NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ

I. Tác giả

1. Cuộc đời:

- Nguyễn Tuân (1910 – 1987) quê làng Nhân Mục, quận Thanh Xuân, Hà Nội.

- Ông là cây bút hàng đầu của nền văn xuôi lãng mạn trước cách mạng tháng Tám; cây đại thụ của văn xuôi hiện đại Việt Nam; nhà truyện ngắn, tùy bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.

- Từ nhỏ ông theo gia đình sống ở miền trung. Nguyễn Tuân học hết bậc Thành chung (tương đương cấp THCS hiện nay) ở Nam Định, sau dời về Hà Nội viết văn và làm báo.

- Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân đến với cách mạng, tự nguyện dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. Ông trở thành cây bút tiêu biểu của văn học cách mạng, say sưa viết về cuộc sống mới, khám phá hình ảnh con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến cũng như trong xây dựng.

- Năm 1966, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1.

2. Con người:

- Ông là người tri thức giàu lòng yêu nước và có tinh thần dân tộc.

- Ông là người có tính tình phóng khoáng, ý thức cá nhân phát triển rất cao: viết văn trước hết để thể hiện cá tính độc đáo của mình, thích du lịch, thích cuộc sống tự do.

- Là con người rất mực tài hoa và uyên bác thể hiện ở sự am hiểu nhiều ngành nghệ thuật khác nhau (hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh,...) thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả nghệ thuật văn chương.

- Là nhà văn thực sự quý trọng nghề viết văn, đối với ông, nghệ thuật là một sự "khổ hạnh" đúng nghĩa.

3. Sự nghiệp văn học:

a. Trước cách mạng tháng Tám:

- Nguyễn Tuân thường hướng đến ba mảng đề tài:

+ Chủ nghĩa xe dịch: Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hương (1940),...

+ Vẻ đẹp vang bóng một thời: Vang bóng một thời (1940), Tóc chị Hoài,...

+ Đời sống trụy lạc: Chiếc lư đồng mắt cua (1941)

- Ở ba mảng đề tài, nhà văn thường tập trung vào những gì đập mạnh giác quan nghệ sĩ của mình, những gì đem lại cho ông cảm giác mới lạ, mạnh liệt "Tôi muốn mỗi ngày trong cuộc sống của tôi phải cho tôi cái say của rượu tối tân hôn" (Một lá thư không gửi)

- Khai thác ba mảng đề tài, bên cạnh những mặt tiêu cực, tác phẩm cũng có những mặt tích cực, lành mạnh, thể hiện lòng yêu nước, tinh thần dân tộc của nhà văn:

+ Trên đường xe dịch, ông ghi chép lại phong cảnh quê hương, đất nước một cách tài hoa.

+ Quy về quá khứ, ông phát hiện ra chất tài hoa nghệ sĩ của người xưa.

+ Trong đời sống trụy lạc, ông thể hiện tâm trạng khát khao vươn tới một cái gì đó thanh cao, trong trẻo nhờ đôi cánh của nghệ thuật

b. Sau cách mạng tháng Tám:

- Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc là động lực khiến ông nhiệt tình chào đón cách mạng và đem ngòi bút của mình phục vụ hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và công cuộc xây dựng CNXH (Đường vui – 1949, Tình chiến dịch – 1950, Sông Đà – 1960, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi – 1972,....

- Nguồn cảm hứng của Nguyễn Tuân là cái đẹp có tác động mạnh mẽ tới giác quan người nghệ sĩ, nhưng là cái đẹp của non sông, gấm vóc và những phẩm chất cao quý của nhân dân lao động trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Giọng văn trong thời kì này là tin yêu, đôn hậu, ca ngợi...

II. Phong cách nghệ thuật

Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách nghệ thuật độc đáo và đặc sắc.

- Tài hoa và uyên bác trên từng trang viết.

- Đi nhiều nơi, rất chú ý tìm tòi và quan sát, lại rất giàu cảm xúc, Nguyễn Tuân là một nhà văn say đắm thiên nhiên đến kì lạ.

- Là một nhà văn luôn khao khát tìm kiếm những cảm giác say mê mới lạ.

- Phong cách tự do phóng túng cũng như ý thức sâu sắc về cái tôi đưa Nguyễn Tuân đến với thể tùy bút như một điều tất yếu.

 Với những đóng góp phong phú, độc đáo cho nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân xứng đáng được tôn vinh là một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn.

III. Hoàn cảnh sáng tác - xuất xứ:

Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được trích in trong tập Sông Đà, xuất bản năm 1960. Đây là kết quả của nhiều dịp Nguyễn Tuân đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Tác phẩm này tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác sau cách mạng tháng Tám của Nguyễn Tuân. Nó thể hiện "độ chín mới về tư tưởng và nghệ thuật" (Nguyễn Đăng Mạnh).

IV. Đọc - hiểu văn bản

1. Hình tượng con sông Đà:

a. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội – tính cách hung bạo, dữ dằn:

- Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:

+ Hùng vĩ của sông Đà không phải chỉ có thác đá.

+ Những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời.

+ Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.

+ Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

+.....

 Sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận, dùng nhiều hình ảnh so sánh để khắc họa chất hùng vĩ, hiểm trở của sông Đà.

- Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

+ Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà...

+ Quảng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

 Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

- Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

+ Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.

+ Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.

+ Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

+...

 Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

- Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:

+ Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.

+ Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo...rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.

+ Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông:

• Đàm tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền.

• Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,....

+ Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ ve oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.

+ Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.

+ Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...

+....

(* Lưu ý: Khi đề ra dạng này thường thì sẽ cho đoạn văn và các em lấy dẫn chứng trong đoạn văn đó hoặc nên học thuộc một vài dẫn chứng tiêu biểu. Đây là một số dẫn chứng trong bài)

 Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.

=> Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi, không chỉ hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, nó đã trổ đủ mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử.

=> Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo...Sông Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình:

- Trữ tình, thơ mộng ở dòng chảy của sông Đà:

+ Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình.

+ Đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương Xuân.

 Dòng chảy của con sông, một dòng chảy duyên dáng, tuôn dài như một áng tóc trữ tình của một thiếu nữ kiều Diễm.

- Chất thơ còn hiện diện, nơi màu nước thay đổi theo mùa, nơi mặt nước sáng lóe:

+ Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích chứ nước sông Đà không xanh màu xanh cánh hến của Sông Gâm, sông Lô.

+ Mùa thu nước sông Đà lừ lừ đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.

+ Cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi.

- Đẹp nhất, thơ một nhất phải kể đến triền sông phía hạ nguồn, nơi thiên nhiên thơ mộng và hoang sơ như một bờ tiền sử:

+ Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà.

+ Cảnh ven sông ở đây lặng như tờ. Hình như từ thời Lí Trần Lê, quãng sông này cũng lặng đền thế mà thôi.

+ Thuyền trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa...Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cuối đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm.

+ Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa.

+ Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi.

 Cảnh thiên nhiên sông Đà hiện lên qua khỏi những dòng thác đá thật trữ tình, thơ mộng, giàu chất thơ đậm màu sắc cổ điển.

2. Hình tượng người lái đò

a. Tên tuổi, lai lịch, nguồn gốc:

- Người lái đò: tác giả không nêu tên tuổi, lai lịch, nhân vật không có tên cụ thể dụng ý tác giả nói đến những con người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, chân chất.

- Chính vì họ là những người lao động bình dị, vô danh nhưng nhờ lao động, nhờ đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà họ trở nên lớn lao, kì vĩ - những người anh hùng trong lao động.

b. Ngoại hình:

- Cái đầu bạc quắc thước với một thân hình to cao và gọn quánh nhuu chất sừng chất mun.

- Tay ông lêu nghêu như một cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại.

 Một người lao động bình thường, hiền lành, khỏe mạnh với nét ngoại hình đặc trưng nghề lái đò.

c. Người lao động bình dị, kinh nghiệm, dũng cảm, ngoan cường, quyết tâm trên sông nước:

- Am hiểu từng thác nước sông Đà, từng quân đá, tướng đá, thuộc từng luồng nước, cửa sinh, cửa tử:

+ Ông lái đã nắm chắc pháp binh của thần sông, thần đá.

+ Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này.

+ Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật.

- Trước cả một chân trời nước, đá, sóng, gió cùng hòa ca tạo nên một âm thanh khủng khiếp, ông vẫn bình tĩnh, mưu trí, nghị lực, chịu đựng để ra lệnh cho con đò vun vút lao qua:

+ Ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo bẹch đi....

+ Cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ.

+ Nắm chặt lấy được cái bườm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy buồng nước mà phóng nhanh vào cửa sinh,...

 Bằng kinh nghiệm, tài năng, ý chí quyết tâm, nghị lực, sự ngoan cường ông đò mặc cho những miếng đòn thâm hiểm độc nhất của sóng thác, ông vẫn bình tĩnh đưa con thuyền của mình vượt qua ba vòng đấu để vượt thác an toàn.

d. Người nghệ sĩ tài hoa:

- Phong thái ung dung, bình tĩnh, mưu trí khi chèo đò vượt thác.

- Ông khôn ngoan vượt qua mọi cạm bẫy của thác ghềnh và đưa con thuyền về đích an toàn.

- Khi con đò và người lái như hòa làm một khiến ta tưởng như con thuyền vừa tự động lái được, lượn được.

- Khi con đò vượt thác an toàn, ông lại cùng các bạn đốt một đống lửa, nướng ống cơm lam và trò chuyện về những con cá anh vũ, cá dầm xanh,...như chưa từng có cuộc chiến đấu sinh tử với dòng sông.

 Người lái đò là bình thường nhưng khi chiến đấu là một vị tướng tài ba, người nghệ sĩ tài hoa, dũng cảm, ngoan cường, tài trí, ý chí quyết tâm, giàu nghị lực.

=> Ca ngợi vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng được thể hiện trong con người bình thường là chở đò trên sông, thể hiện cái đẹp trong hiện tại và ngay giữa đời thường. Người lái đò sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh thần thánh của dòng sông hung bạo. Đấy là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của cả những con người lao động nói chung.

3. Vài nét nghệ thuật:

- Cái tôi tài hoa, uyên bác.

- Cách tiếp cẫn đối tượng từ góc độ thẩm mĩ, cách tiếp cận con người từ góc độ tài hoa, nghệ sĩ.

- Cách miêu tả đối tượng từ nhiều phía với nhiều góc độ, nhiều kiến thức của các ngành khoa học, nghệ thuật khác nhau: điện ảnh, địa lí, quân sự, hội họa, thể thao,...Điều đó mang đến một thông tin phong phú, một vốn tri thức sâu rộng.

- Sự sáng tạo hết sức độc đáo trong ngôn ngữ kể, tả, hình ảnh ví von, so sánh vừa chính xác, vừa mới lạ bất ngờ.

- Sử dụng các biện pháp nhân hóa, so sánh, biến hóa trong cách đặt câu, dùng từ, có giá trị tạo hình, gợi cảm phong phú.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip