thì nghĩa đã nặng mà tình lại sâu, bởi vậy Thể-Hùng đi rồi thì nàng thắt-thẻo nhớ thương đêm ngày, mà nàng lại còn lo sợ từ chút nữa. Nàng buồn rầu ăn không biết ngon, nằm không chịu ngủ. Tuy nàng không đau, song máu một ngày một mất, thịt một ngày một tiêu, chàng đi vừa mới một năm, mà nàng đã ốm xanh như tàu lá. Ðã biết nàng không được tin chồng thì nàng buồn, nhưng mà nàng nghe thành Gia-Ðịnh còn vững thì nàng vẫn còn trông mong phu phụ trùng-phùng. Ðến chừng nàng hay binh triều đã hạ thành, quan triều bắt giết hết thảy tướng sĩ trong thành, thì nàng hết cớ trông đợi nữa được, bởi vậy nàng nhuốm bịnh có mấy ngày rồi chết. Vương-thể-Phụng mới lên 8 tuổi, mà cha không có, rồi mẹ lại chết nữa; tuy vậy mà chàng không khổ cho mấy, vì có ông ngoại với dì là Ðàm-kim Huê nuôi. Ông Ðàm-tự-Chấn tánh ý không hiệp với chàng rể, bởi vậy bất đắc dĩ ông phải gả con mà ông không ưa. Nhưng mà khi trước không ưa thì ông để bụng, chớ ông không nói ra. Ðến chừng Thể-Hùng cãi ông, đi phụ sức với Lê-văn-Khôi mà làm nghịch triều-đình, thì ông sanh ghét, cấm tuyệt trong nhà không ai được nhắc tới Thể-Hùng nữa, còn người quen biết có hỏi thăm thì ông nói Thể-Hùng đã chết rồi. Mà ghét cũng chưa hại cho mấy, đến khi con gái út ông, là Kim-Diệp chết, ông thương tiếc rầu buồn, ông sanh tâm thù oán nữa, ông cố tưởng trong trí rằng Thể-Hùng giết con ông. Ông oán người cha, mà ông lại thương đứa con. Kim-Diệp chết rồi, Thể-Phụng ở với ông thì ông tưng-tiu như trứng mỏng. Việc tắm rửa, cho ăn cho uống, thì ông giao cho con gái lớn của ông là Kim-Huê coi, nhưng mà tối ngủ thì ông bắt Thể-Phụng ngủ với ông, chớ ông không cho ngủ với ai hết. Có đêm ông nói chuyện đời xưa cho cháu nghe, có bữa ông dắt cháu đi dạo xóm. Thể-Phụng gần-gũi với ông ngoại, lần lần rồi trìu mến ông; sớm mai ông ra vườn trồng cây, chàng xẩn-bẩn đứng sau lưng, buổi trưa ông ngồi dựa cửa vót nang, chàng chà lết ngồi một bên; ông giận, nói đỏ-đẻ ông tức cười; ông buồn, hát om sòm ông giải muộn. Mỗi ngày ông nói chuyện với Thể-Phụng, hễ có dịp thì ông nói cha mẹ Thể-Phụng đều chết hết, lại hễ nói tới cha Thể-Phụng thì ông mắng "nó là quân phản-thần tặc-tử, nó là đồ vô-đạo bát-lương" rồi ông lộ sắc bất bình, coi bộ ông khinh bỉ lắm. Ông lại dặn-dò người trong nhà thế nào không rõ, mà hết thảy đều đồng ý với ông, ai cũng nói cha mẹ Thể-Phụng đều chết hết, ai cũng khinh bỉ Thể-Hùng như khinh bỉ đạo-tặc. Thể-Phụng còn nhỏ ở trong nhà nầy tự nhiên tập quen phong tục nhà nầy, mà lại gần-gũi với những người ấy tự nhiên cảm nhiễm ý trí của những người ấy, bởi vậy chàng lớn khôn lần lần, rồi trí não của chàng cũng giống hịch trí não của ông ngoại chàng, cũng khinh bỉ cha; tuy chàng không nói ra, song trong trí chàng tưởng-tượng cha đồng một bực với cường-đồ cướp-đảng. Khi Thể-Phụng được 10 tuổi, có ông nhiêu Khoa, người gốc-gác ở đâu không biết tới cất nhà tại đầu xóm của ông Ðàm-tự-Chấn mà ở, đặng mở trường dạy học. Người trong xóm ai có con cũng đều cho đến học văn học lễ với ông nhiêu. Ông Ðàm-tự-Chấn tuy cưng Thể-Phụng, song ông muốn cho chàng theo đạo nho đặng khác tánh nết với cha, bởi vậy ông cũng đến nói với ông nhiêu Khoa đặng cho chàng thọ giáo. Ông nhiêu Khoa là người học rộng, ông đã thông suốt các kinh các truyện, mà ông giảng sách câu nào bài nào ông cũng diễn giải nghĩa lý rõ ràng, bởi vậy học trò học với ông mau thông lắm. Chẳng những là người ở gần mà thôi, thậm chí nhà giàu ở phủ khác huyện khác, có nhiều người nghe lại ông dạy mau hay, cũng cho con đem cơm tiền đến ở nhà ông mà học nữa. Thể-Phụng tuy mhỏ, mà trí thông minh, tánh mẫn cán, bởi vậy chàng đến năm Bính-Ngọ (1846) thì đã thi đậu tú-tài. Ông Ðàm-tự-Chấn với nàng Ðàm-kim-Huê mừng rỡ vô cùng, cả hai đều muốn kiếm nơi tử tế mà cưới vợ cho Thể-Phụng. Thể-Phụng đậu tú-tài rồi mà chưa vừa lòng, chàng muốn ôn nhuần kinh sử thêm đặng sau giựt cho đặng cử-nhơn rồi có đi đình thi. Chàng nhứt định không chịu cưới vợ, bởi vậy hễ ông ngoại với dì nói tới việc ấy thì chàng gạt ngang, cứ nói để cho chàng lo lập công danh, chừng nào công danh lập được rồi chàng sẽ lo bề gia thất. Ban ngày chàng ở tại nhà trường, ban đêm về nhà thì chàng cứ rút ở trong buồng riêng mà đọc sách làm bài, có đêm chàng thức tới canh tư canh năm mà học tập. Năm Mậu-Thân (1848) nhằm năm Tự-Ðức nhị niên, Vương-thể-Phụng đã được 21 tuổi rồi. Nghĩ vì năm sau sẽ tới khoa thi, nên chàng càng gia công mà học nhiều hơn nữa. Trong lúc ấy trí chàng chẳng tưởng việc chi khác hơn là văn sách kinh nghĩa, ý chàng chẳng mơ việc chi khác hơn là ông cống ông nghè, bởi vậy chẳng những là chàng chẳng chịu nói tới hôn nhơn mà thôi, mà cũng chẳng hề nghĩ tới công sanh thành của cha mẹ. Ðến tháng 5, ông nhiêu Khoa nghỉ dạy bốn năm bữa, đặng ông đi Nhựt-Tảo mà thăm bà con. Các môn đệ ai ở xa thì về thăm nhà, ai ở gần thì ở nhà mà học ôn. Chừng học-trò nghe ông nhiêu trở về, thì mới tới mà học lại. Ông nhiêu giảng sách đến chiều, ông bèn cho học trò nghỉ. Vương-thể-Phụng ôm sách đi về. Ông nhiêu đi theo. Thể-Phụng thấy thầy đi một đường với mình, bèn đứng nép một bên, nhường cho thầy đi trước. Từ nhà ông nhiêu Khoa lại nhà Thể-Phụng, có đấp một cái bờ đất dựa theo mé sông để cho người trong xóm đi cho tiện. Hai bên mé bờ cỏ mọc rậm-rạp, nhưng mà chính giữa bờ có một đường mòn trống trơn, lại người ta đi thường, nên đất láng-lẫy. Dọc theo mé sông chủ đất lại có trồng một hàng dừa, cây cao tàn rậm mà buồng lại sai nữa. Ông nhiêu và đi và nói chuyện lơ là với Thể-Phụng. Khi đến khoảng trống, không nhà cửa ai, một bên thì thì sông, một bên thì ruộng, mà phía bên sông lại có một cây dừa gốc cong vòng, de trên mặt nước, ông nhiêu mới đứng lại rồi chăm-chỉ ngó Thể-Phụng mà nói rằng: - Cháu học với thầy đã gần 10 năm nay, cháu có chuyện gì cháu cũng đều nói với thầy hết thảy. Thầy lấy làm lạ một đều[2] nầy, là thuở nay thầy chẳng hề nghe cháu nhắc chuyện cha mẹ cháu. Tại sao vậy? Cháu học văn mà cũng có học lễ, phụ hề sanh ngã, mẫu hề túc ngã, ai ai phụ mẫu sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân biếu nhiên võng cực, cháu nhờ ai mà có hình-hài, cháu nhờ ai mà nên vai nên vóc, sao không nghe cháu nhắc đến cha mẹ vậy? - Thưa thầy, cha mẹ cháu khuất hết, còn nhắc đến làm chi? - Ai nói với cháu rằng cha mẹ cháu khuất hết? - Thưa cha cháu khuất hồi nào cháu thiệt không biết, chớ mẹ cháu khuất hồi cháu được 8 tuổi, việc ấy cháu còn nhớ. - Mà ai nói với cháu rằng cha cháu khuất kìa? - Thưa ai cũng nói hết thảy -- ông ngoại cháu, dì cháu, nội nhà ai lại không nói. - Họ nói gạt cháu. - Thưa gạt làm chi? Cha cháu chết thì nói chết chớ. - Không có chết đâu. Còn sống. - Thưa thầy, sao thầy biết? - Thầy mới giáp mặt với cha cháu mấy bữa rày đây. Thể-Phụng chưng-hửng đứng ngó ông nhiêu Khoa trân trân. Ông nhiêu cười và hỏi rằng: - Thầy nói như vậy cháu không tin hay sao? Thể-Phụng đứng lặng thinh. Ông nhiêu nói nghiêm chỉnh rằng: - Thầy nói thiệt, chớ không phải nói chơi với cháu đâu. Thầy có một người anh là nhiêu Toại mới đến ở dạy học bên Nhựt-Tảo từ hồi năm ngoái. Mấy bữa rày thầy qua bển thăm ảnh. Tình cờ cha cháu lại nhà ảnh chơi nên mới gặp thầy. Thầy hỏi thăm tông tích vợ con, mới hay là cha của cháu chớ hồi mới gặp thầy cũng không dè. Cha cháu gương mặt giống hịt gương mặt cháu, song mặt có thẹo cùng hết, còn chơn trái có tật. Ông năm nay tuổi chừng bốn lăm năm mươi rồi đó. Người cao lớn vạm vỡ, song coi bộ có bịnh. - Thầy nói cháu phải tin, nhưng mà chuyện nầy cháu nghe kỳ quá. - Thuở nay cháu không dè cha cháu còn sống chút nào hết hay sao? - Thưa không dè chút nào hết. - Nếu vậy thì ông ngoại cháu với dì cháu có ý gì đó nên mới dấu cháu nói cha cháu chết chớ gì! - Thưa, cháu không hiểu. Mà ông ngoại cháu với dì thương cháu lắm, có lý nào gạt cháu làm chi? - Có lẽ tại việc nhà sao đó thầy có biết đâu. Thể-Phụng đứng suy nghĩ một hồi rồi mặt biến sắc và nói rằng: - Ờ, ờ, thưa thầy, cháu hiểu rồi. - Hiểu sao đó? - Cháu nhớ lại thuở nay ai nói tới cha cháu thì ông ngoại cháu giận lắm, ông ngoại cháu mắng là quân phản-thần tặc-tử, vô đạo bất lương. Thưa thầy, thầy cũng như cha cháu, nên không lẽ cháu không nói hết ý cho thầy rõ. Có lẽ tại ông ngoại cháu là người giàu có, còn cha cháu tánh tình không tốt, ông ngoại cháu sợ mang lây tiếng xấu nên mới nói cha cháu chết chớ gì. - Chuyện nhà của cháu, thầy không rõ. Còn hôm gặp cha cháu đó thầy hỏi thăm sơ qua rồi đàm luận việc đời mà thôi, chớ không lẽ thầy móc moi tới việc riêng của người. Song mấy lời cháu mới nói đó, thầy nghĩ chắc là không trúng. Cháu nói có lẽ cha cháu tánh tình không tốt. Thầy xem tướng mạo của cha cháu, thầy nghe cha cháu nghị luận việc đời, thì thầy biết cha cháu là người đúng-đắn lắm, chớ không phải người quấy đâu. - Nếu cha cháu là người đúng-đắn, sao sanh cháu ra rồi bỏ cháu đi, không nhìn cháu, không nuôi dưỡng dạy dỗ cháu. - Chuyện đó thầy không hiểu. Song thầy biết chắc cha cháu thương cháu lắm, vì ông hỏi thăm sự học của cháu, mà ông ứa nước mắt. Thể-Phụng đứng ngẩn-ngơ coi bộ lộn-xộn trong trí lắm. Ông nhiêu thấy vậy ông muốn khuyên giải cho Thể-Phụng bớt lo nên nói rằng: - Tại thầy thấy việc kỳ nên thầy nói riêng cho cháu nghe. Vậy cháu phải kín miệng, về nhà cũng chẳng nên nói đi nói lại cho ông ngoại hoặc dì cháu hay làm chi. Việc đâu thôi bỏ đó. Còn không mấy tháng nữa tới thi. Vậy cháu phải để trí bình-tịnh mà ôn nhuần kinh sử, chừng lập được công danh rồi sẽ hay. Thể-Phụng thở dài và thưa rằng: - Cháu nghe thầy nói nãy giờ trong lòng cháu bức-rức lắm. Nếu cháu không tìm cho ra mối bối-rối nầy, thì cháu không thế nào mà học được. Thưa thầy, xin thầy nghĩ lại mà coi, làm con chẳng trọng ai hơn là trọng cha. Thuở nay con tưởng cha cháu chết rồi, nên cháu không để ý tới. Bây giờ cháu biết cha cháu còn sống, mà cháu không thấy mặt, thì làm sao cháu yên lòng được. - Việc đâu còn đó, cháu thi đậu rồi cháu sẽ tìm mối manh mà nhìn cha, lại muộn gì hay sao? - Thưa thầy, cháu buồn quá. - Ậy! sao mà buồn? Cháu đừng có buồn chớ. Theo như lời cháu nói đó, thì cha cháu với cháu không gặp nhau là tại duyên cớ nào đó, chớ phải tại cha cháu hay sao mà cháu buồn. - Vì tại như vậy đó, nên cháu mới buồn. - Phải thầy dè như vậy, hồi nãy thầy không nói chuyện với cháu. - Thưa thầy, thầy thương cháu, thầy vén mắt cho cháu thấy trời xanh, thiệt cháu đội ơn thầy lắm chớ. - Thôi cháu bỏ chuyện đó đi, để trí rảnh-rang mà học. Việc đó để thủng-thẳng rồi thầy tìm mối dùm cho. - Ðội ơn thầy. - Tối rồi. Thôi, cháu về đi, kẻo ở nhà ông chờ ăn cơm. Thể-Phụng chấp tay cúi đầu xá thầy. Ông nhiêu khoan thai trở lại. Thể-Phụng lần bước về nhà, chàng chau mày cúi mặt xuống đất, lầm-lủi đi tới, không ngó cỏ cây chi hết. Ông Ðàm-tự-Chấn thấy trời đã tối rồi mà cháu đi học chưa về ông bèn ra đứng dựa cửa mà ngó chừng. Cách chẳng bao lâu ông thấy Thể-Phụng ở ngoài xăm-xăm đi vô, ông bèn hỏi rằng: - Học bữa nay sao về tối dữ vậy? Dẹp sách riết [3] đi rồi xuống ăn cơm, kẻo đồ ăn nguội hết. Thể-Phụng và đi vô nhà và đáp rằng: - Thưa, ông ăn đi, bữa nay cháu không đói. - Hứ! Sao không đói? Ham học đến bỏ ăn bỏ uống lận sao? - Thưa ông, hồi trưa cháu có ăn bánh đằng trường nên bây giờ cháu không đói. - Thôi, không ăn thì thôi. Như tối có đói thì biểu bầy trẻ nó dọn cho mà ăn. - Dạ. Ông Ðàm-tự-Chấn đi xuống nhà sau mà ăn cơm. Thể-Phụng đốt một thếp đèn, bưng vô trong phòng riêng rồi đóng cửa phòng lại. Chàng ngồi xếp bằng trên giường, tay chống cầm, mắt ngó đèn mà suy nghĩ. Trời chuyển mưa nổi gió thổi lá cây chung quanh nha nghe ồ-ồ. Ngọn đèn bị gió tạt nên ngã lại nghiêng qua, làm cho bóng dọi trong vách khi mờ khi tỏ. Thể-Phụng suy tới xét lui, chẳng hiểu vì cớ nào ông ngoại mình nói cha mình chết mà thầy mình nói cha mình sống, chẳng hiểu vì lý gì ông mình nói cha mình là đồ bất lương vô đạo mà thầy mình lại khen cha mình là người đúng-đắn hẳn hòi. Mà nếu cha mình còn sống, thì sao thuở nay không nuôi dưỡng mình, lại bỏ mình cho ông ngoại. Hay là tại ông mình dành, nên cha mình mới để cho ông ngoại nuôi? Ví dầu có nhượng cho ông ngoại nuôi đi nữa, thì cũng tới lui mà thăm nom, chớ sao lại bỏ biệt từ hồi mình còn nhỏ cho tới bây giờ. Con có phận sự làm con, mà cha cũng có phận sự làm cha. Con bỏ cha thì con mang tội bất hiếu, còn cha sanh con ra mà cha bỏ con, không dưỡng nuôi, không dạy dỗ, há cha không có tội với trời đất hay sao? Có bao nhiêu đó mà Thể-Phụng bối rối trong lòng không biết liệu lẽ nào. Ðêm ấy chàng không ăn cơm, mà học không được lại ngủ cũng không được. Ðến khuya chàng nghe ông ngoại thức dậy uống nước trà ở ngoài, chàng muốn ra mà hỏi thử coi tại cớ nào ông không ưa cha, mà cha cũng không nhìn mình. Chàng muốn ra hỏi rồi chàng giựt mình nếu ông không dấu việc nầy với mình, thì từ ngày mình lớn khôn ông đã nói rồi, chớ đợi chi tới mình hỏi ông mới nói, bởi vậy có hỏi cũng không ích. Mà nếu không hỏi người trong thân thì biết hỏi ai? Thôi ông ngoại có giấu thì mình sẽ hỏi cha. Thế nào cũng phải đi tìm cha một lần mới được. Thể-Phụng nhứt định rồi, qua ngày sau đến trường giả vui như thường, thừa lúc thầy rảnh ngồi một mình mới hỏi thăm chắc chỗ cha chàng ở, hỏi coi nhà cửa thế nào. Ông nhiêu tình cờ nên chỉ thiệt, ông không dấu Thể-Phụng điều gì.... Cách vài bữa, Thể-Phụng tỏ với ông ngoại và dì rằng có một người bạn học ở Bến-Tranh về thăm nhà mời chàng đi theo chơi vài bữa cho biết nhà nên chàng xin phép đặng đi với bạn. Ông Ðàm-tự-Chấn không dè cháu có ý riêng, ông liền thuận tình cho đi, biểu Kim-Huê đưa cho cháu 5 quan tiền làm hành lý và dạy bạn dọn ghe cho cháu đi chơi, Thể-Phụng nói rằng có sẵn ghe của nhà người bạn qua rước nên không cho ghe nhà đưa, chỉ lấy 5 quan tiền mà thôi. Thể-Phụng thay áo đổi quần, từ giã ông với dì rồi xách tiền ra đi. Ông Ðàm-tư-Chấn cưng cháu, không đành để cho nó đi một mình, nên ông kêu một đứa bạn nhỏ tên Son mà dạy nó theo hầu hạ cháu. Thể-Phụng cản không được, nên bất đắc dĩ phải để cho thằng Son đi theo. Chàng ra khỏi xóm rồi, chàng bèn mướn một chiếc ghe lườn mà đi qua Nhật-Tảo. oOo Lúc nửa chiều trời chuyển mưa kéo mây đen kịt, thổi gió ào-ào. Vương-Thể-Hùng ngồi dựa cửa ngó ra sân thấy con gà cồ đứng bươi giữa đống trấu, đuôi rũ phất-phơ, rồi lại nghe sau vườn, hàng tre bị gió quật nên tiếng kêu trèo-trẹo. Nhà của Vương-thể-Hùng ở dựa mé rạch Nhựt-Tảo, cất cheo-leo phía cuối xóm, bởi vậy chỉ có một cái nhà bà tư Tung ở gần mà thôi. Tiếng kêu cái nhà, chớ kỳ thiệt là cái chòi, bởi vì nhà gì mà cộng hết thảy có 3 hàng cột, mỗi hàng đếm có 3 cây, lại cây nào cây nấy vạy [4] ngoe như ống điếu. Trong nhà không có vật chi hết, chính giữa có bắt một cái chõng tre, bên nây giăng một cái võng lác, còn bên kia có dụm ba ông táo đất mà thôi. Ðã vậy mà nóc nhà thì trống lỗng, khi dột mưa, khi dọi nắng, mái nhà thì thấp xủn, vô phải khòm lưng, ra phải cúi đầu. Tuy vậy mà sau hè có trồng ít bụi chuối xơ-rơ, dưới sông có buộc chiếc xuồng nhỏ nhỏ. Ðã biết Thể-Hùng không hay săn sóc vườn chuối, nhưng mà anh ta xưa nay dùng chiếc xuồng mà đi, khi thì đi trễ [5] tôm, khi thì đi câu cá, rồi đem đến mấy xóm đông đổi gạo dùng mà độ nhựt. Vương-thể-Hùng ngồi chồm hổm dựa cửa ngó ra sân một hồi rồi chàng đứng dậy đi cà nhắc lại bếp mà xới nồi cơm. Chàng vừa muốn trở lại cái chõng mà ngồi, thấy Vương-thể-Phụng ngài sân xăm-xăm đi vô, sau lưng lại có một đứa tùy tùng nhỏ, Thể-Hùng lấy làm kỳ, không hiểu con tìm đến nhà có việc chi nên ngồi ngó trân trân. Thể-Hùng ngồi trên chõng thì ngó sững, Thể-Phụng cúi đầu chun vô nhà, và hỏi trổng rằng: - Không biết nhà nầy của ai vậy há? Thể-Hùng dụ dự một chút rồi cúi mặt đáp nhỏ nhỏ rằng: - Nhà của cha, con đến đây chi vậy? Thể-Phụng ngó cha không nháy mắt và nói rằng: - Nếu vậy thì tôi đi trúng rồi. Chàng liền day lại thấy thằng Son còn đứng ngoài cửa bèn nói với nó rằng: - Thôi, mầy xuống dưới ghe mà chơi, biểu hai người chèo họ nấu cơm ăn đi. Thằng Son đi rồi, Thể-Phụng mới bước tới đứng dựa đầu cái chõng rồi ngó ngay Thể-Hùng mà hỏi rằng: - Té ra cha tôi đây hay sao? - Phải. Ai biểu con qua đây? - Không có ai biểu hết, con lén con đi. Thể-Hùng nghe nói như vậy thì chau mày ngó Thể-Phụng mà lặng thinh không nói nữa. Cách một hồi rồi chàng tằng hắng mà hỏi dịu dàng rằng: - Con lén đi tìm cha chi vậy? - Thưa, con có một việc riêng con muốn hỏi cha, nên con mới đi tìm đến đây. - Sao xưa nay con không tìm, bây giờ con tìm làm chi? - Thưa cha, xưa nay con không dè cha còn sống; từ nhỏ chí lớn con tưởng con mồ côi cha mẹ hết thảy. Cách mấy bữa rày con nhờ thầy của con, là ông nhiêu Khoa, nói cha còn sống, ổng có gặp cha, ổng chỉ chỗ cha ở, nên con mới biết mà tìm đến đây. - Ông nhiêu thèo-lẻo quá! - Thưa cha, cha trách thầy con như vậy sao phải. Thầy con nói cho con biết đó là làm ơn cho con chớ. - Báo hại con, chớ làm ơn nỗi gì! - Thiệt đó chớ! Ông nói rồi mấy bữa rày con ăn học không được nữa. Tuy vậy mà con mang ơn ổng lắm, nhờ có ổng nói con mới hay con còn một ông cha, bằng không thì con cứ tưởng cha mẹ đều chết hết, con có cha mà không chịu nhìn, thì con mang lỗi với trời đất lắm. - Con nhìn cha thì hại cho con chớ có ích chi đâu mà nhìn. - Con nhìn cha mà sao lại gọi rằng hại? - Con không cần gạn hỏi làm chi. Cha muốn cho con đừng có nhìn biết cha. Con làm như vậy là con trọn hiếu đa. - Thưa cha, sao vậy? Con không nhìn cha mà sao gọi rằng trọn hiếu? - Con đừng có hỏi nữa. Con nghe lời cha, con đi về đi, rồi cứ tưởng cha đã chết như xưa nay đó vậy, ấy là có hiếu với cha lắm. - Thưa, không được. Cha nói như vậy thì con không về được đâu. Nay con đã khôn lớn rồi, còn cha thì đã già yếu mà tật nguyền nữa. Theo phận làm con của con, thì con phải nuôi dưỡng cha, nếu con không làm như vậy, dầu con học thi đậu tới trạng-nguyên, dầu con giàu có như Thạch-Sùng đi nữa, con cũng không đáng làm người. Ðã vậy mà con còn nhiều việc ức nữa, con muốn hỏi cha, nên con phải tới đây. - Con còn muốn hỏi việc chi? - Thưa, con muốn hỏi coi vì cớ nào cha còn sống mà nội nhà ông ngoại con thuở nay đều nói với con rằng cha đã chết rồi? Tại sao vậy? - Ðó cũng có duyên cớ, song con không cần phải biết làm chi. - Con cần phải biết lắm chớ. Thuở nay thiên hạ nói cha đã chết rồi mà cha còn sống nhăn đây, nếu vậy thì họ nói mẹ của con chết con chắc mẹ của con cũng còn sống nữa, phải vậy hay không cha? Thể-Hùng nãy giờ buồn lắm, bây giờ lại nghe con hỏi tới mẹ nó nữa, thì càng thêm buồn, bởi vậy chàng ứa nước mắt và đáp rằng: - Mẹ của con đã chết thiệt. - Nếu mẹ con chết thiệt thì thôi, con không dám hỏi tới việc đó nữa. Bây giờ cha còn sống, con may mắn được gặp cha, vậy con xin hỏi cha một đều nầy nữa -- cha có công sanh con ra, mà sao cha không thương con, cha không dưỡng-nuôi dạy-dỗ con, cha lại bỏ cho ông ngoại, rồi thuở nay cha không thèm lui tới mà thăm con, đến bây giờ cha còn biểu con đừng nhìn cha nữa? Thưa cha, xin cho con biết coi hồi nhỏ con làm đều chi lỗi với cha, hoặc tại con mà cha khốn khổ lắm hay sao nên cha phiền, đến nỗi cha bỏ con như vậy? Thể-Hùng nãy giờ tuy buồn, song còn nói đi nói lại được. Ðến chừng chàng nghe con hỏi tới sự đó, chàng nghẹn cứng cổ, không có lời chi mà đáp, nên chàng đứng dậy bỏ đi ra ngoài cửa. Trời mưa ào tới, giọt đổ lộp-bộp trên mái nhà, sân cỏ nổi bùn, nước đọng lấp xấp mấy khoảng thấp. Thể-Phụng liếc dòm, thì thấy Thể-Hùng đứng ngó trời mưa mà hai hàng nước mắt chảy dọc xuống dưới hai gò má. Chàng lén bước sụt lại vài bước đặng nhìn xem mặt cha cho tường tận. Người cao lớn, miệng rộng môi dầy, vai ngang, mày rậm, cặp mắt có tinh thần, mà gò má bên tả lại có một cái thẹo rất lớn, bởi vậy gương mặt thì coi không thấy vẻ ác, mà vì mang cái thẹo nên dễ tưởng là người hung. Chàng nhìn cha rồi ngó khắp trong chòi, nửa buồn về tình, nửa buồn về cảnh, nên cảm xúc trong lòng, chàng đứng khoanh tay mà thở ra. Thể-Hùng đứng ngó trời mưa mà suy nghĩ một hồi lâu rồi trở vô ngồi trên cái chõng, không thèm lau nước mắt, lại ngó ngay Thể-Phụng mà đáp rằng: - Bình sanh cha không quen thói có lỗi rồi đổ cho người khác. Nhưng mà trong việc nầy cha khuyên con đừng có hỏi chi hết, con cứ tin chắc rằng cha là một người ngay thẳng, con kêu cha bằng cha chẳng hổ thẹn chi đâu. Tình của cha đối với con thế nào, có lẽ ngày sau cha chết rồi con sẽ biết. Mà năm nay trong mình cha yếu lắm, cha liệu chắc không còn sống bao lâu nữa đâu, nên con chẳng vội cho mà hỏi. Thể-Phụng cũng ngó ngay cha mà nói rằng: - Dầu cha là người phải hay là người quấy, cha cũng là đứng tạo-hoá của con, con cũng phải kính trọng cha, nên con không cần hỏi tới việc đó. Con quyết muốn biết một đều nầy là muốn biết coi vì cớ nào cha sanh con ra mà cha không thương, đã bỏ cho ông ngoại nuôi, rồi thuở nay lại không thèm lui tới mà hỏi thăm. Thể-Hùng chau mày ngó xuống, nước mắt đổ từ trên vạt áo từ hột. Chàng nói nhỏ-nhỏ rằng: - Con chớ nên tưởng rằng cha không thương con. Cha thương con lắm, cái tình của cha thương con cha dám chắc không thua ai đâu. Con nên biết rằng vì cha thương con nên cha phải xa lánh con, vì cha thương con nên cha thăm con mà cha phải dấu, không dám cho con biết. Thuở nay cha đi thăm con hoài, chừng vài ba tháng cha đi thăm một lần, mà mỗi lần thăm thì cha đậu xuồng dựa bên đường con đi học, rồi ngồi dưới xuồng lén ngó con mà thôi, chớ không dám nói tiếng chi, hoặc làm đều chi cho con biết. Vậy con đừng có tưởng cha không thương con. Thể-Phụng nghe cha nói như vậy thì chưng-hửng, đứng ngó cha trân trân và suy nghĩ riêng một hồi rồi nói rằng: - Té ra người ở dưới chiếc xuồng hay đậu dựa gốc cây dừa quằn ra ngoài sông đó là cha hay sao? - Phải. - Cha có nói con mới nhớ. Lâu lâu con có thấy một chiếc xuồng đậu chỗ đó một lần, mà người ngồi dưới xuồng thường đội cái nón xụp-xụp che khuất hết nửa cái mặt, bởi vậy con không thấy cho rõ mà nhớ được. - Cha không muốn cho con thấy rõ mặt cha. - Thưa cha, tại sao vậy? Tại sao cha thương nhớ con, cha đi thăm con, mà không dám thăm chán chường, lại thăm núp lén như vậy? - Tại cha thương con quá, nên phải làm như vậy đó. Thể-Phụng đứng ngẫm-nghĩ, sắc mặt coi còn buồn hơn hồi mới bước vô nữa, chàng đi lại đứng dựa cây cột, gần một bên Thể-Hùng và nói rằng: - Thưa cha, cha không chịu nói rõ cho con hiểu, cha cứ nói mí-mí [6] hoài, con càng buồn bực khó chịu hơn nữa. Xin cha nói việc nhà cho con hiểu. Con đã khôn lớn rồi, con đã đủ trí mà phân quấy phải, chớ phải con còn nhỏ dại chi hay sao mà cha ngại. Có phải là tại ông ngoại với cha không thuận với nhau, nên cha giận cha không chịu tới lui nữa hay không? - Chuyện đó con không nên biết làm chi. Con phải thương ông ngoại con cho nhiều, vì con nhờ ông ngoại nuôi con mới nên vai nên vóc, con mới học thi đậu Tú-Tài. Con phải kính trọng ông ngoại, chớ đừng có nghi-ngại [7] rồi bạc ông mà mang lỗi. Cha nói con phải nghe lời. Cha xin con một đều nầy, là con đừng tưởng cha là người quấy, bấy nhiêu đó thì đủ rồi. - Thưa cha, không được. Con muốn hiểu cho rõ việc nhà, nên cha không chịu nói thì con ở luôn theo đây với cha, con không rời cha nữa. - Cha nghe nói qua sang năm con đi thi, vậy con phải để trí thong-thả mà học, chẳng nên lo việc chi khác hơn là việc đèn sách. - Nếu cha không chịu nói thì con không thế nào học nữa được. - Con muốn biết thì chờ chừng nào cha chết rồi con sẽ biết, không muộn gì đâu. - Nếu cha chết rồi con mới biết thì muộn lắm chớ, chừng đó mới biết thì có ích chi đâu. Chẳng dấu gì cha làm chi, từ ngày con nghe thầy con nói gặp cha thì con lờ-đờ lững-đững như đứa không hồn, ngày như đêm con tự quyết phải đi tìm cho được cha mà hỏi coi vì cớ nào cha sanh con được, mà không dưỡng nuôi dạy dỗ được. Nãy giờ con nói chuyện với cha thì con đã biết không phải cha không thương con, con đã hiểu cha không phải là người quấy. Con tuy còn nhỏ tuổi, nhưng mà con có đọc sách ít nhiều. Ví dầu việc xưa mà có cái chi buồn thảm cho mấy đi nữa, hễ cha tỏ thiệt với con thì con chẳng nao núng chi đâu mà cha ngại, chớ con đã biết một phần rồi, mà cha còn dấu nữa, thì con làm sao được yên lòng mà học. Thể-Hùng day qua ngó con, rồi ngó ra ngoài sân. Mưa đã tạnh rồi mà trời đã gần tối. Dưới rạch bìm-bịp kêu inh-ỏi, trước cửa cặp sóc nhảy lom-xom. Thể-Hùng bần-dùng [8] một hồi rồi nói rằng: - Ðến nước nầy còn dấu-diếm mà chi nữa. Trước hay sau cũng phải nói. Thôi thà nói phứt cho rồi chớ biết ngày chết có được gặp nhau nữa hay không. Con muốn hiểu việc xưa, thì con ngồi đó, cha nói hết cho con nghe. Thể-Hùng vấn một điếu thuốc rồi đi lại bếp lửa đốt mà hút. Chừng chàng trở lại thấy con đứng xẩn-bẩn dựa cây cột, bèn biểu con lên cái chõng mà ngồi, còn chàng thì đi thẳng lại võng rồi ngồi lên võng nhún mình mà đưa. Chừng thấy Thể-Phụng ngồi rồi. Thể-Hùng mới nói rằng: - Hồi cha còn nhỏ, ông nội bà nội con khuất sớm, cha buồn rầu nên bỏ đi xứ nầy xứ kia mà kết bạn với những tay nghĩa sĩ anh hùng. Nhờ cha biết võ-nghệ chút đỉnh nên đi đến đâu cũng có người trọng hậu. Năm nọ mẹ của con đi cúng chùa về dọc đường bị ăn cướp bắt. Cha đi tình cờ may cha gặp, nên cứu mẹ của con khỏi tay kẻ quấy rồi đưa về tới nhà. Mẹ của con cảm nghĩa cha cứu nguy, nên thầm nguyện kết tóc trăm năm với cha, song không tỏ tình riêng cho ai biết. Vì ôm ấp tình ấy trong lòng lâu ngày nên sanh bịnh. Dì hai của con lo nuôi đau, chị em nói chuyện với nhau, rồi mẹ con mới tỏ thiệt tâm sự. Dì của con hay việc ấy mới khuyên ông ngoại con gả mẹ con cho cha. Ông ngoại con ban đầu nói cha là quân bình-bồng nên không chịu gả, đến chừng thấy mẹ của con bịnh một ngày một nặng, sợ làm bức mẹ của con rầu buồn mà chết đi, nên mới cho người tìm cha mời đến nhà mà nói chuyện hôn nhơn. Cha vẫn biết, chí của cha đễ chết với việc nghĩa, chớ không phải để vui thú thê-noa [9], bởi vậy cha cố từ hoài, sợ có vợ rồi làm buồn cho vợ nên cha không dám chịu. Ông ngoại con nói thiệt rằng mẹ của con vì cha mà nhuốm bịnh, nếu cha không ưng thì mẹ của con rầu chắc phải chết, vậy hễ cha ưng, ấy là cứu dùm mạng của mẹ con. Cha nghe nói như vậy cha động lòng, nên bất đắc dĩ cha phải ưng đặng mà cứu mẹ của con. Nhắc tới việc xưa cha buồn lắm. Mẹ của con thiệt là một người hiền đức, đáng kính đáng trọng lắm. Nhưng mà cha tiếc vì tánh của cha hồ hải đã quen rồi, chừng cưới mẹ của con rồi, mẹ con vui vẻ hết bịnh, thì cha không ở nhà với ông ngoại con, cha cứ đi giao du với chúng bạn hoài. Tuy vậy mà mẹ của con chẳng có một tiếng chi phiền cha, vì muốn trưởng chí cho chồng, nên cha làm việc gì cũng không ngăn cản. Ðến năm Quý-Tỵ, khi ấy con đã được năm sáu tuổi rồi, trên Gia-Ðịnh có ông Lê-văn-Khôi vì muốn rửa hờn cho quan Tả-quân Lê đại-nhơn, nên kéo cờ độc lập, chiêu nghĩa binh mà chống cự với triều-đình. Từ nhỏ chí lớn cha nuôi chữ nghĩa trong lòng, dầu gặp tiểu nghĩa cha cũng không nỡ ngó ngơ, huống chi là đại nghĩa, bởi vậy cha trở về nói cho ông ngoại và mẹ của con hay đặng cha đi. Ông ngoại con là người chơn chất thiệt thà, bình sanh cố lo làm giàu, chớ không chịu việc khác. Tánh ý của cha không giống với tánh ý của ông ngoại con, bởi vậy thấy cha không lo làm ruộng hay là lập vườn như ông thì ông đã không ưa rồi, mà chừng nghe cha tính lên Gia-Ðịnh mà giúp với ông Lê-văn-Khôi nữa, thì ông lại càng thêm ghét. Tội nghiệp mẹ của con quá, nhắc tới đây cha nghĩ cha thương mẹ của con vô cùng. Cha nói chuyện đi Gia-Ðịnh, thì mẹ của con vui như thường, không cản một tiếng nào hết. Vì cha không muốn cho mẹ con buồn, nên tối lại trong lúc mẹ con của con đương ngủ mê, cha lén mở cửa ra đi .... Thể-Hùng nói tới đây, chàng nhớ thương vợ nên nước mắt tuôn rơi, cuống họng nghẹn cứng, chàng nói không được nữa. Thể-Phụng nghe chuyện xưa đã cảm động, mà thấy cha như vậy nữa, chàng dằn không được, nên chàng cũng ngồi mà khóc. Trời đã gần tối mò. Thể-Hùng khóc một hồi rồi lần đi kiếm thếp đèn đem lại bếp thổi lửa lên ngọn mà đốt. Chàng để thếp đèn trên chõng, vấn một điếu thuốc nữa mà hút rồi cũng leo lên võng ngồi mà nói tiếp rằng: - Vì trời khiến người phải còn bị ép, mà cũng vì quả bất năng địch chúng, bởi vậy trót 3 năm trường cha với các nghĩa sĩ cực nhọc hết sức mà không được thành công. Thành Gia-Ðịnh bị hạ, cha tả xông hữu đột mà phá vây, cha bị thương rất nặng, tưởng đã vong mạng rồi. Cái mặt cha có thẹo, cái chơn cha bây giờ còn đi cà nhắc, ấy là bởi cha bị thương trận đó. Chớ chi hồi đó giặc giết cha chết phứt đi, thì mát thân cha biết chừng nào! Trời khiến cha còn sống làm chi mà cha phải chịu áo-não như vầy. Cha mang bịnh trở về nhà ông ngoại con, thì mẹ của con mới chết trước mấy bữa. Ðau đớn chưa! Ông ngoại con một là nói tại cha nên mẹ con buồn rầu mới chết, hai là sợ cha lân-la quan họ nói đồng lõa với quân ngụy họ bắt, bởi vậy ông ngoại cố xô đuổi cha, không cho cha vô nhà. Cha xin lãnh con cha nuôi. Ông ngoại con nói rằng cha muốn bắt con thì ông giao, nhưng mà hễ bắt rồi thì đem đi luôn, ông không nhìn biết tới nữa, chừng ông mãn phần con cũng không được ăn gia tài. Còn như để cho ông nuôi thì ông cho ăn học, ngày sau ông để trọn gia tài cho con. Cha thương con mà nghe ông ngoại giao kết như vậy cha không biết liệu làm sao. Cha mới xin để cho cha suy nghĩ một vài ngày rồi cha sẽ trả lời. Cha nghĩ phận cha nhà cửa không có, cơm tiền cũng không, mà cha lại mang tật manh bịnh, không biết chết sống bữa nào, nếu nhận con về mà nuôi thì thân con đã cực khổ, mà cha cũng không có sức mà cho con ăn học đặng lập công danh với đời được. Vì cha thương con, cha muốn cho con lúc nhỏ được sung-sướng tấn thân, chừng lớn sẵn có gia tài mà hưởng, bởi vậy cha phải cắt ruột của cha, cha phải nhường con lại cho ông ngoại con nuôi. Qua ngày sau cha đến trả lời, xin để con lại cho ông ngoại con nuôi. Ông ngoại con gắt-gao quá, ông thấy cha yếu thế ông buộc cha như vầy -- nếu để con cho ông nuôi thì tự hậu cha không được tới nhà ông nữa, dầu gặp con đi ngoài đường cha cũng không được phép nhìn con. Cha năn nỉ xin cho cha lâu lâu tới thăm con một lát. Ông nhứt định cấm tuyệt không cho nhìn biết đến con. Cha năn-nỉ quá ông mới chịu cho điều nầy, là ngày nào cha chết, thì ông sẽ cho con đến mà chịu tang. Nghĩ vì thương con thì phải làm cho con nên, chớ không lẽ làm cho con hư, bởi vậy cha phải bóp bụng dằn lòng mà ưng chịu, thà là cha vì con mà áo-não, chớ cha không nỡ làm cho con phải vì cha mà hạ tiện bần cùng. Bởi tại như vậy, nên mười mấy năm nay cha núp lén mà thăm, chớ không dám chường mặt, còn ông ngoại con sợ con đi tìm cha, nên ông nói dối với con rằng cha đã chết rồi. Thể-Hùng nói vừa dứt lời thì Thể-Phụng chạy lại ôm cha mà khóc. Thể-Hùng nói được tâm sự cho con nghe thì trong lòng phơi phới, nên miệng chúm-chím cười, mà hai hàng nước mắt nhỏ giọt. Cha con khóc với nhau một hồi rồi Thể-Hùng nhớ lại mình chưa ăn cơm nên lật đật đốt lửa nướng ít con khô cá sặc mà dọn cơm ăn với con. Cha con tuy mới hiệp nhau, mà tình dan-díu coi chẳng khác nào như ở chung một nhà từ nhỏ tới lớn. Ðêm ấy cha con nằm chung một chõng mà nói chuyện với nhau. Thể-Phụng biết được tâm chí của cha, hiểu được tâm sự của cha, thì kính phục hết sức, quyết ở luôn nơi đây mà nuôi dưỡng cha, không chịu trở về nhà ông ngoại nữa. Thể-Hùng khuyên giải con, biểu trở về, bởi vì nếu bạc ông ngoại, ông giận ông từ, thì ngày sau mất ăn gia tài. Thể-Phụng đáp rằng: - Cha tưởng gia tài đó quí cho bằng cha hay sao. Con không màng đâu. Thử đem 10 cái gia tài như vậy mà đổi cha, coi con có thèm hay không mà! Thể-Hùng thấy con trọng nghĩa khinh tài, thì chàng lấy làm mừng, nhưng mà chàng sợ thất ước với cha vợ, lại cũng vì chàng thương con, cố lo cho thân con ngày sau, nên chàng cứ theo khuyên con khuya phải dậy mà về, bởi vì còn chẳng bao lâu nữa tới khoa thi, nên phải về mà lo ôn nhuần kinh sử. Ðã vậy mà ông ngoại có công nuôi dưỡng từ nhỏ chí lớn, ơn ấy cũng trọng như ơn sanh thành, bởi vậy không nên bạc ông. Thể-Phụng dụ-dự không chịu về. Thể-Hùng nói rút rằng: - Việc gia tài, con cần hay là không cần cũng chẳng quan hệ chi lắm. Ngặt vì có lời hứa của cha, nên ông ngoại con mới nuôi con cho tới ngày nay, con đã khôn lớn rồi, lại thi đậu Tú-Tài rồi nữa. Nếu bây giờ con bỏ ông ngoại mà theo cha, chi cho khỏi ông nói cha thấy con nên vai nên vóc, con đã có chút công danh rồi, nên cha dụ dỗ con. Thuở nay cha nghèo, song chẳng hề mang tiếng chi hết. Nay con đành vì cái tình thương cha, mà làm nhơ danh cha hay sao? Thể-Phụng nghe tới cái lý-thuyết ấy, chàng mới chịu vưng lời cha, nhưng mà chàng bịn-rịn hoài, cứ nấn ná ở cho tới chiều bữa sau chàng mới chịu về. Trước khi Thể-Phụng xuống ghe, thì Thể-Hùng dặn rằng: - Con về ráng lo ăn học đặng lập công danh với người ta, con đừng có nhớ đến chuyện cha nói với con đó làm chi. Con cũng đừng có lui tới mà thăm cha nữa. Nếu cha có bịnh cha sẽ cho con hay, mà hễ con hay thì xin phép ông ngoại mà đi cho minh-bạch. Cha ước có một đều nầy, là ngày nào cha hấp hối, con cho cha thấy mặt con một chút rồi sẽ nhắm mắt. Thể-Phụng cúi đầu và khóc và bái biệt cha mà về.

