6.2 | Tiếng mẹ đẻ - Rasul Gamzatovich Gamzatov

SGK

Mơ hồ thấm từng âm thanh tiếng mẹ
Tôi bỗng tỉnh ra. Tới giây phút lạ lùng
Tôi chợt hiểu, người chữa tôi khỏi bệnh
Chẳng thể là ai, ngoài tiếng mẹ thân thương.
Những tiếng khác dành cho dân tộc khác
Cũng sẽ khiến cho lành bệnh bao người!
Tôi chỉ biết nếu tiếng tôi biến mất
Thì tôi sẵn sàng nhắm mắt, buông xuôi.

(Trích)

—————————————————

Daghestan của tôi

Tập 1

NGÔN NGỮ

Đứa trẻ khóc và cười

Nhưng còn chưa biết nói

Rồi đến lúc nó kể

Nó là người thế nào

Đến thế giới này vì sao.

Lời khắc trên nôi

Nếu trên thế giới này không có lời nói thì thế giới đã không giống như nó đang tồn tại.

Nhà thơ sinh ra từ một trăm năm trước khi thế giới tạo thành.

Người hạ bút làm thơ mà không am hiểu ngôn ngữ chẳng khác gì anh chảng mất trí lao xuống dỏng sông cuồn cuộn mà không biết bơi.

Nhiều người mở miệng nói không phải vì ý nghĩ chen chúc trong đầu mà vì ngứa lưỡi. Một số người làm thơ không phải vì trái tim tràn ngập những tình cảm lớn mà vì... Thật khó mà nói được vì lẽ gì mà bất ngờ họ quyết định làm thơ. Những câu thơ cửa họ nghe như tiếng lạo xạo của hạt dẻ khô khi đổ vào cái túi bằng da cừu thô.

Những người ấy không muốn quay lại để thoạt tiên thứ nhìn xem điều gì đang xảy ra trên thế giới. Họ không muốn lắng nghe, không muốn nhận biết, thế giới này đầy ắp những bài ca, những âm điệu, những hòa âm thế nào.

Thử hỏi con người được phú cho đôi mắt, đôi tai và lưỡi để làm gì? Tại sao mắt người có hai, tai người có hai, mà lưỡi chỉ có một thôi? Vân đề là ở chỗ trước khi một cái lưỡi phát ra một lời nào đó, thì hai mắt đã phải nhìn, hai tai đã phải nghe.

Lời nói rời khỏi lưỡi chẳng khác nào con ngựa từ con đường nhỏ dốc ngược lao xuống cánh đồng. Thử hỏi liệu có thể tung ra thế giới lời nói chưa từng được ấp ủ trong tim?

Không có lời nói nào đơn thuần chỉ là lời nói. Có khi nó là lời nguyền rủa, khi nó là lời chúc mừng, là vẻ đẹp, là nỗi đau, là sự bẩn thỉu, là bông hoa, là giả dối, là sự thật, là ánh sáng hay là bóng đêm.

Tôi đã nghe trên đất này khắc nghiệt.

Thế giới tội lỗi được tạo nên, chỉ với một lời.

Lời ấy là gì, âm thanh trầm hay bổng?

Lời nguyện cầu chăng? Lời thề chăng? Hay mệnh lệnh mà thôi?

Chúng ta đang đấu tranh cho thế giới hôm nay

Thế giới đang bị thương, bị dằng xé vô cùng khốc liệt.

Hãy nói lên một lời đi: dù lời thề, lời cầu nguyện

Hay lời rủa cũng cam! Miễn để cứu thế gian này!

Một anh bạn tôi nói: tôi là chủ nhân lời nói của tôi, muốn giữ trong miệng thì giữ; muốn phát ra ngoài thì phát. Có thể là đối với bạn tôi, phương châm đó thích hợp, nhưng nhà văn thì cần phải trở thành chủ nhân chân chính những lời nói của mình, những lời thề và lời rủa của mình. Trước cùng một sự việc, anh ta không thể thề hai lẩn. Và nói chung kẻ nào thề luôn miệng, theo tôi đó là một tên lừa đảo.

Nếu cuốn sách này giống như tấm thảm thì tôi đã dệt lên nó từ những sợi nhiều màu của tiếng Avar. Nếu nó giống tấm áo choàng da cừu thì tôi đã khâu tấm áo ấy bằng những sợi chỉ bền của tiếng Avar.

Người ta nói rằng ngày xưa trong tiếng Avar chỉ có rất ít từ. Những khái niệm "tự do", "cuộc sống", "lòng dũng cảm", "hữu nghị", "lòng tốt", đều được thế hiện bởi một từ hoặc vài từ rất giống nhau về âm điệu và ý nghĩa. Mặc cho nhiều người nói rằng tiếng nói của dân tộc nhỏ bé chúng tôi nghèo nàn, tôi có thể dùng tiếng nói của tôi để nói lên tất cả những gì tôi khao khát, và để biểu hiện mọi tình cảm và ý nghĩ, tôi không cần viện đến một ngôn ngữ nào khác.

Ở Đaghextan có một dân tộc rất ít người – dân tộc Lắc. Chừng 5 vạn người nói tiếng đó thôi. Kẻ cũng khó mà tính cho chính xác, bởi vì ở đó có những đứa trẻ chưa biết nói và còn có những kẻ đã quên mất tiếng nói của cha ông.

Dân tộc Lắc ít ỏi, tuy vậy vẫn có thể gặp họ ở nhiều nơi trên thế giới. Cuộc sống nghèo khổ trên miền đất cằn cỗi ấy đã đẩy họ đến chỗ phải tha phương cầu thực. Họ đều là những thợ thủ công khéo léo – thợ đóng giày, thợ bạc, thợ mạ; một số người chuyên đi hát rong. Ở Đaghextan người ta thường nói: "Bổ dưa thì bố cho khéo, kẻo mà người Lắc trong đó nhảy ra".

Khi tiễn con trai đi những miền xa, người mẹ Lắc dặn dò con; "Trước khi ăn đĩa cháo ở một thành phố nào, con nhớ nhìn xem dưới đáy đĩa có người Lắc ta nào không".

