6.1 | Rất nhiều ánh lửa (1976) - Hoàng Phủ Ngọc Tường

SGK

  Cuối buổi chiều, Huế thường trở về trong một nỗi yên tĩnh lạ lùng, đến nỗi tôi cảm thấy hình như có một cái gì đang lắng xuống thêm một chút nữa trong thành phố vốn hằng ngày đã rất yên tĩnh này. 

(trích) 

--------------------------------------------------------------- 

Cuối buổi chiều, Huế thường trở về trong một nỗi yên tĩnh lạ lùng, đến nỗi tôi cảm thấy hình như có một cái gì đang lắng xuống thêm một chút nữa trong thành phố vốn hằng ngày đã rất yên tĩnh này. Mùa thu gió thổi mây về phía cửa sông, mặt nước phía dưới cầu Trường Tiền đen sẫm lại, trong khi phía trên này lên mãi gần Kim Long, mặt sông sáng màu ngọc lam in những vệt mây hồng rực rỡ của bầu trời buổi chiều. Hình như con sông Hương rất nhạy cảm với ánh sáng, nên đến lúc tối xuống hẳn, đứng trên cầu chăm chú nhìn xuống người ta vẫn thấy những mảng sắc đỏ mơ hồ ửng lên như một thứ ảo giác trên mặt nước tối thẫm của nó. Phố ít người, con đường ven sông như dài thêm ra dưới vòm lá xanh của hai hàng cây, và tôi thường nhận ra một vài cô gái quen mặt, không biết tên, hình như có thói quen chọn giờ ấy để đạp xe đi chơi loáng thoáng một vòng trên những đường phố chợt vắng.

Khoảng mười phút sau khi buổi học bắt đầu, tôi chợt cảm thấy bỡ ngỡ như vừa bắt gặp một điều mới lạ. Tôi thấy tôi bị lôi cuốn vào không khí của một lớp học thực sự, giống như bất cứ nơi nào trên trái đất này, con người đã từng có một nơi gọi là nhà trường, từ đó nhân loại khởi đầu cuộc hành trình vô tận của nó để đi tới những nền văn minh. Tôi cảm thấy điều đó một cách rất tự nhiên, dù ở đây những người học trò đang ngồi bệt giữa nền xi-măng, và bàn học thì làm bằng những bao cát chồng lên nhau, dù những người có mặt ở đây đều đã bị mất tuổi đến trường quá lâu, và mới lúc nãy ngoài bến đò, tôi còn nỗi e ngại rằng có thể họ không còn quan tâm gì đến chuyện học hành nữa hết. Ðang là giờ tập viết, thầy giáo Thi nắn nót những chữ màu trên bảng, và một cô giáo trẻ khác - hình như là một sinh viên - đi vòng chỗ này sang chỗ khác, cầm tay đưa đẩy giúp những người mới tập viết. Tôi nhận ra chú Mời ngồi ở bàn thứ hai gần ngoài hiên, mặc chiếc áo cộc tay đã bạc mầu, hở mấy khuy cổ. Cánh tay lực lưỡng với những ngón tay ngắn và to như quả chuối của chú như nuốt mất mẩu phấn chú đang cầm. Chú ấn thực mạnh viên phấn lên tấm bảng gỗ nhỏ, chậm chạp kéo đi từng nét chữ xiên xẹo, gãy khúc, đến nỗi tôi có cảm tưởng hình như viên phấn có một sức mạnh nào đó gắn chặt vào mặt bảng, và chú đang cố sức để đẩy nó đi, đầu lưỡi của chú thè ra một bên góc mép. Bên cạnh chú, một đứa bé độ chín, mười tuổi đang tập viết trên vở, nét chữ khá đều và thẳng hàng. Nó ngồi trên một viên táp lô, cánh tay ngắn ngủn của nó duỗi ra đè lên trang vở để khỏi bị gió lật. Với chiếc đầu trọc và cái mông tròn trong chiếc quần cộc chật ních, thằng bé mải miết vào công việc của nó, toàn thân nó ôm lấy cái bàn làm bằng bao cát, trông nó giống như một con mối cù đày đang bám riết lấy mặt đường. Trên những đôi má hóp, những vầng trán nhăn, những ngón tay lóng cóng của những học viên, hình như toát ra một nghị lực thật phi thường của mỗi người để cố nắm lấy từng chữ cái vỡ lòng. Ðêm xóm Cồn tĩnh mịch đến nỗi tôi nghe cả tiếng sóng vỗ ì ọp đều đều quanh thềm lớp học. Và nếu những ánh đèn lù mù thưa thớt ở sau những lùm te kia cũng tắt nốt, thì người ta sẽ có cảm giác lạ lùng này, là có một lớp học đang được mở trên một hòn đảo hoang nào đó, giống hệt như một hòn đảo của Robinxơn. Ðúng như thế. Chỉ cách có hai chuyến đò ngang, cái xóm Cồn này từ bấy lâu đã là một hòn đảo bị bỏ hoang về văn hóa, giữa một thành phố đại học, thậm chí còn có nhiều thế hệ dân vạn đò đã nối tiếp nhau sống trong bóng tối mù chữ. Mãi đến tối nay, khi đứng nhìn những người học viên đủ các lớp tuổi đang bắt đầu bài học vỡ lòng với một vẻ quyết tâm chưa từng thấy, tôi mới phát hiện ra điều nghịch lý ấy, mặc dù tôi đã sinh ra và lớn lên ở thành phố này, và tôi vẫn tự hào rằng tôi đã đi cùng với Huế trong tận nỗi thủy chung của tâm hồn, Huế như một tình yêu lớn của đời tôi. Vâng, có lẽ cho đến bây giờ, tôi chưa thật đã yêu Huế hết lòng. Thằng bé ngồi bên cạnh chú Mời chợt ngoảnh ra, ngậm đầu bút chì trong miệng, ngó tôi chăm chăm một lúc. Rồi hình như nó đã quên tôi ngay lúc ấy, cúi xuống trang vở trong tư thế của một mối chỉ bận tâm với công việc của nó. Tôi cảm thấy cái nhìn của thằng bé như một lời trách móc lặng lẽ đối với tôi, và ý nghĩ ấy làm cho tôi se lòng.