Chú thích : [2] điều [3] mau, nhanh, lẹ [4] cong [5] một cách bắt cá tôm [6] nói bên lề không vô đề [7] ngờ [8] dùng dằng [9] vợ con Ngọn Cỏ Gió Đùa

Chương 18

Quyển thứ V - Nghĩa nặng tình sâu

Vương-thể-Phụng trở về nhà, trong lòng tuy buồn thảm nhưng mà ngoài mặt làm vui như thường. Vì chàng đã có dặn trước thằng Son, nên nó cũng dấu dùm, trong nhà ai hỏi đi đâu, thì nó cứ nói đi theo cậu qua Bến-Tranh, chớ không nói đi Nhựt-Tảo. Ông Ðàm-tư-Chấn tình cờ tưởng cháu thiệt đi chơi, nên ông cũng chẳng gạn hỏi cho lắm. Thể-Phụng đi học tối ngày, hễ về đến nhà ăn ba hột cơm rồi thì rút vào trong thơ phòng không nói chuyện với ông ngoại như khi trước nữa. Ông Tự-Chấn tưởng cháu lo ôn nhuần kinh sử đặng chờ ngày thi, nên ông cũng không nghi ngại chi hết. Một bữa nọ thừa lúc ông nhiêu Khoa rảnh-rang, Thể-Phụng mới hỏi thăm căn nguyên giặc Khôi và hỏi thăm tài lực tướng sĩ làm ngụy. Ông nhiêu Khoa bèn tỏ thiệt đầu đuôi các việc cho Thể-Phụng nghe, nhơn dịp ấy ông lại khen ngợi tài chánh trị của quan Tả-quân, khen trí dũng của Lê-văn-Khôi và khen sự can-đảm của tướng sĩ bị vây trong thành Gia-Ðịnh. Thể-Phụng hiểu rõ việc ấy lại càng kính phục cha nhiều hơn nữa. Ban đêm chong đèn lấy sách ra đọc, chàng cứ ngồi ngó ngọn đèn mà tưởng cha hoài. Chàng thương cha trước vì nghĩa mà phải mang tật bịnh trọn đời, rồi sau lại vì con mà phải chịu đớn đau hằng bữa, bởi vậy hễ nhớ tới cha thì chàng ứa nước mắt; có khi chàng muốn dẹp hết việc học hành, để theo cha mà nuôi dưỡng, cho cha hết cực- khổ, bớt sầu thảm quạnh-hiu. Chàng muốn như vậy mà chàng lại nhớ những lời cha dặn, bởi vậy chàng sợ trái ý cha nên chàng không dám bỏ học. Bữa rằm tháng 8 lúc gần tối khi Thể-Phụng từ thầy, cặp sách đi về nhà rồi thì ông nhiêu Khoa tiếp được một bức thơ của ông nhiêu Toại ở Nhựt-Tảo gởi lên nói rằng Vương-thể-Hùng đau nặng, sợ e qua không khỏi, và cậy ông nhiêu Khoa nói dùm lại cho Vương-thể-Phụng hay. Ông nhiêu Khoa lật đật sai một đứa học-trò nhỏ cầm bức thơ lại nhà ông Ðàm-tự-Chấn mà trao cho Thể-Phụng. Rủi thay bữa ấy Thể-Phụng đi học về gặp sắp bạn trong nhà đương dọn ghe đi câu theo mé sông. Chàng học đã mệt trí mà lại thấy trời tốt bởi vậy chàng ăn một chén cơm rồi đi theo ghe câu đặng hưởng trăng trong gió mát mà giải trí một vài canh. Ghe câu mới lui một lát thì đứa học-trò đem thơ tới. Ông Ðàm-tự-Chấn hỏi thăm mới rõ mọi việc rồi ông xin lãnh bức thơ, ông nói dối rằng Thể-Phụng đi chơi sau vườn, để một lát trở vô ông sẽ trao lại. Ðứa học-trò trở về, vừa mới bước ra khỏi cửa thì ông Tự-Chấn quạu mặt chau mày nói lầm-bầm rằng: - Quân khốn kiếp mấy năm nay tưởng đâu nó đã chết rồi, té ra còn sống. Ta đã có giao rồi, còn nhắn nhe chi nữa. Thứ đồ đó chết đâu thì chết phứt cho rảnh, sống thêm báo đời chớ có ích gì. Cách đã gần 15 năm mà ông Tự-Chấn cũng chưa hết ghét Thể-Hùng. Ông cầm bức thơ trong tay rồi leo lên võng mà nằm. Ông suy tới nghĩ lui một hồi rồi ông nhứt định dấu bức thơ, không cho Thể-Phụng hay. Lối nửa canh hai Thể-Phụng đi câu về. Ông Ðàm-tự-Chấn còn thức, ông ra mở cửa cho Thể-Phụng vô, mà không nói chuyện Thể-Hùng đau. Thể-Phụng đi ngủ, mà chẳng hiểu vì cớ nào trong lòng bứt rứt, trong trí bưng-khuâng, bởi vậy nằm thao thức hoài ngủ không được. Chàng giận nên ngồi dậy đốt đèn lấy sách ra mà đọc cho tới sáng. Bữa sau Thể-Phụng sửa soạn ôm sách đi lại trường. Ông Tự-Chấn sợ cháu lại đó ông nhiêu Khoa nói lậu việc, nên ông cản lại, biểu ở nhà đi đòi lúa dùm cho ông. Thể-Phụng không chịu ở nhà, chàng nói rằng chàng mới làm một bài phú để chàng đem trình cho thầy xem. Ông Tự-Chấn liệu cản không được, mà nghĩ bây giờ cho người đi dặn trước ông nhiêu Khoa cũng không tiện, bởi vậy ông biểu Thể-Phụng ở nhà cho ông nói chuyện riêng một chút rồi sẽ đi. Thể-Phụng để sách trên ván đứng ngó ông ngoại trân-trân, có ý đợi coi ông nói việc gì. Ông Tự-Chấn lặng thinh một hồi rồi ông tằng-hắng hai ba tiếng và nói rằng: - Thuở nay ông nói với cháu rằng cha mẹ cháu chết hết, ấy là vì cha cháu là đứa bất tiếu, ông không muốn cho cháu nhìn nên ông nói như vậy, chớ thiệt cha cháu còn sống. - Việc ấy cháu biết. Ông Tự-Chấn chưng hửng, lỏ mắt ngó thể-Phụng rồi hỏi rằng: - Ai nói với cháu? Thể-Phụng cũng ngó ngay ông mà đáp rằng: - Tự nhiên cháu biết. Cha của cháu bên Nhựt-Tảo. Hôm tháng năm cháu có đi thăm một lần rồi. Ông ghét cha cháu nên ông nói cha cháu bất hiếu, chớ theo ý cháu thì cha cháu tuy nghèo, song thiệt là đứng anh-hùng quân tử. Ông Tự-Chấn giận đỏ mặt, ông vùng đúng dậy trợn mắt nói rằng: - Ông nhiêu Khoa chỉ cho mầy đó, phải hay không? - Ai chỉ cũng được. Mà người dứt tình phụ tử của người ta mới có tội, chớ người giúp cho phụ tử tương phùng có tội chi đâu. - Hay! Cha chả khôn dữ! Thiệt nòi nào giống theo nòi nấy. Nuôi nó từ nhỏ chí lớn rồi bây giờ nó muốn trở mỏ về rừng. - Thưa ngoại sao ngoại nói như vậy, ngoại nuôi cháu cho cháu ăn học. Ơn ấy rất nặng nào cháu dám quên bao giờ, còn cha cháu sanh cháu, ơn ấy cũng rất nặng. Sao ngoại nỡ muốn cho cháu trọng ơn của ngoại mà phụ ơn của cha cháu chớ? - Cha mầy là cái quân khốn kiếp. Nó theo côn đồ cướp đảng, nó báo hại cho mẹ mầy chết. Tao với mầy đó, thiếu chút nữa cũng bị chết chém. Thứ đồ như vậy còn nhìn nó làm cái gì? - Cha cháu tánh tình cao thượng, chớ không phải như lời ngoại mới nói đó đâu! Bây giờ cháu biết phân biệt phải quấy rồi. Xin ngoại đừng có mắng nhiếc cha cháu như vậy, tội nghiệp cho cháu lắm. Nói cùng mà nghe, ví dầu cha cháu có bất hiếu cho mấy đi nữa. Ấy cũng là đấng tạo hoá của cháu. Có lẽ nào cháu dám khinh bạc đó ngoại. - Thôi! Ðừng có nhiều chuyện nữa. Tao biết rồi, cha mầy nó xúi mầy chưởi tao đó! Hứ! Cái thứ đồ bạc, phải tao dè như vậy đó thì thuở nay tao để cơm cho chó nó ăn còn có ơn. Ông Tự Chấn nói mấy lời rồi ngoe ngoảy bỏ ra sau vườn mà sắc giận lộ ra ngoài mặt đỏ au. Thế Phụng có dịp tỏ ý kính trọng cha được thì chàng đắc ý ôm sách đi học mà chẳng có dấu chi ăn năn những lời đối đáp với ngoại hồi nãy đó hết. Khi Thể Phụng bước vô nhà trường ông Khoa ngó thấy liền hỏi: - Ủa! Cháu chưa đi hay sao? - Thưa đi đâu? - Hồi chiều hôm qua thầy biểu bầy trẻ đem thơ của anh Nhiêu Toại cho cháu coi. Vậy cháu không có đọc cái thơ đó hay sao? - Thưa, cháu đâu có thấy thơ từ gì đâu? Ðưa cho ai? - Ông ngoại cháu lấy thơ nói rồi trao lại cho cháu mà! - Thơ không có, thơ nói việc chi? - Anh Nhiêu Toại nói cha cháu đau nặng lắm, nên cậy viết thơ nhắn cháu qua cho mau mau. - Trời đất ơi! Vậy mà ông ngoại tôi đành dấu thơ chớ! Hèn chi... Thể Phụng vừa nói vừa khóc, nước mắt nước mũi chàm ngoàm. Chàng bối rối trong lòng, không biết liệu làm sao đi qua Nhật Tảo cho mau được. Chàng dụ dự một hồi rồi trình với thầy mà về. Chàng bước vô nhà thì thấy ông ngoại với dì đang nói chuyện. Vừa thấy dạng chàng bước vô thì nín hết nên chàng không hiểu nói việc gì. Chàng đặt sách rồi thưa lại với ông ngoại rằng: - Thưa ngoại cháu mới hay tin cha cháu đau nặng, nhắn cháu qua cho mau đặng cha con thấy mặt nhau lần chót. Vậy cháu xin ngoại cho cháu đi ít bữa mà thăm coi cha cháu đau bịnh gì. - Há, Thể Phụng à, cháu dại quá, ngoại nghĩ vì cha cháu là đứa hoang đàng, khi mẹ cháu còn nó không lo làm ăn mà lại tụ đảng với quân bất lương mà làm ngụy nữa. - Thưa ngoại, cháu biết hết rồi. Tánh tình của cha cháu... - Ậy, để ngoại nói hết cho mà nghe. Cha cháu sanh tâm theo quân ngụy, may đó! Không thì bà con dòng họ chết hết rồi còn gì! Ngoại sợ cháu dại, cháu theo cha cháu rồi tập cái tánh ngang tàng đó mà mang hại nên ngoại dành cháu lại ngoại nuôi. Cha cháu nó cũng bằng lòng bỏ cháu mà. Thuở nay cháu có thấy nó lui tới lần nào không? Cha con như vậy có tình nghĩa gì mà thương. Tuy vậy mà chiều hôm qua ngoại được thơ nói nó đau nặng, ngoại tính dọ lại coi, hễ nó thiệt đau nhiều thì ngoại cho cháu hay để cháu đi thăm. Chớ phải ngoại hẹp hòi gì hay sao! Hồi sớm ngoại mới nói, cháu mắng ngoại thật là bậy lắm nghe! Thể Phụng nghĩ giây lâu rồi đáp: - Thưa ngoại cháu nghe cha cháu đau nặng cháu nóng lòng lắm, vậy xin ngoại cho cháu đi liền bây giờ đi nghe! - Ði đâu mà gấp vậy! Ðể ngoại sai bầy trẻ qua coi như thiệt nó đau rồi hẳn đi. - Thưa ngoại cháu gặp cha cháu hôm tháng năm, cha cháu có rầy biểu cháu đừng có tới lui, ngoại hay ngoại buồn. Song chừng ra về cha cháu có dặn rầng "Cha cháu năm nay yếu lắm. Vậy hễ ngày nào đau nặng thì cha cháu cho hay để qua mau mau." Vậy xin ngoại để cho cháu đi, nếu cha cháu không đau nhiều thì hổng nhắn cháu bao giờ đâu. Ông Tự Chấn ngồi lâu không trả lời. Ðàm Kim Huê mới rước mà nói: - Nó nói như vậy thôi cha để cho nó đi đi cha! - Cháu sửa soạn rồi biểu bầy trẻ chèo cho mà đi. Thế Phụng vội vả đi thay áo và muốn đi cho mau nên biểu hai tên gia đinh bơi xuồng mà đưa chớ không chịu đi ghe lớn. Lúc ra đi thì Kim Huê lén cho một quan tiền và nói: - Dì gởi một quan tiền cho dượng ba uống thuốc nghe. Cháu thăm rồi về mau mau cho dì hay kẻo dì trông, nghe cháu. Thế Phụng qua tới Nhật Tảo thì mặt trời đã xế bóng rồi, vừa ghé bến thì chàng nhảy phốc lên, ngó trong nhà thì thấy nhà im lìm, chàng bươn bả đi vô. Thình lình bà Tư Tùng trong nhà chun ra lấy tay che mắt ngó chàng và hỏi: - Ai đó, cậu Thể Phụng phải không vậy? Thể Phụng không biết là ai nên đứng lại mà đáp: - Phải! Tôi là thể Phụng đây. Sao bà biết tôi vậy? - Cha Chả, cậu qua sao mà trể quá vậy! - Cha tôi bịnh sao đó bà? - Hứ! Còn đâu mà hỏi nữa, cậu ơi! Tắt hơi hồi nửa buổi sớm mơi rồi. Thể Phụng nghe nói hồn siêu phách lạc. Chàng chạy a vô nhà, thấy trên một cái võng có một người nằm chiếu phủ xùm xề, bèn dỡ chiếu ra thấy cha nằm ngửa mắt nhắm thiêm thiếp như ngủ thì thò tay ôm cha mà khóc rống lên, nghe rất thảm thiết. Bà Tư Tùng đứng một bên thấy vậy cũng động lòng. Thể Phụng khóc một hồi rồi day lại hỏi bà rằng: - Thưa bà, cha tôi bịnh bữa nào, rồi chết hồi nào vậy vậy bà? - Mấy tháng nay chú bịnh hoài mà chú cũng ráng đi câu đi lưới được, mới bốn bữa rày chú đi hổng nỗi nữa. Tôi ở gần thấy chú đau có một mình chú muốn bịnh tôi phải chạy đi chạy lại nấu cháo cho chú ăn. Hồi khuya nầy tôi lại thăm thì chú còn tỉnh. Chú trông cậu quá. Hồi sáng cứ biểu tôi ra ngoài bến mà coi chiếc ghe của cậu hoài. Tới chừng mặt trời mọc chú làm xung, tôi tưởng đã không xong rồi. Ai dè chú còn nuối [10] cậu nên một lát rồi chú khoẻ lại, ông Nhiêu có lại thăm, chú mượn viết mực rồi ráng ngồi dậy viết giống gì ở trong miếng giấy gì đây hổng biết nữa, rồi biểu tôi cất. Chùng nào cậu có qua thì đưa cho cậu. Ông Nhiêu cũng còn ngồi chơi đó tới nửa buổi chú mới tắt hơi. - Cha tôi viết làm sao đâu? Bà cho tôi coi một chút được hôn bà? Bà Tư Phùng mò trong lưng quần lấy ra một miếng giấy cuộn tròn bằng ngón tay cái mà đưa cho Thể Phùng. Thể Phụng mở ra thì thấy có mấy hàng chữ nôm như vầy: "Con ơi, mạng của cha đã hết rồi! Cha muốn thấy mặt con một lần chót rồi cha sẽ nhắm mắt mà trông con hổng được. Thôi cha chết, cha chẳng có điều chi mà dặn con, chỉ khuyên con ở đời phải trọng nghĩa khinh tài và xin con, con hễ gặp Ðỗ Cẩm thì đền ơn cho cha. Vì năm trước cha nhờ người ấy cứu cha nên cha mới còn sống đến ngày nay mà được thấy mặt con. Cha chết mà cha không ăn năn việc gì hết, duy chỉ có buồn về sự cha làm cho mẹ con sầu não ngày trước đó mà thôi. Gia định thành, Chánh Vệ Úy Vương Thể Hùng." Thể Phụng đọc bức thơ di ngôn rồi chàng khóc một hồi nữa, chàng xếp bức thơ rất kỹ lưỡng rồi bỏ vào túi rồi chàng hỏi bà Tư Tùng rằng: - Thưa bà, bà có nghe cha tôi trối lời chi nữa hay không, thưa bà? - Hổng có. - Gần đây có ai bán hòm không vậy? - Có, ở ngoài nhà có bán, mà ông Nhiêu đã đi mua rồi. Ổng đi từ hồi trưa chắc ổng gần về rồi. Kìa, kìa ổng về tới kìa. Thể Phụng ngó ra sân thì thấy ông Nhiêu Toại đi vô rồi bước ra làm lễ ông rồi hai người nói chuyện với nhau. Ổng cũng nói Thể Hùng trông đợi cũng như bà Tư Phùng nói lúc nãy. Còn chàng tỏ cho ông biết vì cớ nào mà chàng tới trễ. Thế Phụng lấy một quan tiền của dì gởi cho mà lo đám tang cha. Hôm sau chôn cất xong rồi Thế Phụng mới tạ từ Nhiêu Toại với bà Tư Tùng mà về. Lúc bước xuống xuồng thì mưa dầm dề. Ðến dọc đường chàng nghĩ, nếu ông ngoại khi được thơ cho chàng biết ngay, chàng đi liền nội đêm đó thì cha con còn thấy mặt nhau một lần nữa được. Tại ông dấu thơ nên cha gìa chết mà không thấy được mặt chàng. Chàng nghĩ tới chuyện đó thì chàng buồn ông ngoại lắm. Tuy vậy mà về đến nhà Thể-Phụng buồn mà thôi chớ không tỏ dấu chi phiền ông. Ðàm-tự-Chấn với Ðàm-kim-Huê thấy Thể-Phụng mặc đồ tang-phục thì biết Thể-Hùng đã chết rồi, nhưng mà Kim-Huê hỏi thăm chớ Tự-Chấn không thèm hỏi đến. Thể-Phụng đêm ngày thương tiếc cha nên nằm trong buồng mà khóc hoài. Chàng hết muốn học mà đi thi nữa, nghĩ vì tưởng cha còn sống ráng lập công danh đặng nuôi dưỡng cha và làm vinh hiển cho cha. Hôm nay mẹ cha không có, thì dầu có thi đậu ông nghè ông cống, dầu làm quan tới nhứt phẩm đi nữa, nghĩ cũng không vui-vẻ chi. Chàng dọn trong buồng một cái bàn để thờ cha. Chàng căng bức thơ di-ngôn của cha mà treo ở giữa, còn hai bên có kềm hai bài vị, bên tả thì bài vị biên như vầy: "GIA-ÐỊNH THÀNH ÐẠI NGUYÊN SOÁI LÊ-VĂN-KHÔI" Còn bên hữu thì bài vị biên như vầy: "GIA-ÐỊNH THÀNH CHÁNH VỆ-ÚY VƯƠNG-THỂ-HÙNG." Ðêm ngày chàng đốt đèn đốt nhang mà khẩn cầu cho vong hồn cha được âm cảnh tiêu diêu, mà mỗi lần chàng vái cha thì chàng cũng không quên mẹ. Chàng ước nguyện sẽ tận tâm tận lực mà học đòi chí cao-thượng, tập theo thói trong sạch của cha mà ở đời, nghĩ vì nghèo mà không hổ với lương tâm, hèn mà không thẹn với non nước, dường ấy thì quí báu hơn giàu mà bất nhơn, sang mà bất nghĩa. Chàng cứ bàng-hoàng tư lự hoài, thất chí ngã lòng, không cần cố việc bút nghiên đèn sách như trước kia nữa. Một bữa nọ lúc nửa chiều, Thể-Phụng buồn nên bước ra ngoài đường rồi thơ thẩn đi dọc theo mé sông mà suy nghĩ việc đời. Ông Ðàm-tự-Chấn thấy cháu từ khi đi Nhựt-Tảo về đến nay, ngày như đêm cứ lờ-đờ lững-đững, không lo đèn sách nữa thì ông lấy làm bất-bình. Ông chắc tại Thể-Hùng nói với Thể-Phụng chuyện gì đó, nên chàng mới đổi tánh nết như vậy. Tuy ông không nói ra song trong lòng ông giận Thể-Hùng lắm. Ðã vậy mà ông thấy Thể-Phụng cứ lục đục ở trong buồng hoài, thì ông sanh nghi, muốn vô coi chàng làm việc gì, ngặt có chàng ở đó hoài ông vô không đặng. Hôm nay ông thừa dịp chàng đi ra ngoài, ông mới bước vô buồng. Ông dòm thấy cái bàn thờ, ông đọc hai bài vị với bức thơ di-ngôn, thì ông giận run; ông thò tay giựt hai bài vị với bức thơ rồi ông co giò đạp bàn thơ ngã lăn cù, nhang đèn đổ dưới đất hết thảy. Ông bước ra ngoài rồi lại bộ ván giữa mà ngồi, tay còn cầm 2 bài vị với bức thơ, mà ông giận quá nên môi tái xanh, tay chơn run bây-bẩy. Lúc ấy Thể-Phụng lại trở về, chàng vừa bước vô cửa, ông đương giận nên ông mắng om-sòm rằng: - Vô đây, con ông Chánh Vệ-Úy, vô đây. Mầy tôn trọng quân đó lắm há! Nếu vậy thì mầy cũng một phồn với quân đó rồi. Mầy phải ra khỏi nhà tao cho mau, tao không cho ở một lát nào nữa. Ra cho khỏi nhà tao rồi mầy muốn thờ ai mầy thờ. Ði, đi cho mau! Chánh Vệ-Úy gì! Ðại Nguyên-Soái gì! Quân đó là đồ chó má, mầy sùng bái há! Ông nói dứt lời thì ông vò xé hai bài vị với bức thơ di-ngôn của Thể-Hùng, rồi ông chà dưới đít trước mặt Thể-Phụng. Thể-Phụng tức giận, chàng đứng lỏ mắt ngó ông ngoại mà vì chàng không dám mắng lại ông, nên chàng cuồng trí vùng la lớn rằng: - Vậy chớ họ đó lại hay gì lắm hay sao mà ông sùng bái. Ông Ðàm-tự-Chấn đã giận, mà thấy cháu vô lễ và nghịch ý, thì ông càng giận thêm nữa, nên ông giựt cây chổi để trên ván rồi rượt mà đập lên đầu Thể-Phụng và mắng rằng: - Ðồ phản nghịch, đồ ngụy Khôi đầu thai, mầy phải ra khỏi nhà tao cho mau. Tao đố mầy làm sao mà khỏi chết đâm chết chém như thằng cha mầy đó. Thể-Phụng chạy vô buồng, ngó thấy bàn thờ cha ngã ngang, hai bài vị xé mất, mà bức thơ di ngôn của cha cũng không còn, chàng mới hiểu mấy tờ giấy ông xé chà dưới đít hồi nãy là giấy ấy, bởi vậy chàng càng đau đớn mà lại càng tức-tủi trong lòng. Chàng không còn kể chi nữa hết, chàng bỏ trở ra cửa mà đi, không thèm lấy một vật chi, mà cũng không thèm nói một tiếng chi. Chàng đi khỏi nhà đã xa rồi mà ông cũng còn ngồi tại bộ ván giữa chưởi mắng Lê-văn-Khôi với Vương-thể-Hùng om-sòm. oOo Ông Ðàm-tự-Chấn giận Thể-Phụng đến nỗi ông ăn ngủ không được. Ông dặn hết thảy những người ở trong nhà, hễ thấy Thể-Phụng về thì phải đuổi, đừng cho chàng vô. Ông lại cấm nhặt, từ Kim-Huê cho đến tôi tớ hết thảy, không ai được nói tới tên Thể-Phụng, nếu ai chẳng tuân lời thì ông sẽ đập chết. Tuy ông giận, nên ông dặn như vậy, ông cấm như vậy, nhưng mà Thể-Phụng đi rồi, thì ông buồn bực, ông cứ chau mày xụ mặt hoài. Ông đi thăm ruộng hoặc đi dạo vườn thì thôi, mà hễ ông về nhà thì ông quạu-quọ, nội nhà ông thấy mặt ai ông rầy nấy, việc quấy ông rầy mà việc phải ông cũng rầy, dường như ông oán hết thảy cả nhà, sao ông giận ông đuổi Thể-Phụng mà không ai chịu kiếm chàng đem về, lại bắt chước ông mà giận luôn chàng nữa. Có lẽ ý ông thì giận như vậy, mà vì ông cấm nhặt nên có ai dám hở môi, thậm chí Kim-Huê thuở nay hay cãi lẽ với ông, mà trong việc nầy nàng thấy ông giận quá nên nàng cũng không dám nói. Còn Thể-Phụng, chàng ra khỏi nhà rồi chàng xăm-xăm đi riết lại nhà ông nhiêu Khoa mà thuật chuyện ông ngoại mắng chưởi vong hồn của cha mình lại cho ông nhiêu nghe. Ông Nhiêu nghe rõ rồi ông nói rằng: - Mấy ông già tánh họ chơn chất, họ không chịu dời đổi, sao cháu không nhịn, lại đi làm mích lòng ông chi vậy? - Thưa thầy, ví như cháu ăn ở đời mà cháu có làm đều chi quấy, hoặc cháu có ở vô lễ hay là bất nghĩa với ông ngoại cháu thì ông ngoại cháu đánh chửi mà sửa trị cháu, dường ấy cháu càng cảm ơn đức, cháu đâu dám phiền hà. Ngặt vì cháu không làm đều chi quấy, cháu chỉ muốn báo hiếu cho cha mà thôi, mà ông ngoại cháu không thương, lại sỉ nhục vong hồn của cha cháu, thì cháu còn ở đó nữa mà làm chi. Xin thầy xét đó mà coi, tình cha con mà ông ngoại cháu đành dứt, ngày trước lấy thế lực tiền tài mà ép cho cha cháu phải lìa cháu đi, sau nầy còn nhẫn tâm dấu thơ đặng cho cha cháu nhắm mắt đừng thấy mặt cháu được, bao nhiêu đó thì đã đủ cho cháu phiền rồi. Nhưng mà cháu nghĩ công ơn ông ngoại cháu nuôi cháu từ nhỏ chí lớn, nên cháu ép mình ở mà đền đáp ơn nghĩa cho tròn. Sự nghiệp của cha cháu để lại cho cháu chỉ có mấy hàng chữ là dấu tích mà thôi, mà ông ngoại cháu lại lấy xé mà chùi đít, rồi người đã chết rồi mà còn kêu tên mà mắng chửi, thế thì thà cháu mang tiếng bạc ơn, chớ cháu không để mang tiếng bất hiếu được. - Bây giờ cháu tính sao đây? - Thưa, ông ngoại đuổi cháu thì cháu đi, mà dầu không đuổi, cháu ở nữa cũng không được. - Cháu tính như vậy thì quấy lắm. Cháu đi đâu? - Thưa, đi đâu cũng đặng, đất sáu tỉnh nầy rộng lắm có lẽ nào không có chỗ cho cháu dung thân hay sao. - Cháu tính như vậy rồi làm sao mà đi thi? - Thôi, thi cử mà làm chi. Cha mẹ cháu chết hết rồi, thân cháu còn kể chi nữa mà lo công danh. - Cháu tính như vậy thì uổng công cháu ăn học quá. - Thưa, không uổng. Cháu học được bao nhiêu thì có ích cho cháu bấy nhiêu, chớ uổng là sao? - Còn gia tài của ông ngoại cháu đây, cháu đi rồi cháu bỏ cho ai ăn? - Thưa, cháu có lòng dạ nào mà hưởng gia tài đó. Cháu nghĩ cháu oán cái gia tài đó lắm, vì nó mà cha cháu phải chịu thương thầm thăm trộm cháu mười mấy năm nay, vì nó mà cháu chịu thất hiếu với cha, vì nó mà cha cháu chết không thấy mặt cháu được. Gia tài như vậy mà cháu hưởng sao đành! - Những lời cháu nói với thầy nãy giờ đó thầy nghe phải hết thảy. Nhưng mà cháu phải xét lại đều nầy -- mấy việc mà ông ngoại cháu làm cho cháu phiền đó, ấy là vì ông thương cháu, ông muốn cho cháu như ông, ông muốn cho trong trí cháu tưởng có một mình ông mà thôi, đừng có tưởng ai khác nữa, chớ không phải ông ghét bỏ chi cháu đâu. Còn sự ông ghét cha cháu đó, là tại hai đàng tánh tình khác nhau, nhứt là tại ông là người kính phục pháp luật triều-đình, mà cha cháu lại nghịch hẳn với chỗ ông kính trọng nên ông ghét, chớ không phải ông có ý chi khác. Thể-Phụng ngồi ngẫn-nghĩ một hồi lâu rồi thở ra. Ông nhiêu Khoa tưởng ông nói như vậy chàng xiêu lòng, nên ông khuyên lơn chàng trở về lo ôn nhuần kinh sử đặng đến kỳ thi mà lập công danh, chẳng dè chàng quyết chí không chịu về, mà cũng không thèm lo thi cử chi nữa. Ðến trưa có ghe đi qua Nhựt-Tảo, Thể-Phụng xin quá giang tính qua viếng mồ cha ít ngày rồi sẽ đi kiếm chỗ làm ăn. Qua đến nơi. Chàng thấy nhà cửa còn y nguyên, duy có chiếc xuồng bà tư Tùng đem về đậu ngay bến của bà mà thôi. Chàng bước vô nhà, thấy chỗ cha nằm ngồi hồi trước, thì chàng động lòng, nên nước mắt tuôn dầm-dề. Ban đầu chàng không tính qua ở đây bao giờ, mà qua đến đây chàng thấy cảnh như vậy, chàng lại quyết ở đây, chớ không tính đi đâu nữa. Chàng kế nghiệp cha, cũng đi câu tôm câu cá đem mấy xóm gần đổi gạo mà ăn. Chàng lo đấp mồ mả của cha cao-ráo, rồi lo sửa nhà cửa lại cho gọn-gàng. Chàng dọn bàn thờ rồi cũng viết 2 bài vị để mà thờ, còn bức thơ di-ngôn duy đã mất rồi, song chàng nhớ thuộc lòng hết, nên chàng viết lại rồi cũng treo dựa bên bài vị. Bữa nào rảnh rang thì chàng lại nhà ông nhiêu Toại mà đàm luận thế sự, hoặc rèn tập phú thi. Ông nhiêu biết chí của chàng cao, thấy văn của chàng nhã, thì ông khen mà lại tiếc cho chàng lắm. Thể-Phụng ở Nhựt-Tảo được vài tháng, bữa nọ có hai tên gia-đinh của ông ngoại chở qua 100 quan tiền mà nói rằng Ðàm-kim-Huê lén ông biểu chở tiền châu cấp cho chàng ăn học. Thể-Phụng thấy dì có lòng thương tưởng thì chàng cảm động, nhưng mà chàng cố từ không chịu lấy, biểu gia-đinh về thưa với dì rằng mình có đủ tiền dùng. Chàng cư tang báo hiếu cho cha, tấm thân tuy cực khổ, song lòng dạ bớt đeo sầu. Có khi chàng nhớ tới phận ông ngoại hiu-quạnh chàng thương, nhưng mà thương thì thương chớ chẳng bao giờ chàng tính trở về mà ở với ông nữa. Khi mãn tang rồi chàng cũng không tính đi đâu hết, quyết mai một cái mạng bạc trong xứ Nhựt-Tảo nầy, đặng khỏi nếm thế thái đắng cay, khỏi thấy nhơn tình ấm lạnh. Vì ông nhiêu Toại tiếc văn hay của chàng, ông cứ theo khuyên chàng phải lo thi cử hoài, bởi vậy chàng nghe lời, nên năm Canh-Tuất (1850), nhằm Tự-Ðức tam niên, chàng mới từ biệt mồ mả của cha mà đi du học. Thể-Phụng qua Ðịnh-Tường, nghe quan Bố-Chánh đương cần dùng một người làm đề lại, chàng bèn đến xin mà làm. Quan Bố-Chánh xem tướng, thấy bộ chàng đoan-trang, thử tài, thấy văn chàng tao nhã, nên ngài liền nạp dụng. Thể-Phụng làm ít ngày, quan Bố-Chánh càng thấy tài càng thêm yêu, càng biết nết càng thêm mến. Từ đây Thể-Phụng được yên ổn tấm thân, ban đêm chàng mới lo đọc sách, đặng chờ khoa thi năm Tý.

