6.2 | Cô Tô (1965) - Nguyễn Tuân

Biết bọn tôi sắp chào bãi tắm ra Mũi Ngọc rồi đi luôn Cô Tô, ông chủ tịch Trà Cổ liền bảo luôn: "Đêm qua, cũng vừa nhận được tin bão. Bão đang ở Phi Luật Tân và tiến vào bờ biển mình".

Một đôi người bỗng kêu lên:

- Đáng tiếc! Khá tiếc!

- Tiếc gì? Tiếc cái gì?

- Đã dậy từ lúc gà gáy canh tư trên bờ cát để trước khi lên xe, ra đầu bãi Sa Vỹ xem mặt trời mọc. Mất công rình nửa tiếng, mà vẫn cứ nhỡ.

- Trời vẫn đang nắng, chứ tờ mờ đất đến giờ có mưa đâu. Cả ngày hôm nay còn tha hồ mà nắng, chả cần phải thèm mặt trời.

- Là người ta nói chuyện xem mặt trời mọc từ ngay ở chỗ ngấn bể Đông. Từ hòa bình tới giờ, mình vẫn là một anh chỉ thấy vầng dương mọc trên chân trời đất liền.

- À, tưởng là thế nào. Ngay cả đến anh đi nghỉ mát bờ biển cũng khối anh "nhỡ mặt trời mọc" cứ hàng nửa tháng liền. Nó mọc lên mà vướng mây vướng mù trên ngấn bể, thì cũng coi như là tấm ảnh phá sản. Thôi, ra ngoài đảo Cô Tô, sao chả gỡ gạc được một vài mặt trời toàn vẹn.

- Xem mặt trời mọc ở Cô Tô 21 độ vĩ tuyến với xem mặt trời mọc ở Trà Cổ Đuôi Cát 21 độ rưỡi là hai việc hoàn toàn khác nhau chứ! Biển Trà Cổ Sa Vỹ là chỗ hết rồi của sóng Trung Quốc và đồng thời cũng là chỗ mở đầu của sóng mình. Hùng đẹp vậy thay là quang cảnh mặt trời chiếu sáng trên chỗ rẽ sóng và chỗ mở ra cái chấm đầu chữ S của 2500 cây số cát Việt Nam!

Mũi Ngọc. Trên chỏm nó là một cái đồn. Dưới chân nó là một tí phố cụt của cây số cuối cùng thuộc đường số 4. Mười căn nhà ngói, mái thâm giòn, hòn ngói đực xoắn xuýt lấy hòn ngói cái. Chỉ có cái trạm hàng giang là còn cái màu ngói của một trụ sở mới. Nước thủy triều vẫn rút xuống. Tìm cái tàu thủy đón đoàn ra Cô Tô thì chưa thấy nó đâu cả. Cát ở đây vàng rộm hoàn toàn khác hẳn cát bãi Trà Cổ xam xám sền sệt.

Biển càng hướng ra , càng thấy nồng. Vĩnh Thực, Cái Chiên, Núi Miều, Núi Tụi, vùn vụt lướt qua sườn tàu, mà trên boong tàu, mớ tóc trần trên đầu chị bạn vẫn không chịu rung lấy nửa sợi. Đứng gió quá. Chân đảo Thoi Xanh xa xa cát vàng như một nét chỉ mành tơ lưới kéo ngang nền giời hâm hấp của biển chờ cơn giông. Nước đùng đục. Mặt biển lặng lờ và láng mềm đi như dầu mỡ nào đang chảy tràn tới tận cái cuống mây chân giời. Nó gợi gợi một cái chảo khổng lồ nước xuýt vịt béo sôi giấu khói, mới trông qua rất dễ lầm với một nồi canh nguội. Có tí sóng nào dội lên phía chân vịt tàu, thì sóng chỉ xông thêm ong ong oi oi lên mặt tàu. Bầu trời tắt gió càng về quá trưa càng đặc sánh. Thấy nghẹn thở. Trời vàng vàng cái mặt màu da đồng.

Ngay tối đầu trên đảo Cô Tô, đã có ngay một buổi họp, – họp chạy bão, rất có thể ngày mai bão đã vào thấu tới quần đảo rồi. Sau cuộc họp giữa đảo ủy, đoàn văn nghệ đi tìm biển Bắc và hải vị, và đại diện Tổng cục Thủy sản, liền hình thành ba hướng đi về mọi hợp tác xã nghề biển trên đảo. Sớm mai, một tổ sẽ đi theo những người nuôi đồi mồi, đánh bào ngư, làm ruộng muối. Một tổ đi theo những người lặn mò ngọc trai. Một tổ vượt biển sang đảo Thanh Luân tìm gặp những người đánh cá hồng, nuôi hải sâm, trồng cam sành.

Đêm đầu ấy của tôi trên đảo Cô Tô cũng là một đêm chập chờn cái hình ảnh những người tìm ngọc trong lòng biển. Bí thư đảo ủy là đồng chí Chim Chím, trước đây, hồi quần đảo Cô Tô còn nằm trong khu vực tập kết ba trăm ngày của quân đội viễn chinh Pháp, là một ông giáo công khai của trường Cô Tô. Trông người cũng dễ thấy ngay cái dày dạn sóng và gió muối của sự sống trên cái huyện biển này của tỉnh Hải Ninh. Hôm sau về, phải hỏi đồng chí ấy về mọi kinh nghiệm chống bão mới được. Và nửa đêm, gió ở đâu đùng đùng kéo tới. Nó thổi bay cả gối cả chăn, xô băng đi cả chén cả ấm để ở ngoài hiên gác đảo ủy. Gió như quăng gạch quăng đá vào cửa kính cửa chớp tầng trên tầng dưới cơ quan đảo ủy. Kiểu này cũng đến cấp 7 cấp 8 gì. Một anh trong đoàn, như mắng gió, bằng một giọng ngái ngủ: "Tiền trạm xích hầu của của trận bão số 6 ngày mai đó phải không?" Đùng đùng, hồi lùng, mạnh hơn gió quẩn vùng núi Tây Bắc rung cột nhà sàn theo lối vòi voi lắc gốc chuối rừng. Nó làm một chập dài. Tôi cứ nghĩ đó là một cuộc nổi loạn của binh lính Pháp lính Mỹ nhất tề say rượu, đứa ném vỏ chai vào cửa kính đứa liệng ghế vào cửa chớp, đứa đánh báng súng vào tường, rú lên hú lên, kêu gào hồi hương và xô nhào lật ngửa chổng kềnh mọi thằng cố vấn quân sự phiêu lưu.

Buổi sớm dậy, xem qua loa bản đồ 18 hòn lớn nhỏ của quần đảo , rồi vội đi theo luôn anh Quốc Sĩ dẫn đường về hợp tác xã đánh ngọc trai Tô Bắc. Trời vẫn còn nắng, nhưng không có tia nắng, và nó ấp úng như cái cười nham hiểm của một anh giáo giở sắp táng tận lương tâm. Cung cách này, phải nói với xã viên Tô Bắc tranh thủ ngay chiều nay cho ra đánh ngay một chuyến trân châu gần bờ. Chứ mà dềnh dang thì không khéo rồi cũng chỉ đến xem có bão, chứ cũng chả thấy trai thấy ngọc gì đâu.

Anh Quốc Sĩ và anh xã viên trẻ Thái Mao Hữu đã hối hả từ ngoài sân: "Có muốn xem biểu diễn mò lặn ngọc trai thì phải đi biển ngay bây giờ. Không thì không kịp đâu. Bão đang tới ta đấy. Làm chóng và trở vào bờ ngay thì vẫn còn kịp được". Cả bọn liền ùa dậy, chạy ào ra bãi, đẩy thuyền tam bản xuống lưỡi sóng liếm bờ Tô Bắc. Cái thuyền ba góc đặc biệt của Cô Tô lừ lừ nhả bờ, Quốc Sĩ và Thái Mao Hữu cùng chèo chung một cuống chèo. Chèo lối này là lối chèo lụ, chèo cứ xoáy cứ khoan vào nước mà trườn cái thuyền đít bè đi tới, mũi chèo lúc nào cũng ngập sâu xuống dưới mặt sóng. Thuyền đánh ngọc trai xoay lưng vào đảo  mẹ và hướng thẳng sang đảo con. Cả Thái Mao Hữu cả Quốc Sĩ đều buông chèo, cởi quần áo, đeo kính lặn, và nhảy ùm xuống biển. Thoáng một cái, họ đã ngoi lên, một tay bám mạn thuyền, một tay bỏ vào lòng thuyền hàng nạm con trai, hàng chùm trai ngào ngạt mùi bùn cát đáy biển. Tôi ngắm những chùm trai tươi, tôi ngắm biển, ngắm trời, ngắm cái bờ cát đảo  mẹ đã mờ và cái bờ cát đảo  con rõ nét nhà và nét cây xóm chài. Chân trời đàng Đông, mây xám buông thõng xuống sóng như một thần nữ nào đang bực mình quạt phành phạch hong tóc trên thau nước gội bồ kếp đục ngầu. Thấy người se se lạnh cái mùi gió của thứ gió dẫn mưa đang đi tới.