Người ta kể lại. Có một người Lắc đi lang thang trên phố xá Matxcơva, hay Lêningrát gì đó. Bỗng anh ta nhìn thấy một người mặc quần áo Đaghextan. Anh ta bỗng cảm thấy thân thuộc, muốn bắt chuyện. Anh ta xấn lại gần người đồng hương và nói bằng tiếng Lắc. Người đồng hương không hiểu và lắc đầu. Anh chàng người Lắc chuyển sang nói tiếng Kumức, rồi nói tiếng Tát, rồi tiếng Lêzghin... Dù anh ta nói bằng tiếng gì thì người đồng hương mặc quần áo Đaghextan kia vẫn không thể bắt chuyện được. Đành phải nói với nhau bằng tiếng Nga. Lúc ấy mới biết rằng anh người Lắc đã gặp một người Avar. Anh chàng Avar bèn mắng nhiếc người bạn đồng hương bất ngờ gặp mặt:

– Anh dám nhận là người Đaghextan, anh dám nói là đồng hương với tôi thế mà lại không biết tiếng Avar! Anh không phải là người Đaghextan mà là một con lạc đà đần độn!

Trong cuộc cãi vã đó, tôi không thể đứng về phía người đồng bào của tôi. Không việc gì anh ta lại phải công kích người Lắc đáng thương kia. Tất nhiên có thể biết tiếng Avar mà cũng có thể không biết thứ tiếng đó. Điều quan trọng là người Lắc kia đã biết tiếng mẹ đẻ của mình. Anh ta còn biết thêm nhiều thứ tiếng mà anh chàng Avar nọ không biết.

Abutalíp có lần đến Matxcơva choi. Một lần ngoài phố ông có việc cần hỏi người qua đường. Chắc là ông cần biết chợ ở đâu, chẳng dè Abutalíp hỏi phải một người Anh. Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên – trên đường phố Matxcơva chẳng thiếu người nước ngoài.

Người Anh nọ không hiểu Abutalíp và hỏi lại ông mới đầu bằng tiếng Anh, sau đó bằng tiếng Pháp, rồi tiếng Tây Ban Nha, và có thể bằng nhiều thứ tiếng khác nữa.

Còn Abutalíp thì cố nói cho người kia hiểu mới đầu thì bằng tiếng Nga, sau đó bằng tiếng Lắc, rồi tiếng Avar, tíẽng Lêzghin, tiếng Đarghin, tiếng Kumức.

Hai bên không hiểu nhau và đành phải bỏ đi. Một vị người Đaghextan quá ư là có học, biết đôi ba chữ tiếng Anh, sau này đã nói với Abutalíp rằng:

Đây, anh đã thấy thế nào là học vấn chưa. Nếu anh có học hơn một chút, anh đã có thể nói chuyện với người Anh kia, anh hiểu chưa?

– Tôi hiểu rồi, – Abutalíp trả lời. – Chỉ có điều là tại sao anh chàng người Anh kia lại được coi là có học hơn tôi, vì anh ta cũng không hề biết một thứ tiếng nào mà tôi đã dùng để nói với anh ta!

Đối với tôi, ngôn ngữ của các dân tộc như các vì sao trên nền trời. Tôi không muốn nhiều vì sao hợp lại thành một vì sao chiếm nửa bầu trời. Đã có mặt trời rồi. Hãy để cho các vì sao lấp lánh. Hãy để cho mỗi người đều có riêng một vì sao.

Tôi yêu vì sao của tôi – tiếng Avar thân yêu của tôi.

Tôi tin vào các nhà địa chất nói rằng, trong quả núi nhỏ có thể chứa nhiều vàng.

– Tôi cầu trời không cho con bà nói được tiếng của bà nữa, – hai người đàn bà rủa nhau như vậy.

Về những lời rủa. Khi tôi viết truyện thơ "Người đàn bà miền núi", tôi cần biết một lời rủa để đặt vào miệng người đàn bà độc ác trong truyện. Người ta mách cho tôi rằng ở một làng xa có một người đàn bà luống tuổi chưa từng chịu thua ai trong những lần chửi bới nhau. Tôi liền khăn gói lên đường tới gặp người đàn bà lạ lùng đó.

Một buổi sáng đẹp trời mùa xuân, khi tôi không muốn chửi bới, nguyền rủa mà chỉ muốn vui mừng, ca hát, tôi đã phải bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà cần thiết cho tôi. Tôi thật thà nói với bà già vì cớ gì tôi đến. Đây, tôi muốn nghe một lời rủa nào thật cay độc, tôi sẽ ghi lại và đưa vào truyện thơ.

– Cầu cho lưỡi mày khô đi, cho mày quên tên người yêu, cho người mày có việc cần gặp không hiểu lời mày nói. Cầu cho mày quên lời chào làng quê khi mày đi xa trở về, cầu cho gió lùa vào miệng mày khi mày rụng hết răng... Này đồ chó, già này có thể cười được chăng (cầu trời tước cái niềm hân hoan này của mày đi!) nếu già không thấy vui? Tiếng khóc trong nhà có đáng giá gì nếu ở đây không ai chết cả! Già làm sao nghĩ ra được một lời chửi rủa, nếu không bị ai xúc phạm đến? Đừng bao giờ đến đây mà yêu cầu ngu ngồc thế nữa nhé.

– Cảm ơn bà già tốt bụng, – tôi nói vậy và rời khỏi ngưỡng cửa nhà bà.

Trên đường đi tôi nghĩ: "Nếu đang yên lành, không tức giận gì ai mà bà ta ứng khẩu cho tôi nghe những lời rủa điêu luyện như vậy thì khi bị ai chọc tức bà sẽ tuôn ra những lời rủa đến thế nào?"

Tôi nghĩ rằng rồi đây sẽ có nhà sưu tầm văn học dân gian Đaghextan nào đó sẽ soạn ra cả một cuốn sách gom góp những lời chửi rủa ở miền núi, lúc đó mọi người sẽ biết được mức độ sáng tạo, mức độ chính xác, trí tường tượng phong phú của người miền núi và cả sức biểu hiện của ngôn ngữ chúng tôi.

Mỗi làng quê đều có riềng những lời chửi rủa. Có lời rủa trói chân trói tay anh bằng những sợi dây vô hình; có lời rủa đẩy anh vào quan tài; có lời rủa làm mắt anh rơi vào đĩa canh đang húp, có lời rủa làm mắt anh lăn xuống khe sâu qua những tảng đá lởm chởm. Những lời rủa động đến đôi mắt là vào loại độc địa nhất. Đó lả lời rủa của các lời rủa. Nhưng vẫn có lời rủa còn đáng sợ hơn. ở một làng tôi đã nghe thấy hai người đàn bà chửi nhau:

– Cầu trời nó bắt đi cái người biết dạy con mày học nói!

– Cầu trời nó bắt của con mày đi cái người mà con mày có thể dạy nói!