Chú thích : [10] những biểu hiện mong ngóng, chờ đợi Ngọn Cỏ Gió Đùa

Chương 19

Quyển thứ VI - Ân tình vẹn vẻ

Lối nửa chiều, nắng ui-ui chớ không gắt, mây mỏng mỏng đóng từ chùm. Dưới sông nước lớn chảy lờ-đờ, trên vườn gió quật nhành quằn-quại. Từ ngày Vương-thể-Phụng làm đề-lại tại nhà quan Bố-Chánh Ðịnh-Tường thì chàng ở đậu nhà bà hai Tiền, là một bà già không chồng không con, ở dựa mé rạch Vĩnh-Tường. Hôm nay trong nhà rảnh việc, chàng về sớm, nên thủng-thẳng đi theo mé rạch mà hứng mát. Chàng thơ-thẩn trên bờ dừa, khi cúi nhìn dòng nước chảy trong veo, khi ngước coi bầy sóc chuyền rần-rật. Cảnh hữu tình hữu thú, chàng đương vui với cảnh, bỗng đâu lại thấy có một chiếc xuồng nhỏ buột dựa mé rạch, chàng bèn hỏi mà mượn, rồi bước xuống xuồng bơi mà đi chơi. Trời mát, nước trong, cảnh vui, thuyền nhẹ khiến cho người nhàn du thơ-thới trong lòng. Thể-Phụng bơi vài cái, rồi ngơi dầm mà nhắm cảnh, ngó hai bên thì thấy dừa dành với cau phơi lá, nhà núp dưới bóng im-lìm. Chàng đi được hơn một khúc sông, bỗng thấy dựa gốc cây dừa quằn de [1] trên mặt nước, có một nàng thiếu nữ, tuổi chừng lối đôi mươi, tướng mạo đoan-trang, mặt mày sáng rỡ, đương ngồi cầm cần cau mà câu cá. Phía sau lưng nàng ấy, cách chỗ nàng ngồi chừng mười bước, lại thấy có một ông già không có râu, tóc cụt mà đã bạc trắng, bộ tịch rất hầm-hừ, ông chấp tay sau đít ngó nàng lom-lom, dường như ông đứng giữ-gìn, hoặc sợ nàng té nhào xuống sông, hoặc sợ kẻ gian áp bắt trộm. Thể-Phụng thấy người con gái dung nhan tuấn tú, thuở nay chưa từng gặp gái nào đẹp bằng, bởi vậy chàng đã bơi xuồng qua khỏi rồi, mà còn quay đầu lại mà dòm. Ông già thấy cử chỉ của chàng như vậy, chắc là ông không vừa lòng, nên ông lỏ mắt ngó lườm-lườm. Thể-Phụng hiểu ý ông nên chàng chúm-chím cười rồi bơi xuồng đi tuốt không dám ngó lại nữa. Chàng thả trôi xuồng theo dòng nước mà ngắm cảnh thì cảnh không vui như hồi nãy nữa, trí chàng cứ tưởng tượng hình dạng của người con gái ấy hoài. Chàng bèn quày xuồng bơi trở về, có ý muốn thấy mặt người xinh đẹp một lần nữa cho rõ ràng, chẳng dè xuồng của chàng chưa tới, thì người con gái ấy đã đứng dậy vác cần câu đi vô nhà, ông già cũng đi theo, bởi vậy chàng đi tới thì chỉ còn cái gốc dừa quằn trơ-trơ chớ chẳng thấy ai nữa hết. Thể-Phụng về nhà thì thiệt không chú ý đến việc mình gặp gỡ hồi chiều cho lắm. Nhưng mà tối lại, bà hai Tiền ngủ rồi, chàng dỡ sách ra mà đọc, thì trí bàng-hoàng, lòng khoan-khoái, tuy lòng không muốn tưởng mà trí cứ tưởng người mỹ-nữ ngồi câu dựa gốc dừa đó hoài. Qua ngày sau, chàng trông cho mau tới chiều đặng có mượn xuồng mà đi ngang qua nơi kỳ ngộ, hoặc may có thấy mặt người ngọc nữa chăng. Chẳng dè chiều bữa sau trời mưa dầm-dề, làm cho chàng phải ép mình mà ở nhà, nghĩ vì trời như vậy không lẽ người ta ngồi câu được mà mình đi cho thất công. Từ ấy về sau, chiều bữa nào trời tốt chàng cũng đi, nhưng mà đi thì ngó gốc cây dừa quằn rồi trở về, chớ không thấy mỹ-nữ ngồi câu nữa. Có một bữa chàng bơi xuồng đi qua, chàng thấy ông già đương đứng dựa cửa mà ngó xuống rạch. Chàng muốn ghé lại hỏi thăm đặng làm quen, mà rồi chàng nghĩ, nếu ghé thì biết nói chuyện gì, lại chàng nhớ bộ tướng ông già hầm-hừ, bởi vậy chàng dụ-dự rồi đi luôn không dám ghé. Một đêm nọ chàng ngồi đọc sách, mà trong lòng bưng-khuâng hơn các bữa khác. Ðến nửa canh hai, chàng xếp sách lại rồi bước đi ra ngoài đường. Trên trời mảnh trăng khuyết bị mây án lu-lu; dưới đất tàu dừa che nên chỗ mờ chỗ tỏ. Thể-Phụng đi thơ-thẩn trên bờ dừa, nhà ở theo đường đều ngủ im lìm. Chàng đi một khúc xa-xa bỗng thấy có một cái chòi lá, cột xiêu, vách rách, mà trong chòi thì chong đèn leo lét và có hai ba người đi qua đi lại nói chuyện rầm rì. Chàng dòm xuống mé rạch lại thấy có một chiếc ghe lườn đương đậu ngay cái chòi ấy. Chàng bước tới chừng vài chục bước, chàng lại thấy có một khúc cây khô ai để dựa gốc cây dừa lùn. Chàng bèn ngồi ghé trên khúc cây ấy mà nghỉ chơn. Chàng đương suy nghĩ không biết ai mà hỏi người mỹ-nữ mình thấy hôm nọ là con của ai, có chồng hay chưa, niên canh được bao nhiêu tuổi. Thình-lình mấy người ở trong chòi lá đi ra, hai người đàn ông đi trước, một người đàn bà đi sau. Hai người đàn ông mỗi người đều có cầm một vật trong tay, song trời tối nên không rõ cầm cây hay là dao mác chi đó. Hai người đàn ông nhảy xuống chiếc ghe lườn rồi một người gay chèo [2], còn một người lo nhổ sào. Người đàn bà đứng trên bờ nói rằng: - Thằng cha đó bộ dữ lắm. Hai người làm lại nó hay không? Thôi để kêu thêm vài người nữa rồi khắc sẽ đi. Người đương gay chèo đó đáp rằng: - Nó giỏi tao cho nó một mác đứt đầu, đặng cho nó giỏi. - Trong nhà có mấy người? - Có một mình nó với con Thu-Vân. - Có nhà nào ở gần đó hôn? - Có. Mà hại gì. - Nhà ở chỗ nào đâu? - Ở trong kia, mà phía sông bển. Chỗ cây dừa quằn đó. Hai người đàn ông xô ghe ra rồi chèo đi vô phía trong ngọn. Người đàn bà xây lưng trở vô chòi. Tuy những lời nói của bọn nây nói với nhau không được rõ cho lắm, nhưng mà chúng nó bàn soạn đi lại chỗ cây dừa quằn, đặng làm dữ với một người ở chỗ đó với con Thu-Vân, chớ không có người nào khác trong nhà; bởi vậy Thể-Phụng nghe rồi trong lòng phát nghi, sợ e bọn nầy toan mưu làm hại ông già với nàng mỹ-nữ mình đương chủ ý đó. Chàng ngồi im-lìm coi chừng người đàn bà đã vô chòi rồi, chàng mới đứng dây bươn-bả đi về nhà. Chàng xuống chiếc xuồng chàng hay mượn mà đi chơi đó, rồi bơi riết theo chiếc ghe lườn hồi nãy, tay thì bơi, mà trí thì suy nghĩ, không biết nàng mỹ-nữ mình gặp hôm nọ có phải tên là Thu-Vân hay không. Chàng bơi dọc theo mé, dường như có ý đi lén không muốn cho ai thấy. Khi gần tới cây dừa quằn, chàng ngơi dầm rồi chong mắt mà dòm. Chàng thấy quả có chiếc ghe lườn đậu tại đó. Chàng tính rình coi cho biết bọn đi chiếc ghe lườn muốn làm sự gì, chàng lén ghé xuồng vô một cái ụ đàng xa, rồi nhảy lên bờ, tay cầm cây dầm, sẻ lén đi qua nhà ông già thấy hôm nọ. Chàng vừa đi tới thì nghe có tiếng người đứng ngoài đường kêu cửa. Chàng mới núp ngoài hàng rào rình nghe coi động tịnh thế nào. Chàng dòm xuống mé rạch thì thấy chiếc ghe lườn đậu đó không có ai ở dưới ghe. Chàng vạch rào ngó vô sân thì thấy dạng có hai người đương đứng đó. Trong nhà đốt đèn rồi ông già mở cửa bước ra hỏi rằng: - Ai đó? Làm giống gì mà kêu cửa chừng nầy? Hai người ở ngoài xốc-xốc đi vô, người đi trước đáp rằng: - Tôi mà. Tôi ghé thăm con Thu-Vân. Thể-Phụng ngó thấy hai người lấn ông già mà vô nhà; ông già đứng giữa cửa, muốn cản mà cản không kịp, nên ông cũng xây lưng mà bước vô nhà. Thể-Phụng muốn thấy cho rõ bọn ây toan làm việc gì, nên chàng quên sự nguy-hiểm, tay cầm cây dầm, chạy a vô sân rồi đứng nép tại đầu xông bên tả mà rình. May nhờ tấm vách xông dừng không kín, nên chàng đứng ngoài mà ngó thấy trong nhà rõ ràng. Chàng thấy hai đứa mới vào nhà đó mặt mày hung ác, mà chàng coi kỹ lại thì đứa lớn râu rìa, mặt thỏn, chừng một tháng nay nó vô ra trong dinh quan Bố-Chánh hai ba lần, lại lần nào nó vô nó còn nói chuyện xầm-xì với quan lớn, mà hễ nó đi rồi thì coi bộ quan lớn không được vui. Ông già nheo mắt nhìn hai người lạ ấy rồi hỏi rằng: - Hai chú ở đâu lại? Ðến nhà tôi có việc gì? Người râu rìa mặt thỏn đáp rằng: - Ông quên tôi hay sao? Tôi là cha nuôi của con Thu-Vân đây. - Ờ, ợ! Té ra chú là Ðỗ-Cẩm há? - Phải. Tôi là Ðỗ-Cẩm. Vương-thể-Phụng đứng ngoài nghe người ấy xưng tên là Ðỗ-Cẩm, chàng sực nhớ lời của cha trối rằng người ấy là ân-nhơn của cha, hễ gặp thì phải lo đền ơn đáp nghĩa thế cho cha, bởi vậy chàng ngơ-ngẩn trong lòng, không biết liệu lẽ nào. Người nầy thiệt là Ðỗ-Cẩm. Còn ông già chủ nhà đây cũng thiệt quả là Lê-văn-Ðó. Trong 10 năm nay hai người nầy đi đâu, làm việc gì, mà ngày nay sao lại gặp nhau? Số là năm Canh-Tỵ (1840 - nhằm Minh-Mạng nhị thập nhứt niên) Lê-văn-Ðó đi với ông sáu Thới lên Vũng-Gù chuộc con Thu-Vân rồi, ông mới tìm kiếm chỗ nương náu, trước được an ổn tấm thân đặng lo nuôi dưỡng Thu-Vân cho tới khôn lớn, sau nữa có người hay chữ dạy con Thu-Vân học, đặng cho nó biết lễ nghi, thông kinh sử, theo như lời ông đã hứa với nàng Ánh-Nguyệt năm xưa. Ông lên vàm Kỳ-Hôn, tìm đến chùa Bình-An-Tự, ông vào bạch dối với ông Hòa-Thượng rằng Thu-Vân là con nhà giàu sang, rủi cha mẹ khuất sớm, nên không ai bảo bọc. Ông là tôi tớ trong nhà, khi cha của Thu-Vân gần chết, không biết ai mà gởi gấm con, nên giao nó cho ông và cậy ông nuôi dưỡng dùm. Phận ông dốt nát, liệu thế không kham, nên ông vào chùa xin ở đặng cậy đạo chúng dạy dùm con Thu-Vân học. Ông lại lấy ra 200 nén bạc với cái bình và bộ chén mà gởi cho ông Hòa-Thượng nói dối rằng tài vật ấy là của cha mẹ Thu-Vân để lại nên ông xin gởi, chừng nào Thu-Vân khôn lớn rồi ông sẽ lấy lại mà giao cho nó. Ông Hòa-Thương tin lời, nên thâu tài vật mà cất dùm, và cho Lê-văn-Ðó, sáu Thới với Thu-Vân ở trong chùa. Lê-văn-Ðó với ông sáu Thới bèn thí phát ở làm công quả cho Phật. Mỗi ngày hai người lo làm vườn, gánh nước, giã gạo, quét chùa. Con Thu-Vân tuy còn nhỏ, mà mặt mày coi sáng láng, ăn nói có khuôn phép, bởi vậy trong chùa từ Hòa-Thượng cho tới đạo chúng ai thấy nó cũng đều thương. Trong chùa có một ông Giáo-thọ khi trước học giỏi, mà không có mạng, đi thi rớt hoài, nên giận mới đi tu. Hòa-Thượng cắt ông hễ có rảnh thì phải dạy con Thu-Vân học. Thu-Vân nhờ vậy nên mới có thầy giỏi mà học sử kinh. Ðến năm Ất-Tỵ (1845) ông sáu Thới già quá, nên đau sơ-sài có mấy bữa mà ông tỵ trần. Lê-văn-Ðó lấy làm thương tiếc, mà rồi ông lại sợ, vì ông cũng già rồi nếu ông chết như ông sáu Thới nữa, thì con Thu-Vân còn ai mà nương dựa. Qua năm Canh-tuất (1850 nhằm Tự-Ðức tam niên) Thu-Vân được 20 tuổi học đã giỏi mà cũng đủ trí khôn. Bữa nọ Lê-văn-Ðó nghe tin Từ-hải-Yến ngồi Bố-Chánh tại Ðịnh-Tường, ông mới tính đem Thu-Vân lên đó mà ở, đặng lo mưu tính kế làm cho cha con nhìn nhau, trước là Hải-Yến khỏi trái luân thường, sau nữa ông hoàn toàn phận sự. Tuy ông sáu Thới đã có thuật rõ sự Hải-Yến bạc bẽo mẹ con Ánh-Nguyệt cho ông nghe rồi, song ông không muốn tỏ việc ấy lại cho Thu-Vân nghe làm chi. Ông tính thầm trong trí rồi ông bàn với Hòa-Thượng mà xin dắt Thu-Vân đi. Hòa-Thượng thấy Thu-Vân đã khôn lớn rồi, ông không nỡ cầm ở trong chùa nữa, nên ông cho đi, và ông đem 200 nén bạc với bình chén gởi hồi trước mà giao lại cho Lê-văn-Ðó. Lê-văn-Ðó dắt Thu-Vân lên Ðịnh-Tường, xưng tên mình là sáu Thới, mua một cái nhà lá nhỏ dựa mé rạch Vĩnh-Tường mà ở có ý chờ dịp sẽ cho Thu-Vân giáp mặt cha. Ông ở đó chưa được mấy ngày thì kế Thể-Phụng gặp Thu-Vân ngồi câu cá. Còn Ðỗ-Cẩm từ ngày nó cho Lê-văn-Ðó chuộc con Thu-Vân rồi thì vợ chồng nó tiếc hoài, chẳng phải chúng nó thương nhớ chi mà tiếc, chúng nó tiếc là tiếc không đòi tiền nhiều hơn nữa. Nén bạc cho chuộc con Thu-Vân ăn không bao lâu thì đã tiêu hết, rồi nghèo cũng trở lại nghèo như cũ mà tánh gian ác cũng chưa chịu bỏ tánh xưa. Vợ chồng Ðỗ-Cẩm bán nhà cửa rồi đi qua xứ khác làm ăn. Chúng nó đi đến đâu cũng nghèo hoài, đến năm Canh-Tuất lần tới Ðịnh-Tường, nghe Từ-hải-Yến ngồi Bố-Chánh tại đó, Ðỗ-Cẩm mới lần mò vào dinh mà kể công khó ngày xưa, đặng xin tiền xin bạc. Hải-Yến thấy mặt Ðỗ-Cẩm thì không vui, nhưng vì năm xưa quan lớn đã có làm một việc không tốt, mà việc ấy Ðỗ-Cẩm rõ hết, bởi vậy quan lớn không muốn lậu việc ấy ra nên quan lớn phải ép lòng mà nhìn Ðỗ-Cẩm và mỗi lần đến thăm quan lớn cho một quan tiền, cũng như may phứt cái miệng Ðỗ-Cẩm cho yên. Vợ chồng Ðỗ-Cẩm không hiểu tình ý của Hải-Yến, tưởng Hải-Yến thương mình nên cho tiền, mới kiếm một cái chòi rách dựa mé rạch Vĩnh-Tường mà ở, cố ý trông nhờ quan Bố-Chánh nuôi cho mãn đời. Một bữa nọ, Ðỗ-Cẩm đi chơi, ngó thấy Lê-văn-Ðó đứng trước nhà với con Thu-Vân. Tuy Lê-văn-Ðó đã già, và tuy Thu-Vân đã lớn rồi, nhưng mà Ðỗ-Cẩm thấy gương mặt thì nhớ liền, Nó về thuật chuyện ấy lại cho vợ nghe. Vợ chồng mới bàn tính với nhau, phải lập thế bắt con Thu-Vân lại rồi đem nó vào dinh Bố-Chánh, như Hải-Yến nhìn con thì cho chuộc, còn như Hải-Yến không chịu nhìn thì hăm dọa, làm như vậy mới có bạc nhiều. Vợ chồng tính hết sức mà không biết làm sao bắt con Thu-Vân lại được, cùng thế rồi mới toan dụng võ nên cậy thằng Hanh, là đứa côn đồ, ở gần đó, hiệp sức đến nhà Lê-văn-Ðó làm dữ mà bắt Thu-Vân. Ðỗ-Cẩm tưởng thi kế lúc nửa đêm không ai hay, chẳng dè Vương-thể-Phụng tình cờ nghe được, rồi đi theo coi cho rõ hành tàng của kẻ toan làm quấy. Tuy Thể-Phụng là con nhà nho văn, thuở nay chẳng hề tập võ nghệ, nhưng mà chàng thấy bọn bất lương toan làm hại cái nhà chàng đương lập thế cầu thân, thì chàng không kể sức yếu thế cô, quyết phò khổn cứu nguy mà làm nghĩa. Chàng cầm cây dầm đứng ngoài vách hầm hầm đợi hễ bọn ấy làm việc chi không phải, thì chàng nhảy vào mà tiếp cứu. Thình-lình chàng nghe một đứa xưng là Ðỗ-Cẩm thì chàng biến sắc, đứng ngơ-ngẩn, không biết liệu lẽ nào. Nếu làm hại Ðỗ-Cẩm thì trái với lời trối của cha. Nếu lầm lì bỏ đi về, thì chẳng những là mình giúp kẻ bất lương làm việc quấy mà có lẽ mình còn mang cái tội thấy người ngay bị hại mà mình không cứu, nhứt là người ngay ấy là người trong thân của nàng mỹ-nữ mình đương trộm nhớ thầm yêu... Chàng đương bưng-khuâng bỗng nghe ông già Lê-văn-Ðó hỏi rằng: - Chú đến nhà tôi làm chi? - Ðến thăm con Thu-Vân. - Chú muốn đến thăm, sao không đến lúc ban ngày, đợi nửa đêm rồi mới đến? - Ối! Ðến chừng nào lại không được. Con Thu-Vân nó ngủ đâu? Ông kêu nó dậy đặng tôi coi năm nay nó bao lớn. - Nó ngủ, kêu nó làm chi. Chú thương yêu gì nó mà thăm! - Ủa! Lão già nầy nói kỳ dữ hôn kìa! Ta nuôi nó mấy năm sao lại không thương? - Chú đừng có nói nhiều chuyện. Chú mà thương yêu ai? Chú thương đồng tiền chớ. May tôi đem nó đi, chớ phải tôi để nó ở với chú ít ngày nữa chắc nó chết. - Sao mà chết? - Chú hành hà đày đoạ thân nó quá chớ sao. - Hứ! Khéo nói! Tôi hỏi thiệt ông vậy chớ bây giờ ông không chịu cho tôi thăm con tôi hay sao nè? - Không. Tôi không muốn cho chú thăm đó. - Sao vậy? - Thăm làm gì? Ðỗ-Cẩm giận đỏ mặt, day lại ngó thằng Hanh, thấy nó đứng dựa cây cột chong mắt lườm-lườm, dường như chờ Ðỗ-Cẩm làm dữ đặng nó có ra tay. Lê-văn-Ðó thấy bộ tịch hai người như vậy thì ông nghi chúng nó muốn hành hung, song ông đứng nghiêm-chỉnh tỉnh táo như thường, sắc mặt coi chẳng có vẻ lo sợ chi hết. Ðỗ-Cẩm vuốt râu rồi ngó ngay ông mà nói lớn rằng: - Tôi nói cho ông biết, hồi trước ông làm ngang ông bắt con nhỏ tôi. Tôi chạy theo tôi đòi, ông chở đi tuốt, ông không chịu trả. Mấy năm nay tôi tìm ông hết sức không gặp. Bây giờ tôi gặp ông đây, vậy ông phải trả con nhỏ tôi lại cho tôi, nếu ông không trả ông coi tôi. - Tôi làm sao mà nói tôi làm ngang. Tôi chuộc nó một nén bạc, chú lấy bạc chú ăn, chớ phải tôi bắt không hay sao. - Mà bây giờ tôi không chịu, tôi bắt nó lại, ông phải trả nó cho tôi. - Trả sao được! Chú có phải là cha mẹ, hay là chú bác gì nó hay sao mà chú đòi. - Vậy chớ ông lại bà con gì với nó hay sao mà ông được bắt nó. - Tôi không bà con với nó mà tôi được nuôi nó, bởi vì mẹ nó giao nó cho tôi nuôi. - Ông nói láo. Tôi có đi tìm đến Cần-Ðước mà hỏi thăm, thì họ nói Ánh-Nguyệt chết đã lâu rồi. Sao ông dám đến ông gạt tôi mà bắt con nhỏ? Nếu ông chịu giao con nhỏ lại cho tôi thì êm, chớ nếu ông cưỡng lý, tôi thưa với quan Bố ngài đóng gông ông đa, tôi thân với quan Bố lắm, nói cho ông biết. - Chú thân với ai thì mặc chú, chú kiện đến đâu thì chú kiện. Chú tưởng đâu chú hăm dọa như vậy rồi tôi sợ chú hay sao? - Thằng cha già nầy nói hơi cứng dữ chớ! Thiệt không chịu giao con nhỏ hay sao? - Không. Giao sao được. - Thằng cha già nầy tới số rồi! Lê-văn-Ðó nghe hăm nữa, thì chúm-chím cười, song mắt ông ngó Ðỗ-Cẩm trân-trân, dường như ông thách Ðỗ-Cẩm muốn làm việc chi thì làm thử cho ông coi. Ðỗ-Cẩm thấy cử chỉ ông già như vậy càng thêm giận, nên vói tay sau lưng rút ra một cái mác, rồi chờn vờn nhảy tới mà chém Lê-văn-Ðó. Chẳng dè ông già tuổi đã cao, mà mắt còn lanh, sức còn mạnh, ông thấy Ðỗ-Cẩm đưa cái mác lên mà chém ông, thì ông tràn qua một bên, rồi một tay ông chụp cái mác, một tay ông bóp họng Ðỗ-Cẩm, hai người lây-quây vật với nhau. Ðỗ-Cẩm bị bóp họng thở è-è, song ráng kêu: - Hanh, tiếp tao. Tên Hanh rút cái búa trong lưng ra rồi a vô muốn búa Lê-văn-Ðó. Ông già thiệt là lẹ, ông thấy tên Hạnh vô tiếp, ông vụt Ðỗ-Cẩm xây tròn, hễ tên Hạnh đứng phía nào, ông cứ day lưng Ðỗ-Cẩm qua phía đó hoài, bởi vậy Hạnh vá búa mà chém không được. Thu-Vân nãy giờ đứng núp trong buồng mà nghe hai người cãi lộn, chừng nàng nghe lụi-hụi mới ló đầu ra mà dòm. Nàng thấy Ðó với Cẩm đương vật nhau, mà Hanh lại vô tiếp thì nàng kinh khủng nên la bài-hãi rằng: - Bớ người ta, họ giết ông tôi đây nè, bớ người ta! Thể-Phụng đứng ngoài rình nghe cãi lộn, lại vạch lá mà dòm. Chừng chàng thấy Ðỗ-Cẩm rút mác ra, toan làm dữ, thì chàng chạy vô, sở tâm chàng tính can hai đàng, chớ không tính đánh đập kẻ hung ác. Chàng vừa bước vô tới cửa, bỗng nghe tiếng Thu-Vân cầu cứu, lại thấy tên Hanh hăm-hở toan búa Lê-văn-Ðó thì cái tánh khẳng khái binh hiền lương ghét hung bạo của chàng nó phát lên, chàng không còn nhớ sự gì khác hơn là trừ hai thằng côn đồ đương toan giết một người ngay, bởi vậy hai tay chàng nắm cây dầm mà bủa ngang qua cần cổ tên Hạnh một cái bốp, nó ngã nằm dài dưới đất, cái búa lăn ra xa lắc. Thể-Phụng đập luôn trên cánh tay mặt của Ðỗ-Cẩm một cây nữa. Ðỗ-Cẩm gần gãy cánh tay, nên buông cái mác cho Lê-văn-Ðó. Lê-văn-Ðó lấy được cái mác rồi, mà ông không thừa dịp ấy mà chém Ðỗ-Cẩm lại, ông chỉ nắm cổ mà xô nó ra một cái mạnh quá, làm cho Ðỗ-Cẩm té ngửa đập đầu vô cửa lá chầm nghe một cái ầm. Thể-Phụng một tay cầm cây dầm, một tay chống nạnh đứng ngó hai thằng bất lương ấy lườm-lườm. Còn Thu-Vân với Lê-văn-Ðó không biết Thể-Phụng là ai, ở đâu mà vào cứu mình mau lẹ như vậy, nên chăm chỉ nhìn chàng, quên coi chừng Ðỗ-Cẩm với tên Hạnh. Ðỗ-Cẩm liệu thế không xong, nên bị xô té rồi thì lồm-cồm ngồi dậy và bò ra sân mà chạy. Tên Hanh ôm cần cổ và cóm róm bước ra cửa rồi cũng chạy theo Ðỗ-Cẩm. Thể-Phụng, Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đứng coi bọn Ðỗ-Cẩm đi, không ai tính bắt buộc chi hết, vì mỗi người đều có một ý riêng . Thể-Phụng vì chữ hiếu nên phải làm lơ; Lê-văn-Ðó thì vì sợ lậu việc của mình, nên không gây tụng, còn Thu-Vân thì sợ Ðỗ-Cẩm bắt mình lại, nên không dám hở môi. oOo Bọn Ðỗ-Cẩm đi rồi, Thể-Phụng day lại thấy bàn tay trái của Lê-văn-Ðó máu chảy ròng ròng. Chàng tưởng ông bị Ðỗ-Cẩm chém trúng, nên lật đật nắm tay ông dắt lại gần đèn mà coi. Lê-văn-Ðó nói rằng: - Chút đỉnh, không hại gì. Tôi dành cái mắc với nó nên đứt tay, chớ không phải nó chém trúng tôi đâu. Thể-Phụng coi kỹ thì thiệt quả trong lòng bàn tay ông đứt một đường dài, tuy máu ra nhiều, song dấu đứt không sâu. Chàng bèn hối nàng Thu-Vân lấy ruột trái cau tươi mà nhai dập-dập đặng cho chàng đấp trên dấu đứt mà cầm máu. Nàng nhai cau rồi đưa cho chàng. Chàng lại xin một miếng giẻ, rồi đặt cau vô mà nịt tay ông lại. Thể-Phụng được gần Thu-Vân mới thấy rõ dung mạo của nàng -- nước da trắng đỏ, mái tóc đen thui, cặp chơn mày nhỏ rức mà cong vòng, cặp con mắt hữu tình mà sáng rỡ. Răng trắng nõn lại thêm lại thêm môi son che đậy, má miếng bầu lại có lúng hai đồng tiền. Gương mặt đã hữu duyên mà bàn tay lại dịu nhiễu; tướng đi đã yểu điệu, mà tiếng nói lại trong ngần. Thiệt là sắc nước hương trời, thấy xa phải động tình, thấy gần phải mê mẩn. Thể-Phụng nịt tay cho Lê-văn-Ðó mà trong lòng ngẩn-ngơ ngơ-ngẩn quên hết thế sự, cứ tưởng nợ duyên. Lê-văn-Ðó để cho chàng làm xong rồi ông mới nói rằng: - Thiệt tôi mang ơn cậu nhiều quá. Nếu không có cậu cứu tôi, chắc là tôi mang hại. Thể-Phụng lại ván mà ngồi, mắt thì liếc ngó Thu-Vân, song miệng thì đáp với Lê-văn-Ðó rằng: - Ông thiệt là giỏi. Tôi khen ông lắm. Ông đã già cả, mà sức lực còn mạnh quá. Chúng nó tới hai đứa, lại cầm mác cầm búa, ông có một mình, lại tay không, mà chúng nó không làm nổi. Giỏi thiệt chớ. - Bây giờ tôi đã yếu hơn hồi trai nhiều. Hồi nãy tôi lầy-quầy với thằng Ðỗ-Cẩm có một chút mà tôi đã mệt đuối. Phải mà cậu tiếp cứu trễ một chút, tôi sợ thằng kia nó chém tôi được. Thiệt tôi mang ơn cậu quá. Thưa cậu, không biết cậu là ai, vốn người ở đâu, tên họ là chi, xin cho tôi biết. - Tôi họ Vương tên Thể-Phụng, tôi gốc ở phủ Tân-An, cha mẹ khuất sớm, tôi đi du học mấy tháng nay, tôi làm đề lại tại dinh quan Bố mà chờ đến năm Tý đặng đi thi. - Bây giờ nhà cậu ở đâu? - Tôi ở phía ngoài kia mà ở mé sông bển. Lê-văn-Ðó ngồi lặng thinh, mà coi sắc mặt ông thì biết ông đương suy nghĩ. Thu-Vân ngồi trên cái chõng phía bên kia, lại ngồi nhằm cái bóng cây cột, nàng bèn cất tiếng hỏi Thể-Phụng rằng: - Thưa cậu, hồi nãy có lẽ cậu đứng đâu ngoài sân hay sao, mà tôi vừa la lên thì cậu chạy vô liền? Nàng hỏi thiệt tình, mà vì Thể-Phụng có ý riêng nên chàng hổ thẹn. Chàng bợ-ngợ nên nói ú-ớ rằng: - Tôi đứng ngoài. Tôi đi chơi ... Tôi nghe .... - Thiệt hồi nãy tôi thấy thằng cha kia rút cái búa ra, chờn vờn muốn phụ mà chém ông tôi, thì tôi hết hồn hết vía. Tôi la bài-hãi, tôi sợ chúng nó giết ông tôi, tôi la dứt tiếng, thì cậu nhảy vô đánh thằng kia một cây té nhào văng cái búa, tôi mừng quá. Nếu không có cậu cứu, thì chúng giết ông tôi rồi chắc là chúng bắt tôi. Cậu đi chơi mà cậu làm được một cái ơn lớn quá. - Không phải tôi đi chơi mà gặp. Tôi hay chúng nó bàn soạn đi làm hại người ta. Tuy là tôi không rõ chúng nó muốn đến nhà nào, song tôi cũng nom theo mà coi. Chẳng dè tôi thấy chúng nó vô đây. Tôi mới lần vô theo vồng đứng tại đầu xông đây mà rình, chừng tôi thấy chúng nó làm dữ tôi mới nhảy vô chớ. - May quá! - May thiệt. Thể-Phụng nói "may thiệt" mà chàng lại ngó Thu-Vân mà cười. Nàng cũng chúm-chím cười. Chàng day qua hỏi Lê-văn-Ðó rằng: - Thưa ông, không biết cô đây là con hay là cháu của ông vậy? - Cháu. - Hồi nãy tôi đứng ngoài hè, tôi nghe thằng Ðỗ-Cẩm có cãi lẽ với ông, nó có bà con chi với cô đây hay không? - Không. - Sao hồi nãy nó xưng nó là cha nuôi? - Số là vầy, để tôi nói cho cậu nghe. Hồi con nầy được tám chín tuổi, mẹ nó mướn vợ chồng thằng Ðỗ-Cẩm nuôi. Mẹ nó đi xa rồi mắc đau ốm lòng dòng về rước nó không được. Chừng mẹ nó chết, mẹ nó mới cậy tôi rước mà nuôi dùm. Tôi đến rước thì thấy vợ chồng Ðỗ-Cẩm nó hành hạ cái thân con nhỏ hết sức, cơm bữa đói bữa no, áo quần lang-thang lưới-thưới, ngủ thì ngủ chuồng heo chuồng vịt, mà nó còn đánh đập chưởi bới tối ngày. Tôi xin rước con nhỏ nó đòi tiền nuôi tới một tháng