– Thôi, ta quay vào bờ thì vừa đấy!

Mưa lộp bộp trên cái nón lạp mạo hình chiêng đồng của anh Thái Mao Hữu. Nước biển ngọc vẫn thông giọt dưới cầm dưới cổ anh thợ ngọc. Ngực anh chém một vết sẹo to bằng lưỡi dao bổ trai ngọc. Anh xã viên trẻ cười trong mưa bão, cái cười sáng như ánh chớp giữa một trời biển đục xám. Thái Mao Hữu và Quốc Sĩ đẹp như những diễn viên "đơn bom nhe" của một phim nào về người lao động của biển cả. Cả bọn chúng tôi lại hè nhau đẩy cái thuyền ba góc lên quá trên bến cát. Chúng tôi rảo bước vào trong đất liền, bước nhanh theo một nhịp bão dồn, tay mỗi người nhễ nhại một chùm trai ngọc.

Cái mõ gỗ hình con cá mổ bụng, cái con cá gỗ trước trụ sở xã thõng đuôi xuống một vòng đầu người chụm quanh mớ trân châu vừa đánh về. Mấy chục con trai còn non chưa con nào đậu ngọc. Nhưng tôi vẫn vui như chính mình vừa tìm được ngọc bể. Trong mắt tôi vẫn chưa biến hết cái lung linh ban nãy của những người thanh niên lặn tìm trân châu giữa biển bão. Con trân châu tươi vừa bổ đôi ra, hai mảnh vỏ óng lên cái hào quang của một thứ pha lê nạm sà cừ. Buổi chiều vàng đùng đục trên hòn đảo, cũng như biển bão đang đục ngầu quanh trụ sở hợp tác xã Tô Bắc. Nhưng vỏ trai ngọc vẫn tươi ánh thanh khiết, kết tinh lại tất cả những buổi tốt trời trên mặt biển vịnh Bắc bộ. Màu sắc mát nhẹ của lòng vỏ trân châu đang từ chối mọi cái mờ ám càng giờ càng tăng của bầu trời bão quanh mình. Vỏ trân châu xanh hồng huyền ảo, càng nhìn càng ưa, và thấy như lộng lên cái thảm kịch của sinh vật nằm dưới rốn bể mà vẫn không chịu nguôi lòng tương tư cái nguồn sáng cội gốc đang bị trần sóng trên đỉnh đầu bẻ gẫy hết tia chói. Màu vẻ lòng trai ngọc thật là kiều diễm như nửa vòng cung cầu vồng bắc lên từ một thế giới đáy biển vẫn hoài bão ánh trời.

Buổi tối, nhiều thợ lặn ngọc trai đã tìm đến trụ sở hợp tác xã kể chuyện cho bọn tôi nghe về cảnh tìm ngọc trong hai chế độ, Cụ Hoàng, lão công nhân ngọc trai kể rất tỉ mỉ về trân châu. Cụ bảo rằng trân châu mát lắm, người thuyền chài chân chính nào cũng có một lọ ngọc gia dụng trong nhà để mài uống và rỏ cho sáng mắt. Thứ ngọc vừng hạt nhỏ ấy nay Đông y rất chuộng. Ngọc lớn bằng hạt đỗ xanh thì bán cân, ngọc lớn bằng hạt ngô thì bán đếm. Chính cụ Hoàng trong đời làm ngọc cũ, đã tự tay đến được mười hạt do mình tìm được trong lòng biển. Hạt ngọc vàng không đẹp xanh cũng không đẹp. Qúy nhất là hòn trân châu màu trắng. Trắng mà thật tròn thì thấy rõ bóng người trong mặt ngọc. Tôi nghĩ đến cái hình ngọc của người chở đò Trương Chi ngày xưa. Chuyện ngọc đến đấy thì loa truyền thanh trong xóm nhắc mọi người về công việc chống bão. Bão đang thổi mạnh vào phía ngọc của bọn này. Đêm thứ hai ở , vẫn có những ngôi sao sáng thoi thóp giữa trời đục. Sao của đêm bão không tia nhấp nháy. Trời cao lại thẳm như đáy biển mình vừa tuột tay đánh rớt ngọc mình vào, và mình cũng đang lao theo.

Bữa cơm sáng nay chia tay với anh em xã viên hợp tác xã trân châu, cùng nâng chén , lại có cả bà cụ Lý, quê bên đảo Vân Hải Cẩm Phả, nhưng bị mẹ mìn đem ra đây từ lúc tấm bé. Gió mưa vẫn hắt vào mâm cơm. Thế nào chiều nay cũng phải về tới đảo ủy. Cát thổi từ bãi ngoài qua trước sân hợp tác xã rào rào và trắng dài và nằm rạp xuống, lớp cát ấy đè sấn lên lớp các khác chạy vào núi Đầu Chó, vừa chạy vừa lật ngửa hết lá dứa lá tre lá khoai lên, vùa chạy vừa xô gẫy cả cành nhỏ. Gió vẫn thổi thốc vào nách vào gáy bọn tôi đang leo đèo Đầu Chó. Gió lật ngửa lá sim, lá mua, lá cỏ dàng dàng, và mỗi cái giật của đợt gió, cổ mình như sái hẳn đi, như cổ ngựa bị gió giật cương để chân mình khỏi sa thụt xuống ổ gà rừng. Đến đỉnh dốc Đầu Chó, gió càng giật dữ. Thế này thì ít nhất cũng là gió cấp 8. Mặc kệ cấp 8, phải dừng lại, nhìn biển cái đã. Đây là mỏm của mũi đảo ăn thẳng hướng Bắc. Thấy được cả bãi biển phía Đông, thấy được cả bãi biển của phía Tây đảo. Bãi biển của Tô Bắc (chỗ kéo cái thuyền đi đánh ngọc trai chiều qua ấy) là một bãi cát hình vòng cung xoay lưng vào một bãi cát hình vòng cung khác của Tô Trung dài ba cây số. Cả hai mặt biển sóng đều không thấy một bóng buồm nào. Nước biển chỗ vòng cung phía đông thì ngầu đục vàng ệnh, nước biển vòng cung mặt tây kia thì xanh màu cánh trả. Nhiều mảng biển phía tây, đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống, thấy chồm chồm màu sà cừ uyển chuyển của mấy mảnh vỏ trân châu bỏ kỹ trong đáy túi dết của mỗi người.

Hình như gió bão chờ chúng tôi lọt hết vào trận địa cánh cung bãi cát, rồi mới tăng thêm hỏa lực của gió. Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim. Gió bắn rát từng chập. Chốc chốc gió ngừng trong tích tắc như để thay băng đạn, thì đầu cổ lại bật lên khi gió giật. Gió liên thanh quạt lia lịa vào gối vào ngang thắt lưng, đẩy cả người chạy theo luồng cát mà bạt ra phía sát bờ biển của một bãi dài ba ngàn thước, rộng chừng trăm thước. Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù đã bắt đầu thả hơi ngạt. Tôi lảo đảo trên sa trường, đi sâu mãi vào sa trường như cố tìm cho bằng hết mọi nỗi thương vong ở chỗ thiên hôn địa ám này. Hòn đảo gần hòn đảo xa, chỉ còn mờ mờ xam xám cái chót đỉnh, còn chân đảo thì đã mất trong cái mịt mùng của bụi muối ẩm. Sóng tung vòi cao và đổ dài, bọt trắng tãi thành hàng thành hàng. Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền như vua thủy cho các loài thủy tộc rung thêm trống trận. Tôi đúng là một cái buồm thuyền chạy vát nhưng sắp đứt dây lèo. Gió đánh bật cả từng cụm sim biển mà lùa ra biển, bụi sim biển cứ thế mà nhảy câng câng, mà lộn tùng phèo qua hết bãi cát rồi nhào đầu xuống những con sóng đứt chân đổ vào bờ. Cát vẫn bắn đón đầu. Cát vẫn bắn theo sau. Cả cái bãi vắng sa trường bỗng trở thành cái boong hoang dại của một chiếc tàu say sóng biển. Và trên đó, tôi như một người lính thủy đang cố lao về phía vị trí đằng mũi tàu. Tất cả những vỏ ốc con đều bay lên như tàn vàng giấy. Gió đặt vỏ ốc vào lòng tay tôi đang che gió. Ốc ở đây màu rất đẹp và hình vẻ nhiều kiểu khác nhau, chưa thấy mấy bãi biển mà ốc đẹp như thế. Và cũng chưa lần nào tôi được trông thấy những cái lâu đài dã tràng nghiêng ngửa tan vỡ đến như thế. Bãi bị gió mài lì, trở thành một mặt bàn bi-a đại cồ lồ trên ấy quay lông lốc hàng triệu hàng triệu viên cát dã tràng đang tìm lỗ nẻ để thụt xuống. Cuối cùng, bàn tay gió, như một anh chơi ngang phá đám đã gạt phăng hết chúng vào bất cứ con sóng đứt chân nào đổ bờ.