Có tiếng cả lớp cười ồ. Tôi nhìn lại, thấy chú Mời đang nhìn lên bảng tập đánh vần...

- Bờ... u... bu... ô... i... buôi hỏi buổi. Mờ... a... ma... i... ai là mơi. Buổi mơi.

Cả lớp cười ầm, thầy giáo Thi cũng cười, nhịp thước lên bảng để ra lệnh mọi người giữ trật tự. Chú Mời gãi gãi đầu, lính quýnh, đâm ra lịu giọng với cái chữ buổi mơi của chú, và thầy giáo đã nhắc lại cho chú. Thắng bé ngồi bên cạnh ngửa cổ cười sằng sặc làm chú Mời nổi cáu:

- Mi giỏi, răng không đọc đi.

- Mai mà bọ cứ đọc mơi.

- Buổi mai và buổi mơi là mấy buổi... Hừ... hừ... Giữ năm con vịt không nên thân, để mất hết hai mà cũng đòi làm thầy người ta.

Mọi người lại cười vang lên:

- Chết cười với hai cha con ông Mời.

Thằng bé cụt hứng, xịu mặt xuống, quay lại chỗ, ngậm đầu bút chì vào miệng.

Chú Mời cũng cười theo, đằng hắng và đọc lại thật to hai chữ "buổi mai".

Nghĩ một lát, Thi đến ngồi bên cạnh chú Mời, nhón lấy một ít thuốc trong cái bao chuối của chú và vấn thành điếu sâu kèn. Vừa hút, Thi vừa giảng lại cho chú Mời cách phân biệt vần ai và vần ơi: "ai, hoa mai - ơi, cái tơi - nhớ lấy ai ơi".