một quan lại còn đòi tiền áo tiền quần, tiền thầy tiền thuốc. Tôi phải trả cho nó tới một nén bạc, nó mới chịu cho tôi rước. Vợ chồng thằng đó thiệt là đồ ác nghiệt. Vậy mà hồi nãy nó còn hăm nó đi cáo tôi. Nó nói nó thân với quan Bố lắm, để nó làm cho tôi bị đóng gông. Cậu liệu thử coi nó có thế làm hại tôi được hôn cậu? - Tôi thấy nó lối một tháng nay nó vô ra trong dinh quan Bố thường. Chắc là nó quen với quan Bố. Tuy vậy mà ông đừng sợ. Ðể sáng mai tôi tỏ trước việc nầy cho quan Bố hay. Có tôi đây, nó không làm gì mà hại đến ông được đâu. Thu-Vân nghe Thể-Phụng nói như vậy thì nàng bước lại rưng rưng nước mắt và nói rằng : - - - Xin cậu thương dùm thân của ông cháu tôi. Cậu làm phước bảo bọc dùm, ơn của cậu dầu ngàn năm ông cháu tôi cũng còn ghi tạc. Thể-Phụng nghe tiếng dịu dàng thì chàng mê-mẩn, mà nghe hơi bi thảm thì chàng động lòng, bởi vậy chàng ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi nàng rắng : - Nếu vậy thì cô không có bà con với Ðỗ-Cẩm? - Thưa, không. - Mà cô cũng không có bà con với ông đây? - Thưa ... Thưa, có chớ. - Bà con làm sao? - Thưa, má tôi hồi trước kêu ông tôi đây bằng chú. - Nếu vậy thì cô sợ việc gì? - Thưa cậu, Ðỗ-Cẩm đã hung dữ, mà lại quỷ-quyệt lắm. Tôi sợ nó thân thích với quan, nó òn-ĩ, quan nghe nó, rồi dạy tôi phải bỏ ông tôi đây mà đi theo nó. Tôi nói thiệt, nếu quan dạy như vậy thì chắc tôi tự vận tôi chết, chớ tôi không đành bỏ ông tôi. - Xin cô đừng có buồn. Ðể sáng mai tôi tỏ trước việc nầy cho quan Bố hay. - Xin cậu làm phước dùm. - Ðược. Không sao đâu. Ðể tôi tỏ với quan Bố rồi chiều mai tôi qua tôi nói lại cho ông với cô hay. - Cậu có lòng chiếu cố, thiệt ơn ấy đáng ngàn vàng. - Có chi đâu mà gọi rằng ơn. - Cậu đã cứu ông cháu tôi khỏi chết, bây giờ cậu còn lo bảo bọc bữa, dường ấy là ơn sau nghĩa nặng, chớ còn đợi sao nữa. - Cô nói nghĩa thì tôi chịu, chớ đừng có nói ơn. Chàng trả lời như vậy mà lại liếc nàng và chúm-chím cười. Nàng hội ý nên cúi mặt thối lui, không cãi nữa. Trống đồn đã trở canh năm. Thể-Phụng bèn từ Lê-văn-Ðó với Thu-Vân mà về. Lê-văn-Ðó đưa chàng ra tới cái ụ, chỗ buộc chiếc xuồng hồi nãy. Lúc chàng xô xuồng ra mà đi ông còn dặn vói rằng: - Xin cậu tỏ dùm với quan Bố, rồi làm ơn cho tôi hay. Thể-Phụng đáp rằng: - Chiều mai tôi qua. Ông vô nghỉ đi. Thể-Phụng bơi xuồng về ngang cái chòi của Ðỗ-Cẩm thì thấy chiếc ghe lườn không có dưới bến, mà trên chòi cũng vắng teo. Sáng bữa sau chàng vô dinh mà làm việc. May gặp bữa quan Bố vui, chàng bèn đem chuyện Ðỗ-Cẩm hành hung hồi hôm mà thuật lại cho quan Bố nghe. Nhơn dịp ấy chàng lại tỏ cho quan Bố hay trước rằng Ðỗ-Cẩm sẽ vào cửa công cáo gian người ta, nên chàng xin quan Bố chớ tin lời của kẻ quấy. Quan Bố nghe rõ rồi ngài cười và nói rằng: - Ta biết vợ chồng thằng đó lắm. Chúng nó gian trá quỷ-quyệt không ai bì kịp. Hồi ta lên Gia-Ðịnh mà thi ta có ở đậu nhà nó mấy tháng. Nó thừa sự quen biết ấy nên bây giờ đến đây làm bộ chết đói mà xin tiền hoài. Ta không nỡ đuổi nó, mà nếu nó làm quấy thì ta phải làm hại nó. Mi coi chừng hễ nó có làm bậy việc gì nữa, thì phải bẩm cho ta hay. Thể-Phụng vì chí tình mà cáo Ðỗ-Cẩm; chàng nghe quan Bố nói như vậy thì chàng mừng. Nhưng mà về đến nhà chàng nhớ Ðỗ-Cẩm là ân-nhơn của cha chàng, chàng gặp người chàng đã không trả ơn, mà còn lại lo ngăn trở đường đi của người nữa, thế thì chàng bất hiếu với cha biết chừng nào. Ban đầu chàng tự trách chàng làm trai mà chàng trọng tình hơn là hiếu, bởi vậy chàng buồn bực vô cùng. Mà rồi chàng nghĩ lại tuy Ðỗ-Cẩm là ân-nhơn của cha, tuy cha có di ngôn hễ ngày sau gặp Ðỗ-Cẩm thì phải trả ơn thế cho cha, song nay mình gặp Ðỗ-Cẩm đương làm việc hung ác, có lý nào mình phải vì ơn riêng ấy mà giúp cho nó làm quấy cho được. Cha mình là người nghĩa sĩ chơn chánh, ví dầu đích thân cha mình gặp Ðỗ-Cẩm làm quấy thì cũng không nỡ giúp cho nó, huống chi là mình. Ðến hồi hôm mình thả cho nó đi, không nỡ bắt nó, ấy là trả ơn cho nó rồi. Bây giờ mình cản không muốn để cho nó làm quấy nữa, ấy là mình trả ơn thêm cho nó, chớ phải mình hại nó hay sao mà sợ trái ý cha. Thể-Phụng suy xét cùng lý rồi chàng mới hết buồn. Tuy vậy mà trong lòng chàng vẫn còn ái ngại. Chàng bèn tính để chàng nói trước cho Ðỗ-Cẩm biết đặng đừng có làm quấy nữa, chớ nếu để nó làm quấy, quan Bố hại nó, mình chẳng khỏi ăn-năn. Ðến chiều, ăn cơm rồi, Thể-Phụng mượn xuồng đi qua nhà Lê-văn-Ðó. Chàng muốn gặp mặt Thu-Vân cho mau, nên bơi riết. Nhưng mà khi đi ngang chòi Ðỗ-Cẩm chàng nhớ việc của chàng, nên ghé lại đặng phân trần phải quấy cho Ðỗ-Cẩm nghe. Chàng bước vô chòi thì thấy Ðỗ-Cẩm đương nằm trên cái chõng, người vợ là Thị-Phi thì đương lăng-xăng trong bếp lo nấu cơm. Ðỗ-Cẩm thấy Thể-Phụng thì lồm côm ngồi dậy, tay trái đỡ cánh tay mặt, còn mắt thì ngó Thể-Phụng trân-trân. Thể-Phụng cười và hỏi rằng: - Tay chú còn đau hay sao? - Ðau. - Chú biết tôi hôn? - Không. - Mới hồi hôm đây, mà chú quên mau quá. Ðỗ-Cẩm lỏ mắt ngó Thể-Phụng mà lại có sắc sợ. Thể-Phụng bước lại cầm cánh tay mặt của anh ta và vạch áo ra mà coi thì thấy có một lằn bầm đen và sưng vù. Chàng mới nói rằng: - Vì tôi thương chú lắm, nên hồi hôm tôi không nỡ đập chết chú, mà tôi cũng không nỡ bắt chú mà nạp cho quan. Tôi nói cho chú biết, tôi đây là đề lại trong dinh quan Bố. Nhà chú đến làm dữ hôm qua đó là nhà bà con của tôi. Tôi đã có thưa với quan bố rồi. Quan bố dạy tôi, hễ nghe chú làm quấy, bất luận là làm việc gì, thì phải bắt chú nạp cho quan Bố làm án chú. Ngài không thương gì chú đâu, chú đừng lấp-lửng mà mang khổ. Tôi thương, nên làm phước nói dùm cho chú hiểu. Chú hãy lo làm ăn, đừng có tính việc bậy bạ, nhứt là đừng có động đến cái nhà hồi hôm đó nữa. Ðỗ-Cẩm sợ, nên biến sắc. Thị-Phi cũng chưng-hửng, nên đứng ngó Thể-Phụng trân-trân. Thể-Phụng nói rồi quày quả xuống xuồng bơi mà đi, nghĩ thầm rằng mình làm như vậy thì hiếu tình trọn vẹn cả hai, bởi vì mình cản không để cho ân nhân của cha mình làm việc quấy, mà bị quan bố hại, mà lại mình còn bảo bọc ông cháu Thu-Vân khỏi ai làm hại nữa. Xuồng còn ở xa, mà chàng đã thấy dạng Thu-Vân đứng dựa gốc cây dừa quằn mà trông. Chàng khoan-khoái trong lòng, nên chàng bươn-bả bơi riết. Xuồng vừa ghé vô bến, thì Thu-Vân chào chàng và nói rằng: - Cậu qua thiệt tôi mừng quá. Từ hồi nửa chiều cho tới bây giờ ông tôi trông cậu lắm, nên cứ biểu tôi coi chừng cậu hoài. Thu-Vân nói mừng mà mặt nàng có sắc lo chớ không có sắc vui. Thể-Phụng muốn giải liền cái lòng lo của nàng, nên chàng còn đứng dưới xuồng mà chàng và cười và nói rằng: - Việc tôi hứa với ông hồi hôm đó, tôi đã làm xong rồi hết. Nếu Ðỗ-Cẩm vào dinh quan Bố mà kiện cáo vụ của cô thì quan Bố sẽ làm tội nó liền. Xin cô an tâm, đừng có lo nữa. Thu-Vân nghe mấy lời thì trong lòng hớn-hở ngoài mặt tươi chong, nàng ngó Thể-Phụng mà cười và đáp rằng: - Cậu có lòng tốt lo bảo hộ cho ông tôi với tôi như vầy, thiệt là ơn cậu trọng quá, tôi biết làm sao mà đền đáp cho được. - Cô nói ơn mà làm chi! Tôi muốn làm nghĩa với ... với ông, nên tôi phải lo chớ. Miễn là cô được vui vẻ luôn luôn, tôi đến thăm chơi cô không ngăn cấm, ấy là cô trả ơn cho tôi rồi. - Cậu đã cứu ông tôi khỏi bị người ta giết, rồi cậu lại còn lo bảo bọc ông tôi với tôi nữa, tất nhiên cậu là ân-nhơn của nhà tôi, dầu cậu không muốn đến nhà, tôi cũng phải mời thỉnh, huống chi là cậu sẵn lòng đến chơi mà tôi dám ngăn cấm. - Cô nói như vậy thì tôi đến hoài; không biết chừng bữa nào tôi thưa với ông rồi tôi ở luôn bên nầy. Thể-Phụng nói câu sau nầy, mà và nói và cười ngất. Thu-Vân hiểu ý chàng, nên nàng cũng cười, song nàng mắc cở nên nàng cúi mặt, không nói nữa. Chàng buột chiếc xuồng rồi, nàng bèn đứng tránh một bên cho chàng bước lên bờ. Nàng liền mời chàng vô nhà, chàng đi trước, nàng theo sau, tuy không nói chuyện nữa, song coi mặt hai người đều có sắc vui-vẻ. Lê-văn-Ðó đương nằm trên cái chõng ở phía trước, bàn tay trái còn nịt giẻ. Ông thấy Thể-Phụng bước vô ông lồm-cồm ngồi dậy mà chào. Chàng đi thẳng lại mở giẻ mà coi bàn tay của ông, thì thấy máu đã khô, mà chung quanh cái vít cũng không sưng. Chàng bèn hỏi ông rằng: - Ngày nay tay ông có nhức hôn? - Không. - Nếu vậy thì chắc trong ít bữa đây sẽ lành. Ông cứ nằm nghỉ, đừng làm việc chi động tới tay đó. Thu-Vân bước lại nói với Lê-văn-Ðó rằng: - Ông nè, cậu mới nói việc của mình cậu đã lo giùm xong rồi hết. Vậy xin ông đừng có buồn. Lê-văn-Ðó nghe mấy lời thì sắc mừng lộ ra ngoài mặt. Ông ngó sững Thể-Phụng, tuy ông không nói tiếng chi hết, song chàng thấy rõ ông cảm tình và hiểu ý ông muốn hỏi coi chàng lo cách nào. Thể-Phụng mới ngồi ghé nơi đầu ván, rồi thuật rõ các việc chàng đã lo tính trong ngày nay lại cho ông nghe. Chàng nói rằng hồi sớm mơi chàng có bẩm cho quan Bố hay sự Ðỗ-Cẩm hành hung toan giết người mà đoạt gái tốt, may có chàng đi chơi gặp, nên nó làm việc quấy không được. Chàng nhơn dịp ấy lại có bẩm luôn với quan Bố sự nó hăm dọa để vào đơn mà kiện đặng bắt con cháu của người. Quan Bố hăm hễ nó làm việc chi quấy thì ngài sẽ hại nó liền. Ngài lại dặn chàng phải coi chừng nó. Khi chàng đi qua đây thì chàng đã có ghé nhà mà nói cho nó biết trước đặng nó bỏ thói bất lương; chàng có dặn nó đừng động đến nhà ông nữa, nếu nó còn rụt rịt thì chàng sẽ xin với quan Bố bắt nó mà hạ ngục liền. Thể-Phụng ngồi nói mà Thu-Vân đứng ngó chàng không nháy mắt. Chàng thuật hết chuyện rồi chàng lại nói rằng: - Quan Bố có nói hồi nhỏ ngài lên Gia-Ðịnh mà thi, ngài có ở đậu nhà Ðỗ-Cẩm nên ngài biết vợ chồng nó là quân ngang ngược xảo quyệt lắm. Vì có ơn trước nên bây giờ nó đến xin tiền hoài; tuy ngài không nỡ đuổi nó, song ngài cũng không yêu gì nó đâu. Lê-văn-Ðó gật đầu và chúm-chím cười. Thu-Vân lại đứng gần ông và nói rằng: - Vậy thì mình có lo gì nữa, phải hôn ông? Thiệt là nhờ cậu quá! Lê-văn-Ðó mới nói với Thể-Phụng rằng: - Tôi mang ơn cậu rất nặng, để rồi tôi sẽ tính mà đền ơn cho cậu. Thuở nay cậu không quen biết tôi, mà cậu không sợ hiểm nguy, cậu liều mình mà cứu tôi khỏi chết, rồi cậu còn lo lắng làm cho ông cháu tôi ở ăn yên ổn nữa, cái ơn ấy không lẽ tôi dám làm lơ. Tôi phải lo đền đáp cho xứng. Thể-Phụng cười và hỏi rằng: - Ông tính đền ơn cách nào? Ông dùng vật chi mà đền ơn, đâu ông nói cho tôi nghe thử coi? - Tuy tôi nghèo, song tôi phải ráng mà kiếm năm ba nén bạc mà đền ơn cho cậu mới vừa. - Ông tưởng đâu tôi vì muốn cho ông đền ơn năm ba nén, nên hồi hôm tôi cứu ông, rồi ngày nay tôi lo dùm việc của ông đó há? Nếu ông tưởng như vậy thì tội nghiệp cho tôi lắm. Tôi tuy nhỏ tuổi và làm đề-lại thôi, song tôi làm việc ấy chỉ là vì nhơn nghĩa chớ không phải vì bạc tiền đâu. Nếu ông muốn để cho tôi tới lui mà chơi, thì xin ông đừng có nói việc đền ơn nữa, chớ ông cứ nói hoài, thì thiệt tôi không dám tới. - Cậu làm ơn cho tôi, thì tôi phải lo trả ơn, chớ cậu biểu tôi đừng nói tới ơn nghĩa, thì tôi chịu sao đặng. - Tôi không muốn cho ông nói tới sự đó. Lê-văn-Ðó muốn mở miệng mà cãi thì Thu-Vân lại can rằng: - Cậu dạy như vậy, thì ông cứ nghe lời. Ông cãi lẽ với cậu làm chi cho cậu phiền. Lê-văn-Ðó nín khe. Thể-Phụng bước ra ngoài cửa đứng ngó xuống rạch. Mặt trời đã lặn rồi lại thêm chuyển mưa nên mây giăng đen kịt. Chàng đứng dựa cửa mà suy nghĩ, trong bụng bồi-hồi, dường như chàng mới làm một việc chi quấy đó vậy. Thu-Vân thấy trời đã tối, nên nàng lo thổi lửa đốt đèn, rồi nàng lấy chiếu mà trải lên ván. Lê-văn-Ðó mời Thể-Phụng vô nằm nói chuyện chơi. Trời mưa tới ào ào, cách chẳng bao lâu nước trên mái nhà đổ xuống nghe rôn rổn. Thể-Phụng trở vô nói rằng: - Trời mưa lớn quá, làm sao mà về cho đặng. Lê-văn-Ðó đáp rằng: - Mời cậu nằm trên ván đó mà nghỉ. Cậu ở nói chuyện chơi, để hết mưa rồi sẽ về. Thể-Phụng lại ván giữa mà nằm, Lê-văn-Ðó nằm trên cái chõng. Thu-Vân sợ gió tạt tắt đèn, nên đi sập cửa, rồi trở vô ngồi trên chõng, phía dưới chơn của Lê-văn-Ðó. Vả Lê-văn-Ðó là người ít hay nói chuyện, nên ông nằm mà nghe trời mưa, chớ không nói chi hết, chừng nào Thể-Phụng có hỏi thì ông mới trả lời, mà nhiều khi ông lại để cho Thu-Vân trả lời thế. Thể-Phụng muốn biết căn-nguyên của ông với của Thu-Vân coi người ở xứ nào, thuở nay làm nghề gì, ngặt vì chàng ái ngại nên không dám mở miệng. Cách một hồi lâu, Lê-văn-Ðó lại hỏi chàng vậy chớ cha mẹ ở đâu, năm nay chàng được bao nhiêu tuổi, đã có vợ con hay chưa. Thể-Phụng uất về việc nhà, bấy nay không gặp người tri kỷ mà tỏ bày, đặng cho thỏa bớt nỗi phiền muộn của mình. Hôm nay chàng đương bưng-khuâng vì ái tình, chàng đương tư-tưởng về duyên nợ, đã vậy mà người yêu lại ngồi trước mặt đó nữa. Thình-lình ông hỏi tới gia đạo của chàng, ông làm cho chàng cảm xúc không thể dằn lòng được, bởi vậy chàng mới ngồi dậy rồi thủng thẳng kể hết các việc của chàng cho ông với Thu-Vân nghe. Chàng kể việc cha mẹ sanh thành, kể khúc ông ngoại nuôi dưỡng, kể công mười năm đèn sách, kể nỗi cha vì thương con mà phải đoạn tình cốt nhục, kể nỗi ông vì thương cháu phân rẽ cha con, kể luôn tới việc thương cha mà phải nghịch với ông, chàng kể hết, chàng dấu có một đều là dấu lời trối của cha về ơn của Ðỗ-Cẩm. Thể-Phụng thuật việc nhà mà bộ chàng buồn thảm lắm. Thu-Vân ngồi lặng thinh mà nghe, nàng nghe tới lúc thảm khổ về nỗi cha với ông ngoại thì nàng lại day mặt vô vách rồi lén lấy vạt áo mà lau nước mắt. Lê-văn-Ðó biết rõ căn cội của chàng thì ông càng thêm kính mến. Ông nhơn dịp ấy ông thuật việc của ông và Thu-Vân cho chàng biết, song ông không thuật việc thiệt, ông đặt nguyên một truyện mà nói rằng ông từ nhỏ chí lớn không có vợ con. Mẹ của Thu-Vân là cháu của ông, vì chồng khuất sớm muốn rảnh chơn mà đi mua bán, bèn mướn vợ chồng Ðỗ-Cẩm nuôi con dùm. Khi mẹ của Thu-Vân gần chết, nàng có cậy ông bảo bọc dùm, bởi vậy ông mới chuộc Thu-Vân rồi vào chùa Bình-An-Tự mà ở trọn 10 năm cho Thu-Vân học. Năm nay Thu-Vân lớn rồi không lẽ để nàng ở trong chùa nữa được nên ông mới ra mua nhà ở đây, tính làm ruộng mà nuôi nàng. Thể-Phụng nghe như vậy thì tưởng thiệt như vậy. Chàng nghe nói Thu-Vân có học ở trong chùa 10 năm, chàng bèn rút một hai câu sách mà hỏi thử nàng, hỏi câu nào nàng cắt nghĩa thông câu nấy, chàng lấy làm khen ngợi vô cùng không dè nàng có sắc lại thêm có tài, rõ ràng bức gấm thêu hoa, tưởng trong đời người người nhi nữ như vậy không phải là dễ kiếm. Ðến gần nửa đêm trời tạnh mưa, trăng ló mọc, Thể-Phụng từ giả mà về. Chàng biết được căn nguyên, chàng thấy rõ diện mạo, chàng thử được tài học, chàng dòm được tánh tình của Thu-Vân rồi thì chàng càng thêm say đắm, càng thêm ước mơ. Chàng nhứt định sẽ cậy mai-nhơn nói với Lê-văn-Ðó đặng chàng cưới Thu-Vân; mà rồi chàng suy nghĩ lại chàng đã làm ơn cho ông, ông với Thu-Vân có lòng muốn trả ơn cho chàng, nếu chàng đem chuyện hôn nhơn ra mà nói, thi chi cho khỏi nàng nghi cho chàng làm ơn ấy là vì tư ý chớ không là vì háo nghĩa, mà hễ nàng nghi như vậy thì té ra chàng là đứa tiểu nhơn. Thể-Phụng tính tới bàn lui, không biết liệu lẽ nào, mở miệng thì hổ ngươi, lặng thinh thì xót dạ, vắng mặt thì thương nhớ, giáp mặt thì ngậm-ngùi. Chàng buồn bực không qua thăm ông cháu Thu-Vân nữa, mà cũng vì không đi thăm, mỗi đêm chàng cứ nằm dàu-dàu mà tư tưởng hoài, học không được mà ngủ cũng không được, bởi vậy trong vài ngày thì chàng nhuốm bịnh. Còn-Thu-Vân từ khi Thể-Phụng cứu ông nàng, thì nàng đã đem lòng ái kỉnh rồi. Ðến chừng nàng thấy chàng hết lòng lo bảo bọc cho nàng thì nàng càng thêm quyến luyến. Mà lòng ái kỉnh quyến luyến ấy, là vì ơn mà thôi, chớ không phải vì ý nào khác. Chừng nàng nghe Thể-Phụng thuật hết việc nhà, nàng mới biết rõ chàng là một bực chơn chánh quân tử, lúc chàng ngồi nói chuyện thì nàng cảm xúc, khi chàng ra về rồi thì nàng động tình. Mấy bữa sau, hễ chiều ăn cơm rồi, thì nàng ra ngồi dựa mé sông, miệng thì nói ngồi chơi, mà ý thì thiệt ngồi trông Thể-Phụng. Nàng chờ cho đến tối, không thấy chàng qua, nàng đứng dậy thở dài rồi thủng-thẳng đi vô nhà nằm dàu-dàu. Tuy Lê-văn-Ðó không nói ra, song ông thấy cử chỉ của nàng như vậy, thì ông đã hiểu ý của nàng rồi. Ông nghĩ ông dắt Thu-Vân đến ở đây, là có ý muốn làm cho nàng hiệp với cha, chớ không làm cho nàng kiếm chồng. Nhưng mà sự cha con hiệp nhau không phải là sự dễ, ngày trước Hải-Yến mới thi đậu mà đã không chịu nhìn vợ, ngày nay đã làm quan lớn rồi há anh ta chịu nhìn con hay sao. Tình cờ mà gặp Thể-Phụng đây cũng là một may mắn lắm. Thể-Phụng có tài học hay, có tánh hiếu nghĩa, có khiếu quân tử, có lòng thảo thân. Nếu nhơn dịp nầy mà gả Thu-Vân cho chàng, thì chẳng những là mình đền ơn đáp nghĩa cho chàng được mà thôi, mà con Thu-Vân có lẽ cũng được chỗ xứng đáng mà nương nhờ về sau nữa. Ông nghĩ như vậy nên ông tính đợi Thể-Phụng có qua chơi nữa thì ông sẽ bày việc hôn nhơn ra mà nói với chàng. Ông trông luôn cho đến gần 10 bữa mà cũng không thấy Thể-Phụng. Còn ở trong nhà thì Thu-Vân lửng-đửng lờ đờ, biếng nói bặt cười, ăn không ngon, nằm không ngủ. Một bữa Lê-văn-Ðó thấy Thu-Vân ngồi buồn xo, ông mới hỏi rằng: - Cháu suy nghĩ việc gì mà coi bộ cháu buồn dữ vậy? Thu-Vân ngồi lặng thinh một hồi lâu rồi mới đáp rằng: - Cháu không hiểu tại làm sao mà cậu Thể-Phụng phiền ông cháu mình nên cậu không thèm tới nhà mình nữa. Lê-văn-Ðó cười và nói rằng: - Có việc gì đâu mà cậu phiền. Bữa nay tay ông đã hết đau rồi. Ðể chiều ông qua nhà cậu mà thăm coi. - Ông biết nhà cậu hôn? - Hôm trước cậu có chỉ chừng. Cậu nói cậu ở đậu nhà bà hai Tiền. Ông qua đó ông hỏi thăm thì ra mối, chớ có khó gì. - Ðược a. Ông qua thăm, rồi mời cậu qua chơi. Mình mang ơn cậu nhiều, không nên để cậu phiền. Trời mới xế bóng mà Thu-Vân đã lo nấu cơm dọn cho ông ăn. Ông hiểu ý nàng muốn cho ông đi sớm, bởi vậy ăn cơm rồi thi ông liền đi lại đàng xóm mượn xuồng và mượn một đứa nhỏ bơi đưa ông đi. Lê-văn-Ðó hỏi thăm nhà bà hai Tiền mà vô. Ông vừa bước tới cửa thì thấy Thể-Phụng đương nằm trên bộ ván gát tay qua trán mà day mặt vô vách. Ông đánh tiếng, chàng giựt mình day lại thấy ông, chàng lật đật ngồi dậy mời ông vô nhà. Chàng hỏi ông vậy chớ tay đã lành hay chưa. Ông cười và nói rằng: - Tay tôi cũng gần lành rồi. Hổm nay tôi với cháu tôi trông hoài mà không thấy cậu qua chơi. Tôi không biết cậu có việc chi, nên tôi qua thăm coi rồi mời cậu qua nhà chơi. - Hổm nay tôi muốn qua bển lắm, ngặt vì tôi bịnh, nên đi không tiện. - Bịnh sao đó? - Bịnh ... chút đỉnh. Nhức đầu nóng lạnh vậy mà. - Bất nhơn dữ hôn! Tôi có hay đâu. Hổm nay cậu không qua, con cháu tôi nó sợ cậu phiền, nên nó buồn quá. Vậy xin mời cậu qua chơi một lát, đặng cho nó vui, kẻo nó sợ cậu giận hoài. - Tôi có phiền giận việc chi đâu. Thôi ông về trước rồi một lát nữa tôi qua. - Ừ, để tôi về trước tôi nói cho nó hay, kẻo nó trông. Lê-văn-Ðó về tới nhà thì thấy nhà cửa từ trong ra ngoài Thu-Vân đã quét tước sạch bót. Ông nói một lát Thể-Phụng sẽ qua sau. Nàng nghe mấy lời thì sắc mừng lộ ra mặt, lật-đật dọn vật nầy, dẹp đồ nọ, làm coi lít-xít lăng-xăng. Tuy nàng ở trong nhà, song một lát nàng lại gần cửa rồi liếc mắt dòm ngoài rạch một cái, có ý coi chừng Thể-Phụng qua hay chưa. Mặt trời gần lặn Thể-Phụng qua mới tới. Hôm trước chàng với nàng chưa quen cho lắm, mà gặp mặt nhau thì hớn-hở chuyện vãn vui cười. Bữa nay quen biết nhau nhiều, mà chàng với nàng thấy mặt nhau lại có sắc e lệ, không nói chuyện lăng-xăng như hôm nọ nữa. Lê-văn-Ðó mời Thể-Phụng ngồi, nói chuyện lôi thôi với chàng một lát rồi ông biểu Thu-Vân đi nhúm lửa nấu nước lá cho ông uống chơi. Thu-Vân đi xuống dưới bếp rồi, ông mới ngồi xích lại một bên Thể-Phụng mà nói nhỏ-nhỏ rằng: - Tôi nuôi con Thu-Vân thuở nay tôi thương nó lung lắm. Chẳng dấu cậu làm chi, bấy lâu nay tôi không gả nó lấy chồng, tôi muốn để nó ở với tôi hoài đặng ông cháu hủ-hỉ với nhau. Bây giờ tôi nghĩ lại tôi đã già yếu rồi không biết chết bữa nào, nếu tôi thương nó mà không chịu gả nó lấy chồng, thoảng như tôi chết thình-lình rồi nó biết ai mà nương nhờ. Từ hôm tôi biết cậu đến nay thì tôi mến tánh tình, tôi khen tài đức của cậu lắm. Cậu thiệt là bực chơn chánh quân tử, nếu mà con Thu-Vân có chồng như cậu thì cái ngày tôi nhắm mắt tôi vui lòng không biết chừng nào. Tuy con Thu-Vân là đứa hèn hạ quê mùa, song tôi chắc nó cũng đủ tư cách mà nưng khăn sửa trắp cho cậu. Vậy xin cậu làm ơn thì làm cho trót, cậu để tôi gả nó cho cậu, trước là nó đền ơn cậu cứu tôi hôm nọ, sau nữa chừng tôi nhắm mắt nó có chỗ mà cậy nhờ. Thể-Phụng nghe ông nói mấy lời thì mừng quýnh nên nghẹn-ngào không biết sao mà trả lời. Chàng ngó vô cửa buồng thấy dạng Thu-Vân vởn vơ trong đó, chàng lại bối rối hơn nữa. Chàng ngồi ngẩn ngơ một hồi rồi mới đáp rằng: - Thưa ông, phận tôi là bần-sĩ, ông thương nên ông tính như vậy, thì tôi mừng lắm, có lẽ nào tôi dám phụ rãy tình ông. Nhưng mà tôi còn ngại một đều là không biết cô Thu-Vân có khứng kết tóc trăm năm với tôi hôn? - Sao lại không khứng, cậu đừng ngại sự ấy. - Nếu được như vậy thì tôi xin vưng. - Tuy vậy mà tôi còn tỏ với cậu một chuyện nầy nữa, theo như lời cậu nói hôm nọ thì bà con bây giờ cậu còn có một ông ngoại với một bà dì. Tôi muốn sao cậu về thưa cho ông ngoại với dì hay rồi sẽ cưới. - Ông ngoại tôi giận tôi nên đã đuổi tôi rồi, bây giờ tôi về sao được. - Phận làm cháu chẳng nên oán giận ông bà. Giận thì làm lung một lát rồi thôi, chớ tay cắt tay sao đành. Tôi khuyên cậu hãy về thưa cho ông ngoại hay trước đặng cho tròn lễ nghĩa. Nếu ông ngoại hay bà dì qua đứng chủ hôn mà cưới thì càng tốt lắm. Thể-Phụng chau mày ngồi suy nghĩ một hồi rồi nói rằng: - Ông nói vậy thì hay vậy, để vài bữa tôi tính rồi tôi thưa cho ông hay. Chàng về nhà nằm suy đi xét lại, thì lời buộc của ông Lê-văn-Ðó không phải là buộc quấy, người ta muốn cho mình thảo thuận với ông bà, chớ có phải người ta buộc mình phải ngổ nghịch hay sao mà mình trách người ta. Khi mình giáp mặt với cha mình thì cha mình cũng khuyên mình đừng có phiền ông ngoại. Tại mình nóng giận mình chống cự, nên ông cháu mới phân rẽ nhau mấy năm nay. Ðã biết ngày trước ông khắc bạc với cha mình lắm, làm cho cha mình khổ não trọn đời, đến chừng nhắm mắt không thấy mặt con được. Mà phận mình là con cháu, hai vai gánh nặng, nếu mình thương cha rồi trở oán ông thì mình chẳng khỏi có lỗi với ông. Vậy thôi mình cũng nên thừa dịp nầy về thăm ông và tỏ việc hôn nhơn luôn thể. Thể-Phụng quyết định rồi chàng mới xin phép quan Bố nghỉ một tháng đặng về quê thăm ông ngoại. Chàng được phép rồi, lật-đật qua nhà Lê-văn-Ðó mà cho ông hay. Sáng bữa sau chàng mướn ghe đi về Vũng-Gù.