Về tới đảo ủy mới biết rằng tất cả các đồng chí đã chia nhau về hết các cơ sở để chống bão.

Cuối canh một sang canh hai, bão thật sự bắt đầu. Gác đảo ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết. Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung. Tiếng gió càng ghê rợn mỗi khi nó thốc vào, vuốt qua những gờ kính nhọn còn dắt ở ô cửa vỡ. Nó rít lên rú lên như cái kiểu người ta vẫn thường gọi là quỷ khốc thần kinh.

Phải coi như đây là một cuộc ăn vạ của gió, gió ập vào nhà mà đòi hôi của. Cái gác bê tông mà rung lên như đài chỉ huy một con tàu đi trên sóng cuồng. Càng về gần sáng, gió đông bắc càng giật, đợt nào cũng là một đợt quỷ sứ ma vương ùa tới mà đập gõ hàng ngàn vạn cái thúng rách, mà nện vào ngàn vạn cái mâm đồng nát. Những lúc này thì cá dưới biển đang chạy đi đâu? Và dây thừng và cột buồm của thuyền  có chịu đựng nổi cho hết trận bão không? Hòn ngói, mái tranh các xóm trên quần đảo có đứng được đầu gió này không? (Về sau này, trở về đất liền Móng Cái, đọc báo, được biết về sự chiến đấu dũng cảm của con người. Trong cơn bão số 6 ấy, trong đếm chúng tôi không ngủ ở đảo Cô Tô, thì ngoài đảo Bạch Long Vĩ, Những chiến sĩ khí tượng của ta đã bám bão 56 tiếng liền, giữ vững đường dây và cột ăng ten với đất liền).

*

Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khoẻ anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy. Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây.

Cũng buổi sáng đẹp trời ấy, bến Cô Tô lại vừa thêm một khách quý. Một thuyền ba buồm từ bên đảo Thanh Luân vừa ghé sát, áp vào bến đảo ủy. Thuyền Châu Hòa Mãn đấy! Đồng chí Châu Hòa Mãn sang họp đảo ủy, báo cáo về tình hình cụ thể của đảo Thanh Luân trong trận bão 6, và rồi đến trưa lại về luôn bên ấy. Chúng tôi vội vàng khăn gói xuống theo thuyền anh hùng Châu Hòa Mãn mà đi luôn Bắc Loan Đầu. Nghe nói đêm hôm kia bão, bên ấy cũng sóng gió dữ dội, nhưng được cái không thuyền ai không nhà ai suy chuyển gì cả. Những gốc cam vườn bên ấy, chịu bão đã quen nên cam rụng cuống cũng chỉ một số nào thôi. Chỉ có cái khoản sóng xô vào đảo thì ác liệt hơn bên này Cô Tô. Nó lao từ ngoài mỏm đá ke đá tạt vào mái ngói mới hợp tác xã, cứ như hoa tuyết lao ngang giữa trời.

Châu Hòa Mãn cầm cuống lái cho chiếc thuyền ba buồm chạy vát từ Cô Tô sang Bà Loan Tử. Trông đồng chí chủ nhiệm hợp tác xã Bắc Loan Đầu trẻ tráng quá. Qua cửa Đại Môn, có sóng nhưng dưới sự điều khiển cuống lái của Châu Hòa Mãn, chúng tôi cứ lướt èm đi như một chiếc du thuyền. Phải cái ghé vào Bà Loan Tử hơi lâu quá. Ở bên này có chợ, có cửa hàng mậu dịch, có phố, có trường. Châu Hòa Mãn đã đáp đò con bơi ra kia, tay bưng một rá đường trắng về Bắc Loan Đầu để liên hoan ngày mai. Tại sao lâu thế? Thì ra ông chủ nhiệm Châu Hòa Mãn húi đầu. Thảo nào thấy càng trẻ thêm hơn lúc mới gặp ban nãy. Nắng chiều ánh trắng lên trên hàm răng đều đặn hồng. Nắng rung mạnh, nắng nổi gân trên bảy cái nẹp buồm cánh dơi, nắng nhuộm tươi lại lá buồm nâu cũ. Mỗi lúc đảo dây lèo, nắng phồng lên từ phía này sang phía kia, lá buồm như là một cái má phính ông Bụt đang hú tim với tất cả trẻ em con nhà chài, lúc nghẹo đầu sang bên này cột buồm, lúc nghẹo sang bên kia cột buồm. Mạn thuyền xiên nghiêng vào nước, nước sủi bọt kêu ro ro như tiếng máy nào đang ăn đều ét xăng.

Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá quắt đến như vậy? Ai dám bảo rằng mình đã thuộc tên của hết thảy loài cá trên khắp biển lớn biển con? Ai đã ghi chép cho hết những hình trang trí trên mình cá? Cái màu xanh luôn luôn biến đổi của nước biển chiều nay trên biển  như là thử thách cái vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang nổi gió trong lòng. Biển xanh như gì nhỉ? Xanh như lá chuối non? Xanh như lá chuối già? Xanh như mùa thu ngả cốm làng Vòng? Nước biển Cô Tô đang đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh? Đúng một phần thôi. Bởi vì con sóng vừa dội lên kia đã gia giảm thêm một chút gì, đã pha biến sang màu khác. Thế thì nước biển xanh như cái vạt áo nước mắt của ông quan Tư mã nghe đàn tỳ bà trên con sóng Giang Châu thì có đúng không? Chưa được ư? Thế thì nó xanh như một màu áo cưới, được không? Hay là nói thế này: nước biển chiều nay xanh như một trang sử của loài người, lúc con người còn phải viết vào thân tre? Nghe hơi trừu tượng phải không? Mà kìa, nhìn cho kỹ mà xem, nước biển đang xanh cái màu xanh dầu xăng của những người thiếu quê hương. Cũng không phải là sợ lai căng, nhưng nghe nó vẫn chưa trúng vẫn chưa được ổn phải không? Sóng cứ kế tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn luôn thay màu cho sóng. Mà chữ thì không tài nào tuôn ra kịp được với nhịp sóng. Đua với sóng, thì chỉ có mà thua thôi. Chao ôi, nước biển  chiều nay xanh cái màu xanh của ngọc bích. Hoặc là chao ôi, nó xanh như một niềm hy vọng trên cửa biển. Nghe nó lại càng chung chung; chưa sướng gì, nhưng thôi hãy tạm khoanh lại đó đã. Thuyền đã bắt đầu lượn vòng vào Bắc Loan Đầu. Đảo Lò Hương hồng lên cái nắng sắp hết một ngày thứ năm của tôi trên đất Cô Tô. Ở hợp tác xã Bắc Loan Đầu, gặp lại hầu hết cả đoàn, từ hôm xé lè ra mỗi tổ đi một nơi. Trông anh chị em đều vui vẻ, người nào cũng như tìm thêm được triển vọng cho sự sống giầu đẹp của quần đảo.

Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh. Cánh hải âu Cô Tô huyền diệu trong sương thu vầng hồng gợi tôi vụt nhớ đến hải âu bên trời Liên Xô. "Hải âu", tên một vở kịch của Sêkhốp đáng yêu. Và "Hải âu", bí danh của chị phi công Valăngtina Têrếchkôva đáng quý, khi chị đi công tác vào vũ trụ liền trong mấy đêm mấy ngày.

Khi mặt trời đã lên một vài con sào, tức là lúc nó trở về sự bình dị hàng ngày, thì tôi đang múc gầu nước giếng dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng, nghĩa là tôi cũng đang đi tắm như mọi người lao động bình thường đang tắm quanh giếng. Cái giếng nước ngọt ở dìa một hòn đảo giữa biển cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.

Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong những ang gốm màu da lươn. Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào. Chỗ bãi đá nuôi sáu mươi vạn con hải sâm ngoài kia, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào. Sau trận bão, hôm nay hợp tác xã Bắc Loan Đầu cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Anh hùng Châu Hoà Mãn cùng bốn bạn xã viên đi chung một thuyền. Anh quẩy nước bên bờ giếng, tôi né ra một bên. Anh quẩy mười lăm gánh cho thuyền anh: "Đi ra khơi, xa lắm mà, có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi".

Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về. Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành.

(Nguyễn Tuân, , NXB Văn học, Hà Nội, 1976)


*Đôi điều lảm nhảm của tớ: Huhu, tớ tham quá, type mấy bài biết là nhiều rồi, vẫn ham hố thêm cái này, rã rời tay luôn í, dài dã mannnn ;;-;;

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #ngữvăn