Tôi đến bên một bà cụ móm mém, tóc bạc, đầu chít khăn lụa. Hỏi tuổi, mệ nói mệ đã gần bảy mươi.

- Mệ đi học có đều không?

- Hồi trước, tổ ép lắm tôi mới đi học. Bữa ni thì đau ốm tui mới nghỉ. Phật cho còn sức, tui không bỏ lớp.

Tôi muốn hiểu bà cụ thêm một chút. Tôi hỏi mệ:

- Học hành vất vả quá mệ hỉ? Mà mệ thấy học có ích lợi chi không?

Mấy cậu thanh niên ngồi gần đấy quay lại, nhao nhao:

- Lợi thì có lợi... chú ơi!

- Ông đi làm thợ mộc ngoài Ðông Hà. Mệ học chữ để viết thư cho ông đó chú.

Bà cụ phát vào vai một cậu:

- Ðồ nhất quỷ nhì ma...

Mệ với ra ngoài thềm nhổ bãi nước trầu, nói với tôi:

- Không phải tui ham đua bơi với đám thanh niên. Nói chú đừng cười. Có điều tôi muốn biết chữ, đọc đi tờ báo để hiểu thời cuộc. Cách mạng về cái chi cũng mới, phải hiểu mới làm được. Mình không đủ sức làm thì đôn đốc con cháu hắn làm. Chú cũng đi dạy à? Tui chưa từng thấy ai giỏi như ông nớ.

- Mệ nói ai?

- Chú Thi đó.

Mệ kể cho tôi nghe chuyện Thi vận động bà con đi học. Lúc đầu, mười người hết chín, bà con ai cũng ngại đi học, cứ kiếm cớ mắc việc để thoái thác. Thi lân la xuống từng đò năn nỉ, cùng với tổ thanh niên tắm rửa cho trẻ con, phụ với bà con đánh vồng khoai, kéo lưới, làm hết thượng vàng hạ cám giúp người lớn xong việc sớm để đi học.

- Mình biết chữ thì mình nhờ, răng để thầy Thi khổ thân. Ai mắc việc không đi, tui mụ tra xin đi trước. Chú Thi nhớ ghi tên tui với.

Bà mệ xung phong, học rất chăm. Cả bà con vạn đò Cồn bắt chước theo mệ, rủ nhau ngày đi làm, đêm đi học. Bây giờ xóm Cồn là một nơi có phong trào xóa nạn mù chữ sôi nổi nhất thành phố.

Lớp học đã im lặng từ lúc nào tôi không để ý. Thi vẫn đứng bên cạnh chú Mời, đang ngâm một bài thơ kháng chiến cũ, và mọi người chăm chú lắng nghe:

... Có người đi lính hiền như đất
Mùa hạ tưng bừng thương núi sông...

(thơ Chính Hữu)

Tôi nhìn kỹ Thi. Khoảng trên ba mươi, mặt xương, rắn rỏi, tóc ngắn và thưa, da xanh như những người bị sốt rét nhiều năm, với một vết sẹo nhỏ ở góc trán. Tôi ngờ ngợ, thấy Thi vừa lạ vừa quen. Tôi cố nhớ xem đã gặp Thi ở đâu trên rừng, nhưng không thể nhận ra Thi là ai. Thi vẫn đứng yên, vai dựa nhẹ vào cột, một tay xuôi xuống sau lưng, tay kia thỉnh thoảng đưa lên trong một cử chỉ nhẹ nhàng để diễn đạt. Tôi không ngờ Thi ngâm thơ hay và có sức cuốn hút mọi người đến như thế. Một phần có lẽ bởi đó là tâm hồn Thi; phần khác đấy chính là một hình ảnh đẹp của đất nước, một đất nước vừa lạ lùng vừa thân thiết đang trở về, âm vang trong một đêm thật bình yên trong cuộc đời của những người dân sống ở một thành phố hậu phương dài suốt cả hai cuộc kháng chiến. Tôi không còn nhớ rằng Thi là một người trẻ thuộc lứa tuổi của tôi. Trước mắt tôi, trước mắt những người học viên của lớp học đêm này, Thi là hình ảnh chồng lên nhau một cách khó phân biệt của người bộ đội qua hai thời kỳ đất nước đánh giặc; Thi vừa là người lính trẻ quân giải phóng vừa mới trở về, lại vừa là anh lính vệ quốc đoàn đã ra đi cách đây gần ba mươi năm, thuở cuộc trường chinh mới bắt đầu bằng áo rách, đường dài. Nụ cười hồn hậu nở ra từ một buổi sáng lên đường nào đã xa trong bài thơ vẫn còn y nguyên cho đến bây giờ, cứ ẩn hiện trên khuôn mặt tươi vui của Thi qua suốt giọng ngâm, dù có lúc thoáng nhắc lại một chút ngậm ngùi trong kỷ niệm:

Súng ơi
Súng đã theo tôi mùa thu
Súng đi với tôi mùa hạ
Theo tôi diệt hết quân thù
Tôi nhớ thương người bạn cũ
Miệng cười mắt nhắm ngàn thu...

Có một vài tiếng xuýt xoa xúc động từ phía những người ngồi nghe. Một cái gì đấy bỗng nhiên dội lên trong trí nhớ của tôi... Một đêm đầu tháng năm trên trời Thiên An... ngọn lửa trại sắp tàn... người học trò mặc áo nâu vá vai, đội mũ cối cài lá ngụy trang, đọc một bài thơ kháng chiến giữa một cái vòng im lặng của những bạn bè. Ngọn đuốc vẽ một vệt sáng kỳ dị nhảy múa trên khuôn mặt hoàn toàn chìm trong bóng tối của người ngâm thơ... Tôi nằm cạnh những đứa học trò của tôi, đá sỏi lộm cộm dưới lưng và một ngôi sao băng rơi thật chậm phía đỉnh đồi bên kia... Nỗi xúc động trong tôi lúc ấy khi tôi chợt nghĩ đến một đêm tháng năm đất nước đã xa, có một người chiến binh đã lặng lẽ qua đời trên một ngọn đồi nào đó của Ðiện Biên Phủ. Ý NGHĨ ẤY CHỈ THOÁNG QUA MỘT LÚC, nhưng đã đọng lại trong tâm hồn tôi thật sâu như một vết dao khắc. Ðúng rồi. Bài thơ ấy và người học trò ấy, một đêm tháng năm đồi thông cất tiếng hát. Tôi đã nhận ra Thi là ai. Giờ ra chơi sắp chấm dứt. Tôi đến Thi, đặt tay lên vai Thi khẽ gọi:

- Dân!

Thi quay lại. Vừa thấy tôi, Thi chợt ôm chầm lấy, nói như la thật to:

- Ơ, thầy! Anh Hải!

Tôi nín lặng.

- Không ngờ lại được gặp anh - Anh không thay đổi nhiều như em tưởng, chỉ gầy đi thôi. Anh còn nhớ em à!

Tôi nắm chặt như bấu vào hai vai của Thi, nói như với một bóng người nào đó rất xa:

- Nhớ lắm. Nguyễn Hoàng Dân, người học trò lười biếng của tôi, người học trò đã dạy cho tôi một bài học suốt đời không quên được. Cách đây đã hơn mười năm.

*
* *

Nghề dạy học trong những năm ấy mãi đến bây giờ vẫn còn vang vọng trong ký ức của tôi như một niềm hối tiếc dai dẳng. Bom đạn ở ngoại ô, lính Mỹ đầy phố, lệnh gọi lính, những cuộc biểu tình đổ máu, những người bị bắt... Mỗi giờ dạy, tôi đều phải đối diện với sáu, bảy chục khuôn mặt uể oải, đăm chiêu, lơ đãng, đôi khi ẩn hiện một nỗi khinh bỉ thầm lặng. Những khuôn mặt thật khác nhau, nhưng tất cả sáu, bảy chục khuôn mặt ấy đều hiện ra một dấu hỏi, không thực chính xác về vấn đề gì; tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy một cách rõ ràng là nó được đặt ra cho tôi, và tôi thường sợ hãi lẩn tránh câu trả lời. Ðể trấn áp một nỗi bối rối nào tôi không biết, tôi thường bắt đầu mỗi năm học bằng một câu nói lạnh lùng, đại khái như thế này:

- Dạy học chỉ là trình bày lại một số những kiến thức cần thiết, để các anh tự mình chọn lấy. Công việc của tôi chỉ có như thế. Các anh hoàn toàn tự do để trách nhiệm lấy cuộc đời của mình. Không thể trông cậy vào bất cứ ai, kể cả các thầy giáo, trong đó có tôi. Tôi sẽ không có trách nhiệm nào khác đối với các anh.

Dân đã học với tôi hai năm, trên mối quan hệ thầy trò đã được định ước với nhau như thế. Năm cuối trung học, Dân thi rớt tú tài và phải ở lại lớp. Dân ngồi ở dãy bàn cuối lớp, nơi mà những thầy giáo thường gọi một cách bực bội là "xóm nhà lá". Ðấy là vị trí mà những học sinh ở lại lớp thường giành nhau chỗ ngồi, có khi họ chen nhau sáu người một bàn, dù những bàn trên vẫn còn thừa chỗ. Ðặc tính của dân cư các "xóm nhà lá" là học hành bê bối, hay nói chuyện trong lớp, đút vở vào túi quần, bất chấp kỷ luật nhà trường, nét mặt trầm lặng và già nua một cách đáng sợ, hình như đã mất hết mọi nỗi buồn vui ở đời. Tôi đã chịu đựng những "xóm nhà lá" của tôi bằng một sự nhẫn nhục đầy dịu dàng; thực ra là một nỗi thương cảm lặng lẽ. Bởi vì tôi hiểu rằng trong túi áo của mỗi người đã nằm sẵn một cái giấy gọi lính, và nếu họ thi trượt khoa này - những chân trời khói lửa cát bụi nào không ai biết.

Giống như những học sinh khác của "xóm nhà lá", Dân có đủ những cái làm tôi bực mình: hay vắng mặt, học kém, mang guốc đến lớp và rất hiếm khi thuộc bài. Dân không nói chuyện trong lớp, hình như lúc nào cũng có lảng vảng một cơn buồn ngủ ghê gớm. Có lần đang chép bài, Dân ngủ gật đến nỗi rơi cả cây bút xuống đất. Tôi gọi mấy lần Dân vẫn không nghe thấy. Cậu bạn bên cạnh phải lắc mạnh vào vai , Dân mới tỉnh dậy, thảng thốt đứng bật lên như một chiếc lò xo.

- Ðêm qua cậu làm gì mà sáng nay đến ngủ trong lớp?

Dân có vẻ luống cuống:

- Dạ! Ðêm qua em... Không ạ, đêm qua em đi ngủ sớm.

- Nói láo. Ngủ sớm, sao bây giờ còn ngủ gật. Lại mò vào Cầu Kho phải không?

Dân nói xẵng như giận tôi:

- Dạ không. Nghèo mà, thầy...

- Hừ... Nghèo mà không biết lo. Bớt ngủ đi chứ. Ngủ mãi rồi ngủ như bò ra đấy. Xuống nhà chơi rửa mặt đi. Nhanh lên!

Suốt năm, tôi cứ lo Dân thi hỏng. Trong thâm tâm, tôi vẫn cảm thấy một nỗi thương mến riêng đối với Dân là người học trò cũ độc nhất tôi gặp lại ở nơi này. Nhưng cũng có lẽ vì tôi vẫn cảm thấy ở Dân những dấu hiệu của một tính cách đúng đắn. Còn việc học hành bê bối của Dân, chắc có một lý do nào mà tôi chưa hề hiểu hết.

Một đêm khuya, tôi đang ngồi xem lại vở ghi bài học của Dân. Bài chép sai, bỏ dở nửa chừng, vài trang bỏ trống rồi lại một bài không biết bắt đầu từ chỗ nào, thỉnh thoảng còn xen lẫn bài của môn học khác. Tôi hoàn toàn tuyệt vọng, chắc chắn là Dân sẽ thi hỏng vào cuối năm và sẽ bị gọi quân dịch, tôi không còn cách nào để giúp Dân học khá lên được. Tưởng tượng thấy bộ mặt ngái ngủ của Dân, tôi tức mình ném quyển vở xuống đất. Một mảnh giấy nhỏ chợt rơi ra giữa nền nhà. Tôi nhặt lên xem. Ðến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ những dòng chữ nguệch ngoạc ghi trên tấm giấy đó, nhớ như một bài học thuộc lòng thuở nhỏ. Nó có dáng dấp một bài thơ ngắn, như thế này:

Bốn đứa cùng sinh ra
Ðứa ra ngoài đảo vắng
Ðứa lên đồi dựng trại
Ðứa quanh mình khói lửa
Lắm đêm về mất ngủ.

Dưới bài thơ ấy, còn có mấy dòng chữ khác: "Mũi a: hoàn thành tốt; mũi b: tình hình đồng đội tốt; mũi c: x - 1".

Tôi đọc đi đọc lại, nhìn kỹ, đúng là nét chữ của Dân. Thế này nghĩa là sao? Trước mắt tôi hiện ra mơ hồ một trận đánh, có những người mang dép cao su vác đồng đội bị thương vượt qua cánh đồng, có thể một người đã chết. Nhưng chắc là mặt trận đánh thắng, và Dân là người chỉ huy trận đánh đó. Tôi tạm kết luận như vậy. Có thể đó là trận đánh vào bót cảnh sát An Cựu vào tháng trước, cũng có thể là trận tập kích vào trạm kiểm soát của bọn Mỹ ở Mỹ Thủy trong tuần vừa qua. Nhưng rõ ràng Dân là một người kháng chiến đang hoạt động hợp pháp, như TRẦN VĂN ƠN NGÀY TRƯỚC - một "Việt cộng nằm vùng" - như cách bọn nó thường gọi. Tôi định đốt mảnh giấy nguy hiểm ấy đi hộ Dân, nhưng tôi ngại Dân chưa đủ tin tôi, và Dân sẽ lo sợ vì mảnh giấy ấy đã lọt sang tay người khác. Tôi đặt trả nó lại vào chỗ cũ, và cất quyển vở của Dân vào đáy cặp.

Công việc đã xong. Tôi hạ thấp cái chao đèn xuống, chỉ còn một vòng sáng trên mặt bàn, và tôi ngồi bưng mặt giữa hai lòng bàn tay, im lặng như một cái bóng. Ðêm thật buồn trong tiếng đại bác ùng oàng vọng về từ bốn phía ngoại ô. Mấy câu thơ của Dân cứ xoáy tít trong đầu tôi, khép lại và mở ra một thế giới vừa thân thuộc vừa bí ẩn, với những khuôn mặt quen mà tôi biết hoặc đã quên tên. Ðứa ra ngoài đảo vắng. Ðứa lên đồi dựng trại. Ai, ai đấy? Có phải là Ðông, người học trò chăm chỉ, luôn luôn đứng đầu lớp. Và thật tôi không ngờ nổi, hôm ấy Ðông đang nghe tôi giảng bài, bọn cảnh sát chợt tìm đến lớp bắt Ðông đưa đi đâu mất tích, nghe nói Ðông bị đưa ra giam ở Côn Ðảo. Ai đấy? Có phải là Phương, Phương mà mới tuần trước đó chào tôi qua ô cửa mắt cáo của chiếc xe công an bịt bùng bằng một nụ cười thật tươi, mặt trắng môi đỏ đẹp như một khuôn mặt con gái - để rồi tuần sau - Phương chỉ còn là một cái xác chết co quắp được trả về từ lao Thừa Phủ. Và để có một buổi chiều gió thổi dữ như cơn bão, lòng tôi tơi bời một nỗi ăn năn không biết từ đâu, tôi đã đến dưới chân núi Ngự Bình, đứng yên lặng trước mộ Phương như một kẻ thú tội? Ai đấy? Có phải là Trần Thư? Trần Thư, người học trò mà đến nay tôi vẫn chưa biết mặt. Mỗi lần tôi điểm danh, gọi đến Thư, đều được nghe một tiếng trả lời rập ràng: "Vắng". Có cậu nào còn nói giữa lớp: "Bỏ học - đi Việt cộng rồi". Tôi không tin, mắng cậu bạn kia là "nói đùa vô ý thức" và bảo sẽ gạch tên, nếu tuần sau Thư vẫn vắng mặt không có lý do. Tất nhiên, tôi chưa hề phải đuổi Thư, vì không bao giờ Thư còn trở lại lớp học. Dân ạ, Dân, tôi đã hiểu những cơn buồn ngủ của Dân. Biết đâu là đêm qua, trong khi tôi lang thang trên những con đường vắng, chỉ để lắng nghe tâm hồn bị giày vò bởi muôn vàn nỗi khổ đau siêu hình về chiến tranh, thì Dân đang luồn qua những vùng bóng tối ngoại ô để tìm cách giết giặc. Tôi không thông cảm nổi với Dân, vì tôi chưa hề thực sự thông cảm với đất nước, hay còn tồi tệ hơn thế nữa, tôi không dám nhận trách nhiệm với đất nước, ôi, tôi thật chẳng ra làm sao... Tôi xấu hổ đến đau đớn về lời nhiếc móc của tôi với Dân hôm nọ. Quả thực, chính tôi mới là thằng ngu, nhưng chắc tôi không có gan để nói với Dân điều ấy. Ðêm ấy, tôi không ngủ yên.

Sáng hôm sau đến lớp, tôi gọi Dân lên bảng, hỏi bài qua loa. Khi trả vở cho Dân, tôi dặn riêng Dân hãy cẩn thận, đừng ghi chép gì trong vở ngoài bài học ra. Dân hơi bỡ ngỡ, rồi như chợt hiểu ra, Dân cầm vội lấy quyển vở, nói khẽ: "Cám ơn thầy".

Kỳ thi đệ nhị lục cá nguyệt năm ấy, Dân bỏ thi môn của tôi. Như thế, đương nhiên tôi phải cho Dân điểm không, một điều rất bất lợi cho Dân trong kỳ thi tú tài sắp đến. Tôi tìm Dân, dặn tuần sau Dân cố gắng đến thi môn học của tôi cùng với lớp bên cạnh, Tuần ấy Dân cũng lại vắng mặt, và vắng luôn cả những giờ học sau đó. Từ đấy vào lớp, nhìn xuống chỗ ngồi của Dân đã bỏ trống ở "xóm nhà lá", lòng tôi bỗng cứ thấy một nỗi nhớ lặng lẽ.

Sắp đến kỳ nghỉ hè.

Một giờ ra chơi, tôi đứng dưới gốc phượng trong sân nhà trường, hút tẩu, lơ đãng ngó ra ngoài sông. Bỗng nhiên, Dân từ ngoài cổng vào, đi nhanh đến phía tôi. Lần đầu tiên, tôi thấy Dân ăn mặc tề chỉnh, áo sơ mi cộc tay bỏ gọn vào quần dài xanh, mang dép ba ta cũ. Ðến trước tôi, Dân giở chiếc mũ cối tráng xuống, cầm áp vào trước ngực.

- Em đến chào thầy, em đi.

Tôi ngạc nhiên:

- Ði đâu? Ði lính à? Dân còn được hoãn dịch kia mà.

- Dạ, không!

Dân ngập ngừng, xoay xoay cái vành mũ. Chợt Dân ngẩng lên, nhìn tôi bằng một cái nhìn thật sâu. Dân nói với tôi, giọng nhanh và rõ ràng:

- Thưa thầy, em đi bộ đội giải phóng.

Tôi chưa kịp bắt tay Dân thì Dân đã ra tới cổng trường. Tôi ngẩn ngơ nhìn theo Dân. Thú thật là lần đầu tiên trong đời, tôi có cảm giác tôi nhìn theo bóng một người anh hùng. Hai bàn tay tôi xiết lại, ướt rịn mồ hôi.

Khi tôi quay vào thì sân trường đã im vắng, học sinh vào lớp từ lâu. Hình như đọc thấy một vẻ gì không bình thường trên mặt tôi, cả lớp đang ồn ào bỗng im hẳn lại. Tôi không đợi học sinh ngồi xuống, nói luôn:

- Chắc các anh đã thông cảm cho tôi. Chữ nghĩa lúc này chỉ là một điều nói dối. Hôm nay, tôi mệt quá, các anh có thể nghỉ học.

Tôi lặng lẽ bước đi dưới hai hàng phượng đỏ bên sông, lòng nhủ thầm có lẽ mình cũng chẳng thể dung thân ở chốn này lâu hơn nữa.

Những năm ở rừng sau đó, tôi gặp lại rất nhiều những người học trò cũ của tôi đã bỏ trường mà đi qua từng đợt biến động của thành phố, làm bộ đội, giao liên, biệt động, phóng viên, v.v. Cả anh chàng Trần Thư tôi đòi gạch tên năm nọ cũng đã trở thành thợ in lành nghề ngồi xếp chữ trong lòng một hang đá. Chỉ có Dân, tôi tìm hỏi mãi nhưng không ai biết ở đâu. Có lẽ Dân đã đổi tên và về nằm vùng sâu. Qua nhiều năm bặt tin, tôi nghĩ rằng chắc Dân đã hy sinh.

*
* *

Chú Mời cầm chiếc dùi sắt đi đến chỗ chiếc kiển làm bằng mảnh gang treo thõng dưới cành bồ đề. Chú vừa gõ vừa hô lớn theo nhịp kiểng:

- Ai hoa mai! Ơi cái tơi! Vô lớp ai ơi! Hè, hè, hè!

Học viên lần lượt trở lại phòng. Tôi bắt tay Thi, hẹn sẽ đến nhà chơi.

- Khu phố bận đến thế mà Thi còn thì giờ đi dạy bình dân, giỏi đấy.

- Em cũng cố gắng thôi anh ạ. Anh biết ngày trước, tụi em đã phải bỏ mất nhiều thì giờ, không được học hành.

Tôi hiểu, ngoài ý thức trách nhiệm, Thi còn có nỗi mê say thật tình trong việc dạy học này khác với hồi ấy, Thi đã chọn đúng lúc để làm một thầy giáo. Chợt nhớ lại cái định kiến của tôi về một cậu học trò lười biếng tên là Dân mười năm về trước, tôi bật cười to, như người ta vẫn cười, khi nhớ lại những sai lầm có thể tha thứ được khi trẻ tuổi vào đời bằng một niềm kiêu hãnh vụng dại.

Chiếc thuyền nan nhẹ như một chiếc lá đưa tôi trở về phố. Chợt tôi nghe từ sau lưng, giọng của Thi đầy cao hứng đọc thật to mấy câu thơ mà tôi nhận ra, ai đấy đã phỏng theo Béctôn Brét:

Học đi học đi
Học những chữ cái
Hỡi những người vô sản
Bởi vì các bạn
Là những người lãnh đạo tương lai...

Tiếng lặp lại thật rập ràng của các học viên sau mỗi nhịp thước của Thi âm vang trên mặt sông. Tôi ngoái lại nhìn. Cây măng sông đã tắt nửa chừng, và mỗi học viên đang thắp một ngọn nến đính lên những chiếc bao cát ở trước mặt. Trong sương, tôi nhìn thấy có rất nhiều ánh lửa xúm xít lay động, trông giống như một cái bông từ một cuộc lễ thả đèn nào đó đang nở ra, trôi bồng bềnh trên mặt nước.

5-1976
H.P.P.N


Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #ngữvăn