Đấy, những lời rủa có thể đáng sợ đến như thế. Nhưng một người không biết tôn trọng tiếng mẹ đẻ cũng sẽ không còn được kính trọng ở miền núi nữa, dù không phải nghe một lời rủa nào. Người mẹ miền núi sê không đọc các bài thơ của con, nêu các bài thơ đó được viết bằng một thứ tiếng méo mó.

Rút trong sổ tay. Có lần tôi gặp ở Pari một họa sĩ người Đaghextan. Sau cách mạng ít lâu, anh ta sang Italia học, lấy một cô gái Italia rồi không về nước nữa.

Đã quá quen với cảnh núi rừng, anh chàng Đaghextan nọ thấy xa lạ giữa miền quê mới. Anh đi khắp các nơi, dừng lại khắp các thủ đô tráng lệ của các nước xa xôi, nhưng, dù anh đi tới đâu, lúc nào anh cũng cảm thấy buồn. Tôi muốn nhìn thấy nỗi buồn đọng lại thành đường nét, màu sắc, tôi yêu cầu anh cho tôi xem các bức tranh anh vẽ.

Có một bức tranh được đặt tên như thế này: "Nỗi buồn nhớ quê hương". Trên bức tranh là một người phụ nữ Italia (chính là vợ anh) mặc quần áo kiểu Đaghextan ngày xưa. Cô ta đứng bên nguồn nước tay cầm chiếc bình chạm bạc, sản phẩm của những người thợ lành nghề xứ Gôxalin. Đằng xa là cảnh buồn của làng quê Avar nằm trên sườn núi, những ngọn núi bên làng trông còn buồn hơn. Mây mù bao quanh đỉnh núi.

– Mây mù – là nước mắt của núi, – họa sĩ nói. – Khi mây mù phủ đầu sườn núi, thì bên những nếp nhăn vách đá bắt đầu rỏ xuống những gìọt nước trong trong. Mây mù – đó là tôi.

Ở một bức tranh khác, tôi nhìn thấy một con chim đậu trên bụi mận gai. Bụi cây ấy mọc giữa vách đá trần trụi. Chim đang hót, một người đàn bà miền núi từ khung cửa sổ ngôi nhà buồn buồn nhìn ra... Thấy tôi chú ý đến bức tranh này, họa sĩ nói rõ thêm:

– Bức tranh này dựa theo ý một câu chuyện cổ Avar.

– Chuyện cổ nào?

– Người ta bắt một con chim và nhốt nó vào lồng. Sống trong cảnh tù túng, suốt ngày suốt đêm chim kêu: cuốc – cuốc, cuốc – cuốc... giống hệt như tôi đã thầm kêu suốt bao năm qua... Chủ nhân của con chim đó, bèn nghĩ:

"Quê hương của nó ở đâu nhỉ? Có lẽ đó là một đất nước tươi đẹp, trù phú, nơi có những loài cây kỳ diệu, những gìống chim kỳ diệu. Hay là ta thả nó ra và thử nhìn xem nó bay đi đâu. Nó sẽ chỉ cho tôi con đường đến xứ sở diệu kỳ kia". Anh ta tháo chiêc lồng ra, và con chim liền vỗ cánh bay. Nó bay chừng mươi bước và đậu xuống bụi mận gai mọc lên giữa tảng đá trơ trọi. Trong bụi cây ấy đã có tổ của nó... Tôi cũng đang nhìn về quê hương mình từ khung cửa nhó chiếc lồng của tôi, – họa sĩ nói thế rồi dừng lại.

– Vậy thì sao anh không muốn trở về?

– Muộn rồi. Trước đây tôi đã mang đi khỏi quê hương trái tim trẻ trung nồng nhiệt, liệu tôi có thể mang lại cho quê hương bộ xương già nua này không?

Rời Pari trở về nước, tôi tìm kiếm họ hàng của họa sĩ. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy mẹ anh ta còn sống. Họ hàng thân thích tụ tập trong nhà buồn rầu nghe tôi kể chuyện về người con trai đã rời bỏ quê hương, đánh đổi quê hương lây một miền đất lạ. Nhưng dường như họ đều tha thứ cho anh ta. Họ mừng là anh ta vẫn còn sống, Bất ngờ bà mẹ hỏi tôi:

– Anh nói chuyện với con tôi bằng tiếng Avar à?

– Không. Chúng tôi phải nhờ phiên dịch. Tôi nói tiếng Nga, còn con trai bà nói tiếng Pháp.

Người mẹ kéo chiếc khăn đen che mặt như người ta vẫn làm khi nghe tin con chết. Mưa đều đều rơi trên mái nhà. Chúng tôi đang ngôi ở miền Avaria, ở tận cuối chân trời, nơi có Pari ấy, có thể là người con lưu lạc của Đaghextan cũng đang nghe thấy tiếng mưa rơi. Im lặng một lúc lâu, bà mẹ nói:

– Anh nhầm rồi, anh Raxun ạ, con tôi đã chết từ lâu rồi. Đó không phải là con tôi. Con tôi không thể quên được thứ tiếng mà tôi, một bà mẹ Avar, đã dạy nó.

Hồi ức. Có một thời kỳ tôi làm việc tại nhà hát Avar. Nhiều khi, với đủ thứ bài trí, phục trang, đạo cụ (lừa thồ các đồ lề của nhà hát chúng tôi, song cũng còn những thứ chính các nghệ sĩ phải mang lấy) chúng tôi đi hết làng này sang làng khác, giới thiệu với nhân dân miền núi nghệ thuật sân khấu. Tôi thường nhớ lại năm ấy, cái năm tôi đã sống trong ngành sân khấu.

Trong một vài vở- kịch, tôi được giao đóng những vai phụ, nhưng thường là tôi được ngồi ở chỗ nhắc vở. Là một nhà thơ trẻ, tôi thú vai nhắc vở hơn cả. Tôi cảm thấy diễn xuất của các diễn viên, điệu bộ, cử chỉ của họ trên sân khầu đều là thứ yếu và không cần thiết. Tôi cảm thấy cả quần áo, hóa trang, bài trí nữa cũng là thứ yếu. Có một điều tôi cho là quan trọng hơn hết thảy – đó là lời nói. Tôi theo dõi rất kỹ sao cho các diễn viên không thêm bớt lời nói, sao cho họ nói thật đúng với kịch bản. Và nếu có diễn viên nào đó bỏ bớt hay nói sai, tôi liền ló ra khói chỗ ngồi của mình đọc to lên cho cả rạp nghe thấy thế nào là lời nói đúng.

Phải rồi, tôi đã coi lời nói là quan trọng hơn hết. Bởi vì lời nói có thể sống được mà không cần đến quần áo, hóa trang – khán giả sẽ hiểu được ý nghĩa của lời nói.

Tôi nhớ lại một trường hợp buồn cười. Hôm đó chúng tôi trình diễn vở "Những người miền núi" viết về quá khứ xa xôi của dân tộc Avar. Như mọi khi, tôi lại giữ chân nhắc vở. Theo diễn biến của vở kịch, Aigazi, nhân vật trong vở, trốn trên núi để tránh sự trả thù, một đêm đã lén về làng gặp người yêu. Cô bạn gái khuyên anh mau trở về núi, không thì sẽ bị người ta giết, nhưng Aigazi (do diễn viên Magaép đóng) vẫn không rời nàng, anh trùm tấm áo khoác che mưa cho nàng và nói với nàng những lời yêu đương, đau khổ.

Đến đây có một chuyện bất ngờ xảy ra. Vợ của Magaép bỗng chạy lên sân khấu. Chị ta tức giận nhẩy bổ vào túm lấy anh vì tội anh đã tư tình với một người đàn bà khác. Magaép nắm lấy tay vợ kéo vào sau cánh gà để giải thích cho vợ biết rõ đầu đuôi. Anh hy vọng sẽ trở ra sân khấu ngay và tiếp tục vở kịch, nhưng chị vợ bám chặt lấy chồng và không chịu thả anh ra sân khấu.

Người yêu anh đành đứng lại một mình trên sân khấu. Vở kịch phải dừng lại.

Tôi ngồi trên bục thấp, và tất nhiên không mặc quần áo tử tế, không hóa trang, áo sơ mi cố không cài cúc, hình như chân chỉ đi giày vải. Với cách ăn mặc như thế, tôi không thể đóng thay Magaép, dù tôi đã thuộc lòng phần đối thoại của nhân vật Aigazi. Nhung bởi vì đối với tôi quan trọng hơn cả là lời nói chứ không phải phục trang, và thế là tôi nhẩy lên sân khấu và nói với cô gái bất hạnh kia những lời mà Aigazi – Magaép lẽ ra phải nói.

Tôi không biết khán giá hôm ấy có hài lòng không, có thể là vở diễn biến thành một thứ hài kịch với họ, nhưng riêng tôi thì cảm thấy hài lòng. Bởi vì họ đã hiểu được nội dung vở kịch, họ không bỏ qua một lời nói nào, và điều này tôi cho là quan trọng nhất.

Tôi còn nhớ với đoàn kịch đó lần đầu tiên tôi đến làng Guníp nổi tiếng, nằm rất cao trên núi. Mọi người đều rõ là nhà thơ với nhà thơ là bạn, dù họ chưa quen nhau. Ở làng Guníp cũng có một nhà thơ tôi đã được nghe tên, nhưng trước đây chưa từng được gặp. Tôi đến thăm nhà thơ đó và ở lại nhà anh ấy suốt những ngày đoàn kịch diễn tại đây.

Chủ nhân tốt bụng đã tiếp đón tôi thịnh tình đến mức tôi phải cảm thấy lúng túng, không biết đặt mình ở đâu. Tôi đặc biệt ghi nhớ tấm lòng dịu dàng, phúc hậu của bà mẹ nhà thơ.

Ra đi, tôi không tìm được lời cảm tạ. Lúc tôi chia tay với mẹ nhà thơ, trong phòng không có một ai khác. Tôi biết rằng với các bà mẹ thì không có gì vui hơn là được nghe những lời khen con trai mình. Và mặc dầu tôi rất tỉnh táo khi đánh giá những khá năng hết sức eo hẹp của nhà thơ lảng Gunip, tôi vẫn mở miệng dè dặt khen ngợi anh ta. Tôi nói với mẹ anh ta rằng, con trai bà là một nhà thơ rất tiến tiến, kịp thời.

– Có thể là nó rất tiên tiến, – bà mẹ buồn rầu ngắt lời tôi, – nhưng nó không có tài. Có thể thơ của nó rất kịp thời, nhưng khi đọc nó, tôi cảm thấy tẻ nhạt. Raxun, cháu thử nghĩ xem nhé. Khi con tôi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên, những tiếng không sao hiểu được, tôi đã cảm thấy sung sướng vô cùng. Thế mà bây giờ khi nó đã biết nói và còn làm được cả thơ nữa thì tôi lại thấy buồn tẻ. Người xưa nói là trí khôn của người đàn bà nằm nơi vạt áo. Khi ngồi thì còn, đứng lên thì rơi mất. Con trai tôi cũng vậy: khi ngồi sau bàn ăn, nó nói năng bình thường dễ nghe, nhưng chỉ cần đi từ bàn ăn đến bàn làm việc, lả nó đánh rơi mất tất cả những lời hay ho, giản dị. Chỉ còn toàn những lời khuôn sáo, nhạt thếch.

Nhớ lại câu chuyện đó, tôi cầu trời cho tôi không bao giờ bị mất đi lời nói. Tôi muốn sao cho những bài thơ của tôi, cuốn sách này của tôi và tất cả những gì tôi sẽ viết đều trở nên dễ hiểu, gần gũi với mẹ tôi, chị tôi, và mỗi người dân vùng núi, với những ai có cuốn sách này trong tay. Tôi không muốn gây ra sự buồn tẻ, tôi muốn đem tới niềm vui. Còn nếu lời nói của tôi không còn sinh khí, trở nên lạnh lẽo, khó hiểu và tẻ nhạt – nói ngắn gọn là nếu tôi làm hỏng mất lời nói của mình thì trong đời tôi sẽ không còn gì đáng sợ hơn.

Trước đây, khi dân làng chúng tôi tụ tập tại ngôi đến hồi giáo để bàn bạc việc chung, tôi đã đọc cho mọi người nghe thơ của bố tôi. Lúc ấy tôi còn là một cậu bé, nhưng tôi đã biết đọc thơ một cách hăng say (thậm chí quá hăng say), đọc thật to và nhấn mạnh những chữ, những âm tôi thích. Chẳng hạn, khi đọc bài thơ mới của bố tôi "Đi săn sói ở Xađa", âm "X" trong chữ "Xađa" tôi đọc qua kẽ răng, làm chừ đó như rung lên, đập vào nhau. Tôi tưởng rằng cách phát âm gay gắt, căng thẳng như vậy đối với âm ấy sẽ gây được nhiều ẵn tượng hơn.