Chú thích :

[1] Nghiêng ra, xoè ra xa [2] Quay qua một vòng để xiết chặt Ngọn Cỏ Gió Đùa

Chương 20

Quyển thứ VI - Ân tình vẹn vẻ

Ðỗ-Cẩm toan giết Lê-văn-Ðó mà bắt Thu-Vân lại, chẳng dè bị Thể-Phụng ngăn trở. Anh ta ra vô trong dinh quan Bố mấy lần, có gặp mặt Thể-Phụng, bởi vậy anh ta vừa thấy Thể-Phụng thì kinh tâm, mà còn bị đánh một cây gần gãy cánh tay nữa, nên phải rút mà chạy cho khỏi nạn. Anh ta trở về chòi thuật việc ấy lại cho vợ nghe. Thị-Phi nghiền-ngẫm mắng chồng tưng bừng, nói rằng dầu có Thể-Phụng tiếp cứu đi nữa, thì bất dĩ có 2 người, mình cũng 2 người, mà mình cầm mác cầm búa, cớ gì mà chạy. Ðỗ-Cẩm lắc đầu nói rằng: - Ðờn bà giỏi tài đánh phách hoài! Thằng đó ở đâu không biết, thình-lình nó nhảy vô đả thằng Hanh một cây té nhào dậy không nổi rồi nó đả tao một cây nữa gần gãy tay, tao buông cái mác cho thằng cha già đó rồi, còn giống gì nữa mà cự. Ðã vậy mà tao biết mặt nó ở trong dinh, nếu tao không chạy, nó bắt tao rồi làm sao? Thị-Phi nguýt một cái rồi đi ngủ, không thèm coi chồng bị đánh nặng nhẹ thế nào. Ðỗ-Cẩm bắt Thu-Vân không được thì giận mà sợ Thể-Phụng cáo báo nên cũng lo. Chiều bữa sau thấy Thể-Phụng tới nhà thì anh ta hết hồn, tưởng quan sai đến bắt. Chẳng dè Thể-Phụng hăm he rồi bỏ ra đi, anh ta tuy bớt lo, song còn giận lão già nuôi Thu-Vân đó lắm. Cách ít ngày cánh tay hết đau. Thị-Phi mới xúi chồng vào dinh cáo với quan Bố đặng bắt Thu-Vân lại. Ðỗ-Cẩm bị Thể-Phụng hăm thì sợ, nên dụ dự không dám đi. Thị-Phi biểu hoài không được thì giận, nên bữa nọ chị ta đánh liều đi nhầu, tính vô dinh cáo gian mà đòi Thu-Vân lại, ví như quan Bố không cho thì sẽ nói thiệt cho quan Bố biết Thu-Vân là con, rồi kể ơn mà xin tiền. Bữa Thị-Phi vô dinh thì Thể-Phụng đã đi Vũng-Gù rồi. Chị ta đứng ngoài cửa chờ đến xế quan Bố mới ra khách. Chị ta cúi đầu bước vô lạy quan Bố 3 lạy. Quan Bố trợn mắt hỏi rằng: - Mi hầu việc chi? - Bẩm quan lớn tôi là vợ Ðỗ-Cẩm. - Té ra mi là vợ Ðỗ-Cẩm há! Ta thấy vợ chồng mi nghèo nàn ta thương nên ta có cho tiền hoài, sao chồng mi không lo làm ăn, lại tụ đảng đi đánh cướp con cháu người ta. Ta nói cho vợ chồng mi biết, nếu vợ chồng mi còn làm việc chi quấy mà ta hay đặng thì ta bắt mà đày đa, đừng có lấp lửng. - Bẩm quan lớn, chồng tôi có cướp con cháu của ai đau. Số là tôi có nuôi một đứa cháu gái. Cách mười năm trước có một thằng cha ở đâu không biết, nó đến bắt trộm cháu tôi. Mấy năm nay vợ chồng tôi tìm kiếm khắp xứ bây giờ mới gặp nó đây. Chồng tôi đòi cháu tôi lại, nó đã không chịu trả mà còn đánh chồng tôi nữa. - Thôi, dẹp mi đi. Vợ chồng mi là quân ngang ngược, mi tưởng ta không biết hay sao, nên kiếm lời mà dối ta. Mi về lo làm ăn, nếu vợ chồng mi rụt-rịt thì ta bỏ tù rụt xương, nói cho mà biết. Ði về đi cho mau. - Bẩm quan lớn ... - Thôi đừng có thưa bẩm gì nữa hết! Thị-Phi bị nộ nạt thì sợ, nên lật đật lùi ra ngoài. Chị ta đứng nép bên cửa mà suy nghĩ một hồi rồi rón rén bước vô lạy quan Bố nữa. Quan Bố nạt rằng: - Sao chưa chịu về, còn vô chi nữa đó? - Bẩm quan lớn, xin quan lớn làm phước cho phép tôi tỏ một lời. - Mi còn muốn bẩm việc gì ? - Bẩm quan lớn, việc tôi bẩm đây có ích cho quan lớn lắm, song việc ấy là việc kín nên tôi bẩm cho quan lớn nghe mà thôi, chớ tôi không muốn có người khác nghe. Hải-Yến nghe nói như vậy thì chau mày, ngồi suy nghĩ một hồi, rồi dạy lính hầu đi hết vô phía trong. Thi-Phi ngồi dưới đất lặng thinh, chưa chịu bẩm. Quan Bố hỏi rằng: - Mi muốn bẩm việc gì? Sao chưa bẩm đi? - Bẩm quan lớn, năm trước quan lớn thi đậu rồi về thăm nhà, quan lớn bỏ con Ánh-Nguyệt ở lại, nó đã có chửa ... - Ta không muốn mi nhắc việc xưa. Ta không biết Ánh-Nguyệt nào hết. - Bẩm quan lớn, sau nó đẻ được một đứa con gái đặt tên là Thu-Vân ... - Trối kệ nó chớ! Mi bẩm với ta làm chi? - Bẩm quan lớn, con Thu-Vân nó giống quan lớn lắm ... - Ế. Ðừng có đặt điều, nó giống ai thì mặc nó. - Bẩm quan lớn, tôi thấy vậy nên tôi bẩm cho quan lớn hay. - Hay làm chi? - Bẩm quan lớn, hay đặng như quan lớn có thương thì đem về mà nuôi. - Ta có ba bốn đứa con còn nuôi con nuôi mà làm gì? - Bẩm quan lớn .... - Nín, ta nói cho mi biết. Nếu từ nay về sau mà mi còn bày chuyện nói bậy như vậy nữa thì ta bỏ tù liền. Vợ chồng mi là quân khốn nạn, hay bày điều đặt chuyện lắm. Ta kỳ cho vợ chồng mi nội trong 3 bữa phải đi cho khỏi tỉnh nầy. Nếu quá 3 bữa mà ta còn thấy ở đây nữa thì ta bắt ta đày đa, nói cho mà biết. - Bẩm quan lớn, tội nghiệp vợ chồng tôi lắm! - Tội nghiệp gì? - Bẩm quan lớn, dầu vợ chồng tôi khờ dại, song hồi trước cũng có làm ơn cho quan lớn ở đậu và quan lớn muốn sự khó hết sức, mà vợ chồng tôi cũng phải làm cho vừa lòng quan lớn. - Chà! Bây giờ mi kể ơn đa há! Thiệt vợ chồng mi có làm ơn cho ta, mà chúng bây gần lột da ta, chớ phải tử-tế gì hay sao mà bây giờ kể ơn. Quan Bố nói tới đo rồi đứng dậy đi mở tủ lấy ra 2 nén bạc mà để trên bàn. Thị-Phi liếc thấy trong bụng mừng thầm. Quan Bố ngồi lại rồi hỏi rằng: - Hồi nãy mi nói con nhỏ tên gì? - Bẩm quan lớn, tên nó là Thu-Vân, đặt tên cũng tốt quá chớ. - Bây giờ nó ở đâu? Ở với ai? - Bẩm quan lớn nó ở với thằng cha già bắt trộm nó. Thằng cha già tôi bẩm với quan lớn hồi nãy đó. - Thằng cha già đó có bà co gì với nó hay không? - Bẩm, không biết. Chắc là không có bà con gì đâu. Xin quan lớn làm phước dạy nó giao con nhỏ lại cho tôi. Như quan lớn muốn nuôi thì nuôi, bằng không thì để cho vợ chồng tôi nuôi cũng được. - Ðể ta nuôi. Ta hỏi thằng cha đó tên gì? Nó ở đâu? - Bẩm quan lớn, nhà nó ở trong rạch Vĩnh-Tường, mé bên kia, trước nhà có một cây dừa quằn. Trong xóm đó họ kêu tên nó là sáu Thới. - Ta nói cho mi biết. Vợ chồng mi là quân ăn cướp. Chúng bây muốn đoạt con cháu người ta, đoạt không được rồi tới đây muốn cậy thế của ta mà húng hiếp người ta nữa. Ta nghĩ hồi trước bây có ơn cho ta ở đậu mấy tháng, nên ta không nỡ hại bây. Vậy ta cho mi hai nén bạc đây, mi đem về đưa cho Ðỗ-Cẩm rồi vợ chồng phải dắt nhau đi xứ khác mà làm ăn. Nếu quá kỳ 3 bữa mà vợ chồng mi còn ở trong tỉnh ta nữa, thì ta làm án đày vợ chồng mi chung thân. Ðây nè, lấy bạc mà đi liền đi cho mau. Thị-Phi đứng dậy vói lấy hai nén bạc rồi xá quan Bố mà ra. Quan Bố kêu một tên lính mà dặn rằng: - Mi phải đi theo con mẹ đó mà coi nhà nó ở đâu, rồi mi coi chừng nếu trong ba ngày mà vợ chồng nó còn ở đó, không chịu bỏ nhà mà đi thì mi bắt đóng gông hết vợ chồng nó mà bỏ vô ngục cho ta. Tên lính đi rồi, quan Bố nằm ngay trên ván, gát tay qua trán, cặp mắt lim dim, không biết ngài muốn ngủ, hay là ngài tính việc gì. Vợ Ðỗ-Cẩm đến quan mà bàn luận việc Thu-Vân như vậy, song ông Lê-văn-Ðó không hay chi hết, ông tưởng Thể-Phụng đã lo lắng xong rồi. Sáng bữa sau, ông với Thu-Vân ăn cơm vừa rồi, thì có một tên lính đến nhà hỏi rằng: - Phải nhà nầy là nhà của sáu Thới hôn? - Phải. Cậu hỏi chi vậy cậu? - Phải sáu Thới là ông hôn? - Phải. - Quan lớn sai tôi đòi ông với cô gái nào tên là Thu-Vân đó đến hầu quan lớn lập tức. - Thưa cậu, không biết qua lớn nào đòi? - Quan Bố. Sửa soạn đặng có đi cho mau. Lê-văn-Ðó nghe nói quan Bố đòi thì chưng-hửng, ông nghĩ Ðỗ-Cẩm nhơn dịp Thể-Phụng đi rồi nó đến cáo mình nên quan Bố mới đòi mình đây. Ông hối Thu-Vân thay áo đổi quần đặng có đi cho kịp kỳ. Thu-Vân không biết việc lành dữ thế nào, nên trong lòng hồi-hộp, đi dọc đường cứ than rằng: - Rủi cậu Thể-Phụng đi khỏi, không biết quan đòi mà có hại gì hôn? Lê-văn-Ðó thấy nàng sợ ông mới nói rằng: - Cháu đừng có lo. Chắc là Ðỗ-Cẩm nó cáo ông đây, chớ không phải việc chi khác. Ông cũng trông giáp mặt với quan Bố đặng ông bẩm hết cho quan Bố nghe. Mình là người ngay, có tội tình gì mà sợ? Ông cháu đi gần tới dinh quan Bố, xảy gặp một người cao lớn, râu đen, mắt lộ, đứng ngó mình trân-trân. Ông vừa ngó thoáng qua thì biết người ấy là Phạm-Kỳ, ngày trước làm xuất đội đồn Cần-Ðước, hiệp với Hải-Yến mà bắt ông một cách rất thảm thiết. Ông sợ người ấy biết ông, nên ông day mặt chỗ khác, làm lơ mà đi. Tới dinh rồi, Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đứng xớ rớ ngoài sân, Thu-Vân thì mặt mày tái xanh, còn Lê-văn-Ðó thì bộ tịch hầm-hừ lắm. Tên lính vô bẩm với quan Bố một chút rồi mới kêu biểu vào. Ông cháu bước vào lạy quan Bố 2 lạy rồi khoanh tay đứng ngay trước mặt ngài, ông thì nhướng mắt ngó ngay, cháu lại sợ nên cúi mặt. Quan Bố chăm chỉ ngó Thu-Vân rồi ngài chau mày xụ mặt, bộ sắc không vui. Ngài ngó một hồi lâu rồi ngài hỏi Lê-văn-Ðó rằng: - Thằng cha già nầy tên gì? - Bẩm quan lớn, tên sáu Thới. - Gốc ở đâu? - Ở Cần-Ðước. Ngài nghe nói hai tiếng "Cần-Ðước" thì ngài xụ mặt gãi đầu rồi mới hỏi nữa rằng: - Mi bà con làm sao với con nhỏ nầy? - Tôi là chú của con Ánh-Nguyệt. - Con nhỏ nầy tên gì? - Từ-thu-Vân. - Con nhà nghèo mà đặt tên tốt dữ hôn! - Bẩm quan lớn, tuy nó nghèo mà mẹ nó hồi trước học giỏi; cha nó học cũng giỏi, thi đậu làm quan lớn, nên phải đặt tên nó như vậy, chớ đặt lôi-thôi sao được. - Thằng cha già nầy lão khẩu dữ bây! Ta biếu lính nó vả rớt răng; ta hỏi đâu thì bẩm đó, đừng có nói nhiều chuyện. - Bẩm, quan lớn có hỏi tôi mới dám nói chớ. - Mi nuôi con nhỏ nầy từ hồi nào cho tới bây giờ? - Bẩm quan lớn, hơn 10 năm nay. - Sao mi dám bắt trộm con người ta hử? - Bẩm quan lớn, tôi có bắt trộm con ai đâu! - Ế! Ðừng có lẻo mép. Vợ chồng tên Ðỗ-Cẩm vào đơn mà cáo rằng cách 10 năm trước mi bắt trộm con nhỏ nầy, là con của chúng nó. Mấy năm nay mi trốn mất, bây giờ chúng nó mới gặp được mi đây. Cái tội mi cướp con người ta đã rõ ràng, mi không còn chối gì nữa được. Thu-Vân nghe mấy lời thì kinh hãi, liếc ngó Lê-văn-Ðó mà nước mắt tuôn dầm dề. Lê-văn-Ðó tỉnh táo như thường, không có sắc sợ chút nào. Ông mỉm miệng cười và nói khoan thai rằng: - Bẩm quan lớn, Ðỗ-Cẩm cáo gian. Xin quan lớn cho phép tôi bẩm rõ mọi việc cho quan lớn nghe. Con nhỏ nầy là con của Ánh-Nguyệt là cháu tôi. Hồi trước Ánh-Nguyệt lên Gia-Ðịnh đụng [3] một người chồng. Người ấy ăn ở với nó vừa có thai thì người ấy thi đậu rồi về quê quán trên An-Giang. Nó ở lại bơ-vơ, ít ngày đẻ con Thu-Vân nầy. Nó bị giặc Khôi nên xiêu lạc mấy năm, sau đó nó gặp vợ chồng Ðỗ-Cẩm ở Vũng-Gù, nó gởi con nhỏ cho Ðỗ-Cẩm đặng về Cần-Ðước mà thăm tôi. Rủi nó về tới thì kế nó mang bịnh, phải vào dưỡng đường của ông Thiên-Hộ Chánh-Tâm mà ở. Nó biết nó phải chết, nên nó phú thác con Thu-Vân nầy cho tôi, bởi vậy tôi lên Vũng-Gù chuộc con nhỏ hết một nén bạc rồi đem về mà nuôi từ ấy đến nay. Thuở nay Lê-văn-Ðó chẳng hề chịu nói gốc tích của cha mẹ Thu-Vân cho nó nghe; hôm nay đến trước mặt quan ông mới chịu khai, Thu-Vân lấy làm lạ nên đứng lóng tai mà nghe. Quan Bố ngồi chống tay lên trán mà nghe, một lát ngài liếc ngó Thu-Vân một cái chớ ngài không nói chi hết. Lê-văn-Ðó thấy vậy mới nói tiếp rằng: - Chồng của con Ánh-Nguyệt bạc bẽo lắm. Hồi nó tắt hơi có chồng nó đứng một bên đó, mà làm lảng không chịu nhìn nó. Bẩm quan lớn, quan lớn biết chồng nó là ai mà! Quan lớn cũng biết con Thu-Vân đây là con của ai chớ. Quan lớn nhìn mặt nó cho kỹ mà coi nó giống ai đó. Nó có phải là con của Ðỗ-Cẩm đâu. Quan Bố nghe nói tới đó thì ngài trợn con mắt, dựng chơn mày, tay vỗ ghế mà nạt lớn rằng: - Thằng cha già nầy nhiều chuyện thiệt mà! Ta không cần biết nó là con của ai. Ðỗ-Cẩm nhận là con của nó, mà mi thì khai không phải là con của mi, vậy thì ta xử mi phải giao con nhỏ nầy lại cho Ðỗ-Cẩm, mi không được nuôi nữa. Nếu mi bất tuân thì ta bỏ tù. Lê-văn-Ðó nói cứng cỏi rằng: - Bẩm quan lớn, thà là tôi bóp họng con Thu-Vân nó chết trước mặt quan lớn cho quan lớn thấy, rồi quan lớn xử tử tôi đi, chớ biểu tôi giao nó cho vợ chồng Ðỗ-Cẩm, thiệt tôi không thể giao được. Thu-Vân cúi lạy quan Bố và lại và bẩm rằng: - Bẩm quan lớn, hồi con còn nhỏ má con gởi con ở với vợ chồng Ðỗ-Cẩm mấy năm, vợ chồng chú đánh chưởi hành hạ thân con đáo để. Con nhờ ông con đây chuộc con đem về mà nuôi, từ ấy đến nay con mới được no ấm. Xin quan lớn thương dùm thân con, đừng có ép con phải theo Ðỗ-Cẩm nữa. Nếu quan lớn xử như vậy, thì con tự vận mà chết liền bây giờ cho mát tấm thân, chớ con không chịu theo chú Ðỗ-Cẩm nữa đâu. Quan Bố nghe những lời quả quyết của ông cháu Thu-Vân như vậy thì ngài dụ-dự, nên ngồi lặng thinh mà suy nghĩ. Chẳng hiểu ngài tính kế gì, mà ngài trầm ngâm một hồi rồi kêu lính dạy dắt ông cháu Thu-Vân đem giam trong ngục. Lê-văn-Ðó đi theo lính mà cặp mắt ông đỏ au. Vô trong khám rồi ông ngồi khoanh tay chừ bự. Thu-Vân ngồi một bên ông mà khóc. Ông trợn mắt nói rằng: - Khóc giống gì? Ðể coi nó làm sao mà . Thiệt quân đó mặt mày coi giống người mà lòng dạ lại giống thú. Chớ người ta sao lại không biết thương con. Thu-Vân không hiểu ông nói ai, nên ngước mặt ngó ông, nước mắt còn chàm-ngoàm. Nàng hỏi ông rằng: - Hồi nãy ông nói quan Bố biết cha tôi là ai, biết tôi là con của ai, tại sao mà ông nói như vậy? - Quan Bố Từ-hải-Yến đó là cha của con chớ ai. - Úy! Ông nói chuyện gì nghe kỳ dữ vậy? - Thiệt chớ. Nó biết cháu là con của nó lắm, mà nó làm lãng nó không chịu nhìn. Thuở nay ông nghe ông sáu Thới nói chuyện nó bạc bẽo mà ông không tin cho lắm, bữa nay ông mới thấy tường tận. Ngày trước nó gặp vợ nó chết, nó không động lòng chút nào, ngày nay nó gặp mặt con nó, nó lại làm lãng, đồ như vậy trời nào mà cho nó hưởng phú quí lâu dài. - Tại sao mà ông nói quan Bố là cha của cháu, đâu ông nói thiệt cho cháu nghe một chút mà. Thuở nay Thu-Vân thường hỏi thăm gốc tích của cha mẹ nàng hoài. Lê-văn-Ðó nhờ Ánh-Nguyệt nói chút ít, sau nhờ ông sáu Thới thuật rõ thêm, nên ông biết đủ hết, nhưng vì ông trông mong một ngày kia cha con Thu-Vân sum hiệp với nhau, nên ông cứ dấu hoài, ông không chịu nói. Hôm nay ông thấy rõ ràng Hải-Yến là người vô lương-tâm, ông không muốn cho Thu-Vân nhìn người cha như vậy mà làm chi, nên ông nhơn dịp nầy ông mới thuật hết đầu đuôi mọi nỗi cho Thu-Vân hiểu. Ông nói tại sao mà Ánh-Nguyệt lên Gia-Ðịnh, tại sao mà gặp Hải-Yến, tại sao Hải-Yến ăn ở với Ánh-Nguyệt có thai rồi lại bỏ đi, tại sao mà Ánh-Nguyệt gởi Thu-Vân cho Ðỗ-Cẩm, tại sao mà Ánh-Nguyệt mang bịnh đến bỏ mình. Ông lại thuật rõ cái cảnh Ánh-Nguyệt thấy mặt Hải-Yến nàng tức giận nên tắt hơi, mà Hải-Yến làm lơ không thương xót chút nào hết. Thu-Vân nghe rõ đầu đuôi, nàng cảm thương thân mẹ mắc lừa đến nỗi nhuốc nhơ danh tiết, dày-dạn tấm thân, bởi vậy nàng ngồi khóc dầm. Nàng khóc mẹ rồi nàng lại khóc cha. Nàng vùng đứng dậy mà thề rằng: - Tôi thề trên đời tôi không thèm nhìn người vô tình bạc nghĩa ấy là cha tôi. Lời thề đây, tôi xin Trời Phật ghi chép dùm cho tôi. Ðến chiếu lính đem cơm vô khám mà phát cho tội nhơn ăn. Thu-Vân không chịu ăn cơm, mà đêm ấy nàng cũng không ngủ, cứ nằm gát tay qua trán nước mắt chảy dầm dề hoài. Sáng bữa sau, lính mở cửa khám mà kêu sáu Thới với Thu-Vân, biểu đi theo lên hầu quan lớn. Quan Bố vừa thấy Lê-văn-Ðó với Thu-Vân bước vào thì hỏi lớn rằng: - Con nhỏ nầy bữa nay mi chịu theo Ðỗ-Cẩm hay chưa? Nếu mi trái lịnh ta thì ta lên án đày luôn mi với lão già nầy. Thu-Vân bữa nay không còn sợ-sệt như bữa trước nữa, nàng ngó ngay quan Bố mà đáp rằng: - Quan lớn muốn định tội thế nào con cũng vưng hết, duy có theo Ðỗ-Cẩm thì con không vưng. - Mi quyết trái hẳn lịnh của ta há? - Bẩm, con đâu dám. - Lão già kia, ta nói cho mi biết, ta thấy mi già cả nên ta làm phước dung thứ cho mi, ta không buộc mi về tội cướp giựt con cháu người ta. Tuy vậy ta cấm ngặt không cho mi ở trong tỉnh Ðịnh-Tường nầy nữa. Ta kỳ cho mi trong 2 ngày mi phải đi cho khỏi địa phận của ta. Nếu mi còn trì huỡn, ta bắt được thì ta phải đày liền, chớ ta không dung nữa. Ði đi, dắt con nhỏ nầy đi phứt đi cho mau. Lê-văn-Ðó với Thu-Vân lui ra rồi ông cháu dắt nhau về nhà. Tuy hai người đều oán quan Bố nên muốn đi phứt cho rồi, song về đến nhà thu-Vân hỏi ông rằng: - Bây giờ mình đi đâu ông? Mình đi rồi cậu Thể-Phụng qua đây cậu biết mình ở đâu mà kiếm? Lê-văn-Ðó chau mày đáp rằng: - Việc Thể-Phụng để sau rồi sẽ tính, bây giờ mình phải lo tránh miệng cọp trước đã chớ. Thu-Vân suy nghĩ rồi nói rằng: - Vậy thôi thì mình qua Vũng-Gù chẳng là tiện hơn. - Cũng được. Lê-văn-Ðó mướn một chiếc ghe, chở hết tài vật đem xuống ghe, rồi ông cháu bỏ nhà mà đi trong lúc ban đêm, xóm riềng không ai hay hết. oOo Từ ngày ông Ðàm-tự-Chấn giận đuổi Vương-thể-Phụng đi rồi, thì ông thương nhớ nên buồn bực, không đi chơi mà cũng không nói chuyện với ai hết. Ban ngày ông ra sau vườn trồng cây bồi liếp, làm lăng-xăng nên giải khuây được. Thảm thay trong lúc ban đêm, ông nằm tiu-hiu một mình, nghe tiếng gió lao rao, thấy ngọn đèn leo lét, ông động lòng nhớ cháu, nhiều khi ông day mặt vô vách mà khóc thầm. Nếu con gái của ông là nàng Kim-Huê, hay là tôi tớ trong nhà đứa nào làm gan lén đi kiếm Thể-Phụng mà rước về, thì chắc ông mừng, ông không rầy-rà nữa. Ngặt vì ông cấm ngặt trong nhà không cho ai nói tới tên Thể-Phụng, mà bộ ông lại oán hận, đi ra nhăn mặt, đi vào chau mày ai nói tới ông thì ông rầy, bởi vậy ai nấy đều làm lơ, không dám bày biện chi hết. Ngày qua tháng lại thấm thoát, Thể-Phụng ra đi, nhớ thì không bao lâu, mà kể đã được 3 năm rồi. Một bữa nọ, lúc mặt trời mọc được vài sào, ông Ðàm-tự-Chấn đương lui cui chặt mấy tàu chuối gãy sau vườn, thình-lình thằng Son, là đứa ở với ông, nó chạy ra kêu ông bơ-hơ bài hãi mà nói rằng: - Ông ơi, cậu Thể-Phụng về ông à. Ông chưng-hửng day lại, nhíu chơn-mày mà hỏi gạn rằng: - Mầy nói giống gì mà Thể-Phụng? - Thưa, cậu Thể-Phụng về. - Về đâu? - Về đây chớ về đâu. Cậu ở trong nhà, đương nói chuyện với cô hai ở trỏng. Ông Ðàm-tự-Chấn nghe rõ rồi, ông quăng cái mác dựa gốc cau, rồi men-men đi vô nhà, tay thì vuốt râu, miệng thì cười ngỏn-ngoẻn. Thể-Phụng thấy ông bước vô, lật đật đứng dậy chấp tay xá ông. Ông cười và nói rằng: - Tao biết lắm, sớm muộn gì rồi nó cũng về chớ nó đi đâu. Tao nuôi nó nên vai nên vóc, có lẽ nào nó bạc mà đi luôn. Mấy năm nay cháu đi đâu? Thể-Phụng cúi đầu đáp nhỏ nhỏ rằng: - Thưa, cháu du học. Ông lớn tuổi rồi, ông sanh lãng tai, ông nghe không rõ nên hỏi nữa rằng: - Cháu đi đâu? - Thưa, cháu du học, đi xứ nầy qua xứ kia, cháu đi cùng hết. - Hứ hừ! Cháu đi hoang-đàng như vậy cơm gạo ở đâu mà ăn, tiền bạc ở đâu mà làm phí lộ? - Thưa, cháu làm mướn cháu ăn. - Bất nhơn dữ hôn! Ði ra có cực khổ như vậy mới sáng con mắt. Cháu còn nghịch với ông nữa thôi, hử? Ông day lại mà nói với nàng Kim-Huê rằng: - Con mau mau bắt một con vịt làm thịt đặng dọn cơm cho cháu nó ăn. Mấy năm nay nó đi chắc là thèm khát lắm. Con đi nấu cơm riết đi con. Con biểu nó bắt con vịt cà-cuốn đó nghe, bắt làm thịt rồi phân nửa nấu cháo, còn phân nửa con kho mặn mặn đặng ăn cơm. Ðàm-kim-Huê thấy cha vui thì nàng mừng nên lật đật đi lo làm vịt nấu cơm. Ông Ðàm-tự-Chấn ngồi ngó Thể-Phụng và vuốt râu cười hoài, ai thấy bộ ông như vậy cũng biết ông không còn giận Thể-Phụng nữa. Thể-Phụng hiểu ý ông, nên chàng cũng mừng. Chàng đi lần lại chỗ giường thờ mẹ mà thăm. Ông ngó theo và nói rằng: - Cháu đi mấy năm nay, mà trong phòng của cháu đồ đạc ông còn để nguyên, cháu vô đó mà coi. Thể-Phụng thấy chỗ thờ mẹ thì chàng đã cảm xúc rồi, mà chừng chàng bước vô phòng của chàng ngày trước, chàng thấy chỗ chàng dọn mà thờ cha bây giờ trống rỗng, chàng nhớ chuyện ông rầy-rà đá đạp, thì chàng buồn tủi, nên chàng ứa nước mắt. Chàng đi cùng trong nhà rồi chàng đi dạo ngoài vườn, đi tới đâu cũng thấy vật xưa cảnh cũ rước chào, ngặt vì chàng đương buồn tâm sự, đương bận chữ tình, nên nhìn cảnh vật mà chẳng vui chi hết. Cơm nấu chín rồi, Kim-Huê hối thằng Son dọn lên trên ván. Ông Tự-Chấn bổn thân ra sau vườn kêu Thể-Phụng vô rồi ông cháu lên ngồi ăn với nhau, Kim-Huê ngồi một bên bới cơm, sớt thịt ép Thể-Phụng ăn. Ông Tự-Chấn ngồi ăn cơm mà ông thuật việc ở nhà, ông hỏi việc của Thể-Phụng, ông nói lăng-xăng, coi bộ ông vui lắm, chớ không phải ông quạu quọ như lúc trước. Còn Thể-Phụng hễ ông nói tới đâu thì chàng trả lời tới đó, chàng nói vừa đủ mà thôi, chớ không nói nhiều, mà lúc chàng nói coi bộ chàng có ý lo ra. Ăn cơm rồi, Thể-Phụng đương đứng uống nước, ông Tự-Chấn kêu Kim-Huê mà nói rằng: - Con coi thằng Thể-Phụng coi có phải nó lớn hơn hồi trước nhiều hay không. Mẹ kiếp nó! Chớ chi năm trước nó đừng có cừ ngạnh, tao cưới vợ cho nó, thì năm nay nó đã có con rồi. Ờ, tao nghe nói con Lý-Trưởng Tiếp ở trên vàm rạch Chanh, chú có một đứa con gái đủ nữ công nữ hạnh, thôi để đi nói mà cưới cho nó. - Con có thấy con nhỏ đó. Vừa với nó lắm. - Ờ, nếu vậy để tao lựa ngày nào tốt rồi tao lên nói thử coi. Lý-Trường Tiếp coi bộ lôi thôi, chớ chú có tiền nhiều lắm a con à. - Chú giàu thiệt chớ. Thể-Phụng nghe ông nói với dì bàn soạn cưới vợ cho chàng, thì chàng tức cười thầm. Chàng thừa dịp ấy, bèn bước lại gần mà nói với ông rằng: - Thưa ông, cháu về đây là cũng vì việc hôn nhơn nên cháu mới về. - Vậy hay sao? Ờ phải chớ. Cháu khôn lớn rồi, phải lo cưới vợ đặng lập gia thất với người ta chớ. Thôi để ông coi ngày rồi ông đi nói con Lý-Trưởng cho. - Thưa ông ... - Thôi, ông hiểu rồi, đừng có thưa thốt chi nữa. Cháu muốn gấp thì sáng mai ông đi. Ông nói thì chắc được, cháu đừng có lo. - Thưa ông, cháu ... - Ậy! Ta nói được thì được mà. Muốn cưới vợ thì cũng phải chờ một đôi tháng, chớ muốn liền bây giờ sao được. Phải đi lễ nầy lễ kia rồi mới cưới chớ. - Thưa ông, xin ông để cho cháu nói ít lời cho ông nghe. - Nói giống gì? - Hồi nãy cháu nói vì cuộc hôn nhơn nên cháu trở về đây chẳng phải ý cháu quyết trở về mà xin ông kiếm vợ cho cháu. - Vậy chớ hôn nhơn là giống gì? Không phải cưới vợ hay sao? - Thưa phải. - Ờ, nếu cưới vợ thì ông cưới cho. - Thưa không. - Ủa! Sao đã nói "phải" rồi lại nói "không"? - Thưa ông, số là gần một năm nay cháu ở bên Ðịnh-Tường. Có một ông già nhà nghèo mà ông có một đứa cháu gái tài học đã cao, mà nhan sắc lại đẹp nữa. Cháu thấy nàng ấy cháu phải lòng, nên cháu xin kết tóc trăm năm với nàng. Ông của nàng buộc cháu phải về thưa cho ông với dì hay, đặng ông với dì qua đứng chủ hôn mà cưới người ta mới gả. - Ối! Ông biết rồi. Cháu lầm to. Ðời nầy họ quỷ quyệt lắm cháu ôi! Họ thấy cháu học giỏi, họ nghe ông giàu lớn, nên họ lấy cái sắc mà câu cháu đa. - Thưa ông, không phải như vậy đâu. Chỗ đó người ta chơn chất thiệt thà lắm. Cháu cầu người ta, chớ không phải người ta cầu cháu đâu. - Ậy! Ông khôn hơn cháu mà. Cháu đừng có cãi. Ðể rồi ông cưới con Lý-Trưởng Tiếp cho. - Thưa ông, bây giờ ông cưới tiên trên trời cháu cũng không chịu. Nếu cháu không cưới được nàng Thu-Vân, thì cháu không thèm ai hết. - Tên con đó là Thu-Vân hay sao? - Dạ. Ông Tự-Chấy day qua ngó Kim-Huê mà nói rằng: - Rồi rồi! Nó bị người ta bày mưu thiết kế làm cho nó mê rồi. Mấy năm nay tao lo việc đó lắm, mà cũng không khỏi. Khổ chưa! Ông nói mấy lời rồi ông ngồi khoanh tay mà thở ra. Kim-Huê sợ ông cháu vì sự nầy mà nghịch với nhau nữa, nên nàng ngồi buồn so. Thể-Phụng đã không vui, song chàng muốn cho xong xuôi việc của chàng, nên chàng thưa nhỏ-nhẹ với ông rằng: - Thưa ông, ông già yếu đi xa-xôi mệt nhọc, vậy ông để dì hai đi thế qua Ðịnh-Tường mà cưới vợ cho cháu cũng được. - Tao không chịu. Muốn cưới vợ thì để tao lựa chỗ tử-tế có cơm có tiền tao cưới cho, chớ cưới thứ đồ bá vơ bá láp [4] đó mà làm gì. - Ông chưa thấy mặt người ta, mà nào ông biết người ta là đồ bá vơ bá láp. - Chưa thấy mà tao biết. - Nàng ấy xứng đáng lắm, con quan cũng không bì kịp. Ðã vậy mà cháu đã thương lỡ nàng rồi nữa. - À! Thấy chưa! Tao biết lắm! Rõ ràng là giống kỵ-nữ (gái làng chơi) cưới mà làm gi? - Thưa ông, xin ông đừng có nói như vậy mà tội nghiệp cho nàng. - Sao mà tội nghiệp? Thứ con gái mà không đợi lễ cưới, thấy trai thì thương trước, bây giờ nó thương mầy, không biết chừng hồi năm ngoái nó đã có thương thằng nào khác nữa, đồ như vậy là kỵ-nữ, chớ mầy biểu tao phải kêu nó là bà gì! - Thưa ông, cháu với nàng ấy thương nhau là thương cách quân tử lấy tình cao thượng mà đãi nhau, chớ có phải làm tuồng sớm mận tối đào vậy đâu. - Nó làm bộ mắc cỡ, nó làm bộ trinh bạch cho cháu mê, chớ thiệt nó là con đĩ đa, cháu mê nó đây cháu phải chết. Cái tên Thu-Vân đó là tên đĩ rõ ràng, chớ người tử-tế ai mà đặt tên như vậy. Thể-Phụng nghe ông nói tới câu chót, thì chàng đau đớn trong lòng quá, không thế dằn trí kiêng lời nữa được, chàng vùng đứng dậy, tay run môi tái, chàng nói với ông rằng: - Thiệt ông không thương tôi chút nào hết! Năm trước ông nhục mạ cha tôi là người tôi phải kính trọng hơn hết. Bây giờ ông nhục mạ tới tình-nhơn của tôi là người tôi đương yêu chuộng hơn hết. Ông oán hận tôi quá, chỗ tôi kính trọng, chỗ tôi thương yêu, ông đều nhục mạ hết thảy, dường ấy thì có thế nào tôi gần ông được nữa. Dầu lỗi với mẹ tôi thì tôi chịu, tôi nói thiệt tôi với ông không còn tình gì nữa hết. Tôi kiếu ông với dì tôi đi. Thể-Phụng nói dứt lời liền ngoe-nguẩy bỏ đi ra mé sông, rồi xuống ghe đi tuốt. Ông Tự-Chấn ngồi trân-trân, mặt mày buồn hiu. Còn Kim-Huê thì lấy vạt áo mà lau nước mắt, song lau hoài mà nước mắt không ráo. Thể-Phụng nằm co trong mui ghe, mà miệng thì hối trạo-phu [5] chèo cho mau. Chàng nhớ mấy lời nặng nề chàng nói với ông ngoại hồi nãy thì chàng ăn năn, mà rồi chàng nhớ mấy lời của ông ngoại nhục mạ Thu-Vân hồi nãy thì chàng lại tức giận. Chàng quyết định không thèm kể tới ông hay là dì nào hết, chàng trở qua Ðịnh-Tường tỏ thiệt việc nhà cho Lê-văn-Ðó hay và xin cưới phứt Thu-Vân cho rồi. Chàng tính thầm rằng bây giờ trên đời nầy không ai còn biết thương mình nữa mà mình trọng họ, vậy hễ mình làm lễ cưới rồi, mình dắt vợ qua Nhựt-Tảo mà lạy mồ mả của cha thì đủ lễ. Ghe tới Ðịnh-Tường phải đi ngang nhà Lê-văn-Ðó trước rồi mới về nhà bà hai Tiền. Thể-Phụng biểu ghe ghé tại cây dừa quằn đặng cho chàng lên, bởi vì chàng ức uất trong lòng, muốn tỏ phứt cho Lê-văn-Ðó nghe coi ông tính lẽ nào rồi sẽ về nhà. Chàng bước vô sân, thì thấy nhà sập cửa mà trong nhà vắng teo. Chàng kêu hai ba tiếng lớn, mà cũng không nghe trả lời. Chàng lấy làm lạ bèn thò tay dỡ cửa, thì cửa sập bỏ đó, chớ không có gài. Chàng chun vô nhà thì thấy nhà trống trơn, giường ván tuy còn, song mùng mền quần áo không còn vật chi hết. Chàng đứng ngơ-ngẩn một hồi rồi bắt từ trước đi ra sau, chàng thấy nhiều vật đã không còn ở chỗ cũ, mà vật nào còn đó thì lại bỏ nghinh-ngang. Thể-Phụng thấy cảnh khác thường thì chàng đổ mồ-hôi. Chàng bước ra rồi đi qua nhà ở một bên đó mà hỏi thăm. Có một bà già lụm-cụm nói với chàng rằng: - Cậu hỏi ông già ở một bên đây phải hôn? Ông dọn đồ đi mất ba bốn bữa rày, còn ở đâu đó mà hỏi. Thể-Phụng nghe mấy lời thì biến sắc, song chàng gượng mà hỏi nữa rằng: - Bà biết ổng đi đau hay không? - Ổng có nói với ai đâu mà biết. Hôm trước ổng dắt cháu ổng đi hết một ngày một đêm, rồi ông cháu trở về. Ðêm sau ổng chở đồ đạc xuống ghe rồi đi tuốt mất, bỏ nhà sùm sụp đó hổm nay, không ai thấy về nữa. Thể-Phụng chắc lưỡi lắc đầu, trở xuống ghe đi về nhà bà hai Tiền, mà trong bụng đã phát nghi, chẳng phải nghi Lê-văn-Ðó với Thu-Vân có tai họa gì đó nên phải ẩn mặt, ấy là nghi cho ông cháu nàng nọ muốn tránh mình nên gạt mình đi xa, đặng có trốn mà qua xứ khác cho khỏi gặp mình nữa. Chàng về nhà nằm dàu-dàu, đã thất chí rồi bây giờ lại thêm thất tình nữa, bởi vậy chàng lửng đửng lờ-đờ như kẻ không hồn. Mỗi bữa chàng đi qua chỗ Lê-văn-Ðó ở mà thăm chừng coi ông có trở về hay không. Bữa nào cũng thấy cái nhà sùm sụp bỏ đó, chớ không thấy tăm dạng ai hết. Chàng thăm chừng luôn luôn cho tới 10 bữa, mà ông cháu Thu-Vân cũng không về, chừng ấy chàng mới mòn chí ngã lòng, đã không trông đợi nữa, mà lại còn quả quyết ông cháu Thu-Vân gạt chàng. Chàng nghĩ con người thiệt là giả dối. Mình đã làm ơn cứu họ khỏi bị giết, rồi mình còn lo lắng cho họ ăn ở yên thân; ví như họ không biết ơn thì thôi, họ lại còn báo hại mình, cháu thì trêu ghẹo làm cho mình ngẩn-ngơ, còn ông thì gạt gẫm làm cho mình đau-đớn. Ðời như vầy mình còn ở chung chạ với thiên-hạ mà làm gì. Mình cũng nên vô trong chốn núi non rừng bụi rồi làm bạn với cỏ cây vui chơi với cầm thú, dường ấy có lẽ mình mới khỏi thấy những tình giả dối, những thói bạc đen. Người mà thất vọng như Thể-Phụng đây dẫu cho làm quan Bố chánh tưởng cũng không vui, chẳng luận là làm đề lại cho quan Bố chánh. Lúc ấy Thể-Phụng không kể chức đề lại, mà cũng không kể quan Bố chánh, chàng ức uất trong lòng quá, nên từ giã bà hai Tiền mà đi, không tính phải đi đâu, miễn là đi cho khỏi cái cảnh vừa vui đó rồi lại buồn đó, đi cho xa loài người là một giống thú giả dối hung dữ, đi đặng chôn cái tình thương dại, đi đặng trưởng cái chí ghét đời. Chàng tránh làng tránh xóm, cứ trong rừng trong bụi mà đi, đói thì hái trái cây mà ăn, khát thì tìm nước vũng mà uống. Chàng đi trọn 5 ngày, phần thì đói bụng, phần thì mỏi chưn, nên chàng ngồi dựa gốc cây mà nghỉ. Gió thổi lao-rao lá cây lúc-lắc; trên đầu chim kêu lảnh-lót, bên chơn dế gáy xè-xè. Thể-Phụng ngồi ngắm cảnh một hồi trong lòng khoái hoạt, mà rồi nhớ tới ông ngoại gay gắt, chàng nhớ tới Thu-Vân bạc-bẽo chàng thì chàng cũng còn xót dạ sục sùi. Tuy Thể-Phụng từ nhỏ chí lớn mặc dầu chàng theo nho học, nhưng mà chàng là con của Vương-thể-Hùng, chàng thọ khí phách của cha nên tánh nết cang cường, tâm chí hùng dũng chớ không phải như nhà nho bạc nhược kia, chúng làm nhục cũng cười, gặp sầu thì tự tử. Thể-Phụng vào trong rừng mà ở rồi mà mối sầu đã không gở được lại còn rối thêm nữa, chàng cùn trí nên sự ghét loài người ấy bây giờ nó lại ghét nhiều hơn, rồi thành ra chàng oán nhơn quần xã-hội không chừa ai hết. Chàng ức-uất vì người trong thân đã không biết thương mình, mà người mình yêu lại cũng gạt mình nữa, mà cái lòng uất-ức ấy chàng không biết tỏ với ai, bởi vậy chàng vùng đứng dậy mà nói lớn một mình rằng: - Thiên hạ họ không thương mình, vậy mình còn thương ai mà làm chi. Bớ loài người, bây phải biết, kể từ ngày nay tao là kẻ thù nghịch của bây đây. Ðể rồi bây coi tao. Thể-Phụng nói vừa dứt lời, bỗng thấy có hai người đương vạch lùm bụi mà bước ra, hai người đều bận quần xà lỏn lưng thì không có áo, mỗi người có cầm một cây mác thông, trong tay. Người đi trước trợn mắt ngó Thể-Phụng và hỏi rằng: - Mầy ở đâu mà dám đến đây? Mầy mới nói giống gì om-sòm [6] hử? - Tao nói giống gì mặc tao, can cớ gì đến mầy mà mầy tra hỏi? - Cha chả thằng nầy nó cứng dữ chớ. Trói đầu nó dắt về mà nạp cho Nguyên-Soái. Chắc thằng nầy đi dọ thám chớ gì. Hai người ấy nhảy lại ôm Thể-Phụng cứng ngắt. Thể-Phụng bị bắt thình-lình trở đương không kịp, mà vùng-vẫy cũng không nổi. Một người thì nắm tay, còn một người thì cắt dây đem trói Thể-Phụng rồi dắt đi. Tuy Thể-Phụng không biết bọn nầy là ai song chàng không sợ chi hết, cứ theo coi chúng nó làm sao. Ði một hồi đến một khoảng đất trống, thấy có trại lá cất dãy ngang dãy dọc. Hai người hung ác ấy dắt Thể-Phụng vào cái trại giữa rồi xô chàng biểu quì xuống, có một người tuổi chừng lối 50, râu-ria xồm xoàm, cặp mắt chầu quẩu, đầu bịt khăn đen, mình mặc áo quạ, ngồi trên ván, tay chống cái gối dựa, vừa thấy Thể-Phụng thì hỏi rằng: - Việc gì đó? Trong 2 người hung ác ấy có một người đáp rằng: - Bẩm quan Nguyên-Soái, chúng tôi đi tuần, gặp thằng nầy lạ mặt mà nó đi gần trại, nên chúng tôi bắt mà nạp cho quan Nguyên-Soái. Chắc nó đi thám dọ. Người được tôn là Nguyên-Soái ấy ngó chăm chỉ Thể-Phụng một hồi rồi hỏi rằng: - Mi tên họ chi, quê quán ở đâu, con của ai, đi đến đây làm gì? Phải bẩm cho thiệt, nếu gian ta chém đầu. - Tôi tên là Vương-thể-Phụng, con của Vương-thể-Hùng. Gốc tôi ở phủ Tân-An. Tôi buồn đi chơi, rủi lạc đường nên đến đây. - Thể-Hùng nào? Phải Thể-Hùng là danh tướng của quan lớn Khôi hồi trước hay không? - Thưa phải, cha tôi hồi trước là Chánh-Vệ-Úy. Người ấy nghe nói như vậy lật đật bước xuống mở trói cho Thể-Phụng, biểu lính nhắc ghế cho chàng ngồi rồi nói rằng: - Chú đây hồi trước cũng là bộ hạ Khôi. Chú biết ông thân cháu lắm. Thiệt là một đứng anh hùng hào kiệt. Lúc binh triều hạ thành Gia-Ðịnh, ông thân cháu bị thương rồi mà binh tướng triều hễ xáp lại gần người nào cũng bị đứt đầu. Hồi đó chú nhơn lộn-xộn chú thoát được, không biết ông thân cháu có thoát khỏi hay không. - Thưa thoát khỏi, cha cháu chạy về ẩn mặt bên Nhựt-Tảo mười mấy năm, mới mất chừng 3 năm nay. - Vậy hay sao? Chú không dè, chớ phải chú hay thì chú tìm mà rước về ở chung một chỗ đặng lo cử đồ đại sự với chú. Chú đây tên là Ðoàn-Hùng. Từ ngày thất thủ Gia-Ðịnh rồi, chú rút vô rừng qui tụ những người đồng chí mà lập trại nơi đây, không thèm tùng phục ai hết. Bây giờ binh của chú có trên ngàn, lương thực không thiếu gì. Chú đương tính lấy tỉnh Ðịnh-Tường mà làm căn bổn rồi sẽ đi thâu phục các tỉnh khác. Tưởng ai lạ, té ra cháu là con của quan Chánh-Vệ-Úy. Vậy thôi cháu ở đây với chú. Chú cháu mình lo mưu nỗ lực mà làm cho họ biết sức anh-hùng chơi. Thể-Phụng đương ghét thói đời, đương oán thiên-hạ, nên nghe Ðoàn-Hùng biểu như vậy thì chàng chịu liền. Ðoàn-Hùng mừng rỡ bèn hối quân dọn tiệc mà đãi Thể-Phụng. Trong lúc ăn uống hai người nói chuyện với nhau. Ðoàn-Hùng hay Thể-Phụng học nho giỏi mà không biết nghề võ, nên phong cho chàng làm chức Tham-Tá lãnh quân xuất các dinh trại và lương thảo, còn về chinh chiến thì về Ðoàn-Hùng lo. Thể-Phụng bày mưu thiết kế phân binh mà đóng các chỗ hiểm địa, bắt mấy làng ở gần phải nạp lương thực, dụ những anh-hùng dũng-sĩ mà làm vây cánh. Thể-Phụng hiệp với Ðoàn-Hùng mà sắp đặt trong ít ngày thì trong xứ Bình-Cách, là chỗ Ðoàn-Hùng đóng trại, chẳng còn ai mà chẳng tòng phục. Quan Tri-Phủ Tân-An hay tin ấy bèn chạy tờ cho quan Bố Ðịnh-Tường mà xin ngài phải lo liệu bình khấu cho mau, nếu để lâu ngày sợ e chẳng khỏi sanh họa lớn. Quan Bố-Chánh Ðịnh-Tường chuyển bẩm với quan Tổng-Ðốc ở Vĩnh-Long. Quan Tổng-Ðốc nhứt diện thượng sớ cho triều-đình hay, nhứt diện hạ lịnh sai quan Bố-Chánh Hải-Yến với Ðội-Trưởng Phạm-Kỳ ở tỉnh Ðịnh-Tường đem binh dẹp loạn. Hải-Yến với Phạm-Kỳ được lịnh thì kiểm điểm binh trong tỉnh được gần một ngàn, rồi chọn ngày tốt kéo qua Bình-Cách quyết quét sạch chòm ong, đặng cho lương dân an cư lạc nghiệp.