Mỗi lần sửa cách đọc của tôi, bố tôi đều nói:

– Con cứ tưởng mỗi chữ là một hạt dẻ có thể lấy răng mà cắn vỡ sao? Hay là mỗi chữ giống như củ tỏi có thể bỏ vào cối đá mà giã sao? Hay là mỗi chữ là một thửa đất khô đẩy sỏi đá để cần phải ráng sức đẩy lưỡi cày xuống mà cày xới sao? Con hãy đọc từng chữ thật nhẹ nhàng, không phải cố sức, sao cho hàm răng con không phải xít lại, đập vào nhau!

Tôi lại đọc lại, nhưng vẫn không sửa được thói quen. Lúc ấy mẹ tôi đang đứng rìa ngoài mái nhà. bố tôi gọi mẹ tôi:

– Bà xuống mà dạy nó!

Mẹ tôi phát âm những chữ khó đối với tôi giống như bố tôi đã phát âm.

– Con nghe thấy chưa? Bây giờ thi đọc đi.

Tôi lại đọc sai như trước.

– Xì, – bố tôi nổi cáu. – Có lần tao đã lấy chổi phất trần quất một thằng vì tội làm hỏng lời nói. Nhưng với con tao thì biết làm thế nào?

Ông bực bội bỏ cuộc họp ra về,

Bố tôi đã đánh anh chàng phả rối như thế nào. Hôm đó là một phiên chợ mùa xuân. Mùa xuân, như ta biết đấy, những thứ thu hoạch được của vụ trước thì sắp hết mà thu hoạch vụ mới thì chưa đến. Về mùa xuân, mọi thứ ở chợ đều đắt hơn mùa thu, thậm chí các thứ nồi niêu cũng đắt, mặc dù đó không phải cây mọc ngoài đồng.

Bố tôi, lúc ấy còn trẻ, định đi ra chợ. Người hàng xóm gửi ông 20 kôpếch và nhờ ông mua một cái chổi phất trần.

– Nếu mua rẻ hơn thì tiền thừa anh cứ giữ lại, – người hàng xóm dặn dò bố tôi. Với lời dặn dò ấy, bố tôi đi ra chợ.

Một lúc sau ông tìm thấy người bán chổi lông và tiến lại mua. Mọi người đều biết, ở các chợ phương Đông lần nói giá đầu tiên không có nghĩa gì. Người bán có thể đòi đến 100 rúp cho thứ hảng chỉ đáng giá 5 kôpếch.

Bố tôi chọn một cái chổi lông đẹp, chắc và hỏi:

– Ông bán à?

– Thế tôi đứng đây làm gì?

– Bao nhiêu?

– 40 kôpếch.

– Cái chổi lông không phải là con ngựa, việc gì phải xướng giá cao thế, nói thiệt giá coi.

– Đúng 40 kôpếch.

– Ông không nói đùa chứ?

– Đúng 40 kôpếch,

– 20 kôpếch nhé!

– Đúng 40 kôpếch.

– Nhưng tôi chỉ có 20 kôpêch.

– Đúng 40 kôpẽch,

– Quả tình là tôi không có tiền hơn.

– Khi nào có tiền lại đến mua.

Biết là không mua được chổi lông, bố tôi bắt đầu đi lang thang trong chợ, lát sau ông nhìn thấy trên một mô đất cao, cách nơi bán hàng không xa, có nhiều người tụ tập. Ông lại gẩn, lách vào và hiểu là mọi người đang nghe ca sĩ Makhơmút hát.

Makhơmút ngồi giữa đám đông, tay cầm đàn panđur. Lúc thì ông gẩy đàn, lúc thì ông đặt bàn tay lên dây và hát. Mọi người nín thở lắng nghe. Chung quanh yên lặng đến mức có thể nghe rõ tiếng bay vo vo của một con ong nào đang tìm nhụy. Một chàng trai trẻ húng hắng ho khi nghe hát, liền bị một ông già tóc bạc, có lẽ là bố của chàng trai vừa ho, đẩy xa ra khỏi đám đông.

Giữa lúc mọi người im lặng nghe Makhơmút hát thì bỗng có một anh chàng nào đó cất tiếng nói chuyện với người bên cạnh. Thật ra thì anh ta cũng có ý định tốt thôi: anh ta kể lại cho người bên cạnh, người này không biết tièng Avar, nội dung của bài Makhơmút đang hát.

Nhưng tai họa là ở chỗ việc làm của anh ta đã cản trở mọi người nghe và thưởng thức bài hát.

Người bố tương lai của tôi lúc ấy rất lấy làm bực bội với cử chỉ của anh chàng nọ. Ông giật giật ống tay áo người kia, nhưng không ăn thua gì; ông nói nhỏ vào tai nhắc người kia im đi, nhưng anh ta không thèm để ý. Bố tôi bối rối nhìn quanh và bắt gặp người bán chổi lông lúc nãy cũng đến nghe. Bố tôi chạy lại, cầm lấy cái chổi lông to nhất và bắt đấu quất tới tấp vào anh chàng phá rối kia.

Anh chàng này lùi lại đe dọa bố tôi, nhưng bố tôi giận dữ đến mức không nghe thấy lời đe dọa và cuối cùng đã đuổi anh ta đi. Sau đó bố tôi quay lại phía người bán chổi lông để trả lại hàng.

– Anh cứ giữ lấy mà dùng.

– Nhưng tôi chỉ có 20 kôpếch mà ông đòi những 40 kôpếch cơ mà?

– Tôi biếu anh đấy. Hành động vừa rồi của anh còn đáng giá hơn tất cả gánh hàng của tôi.

Trên thế gian này, những kẻ phá rối bài ca như vậy có rất nhiều. Tiếc rằng ít khi tìm được chổi phất trần và tìm được người biết sử dụng cây chổi phất trần ấy.

Ở miền núi người ta thường nói về một chữ dùng hay, chính xác, sắc sảo là: "Chữ ấy đáng giá một con ngựa thắng yên rồi".

Rút trong sổ tay. Anh hàng xóm ở Makhátkala của tôi, Ali Aliép, là một đô vật tuyệt vời, bốn lần vô địch thế giới. Có lần ở Xtambun, anh phải đọ sức với đô vật mạnh nhất của Thổ Nhĩ Kỳ. Đô vật Thổ Nhĩ Kỳ quả thật là rất khỏe và nhanh nhẹn. Nhưng anh bạn hàng xóm của tôi, Ali Aliép, là một đô vật dũng cảm, bình tĩnh, anh đã quật ngã đối thủ nằm sóng soài trên thảm. Khi đứng dậy, đô vật người Thổ buột miệng văng ra một câu chửi. Ali Aliép rất ngạc nhiên khi nghe thấy tiếng Avar. Đô vật người Thổ kia còn ngạc nhiên hơn khi thấy kẻ chiến thắng cũng nói với anh ta bằng tiếng Avar: "Việc gì phải chửi thế anh bạn, thể thao là thể thao chứ!"