Chú thích : [3] lấy [4] không đứng đắn [5] ông lái đò [6] ồn ào Ngọn Cỏ Gió Đùa

Chương 21 (Chương kết)

Quyển thứ VI - Ân tình vẹn vẻ

Từ khi Lê-văn-Ðó nặng lời ước nguyện với Ánh-Nguyệt trong lúc nàng gần tắt hơi, nên ông lập thế chuộc Thu-Vân về mà nuôi, tuy ông đã nghe thấy tánh tình bạc bẽo của Từ-hải-Yến, nhưng mà ông nghĩ nghĩa cha con là đạo trọng, nếu ông dứt cái nghĩa ấy chẳng những là tội nghiệp cho phận Thu-Vân mà lại còn trái đạo trời, bởi vậy ông lần lựa nuôi Thu-Vân lớn khôn, kiếm chỗ dạy Thu-Vân ăn học, thầm tính sẽ liều thân mà làm cho phụ tử tương phùng, rồi ông kiếm nơi yên tịnh mà ẩn mình, đặng có vùi lấp cái kiếp phong trần cho rảnh. Nay ông thấy rõ Haỉ-Yến quyền cao chức lớn, mặt mũi cũng như người, mà lòng dạ không giống người, trước đã phụ rãy vợ hiền, sau lại không biết thương con thảo, thì ông ngao-ngán thói đời, ông dửng dưng phong tục, bởi vậy lúc còn đứng trước mặt Hải-Yến thì ông vừa mới phiền muộn mà thôi, mà đến chừng phải bỏ mà dắt Thu-Vân ra đi, thì trong lòng ông sụt sùi, ông càng nghĩ ông càng oán hận Hải-Yến. Không phải tại ông nhớ ngày nọ Hải-Yến bắt ông, hay là ông tức vì Ánh-Nguyệt thấy Hải-Yến nên nàng mới chết, mà bây giờ ông động lòng nên sanh oán hận. Ông oán đây là vì ông nghĩ Hải-Yến là người học giỏi, học đã có khoa mục, lên ngồi cái địa-vị cha mẹ dân, người dường ấy có lý nào lại không hiểu nghĩa cang thường luân lý. Nếu Hải-Yến mà bạc vợ phụ con, ấy là tại cái tâm tánh của anh ta là tâm tánh tiểu nhơn. Mà người tâm tánh như vậy, sao lại cho làm quan lớn cai trị đến một tỉnh. Vợ con chẳng biết thương, thì làm sao mà biết thương chúng dân. Người nầy đã không nên cho sống lâu, mà cũng không nên cho làm quan. Sống thêm một ngày thì hại cho dân thêm một ngày, còn làm quan bao lớn thì hại cho dân cũng bao lớn. Tuy lúc gần xuống ghe mà đi, ông Lê-văn-Ðó có hứa với Thu-Vân rằng ông đi qua miệt Vũng-Gù, và tuy ông cũng biết Thu-Vân trìu mến Thể-Phụng nên nàng muốn cho ông đi kiếm chàng, nhưng mà ông xuống ghe rồi ông thầm nghĩ rất rõ là cha ruột kia còn không ra gì huống chi là chồng, trong đời ông biết chắc ông thương Thu-Vân mà thôi, chớ ông không dám tin còn ai thương nàng nữa, bởi vậy ông đổi ý. Ông không qua Vũng-Gù, ông lại biểu ghe đưa ông trở về chùa Bình-An-Tự. Cũng ở trong chùa nầy, mà lần trước Lê-văn-Ðó vì cái chủ nghĩa cao thượng, còn Thu-Vân vì tánh tình non nớt, nên ông cháu vui vẻ an phận trót mười năm. Cũng trở về chùa nầy, mà hôm nay Lê-văn-Ðó ôm lòng oán hận, còn Thu-Vân thì luống bận tình riêng, bởi vậy ông cháu dàu dàu, ai thấy cũng biết thất tình thất chí. Từ sớm cho tới tối Lê-văn-Ðó cứ ở ngoài vườn kiếm việc mà làm hoài, ông không muốn nói chuyện với ai hết. Còn Thu-Vân nấu nước cúng Phật rồi thì nàng xẩn-bẩn trong bếp, khi ngồi khoanh tay trên ván ngó tấm vách tả-tơi, khi đứng dựa vai vô cửa ngó mấy lùm cây rậm-rợp. Ông cháu đều buồn, mà có lẽ tại hiểu ý nhau, nên ông lánh mặt không muốn gặp cháu, mà cháu cũng xây lưng không dám ngó ông. Ông cháu ở trong chùa được vài tháng. Một buổi trưa kia Lê-văn-Ðó dẫy cỏ [7] đã mệt rồi nên ngồi bẹp dưới gốc một cây da lớn mà nghỉ mát. Thình-lình ông thấy Thu-Vân ở trong nhà bếp đi ra vườn, nàng đi chậm rãi, cúi mặt xuống đất, chơn bước từ bước. Ông ngó châm bẩm mới thấy nàng hình dạng khô héo, mặt mày ưu sầu, cặp mắt sâu, gò má thỏn, bộ như người đau mới mạnh vậy. Ông chau mày suy nghĩ một hồi rồi rồi đứng dậy kêu nàng. Thu-Vân giựt mình, ngó lại thấy ông đứng dựa gốc cây da thì nàng biến sắc. Ông đưa tay mà ngoắc nàng, bởi vậy nàng phải đi lại. Khi nàng đi gần tới, ông bèn ngồi xuống rồi thở ra mà hỏi rằng: - Tại sao cháu buồn dữ vậy? Nàng ứa nước mắt, song nàng cười và đáp rằng: - Cháu có buồn việc chi đâu. - Trong đời nầy chẳng còn ai thương cháu cho bằng ông được. Cháu có việc chi uất-ức buồn rầu, sao cháu không nói cho ông biết? Cháu phải nói cho ông hiểu đặng ông lo liệu chớ nếu cháu dấu ông cháu để ôm ấp cái buồn trong lòng hoài, rồi cháu sanh bịnh ông biết làm sao! Thu-Vân ngồi xuống, rồi lượm một lá da khô mà xé nhỏ nhỏ; nàng lặng thinh không trả lời, mà cái mặt nàng coi sầu thảm lắm. Lê-văn-Ðó cũng ngồi im lìm một hồi rồi ông mới hỏi nữa rằng: - Cháu buồn vì sự cha cháu phụ rãy cháu phải hôn? - Không ... Cháu có buồn về việc đó đâu. Chớ chi cha cháu nghèo hèn mà cháu không tìm cha cháu được thì cháu buồn, cái nầy cha cháu giàu sang, mà cha cháu không thèm nhìn cháu, thì cháu vui lắm chớ buồn là sao. - Hay là tại ông thuật chuyện mẹ cháu gian nan hồi trước cho cháu hiểu, rồi cháu cảm thương thân phận của mẹ cháu mà cháu buồn? - Thưa, hễ cháu nhớ tới chuyện của mẹ cháu, thì cháu thương mẹ cháu thiệt. Nhưng mà ngày nay mẹ cháu đã trả xong nợ trần ai rồi, dầu cháu có thương thì cháu kính trọng trong lòng vậy thôi, chớ phải buồn rồi mẹ cháu sống lại được cho cháu nuôi dưỡng hay sao mà buồn. - Vậy chớ cháu buồn việc gì? - Thưa, không có buồn việc chi hết. - Hay là cháu không muốn ở trong chùa nữa? Cháu muốn đi phải hôn? - Ði đâu bây giờ! Ông hỏi thì nàng nói xuôi, mà chừng nàng hỏi ông lại thì ông không biết sao mà trả lời. Ông ngồi ngẫm-nghĩ giây lâu rồi đáp rằng: - Như cháu muốn đi qua Vũng-Gù thì ông dắt đi. - Tự ý ông. Nàng nói ba tiếng "tự ý ông" mà nàng chau mày ủ mặt, giọng nói nghe thảm thiết, hột lụy thấy rưng-rưng. Ông nghe thấy như vậy thì ông đã hiểu rõ ý nàng buồn là vì phân cách Thể-Phụng, chớ không phải buồn việc chi khác. Tự ý ông! Nếu thiệt nàng để tự ý ông liệu định, thì thà là ông giết nàng chết rồi ông tự vận mà chết luôn, chớ ông không đành gả nàng cho ai hết. Một máu một thịt là cha với con mà cha còn chẳng biết thương con, huống chi là khác giống khác dòng là vợ với chồng, chồng thương vợ nỗi gì mà ông gây cuộc vợ chồng cho nàng. Cũng vì cuộc vợ chồng mà mẹ nàng ngày trước phải dày gió dạn sương, phải trêu cay nuốt đắng. Bức tranh thê-thảm còn treo trước mắt sờ-sờ, cái đường chông gai lẽ nào ông nỡ xuôi nàng xông pha vào đó. Nếu để tự ý ông liệu định, thì chắc là ông khuyên nàng lánh xa trần tục, khinh bỉ loài người, chớ thếc tục bất lương lân cận càng nhuốc nhơ, người phi nghĩa chung chạ càng phiền não. Ngặt vì miệng nói tự ý ông, mà lòng muốn theo ý nàng; lại lòng vì thương nàng nên ông không nỡ cãi, bởi vậy ông phải nhứt định dắt nàng qua Vũng-Gù mà dọ tin tức Thể-Phụng. Lê-văn-Ðó gởi hết tài vật cho Hòa-Thượng rồi dắt Thu-Vân ra đi. Nàng đã hết buồn mà ông biểu đi, coi bộ nàng lại phấn-chấn lắm. Ghe đi ngang qua chợ Bến-Tranh nhằm lúc ban đêm, trời có trăng mà bị mây án nên tứ phía coi lờ mờ. Vừa qua khỏi chợ, bỗng thấy dựa mé sông, bên tay mặt đèn đuốc sáng lòa, người ta đương lao-nhao lố-nhố. Có hai tên lính kêu ghe ghé lại rồi bắt hết những người dưới ghe mà dắt lên một cái nhà lớn dựa mé sông. Lê-văn-Ðó dắt Thu-Vân vô nhà, thấy có một người, tuổi chừng 50, đương ngồi tại bộ ván giữa, còn hai bên thì người ta đứng đông nức. Người ấy hỏi ông rằng: - Ghe đi đâu mà đi đêm hôm vậy hử? - Tôi đi qua Vũng-Gù. - Chi vậy? - Tôi dắt cháu tôi đi qua bển thăm bà con. - Không được, phải ở lại đây. - Thưa cậu, tôi có việc gấp xin cậu làm phước thả cho tôi đi. Tôi có tội lỗi gì đâu mà cậu bắt tôi. - Ế! Quan trên dạy ta hễ ai đi ngang qua đây thì bắt hết thảy. Cho mi đi sao đặng. Quan trên mộ lính mà dẹp giặc, dạy ta sáng mai nầy phải nạp cho đủ một trăm. Mi phải ở đây đặng ta dẫn đi nạp. - Thưa cậu, mộ lính thì mộ người trai tráng chớ tôi già cả, cậu bắt tôi vậy thì tội nghiệp cho tôi lắm cậu. - Ối! Già trẻ gì cũng bắt hết thảy. Nếu kén trai tráng thì làm sao cho đủ số. - Cậu bắt tôi đi lính, rồi con cháu tôi đây nó bơ vơ tội nghiệp lắm cậu. - Nếu nó bơ vơ thì nó ở đây. Chừng nào yên giặc rồi mi trở lại đây mà rước nó. - Tội nghiệp tôi lắm cậu. - Thôi, đừng có nói nhây. Ở đó đặng khuya ta đi cấp. Lê-văn-Ðó với Thu-Vân ngó nhau mà khóc. Ông hỏi thăm người ta thì mới hay người bắt ông đây là Lý-Trưởng. Vì Ðoàn-Hùng dấy loạn trong phía rừng Bình-Cách, quan Bố-Chánh Ðịnh-Tường vưng lịnh quan Tổng-Ðốc đem binh qua dẹp loạn. Mới giáp chiến một trận đầu, quan Bố-Chánh thua, binh hao gần phân nửa, nên phải truyền lịnh cho các xã thôn phải chiêu binh mà cấp thêm cho ngài. Lê-văn-Ðó hỏi rồi mới hiểu người ta bắt ông đây là bắt làm lính đặng đi dẹp loạn Ðoàn-Hùng. Ông liệu thế năn-nỉ cũng không khỏi mà chống cự cũng không được, cùng đường rồi ông phải chịu phép xin tạm gởi cháu ở lại nhà Lý-Trưởng, đặng rảnh chơn cho ông đi, Lý-Trưởng chịu cho, và kêu vợ mà biểu đem Thu-Vân vô trong cho nàng nghỉ. Ðến khuya Lý-Trưởng điểm lính mà rồi dắt đi cấp cho quan Bố. Lê-văn-Ðó căn dặn Thu-Vân phải ở đây mà chờ ông. Nàng lo sợ nên khóc dầm. Lê-văn-Ðó vào ở trong đại trại 3 ngày mà không được thấy mặt quan Bố-Chánh Hải-Yến. Qua bữa thứ tư, lối tảng sáng ông thấy binh lính lao-nhao lố-nhố trước trại một tốp đông chừng lối bốn năm trăm người, kéo nhau mà đi. Tốp đó đi rồi, người ta lại điểm những binh lính còn lại. Người ta lựa lính trai tráng mạnh mẽ mà gom trước cửa trại. Còn Lê-văn-Ðó với một tốp chừng lối năm sáu chục người toàn là lính già cả yếu đuối, thì người ta bỏ lại giữ trại. Cách một lát, Lê-văn-Ðó ngó thấy quan Bố Chánh Từ-hải-Yến, đầu bịt khăn đen, mình mặc áo rộng xanh, ở trong trại bước ra rồi leo lên kiệu mà ngồi, có một tên lính che một cây lộng đứng một bên cái kiệu. Trống dống 3 hồi rồi tốp lính trai tráng ấy, kẻ xách roi trường, người vác mác thông, kéo nhau mà đi trước, kiệu của quan Bố đi theo sau. Lê-văn-Ðó đứng trong trại mà ngó, miệng chúm-chím cười, song không ai hiểu ông cười việc chi. Mặt trời vừa xế bóng, Lê-văn-Ðó với mấy tên lính ở trong trại đương bàn luận với nhau về sự chinh chiến, bỗng nghe trong rừng phía bên tay mặt có trống dống vang-vầy, rồi lại nghe có tiếng hỏi. Cách chẳng bao lâu, rải rác có mấy tên quân hào hễn chạy về trại và la rằng: - Binh của mình đổ rồi. Thế giặc mạnh lắm! Chạy, chạy! Mấy mươi lính giữ trại đều biến sắc, phân nửa bỏ mà chạy, còn phân nửa lao xao trước cửa trại, song không chịu đào tỵ. Lê-văn-Ðó tỉnh táo như thường, ai lộn xộn mặc ai, ông cứ đứng giữa trại mà ngó. Thình-lình ông thấy quan Bố-Chánh Hải-Yến ở trong rừng chạy ra, đầu rớt mất khăn, tay ôm áo rộng, và nhắm hướng trại mà chạy về. Phía sau lưng ngài thì có một tốp người ở trần đưa lưng trụi tay cầm côn cầm mác mà rượt theo ngài và la hét om sòm. Lê-văn-Ðó thấy rõ ràng quan Bố ra khỏi rừng chưa bao xa, kế bọn ấy rượt theo kịp, chém ngài một mác té sấp, rồi hai ba đứa áp lại cắt cổ lấy đầu mà bêu lên. Tuy ông oán hận Hải-Yến, nhưng mà ông thấy ông ta chết một cách rất ghê-gớm như vậy ông cũng động lòng, nên ông hét lên rằng: - Bọn ta phải ra tiếp quan lớn chớ. Trong trại im-lìm, ông ngó lại thì quân lính đã chạy hết, duy còn có một mình ông đó mà thôi. Quân giặc tràn vô trại bắt trói ông, rồi phân ra một tốp ở chiếm trại, còn một tốp dắt Lê-văn-Ðó và đem đầu quan Bố về nạp cho Nguyên-Soái. Khi đi gần tới cửa trại của Ðoàn-Hùng, Lê-văn-Ðó dòm thấy có hơn một trăm binh bị trói để ngồi sắp hàng tại đó mà chờ lịnh. Nguyên-Soái Ðoàn-Hùng ngó thấy đầu của quan Bố Chánh Hải-Yến thì mừng rỡ, liền hối quân đem bêu trước cửa đại trại mà thị oai. Người mới được đại thắng, trong lòng còn khoái hoạt, không nỡ tàn hại sanh linh, bởi vậy ngài sai bộ hạ bước ra hỏi những quân nghịch bị bắt coi như ai chịu hàng đầu thì tha, còn ai không chịu thì xử trảm. Những quân lính bị bắt, kể số hơn một trăm, vừa nghe lịnh thì ứng lên xin hàng đầu hết thảy, duy có hai người là Lê-văn-Ðó với một người nữa, ngồi trơ-trơ không chịu qui hàng. Ðoàn-Hùng dạy dẫn hai người ấy vô trại, nộ nạt om-sòm, rồi truyền lịnh dẫn đem giao cho quan Tham-Tá trị tội. Lúc quân dẫn đi, Lê-văn-Ðó dòm coi mới hay người không chịu đầu hàng với mình đó là Ðội-trưởng Phạm-Kỳ. Vương-thể-Phụng đương ngồi trong trại, bỗng có quân vào báo rằng quan Nguyên-Soái xuất trận được toàn thắng, lại có bắt 2 người già, một người tóc cụt mà bạc trắng, còn một người râu tóc còn đen thui, hai người ấy cứng cỏi không chịu hàng đầu, nên quan Nguyên-Soái dạy dẫn giao cho chàng định đoạt. Thể-Phụng chau mày và dạy dắt người già tóc bạc mà cụt đó vào trại cho chàng xem trước. Quân dẫn Lê-văn-Ðó vô và biểu quì trước án. Thể-Phụng vừa ngó thấy ông thì chàng biến sắc, lật đật chạy lại mở trói và mời ông ngồi. Lê-văn-Ðó chưng hửng, không hiểu vì cớ nào Thể-Phụng mới cách ông hai tháng nay, mà bây giờ trở nên một tướng giặc. Hai người đều bợ-ngợ và cũng hỏi nhau tại làm sao mà ra đến nỗi nầy. Thể-Phụng tỏ trước rằng chàng về Vũng-Gù thưa việc hôn nhơn cho ngoại nghe, ông ngoại đã không bằng lòng mà còn nhục mạ Thu-Vân nữa. Chàng tức giận bỏ trở qua Ðịnh-Tường thì ông với Thu-Vân đã trốn chàng mà đi mất. Chàng nói tới đó coi bộ chàng buồn lắm, chàng ngẫm nghĩ một lát rồi nói nữa rằng, -- Người đời không còn tình nghĩa chi hết, ở chung chạ với họ nữa mà làm gì. Tôi làm giặc đây, là tính giết cho sạch những kẻ vô tâm vô đạo phi nghĩa bạc ân đặng lập một đời mới cho nhơn dân hưởng mùi đạo nghĩa. Lê-văn-Ðó hiểu Thể-Phụng trách ông với Thu-Vân. Ông ngồi lặng thinh, cứ ngó chàng mà ứa nước mắt. Ông suy nghĩ giây lâu rồi mới nói rằng: - Cậu không rõ công việc, nên cậu hờn tôi cũng phải. Song tôi bỏ Ðịnh-Tường mà đi, nào có phải tôi trốn cậu đâu. Nếu tôi trốn cậu thì làm sao mà ngày nay tôi gặp cậu đây. Ông ngần ngại một hồi nữa rồi mới chịu tỏ thiệt sự Hải-Yến là cha ruột Thu-Vân, mới thuật chuyện Hải-Yến phũ rãy con, đã không chịu nhìn con, mà còn đuổi đi ra cho khỏi tỉnh nữa. Trở về chùa Bình-An-Tự Thu-Vân thương nhớ chàng, nên gầy mòn khô héo, túng thế ông phải dắt qua Vũng-Gù mà tìm chàng, chẳng dè đi đến Bến-Tranh bị Lý-Trưởng bắt ông mà điền lính. Thể-Phụng nghe rõ đầu đuôi mới hết giận nên hỏi ông rằng: - Vậy chớ nàng Thu-Vân bây giờ ở đâu? - Tôi gởi nó ở nhà Lý-Trưởng. Thể-Phụng ngồi suy nghĩ một hồi nữa rồi nói một mình rằng: - Bây giờ đi rước nàng đem về đây cũng bất tiện. Thôi để nàng ở đó ít bữa rồi sẽ tính. Cha chả! Mà quan Bố văn học cao lắm, sao cách cư xử của ngài lại đê tiện qua như vậy kia. Lê-văn-Ðó nói rằng: - Có phải hễ học giỏi thì biết nhơn nghĩa đâu. Người như vậy hèn chi bị giết, đáng lắm. - Ai giết? - Cầm binh đánh giặc nên bị giặc giết, chớ ai. - Giết hồi nào? - Hồi trưa nầy. Quân cắt đầu về nạp bây giờ còn đương bêu trước của trại. Thể-Phụng nghe nói biến sắc. Chàng vùng đứng dậy rồi chàng lại ngồi xuống mà nói rằng, -- Thôi, ông ở đây với tôi, rồi thủng thẳng sẽ tính. Còn người nào bị bắt với ông mà không chịu đầu đó? Ông biết hôn? Lê-văn-Ðó đáp rằng: - Biết. Người đó là Ðội-trưởng Phạm-Kỳ. - Vậy sao! Tôi nghe tên, mà không biết mặt anh ta. Bây giờ giết nó thì tội nghiêp, mà thả nó thì hiểm nghèo, vì nó cũng là người lợi hại lắm. Dụ nó đầu được hôn? - Chắc là không được. - Nếu vậy thì phải giết. Bây giờ tôi phải đi liền ra đại trại mà xin cái đầu của quan Bố đặng chôn cất cho tử-tế, vì tuy người ở quấy với vợ con, song người là cha của Thu-Vân, nên không lẽ tôi để vậy được. Vậy tôi giao cây gươm nầy cho ông, ông biểu quân dẫn Phạm-Kỳ ra mé rừng mà chém nó đi. Thể-Phụng dạy 5 tên quân dắt Phạm-Kỳ đi và đưa một cây gươm cho Lê-văn-Ðó mà hối đi theo. Chàng sắp đạt an bài rồi chàng mới đi ra đại trại. Quân dẫn Phạm-Kỳ đi ra mé rừng, Lê-văn-Ðó cầm gươm đi theo, ông liếc mắt coi thì thấy anh ta không có chút chi sợ-sệt hết. Khi đi tới chỗ rồi, Lê-văn-Ðó bước lại hỏi Phạm-Kỳ rằng: - Mi biết đem mi đi đâu đây không? - Ðem đi giết, chớ đem đi đâu. - Mi không sợ chết sao? - Chết vì bổn phận mà sợ gì. - Mi biết ta hôn? Mi nhìn cho kỹ đi, rồi có chết. Phạm-Kỳ trợn mắt ngó ngay Lê-văn-Ðó rồi mặt biến sắc, chơn thối lui hai ba bước và nói rằng: - Lê-văn-Ðó! Lê-văn-Ðó gật đầu và cười và nói rằng: - Phải. Ta đây. Mi tưởng ta chết rồi há? Té ra ta không chết, mà bây giờ mi phải chết. Mi coi đó thì biết Trời Phật hại kẻ làm quấy, chớ chẳng hề khi nào giết người làm phải bao giờ. Phạm-Kỳ cúi mặt xuống đất, không nói chi hết. Lê-văn-Ðó bước lại mở trói cho anh ta rồi nói rằng: - Tuy ta là quân trộm cướp, song ta có nhơn, chớ không phải độc ác như các quan của mi vậy đâu. Ta tha mi đa, mi muốn đi đâu thì đi đi. Phạm-Kỳ riu-ríu bước vào rừng. Lê-văn-Ðó dắt 5 tên quân trở về trại, ông và đi và cười chúm-chím. oOo Vương-thể-Phụng biết rõ được tình của Thu-Vân và hay Thu-Vân đi tìm chàng, thì chàng lấy làm bối rối lắm. Nếu bỏ Ðoàn-Hùng mà đi theo Thu-Vân thì thành ra mình là người phản bạn, khinh nghĩa trọng tình; còn nếu đem Thu-Vân vào trại thì chẳng những là bất tiện cho nàng, mà còn sợ e có xảy đều chi nguy hiểm nàng phải liên lụy nữa. Chàng suy tới tính lui hoài, không biết liệu lẽ nào. Cùng thế rồi chàng mới khuyên Lê-văn-Ðó trở ra Bến-Tranh dắt Thu-Vân đi kiếm chỗ nương ngụ, đợi ít ngày coi thế cuộc may rủi lẽ nào rồi chàng sẽ liệu định. Lê-văn-Ðó đi ít ngày rồi trở về trại mà nói rằng Thu-Vân ở yên nơi nhà Lý-Trưởng ngoài Bến-Tranh. Nàng muốn ở đó cho gần đặng nghe tin tức của chàng, chớ không chịu đi đâu hết. Nàng khuyên chàng phải lo làm cho rỡ-ràng cái phận sự nam-nhi, còn phận nàng thì dầu nguy biến thế nào, nàng cũng giữ chặt một lòng một dạ. Lê-văn-Ðó lại cho Thể-Phụng hay rằng quan Tổng-Ðốc quyết báo thù cho Bố-Chánh Hải-Yến, nên sắp kéo đại binh đến Bình-Cách. Thể-Phụng gật đầu mà cười, coi bộ chàng không lo sợ chi hết. Cuộc dẹp loạn Bình-Cách chẳng cần phải nói dài, vì ai cũng biết số ít thì phải thua số nhiều, thế yếu thì phải thua thế mạnh. Ấy là lẽ tự nhiên, chớ không phải hay dở. Binh của Ðoàn-Hùng kể chừng hơn một ngàn, còn binh của Tổng-Ðốc gần tới 5 ngàn. Ðã biết binh của Ðoàn-Hùng thảy đều là người cảm tử, nhưng mà một người phải cự đến 5 người, dầu hay dầu giỏi thế nào cũng không thắng nổi. Hai bên giáp chiến với nhau, bữa đầu Ðoàn-Hùng tuy yếu thế, song ráng sức chống cự, bởi vậy quan Tổng-Ðốc không đoạt được. Qua bữa sau binh Ðoàn-Hùng bị hao nhiều nên đã mỏng rồi. Tuy vậy mà Ðoàn-Hùng cũng nỗ lực chống cự từ sớm mai cho đến mặt trời lặn. Quan Tổng-Ðốc biết giặc thế đã yếu rồi, bởi vậy trời gần tối mà ngài không chịu thâu binh cứ dống trống thúc binh hãm trại. Ðến đỏ đèn Ðoàn-Hùng còn đứng giữa dòng binh mà đốc chiến. Thình-lình quân báo rằng đại trại đã bị cướp rồi. Ðoàn-Hùng cất tiếng than rằng: - Nếu vậy thì mạng ta đã hết rồi. Anh ta nói có mấy lời rồi rút gươm đâm họng mà chết tại mặt trận. Binh tướng thấy Nguyên-Soái đã tự vận thì vỡ tan, mạnh ai nấy kiếm đường mà thoát thân. Thể-Phụng với Lê-văn-Ðó ở trại sau mà coi lương thực. Hai người nghe nói đại trại bị cướp, liền dắt binh đến tiếp cứu. Ði được nửa đường, xảy gặp binh giặc, hai bên hỗn chiến với nhau. Lê-văn-Ðó cứ đi một bên Thể-Phụng mà tiếp chàng. Trời tối mà lại đường rừng, bởi vậy hai bên đánh nhau, mà không thấy nhau cho rõ. Thể-Phụng thấy binh của chàng muốn thối, chàng bèn xốc tới mà đốc chiến. Thình-lình có một người cao lớn cầm một cây mác thông nhảy đâm chàng. Tuy trời tối mà nhờ lưỡi mác sáng sáng, nên chàng ngó thấy, bởi vậy chàng lách mình mà tránh. Chàng thiệt là lẹ, nhưng mà tránh cũng không khỏi. Lưỡi mác trật cái ngực, rồi nó lại đâm ngay vào vai tay mặt của chàng làm cho chàng té sấp. Lê-văn-Ðó vội-vàng muốn đỡ mà ông đỡ không kịp. Tuy vậy mà ông cũng lẹ trí, ông đập người cao lớn ấy một cây ngay trên đầu, người ấy lúc-lắc rồi buông cây mác nhào ngửa nằm ngay đó. Lê-văn-Ðó bước lại coi thì lưỡi mác còn mắc trong vai Thể-Phụng. Ông lật đật rút ra, máu tuôn theo như xối. Thể-Phụng thở è-è, không nói chi được hết. Ông liền kề vai cõng chàng rồi băng qua rừng, kiếm đường mà chạy ra Bến-Tranh. Cõng nặng, trời tối, đường khó đi, bởi vậy ông lẩn-quẩn trong rừng, chờ tới sáng, ông thấy mặt trời mới nhắm hướng mà đi được. Ðến trưa, ông ra gần tới Bến-Tranh, ông bèn kiếm chỗ khô ráo sầm uất mà để chàng nằm xuống. Ông coi kỹ lại thì thấy chàng bị có một mũi mắc tại vai mà thôi. Tuy vậy mà vì bị máu ra nhiều quá, nên mặt chàng xanh dờn, lại chàng bất tỉnh, cứ nằm thở è-è hoài không nói chi được hết. Ông ngắm nghía một hồi rồi ông để chàng nằm tại đó, ông chạy riết lại nhà Lý-Trưởng lén thông tin cho Thu-Vân hay. Thu-Vân nghe nói thì khóc dầm. Nàng trốn vợ chồng Lý-Trưởng mà đi với ông, đặng có lo mưu cứu Thể-Phụng. Khi đến nới, nàng thấy chàng như vậy thì nàng càng lo sợ, bởi vậy nàng xin ông phải lập thế cứu chàng chớ nếu để chàng ở trong rừng không có thuốc men chi hết, thì chắc chàng phải chết. Ông suy nghĩ một hồi rồi ông biểu nàng ở đó để ông đi mướn một chiếc ghe lườn mà đem chàng về Vũng-Gù. Trời chạng vạng tối, Lê-văn-Ðó trở lại nói rằng ông đã mướn ghe xong rồi, đợi tối một lát rồi ông sẽ đem chàng xuống ghe mà đi. Ông coi lại thì Thu-Vân đã xé hết nửa vạt áo mà nịt cái vít của Thể-Phụng. Lê-văn-Ðó đợi nhà họ tắt đèn ngủ hết rồi ông lén cõng Thể-Phụng mà đem xuống ghe, ông cõng đi trước, Thu-Vân đi theo sau. Ðem xuống ghe rồi, ông để Thể-Phụng nằm trong khoang giữa, ông biểu Thu-Vân ngồi một bên mà coi chừng, rồi ông lấy một cây dầm ra ngồi phía trước mũi mà bơi phụ đặng ghe đi cho mau. Ði chưa được bao lâu, xảy gặp một chiếc ghe lớn cản ngang sông, có tiếng người bên chiếc ghe ấy nói rằng: - Ghe lườn đi đâu đây? Vô đặng cho ta xét coi nào. Lê-văn-Ðó muốn bơi lách mà đi. Ngặt vì chủ ghe chèo lái sợ quá, nên rà mái chèo mà cặp một bên chiếc ghe lớn ấy, trong ghe vùng nổi lên hai cây đuốc lên sáng lòa. Lê-văn-Ðó dòm thấy Phạm-Kỳ đứng dựa mui ghe thì ông biến sắc. Phạm-Kỳ hỏi rằng: - Ghe đi đâu mà đông dữ vậy? Lê-văn-Ðó vừa muốn trả lời, thì Phạm-Kỳ ngó thấy ông, nên anh ta nói tiếp rằng: - Ủa! Lê-văn-Ðó đây mà! Mi gặp ta rồi! Rủi cho mi quá! Lê-văn-Ðó đứng dậy đáp rằng: - Phải. Lê-văn-Ðó là ta đây. Trời khiến hôm trước ta thương mi, ta không nỡ giết mi, nên ngày nay ta bị mi hại lại thì ta cam chịu, ta không cãi chối gì. - Nếu mi biết như vậy thì leo qua đây cho lính nó trói cho mau. - Mi muốn ta nạp mình cho mi thì ta nạp. Song ta xin mi một điều nầy. Cháu của ta bị bịnh nặng nên ta phải đưa nó về nhà. Vậy xin mi cho ta kỳ 3 ngày rồi ta sẽ nạp mình. Trong 3 ngày nữa mi ở chỗ nào mi nói cho ta biết trước, rồi đúng kỳ ta sẽ đến đó mà thọ tội. Phạm-Kỳ đứng trầm ngâm, chẳng hiểu anh ta tính việc gì mà cách một hồi anh ta lại nói rằng : - Hôm trước mi tha ta không lẽ bữa nay ta lại bắt mi. Vậy ta cũng tha mi mà trừ cái nghĩa nọ. Song ta nói cho mi biết rằng làm quan cũng có kẻ quấy người phải, cũng có người biết ơn biết nghĩa chớ không phải mi có