Trọng tài và khán giả lại còn ngạc nhiên hơn cả họ, khi thấy hai đối thủ bỗng dưng ôm chẩm lấy nhau, giống như hai anh em sau bao năm trời biệt tăm mới gặp lại nhau.

Hóa ra đô vật người Thố kia xuất thân từ một gia đình Avar, gia đình này đã rời sang Thổ Nhĩ Kỳ sau khi Samin bị bắt. Đến giờ hai đô vật ấy khi gặp nhau vẫn coi nhau như bạn bè.

Hổi ức của bố tôi. Năm 1939, bố tôi đi Matxcơva để nhận huân chương. Thời bây giờ đó là một sự kiện lớn. Khi ông trở về làng với tấm huân chương trên ngực, cả làng họp lại yêu cầu ông kể chuyện Matxcơva, chuyện Kremli, kể lại chuyện Mikhain Ivanôvích Kalinin, người đã trao huân chương cho tất cả, kể lại ấn tượng lớn nhất của ông.

Bố tôi tuần tự kể lại mọi chuyện rồi nói:

– Điều tôi nhớ nhất là Mikhain Ivanôvích đã đọc tên tôi theo tiếng Avar chứ không theo tiếng Nga. Ông gọi tôi là Xađax Khamxát, chứ không phải chỉ đơn giản là Gamzát Xađax.

Các ông già làng ngạc nhiên, gật gù tán thưởng.

– Bà con thấy chưa, – bố tôi nói, – khi bà con nghe tôi kể thôi mà bà con đã thấy thích, huống gì là tôi được nghe thế từ miệng Kalinin giữa điện Kremli. Nói thật với bà con là lúc ấy tôi mừng đến nỗi quên cả mừng được gắn huân chương.

Xúc động của người bố, với tôi rất dễ hiếu.

Cách đây mấy năm, trong đoàn đại biểu nhà văn Xô Viết, tôi sang thăm Ba Lan. Có lần ở Krakốp, tôi thấy tiếng ai gõ cửa buồng khách sạn của tôi. Tôi ra ở cửa. Một người lạ hỏi tôi hoàn toàn bằng giọng Avar:

– Gamzatin Raxun ở buồng này phải không?

Tôi mừng rỡ đến bối rối:

– Cầu cho nhà của anh không bao giờ cháy, không bao giờ sụp! Sao một người Avar như anh lại lọt vào Krakôp?

Thiếu chút nữa thì tôi đã ôm chầm lấy vị khách, tôi kéo anh ấy vào buồng và nói chuyện đến hết ngày và suốt buổi tối.

Nhưng vị khách không phải là người Avar. Đó là một nhà học giả Balan, chuyên nghiên cứu ngôn ngữ và văn học các dân tộc ở Đaghextan. Ông được nghe tiếng Avar lần đầu qua hai tù nhân Avar ở một trại tập trung. Ông thấy thích thú tiếng đó và còn thích hơn nữa chính bản thân người Avar. Ông bắt đầu nghiên cứu ngôn ngữ chúng ta. Sau này một tù nhân Avar đã chết, còn người kia thì chịu đựng cảnh tù đày, được Hồng quân cứu thoát và sống đến tận bây giờ.

Chúng tôi nói chuyện với nhau hoàn toàn bằng tiếng Avar. Đối với tôi, việc đó thật lạ lùng, khó quên. Cuối cùng tôi đã mời nhà học giả sang thăm Đaghextan.

Vâng, hôm đó cả hai chúng tôi đã dùng tiếng Avar. Tuy vậy giữa cách nói của hai người vẫn có một sự khác biệt lớn. Ông nói như một nhà học giả cần phải nói, nói bằng một thứ tiếng rất thuần, rất đúng, nhưng lại đúng quá, đến mức trở nên bằng phẳng, đơn điệu. Khi nói, ông nghĩ nhiều hơn đến ngữ pháp chứ không phải đến mầu sắc của tiếng nói, nghĩ nhiều hơn đến sơ đồ, đến cấu trúc câu, chứ không phải là đến thịt da từng chữ một.

Tôi muốn viết một cuốn sách, trong đó không phải ngôn ngữ phụ thuộc vào ngữ pháp mà là ngữ pháp phụ thuộc vào ngôn ngữ.

Nói cách khác, tôi ví ngữ pháp với anh chàng đi bộ trên đường, còn văn học thì giống như một người cưỡi la. Anh chàng đi bộ xin đi nhờ, và người cưỡi la cho anh ta ngồi sau lưng. Dần dần anh chàng đi nhờ bạo dạn lên, anh ta lấn người kia ra khỏi đệm ngồi, đuổi người kia xuống và gào to: "Con la này của tao, tất cả đồ đạc buộc bên yên cũng là của tao!"

Hỡi tiếng Avar thân yêu của tôi! Người là tài sản của tôi, là kho báu của tôi trong những ngày hoạn nạn, là vị thuốc thần trị trăm ngàn bệnh. Nếu một người sinh ra với trái tim của một ca sĩ, nhưng mồm lại bị câm thì có lẽ tốt hơn hết là anh ta đừng sinh ra. Nơi trái tim tôi có nhiều bài ca và tôi lại có giọng nói. Giọng nói đó chính là Người, tiếng Avar thân yêu của tôi. Người đã nắm tay tôi, như nắm tay một đứa trẻ mà dắt tôi đi từ làng nhỏ ra thế giới rộng lớn để đến với moi người, để tôi được kể cho họ nghe về miền đất quê hương tôi. Người đã dẫn tôi đến với tiếng Nga vĩ đại. Thứ tiếng ấy cũng trở thành thân thiết với tôi, nó đã cầm nốt tay kia của tôi mà dẫn đến nhiều nước trên trái đất, và tôi mang ơn tiếng Nga như mang ơn người đàn bà làng Arađêrích đã lấy bầu sữa của mình nuôi sống tôi. Nhưng mặc dầu vậy tôi vẫn luôn ghi nhớ rằng một người đàn bà khác đã sinh tôi ra.

Bởi vì, có thể sang hàng xóm xin diêm để về nhóm lửa trong bếp lò của mình. Nhưng không thể đi gặp bạn để xin những que diêm có thể nhen lên ngọn lửa trong tim.

Tiếng nói mọi người có thể khác nhau nhưng trái tim thì giống nhau. Tôi biết có những người bạn tôi rời bỏ làng quê đến sinh sống ở những thành phố lớn. Chuyện đó không phải là tai họa. Chim non chỉ ngôi yên trong tổ chừng nào chưa mọc đủ lông cánh. Nhưng nên nghĩ thế nào về một vài người bạn tôi khi sống ở các thành phố lớn bây giờ lại viết bằng một thứ tiếng khác? Tất nhiên đó là chuyện của họ và tôi không hề có ý định khuyên bảo họ điều gì. Nhưng dù sao họ vẫn giống như những người định dùng một tay mà cầm hai quả dưa hấu.

Tôi nói chuyện với những người bất hạnh ấy và thấy rằng ngôn ngữ mà họ dùng để viết bây giờ không phải là tiếng Avar nhưng cũng chưa phải là tiếng Nga. Thứ tiếng họ dùng gợi cho tôi nhớ đến một cánh rừng mà người ta đã chặt cây bừa bãi.

Tôi đã thấy những người đó, đối với họ, tiếng mẹ đẻ quá nghèo nàn, eo hẹp và họ phải đi tìm một tiếng khác giầu hơn. Nhưng kết quả lại giống như con dê trong truyện ngụ ngôn Avar. Con dê đi vào rừng để kiếm cho mình một cái đuôi sói, nhưng đuôi thì không kiếm được mà lại mất luôn cả cặp sừng.

Hay là, họ giống như những con ngỗng nuôi trong nhà, biết bơi biết lặn nhưng không thể như cá, biết bay một chút nhưng không thể như chim, biết cất tiếng hát nhưng không thể như họa mi. Không việc gì biết làm đến nơi đến chốn.

– Công việc thế nào? – có lần tôi hỏi Abutalíp.

– Thường thường vậy thôi. Không giống như sói mà cũng không giống như thỏ. Lừng chừng ở giữa. – Abutalíp im lặng rồi nói thêm: – Tâm trạng dở nhất ở một nhà văn là cảm giác lưng chừng. Anh ta phải cảm thấy mình hoặc là sói đã ăn thỏ, hoặc là thỏ đã chạy thoát khỏi sói.

Rút trong sổ tay. Có lần, đám thanh niên làng tôi kéo đến nhà bố tôi và kể lại rằng họ đã đánh một ca sĩ.

– Sao các cậu lại đánh anh ta? – bố tôi hỏi.

– Hắn hát sai lung tung bác ạ, – khi thi cố tình ho, xuyên tạc lời hát, khi thi kêu ré lên, khi lại sủa gâu gâu như chó. Hắn làm hỏng cả bài hát, thế là chúng cháu đánh hắn.

– Các cậu lấy cái gì đánh nó?

– Người lấy thắt lưng, người lấy nắm tay.

– Lẽ ra nên dùng cả roi ngựa nữa. Nhưng tôi muốn hỏi là các cậu đánh vào chỗ nào của nó?

– Chúng cháu đánh nhiều vào phần mềm thôi. Tất nhiên cũng có lần đánh vào cổ hắn ta.

– Nhưng mà chính đầu nó mới có tội kia mà!

Hổi ức. Sao lại không kể tiếp ra đây một chuyện nữa, nếu nó đã được nhớ lại? Ở Makhátkala có một ca sĩ người Avar... Tôi không muốn nói tên anh ta: anh ta thế nào cũng tự đoán ra, còn đối với chúng ta thì cái tên đó là thế nào cũng chẳng có gì hệ trọng, phải không? Nhiều lần chàng ca sĩ đó đến gặp bố tôi, yêu cầu ông viết lời cho những bài hát của anh ta. Bố tôi nhận lời và thế là những bài hát mới ra đời.

Có lần chúng tôi đang ngồi uống nước chè thì trên rađiô nói rằng một ca sĩ nối tiếng sẽ trình diễn một bài hát theo lời của Gamzát Xađax. Tất cả chúng tôi đều lắng nghe, cả bố tôi cũng vậy. Nhưng càng nghe chúng tôi càng kinh ngạc. Ca sĩ hát thế nào mà chúng tôi không sao nghe rõ được lời. Chỉ nghe rõ những tiếng rống lên, ca sĩ nuốt hết lời như con gà trống mới đầu thì ăn vội ăn vàng làm tung tóe thóc ra chung quanh, sau đó thì nhặt từng hạt một.

Khi gặp ca sĩ, bố tôi hỏi anh ta rằng sao anh ta lại xử tệ với lời hát của bố tôi.

– Tôi cố tình làm thế đấy, – ca sĩ trả lời, – để những người khác không hiểu gì, không nhớ gì. Nếu các ca sĩ khác nhớ được bài hát, thì họ sẽ hát mà tôi thì muốn hát bài đó một mình.

Ít lâu sau, bố tôi mời một số bạn bè đến nhà chơi, trong số đó có cả anh ca sĩ nọ. Cuối buổi gặp gỡ, bố tôi lấy từ trên tường xuống cây đàn kumuz hỏng dây và gảy tưng tưng vào chiếc dây đàn duy nhất còn lại cũng đã bị chùng mà nghêu ngao hát một bài do ca sĩ nọ sáng tác phẩn nhạc. Lời bố tôi hát rất rõ, nhưng điệu nhạc phát ra từ cây đàn hỏng dây kia thì nghe không còn ra thế nào nữa. Ca sĩ nổi cáu nói rằng bài hát của anh ta không thể biểu diễn bằng cây đàn hỏng ấy và cây đàn ấy không thể truyền lại được vẻ đẹp của âm điệu bài hát của anh ta. Bố tôi bình thản đáp:

– Tôi cố tình hát và đánh đàn thế đây, để cho không ai rõ nhạc của anh. Nếu bài ca không ai rõ lời có thể nghe được thì tại sao bài hát không ai rõ điệu nhạc lại không nghe được?

Người Đaghextan viết văn làm thơ bằng mười thứ tiếng khác nhau, nhưng chỉ được xuất bản bằng chín thứ tiếng. Nếu vậy thì những ai viết bằng tiếng thứ mười làm thế nào? Tiếng đó là tiếng gì?

Viết bằng tiếng thứ mười là những người đã quên mất tiếng mẹ đẻ – dù đó là tiếng Avar, tiếng Lắc hay tiếng Tát, nhưng cũng chưa kịp biết tiếng khác đến nơi đến chốn. Họ ở lưng chừng.

Hãy viết bằng thứ tiếng xa lạ nếu anh biết nó rõ hơn tiếng mẹ đẻ. Hoặc là hãy viết bằng tiếng mẹ đẻ nếu không biết một thứ tiếng nào khác. Chi có đừng viết bằng tiếng thứ mười.

Phải rồi, tôi là kẻ thù của tiếng thứ mười. Ngôn ngữ cần phải có chiều sâu hàng nghìn năm cổ kính, chỉ như vậy nó mới có thể dùng được.

Tất nhiên ngôn ngừ luôn thay đổi, tôi không chõng lại điều đỏ. Nhưng chẳng phải lá cây hàng năm vẫn rơi đấy sao, lá cây rơi khi đã úa vàng và những lá khác lại mọc lên thay thề. Chỉ có cây là còn lại. Mỗi năm nó lại thêm um tùm hơn, cao lớn hơn, rắn chắc hơn, Cuối cùng nó sẽ khai hoa, kết quá.

Tôi đem tới cho các bạn những bài ca, những cuốn sách của tôi như đem tới những chùm quả chín trên cái cây tuy nhỏ bé nhưng lâu đời của tiếng Avar.

TIẾNG MẸ ĐẺ

Thật vô lý lạ lùng, tất cả ở trong mơ:

Tôi chiêm bao thấy mình đã chết

Trong thung lũng Đaghextan, giữa ban trưa nóng bức

Tôi nằm yên. Ngực xuyên vết đạn chì.

Sông réo trôi, không một chướng ngại gì

Còn tôi bị lãng quên, không ai cần đến nữa

Tôi nằm duỗi trên quê hương xứ sở

Trước lúc hòa chung vảo đất mà thôi.

Không ai biết hôm nay tôi chết

Không ai phút này có mặt bên tôi

Chỉ cao tít là tiếng bầy chim ó

Con nai kêu từ đâu đó xa xôi.

Sẽ không một ai khóc trước mồ tôi

Thương tôi mất lúc đang còn tuổi trẻ

Khỏng bè bạn, không người yêu, không cả hình bóng mẹ

Cho đến một người khóc mướn cũng không!

Tôi cứ thế thiếp dần trong bất lực

Thì đột nhiên, nghe thấy, cũng không xa

Tiếng hai người vừa đi vừa trò chuyện

Bằng tiếng mẹ yêu thương – thứ ngôn ngữ Avar

Trong thung lũng Đaahextan, giữa ban trưa nóng bức.

Tôi chết giữa bao chuyện gần kề.

Chuyện nói đến chàng Gaxan ranh mãnh,

Chuyện kể về hành động của Ali.

Mơ hồ thấm từng âm thanh tiếng mẹ

Tôi bỗng tỉnh ra. Tới giây phút lạ lùng

Tôi chợt hiểu, người chữa tôi khòi bệnh

Chẳng thể là ai, ngoài tiếng mẹ thân thương.

Những tiếng khác dành cho dân tộc khác

Cũng sẽ khiến cho lành bệnh bao người!

Tôi chỉ biết nếu tiếng tôi biến mất

Thì tôi sẵn sàng nhắm mắt, buông xuôi.

Tôi luôn mê say với cả tâm hồn

Dù ai bảo tiếng tôi nghèo đến mấy!

Thứ tiếng không được dùng giữa diễn đàn trọng đại.

Vẫn thân thuộc cùng tôi, trọng đại với hồn tôi.

Thế hệ tiếp sau tôi, để hiểu Makhơmút

Chẳng lẽ lại cần bản dịch hay sao?

Và chẳng lẽ tôi là nhà văn sau chót

Được viết, được ca, bằng tiếng mẹ tự hào?

Tôi yêu cuộc đời, yêu hành tinh tôi ở

Yêu đến từng góc nhỏ khắp gần xa...

Mà trên hết là quê hương Xô Viết

Tôi muốn ngợi ca bằng chính tiếng Avar.

Cả đất nước tự do đang nở rộ

Từ Bantích đến Xakhalin – tôi thân quí vô vàn

Tôi có thể hy sinh vì nơi nào cũng vậy

Nhưng hãy chôn tôi vào lòng đất Đaghextan.

Có thể ngay đầu làng, đã gần kề mộ chí,

Để những người Avar, bằng tiếng mẹ Avar,

Thỉnh thoảng nhắc: Raxun, chàng đồng hương thuở trước

Họ nhà Gamzát đây, người gốc ở Xađa.

Rút trong sổ tay. Bố mẹ một chàng trai Avar không đồng ý cho con mình lấy một cô gái Nga. Nhưng chắc là cô gái rất yêu chàng trai Avar. Có lần anh nhận được thư cô gái viết bằng tiếng Avar. Chàng trai liền đưa ngay thư cho bố mẹ xem. Cả hai người đều xúc động ghê gớm; tay vẫn cầm lá thư khác thường ấy, bố mẹ đã cho phép anh ta được đem cô gái về nhà.

Rút trong sổ tay. Ngôn ngữ đối với nhà văn khác nào mùa màng ngoài đồng với nông dân. Một bông lúa có nhiều hạt, mà bao nhiêu bông lúa không đếm xuể. Nhưng nếu người nông dân khoanh tay ngồi nhìn cánh đồng lúa của mình thì cuối cùng anh ta không thể lấy được một hạt lúa nào. Lúa cần phải gặt và sau đó phải đập. Tuy nhiên đập rồi cũng chỉ mới làm xong một nửa công việc. Còn phải quạt sạch, sàng sẩy loại bỏ hạt cỏ dại lẫn vào. Sau đó phải xay thành bột, nhào nặn nó rồi mới cho vào lò nướng. Nhưng điều chủ yếu cần nhớ nhất có lẽ là, dù cần phải làm bánh nhiều đến đâu cũng không thể sử dụng hết các hạt đem về. Những hạt mẩy chắc nhất người nông dân để dành lại làm giống.

Người viết văn suy nghĩ cách sử dụng ngôn ngữ đúng nhất là nên so với người nông dân.

Người ta nói: Trẻ con chặt cây nào có chim ác – là làm tổ, và phá tổ của nó đi.

– Này cây, sao người ta chặt mi đi?

– Vỉ tôi không thể nói gì với bọn trẻ.

– Này chim ác – là, vì sao người ta phá tổ của mày?

– Vì tôi kêu nhiều quả.

Người ta nói: Lời nói là cơn mưa: mưa lần đầu là điều may mắn lớn, mưa lần hai cũng tốt, mưa lần ba còn chịu được, mưa lần bốn là tai họa.

(R. Gam-da-tốp, dịch giả: Phan Hồng Giang (Phần văn xuôi); Bằng Việt (Phần thơ))

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #ngữvăn