nhơn, còn ta đây không biết nhơn nghĩa đâu. Thôi mi đi đi. Ta không bắt mi đâu. Ta khuyên mi một điều nầy, là phải lánh thân, đừng có gặp ta nữa, bởi vì hễ gặp ta nữa, thì ta vì phận sự ta không thế nào dung mi nữa được. Lê-văn-Ðó xô ghe ra mà đi, ông không tạ ơn, mà cũng không từ giã. Tảng sáng ghe qua tới sông Vũng-Gù. Lê-văn-Ðó hỏi thăm lần lần mới tìm được bến ông Ðàm-tự-Chấn. Ông để Thu-Vân ở dưới ghe với Thể-Phụng, còn ông leo lên bờ mà đi thẳng vô nhà. Ông Ðàm-tự-Chấn đương đứng trước cửa, bỗng thấy Lê-văn-Ðó bước vô sân, chó sủa om sòm. Ông la chó, rồi đứng chờ coi người lạ ấy đến có việc gì. Lê-văn-Ðó vô tới trước mặt ông rồi hỏi rằng: - Có phải là ông Tự-Chấn hôn? - Phải. Ông ở đâu? - Phải Thể-Phụng là cháu ngoại của ông hôn? - Phải. Hỏi chi vậy? - Thể-Phụng bị bịnh nặng lắm. Tôi làm ơn chở dùm chàng về cho ông đây. Chàng ở dưới ghe. Xin ông cho phép đem chàng lên. Tự-Chấn nghe nói Thể-Phụng bịnh nặng thì ông kinh tâm, lật đật chạy ra mé sông, không thèm hỏi đều chi hết. Ông thấy Thể-Phụng nằm dưới ghe, ông nhảy đại xuống ôm chàng mà khóc, ông tối tăm mày mặt đến nỗi không thấy Thu-Vân ngồi một bên đó. Kim-Huê và bạn bè trong nhà nghe tin cũng chạy túa ra. Tự-Chấn muốn ôm Thể-Phụng mà đem lên nhà, Lê văn Ðó cản ông, biểu ông lên trước, đặng cho nhẹ ghe rồi sẽ lập thế đem Thể-Phụng lên sau. Tự-Chấn với Thu-Vân leo lên bờ, Lê-văn-Ðó đỡ Thể-Phụng ngồi dậy rồi kề vai cõng chàng đem lên. Ông cõng đi thẳng vào nhà để nằm ngay trên ván. Tự-Chấn, Kim-Huê với Thu-Vân xúm lại đứng chung quanh, kẻ kêu người khóc om sòm mà Thể-Phụng nằm im lìm, không nói chi hết, mắt nhắm hí hí, mũi thở hoi hóp mà thôi. Kim-Huê hối bạn đi rước thầy thuốc. Lê-văn-Ðó xin một chén nước nóng rồi biểu Thu-Vân vạch miệng đổ từ giọt cho chàng uống. Kim-Huê lại nhúng nước khăn đem lau mặt cho chàng. Chẳng hiểu là nhờ nước nhễu thấm giọng hay là nhờ khăn lau mát mặt, mà cách một lát Thể-Phụng mở mắt ngó thấy Thu-Vân ngồi bên tay trái, Kim-Huê ngồi bên tay mặt thì chàng cười. Thu-Vân với Kim-Huê mừng quýnh nên kẻ kêu ông người kêu cha lại mà coi. Thể-Phụng nói nhỏ nhỏ rằng: - Khát nước lắm. Cho tôi xin một chén nước uống. Kim-Huê lật đật đi rót nước. Tự-Chấn với Lê-văn-Ðó thấy Thể-Phụng đã tỉnh lại rồi, thì hai ông mừng, nên ngó nhau mà cười. Thể-Phụng uống nửa chén nước chàng đổ mồ hôi rồi mới thiệt tỉnh. Chàng ngó ông ngoại, rồi ngó Lê-văn-Ðó mà hỏi rằng: - Ông đưa tôi về nhà ông ngoại tôi đây phải hôn? Lê-văn-Ðó gật đầu. Thể-Phụng day qua ngó ông ngoại mà nói nữa rằng: - Nếu không có ông đây cứu tôi thì tôi có thấy mặt ông ngoại với dì đâu. Ông Tự-Chấn thương cháu quá nên ông chảy nước mắt mà nói rằng: - Hồi nãy ông sợ cháu chết, nên ông khóc dữ. Thôi, cháu nằm nghỉ, đừng có nói nhiều mà mệt. Ðể một lát ông thầy thuốc đến ổng coi mạch rồi hốt thuốc cho cháu uống. Thể-Phụng gật đầu rồi nhắm mắt nằm nghỉ. Lê-văn-Ðó nói với ông Tự-Chấn rằng trọn hai đêm một ngày Thể-Phụng không có ăn cơm ăn cháo chi hết. Tự-Chấn nghe như vậy bèn hối Kim-Huê đi nấu cháo cho thiệt lỏng đặng cho Thể-Phụng ăn. Kim-Huê đi nấu cháo. Thu-Vân thấy Thể-Phụng nghỉ rồi nên nàng cũng đi theo Kim-Huê xuống bếp. Tự-Chấn với Lê-văn-Ðó muốn để cho Thể-Phụng nằm êm cho khỏe, nên hai ông dắt nhau ra phía trước mà uống nước. Tự-Chấn hỏi Lê-văn-Ðó rằng: - Cháu tôi nó đau sao vậy ông? Sao tôi thấy chỗ vai nó máu đóng khô queo vậy? Ông gặp nó ở đâu mà ông cứu nó đó? - Ðể cậu tỉnh lại rồi cậu nói cho ông nghe. Tôi không hiểu chi hết. - Có lẽ nào ông không hiểu. Ông nói sơ cho tôi nghe một chút coi mà. - Thiệt tôi không hiểu. Nếu tôi hiểu thì tôi nói, chớ dấu ông làm chi. Ông Tự-Chấn ngồi ngẫm nghĩ một hồi rồi hỏi nữa rằng: - Con nhỏ nhỏ đó phải vợ nó không? - Không phải. - Vậy chớ nó là ai? Sao nó lại theo thằng nọ? - Con đó là cháu của tôi. Nó đi với tôi chớ. - Nó tên gì? - Tên Thu-Vân. - Thu-Vân ... Té ra con nầy là Thu-Vân. Phải rồi. Tự-Chấn mới nói tới đó, kế ông thầy thuốc bước vô. Ông lật-đật tiếp chào rồi dắt vô coi mạch cho Thể-Phụng liền. Ông thầy thuốc vừa nắm tay thì Thể-Phụng giựt mình mở mắt. Ông chẩn mạch và coi luôn cái vít đâm nơi vai rồi ngó Ðàm-tự-Chấn mà nói rằng: - Tâm can phế phủ chẳng có chi hết. Tại cái vít đó làm cho máu ra nhiều quá nên cậu Tú mất sức. Ðể tôi hốt ít thang thuốc cho cậu uống mà lấy sức lại và tôi cho thuốc dán cái vít đó cho mau lành. Trong một tháng thì cậu mạnh như xưa, không hại gì đâu mà ông sợ. Tự-Chấn với Lê-văn-Ðó nghe nói như vậy thì mừng hết sức, nên mời ông thầy thuốc lại ván giữa ngồi ăn trầu. Làm thầy thuốc phải lo cứu bịnh, chớ không nên ham nói chuyện nhiều, bởi vậy ông thầy thuốc ăn một miếng trầu rồi từ mà về và xin cho một đứa đưa ông đặng lấy thuốc luôn thể. Kim-Huê với Thu-Vân nấu cháo rồi bèn múc bưng lên cho Thể-Phụng ăn, một người ngồi một bên mà ép mời. Thể-Phụng ngồi dậy không nổi, còn nằm ngửa thì khó ăn. Lê-văn-Ðó thấy vậy bèn đỡ chàng nằm nghiêng qua phía tay trái là mé Thu-Vân ngồi. Thu-Vân mới múc cháo đút cho chàng ăn. Kim-Huê với Tự-Chấn ngó nàng trân-trân rồi lại ngó nhau mà cười chúm-chím. Thể-Phụng ăn cháo rồi nằm nghỉ. Ông Tự-Chấn mời Lê-văn-Ðó với Thu-Vân đi ăn cơm. Ông ngồi ăn mà ông nói chuyện vui vẻ lắm, ông cứ tạ ơn Lê-văn-Ðó hoài. Còn Kim-Huê thì theo nói chuyện với Thu-Vân, hỏi tuổi, hỏi mẹ cha, hỏi cửa nhà, hỏi quê quán. Hỏi tuổi thì nàng nói thiệt, còn mấy đều kia thì nàng nói dối rằng nàng ở vàm Kỳ-Hon, mẹ cha khuất sớm, từ nhỏ chí lớn nàng nhờ ông chú, là Lê-văn-Ðó, nuôi nàng. Ðến xế, Lê-văn-Ðó thấy Thể-Phụng đã khoẻ rồi, ông bèn nói với ông Tự-Chấn và Thể-Phụng đặng ông đi. Thể-Phụng hỏi ông rằng: - Ông đi đâu? - Tôi về bển. - Bên nào? - Về bên Kỳ-Hon, hoặc là về bên Ðịnh-Tường cũng được, bây giờ còn ai ngăn cấm nữa mà sợ. Thể-Phụng nằm suy nghĩ một chút rồi xin ông ngoại bước lại gần mà nói rằng: - Cháu muốn xin với ông một điều, không biết được hôn? - Ðược, được. Cháu muốn xin một chục điều ông cũng cho, chẳng luận là một điều. Miễn là cháu mạnh thì thôi, cháu muốn việc chi cũng được hết. Cháu làm ông sợ quá. Cháu muốn xin ông đứng cưới Thu-Vân cho cháu phải hôn? - Thưa không. - Ủa! Vậy chớ xin việc gì? Cháu muốn cưới thì ông cưới cho, bây giờ ông không cãi nữa đâu. - Thưa, không. Việc ấy là việc trọng, để thủng thẳng chớ, cháu mạnh rồi sẽ tính. Bây giờ cháu xin ông một điều nầy, cháu còn sống mà thấy mặt ông, ấy là nhờ có ông đây cứu cháu, đã cứu cháu khỏi chết, mà lại còn chở mà đưa cháu về đây nữa. Cháu không biết lấy chi mà đền ơn, vậy xin ông cầm ân-nhơn của cháu ở lại đây cho tới ngày cháu lành mạnh rồi cháu sẽ liệu. Tự-Chấn day qua ngó Lê-văn-Ðó mà nói rằng: - Cháu tôi nó muốn như vậy đó, xin ông làm ơn ở lại đây đặng cho nó vui lòng mà uống thuốc. Hôm trước tôi không biết ông với con cháu kia, nên thằng cháu tôi nó về nó nói, tôi tưởng nó khờ dại bị người ta dụ-dỗ, bởi vậy tôi có nói một hai tiếng không phải. Tôi xin ông đừng có phiền. Vì tôi thương cháu nên tôi lo cho nó, chớ không phải tôi hờn giận chi ông. Nay tôi biết ông với con cháu rồi, ông lại có ơn cứu cháu tôi, cũng như ông đã đẻ nó một lần nữa, vậy tôi muốn ông gả cháu ông cho cháu tôi phứt cho rồi, đặng hai anh em mình gần-gũi với nhau mà chuyện vãn cho vui. Kim-Huê nghe nói chuyện hôn nhơn mà như nói chuyện pha lửng, không đợi mai mối chi hết, thì nàng che miệng mà cười. Còn Thu-Vân thì nàng thẹn thùa, nên bước trái ra ngoài cửa mà đứng. Lê-văn-Ðó ngó ngay Tự-Chấn mà nói rằng: - Vì cậu Thể-Phụng có bịnh nhiều, nếu không chiều lòng cậu, sợ e cậu buồn mà sanh bịnh nữa. Vả ngày trước cậu cũng có cứu tôi rồi cậu cũng săn sóc tôi. Vậy thì bây giờ tôi sẵn lòng ở lại đây trước cho cậu vui, sau tôi đền ơn cho cậu. Còn việc hôn nhơn, thì tôi xin ông huỡn-huỡn, ông chẳng nên tính vội, bởi vì ông mới gặp tôi từ hồi sớm mơi tới bây giờ, ông chưa biết tôi cho lắm, mà ông cũng chưa biết tánh nết của cháu tôi, nếu ông vội quá, sợ e ngày sau ông không vui. Tự-Chấn nắm tay Lê-văn-Ðó lại ván ngồi và nói lia-lịa rằng: - Không, không. Hễ cháu tôi nó vui, thì tôi vui. Bây giờ nó đành ai thì tôi cưới nấy cho nó. Ông đừng có ngại chi hết. Lê-văn-Ðó kêu người chèo ghe lên rồi trả tiền cho người ấy về. Tuy Thể-Phụng bi thương nặng mà chàng trai tráng, khí bẩm mạnh mẽ, nên máu ra nhiều mà chàng chịu nổi, rồi lấy sức lại cũng mau. Ðã vậy mà chàng lại mừng hiệp với Thu-Vân một nhà, vui thấy ông ngoại thuận ý, bởi vậy chàng uống có 5 thang thuốc thì ngồi dậy được, còn cái vít thì dán thuốc lần lần cũng gần lành. Ông Tự-Chấn theo hỏi duyên cớ làm sao mà chàng bị vít thương. Mỗi lần ông hỏi thì chàng chau mày, lắc đầu không chịu nói, lần chót chàng đáp rằng: - Tại ông nên cháu mới có cái họa ấy. Bây giờ đã được sum hiệp thuận hòa rồi ông còn nhắc chuyện buồn làm chi nữa. Ông nghe như vậy mới bỏ biệt không hỏi tới việc ấy nữa. Thu-Vân thấy Thể-Phụng gần mạnh rồi thì nàng không gần gũi với chàng nữa, tối ngày nàng cứ lúc-thúc dưới bếp mà giúp Kim-Huê hoặc nấu cơm chế nước, hoặc may áo vá quần. Kim-Huê dòm thấy dung nhan nàng đã tuấn tú, mà tánh nết lại hiền hòa, văn nói có lễ nghĩa, lòng dạ giữ ngay thẳng thì khen Thể-Phụng biết lựa người, mừng cháu trăm năm được hạnh phước. Mới ở chung có ít bữa mà Kim-Huê đem lòng thương Thu-Vân cũng như gần nhau đã mấy năm. Ông Tự-Chấn cũng vậy, tuy ông không nói ra song hễ ông thấy mặt Thu-Vân thì ông ngó rồi vuốt râu mà cười, coi bộ ông vừa lòng đẹp ý lắm. Cả nhà ai cũng vui hết, duy có một mình ông Lê-văn-Ðó tối ngày ông cứ đi thơ-thẩn hoặc sau vườn, hoặc dựa mé sông, ông cố ý tránh không muốn giáp mặt Tự-Chấn với Thể-Phụng. Bữa nào trẻ ở trong nhà đi kiếm mà mời ông về ăn cơm, thì cũng thấy ông chấp tay sau đít, cúi mặt xuống đất, chậm-rãi bước từ bước, khi khoanh tay ngồi dựa bực sông, ngó rác trôi nước chảy. Tại sao ông buồn? Ông tính việc gì? Ai làm Lê-văn-Ðó mà gặp cái cảnh như vầy cũng buồn, phải tính. Từ nhỏ chí lớn ông không có vợ con. Ông vì cái nghĩa mà cực khổ lo lắng nuôi Thu-Vân trót 10 năm; cái tình thương của ông bao nhiêu ông chăm chú cho nàng Thu-Vân hết thảy. Thuở nay ông thương nàng, mà vì sự thương ấy nên ông lo hoặc làm cho nàng được hiệp với cha, hoặc kiếm nơi xứng-đáng mà gả nàng, đặng khi ông chết rồi nàng có nơi nương dựa, sum hiệp với cha, tại Hải-Yến làm cha vô đạo, nên đã chẳng thành rồi. Còn sự gả lấy chồng, may gặp Thể-Phụng làm chồng xứng-đáng, ông an lòng phỉ dạ lắm. Tuy vậy mà công dưỡng nuôi dạy dỗ, tình gần gũi thương yêu hơn 10 năm, ngày nay nàng lấy chồng, tự nhiên nàng phải phân cách ông, nghĩ tới việc đó làm sao mà không buồn cho được. Còn ông tính là tính coi hễ gả Thu-Vân lấy chồng rồi ông làm gì. Ngày nọ ông có hứa với Ánh-Nguyệt rằng ông sẽ hết lòng lo bảo bọc Thu-Vân. Nay Thu-Vân đã khôn lớn, đã lấy chồng, thì cái trách nhiệm của ông cũng đã hoàn toàn rồi. Ông là người não nề phong tục, ngao-ngán cuộc đời; bấy lâu nay ông nhờ lãnh cái trách nhiệm nuôi Thu-Vân, nên ông mới vui lòng mà lăn lộn với trần tục. Hôm nay cái trách nhiệm ấy đã hết rồi, thì có cái gì chủ-hướng nữa mà vui được. Ban đầu ông tính ở chung với vợ chồng Thu-Vân, mà rồi ông nghĩ thuở nay ông quen thấy Thu-Vân thương yêu có một mình ông, nếu nàng có chồng rồi mà ông còn ở chung nữa, thì ông sẽ thấy cái tình thương của nàng nó sẽ chia bớt cho một người khác, dường ấy chắc là ông phải đau đớn lắm, bởi vậy thà là ông xa lánh trước thì hay hơn. Ông muốn trở về chùa Bình-An-Tự mà tu, mà ông lại nghĩ ở đó xa Thu-Vân quá, đến lúc nhớ nàng không biết làm sao mà thăm được. Vì vậy nên mấy bữa rày ông lo tính hoài, mà ông chưa nhứt định. Thể-Phụng nằm đúng 20 ngày cái vít mới thiệt lành. Tự-Chấn thấy chàng ra vô trong nhà được thì mừng rỡ, nên biểu Kim-Huê làm một con vịt nấu cháo cho ông cúng các đảng. Ðến chiều Thể-Phụng thấy ông ngoại đương ngồi nói chuyện với Lê-văn-Ðó, chàng bèn bước lại nói rằng: - Thưa ông, bữa nay cháu đã mạnh rồi, vậy xin ông cho phép cháu tỏ việc của cháu một chút. - Ừ, cháu muốn nói việc gì thì nói. Nói việc cưới vợ phải hôn? - Thưa phải. - Việc đó thì ông chịu rồi. Bây giờ cháu có nói thì nói với ông chú đây. Hễ ông bằng lòng cho cưới ngày nào thì ông cưới ngày nấy. - Thưa ông, về phần ông chú về sau cháu sẽ nói. Bây giờ cháu xin thưa với ông rằng ngày trước cháu xin cưới nàng Thu-Vân thì ông rầy la, nói cháu ngu dại bị người ta dụ dỗ. Ngày nay ông đã thấy mặt, ông đã biết tánh nàng rồi, nếu cháu xin cưới nàng chẳng biết ông có vừa lòng hay không? - Ông đã nói hễ cháu muốn chỗ nào thì ông cưới chỗ nấy, ông không ngăn cản nữa mà. - Ðã biết ông không ngăn cản, mà cháu cưới nàng Thu-Vân ông có vui lòng hay không chớ? - Ông còn kén chọn ai hơn nữa? Hôm trước ông không biết nàng nên ông rầy-rà; bây giờ ông biết rồi, nếu cháu được vợ như vậy thì cháu có phước lắm, sao mà ông không vui lòng. Ông Tự-Chấn day qua nói với ông Lê-văn-Ðó rằng: - Bữa nay cháu tôi nó mạnh rồi. Vậy xin anh định coi ngày nào làm lễ cho hai trẻ thành hôn với nhau. Tôi xin anh thương cháu tôi, anh cho phép tôi làm đơn sơ vậy thôi, chớ đừng có mai dong lục lễ rình rang quá. Chẳng biết anh có chịu vậy hay không. Lê-văn-Ðó ứa nước mắt mà đáp rằng: - Anh với cậu Thể-Phụng sẵn lòng thương cháu tôi, muốn thế tôi bảo bọc nó, thiệt tôi cảm ơn lắm. Tuy vậy mà tôi còn ngại một điều. Ông Tự-Chấn liền hỏi: - Anh ngại việc gì? - Con cháu tôi côi-cúc. Vì mẹ nó khuất sớm, nên từ nhỏ chí lớn không có ai dạy nữ-công nữ-hạnh. Tôi nuôi nó thì nuôi cho nó nên vai nên vóc vậy thôi, chớ tôi làm sao mà dạy con gái cho được. Ngày nay nó lấy chồng tôi sợ e nó thưa thớt trong đạo làm dâu lắm. Ðã vậy mà anh là bực giàu có, còn tôi đây là kẻ nghèo hèn, tôi còn ngại nỗi sui gia không xứng với nhau nữa. - Anh đừng có lo. Như con cháu còn khờ dại, thì thủng thẳng con gái tôi dạy dỗ nó. Còn việc giàu nghèo, cái đó tại trời, có lẽ nào tôi thấy anh nghèo hơn tôi mà tôi khinh anh hay sao. Anh có công cứu mạng thằng cháu tôi, cái ơn ấy dầu tiền muôn bạc vạn cũng khó sánh kịp. Xin anh đừng có ngại chi hết. Thể-Phụng lại tiếp nói rằng: - Thưa ông, tôi với ông đã biết bụng nhau rồi. Tôi xin ông đừng có lấy cái thói thường của thiên-hạ mà tưởng tôi cũng như họ. Ông đã biết tôi chuộng nàng Thu-Vân, tôi kính trọng ông, ấy là tôi vì cái nghĩa chớ không phải tôi vì đều [8] chi khác. Mà tôi tưởng bấy lâu nay ông thương tôi, nàng Thu-Vân không chê tôi, ấy cũng là vì cái chi khác chớ không phải vì đồng tiền. Vậy tôi xin ông sớm liệu cho hai cháu kết tóc trăm năm với nhau, chớ đừng có kiên dè ái-ngại chi nữa. Ông Lê-văn-Ðó ngồi lặng thinh, cứ ngó ngay ra ngoài sân, mà hai hàng nước mắt chảy ròng-ròng. Ông tính với Tự-Chấn và Thể-Phụng để ông cất một cái nhà nhỏ-nhỏ ở gần rồi sẽ định ngày làm lễ cưới. Ông Tự-Chấn liền nói rằng ông nhiêu Khoa chết một năm rồi, ông không có con cháu chi hết, nên cái nhà bỏ hoang từ ấy đến nay. Ông lại nói cái nhà ấy còn tốt, nếu lợp sửa chút đỉnh thì ở được. Sáng bữa sau ông Tự-Chấn dắt ông Lê-văn-Ðó đi coi cái nhà của ông nhiêu Khoa. Ông Lê-văn-Ðó coi rồi thì ông vừa ý lắm. Ông Tự-Chấn liền hối bạn đốn tre lá mà sắp nóc cặp vách làm cửa lại cho chắc chắn. Cái nhà sửa gần rồi, ông Lê-văn-Ðó mới xin gởi Thu-Vân ở lại, đặng ông mướn ghe đi chở đồ đạc đem qua dọn mà ở. Ông đi không đầy 10 ngày thì ông trở qua, có đồ đạc đủ hết. Ông dọn dẹp xong rồi, mới đem Thu-Vân về nhà mới mà ở. Thể-Phụng đã lành cái vít rồi, trong mình đã mạnh mẽ lại như xưa. Một buổi sớm mơi, chàng đi với ông ngoại lại nhà Lê-văn-Ðó mà thăm và xin ông định ngày làm lễ cưới. Lê-văn-Ðó không dục-dặc nữa; ông lại định cho cưới một lần mà ông cũng không đòi tiền bạc chi hết. Gần đến ngày cưới, ông bèn nói với Thu-Vân rằng: - Việc gả cháu lấy chồng là phận sự của cha mẹ cháu, chớ không phải phận sự của ông. Rủi thay, cháu không có cha mẹ, nên ông phải thế đó. Vậy ông khuyên cháu hễ về nhà chồng rồi thì phải lo thờ chồng, phải cung kỉnh ông, cô, phải liệu làm thế nào cho một ngày kia ông chết xuống cửu tuyền, ông gặp mẹ của cháu, ông khỏi hổ ngươi, và ông dám nói chắc với mẹ của cháu rằng -- "Cái kiếp của cháu thung-dung, chớ không phải khổ não như kiếp của mẹ cháu hồi trước." Thu-Vân nghe nhắc tới mẹ thì nàng động lòng nên ngồi khóc thúc-thích. Nàng khóc một hồi rồi nàng vùng nói rằng: - Cháu nhớ tới mẹ cháu chừng nào, cháu càng oán cha cháu chừng nấy. Ông ngó ngay nàng mà đáp rằng: - Làm con không nên oán cha mẹ. Nếu cha mẹ có quấy thì cha mẹ chịu hình phạt, phận làm con phải kính trọng kẻ sanh thành. Dầu cha cháu có ở bậy cho mấy đi nữa, thì cháu cũng nhờ có người đó nên mới sanh được, sao cháu không biết ơn, lại trở mà oán. - Cháu có cầu sanh cháu làm chi đâu! Sanh cháu đặng ô danh xủ tiết của mẹ cháu, chớ sanh mà ích gì. Ông muốn lấy chánh đạo ông dạy cháu, nên nói như vậy, chớ theo ý cháu nghĩ thì cha cháu không có ý muốn sanh cháu chút nào hết. Người quyết mua vui mà thôi, không kể việc chi khác nữa. Mua vui rồi để cho một người đờn-bà phải nhơ-nhuốc, để cho một đứa con nít phải bơ-vơ, người bất-nhơn đến thế, cháu oán chưa đáng hay sao? - Bởi bất nhơn nên mới táng mạng. - Ông nói ai táng mạng? - Từ-hải-Yến chớ ai. - Úy! Chết hồi nào? Sao ông hay? - Lãnh dẹp giặc Bình-Cách, bị giặc giết .... - Thiệt vậy hay sao? Té ra cha tôi chết rồi? Thu-Vân biến sắc, ngồi ngó Lê-văn-Ðó trân-trân. Cách một hồi lâu nàng hỏi nữa rằng: - Hồi quân giết cha tôi đó, chồng tôi có hay không? - Không. Hải-Yến bị binh của Ðoàn-Hùng giết rồi cắt đầu bêu trước trại. Chừng ông gặp Thể-Phụng ông cho cậu hay, cậu lật-đật đi xin Ðoàn-Hùng mà lãnh đầu rồi đem chôn cất. - Nếu vậy chồng tôi không có can thiệp chi đến sự giết cha tôi há? Xin ông nói thiệt dùm việc đó cho tôi rõ. - Không. Thể-Phụng không hay. Chừng chàng hay thì việc đã lỡ rồi. Ông chắc trời phạt Hải-Yến nên mới khiến như vậy, chớ chi mà gặp Thể-Phụng, thì chàng nỡ nào mà giết quan thầy của chàng. Thu-Vân nghe nói như vậy thì an lòng, song nàng ngồi buồn so, tuy không tỏ dấu thương tiếc cha nhưng mà nàng cũng không nói chuyện oán hận cha nữa. Ðến ngày cưới, giữa đám có đủ mặt hai họ, Lê-văn-Ðó đem ra một trăm chín chục nén bạc mà sắp trên ghế nghi [9] rồi nói với Thể-Phụng và Thu-Vân rằng: - Ngày mẹ của con Thu-Vân chết, có cậy ông nuôi dùm con Thu-Vân, nó lại giao cho ông 200 nén bạc. Trong mười năm nay ông lo nuôi dưỡng con Thu-Vân nên hao mòn hết mười nén, còn có 190 nén mà thôi. Ngày nay hai cháu đã thành hôn rồi, vậy ông giao số bạc của mẹ cháu gởi hồi trước lại cho hai cháu, chớ ông không phép giữ nữa. Ông Ðàm-tự-Chấn chưng-hửng, vì ông tưởng Thu-Vân bần cùng, không dè có của nhiều như vậy. Những người đến dự đám cưới ai thấy nàng có bạc nhiều cũng trầm trồ. Thu-Vân vẫn biết mẹ mình hồi trước nghèo khổ, đến nỗi gởi mình cho Ðỗ-Cẩm nuôi rồi không có tiền mà chuộc, có lý nào bạc nhiều như vậy mà gởi cho ông, bởi vậy nàng nghe ông nói mấy lời thì biết ông nói dối, nên nàng thưa rằng: - Thưa ông, cháu biết mẹ cháu đâu có tiền bạc mà gởi cho ông nhiều dữ vậy. Cháu chắc ông thương vợ chồng cháu, ông muốn cho, song ông sợ vợ chồng cháu không lãnh, nên ông nói như vậy chớ. Lê-văn-Ðó ứa nước mắt, ông chưa kịp trả lời, thì Thể-Phụng tiếp mà nói rằng: - Thưa ông, bạc nầy cháu không dám lãnh. Xin ông để mà dùng. Ví dầu bạc nầy thiệt của nhạc mẫu cháu để lại đi nữa, thì cái công ông nuôi dưỡng vợ cháu cho đến khôn lớn đây há không hơn của ấy hay sao. Ông già yếu rồi, vậy xin ông giữ số bạc đó mà dùng. Vợ chồng cháu còn trẻ, để vợ chồng cháu lo làm ăn, không nên giúp bạc tiền nhiều quá như vậy. Lê-văn-Ðó cứ chối cãi, nói rằng bạc ấy thiệt của Ánh-Nguyệt để lại. Ông ép vợ chồng Thể-Phụng phải lãnh, nếu không chịu lãnh thì ông đi biệt, không cho gặp mặt ông nữa. Vợ chồng Thể-Phụng sợ trái ý ông rồi ông phiền, nên cực chẳng đã phải lấy bạc mà cất. Thu-Vân có chồng đi theo chồng. Lê-văn-Ðó ở một mình quạnh hiu. Thể-Phụng thấy vậy mới mướn một đứa con trai 15 tuổi, tên thằng Quít, để ở nấu cơm nấu nước cho ông. Mỗi buổi sớm mơi, hễ ăn cơm rồi thì Lê-văn-Ðó lại nhà ông Tự-Chấn mà thăm ông một lát. Mỗi buổi chiều Thể-Phụng cũng qua nhà ông mà nói chuyện chơi cho ông giải buồn. Vì ông qua lại hoài, nên năm bảy bữa Thu-Vân mới về thăm nhà ông một lần mà lần nào về cũng thấy ông vui vẻ như thường. Thiệt Lê-văn-Ðó làm hoàn toàn trách nhiệm, thì trong lòng ông vui vẻ lắm. Nhưng mà chẳng hiểu vì cớ nào, từ ngày ông gả Thu-Vân lấy chồng rồi, lần lần thân thể ông ốm o gầy mòn. Vợ chồng Thể-Phụng thấy vậy sợ ông bịnh, nên tính rước thầy hốt thuốc cho ông uống. Ông kháng cự không chịu uống thuốc, cứ nói ông không có bịnh chi hết. Cách vài tháng ông không đi thăm vợ chồng Thể-Phụng được nữa, ráng lắm thì ra vô trong nhà mà thôi. Vợ chồng Thể-Phụng lo sợ nên xin phép ông Tư-Chấn rồi về ở chung mà nuôi dưỡng ông. Lê-văn-Ðó không có bịnh, song thân thể càng ngày càng khô lần lần, khô riết rồi ngồi không nổi, cứ nằm ngửa trên giường hoài. Tuy vậy mà ông tỉnh-táo, chớ không mê-muội chút nào hết. Một đêm nọ Thể-Phụng với Thu-Vân ngồi bên ông mà đút cháo cho ông ăn. Ông biểu Thu-Vân lấy bộ chén với cái bình trà của Hòa-Thượng Chánh-Tâm hồi trước mà để bên mình ông. Ông day mặt ngó mấy vật ấy một hồi rồi nói rằng: - Ông nhờ vật nầy nên mới trở ra người phải. Vậy ông giao lại cho hai cháu giữ lấy. Ông biết nay đã tới ngày ông quy tiên rồi. Vậy ông khuyên hai cháu ở lại dương trần phải thương yêu nhau. Ông nói tới đó rồi ông ngừng lại, chắp hai tay trên ngực, mắt ngó sững trên mái nhà. Thu-Vân cảm động trong lòng nên nước mắt tuôn dầm-dề. Ðêm khuya thanh tịnh tư bề vắng tanh. Vợ chồng Thể-Phụng cứ ngồi nhìn mặt ông mà khóc, chớ không nói chi được hết. Ông ngó trên mái nhà một hồi rồi ông ngó Thu-Vân, coi bộ ông muốn nói chuyện chi nữa, mà ông nói không được. Cách một hồi lâu ông ráng mà nói mấy tiếng: - Thôi, ông đi, rồi ông nhắm mắt. Thể-Phụng với Thu-Vân rờ mình ông thì tay chơn đều lạnh ngắt, kê tay vào lỗ mũi thì hơi thở của ông cũng đã dứt rồi. Vợ chồng vùng khóc rống lên và kêu ông om sòm. Lê-văn-Ðó mở mắt ngó Thu-Vân với Thể-Phụng miệng chúm-chím cười rồi nhắm mắt lại mới chịu tắt hơi luôn. Thôi rồi một đời người hảo tâm mà chịu khốn khổ! Thể-Phụng với Thu-Vân vì cái tình tríu mến nên thương tiếc mà khóc chớ không dè Lê-văn-Ðó là người gì. Chú thích : [7] nhổ bỏ cỏ dại [8] điều [9] một loại bàn nhỏ, cao hơn bàn thường, dùng làm chỗ để khai trầu hay để món ăn trong lúc dọn tiệc

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: