165-196

Chương 165: Hồi phong ba của bè lũ gian thần

Dương Lăng vội vã trở vào phủ, mấy người Hàn Ấu Nương nối gót theo sau. Tuy Ấu Nương có thai nhưng động tác vẫn còn rất nhanh nhẹn, bước chân thoăn thoắt trong khi Thành Khởi Vận chân bó gót sen, bước nhanh một chút là tóc tai tán loạn, má đào đỏ bừng phải nhờ Hàn Ấu Nương và Cao Văn Tâm dìu đỡ một bên.

Dương Lăng vòng qua bức tường chữ "Phúc" vẽ hình cá chép vượt long môn, nhìn thấy trong phòng khách đèn đóm sáng trưng thì biết Ngô Kiệt nhất định đã đến liền xoay người dặn dò Ấu Nương:

- Ấu Nương, nàng cùng Thành cô nương và Cao Văn Tâm xuống hậu đường nghỉ ngơi trước đi, ta đi gặp Ngô đại đáng đầu một chút.

Biết sự tình khẩn cấp, theo như thời tiết hiện tại thì Hàn Ấu Nương đoán có lẽ Thát Đát lại xâm lược biên cương, không biết bao nhiêu bá tánh sẽ gặp nạn binh đao. Nàng hơi nhíu mày nói khẽ:

- Tướng công đi đi, việc công quan trọng, Ấu Nương sẽ cùng hai vị tỷ tỷ đến hậu đường đợi chàng.

Dương Lăng gật đầu rồi liếc Thành Khởi Vận một cái đoạn xoay người bước vào phòng. Hàn Ấu Nương cùng Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đứng đó một lúc rồi vòng theo hành lang bên đi về phía hậu đường.

Ngô Kiệt mặc áo dài xanh ngoài khoác áo da, tay chắp sau lưng đi lòng vòng trong phòng. Vừa thấy Dương Lăng bước vào, lão liền vội ôm quyền thi lễ:

- Ty chức ra mắt đại nhân.

Dương Lăng cũng không khách sáo vội kéo lão bước vào trong ư phòng, chưa đợi ổn định chỗ ngồi thì đã hỏi ngay:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy? Giặc Thát lại kéo sang cướp bóc hay sao?

Ngô Kiệt gật đầu, nghiêm túc đáp:

- Dạ, năm ngoái tiểu vương tử Bá Diên Khả Hãn tập hợp năm vạn binh mã chia nhau tập kích cửu biên. Kết quả tuy thắng lợi trở về nhưng lại tổn thất thảm trọng, thậm chí con hắn cũng táng thân nơi chiến trường. Năm nay giặc Thát trở lại, tiểu vương tử liên thủ cùng Hoả Sư rồi tập hợp đại quân lên đến bảy vạn, trọng binh khí thế ào ào đã tiến đến Đại Đồng. Tổng binh Tuyên phủ là Trương Tuấn bại trận rút lui, tham tướng Trương Hùng và Mục Vinh đều chiến tử sa trường. Trước khi chiến báo của chúng ta kịp theo ngựa báo về thì giặc Thát đã công chiếm được Trấn Di sở, chỉ huy sứ Lưu Kinh chết trận, Hoa Mã Trì cũng bị công chiếm, Long Đức, Tĩnh Ninh, Hội Ninh đều bị xâm phạm. Sóc châu, Mã ấp giáp mặt với nguy hiểm trùng trùng.

Dương Lăng nghe vậy thì rùng mình lo ngại, y chắp tay đi loanh quanh trong thư phòng. Cây nến mờ mờ tỏ tỏ khiến khuôn mặt y trở nên âm u không rõ. Một lát lâu sau y mới dừng lại, hỏi:

- Quân trấn thủ Đại Đồng hiện còn bao nhiêu người?

Ngô Kiệt liền đáp:

- Trú quân bốn vạn, khách quân một vạn, chia ra trú thủ tại các thành ấp, lần này Thát Đát tấn công nhanh mà mãnh liệt, lại không chia quân tập kích các lộ như trước đây mà tập trung quân đội về một ngả trong khi chỉ chia một vạn quân công hướng Hoài An. Cánh quân thiết kỵ này tiến lui như gió khiến thủ quân các nơi đều kiêng dè không dám chủ động xuất binh chi viện, do vậy thế giặc hơn hẳn chúng ta.

Dương Lăng trở lại bên bàn, lôi dưới bàn ra mấy tấm bản đồ, rồi trải tấm bản đồ Thuyên phủ ra nói:

- Thám mã chúng ta phái đi tìm hiểu tình hình quan ngoại đã trở về. Lần trước chỉ nghe đại đáng đầu nhắc sơ qua, bây giờ ông trình bày kỹ càng tình hình cho ta, ngoài ra hãy nói rõ thêm phân bố binh lực và hướng tấn công của quân giặc cho ta...

Dưới ánh nến trong phòng, hai người trò chuyện suốt đêm khuya. Mãi tận lúc trời tờ mờ sáng Dương Lăng mới co duỗi cơ thể mệt mỏi của mình một chút rồi khẽ thở dài nói:

- Trời còn chưa sáng, cổng cung chưa mở, mặc dù giặc Thát đã mau chóng cắt đứt mấy yếu điểm nhưng tin tức từ phong hoả đài lúc này chắc đã truyền vào cung rồi.

Ánh mắt Ngô Kiệt loé lên, một chốc sau mới từ từ nói:

- Có phải đại nhân định dâng tấu lên Hoàng thượng?

Dương Lăng quay đầu lại hỏi:

- Ngô lão có kiến nghị gì?

Ngô Kiệt hơi cụp mắt, khẽ thở dài một tiếng và nói:

- Tình hình mà chúng ta nắm được chắc chắn sẽ chi tiết và đầy đủ hơn do thám của Cẩm y vệ, đại nhân có thể giải thích rõ ràng cho Hoàng thượng và bộ Binh, có điều đại nhân không nên can dự quá sâu vào việc tiến cử người xuất binh. Thế giặc quá mạnh, nếu lại chiến bại thì đại nhân sẽ khó tránh bị liên luỵ.

Dương Lăng lẳng lặng nhìn lão, khuôn mặt lấm lét của Ngô Kiệt đã có phần lúng túng và sợ hãi. Dương Lăng thấy mái đầu lão đã lấm tấm hoa râm thì nghĩ lão cũng chỉ muốn tốt cho mình, thế là thu lời trách mắng về, chỉ chậm rãi lắc đầu rồi lại gật đầu, lẩm bẩm:

- Ta biết, Nội xưởng chỉ là tai mắt của Hoàng thượng, không nên can thiệp quá nhiều vào chiến sự. Ôi! Người nào trong triều có thể dẫn quân xuất chinh đây...?

*****

Bầu trời đã toả ra ánh sáng nhưng mặt đất vẫn là một mảng xám tro, lúc này tuyết lớn bay lả tả, tuyết dày đọng lại khiến cho mặt đất lầy lội khó đi.

Lúc Dương Lăng dẫn hai mươi tay thị vệ cưỡi ngựa chạy đến dưới cổng thành thì mồ hôi đã đầy đầu, ngựa thở ra như khói. Trông thấy cổng thành vẫn đóng chặt y không khỏi cảm thấy lạ kỳ. Thủ hạ thị vệ khum tay hướng về phía đầu thành gọi lớn:

- Thủ vệ trên thành mau mau mở cổng.

Gọi mấy tiếng mà trên đầu thành vẫn không nghe, một tay thị vệ bèn rút cung ra, quay vòng ngựa lui về sau hơn hai mươi trượng rút tên ngắm bắn, một mũi tên rít lên âm thanh xé gió bay vào trong thành, "cốp" một tiếng, mũi tên đã cắm ngay giữa cánh cổng phòng vệ trên đầu thành.

Trong phút chốc, hai tay binh sĩ ló đầu ra khỏi đầu thành nhìn xuống quát to:

- Hôm nay cấm thành, kẻ nào gọi cổng?

Thị vệ kêu lớn:

- Tổng đốc Nội xưởng Dương Lăng muốn vào thành, ai đang giữ thành? Hãy mau mở cổng.

Sau khi liên tục xưng tên mấy lần, tên thủ vệ trên thành rốt cuộc đã nghe rõ nên hoảng sợ kêu lên một tiếng rồi rụt đầu vào. Đợi một lúc thì cổng thành được mở ra, một vị tướng lĩnh thủ thành khôi giáp chỉnh tề vội vàng chạy xuống nghênh đón, bước đến trước mặt Dương Lăng làm quân lễ:

- Ty chức là thiên hộ thủ thành Kiều Giới An tham kiến Dương đại nhân.

Dương Lăng chống tay lên đầu ngựa, lạnh lùng quát:

- Ai cho phép ngươi phong toả các cửa thành vậy? Đã xảy ra chuyện lớn gì?

Kiều Giới An là thủ lĩnh Kinh doanh và bộ hạ của Trương Vĩnh, hắn biết rằng Trương Vĩnh cũng rất kính sợ vị Dương đại nhân này, thấy mặt y nghiêm khắc thì không khỏi khiếp hãi đáp:

- Hồi bẩm đại nhân, hôm qua sau khi tan triều, Lưu công công của ty Lễ Giám đã ban một đạo chỉ liệt kê tên năm mươi sáu người gồm cả Lưu Kiện và Tạ Thiên, họ bị quy tội là gian đảng. Bá quan trong triều bất chấp gió tuyết đã tề tụ ở Ngọ môn suốt đêm để kháng nghị. Lưu công công sợ có người thừa cơ làm loạn kinh động thánh giá nên đã lệnh cho Trương công công phong tỏa cửa thành và Cốc công công điều động phiên tử Đông xưởng giám sát ngoài cổng cung.

Dương Lăng vừa nghe vậy liền cả kinh. Thảo nào cả ngày hôm qua không có người nào đến nhà, mà người của mình cũng không đưa được tin tức gì từ trong kinh đến, thì ra là Lưu Cẩn đã phong bế cửa thành, trừ mình ra thì người tầm thường đương nhiên sẽ không qua cửa được.

Theo tin tức từ hai ngày nay nhận được thì quả nhiên cải cách chính trị của Lưu Cẩn đã bị bá quan phản đối, ngay cả Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà trước giờ vẫn luôn giữ miệng ra sức phối hợp cùng Lưu Cẩn thì hiện tại cũng đồng loạt dâng sớ can dừng, bảo rằng các hạng mục cải cách chính trị này hoặc không phù hợp với thực tế, hoặc quá vội vàng hấp tấp, thỉnh cầu Hoàng thượng hạ chiếu khoan làm.

Dương Lăng nhận thấy có Lưu Cẩn thu hút sự chú ý của bá quan thì sẽ rất có lợi cho chính sách mà mình chuẩn bị chấp hành, hơn nữa hai ngày nay y bận rộn với việc ươm giống và nghiên cứu chế tạo vũ khí mới nên cũng không để ý lắm, ai ngờ sự tình lại chuyển biến bất ngờ như vậy. Sao Lưu Cẩn đột nhiên lại trả đũa lại những quan viên đã bãi quan hồi hương vậy? Là vì muốn giết gà doạ khỉ hay vì giận chó đánh mèo?

Năm mươi sáu người? Dương Tâm máy động trong lòng, chợt hiểu ra đại khái, bởi vì những quan viên có liên quan đến vụ án của Lưu Kiện và Tạ Thiên không nhiều như vậy. Lưu Cẩn tuyên bố năm mươi sáu người là bè đảng gian thần ắt hẳn là muốn mượn danh nghĩa đả kích Lưu Tạ mà gom một số quan viên dám phản đối cải cách của lão vào, lấy đó để lập oai, đe dọa bá quan.

Ý của tuý ông , văn võ trong triều ai mà nhìn không ra chứ? Một khi mở ra tiền lệ này thì tranh đấu chính trị có thể tuỳ ý co giãn, sự trói buộc liên đới có thể thu hẹp mà cũng có thể mở rộng, về sau còn kẻ nào phản đối Lưu Cẩn nữa thì chỉ cần hơi phóng đại sự liên đới này, lão sẽ có thể đẩy bọn họ vào "gian đảng". Bá quan biết rõ sự lợi hại trong đó cho nên đương nhiên sẽ phản kích cật lực.

Dương Lăng vừa giận vừa sốt ruột, y khoát tay nói:

- Biết rồi, tránh nhanh ra một chút, bản quan vào thành!

Kiều thiên hộ vâng vâng dạ dạ, cung kính tránh sang một bên, Dương Lăng quất roi dẫn thị vệ phi thẳng tới Ngọ môn.

Tuyết rơi im lìm, ngự đạo rộng lớn mờ mịt không một dấu chân người. Sáng sớm vì tuyết lớn và cửa thành bị phong tỏa nên tất cả người đi đường đều đã trở về nhà, không ai dám đi lại lung tung trên đường vì sợ bị xưởng vệ bắt đi.

Đền điện đình đài của các gia đình hào phú và quán rượu lầu gác trong các con phố đều được phủ lên một lớp tuyết trắng thê lương, chỉ có tiếng chuông chùa thi thoảng vang lên, hùng hồn và du dương, báo cho người ta biết rằng trong toà thành này vẫn còn sự sống.

Dương Lăng còn chưa chạy đến Phụng Thiên môn thì từ hai bên đường đã có phiên tử Đông xưởng cầm đao cầm thương chạy tới chặn đường. Đến lúc thấy rõ là người của Nội xưởng, dẫn đầu còn là tổng đốc Dương Lăng của Nội xưởng, đám phiên tử lần trước bị Nội xưởng chém giết cho sợ đến vỡ mật này liền vội cuống quít bò dạt ra hai bên, trơ mắt nhìn bọn họ phóng ngựa phi qua.

Đến Ngọ môn, Dương Lăng ghì cương ngựa, tuấn mã hí vang một tiếng dài phá tan bầu không khí tĩnh mịch của buổi ban mai.

Tuyết rơi lả tả trên mặt đất mịt mờ, Dương Lăng ngạc nhiên nhìn quảng trường rộng mênh mông trước Ngọ môn, tim đập thình thịch, hai mươi thớt khoái mã đuổi theo cũng dừng lại sau lưng y, đám thị vệ nín thở đưa mắt nhìn.

Trên quảng trường là một mảng tuyết trắng mênh mông, chung quanh lại có mấy trăm tay phiên tử đang lặng lẽ đi lại, thấy đám người Dương Lăng đi tới bọn chúng liền đều lần lượt dừng chân nhìn sang.

Tại trung tâm quảng trường, ngay trước Ngọ môn, mấy trăm "bức tượng" đang im lìm đắm mình trong tuyết, mỗi bức tượng là hình nhân bằng tuyết đang quỳ trên mặt đất. Chỉ khi tuyết bám rơi khỏi thân hình lảo đảo sắp ngã để lộ quan bào màu lam và đỏ bên trong thì mới nhận ra được đó đều là những quan viên đang kiên trì quỳ gối.

Dương Lăng ghìm chặt cương, quay ngựa một vòng tại chỗ rồi chợt nhún người nhảy xuống và chạy qua bên đó, hai mươi tay thị vệ liền vội theo sát ngay sau. Đến gần y mới phát hiện trong tuyết đã có rất nhiều người ngã xuống, do tuyết rơi dày, tất cả đều tuyền một màu trắng xóa cho nên khi nãy ở đằng xa y mới không thấy rõ.

Dương Lăng lật đật phủi tuyết trên thân thể của một người. Người nọ tuổi tác khá trẻ, thoạt trông chỉ tầm mười tám mười chín tuổi, lúc này mặt đã tái mét, thân thể cứng đờ, chân mày mép tóc đều đã đóng một lớp băng mỏng.

Người này không phải là quan viên, nhìn phục sức của hắn thì hẳn là học sinh thái học của Quốc Tử giám. Dương Lăng vội cởi chiếc áo khoác trên người mình xuống bọc người hắn lại rồi cố sức bế hắn lên. Hai tên thị vệ liền vội chạy lại đỡ lấy người nọ từ trong tay y.

Có mấy quan viên quỳ quanh đó vì hành động của y mà lặng lẽ xoay người lại, trên tấm thân bị phủ lớp tuyết dày chỉ lộ một khuôn mặt bị cóng đến trắng nhợt đang nhìn y một cách vô hồn.

Dương Lăng lại phủi lớp tuyết đọng trên thân thể một người đã bị cóng đến ngất xỉu. Đây là một quan văn ngũ phẩm, dưới cằm có ba chòm râu ngắn, hai mắt nhắm nghiền đã bất tỉnh nhân sự. Dương Lăng nắm chặt lấy hai bàn tay lạnh ngắt của ông ta rồi ngẩng đầu nhìn quanh. Từ xa, một tên đáng đầu được vây quanh bởi mấy chục tên phiên tử cầm đao hùng hổ đi tới, còn cách mấy trượng thì đã lớn giọng quát:

- Bản quan phụng mệnh Xưởng đốc đại nhân giám sát nơi này, kẻ nào dám tự ý can dự vào chính sự?

Lửa giận bùng lên, Dương Lăng ngẩng đầu quát trả:

- Chính sự cái rắm! Văn võ bá quan chính là nhân tài trị nước, là gốc rễ của xã tắc giang sơn! Ai ra mệnh lệnh cho ngươi mà dám ngược đãi đại quan triều đình hả?

Dương Lăng vừa thốt ra câu này thì đám quan viên thần chí đã hôn mê một nửa chung quanh không khỏi lần lượt quay đầu lại, kích động và kinh ngạc nhìn y. Tên đáng đầu nọ bước tới gần trông thấy rõ diện mạo Dương Lăng thì không khỏi giật nảy mình, hai gối mềm nhũn liền quỳ xuống vái lạy, lo sợ đáp:

- Ty chức không biết đại nhân giá đáo, thật thất lễ, mong đại nhân thứ tội.

Lúc này Dương Lăng cũng nhìn rõ người này. Tên này nguyên là lục đáng đầu của Đông xưởng, tên là Chu Khởi Phượng. Trước khi Cốc Đại Dụng tiếp nhận Đông xưởng thì Phạm Đình và mấy nhân vật chủ chốt như nhị đáng đầu và tam đáng đầu đều đã bị đám người Bành Kế Tổ âm thầm tiêu diệt vịn cớ ngoan cố chống cự. Chu Khởi Phượng sợ đến mất mật bèn đem hết toàn bộ bí mật mà mình biết được bẩm rõ với Nội xưởng, nhờ vậy mà giữ được tính mạng, về sau lại đến nương dựa vào Cốc Đại Dụng, lại được phục hồi nguyên chức.

Thấy người tới là Xưởng đốc Nội xưởng Dương Lăng, hắn liền vội dập đầu hành lễ, đám phiên tử theo sau chuẩn bị bắt người vừa trông thấy cũng liền vội quỳ theo. Dương Lăng tím mặt mắng to:

- Mau gọi người giúp đưa các vị đại nhân vào nhà dân quanh vùng sơ cứu, kêu người nấu một ít canh nóng... đợi đã, trước khi cứu tỉnh người thì hãy lấy tuyết chà khắp người, đừng đặt ngay lên giường sưởi.

Y thấy Chu Khởi Phượng còn hơi do dự thì liền trừng mắt quát:

- Lập tức đi làm ngay, về phía Cốc công công sẽ có bản quan nói thay cho ngươi!

Chu Khởi Phượng liền vội luôn mồm vâng dạ:

- Dạ dạ, ty chức lập tức làm theo, lập tức làm ngay. Người đâu, mau đỡ các vị đại nhân dậy.

Một giọng nói yếu ớt già nua bỗng cất lên:

- Dương đại nhân, bọn ta chết không đáng tiếc, song cái gốc của hoạ này là Lưu Cẩn loạn chính, thi hành luật ác nay lại gán tội cho người, buộc tội Lưu đại học sĩ, Tạ đại học sĩ đã bãi quan hồi hương và những người bất đồng chính kiến trong triều là gian đảng, Hoàng bảng mà không được niêm phong trả lại, tội danh của năm mươi sáu đồng liêu không được xá bỏ thì bọn ta thà chết cóng tại đây, học theo tuyết kia giữ lòng thanh khiết!

Dương Lăng thấy người đó râu tóc bạc trắng, thân thể run rẩy, tuy mặt mày đã cóng đến độ tái ngắt song y vẫn nhận ra được vị đó là người từng đối đầu với mình nay được thăng lên làm thị lang bộ Lai, Vương Ngao.

Sau khi Dương Lăng "trọng thương" hồi kinh cùng với tin tức cái chết của Vương Quỳnh là do Phạm Đình của Đông xưởng 'giá họa' được truyền ra, lão phu tử này không còn căm ghét Dương Lăng nữa. Hôm nay nghe thấy lời của y thì cảm thấy có mấy phần hảo cảm với hành động của y, vì vậy lão mới xuất ngôn biểu đạt ý nguyện của bá quan đang quỳ gối tỏ lòng can gián.

Quan viên và đám học sinh thái học quỳ gối chung quanh đồng thanh hô to:

- Đúng, hoàng bảng mà không gỡ bỏ, trung thần không được xá tội thì chúng ta thà nguyện chết cóng tại đây, học theo tuyết kia giữ lòng thanh khiết!

Dương Lăng thở hắt ra một hơi, giao vị quan văn đã bị hôn mê trong tay cho thủ hạ rồi chậm rãi bước tới phía trước, bước chân dẫm lên lớp tuyết dày phát thành tiếng "rộp rộp". Dương Lăng đi đến chỗ trên cùng gần sát với cổng cung, có hơn nửa số quan viên Lục Bộ Cửu Khanh đang quỳ tại đây, trên cùng là hai quan văn, người già nua hơn là Lý Đông Dương, người còn lại tuổi trạc hơn bốn mươi đang quỳ cạnh dìu đỡ ông ấy là Dương Đình Hoà.

Trên người Lý Đông Dương được khoác thêm vài chiếc quan bào, cũng không biết là những quan viên nào đã cởi áo mình khoác lên cho ông ấy. Trong tay ông ôm một cuộn giấy vàng, hiển nhiên đó là hoàng bảng dán ở cổng cung nhằm tuyên cáo tên của năm mươi sáu thành viên 'gian đảng'.

Dương Lăng vội bước tới, dìu đỡ Lý Đông Dương dậy, khẽ nói:

- Đại học sĩ, ông... sao ông lại dẫn đầu quỳ gối can gián trước cổng cung vậy chứ. Nếu như hai vị đại học sĩ có ý kiến gì thì có thể vào cung bẩm rõ với Hoàng thượng mà. Làm vậy... làm như vậy sẽ tổn hại đến thân thể...

Lý Đông Dương lảo đảo đứng dậy, trông thấy là y, mắt lão không khỏi hiện lên sự vui mừng Nghe được ngữ khí mang chút trách móc của y, Lý Đông Dương cười khổ sở đáp:

- Dương đại nhân, hôm nay Hoàng thượng vịn cớ mang bệnh mà hủy tảo triều, đại học sĩ như ta lúc này cũng không có cách nào để yết kiến thánh thượng. Nếu như hoàng bảng được ban bố thiên hạ thì sẽ không thể rút lại nữa, bất đắc dĩ ta mới dùng đến hạ sách này. Ai ngờ... bá quan quỳ gối can gián vậy mà Lưu Cẩn vẫn còn lẫn tránh như vậy.

Dương Lăng giậm chân thầm nghĩ bá quan và Lưu Cẩn có giằng co thì y mới có thể thu lợi từ trong đó, còn nếu để Lưu Cẩn lật đổ được toàn bộ văn võ, cả triều đình bị ngưng trệ vậy há chẳng rất nguy sao?

Y đoạt lấy hoàng bảng trong tay Lý Đông Dương rồi khẽ giọng nói:

- Nếu như hai vị đại học sĩ tin tưởng hạ quan vậy hãy giao chuyện này cho hạ quan xử lý. Hai vị đại học sĩ hãy khuyên nhủ bá quan mau chóng về nhà điều dưỡng, vạn lần đừng để lỡ quốc sự. Chẳng lẽ... hai vị đại học sĩ còn chưa biết Hoả Sư và tiểu vương tử dẫn bảy vạn đại quân công thành cướp đất, những quan ải biên cương đã tràn ngập trong khói lửa chiến tranh rồi sao?

Lý Đông Dương giật mình thất kinh, hỏi ngay:

- Lại có chuyện này sao? Hàng năm gặp thời tiết này Thát Đát cũng đều dấy binh tập kích biên giới, trong kinh đã nhận được phong hoả truyền tin, chỉ là hiện tại vẫn chưa nhận được quân báo chi tiết. Năm nay tình hình lại nghiêm trọng vậy sao?

Dương Lăng thầm nghĩ: "Khoái dịch truyền tin ở biên quan vị tất đã nhanh bằng bên tôi. Huống hồ mấy người đều chạy đến đây quỳ gối can gián, bên ngoài lại bị Đông xưởng và quân đoàn Kinh doanh phong toả, cho dù có tin tức mang đến chỉ sợ cũng không thể mang vào."

Dương Lăng vội đáp:

- Đúng vậy! Quốc sự làm trọng, kính xin hai vị đại học sĩ dẫn các quan viên trở về trước. Hiện tại cần phải chữa trị ngay các quan viên bị cóng rét, những người có thể trở về nha môn làm việc cũng không thể lại làm việc theo cảm tính. Hạ quan sẽ lập tức vào cung, vụ án 'gian đảng' này hãy giao phó cho hạ quan vậy.

Lý Đông Dương cũng biết lúc này tuyệt đối không phải là thời khắc nội đình và ngoại đình tiếp tục tranh chấp, biên quan cấp báo việc ngoại xâm, hết thảy phải lấy đại cuộc làm trọng. Lão lập tức gật đầu:

- Được! Nếu quả như Lưu Cẩn khơi mào chuyện đả kích những người bất đồng chính kiến là 'gian đảng' thì nhất định từ đây về sau bè cánh sẽ không ngừng tranh đấu, ngày một thêm nghiêm trọng. Việc này đành phải xin nhờ tới đại nhân rồi, văn võ bá quan thì hãy giao cho ta và Giới Phu khuyên nhủ vậy.

Dương Lăng gật đầu, tay cầm hoàng bảng, cao giọng nói to:

- Các vị đại nhân, Dương mỗ nguyện gánh vác việc gỡ bỏ hoàng bảng và giải trừ vu cáo 'gian đảng', nhưng triều đình không thể một ngày không có bá quan, bá quan không thể một ngày không đoái hoài đến chính sự. Giờ đây biên thùy báo nguy, bảy vạn đại quân hùng hậu của Thát Đát đã áp sát biên giới, công thành cướp đất, thành trì rơi vào tay giặc, bá tánh gặp tai ương. Xin các vị đại nhân hãy tạm thời rời khỏi Ngọ môn, bảo trì thân thể, lấy giang sơn xã tắc làm trọng, lấy lê dân bá tánh làm trọng!

Lưu Đại Hạ có thân thể khoẻ mạnh, chớ thấy lão là ông già bảy mươi mà xem thường. Trải qua suốt đêm cực khổ ở đây nhưng tinh thần vẫn quắc thước, nghe vậy lão liền lập tức đứng bật dậy, thất kinh hỏi dồn:

- Cái gì? Biên cảnh đã nguy cấp đến vậy rồi sao? Bộ Binh vẫn chưa nhận được công văn, ngươi... tin tức của ngươi có đáng tin không?

Dương Lăng gật mạnh đầu, đáp:

- Tuyệt không giả dối, xin đại nhân mau chóng trở về bộ Binh. Sợ rằng một khi Hoàng thượng nhận được tin tức sẽ lập tức triệu kiến ngài đó.

Lý Đông Dương được Dương Đình Hoà dìu đỡ xoay người lại, lấy hơi nói to:

- Các vị đồng liêu, Dương đại nhân sẽ lập tức vào kinh kiến giá, đã nhận lời hứa sẽ bẩm rõ với thánh thượng cho bá quan chúng ta. Giờ đây biên quan nguy cấp, quốc sự làm trọng, mọi người... hãy tạm thời hồi phủ, cố sớm quay về nha môn làm việc.

Có được câu nói này của Lý Đông Dương, bá quan bắt đầu xao động, từng người lảo đảo đứng dậy rồi đi dìu đỡ đồng liêu đã bị hôn mê. Tuyết dày rét cóng, (lúc tuyết rơi thì trời mới hơi ấm lên một chút), hơn nữa đây là trận tuyết lớn đầu tiên đầu mùa đông, vừa đói vừa mệt cộng với lạnh giá đã khiến một ít quan viên thể chất yếu nhược ngất xỉu, may mà chưa có ai chết cóng.

Đám phiên tử Đông xưởng có lòng muốn đến dìu đỡ, những quan viên đó tuy đứng còn không vững nhưng lại khăng khăng không chịu để bọn chúng giúp đỡ, tuy nhiên Dương Lăng đã hạ lệnh, phiên tử Đông xưởng đặt tại các cửa khẩu đều đã lần lượt rút về, ngựa xe và gia bộc của các vị đại nhân bị chặn lại ở ngoài đầu phố lần lượt kéo vào đón các vị đại nhân của mình lên kiệu rồi nhanh chóng kéo đi.

*****

Đưa tiễn kiệu của Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà xong, Dương Lăng mới trở lại trước cổng cung, gõ tấn khẩu bên hông, trình thẻ bài ra. Bên trong tra xét xong, thấy rõ là Dương Lăng thì lúc này cổng cung mới được mở ra.

Dương Lăng thấy cấm vệ đại nội đứng gác trong cung cũng mâu giáp uy nghiêm thì càng không khỏi chau mày, lòng thầm cảnh giác.

Lần này y có ý muốn giao cho Lưu Cẩn đi làm loạn cả kinh thành, vả lại trên danh nghĩa Đông xưởng và Tây xưởng đều bị Lưu Cẩn quản hạt. Lưu Cẩn thân là thủ lĩnh ty Lễ Giám, hạ lệnh phong tỏa kinh thành, đám người Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ tất sẽ không dám ngang nhiên kháng lệnh, không ngờ bởi vì chuyện xảy ra đột ngột như vậy mà ngay chính mình cũng bị giấu kín, không nhận được tin tức gì.

Dẫu rằng Hoàng đế Chính Đức vẫn tin cậy mình hơn Lưu Cẩn nhưng lão ta lại chiếm được một ưu thế, chính là hàng ngày hầu hạ bên cạnh Hoàng thượng. Xem ra ngoài con đường truyền tin thông thường trong kinh mình cũng nên âm thầm bố trí thêm liên lạc ngầm, bằng không đôi lúc khó tránh sẽ bị che mắt. Giả như Lưu Cẩn có ác ý gì với mình...

Dương Lăng vừa nghĩ thầm vừa chạy thẳng về phía gác Tây Noãn trong cung Càn Thanh. Hoàng đế Chính Đức thích nhất là ở trong toà cung điện mà năm xưa vua Hoằng Trị thường ở này, từ lúc lãnh đạm với hậu cung đến nay thì hắn càng không chịu đến nơi khác ở.

Dương Lăng thong thả tiến vào gác Tây Noãn. Ngoài điện trống trơn, hai tiểu hoàng môn thấy y tới vừa mới khom người hành lễ thì y đã vội khoát tay ngăn lại. Rẽ trái đi vào chính là trung điện, là nơi Chính Đức thường xử lý chính vụ. Dương Lăng vừa định đưa tay vén bức rèm gấm thêu hình rồng vàng thì chợt nghe bên trong có tiếng người vọng ra, ngón tay mới vừa vén ra một chút liền dừng lại đó.

Y nghe thấy tiếng Miêu Quỳ cất lên:

- Lưu công công, lần này có phải đã gây ra chuyện lớn rồi hay không? Ta đã sai người đi xem thử, bá quan đã quỳ trước cổng cung một đêm rồi, nếu bị cóng chết mấy người khiến cho bọn họ nổi giận thì chúng ta càng sẽ chịu phải công kích của người ta đó.

Liền đó giọng nói của Trương Vĩnh họa theo:

- Phải đó, theo ta thấy, có nên thông báo cho Dương đại nhân một tiếng, mời y đến cùng nhau bàn tính một chút hay không?

Lúc này y lại nghe Mã Vĩnh Thành "hừ" một tiếng rồi nói:

- Còn kịp à? Lúc này đã cưỡi trên lưng cọp rồi, thánh chỉ mới vừa xin ngày hôm qua, nói hay như vậy với Hoàng thượng, nói là bá quan trong triều khi phụ quân chủ nhỏ tuổi, chúng ta chỉ phạt thanh danh đám người Lưu Kiện mà không dùng hình cụ, lấy đó để cảnh cáo bá quan khiến chúng kính sợ. Muốn quay lui thì sẽ giải thích sao với Hoàng thượng bây giờ đây? Dương đại nhân à... làm ra đến mức này rồi, người ta sẽ chịu dọn dẹp giúp cho chúng ta ư?

Dương Lăng ghé mắt vào khe hở rèm cửa nhìn vào bên trong, thấy một dãy ghế dựa mũ quan bằng gỗ lim, Lưu Cẩn thân vận mãng bào, tay cầm bình tử sa miệng bồ câu (*) đưa lên miệng hớp ngụm trà, căm hận nói:

- Cho dù bọn chúng không sợ chết, ta không tin đám thư sinh được cưng chiều từ bé đó sẽ chịu được cái lạnh, chống nổi cái đói. Mấy người sợ cái gì chứ? Chờ đến giữa ngọ mà xem. Hừ, đến lúc đó cho người rút hết phiên tử, cho phép gia bộc bọn chúng vào, bảo đảm bọn chúng sẽ lăn ngay về nhà giả chết như mấy con lừa cho xem.

(*) bình trà làm bằng đất sét nâu.

Lúc này một chiếc mãng bào lại tiến vào trong tầm mắt, xoay người lại ngồi cạnh Lưu Cẩn, đó là Xưởng công Cốc Đại Dụng của Đông xưởng. Lão cười gượng nói:

- Nói đúng lắm, bây giờ cũng chỉ có thể đi bước nào xem bước nấy thôi. Bây giờ đọ sức cùng ngoại đình, kẻ nào lui trước là thua, đừng tìm Dương đại nhân đến mà khiến y chê cười. Chúng ta cứ chờ thôi.

Lão suy nghĩ một chút rồi nói:

- Lưu công công, ông thấy có nên gỡ phong toả cửa thành trước không? Tuy rằng trời lạnh tuyết to ít người ra vào nhưng người đi nam về bắc cũng có không ít, phong toả kinh thành dân gian khó tránh sẽ đồn đoán linh tinh. Hơn nữa việc này vốn cũng không cần phải che tai mắt người ta.

Lưu Cẩn nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Ừ, Trương công công, phiền ông thông tri mở cửa thành vậy. Có điều... Cốc công công, Đông xưởng vẫn phải chú ý mấy con đường quan trọng đến Ngọ môn một chút, đừng để những kẻ tạp nham nhàn rỗi chạy đến xem náo nhiệt. Loạn như vậy là đủ rồi.

Hai người vâng dạ đáp lời. Thấy Cốc Đại Dụng đứng dậy định đi ra ngoài, Dương Lăng vội vén rèm, ho khan một tiếng rồi thong thả bước vào.

Trương Vĩnh vừa quay người lại, liếc mắt trông thấy Dương Lăng liền không khỏi kinh ngạc kêu lên:

- Dương đại nhân? Sao hôm nay lại vào kinh vậy?

Dương Lăng quét mắt nhìn lướt mọi người, thấy ngoài kinh ngạc phần lớn còn lộ ra sự mừng rỡ. Những vẻ mặt vốn dĩ có phần lo lắng bất an đã tiêu tan không ít, như thể cảm thấy đã tìm được trợ thủ mạnh mẽ, ngay cả Lưu Cẩn dẫu rằng mặt không đổi sắc nhưng trong mắt cũng không giấu được vẻ vui mừng.

Dương Lăng thầm nghĩ: "Xem ra lần này bọn họ giấu giếm mình cũng không phải cố ý muốn gạt mình sang một bên mà là tự cho rằng có thể chi phối văn võ cả triều, nhưng không ngờ càng làm càng rối."

Y giơ hoàng bảng trong tay lên, ra vẻ hoảng hốt nói:

- Đây là chủ ý của ai vậy? Thật hồ đồ quá rồi. Lưu công công thi hành tân chính đang cần đến sự ủng hộ đắc lực của bá quan. Lưu, Tạ nhiều lắm chỉ là những kẻ bị bãi quan, không bao lâu nữa sẽ bị người ta quên đi, ảnh hưởng và uy đức trên quan trường cũng sẽ dần dần phai nhạt. Giờ lại chỉ trích bọn họ là gian đảng vậy khác nào lại nâng bọn họ lên lãnh tụ của bá quan, làm vậy không phải là tự tạo thêm cường địch ư?

Đám người Cốc Đại Dụng nghe vậy thì ngơ ngác nhìn nhau, không hẹn mà cùng lặng lẽ hướng mắt về phía Lưu Cẩn, khuôn mặt già nua của Lưu Cẩn thoáng đỏ lên. Lão nghe nói bá quan đã quỳ một đêm, trong lòng cũng đã thấp thỏm bất an, cảm thấy biện pháp của vị quân sư tú tài mà mình rước về có hơi quá đáng nhưng lại không thể cúi đầu khuất phục bá quan, thành ra vẫn cố đấm ăn xôi. Giờ nghe Dương Lăng nói vậy, lão cũng không biết mình đã phạm phải sai lầm lớn gì, không khỏi ngượng ngập hỏi:

- Ừm..., Dương đại nhân cảm thấy biện pháp này không tốt ư?

Đoạn lão đứng dậy nói:

- Nghe nói năm Huy Tông thời Bắc Tống, trong triều đả kích bè lũ gian thần đã dựng lên bia đá gọi là "Gian Đảng". Kết quả bè lũ gian thần đã bị hốt gọn, về sau cũng không còn ai dám chỉ trích triều chính bậy bạ nữa. Vậy sao... sao...?

"Năm Huy Tông? Đó là triều đại có nhiều bè lũ gian thần nhất của Đại Tống." Thật ra Dương Lăng nhớ được rất nhiều sự kiện của triều đại này nhờ từng xem truyện trào phúng, cũng biết chuyện dựng bia đá "Gian Đảng", y thở dài nói:

- Lưu công công, đây là ý tưởng của vị tú tài nào vậy? Hắn muốn đẩy chủ mình vào chỗ bất nghĩa hay sao? Lưu công công ngài thử nghĩ đi, cầm quyền vào triều đại đó đều là những kẻ nào? Là đám lục tặc hại nước Thái Kinh và Đồng Quán đó!

Đoạn y nhìn một vòng rồi cười nhạt nói:

- Hay lắm, khéo lắm. Năm vị công công Lưu, Mã, Trương, Cốc, Miêu cộng thêm Dương Lăng ta, bảng gian đảng này một khi được dán lên thì Đại Minh sẽ xuất hiện lục tặc hại nước mới đây.

Đám người Lưu Cẩn nghe vậy muốn cười song lại nín nhịn, nhất thời cũng không hỏi xem tại sao một khi dán bảng "gian đảng" lại có nhiều tác hại như vậy, trong lòng chỉ cảm thấy học vấn của Dương Lăng hơn xa bọn họ, y nói như vậy tất có lý lẽ của mình. Về phần gian tặc hại nước hả, ai mà thèm làm, bọn họ còn nghĩ mình là mấy đại trung thần đó.

Lưu Cẩn ngắc ngứ nói:

- Ta thi hành tân chính, bá quan nhất loạt đều phản đối. Đám mọt sách này vốn luôn xem thường nội đình chúng ta, chỉ cần là những gì chúng ta đề xuất hoặc nói ra bọn chúng đều sẽ nhắm mắt phản đối luôn, ngay cả lý do cũng lười nói cho đại nhân biết. Cái bản mặt khinh thường người khác đó thật sự khiến cho người ta tức chết đi được. Ta vốn chỉ định đánh vào cái dáng vẻ kiêu ngạo của bá quan một chút nhưng không ngờ bọn chúng lại kiên quyết như vậy, quỳ gối cả đêm trong tuyết, may mắn là sáng nay Hoàng thượng bãi bỏ tảo triều bằng không chúng ta thật sự sẽ rất bận rộn. Nhưng mà Dương đại nhân lại lấy hoàng bảng về rồi, nếu như lấy về thì mặt mũi mấy người bọn ta để đâu? Biết phải giải thích sao với Hoàng thượng đây?

Mấy người Cốc Đại Dụng mới vừa thăng chức, việc mà bọn họ quan tâm nhất chính là điều này, nghe vậy liền gật đầu lia lịa. Dương Lăng nói:

- Cho dù không có chuyện này thì chẳng lẽ ngoại thần sẽ coi trọng chúng ta ư? Hơn nữa... trọng binh Thát Đát đã áp sát biên cương, lúc này biên quan cấp báo, cần nội thần và ngoại thần đồng tâm hợp lực chống giặc ngoại xâm. Lý do này đã đủ hay chưa? Các vị hãy dùng lý do này mà dâng tấu lên cho Hoàng thượng, xin Hoàng thượng thu hồi thánh chỉ. Hoàng thượng tất sẽ khen ngợi các vị công công biết phân nặng nhẹ, coi trọng triều đình, trung quân yêu dân đó.

Lý do này quả thật vừa có thể tiếp nhận, lại có thể lấy lòng Hoàng thượng, đám người Lưu Cẩn đương nhiên gật đầu, đồng thời cũng có chút kinh hãi. Miêu Quỳ nhịn không được bèn hỏi:

- Dương đại nhân, giặc Thát lại tập kích biên giới sao?

Sắc mặt Dương Lăng trở nên nghiêm trọng, y gật đầu đáp:

- Ừm, lần này Bá Diên Khả Hãn và Hoả Sư dẫn theo bảy vạn thiết kỵ một đường tập kích Tuyên phủ Đại Đồng ta, hiện tại đã có rất nhiều thành trì rơi vào tay giặc. Cần phải lập tức bẩm rõ với Hoàng thượng, lập tức triệu tập đại quan trong triều cùng thương nghị kế sách khởi binh chống giặc. Hoàng thượng đâu rồi? Sao chỉ thấy các vị ở đây?

Mã Vĩnh Thành nhỏ giọng cười gượng nói:

- Ninh Vương vừa tiến cống cho Hoàng thượng một gánh xiếc, trong đó có hai vị cô nương xinh đẹp dị thường lại biết ca hát và làm xiếc. Hoàng thượng rất thích bọn họ, hôm qua đã triệu vời bọn họ thị tẩm, có lẽ thân thể mệt mỏi nên sáng sớm truyền khẩu dụ rằng hôm nay huỷ bỏ tảo triều. Ta cũng không dám vào quấy rầy...

Hoàng thượng muốn triệu vời phi tần thị tẩm trong hậu cung thì phải có kim ấn của Hoàng hậu thì Kính Sự phòng mới có thể tiến ngự, vả lại còn hạn chế thời gian, đến giờ sẽ phải đưa phi tử về cung, không thể chung giường cùng gối yên ngủ suốt đêm với Hoàng thượng.

Với tính khí của tiểu Chính Đức, chịu phải ước thúc như vậy hắn sẽ ghét không tới hậu cung nữa. Không ngờ hắn lại tự tìm phụ nữ cho mình. Chỉ có điều... Ninh vương à? Ninh vương!

Dương Lăng cả kinh, định co cẳng chạy vào tẩm cung của hoàng đế. Vừa dợm chân, y chợt định thần lại. "Ninh vương sẽ tạo phản, việc này chỉ một mình biết, nói ra cũng sẽ không ai tin. Song nếu hai người con gái này đã được Ninh vương ngang nhiên cống tặng vậy trong cấm cung đã ghi vào sổ sách, quyết hắn sẽ không dùng bọn họ để ám sát Hoàng đế. Quả như bọn họ chỉ là những con hát bình thường vậy sẽ là công cụ Ninh vương dùng để lấy lòng hoặc mê hoặc Chính Đức. Một khi bọn họ là tâm phúc của Ninh vương liền trở thành tai mắt của hắn bên cạnh Hoàng đế vậy mình gấp gáp như thế làm gì?"

Y cười tự giễu mình, chợt thấy mấy vị công công đang kinh ngạc nhìn mình liền nói:

- Chuyện hôm nay không nên xé ra to. Biên cảnh đang có hoạ, nếu như nội đình vẫn cứ dán bảng công bố xử phạt triều thần, ắt sẽ dẫn đến công kích của thiên hạ. Như vậy đi, Trương công công, Cốc công công, hai vị hãy mau chóng gỡ bỏ cấm thành và rút phiên tử về. Mã công công, xin công công hãy sai người cấp tốc giục Hoàng thượng thức dậy, chúng ta xin người hạ chỉ thu hồi lệnh phạt gian đảng trước để yên lòng bá quan, sau đó xin Hoàng thượng điều binh khiển tướng bắc phạt Thát Đát là hơn.

Miêu Quỳ tuy là thái giám song luôn muốn dẫn binh đánh trận, kiến lập công huân, vừa nghe lời này liền xoa tay hăm hở:

- Được, ta và đại nhân sẽ cùng đi gặp Hoàng thượng. Giặc Thát quá ngông cuồng, nhất định chúng ta phải phái trọng binh đánh cho chúng biết mặt mới được!

*****

Hai người thiếu nữ trong gánh xiếc đó dung mạo xinh đẹp, thân thể mềm mại lại rất thức thời, hiểu chuyện gió trăng cộng thêm từ nhỏ nhờ luyện tập tạp kỹ nên cơ thịt khắp người linh hoạt dẻo dai, so với tiểu thư con nhà phú quý bình thường thì vẻ phong tao nóng bỏng, khêu gợi và bạo dạn trong khuê phòng đó thật khiến cho Hoàng đế Chính Đức vốn thích phóng đãng, không chịu câu thúc này mừng rỡ như điên.

Một đêm phong lưu ấy, hai người con gái dân gian quả thật đã đánh bại hoàn toàn ba vị phi tần chỉ biết đọc thi thư, trên giường cũng rụt rè nho nhã, khiến Chính Đức yêu thích đến không rời tay. Quấn quít nguyên đêm, sung sướng lên tiên, mãi đến rạng đông hắn mới chìm vào mộng đẹp, đến nỗi tảng sáng mà mệt dậy không nổi.

Lúc Mã Vĩnh Thành phái tên tiểu hoàng môn lấy hết can đảm đi vào hô hoán, Chính Đức và hai thiếu nữ mới vừa thức dậy. Chính Đức mỉm cười ngắm nhìn hai mỹ nhân trang điểm trước gương, m lấy eo bọn họ, hôn trộm một cái, rồi luồn tay chụp lấy bộ ngực của họ, cười ha hả trông thích thú vô cùng.

Nghe nói Dương Lăng và đám người thân cận của mình là Lưu Cẩn đang chờ yết kiến, Chính Đức hứng chí nắm tay dẫn hai thiếu nữ ra ngoài. Đám người Dương Lăng vừa thấy Hoàng thượng mặc thường phục đi ra liền vội nhất tề quỳ xuống hành lễ:

- Tham kiến Hoàng thượng.

Hai thiếu nữ đó thấy có người quỳ xuống thì không muốn gánh phải tội nhận sằng lễ tiết liền vội tránh sang hai bên. Dương Lăng thấy hai đôi hài cong trắng như tuyết tránh sang hai bên, bước chân hết sức nhẹ nhàng, tuy không nhìn ra bọn họ có biết võ nghệ hay không song cảm thấy một người con gái trong gánh xiếc dân gian lại hiểu biết lễ nghi như vậy thì không khỏi sinh lòng ngờ vực.

Chính Đức cười hì hì bảo:

- Đứng lên đi, đứng lên đi, cũng đâu phải là người ngoài. Dương thị độc, trẫm đã thu nạp được hai người con gái hợp lòng, khanh xem có đẹp hay không?

Dương Lăng thầm cười khổ trong lòng: "Tuy rằng hai người con gái này xuất thân ti tiện nhưng đã thị tẩm cho Hoàng đế thì thân phận đã không thể so với người bình thường, sao mình dám to gan mà bình phẩm đánh giá chứ? Vị Hoàng thượng này thật là..."

Đám người Dương Lăng lập tức đứng dậy. Dương Lăng liếc nhìn, thấy hai người thiếu nữ đó đều có khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết, mắt hạnh má đào, thanh nhã phong lưu.

Một người mặc áo đỏ, người mặc áo xanh, đều dùng áo cân vạt quần bó ống, eo buộc một sợi dây lưng bằng lụa trắng, giày cong nhỏ nhắn nhẹ nhàng như én, tuy vẫn là bộ đồ đoản đả (*) như lên đài biểu diễn song trông càng thêm khả ái yêu kiều.

(*)võ phục ngắn, quần áo chẽn, diễn viên võ mặc khi biểu diễn.

Tuy bọn họ chỉ có tám phần xinh đẹp nhưng lại có mười hai phần phong thái, cử chỉ và dáng điệu dịu dàng chân thành, mặc dù chỉ là áo vải trơn màu nhưng lại khiến mắt người ta như chìm trong ngũ sắc, không giống như con gái tầm thường.

Dương Lăng thầm nghĩ bụng: "Dung nhan thật xinh đẹp, phong thái thật đặc biệt, Ninh vương thật chịu đầu tư."

Dương Lăng điềm nhiên cười nói:

- Hoàng thượng thân là thiên tử, tầm mắt ấy đương nhiên là số một rồi, hai vị cô nương có thể nói là tuyệt trên đời.

Hai vị cô nương nghe vậy mới cẩn thận quan sát y. Dương Lăng đưa mắt lên thì thấy hai vị cô nương này một người xinh đẹp lạnh lùng, một người ngọt ngào vui vẻ.

Người con gái xinh đẹp có vẻ lạnh lùng vốn không hề nở nụ cười nhưng khi thấy Dương Lăng lại là một công tử phong lưu anh tuấn đang ngắm mình thì chợt nhoẻn miệng cười với y, để lộ hai hàm răng trắng đều như bắp, đôi môi hồng đào hơi vểnh lên như môi mèo. Nụ cười của nàng ta vốn đã xinh tươi, thêm vào vẻ đẹp lạnh lùng càng khiến người ta cảm nhận một cách mãnh liệt.

Chính Đức nghe thấy Dương Lăng khen ngợi thì mừng rỡ nói:

- Đúng đó, trẫm cũng cảm thấy so với phi tần ở hậu cung thì các nàng hiểu biết và thức thời hơn nhiều, tên của bọn họ là Giải Ngữ và Tu Hoa. Giải Ngữ, Tu Hoa, vị này là ái khanh của trẫm, Dương Lăng.

Hai người con gái thoáng lộ vẻ kinh ngạc liếc nhìn Dương Lăng, sau đó hai người dịu dàng nhún chào, yêu kiều nói:

- Dân nữ ra mắt Dương đại nhân, ngưỡng mộ thanh danh đại nhân đã lâu.

Chính Đức ngạc nhiên hỏi:

- Hai người từng nghe nói về Dương ái khanh à?

Tiểu cô nương hay cười nọ mặc một bộ áo chẽn sát thân màu đỏ, bộ ngực cao ngất ép thành một khe sâu mê người, ở giữa đeo một bức tượng phật bạch ngọc thoạt trông không rõ bao nhiêu tiền, nàng ta mân mê bức tượng phật bằng ngọc hơi gật đầu rồi hé miệng cười đáp:

- Những câu truyện truyền kỳ về Dương đại nhân cửu thành tầm y, đế lăng hàm oan, Giang Nam chống Oa rất nhiều, dân nữ là khách giang hồ nên đã nghe đến chai cả tai.

Chính Đức ôm lấy chiếc eo thon của nàng ta rồi hôn dưới mái tóc mai và nói:

- Giải Ngữ, đó là vì trẫm không có cơ hội thôi, sau này có thời gian rảnh trẫm sẽ cùng nàng đi khắp giang hồ, truyện truyền kỳ nhất định sẽ còn nhiều hơn.

Người con gái tên là Giải Ngữ bị Hoàng đế ôm eo ngay trước mặt mọi người, khuôn mặt hơi đỏ lên, hai má ửng ráng mây hồng, sóng mắt đong đưa càng toát lên vẻ xuân sắc điên đảo tâm hồn. Nàng ta khẽ mím môi, bờ mi cong dài chớp chớp không ngừng, vẻ nửa thẹn nửa sợ ấy khiến ngay cả đám người Lưu Cẩn cũng không nhịn được mà nhìn thêm mấy lần.

Ánh mắt của Dương Lăng lại tập trung giữa cặp tuyết lê cao vút: đó là một bức tượng phật Di Lặc há miệng tươi cười. Những người thờ phật trên thế gian bất luận là nam hay nữ thì rất ít người đeo tượng phật Di Lặc. Tín đồ nữ đa số thường hay đeo tượng Quan Âm Bồ Tát hơn.

Dương Lăng vì lỡ gạt Ấu Nương cho nên luôn đeo cây thánh giá trên người nên khi thấy tượng phật của nàng ta thì hơi ngạc nhiên và tò mò, không khỏi nhìn kỹ hơn nhưng thật ra trong lòng lại không có ý gì khác.

Thấy vậy, người con gái tên là Tu Hoa đứng bên cạnh lộ ra vẻ căng thẳng rồi mau chóng bước vòng ra trước mặt, giả vờ giúp tỷ muội sửa lại vạt áo để che chắn ánh mắt của Dương Lăng rồi nhân lúc Chính Đức không để ý mà nghiêm khắc trừng mắt với nàng ta một cái. Lúc này Giải Ngữ mới sực tỉnh ngộ, khuôn mặt xinh xắn thoáng trắng bệch rồi vội vã nhét bức tượng phật đó vào trong người.

Chú thích:

trích "Tuý Ông chi ý bất tại rượu", lời của Tuý Ông không phải ở rượu; nghĩa bóng chỉ trong lời nói có dụng ý khác.

cấp học cao cấp nhất thời phong kiến

bảng yết thị của vua

cửa phụ, có khe nhỏ để đưa thư từ

Sau khi lên làm thừa tướng, để triệt hạ hoàn toàn phe phái cũ, Sái Kinh (Thái Kinh) kiến nghị Huy Tông liệt kê tên tuổi những người thuộc phe này gồm 109 người từng theo Tư Mã Quang, khắc tên lên bia đá gọi là "danh sách gian đảng" bêu danh xấu trước cửa Đoan Lễ tại điện Văn Đức để noi gương cho đời sau.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 166: Binh xuất chính kỳ

Chính Đức không hề chú ý đến hành động của Giải Ngữ mà quay sang cười hỏi Dương Lăng:

- Dương khanh! Sáng sớm ngươi đã tiến cung, có chuyện gì quan trọng sao?

Dương Lăng ho khan một tiếng, liếc mắt nhìn Lưu Cẩn, Cẩn hiểu ý vội đỡ lời:

- Hoàng thượng! Đám người Lưu Kiện, Tạ Thiên cấu kết nội đình bức hiếp thiên tử vô pháp vô thiên, hôm qua nô tài xin người hạ thánh chỉ định tội mấy kẻ này sau đó công bố khắp thiên hạ nhằm khiến cho bá quan sợ hãi dè chừng mà tự xét lại mình. Tuy nhiên hôm nay lại nghe tin chiến sự biên cương khẩn cấp, lúc này không nên khiến triều đình rúng động bởi vậy kính xin Hoàng thượng lại hạ chỉ ban ân, miễn tội danh cho bọn họ.

Chính Đức không vui đáp:

- Hôm qua vừa hạ chỉ, cớ sao hôm nay đã muốn thu lại rồi? À.........- Hắn hồ nghi liếc mắt nhìn Dương Lăng, cười hỏi:

- Nhất định là Dương khanh không đành lòng nên ra mặt cầu xin tha thứ cho bọn họ, phải không?

Hắn suy nghĩ một hồi, nhận thấy Lưu Kiện, Tạ Thiên tuy đáng ghét nhưng dù sao cũng từng là Thái phó của mình, nay bọn họ đã không muốn truy cứu nữa, chuyện này bỏ qua cũng được. Hắn gật đầu đồng ý:

- Được! Trước tiên hạ chỉ khiển trách, sau lại ra ân chỉ miễn trách phạt cũng không có vấn đề gì. Việc này ngươi cứ đi làm đi!

Lưu Cẩn vội cất tiếng tạ ơn với vẻ mặt mừng rỡ. Chính Đức lại nói với Dương Lăng:

- Tín hiệu phong hỏa từ biên ải đã truyền đến kinh thành đêm trước nhưng vẫn chưa có tin tức gì thêm. Bây giờ đã có tin tình báo chính xác rồi sao?

Dương Lăng bước lên một bước đáp:

- Vâng! Thần đã có tin tức tường tận hơn đang định bẩm với Hoàng thượng.

Y đưa mắt nhìn hai cô gái. Chính Đức hiểu ý, quay sang hai cô mà từ tốn:

- Giải Ngữ! Tu Hoa! Hai nàng hãy theo Mã Vĩnh Thành rời đi, rồi để hắn thu xếp chỗ ở cho. Đợi đầu xuân trẫm sẽ dọn đến Báo viên ở, đến khi đó trẫm sẽ chuẩn bị cho các nàng hai căn phòng thực lớn.

Hai cô gái ngoan ngoãn vâng một tiếng. Tu Hoa cẩn thận liếc nhìn Dương Lăng rồi khoan thai bước theo Mã Vĩnh Thành.

Chính Đức vươn vai ngáp dài, bảo Dương Lăng:

- Dương thị độc, chúng ta vào phòng đã rồi có gì hãy nói!

Đám Lưu Cẩn không tiện theo vào nhưng cả bọn đều không quan tâm tới chuyện này lắm, duy có Miêu Quỳ rất mong lập quân công nên kìm lòng không được cứ đứng ngóng ngay cạnh cửa đỏ mắt mong chờ.

Chính Đức dẫn Dương Lăng về đến tẩm cung, để nguyên quần áo mà nằm xuống sập đoạn khoan khoái nói:

- Dương khanh! Tới hôm nay trẫm mới cảm nhận được niềm vui khi làm đàn ông.

Dương Lăng chưa biết tiếp lời thế nào, Chính Đức đã xoay người lại, đưa tay chống cằm mỉm cười nói:

- Trẫm có hoàng hậu, có phi tần, nếu trẫm bằng lòng còn có thể đưa vô số mỹ nữ như hoa vào cung nhưng điều trẫm muốn chỉ là cái cảm giác gia đình. Mặc dù hai cô gái dân gian này vẫn còn hơi gò bó khép nép với trẫm nhưng so với nội cung thì đã tốt hơn nhiều.

Dương Lăng không ngờ Chính Đức không vội hỏi tình hình quân sự ở tiền phương mà lại lải nhải việc nhà. Y thấy mặt Chính Đức đầy vẻ mơ mộng ngọt ngào nên không tiện cắt ngang lời hắn ngay lúc này liền nhẫn nại nói:

- Hoàng hậu nương nương và hai vị quý phi nương nương đều là những người tri thư đạt lễ, hiền lương thục đức......

Chính Đức bực bội khoát khoát tay trợn mắt lườm y:

- Chớ có giở trò này với trẫm nữa! Tính tình, nhan sắc của Hoàng hậu và hai vị quý phi đều rất tốt, nhưng trẫm lại không thể cảm thấy thân thiết với họ được.

Chính Đức thở than:

- Vợ chồng gặp mặt một chút thôi vậy mà đứng có nghi lễ đứng, ngồi có nghi lễ ngồi, cái bộ dạng trang trọng đó khiến người nhìn mà như phải chịu tội. Thậm chí khi chỉ có hai người mà vẫn phải luôn luôn chú ý đến thân phận, lễ nghi......

Hắn nheo mắt nhìn ánh đèn cung đình lộng lẫy, ánh mắt xa xăm, nhẹ giọng nói:

- Trẫm thường suy nghĩ, không biết chốn dân gian vợ chồng ân ái, cầm sắt hài hòa thú vị đến thế nào? Còn nhớ ngày hè lần đó ta đi thăm ngươi, thấy ngươi nằm trên giường trúc bên bờ suối, Ấu nương tỷ tỷ ngồi đối diện với ngươi, vài cô gái khác quây quần bên cạnh ngươi. Khi đó ngươi nghe đàn uống rượu thong dong nhàn nhã, xung quanh là vợ hiền thiếp đẹp, thực là đã được tận hưởng hết niềm hạnh phúc! Trẫm chỉ muốn được bớt đi một chút gò bó mà thôi.

Ánh mắt Dương Lăng chợt lóe sáng, nhân cơ hội nói:

- Hoàng thượng! Chuyện đời chính là như vậy, đấng quân vương mong có thể tự do một chút như ở gia đình bình thường, có thêm một chút tình thân trong hoàng tộc. Còn người ở gia đình bình thường lại ngóng trông có thể hưởng chút vinh hoa như kẻ giàu sang, bớt đi phần nào nghèo khổ. Thực ra ở hoàn cảnh nào cũng có cái được, có cái mất mà thôi.

Y hít một hơi thật sâu, nói tiếp:

- Giống như hôm nay, Hoàng thượng ở trong cung, tuy vướng nhiều ràng buộc nhưng lại được ăn ngon mặc đẹp, có mỹ nhân bầu bạn. Còn Đại Đồng, Tuyên Phủ phải chịu ngọn lửa chiến tranh mấy ngày liền, dân chúng lưu lạc khắp nơi, tính mạng hết sức nguy ngập. Trong thời buổi loạn lạc thì tình cảnh dân chúng còn không bằng chó lợn!

Chính Đức bỗng nhiên ngồi thẳng dậy, mặt hơi lộ vẻ xấu hổ. Hắn định thần lại một chút, rồi vội hỏi:

- Dương khanh, chiến sự ở tiền phương thế nào? Hàng năm giặc Thát đều đến cướp bóc một phen, thực đã coi Đại Minh ta như kho thóc của bọn chúng rồi. Không phải năm ngoái quân Thát từng chịu thua thiệt lớn sao?

Dương Lăng nghiêm nét mặt đáp:

- Chính là vì năm trước quân Thát chịu thiệt thòi cho nên năm nay bọn chúng mới tập kết trọng binh trở lại tấn công Đại Đồng. Hơn nữa lần này Bá Nhan khả hãn và Hỏa Sư hợp tác, hai người đều là mãnh tướng cực kỳ kiêu dũng. Hiện giờ tổng binh Tuyên Phủ là Trương Tuấn hao binh tổn tướng, phải lui giữ Đại Đồng, Chỉ huy sứ Lưu Kinh và nhiều quan tướng chết trận. Hoa Mã Trì, Đức Long, Tĩnh Ninh, Hội Ninh đều đã bị công chiếm, Sóc Châu, Mã Ấp chỉ sợ cũng......

Chính Đức giận dữ đứng bật dậy, rảo bước đi loanh quanh trong phòng, hai nắm đấm siết chặt, oán hận nói:

- Lòng lang dạ sói, khinh người quá đáng! Trẫm nhất định phải dạy dỗ bọn chúng một phen!

Rồi hắn lại nhíu mày hỏi:

- Trẫm thường nghe nói đến danh tiếng của tiểu vương tử (*) và Hỏa Sư, có điều cũng nghe nói bọn họ trước nay không hòa thuận, sao lần này lại hợp tác? Bây giờ tình hình quan ngoại rốt cuộc thế nào rồi? Giữa bọn họ là quan hệ phụ thuộc hay sao?

(*) Biệt hiệu của Bá Nhan.

Dương Lăng đêm qua đã được Ngô Kiệt giảng giải kĩ càng tỉ mỉ nên hiểu rõ thế cuộc chính trị bây giờ của người Mông Cổ ở quan ngoại, lập tức đáp:

- Bây giờ người Mông Cổ chia làm Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ. Ngõa Thích ngày càng suy bại, bây giờ không đủ sức xâm nhập phía nam, nhiều lần tập kích biên giới đều là người Thát Đát. Đại Hãn của Thát Đát Mông Cổ là Bá Nhan, là con cháu trực hệ của Hốt Tất Liệt. Người này cai trị tổng cộng sáu vùng đất là Sát Cáp Nhĩ, Ngột Lương Cáp, Khách Nhĩ Khách, Ngạc Nhĩ Đa Tư, Mông Quách Lặc Tân và Vĩnh Tạ Bố, trướng của Đại hãn đặt tại Sát Cáp Nhĩ. Hỏa Sư là kỳ chủ của tộc Thổ Mặc Đặc Mông Quách Lặc Tân, là lực lượng quân sự mạnh thứ nhì sau Bá Nhan trong quân Thát Đát. Hắn cưới con gái của Đại hãn đời trước Mãn Đô Lỗ là công chúa Y Khắc Tích làm vợ, mà Vương phi Mãn Đô Hải Tư Cầm của Mãn Đô Lỗ lúc ba mươi ba tuổi thì tái giá với đứa cháu (*) Bá Nhan mới bảy tuổi. Y Khắc Tích chính là con ruột của Mãn Đô Hải Tư Cầm cho nên tuy Bá Nhan nhỏ tuổi hơn Hỏa Sư nhưng trên danh nghĩa lại là nhạc phụ của Hỏa Sư, thêm vào đó lực lượng của Bá Nhan so với Hỏa Sư thì mạnh hơn, bởi vậy Hỏa Sư đối với Bá Nhan... có thể nói là bằng mặt mà không bằng lòng.

(*) cháu trong bà cháu.

Chính Đức nghe mà to cả đầu, hắn suy nghĩ một hồi lâu vẫn không hiểu nổi quan hệ giữa hai người đó là như thế nào nên thành ra vô cùng bực bội. Hắn trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

- Lần này binh lực của Thát Đát thế nào?

Sắc mặt Dương Lăng cũng tỏ ra nghiêm trọng, y nặng nề đáp:

- Bảy vạn thiết kỵ, tất cả đều là kỵ binh dũng mãnh thiện chiến, hơn nữa bọn chúng không chia binh như trước đây. Phòng thủ biên thuỳ chỉ có năm vạn quân cho nên đối phương công thành chiếm đất dễ dàng, thế như chẻ tre, mang đi vô số phụ nữ, trẻ nhỏ lẫn tất cả tiền tài vật chất......Thần đã từng ở nơi đó, biết dân chúng nơi đó... hàng năm đều phải trải qua một lần kiếp nạn giữa sự sống và cái chết, vừa bước vào mùa đông là đã bị cường đạo Thát Đát truy đuổi phải chạy tới núi hoang rừng thẳm, có thể là trượng phu bị giết chết, có thể là thê tử bị ô nhục, cũng có thể là con trẻ bị bắt đi làm nô dịch. Người may mắn sống sót trở về thì tiền tài của cải đã bị cướp đi sạch sẽ, còn phải vùng vẫy cầu sinh, năm sau lại vất vả trồng một ít lương thực vậy mà cũng không quên nộp thuế cống hiến cho triều đình......

Ngực Hoàng đế Chính Đức phập phồng mãnh liệt, tức giận đến đỏ bừng khuôn mặt. Mặc dù hắn thường oán trách mình bị nhiều ràng buộc, không được tự do như một người dân tầm thường nhưng cũng không hề quên trách nhiệm của bản thân. Lời của Dương Lăng đã khơi dậy lòng tự trọng mãnh liệt của hắn: Hắn là hoàng đế Đại Minh, dân chúng Đại Minh bị người ta khi dễ hỏi làm sao mà hắn không xấu hổ, không tức giận?

Bỗng nhiên Chính Đức căng họng thét lớn:

- Trẫm muốn ngự giá thân chinh! Trẫm muốn đích thân dẫn đầu thiên quân vạn mã, tiêu diệt giặc Thát, cứu dân chúng của trẫm!

Lời này không phải chỉ mình Dương Lăng nghe thấy mà ngay cả bọn Miêu Quỳ, Lưu Cẩn ở bên cửa cũng nghe được rõ ràng. Bọn chúng sợ tới mức nhanh như chớp xông vào, lật đật quỳ rạp xuống bái lạy, luôn miệng tâu xin:

- Hoàng thượng! Không thể được! Hoàng thượng! Không thể được! Biến cố Thổ Mộc Bảo năm xưa vẫn chưa phai nhạt, quyết không thể giẫm vào vết xe đổ ấy được......

Chính Đức tức giận:

- Đánh rắm! Một năm bị rắn cắn, mười năm sợ dây thừng, có mỗi một chuyện như vậy mà cứ nói đi nói lại mãi là sao? Hoàng đế Hồng Vũ triều ta không mang binh đánh giặc hay sao? Hoàng đế Vĩnh Lạc triều ta không đích thân Bắc phạt hay sao?

Dương Lăng cũng hơi hốt hoảng. Y lấy lại bình tĩnh, bỗng nhiên nói:

- Nếu như vậy, thần nguyện từ chức Xưởng đốc Nội xưởng, làm một tên tiểu tốt trong quân vì Hoàng thượng chinh chiến sa trường, thề hết lòng giết giặc!

Chính Đức sửng sốt, lập tức cười to:

- Ngươi? Không được không được! Trẫm đã tập qua võ nghệ còn ngươi chỉ là một người đọc sách. Nếu cho ngươi điều binh khiển tướng, bày mưu tính kế thì trẫm tin ngươi làm được, còn ra trận giết địch quả thực không phải là sở trường của ngươi.

Dương Lăng khẽ mỉm cười đáp:

- Hoàng thượng nói chí phải, mỗi người có một vị trí và tác dụng riêng. Hoàng thượng là chủ thiên hạ, có Hoàng thượng trấn thủ kinh thành để thiên hạ trông vào, để vạn dân không loạn nên nếu Hoàng thượng tự mình nắm ấn soái ra trận chỉ huy thì chính là dùng tài lớn vào việc nhỏ vậy. Hoàng thượng muốn thân chinh dẫn binh nhưng bây giờ lại không phải lúc vì biên ải đang nguy cấp, cần phái một lão tướng tới trấn thủ mới đúng.

Miêu Quỳ cũng dập đầu tâu:

- Hoàng thượng! Dù chỉ là con cháu quý tộc thôi cũng đã cần hết sức cẩn thận rồi, huống chi ngài là thiên tử. Nô tài nguyện thay Hoàng thượng thân chinh ra trận giết địch, chém giặc lập công!

Chính Đức vừa nghe, tâm tình vốn kích động cũng hơi bình phục một chút. Hắn xoa xoa cằm, hỏi:

- Dương khanh có đề nghị gì không?

Dương Lăng trầm ngâm đáp:

- Hoàng thượng! Việc này cần triệu tập đại thần các bộ thương nghị. Thần là người của xưởng vệ, không tiện cùng bá quan luận bàn chính sự.

Y chần chừ một chút, rút cuộc cũng nhịn không được phải nói ra kiến giải của chính mình:

- Thần đã phái thám mã tìm hiểu kĩ càng tình hình của người Thát Đát. Quân Thát người người đều cưỡi ngựa tốt, đi lại như gió. Trước đây, khi quân ta đối địch với bọn chúng thường thường chỉ chạy sau kẻ địch, theo bọn chúng chạy ngược chạy xuôi. Cuối cùng tuy nói là đuổi giặc Thát đi nhưng thực chất là để bọn chúng cướp bóc thỏa thíc rồi mới thuận thế lui binh. Tốc độ hành quân không bằng Thát Đát chính là nhược điểm của quân ta, cho nên thần cho rằng triều đình xuất binh không thể noi theo sách lược chia binh trong quá khứ mà nên tập trung quân đội lại một chỗ, đánh chắc tiến chắc, từng bước đẩy lùi kẻ địch. Ngoài ra, tái ngoại là vùng giá lạnh, dân cư thưa thớt, muốn bổ sung thêm binh lực không phải là chuyện dễ chút nào.

Hơn nữa giặc Thát cũng không có ý định chiếm giữ lâu dài thành trì của chúng ta cho nên không cần so đo với bọn chúng việc được mất một vùng đất mà nên lấy việc tiêu hao lực lượng của quân địch làm chủ, giết người là chính, giết được nhiều sẽ khiến bọn chúng đau lòng, đến sang năm tự nhiên các bộ lạc sẽ phải suy nghĩ thật cẩn thận trước khi xuất binh. Thêm nữa, Hỏa Sư vẫn luôn luôn dã tâm bừng bừng, nhất định không cam lòng ở lâu dưới trướng người khác, cho nên lần này xuất binh thì chủ soái cần phải ra quân có trọng điểm, chủ lực hãy nhằm vào tiểu vương tử mà buông tha Hỏa Sư, cố nín nhịn mối oán hận nhất thời. Trong tình huống cán cân lực lượng của người Thát Đát có sự thay đổi thì Hỏa Sư nhất định sẽ nảy dị tâm. Nếu nội bộ Thát Đát bắt đầu phân tranh vậy Đại Minh ta chỉ việc tọa sơn quan hổ đấu, khi cần thiết còn có thể ra tay giúp phe yếu một chút khiến cho bọn chúng tiếp tục cắn nhau.

Chính Đức lẩm bẩm:

- Đánh chắc tiến chắc, giết người là chính, không thể chia binh, đánh Tiểu nhường Hỏa. Tốt, trẫm nhớ rồi!

Ánh mắt Dương Lăng đột nhiên lóe sáng, y lại nói:

- Thực ra...... Còn có một nhánh kì binh, nếu như ta sử dụng tốt sẽ trở thành cánh tay phải của Đại Minh. Nhưng chuyện này chỉ có Hoàng thượng mới quyết định được.

Chính Đức ánh mắt sáng ngời, vội hỏi tới:

- Kì binh gì vậy? Dương thị độc mau nói đi!

Dương Lăng nhấn từng chữ:

- Đóa Nhan Tam Vệ!

Chính Đức làm gì mà chẳng biết uy danh của Đóa Nhan Tam Vệ? Chỉ là những năm gần đây mặc dù trên danh nghĩa Đóa Nhan Tam Vệ vẫn là phiên thuộc của Đại Minh nhưng lại không qua lại nhiều, hơn nữa quan tướng Đại Minh vùng ấy thỉnh thoảng vẫn đến vùng biên giới cướp bóc một phen. Chỉ là cũng không gây ồn ào cho lắm nên Đại Minh luôn luôn mắt nhắm mắt mở bỏ qua. Chính Đức quả thực không nghĩ ra được Đóa Nhan Tam Vệ sẽ có ích gì.

Hắn tỏ vẻ nghi hoặc hỏi:

- Bây giờ Đóa Nhan Tam Vệ có vẻ ngoan ngoãn đối với Đại Minh nhưng thực ra sớm đã không nghe lệnh. Dương khanh muốn sử dụng bọn họ như thế nào?

Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Đóa Nhan Tam Vệ gian nan sinh tồn giữa Đại Minh, Ngõa Thích, Thát Đát, về cơ bản bọn họ chính là cỏ đầu tường, trở cờ theo gió. Ngõa Thích Mông Cổ và Thát Đát Mông Cổ cũng thường thường cướp bóc bọn họ. Chỉ có Đại Minh ta luôn luôn dành cho họ đặc ân cho nên bọn họ thân cận hòa thuận với Đại Minh hơn. Chỉ là, khi trước Diệc Tư Mã của Ngõa Thích đánh cướp Đóa Nhan Tam Vệ, bọn họ từng cầu cứu Đại Minh lẫn Bá Nhan. Lúc ấy Bá Nhan xuất binh giúp họ còn Đại Minh lại chẳng có hành động gì. Sau đó Tổng binh Liêu Đông là Lí Cảo vì muốn mạo công xin thưởng nên vô cớ giết hại dân thường ở Hỗ thành thuộc Đóa Nhan Tam Vệ khiến cho Tam Vệ càng thêm xa lánh Đại Minh, bây giờ gần như là phiên thuộc của Bá Nhan.

Khi đó Đại Minh mang nặng tư tưởng thiên triều, chính quân đội cũng lan tràn xu hướng đó. Trong mắt bọn họ thì những dân man di ở quan ngoại thuần là một đám giặc cỏ mà hoàn toàn không hề chú ý đến tình hình chính trị của bọn họ. Dương Lăng tất nhiên biết tình hình quân sự trong nháy mắt có thể có vô số thay đổi nhưng nắm được tình hình chính trị của quốc gia khác từ trước đôi khi cũng có công hiệu bốn lạng bạt ngàn cân. Bởi vậy khi Ngô Kiệt thành lập thám mã ở quan ngoại thì y liền yêu cầu trọng điểm đặt ở phương diện chính trị kinh tế của người Thát Đát.

Những tin tình báo này ngay cả Chính Đức cũng không biết rõ, hắn không kìm được nghe đến nhập thần.

Dương Lăng tiếp tục nói:

- Thế lực của Hoa Đương (*) từ Liêu Đông trải đến tận Tuyên Phủ. Có bọn họ làm bình phong bên ngoài, các châu vùng Bình Loan sẽ rất ít bị Thát Đát quấy nhiễu. Nếu Hoàng thượng nắm giữ được bọn họ ở trong tay thì đó sẽ là một thanh đao sắc bén. Thêm nữa, nếu như khu vực Hà Sáo không ở trong tay chúng ta, đa số ngựa tốt Đại Minh cần nhờ Hỗ thành của Đóa Nhan Tam Vệ cung ứng cho nên nhất định phải tranh thủ được sự ủng hộ Đóa Nhan Tam Vệ, có chuyện gì xảy ra cũng không thể từ bỏ!

(*) Thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ

Chính Đức gật gật đầu, suy nghĩ một lúc lại lắc đầu, chần chờ nói:

- Bây giờ mới phục hồi quan hệ có phải là đã hơi muộn rồi không? Bọn họ lại chịu đồng ý công khai đối lập với Tiểu vương tử sao?

Dương Lăng giải thích:

- Không cần bọn họ xuất binh. Chính quyền triều Nguyên luôn thay đổi, luôn bất ổn. Chỉ cần chúng ta lấy quan to lộc hậu ra dụ, hứa gia tăng đáng kể tổng số lượng hàng hóa hai bên trao đổi tại Hỗ thành thì đương nhiên quý tộc Đóa Nhan sẽ động lòng. Đến lúc đó, chúng ta lại thi hành kế mọn với bọn họ, gây một ít tranh chấp giữa bọn họ và thế lực đang suy vi mà lại có cừu oán với bọn họ là Ngõa Thích Mông Cổ, để hai bên đánh nhau vài trận thì Hoa Đương nhất định sẽ không từ chối. Giữa hai bên và các bộ lạc mà Bá Nhan thống nhất đều có quan hệ thân thích, các bộ lạc kia tất sẽ phải dính dáng đến việc này. Lúc đó sân sau của Bá Nhan nổi lửa, hỏi hắn còn yên tâm dẫn quân đánh bên ngoài sao? Giữa hai phiên thuộc xảy ra chiến tranh thì kể như hắn tức không được mà giận cũng chẳng xong. Đến lúc đó chúng ta lại sử ra kế ly gián, Đóa Nhan cho dù không lập tức trở lại trong lòng Hoàng thượng thì cũng phải ngầm đánh tín hiệu một phen.

Chính Đức nghe xong liền cười ha hả, hắn nhếch miệng trừng mắt liếc nhìn Dương Lăng, ngẫm nghĩ một tí lại cười rộ lên, vừa cười vừa sẵng giọng:

- Ngươi thật biết ăn nói quá đấy! Nơi đó rặt một lũ vai u thịt bắp lông lá đầy người, còn nói trở về trong lòng trẫm nữa? Thật ghê tởm quá đi!

Dương Lăng cười hì hì đáp:

- Hoàng thượng, tái ngoại cũng có tiểu mỹ nhân đấy, người khí chất tuyệt vời có thể xứng với cái danh bông sen trên núi tuyết.

Chính Đức đời nào chịu tin, hắn cười rồi lắc đầu, nói:

- Được! Trẫm lập tức triệu tập sáu bộ, chọn lựa tướng soái.

Hắn liếc nhìn Dương Lăng, có ý để cho người mình tín nhiệm nhất dẫn quân ra trận nhưng lại không nỡ rời xa y, suy đi nghĩ lại đành phải thôi.

***

Bảy ngày sau, rốt cuộc đại quân triều đình cũng xuất phát. Chính Đức điều từ trong Đoàn doanh ra năm vạn tinh binh, để Miêu Quỳ của Tây xưởng làm Giám quân, Bảo quốc công Chu Huy làm Tổng binh, Đô ngự sử Sử Lâm làm Đề đốc.

Dương Lăng không biết vị Chu tổng binh này có bản lĩnh chỉ huy đánh trận như thế nào, nghe nói Lý đại học sĩ đề nghị để Dương Nhất Thanh vừa bị bãi chức đang nhàn rỗi nhận chức tổng binh, đáng tiếc lại bị đám Lưu Cẩn ngầm phá hoại.

Dương Lăng nhớ tới trong ngục còn giam giữ chủ sự Bộ binh Vương Thủ Nhân. Tuy rằng được mình chăm sóc nên hắn không hề cực khổ nhưng nằm dài chờ đợi ở chỗ kia cũng không hay, huống chi bản thân còn thiếu Vương Hoa một món nợ nhân tình. Nghe những lời mà Vương Thủ Nhân nhiều lần dâng lên cho Hoàng thượng thì có thể nhận ra hắn nhất định là một nhân tài về quân sự. Dương Lăng cũng đã nhắc tới hắn với Chính Đức, chỉ là chức quan của hắn quả thực quá nhỏ đồng thời cũng chưa từng tham gia chiến trận còn Lưu Cẩn lập tức nhớ tới vị tiểu quan này từng gọi thẳng hắn là kẻ quyền gian, cơn giận cũ vẫn chưa nguôi nên chuyện này tạm thời đành gác lại.

Có điều Chính Đức đã nhớ kỹ những lời dặn dò của Dương Lăng. Khi đăng đàn bái tướng, điểm binh, hắn lại hết lần này đến lần khác dặn dò bọn Miêu Quỳ không được chia binh tránh để địch lợi dụng cơ hội, phải tập trung quân lực nhằm tiêu diệt giặc Thát là chính, Chu Huy đều nhất nhất vâng dạ nghe theo.

Khi Chính Đức tập hợp các vị quan lớn của sáu bộ để cùng thương nghị kế sách dùng binh thì Thị Lang bộ Lại là Vương Ngao dâng lên tám phương sách chống địch: Định sách lược, trọng chủ tướng, nghiêm pháp lệnh, thương biên dân, quảng chiêu mộ, dùng ly gián, phân chia binh, đánh bất ngờ.

Bên trong đó có hư có thực. Định sách lược và nghiêm pháp lệnh giao cho bộ Lễ làm là được, còn nó đối với việc kháng địch ở tiền tuyến có hiệu quả hay không thì chẳng cần quan tâm làm gì, dù sao mỗi lần xuất binh đều phải có quá trình này.

Việc "trọng chủ tướng" đã được Dương Lăng bàn riêng với Chính Đức. Đối với việc này Chính Đức cũng không hồ đồ. Hắn hoàn toàn không tin những hoạn quan, thư sinh chưa từng đánh giặc lại so được với các đại tướng có kinh nghiệm cầm quân cho nên hắn nghiêm khắc khuyên bảo Miêu Quỳ, Sử Lâm không được can thiệp quá nhiều vào quân vụ.

Thương xót biên dân lại là việc sau khi chiến tranh kết thúc mà hiện giờ chiêu mộ binh lính cũng không kịp, còn chia binh lại trái với sách lược của Dương Lăng nên Chính Đức không chút nghĩ ngợi đã lập tức bác bỏ ngay.

Chính Đức đưa ra kế ly gián phân hoá Hỏa Sư và Tiểu vương tử, Lưu Đại Hạ tưởng đây là chủ ý của Chính Đức nên lập tức khen không dứt miệng. Chính Đức được đệ nhất võ tướng đương triều ca ngợi thì ngay lập tức lâng lâng như ở trên mây, hơn nữa hắn cũng không cảm thấy Dương Lăng là người ngoài nên liền mặt dày vui lòng nhận lấy phần công lao này.

Dương Lăng từ khi nhận được mật chỉ của Chính Đức thì nhiều ngày nay đang lên kế hoạch liên lạc Đóa Nhan Tam Vệ, ly gián nội bộ Mông Nguyên . Vài năm gần đây khúc mắc giữa thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và triều đình nhà Minh rất sâu, mặc dù hứa cho lợi nhiều nhưng nếu như không có một người đủ cho Đóa Nhan Tam Vệ tin phục thì có lẽ sẽ rất khó được bọn họ tin tưởng.

Nhưng việc tiếp cận lôi kéo Đóa Nhan Tam Vệ không chỉ có lợi cho một trận chiến này nên Dương Lăng rất cẩn thận. Đồng thời nếu như toàn bộ bốn mươi sáu biến pháp của Lưu Cẩn bị gác lại, chẳng những Lưu Cẩn mất thể diện mà thế lực ngoại đình cũng vượt trội, đối với chính sách bỏ lệnh cấm thông thương của mình cũng gây ra ảnh hưởng rất nhiều.

Cho nên Dương Lăng chuyển sang thỏa hiệp, khuyên Lưu Cẩn giao sách lược biến pháp cho Tiêu Phương sửa chữa, trau chuốt, sau đó đệ trình lên để ba vị Đại học sĩ cùng thảo luận. Trong chính sách của Lưu Cẩn cũng có rất nhiều chỗ lợi, ví dụ như việc gia tăng quyền giám sát của bộ Hộ, chẳng những có ích với triều đình mà cũng có thể tăng cường quyền lực của bộ Hộ. Dương Lăng không tin ngoại đình lại bác bỏ toàn bộ, chỉ cần cho thi hành hơn chục điều thì trận phong ba giữa nội đình và ngoại đình liền có thể lắng xuống, danh vọng của bản thân cũng sẽ dâng cao.

Cũng vì như thế nên nhiều ngày qua Dương Lăng bận rộn tối mày tối mặt. Y phải nghe ngóng tình hình, sắp xếp chuyện của bản thân, đồng thời y không hề tin tưởng vị Đại tướng quân được phái ra này có thể đối phó với thế công mãnh liệt của Bá Nhan khả hãn nên y dặn dò Ngô Kiệt phái ra hàng loạt thám mã đi lại như mắc cửi liên tục mang tình hình hành quân và chiến đấu của quân Minh ở tiền phương đưa về. Bất cứ lúc nào y cũng chú ý đến tình hình tiền tuyến, nếu không vì lo lắng đến Ấu Nương vừa mới có thai thì ngay cả nhà mình y cũng không về.

Buổi trưa, Dương Lăng từ trong cung đi ra. Đến lân cận tây môn, y thấy bên đường có một người bán hàng rong đang bán một số quả khô trên chiếc xe đẩy tay. Những quả táo gai trông như mã não đỏ kia nhìn vô cùng hấp dẫn khiến người ta chỉ muốn ăn ngay, y vội dung chân đá đá vào vách kiệu.

Kiệu phu nghe tiếng liền dừng kiệu. Dương Lăng vén rèm kiệu bước xuống, mỉm cười bước đến vệ đường. Dấu hiệu nôn ọe của Ấu Nương vẫn chưa rõ ràng mà bình thường việc ăn uống cũng có người chăm lo chu đáo còn Cao Văn Tâm gần đây cũng chăm chỉ thăm nom, thường xuyên pha chế chút thuốc bổ cho nàng dùng. Những việc này vốn không cần Dương Lăng lo tới, nhưng hôm nay y thấy những trái cây này chín mọng đỏ rực, quả thực rất đáng yêu liền muốn tự tay mua về cho Ấu Nương một ít.

Hôm nay Dương Lăng mặc thường phục, có điều lại ngồi trên kiệu mà trước sau đều có thị vệ nên hiển nhiên là người quyền thế. Người bán hàng rong vội cúi đầu khom lưng cười hỏi:

- Khách quan, ngài muốn mua gì?

Dương Lăng nhón một quả táo gai lên, trái cây đỏ tươi như máu, quả thật càng nhìn càng muốn ăn. Dương Lăng vui vẻ nói:

- Bán cho ta độ năm cân táo gai đi, ồ, hạch đào kia cũng lấy năm cân.

Người bán hàng rong mừng khấp khởi gói kỹ hai bọc trái cây, Liễu Bưu bước lên phía trước thanh toán tiền. Đang lúc Dương Lăng quay người muốn đi chợt nghe phía trước ầm ĩ huyên náo, có một số người qua đường chạy ùa vào một ngõ hẻm. Dương Lăng không nén nổi nghi hoặc nhìn sang, hỏi:

- Xảy ra chuyện gì vậy?

Liễu Bưu lắc lắc đầu, quay đầu ra hiệu thủ hạ ở lại với đại nhân rồi thưa:

- Để ty chức đi xem thử!

Người bán hàng rong lại tặc lưỡi thở dài, lắc đầu nói:

- Ôi! Những tên du côn này lại đến gây rối rồi, đúng là không có lương tâm.

Dương Lăng ngạc nhiên hỏi:

- Chủ quán! Ông biết đã xảy ra chuyện gì sao?

Người bán hàng rong thấy y là một vị đại gia qua đường, nói chuyện lại ôn hòa liền đáp:

- Lão gia, ngài có điều không biết đâu, năm nay giặc Thát ở biên ải lợi hại lắm. Nghe nói bọn họ đánh chiếm thành trì so với năm trước nhiều gấp đôi, rất đông dân chúng nơi nơi chạy nạn, hai ngày nay đã có người chạy nạn tới kinh thành rồi.

Dương Lăng trong lòng trầm xuống, thất thanh:

- Dân chạy nạn đã vào kinh rồi sao?

Người bán hàng rong đáp:

- Sao có thể chứ? Lão gia là đại nhân vật ắt phải biết kinh thành này là vùng đất trọng yếu, sao có thể để cho đám đông ăn mày xin cơm, dân chúng chạy nạn vào thành kêu gào? Một khi có người thừa dịp lộn xộn gây loạn thì nguy mất! Lý đại học sĩ đã sai người dựng lều ở ngoại thành và ra lệnh cho bộ Hộ cung cấp củi lửa lương thực để vỗ yên nạn dân, phát động dân chúng quyên góp một ít quần áo, chăn mền. Có một số lão gia có lòng tốt cũng ào ào ra ngoài thành lập trạm phát cháo làm việc thiện. Trong ngõ hẻm nhỏ kia có một vị nương tử tạm trú, nàng đi ngang qua nơi này nhìn thấy nạn dân liền nảy ý tốt, cũng ở ngoài thành lập trạm phát cháo cứu tế dân chúng. Vài tên lưu manh trong thành nhìn thấy nương tử người ta xinh đẹp lại là người ngoại xứ bèn vin cớ cháo nóng làm bỏng tay của bọn hắn để không ngừng tới cửa làm phiền. Đây đã là lần thứ ba rồi.

Dương Lăng cả giận, nhưng cố nén, bảo Liễu Bưu:

- Đi, đi xem sao!

Dương Lăng dẫn đầu đi vào ngõ thì cả bọn thấy trước cửa một cái tứ hợp viện nho nhỏ có rất đông dân chúng đang vây quanh xem náo nhiệt, vài tên du côn ở trước cửa đang liên tục mắng chửi. Trước cửa có một tiểu nha đầu xinh xắn, hai tay chống nạnh, hai má tức giận đến đỏ rực, hai mắt giống như là muốn phun ra lửa, mặt quay về phía những tên lưu manh đang nói năng thô tục, hiển nhiên đang gắng sức kềm chế cơn giận.

Dương Lăng đang muốn bước tới mang mấy tên lưu manh vô lương lên quan tra xét, bên trong chợt bước ra một cô gái xinh đẹp mặc áo đỏ khoác áo choàng cũng đỏ rực. Đôi mắt to quyến rũ của nàng nhìn quét qua những tên lưu manh, đoạn hướng về phía những người chung quanh chắp tay thi lễ nói:

- Các vị hương thân phụ lão! Tiểu nữ là khách đi ngang qua kinh thành, nhìn thấy có nạn dân chạy đến tận đây, nghĩ trong túi mình coi như rủng rỉnh nên có lòng muốn cứu tế một chút. Mấy vị đại gia này làm khó dễ như thế chính là lễ tiết của dân chúng kinh thành đối xử với người khác xứ hay sao?

Những tên này là lưu manh nổi tiếng vùng lân cận, mặc dù dân chúng bình thường không ưa bọn chúng nhưng không ai dám mở miệng lên tiếng ủng hộ nàng. Một tên côn đồ cười dâm đãng nói:

- Tiểu nương tử, ngươi bố thí cháo là ngươi làm việc thiện, nhưng cháo nóng kia vô ý làm phỏng tay huynh đệ của chúng ta cho nên ngươi phải biết điều một chút mới đúng chứ?

Cô gái áo đỏ khoảng chừng hai sáu hai bảy tuổi, eo nhỏ mềm mại, khuôn mặt thanh tú xinh đẹp, hai mắt thật to, mũi cao xinh xắn, tuy miệng không phải anh đào nhỏ nhắn nhưng đôi môi no tròn gợi cảm, thực là rung động lòng người.

Lúc này tuy đôi mày thanh tú kia cau lại nhưng làn da nàng trắng như tuyết, chiếc cổ nõn nà trông vẫn vô cùng quyến rũ xinh đẹp. Nàng liếc tên du côn vẻ khinh miệt, thản nhiên hỏi:

- Vị đại gia này! Tiểu nữ không phải đã đưa ngươi năm lượng bạc làm tiền thuốc thang rồi sao?

Tên du côn cười ti tiện đáp:

- Tiểu nương tử, chỉ năm lượng bạc mà đã muốn đuổi bọn đại gia ta sao? Ngươi cũng quá coi thường khẩu vị của dân chúng kinh thành dưới chân thiên tử này rồi.

Cô gái áo đỏ mày liễu dựng ngược, đột nhiên quắc mắt nhưng không biết vì sao nàng lại vẫn tiếp tục nhẫn nại, không hề phát tác. Nàng cố nén lửa giận, lạnh lùng cười một tiếng rồi đáp:

- Được! Vậy tiểu nữ tử sẽ bồi thường đại gia mười lượng bạc ròng, phụ nữ chúng ta đi ra ngoài cũng không dễ dàng, xin các vị đại gia khoan dung cho một phen.

Nói xong cô gái áo đỏ liền lật cổ tay một cái. Tên du côn kia vừa ngây người ra một chút, một thỏi bạc ròng đã xuất hiện trong bàn tay gã. Liễu Bưu kinh ngạc hô lên một tiếng, ghé sát vào tai Dương Lăng thì thầm:

- Đại nhân! Cô gái biết võ công, hơn nữa công phu còn rất lợi hại!

Dương Lăng ừ một tiếng. Đã biết nàng kia có một thân võ nghệ, ắt sẽ không bị người ức hiếp, y cũng không lo lắng nữa. Lại thấy tên du côn nhón nhón nén bạc trong lòng bàn tay, liếc mắt qua huynh đệ đang đứng quanh rồi cười hì hì bảo:

- Tiểu nương tử, nàng thực là ngoan ngoãn đấy, có điều... bọn đại gia ta đây cũng không thiếu bạc.

Cô gái áo đỏ hơi nghiêng đầu một chút, vẻ như suy nghĩ, mắt vẫn không rời kẻ kia. Giữa đôi môi hồng lộ ra hàm răng chỉnh tề trắng tinh, nàng hơi cụp mắt rồi lại nhẹ nhàng ngước lên, đôi mắt hơi có ý cười, nhẹ giọng hỏi:

- Vậy đại gia rốt cuộc có ý gì vậy?

Dáng vẻ quyến rũ của nàng khiến lòng người xao động, tên du côn nọ càng bị vẻ đẹp của nàng làm cho lửa dục khó nhịn nổi. Bọn chúng nghe ngóng được người phụ nữ này là người khác xứ, ngoài việc có tiền thì hình như thân phận cũng không tính là cao quý nhưng trước mặt nhiều người như vậy vẫn không dám nói thẳng ra mục đích của mình.

Những tên du côn này hoàn không chú ý đến việc tuy thiếu phụ lộ vẻ tươi cười nhưng trong đôi mắt lại thoáng toát ra một chút sát khí, nhất thời cất tiếng reo hò vui đùa ầm ĩ, nửa thật nửa giả đáp:

- Tay của đại ca bọn ta bị ngươi làm phỏng, Tiểu nương tử hãy tới chỗ chúng ta giúp đỡ chăm sóc đại ca. Khi nào đại ca hành động được tự nhiên thì ngươi sẽ có thể rời đi.

Thiếu phụ áo đỏ đột nhiên quắc mắt, gương mặt xinh đẹp rắn đanh lại, lạnh lùng nói:

- Thì ra là thế! Chắc hẳn mấy vị đại gia thấy ta là một nữ tử không có chỗ dựa, lại là người ở phương xa nên tưởng dễ ức hiếp phải không?

Nàng ta phất tay áo, xoay người lại bảo:

- Thúy nhi, tiễn khách! Còn kẻ nào làm bừa sẽ báo quan truy xét!

Tiểu nha hoàn kia sớm đã chờ đến bực bội, vừa nghe phu nhân dặn dò bèn lập tức bước nhanh lên trước, hùng hổ quát:

- Mấy tên du côn vô lại không biết điều này, cút ngay cho bà cô! Chớ có ở chỗ này làm ô uế đôi mắt của ta.

Tên du côn không giận mà cười dâm, tay nhằm trước ngực nàng chộp tới,:

- Cô bé này, nàng còn thú vị hơn chủ nhân của nàng nữa... Ôi chao! Ôi! Ôi! Buông tay...

Thiếu nữ kia vung tay chụp một cái đã bắt được cổ tay gã liền thuận thế hất mạnh khiến gã lảo đảo ngã văng ra xa. Mấy tên du côn bên cạnh vừa thấy vậy liền ngay lập tức chen nhau xông lên. Lúc đó chưa có vôi, cũng không biết bọn chúng dùng cái gì mà vừa vung tay một cái thì một chùm khói vàng đã tràn ra. Thiếu nữ kia không ngờ mấy tên du côn nho nhỏ lại mang bên người vật như vậy nên ngay lập tức bị che mắt. Nàng liền thét một tiếng, chân giẫm mạnh, thân thể mềm mại tựa như quả bóng da nhảy bật về bậc thềm phía sau, phản ứng vô cùng nhanh nhẹn.

Thiếu phụ áo đỏ đã đi lên bậc thểm nhưng thấy tình cảnh này thì cổ tay trắng như ngọc liền đưa ra giúp thiếu nữ ổn định thân thể rồi phóng người nhảy lên. Nàng không ngờ lại tựa như chim yến nhẹ nhàng nhảy lên hơn một trượng, xoạt một tiếng đã hạ xuống trước mặt đám du côn. Sau một tiếng thét đầy sát ý, nàng giống như mãnh hổ hạ sơn đứng tại chỗ vung chân ra chiêu. Mấy tên du côn vừa mới đến gần đã bị nàng tung cước đá bắn ngược trở về.

Chú thích:

Phép dùng binh có chia ra hai lối cơ bản nhất, đó là chính binh và kỳ binh. Chính binh tức là phép đánh quang minh chính đại, dựa vào thực lực quân đội là chủ yếu. Kỳ binh là phép đánh dựa vào mưu kế, lấy các hiểm chiêu làm chủ. Ở đây tên chương có nghĩa là ra quân đồng thời sử dụng cả chính binh lẫn kỳ binh.

Năm 1449 quân Ngõa Thích xâm phạm Trung Nguyên, vua Minh Anh Tông nhà Minh ngự giá thân chinh, bị quân Ngõa Thích đánh bại và bắt sống tại Thổ Mộc Bảo. Người Trung Quốc coi đây là một mối sỉ nhục lớn.

Trong lịch sử, nhà Nguyên vẫn tồn tại cho đến năm 1635 khi vua Hậu Kim Hoàng Thái Cực xâm lược Mông Cổ và ép khan lúc đó là khan Ejei phải trao ấn đế triều Nguyên cho người Nữ Chân thì triều đại Nguyên mới kết thúc.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 167: Hoa đang thời nở

Tuy xuất chiêu trong lúc phẫn nộ, song cú đá của cô gái áo đỏ vẫn còn nương chân vài phần nên mấy tên vô lại bị đá văng ra ngoài, khi ngã xuống đất lại không hề cảm thấy đau đớn. Chúng thoáng ngẩn ra, cho rằng phụ nữ sức yếu, dũng khí lập tức tăng lên, thế là lại nhao nhao lao hét rồi nhào tới.

Thủ hạ của cô gái áo đỏ chỉ có nữ tì áo lục đang căm phẫn muốn xông lên tương trợ, nhưng mắt nàng đã bị mờ, lúc này nước mắt trào ra không ngừng. Mấy tay đàn ông ăn vận như phu khuân vác có vẻ chỉ được thuê đến phụ giúp, thấy mấy tên vô lại hung hãn như vậy thì đã sợ cứng người.

Thấy bọn vô lại này không biết tốt xấu, khuôn mặt của cô gái áo đỏ lộ vẻ khó xử, nàng khép ngón tay lại thành kiếm, thân hình mềm mại như một đám mây đỏ lướt qua mấy tên vô lại, ngón tay hoặc điểm hoặc đâm vào người chúng. Người nàng vừa lướt qua, năm sáu tên lập tức ngã gục xuống đất như bị điện giật, cả người run lên cầm cập, nhất thời cũng không còn sức bò dậy.

Đứng bên cạnh Dương Lăng, Liễu Bưu thấp giọng nói:

- Đại nhân, cô gái này biết công phu điểm huyệt thượng thừa, là cao thủ nội gia.

Dương Lăng kinh ngạc nhìn cô gái có hai đám mây hồng trên má đó rồi lại ngó mấy tên vô lại đang nằm quằn quại dưới đất; thấy bọn chúng co rúm người, mặt mày trông cực kỳ thống khổ.

Dương Lăng nhớ Hàn Ấu Nương từng nói công phu điểm huyệt là võ học thượng thừa cực điểm, cho dù phụ thân nàng học võ trên Thiếu Lâm hơn chục năm cũng chỉ được luyện công phu ngoại môn, không ngờ mỹ nhân yêu kiều thướt tha như cành liễu phất phơ trong gió đó lại biết được môn võ lợi hại này.

Có điều, đám vô lại bị đánh ngã lăn trên mặt đất kia dù quằn quại bất lực nhưng vẫn có thể cử động, chứ không phải đứng trơ như phỗng giống như y thường thấy trên TV trước đây; cũng không biết là do chỉ lực của cô gái này yếu hay điểm huyệt vốn dĩ là như vậy.

Y thấp giọng hỏi:

- Liễu Bưu, nếu như để huynh động thủ, huynh có thể khống chế được cô ta không?

Mặt Liễu Bưu thoáng đỏ lên, gã ngượng ngập đáp:

-Xem thân thủ của cô ta... nhiều nhất ti chức chỉ có thể chống đỡ được hai mươi chiêu mà thôi...

Dương Lăng dù không biết võ vẽ gì, nhưng y từng chứng kiến thân thủ của Liễu Bưu. Nhìn cô gái đó nhún người nhảy cao hơn một trượng, thân pháp tiến lui như gió, thi triển công phu điểm huyệt thượng thừa, y đoán chừng Liễu Bưu cũng chỉ có thể chống đỡ được tầm mười chiêu, nói hai mươi chiêu có lẽ là vì giấu ngượng nên cố ý thổi phồng thôi. Y cũng không muốn vạch trần nên chỉ cười khà.

Lại nghe tên thủ lĩnh của bọn vô lại đó hung tợn chửi rủa:

- Con đàn bà thối tha, ui da... mày đã dùng tà phép gì rồi. Nửa người của lão tử không cử động được nữa, lão tử quyết sẽ không bỏ qua... bỏ qua cho mày đâu.

Cô gái áo đỏ khẽ hếch chiếc mũi xinh xắn như ngọc, khinh thường hừ nhạt một tiếng, rồi đi đến bên cạnh tì nữ áo xanh cúi xuống ngửi một chút, sau đó mới yên tâm nói:

- Không có gì đáng ngại. Đi, ta đỡ em về lấy nước sạch rửa qua là được.

Chính vào lúc này, bên ngoài đám đông chợt có người nghênh ngang đi tới, dài giọng quát:

- Dưới chân thiên tử, kẻ nào dám gây rối ở đây? Bắt hết lại cho bản quan!

Đám đông chợt tách ra. Chỉ thấy mấy tên tiểu lại thuộc Ngũ thành binh mã ty cầm xiềng xích, giắt đao ngông nghênh đi tới. Tên thủ lĩnh đám vô lại trông thấy thì mừng rỡ, gọi to:

- Tứ ca! Mau bắt con ả này lại đi, nó dám đả thương đệ, lại còn đánh huynh đệ của tiểu đệ, hãy cho ả đi ăn cơm tù đi.

Gã đao khoái tuần thành* được gọi là tứ ca trừng mắt với hắn rồi đảo mắt quan sát cô gái áo đỏ. Tuy trông dung mạo nàng ta xinh đẹp, dáng người thướt tha, nhưng quần áo mặc lại không như các phu nhân gia đình giàu có, thế là gã cảm thấy yên tâm. Gã bèn cười dâm dật bước tới trước nói:

- Tiểu nương tử, trong kinh thành mà quấy phá đả thương người, tội đó không nhẹ đâu nhé. Đi thôi, theo bọn ta đến cổng nha môn một chuyến.

(* tuần tra trong thành)

Dương Lăng lắc đầu cười khổ. Tiết mục này quá quen mắt, song nghĩ cũng phải, mấy tên vô lại đó không chút kiêng dè dám khinh nhờn cô gái đất khách ngay dưới chân thiên tử như vậy, nếu không có quan hệ gì với người trong nha môn thì mới là lạ. Y cũng lười xem tiếp mặt mày của đám người đó, bèn đưa tay vỗ nhẹ vai Liễu Bưu rồi hất nhẹ cằm về phía trước. Liễu Bưu hiểu ý liền sải chân bước tới.

Cô gái áo đỏ nọ mới vừa nén giận nói: "Quan gia, rõ ràng là đám vô lại này ức hiếp..." thì Liễu Bưu đã mỉm cười bước tới trước nói:

- Quan sai lão gia muốn bắt kẻ nào vậy? Ta thấy ngài nên bắt mấy tên lưu manh vô lại này về nha môn đánh cho một trận mới phải đó.

Gã đao khoái tuần thành đó kiếm ăn tại kinh thành, biết rõ dưới chân thiên tử cao quan quý nhân rất nhiều, nên nghe xong thì không nổi trận lôi đình mà vung tay ngăn mấy tên vô lại đang rống miệng ầm ĩ, cẩn thận đánh giá Liễu Bưu một lượt, rồi nghi hoặc hỏi:

- Vị công tử đây là...?

Liễu Bưu hơi vén vạt áo bào lên để hắn nhìn rõ ngân bài giắt bên hông rồi cười nhạt bảo:

- Vị cô nương từ xứ khác này tốt bụng thí cháo cứu dân, mấy tên lưu manh vô lại này lại thấy sắc nổi lòng mà bắt chẹt sách nhiễu. Ta tận mắt chứng kiến, ngươi còn không tống bọn chúng vào ngục truy xét sao?

Gã đao khoái vừa nhìn thấy đó là yêu bài của Nội xưởng thì sợ túa cả mồ hôi lạnh, liền vội gật đầu khom lưng vâng dạ:

- Dạ dạ dạ, có đại nhân làm chứng, tiểu nhân còn có thể không tin sao? Tiểu nhân sẽ lập tức bắt bọn chúng về dạy dỗ.

Đoạn hắn nháy mắt với mấy tên thủ hạ của mình, mấy tay bộ khoái lập tức xông lên lấy xiềng xích cùm mấy tên vô lại kia lại. Tên thủ lĩnh của đám vô lại đó bèn trợn tròn mắt la lên:

- Kim tứ ca, sao huynh lại...?

Đầu gã đao khoái mướt mồ hôi lạnh, liền bước tới vả vào mồm hắn một bạt tai thật mạnh, đồng thời tức giận trừng mắt ngăn hắn tiếp tục nói năng bậy bạ, gằn giọng quát:

- Lôi đi, lôi tất cả về.

Bộ khoái vội kéo mấy tên vô lại ra khỏi đám đông, ở đằng sau Liễu Bưu cười nói với theo:

- Ngự sử tuần thành của thành tây là Thân Đắc Vĩ phải không? Trở về nói với hắn là rảnh rỗi bản quan sẽ đến xem thử hắn xử án công bằng ra sao. Nếu như bản quan vẫn thấy mấy tên vô lại này sinh sự nhiễu dân thì bản quan sẽ đến hỏi thăm hắn đấy.

Kim đao khoái nghe vậy thì sống lưng cứng đờ. Hắn vốn định đưa mấy gã bạn thân này đến chỗ không người rồi thả ra, song khi nghe lời này thì không còn dám lỗ mãng nữa. Hắn quay người lại cười gượng gạo đáp:

- Dạ, thành tây là khu vực do Thân đại nhân quản hạt ạ. Đại nhân yên tâm, tiểu nhân nhất định sẽ nghiêm trị mấy tên vô lại này không tha.

Thấy cảnh này cô gái áo đỏ có chút bất ngờ. Liễu Bưu vừa quay lại, nàng vội vái một lễ, dịu dàng nói:

- Đa tạ đại nhân chủ trì công đạo.

Khi nãy nàng thấy Liễu Bưu đứng sau lưng Dương Lăng, nay thấy mấy tên bộ khoái tuần thành đó khi gặp Liễu Bưu thì như chuột thấy mèo thì biết rằng thân phận của vị công tử trẻ tuổi này ắt càng cao thâm hơn nữa, vì vậy nói xong ánh mắt không kiềm được mà khẽ hướng về phía Dương Lăng.

Dương Lăng thấy làn thu ba hướng về phía mình thì mỉm cười gật đầu tỏ ý chào nàng. Nét mặt của cô gái áo đỏ thoáng cứng lại, ngỡ rằng tên cẩu quan này cũng nhìn trúng sắc đẹp của mình cho nên mới có ý lấy lòng, thế là không khỏi âm thầm hối hận mình nhất thời xúc động ra ngoài cứu tế nạn dân, kết quả kéo theo một đám bướm ong dập dờn.

Có điều, nàng và trượng phu đã có hẹn ước chờ nhau ở nơi này, lại không thể tuỳ ý rời đi, đành phải cố gắng cảm tạ Liễu Bưu rồi vội vã dẫn mấy người làm thuê và tì nữ lui vào trong sân nhà.

Thấy Liễu Bưu vẫn còn dõi mắt nhìn theo cánh cổng nhà người ta đang đóng lại đến xuất thần, Dương Lăng mỉm cười đi tới vỗ vai hắn khuyên:

- Đừng nhìn nữa, ta thấy cô nương nhà người ta hình như đã có chồng rồi.

Liễu Bưu gượng gạo đáp:

- Đại nhân lại nói đùa rồi. Trong thiên hạ biết công phu điểm huyệt đều là cao thủ nhất đẳng một vùng, cô gái này nhất định không đơn giản. Xem cô ta nén giận với mấy tên vô lại ngang ngược đó, hôm nay chúng ta tương trợ cô ta song cô ta lại e ngại dính dáng quan hệ với chúng ta, cho nên ti chức có điều nghi ngờ mà thôi.

Dương Lăng bị nhiễm tiểu thuyết võ hiệp nặng, cho nên nghe vậy thì cười bảo:

-Kỳ nhân dị sĩ trong dân gian rất nhiều, hơn nữa phần đông không muốn kết giao cùng quan phủ. Dẫu sao chúng ta cũng không thể vì người ta có võ công giỏi mà đâm ra nghi ngờ họ muốn kiếm chuyện, phải không nào? Huống chi cô ta còn phát cháo cứu dân, trên đời có cường đạo như vậy sao? Ha ha, đi thôi, chỉ cần cô ta không gây chuyện ở kinh thành, chúng ta cũng không thể vì nghi ngờ mà đi điều tra. Một khi tin tức lộ ra, vậy thực sẽ là trò cười cho người khác đó.

Dương Lăng trở về hậu viện trong phủ, thấy trong phòng khách đặt ba chậu than, trong phòng ấm như ngày xuân, khắp phòng giăng lụa chu sa đỏ. Hàn Ấu Nương, Tuyết Nhi, Ngọc Nhi, Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận, những mỹ nữ xinh đẹp quyết rũ, phong tình xuất chúng đang mặc áo chẽn vân nổi lụa Tô Châu, áo kép cân vạt gấm Tứ Xuyên đang tụ tập một chỗ, duyên dáng nói cười, mắt đẹp ngóng trông, thực như bước vào khu vườn đầy ắp hoa đẹp vậy.

Dương Lăng cười hỏi:

- Sao hôm nay rãnh rỗi tập trung hết trong phòng tán gẫu vậy?

Thành Khởi Vận sợ lạnh nhất, cho nên mặc cũng nhiều đồ nhất, nhưng trong phòng đặt ba chậu than, lại có nhiều người như vậy, khiến khuôn mặt mềm mại và trắng phau của nàng đỏ phừng phừng, nên lúc này đã cởi bớt áo bào ngoài, áo kép cân vạt cũng cởi bớt hai nút, lờ mờ thấy được chiếc áo bó ngực màu hồng nhạt. Khi thấy Dương Lăng bước vào, nàng liền cuống quít cài nút áo lại.

Dương Lăng chỉ kịp nhìn thấy một khe ngực trắng mịn mê người liền vội quay mặt đi chỗ khác, thấy Hàn Ấu Nương đang thu dọn mấy thứ trông giống như quần áo được bày ở trên bàn; trông kích cỡ thì hẳn là áo quần chuẩn bị cho em bé.

Ngọc Nhi và Tuyết Nhi thấy ánh mắt lão gia đặt trên Ấu Nương, biết rằng mấy ngày nay y bộn bề công việc, ngày thường không thể ở nhà với phu nhân, cho nên mỗi khi về nhà sẽ thường ở bên cạnh nàng ấy. Hai người rất là lanh lợi, bèn đãi bôi linh tinh vài câu rồi tìm lý do lui ra ngoài.

Hai người đi rồi, Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm càng không còn lý do gì để nán lại. Cao Văn Tâm đợi ở đây đã một ngày, chỉ gặp được Dương Lăng một chốc, ngay cả cơ hội nói chuyện cũng không có, thế là không khỏi ai oán liếc y một cái rồi cũng vái cáo từ, lui ra ngoài cùng Thành Khởi Vận.

Thấy mọi người đã ra ngoài, Dương Lăng đi đến hôn lên má Ấu Nương một cái, đặt cái bọc nàng đang cầm lên bàn rồi ngồi xuống chiếc ghế dựa, vòng tay kéo nhẹ chiếc eo thon của nàng, bờ mông tròn lẳng vênh vênh thuận thế sà lên đùi y. Dương Lăng ôm nàng vào lòng thủ thỉ:

- Ấu Nương, hôm nay có thấy mệt trong người không? Nếu mệt thì nghỉ ngơi nhiều một chút, đừng làm việc vất vả quá. Tiếc là hiện tại thời tiết không có trái cây tươi để ăn, đợi thêm chừng hơn tháng nữa, đợi cà chua trong hầm sưởi ra trái rồi sẽ cho nàng ăn nhiều một chút.

Y vừa thủ thỉ vừa lần bàn tay lên bộ ngực mềm mại của Ấu Nương xoa nắn. Hàn Ấu Nương yêu kiều thở hổn hển giữ tay y lại, giọng khẩn nài:

- Tướng công, chàng đừng... đang ở ngoài sảnh đó.

Dương Lăng cười nói:

-Tướng công nhớ nàng mà, Ấu Nương có thai được một tháng, tướng công còn phải đợi chín tháng... à... không đúng, phải gần một năm cơ, mới có thể thân mật cùng nàng.

Bị y xoa nắn, cặp nhũ hoa của Hàn Ấu Nương nhú cao, hai má đỏ bừng, thân thể nhũn mềm. Nàng yếu ớt víu lấy cổ Dương Lăng, kề tai y nói với hơi hướm ghen tị:

- Không phải là còn Tuyết nhi và Ngọc Nhi à? Mấy đêm hôm nay tướng công chẳng phải thường hay ngủ lại trong phòng bọn họ, người ta lại không thể... không thể hầu hạ tướng công.

Dương Lăng nói:

- Ta sợ nhất thời nhịn không được, làm động đến thai của nàng mà. Ừm... Ấu Nương đã muốn ta đi tiếp bọn họ, vậy tướng công đành đi tìm bọn họ thôi.

Nói đoạn y làm bộ như muốn đứng dậy. Tâm hồn ngây thơ của Hàn Ấu Nương cuống lên, vội vàng ôm chặt lấy cổ y, cái miệng nhỏ nhắn cũng rất cong lên hết sức không tình nguyện. Nhưng khi cặp mắt của nàng chạm với ánh mắt có phần ranh mãnh của Dương Lăng, nàng mới sực hiểu là đã bị y trêu đùa, thế là không khỏi ngượng chín mặt.

Nàng mím môi tựa nhẹ vào lòng Dương Lăng, hai chân hơi quíu lại, cặp mông vặn vẹo bên dưới khiến cho Dương Lăng bị kích thích. Ấu Nương cảm nhận sự biến hoá của y, nhịn không được bèn liếc y một cái, rồi thẹn thùng cúi đầu thỏ thẻ:

- Tướng công, Văn Tâm tỷ tỷ nói... nói... Ấu Nương khí huyết dư thừa, thai nguyên ổn định, nếu nhẹ nhàng một chút thì trong ba tháng đầu... vẫn có thể hầu hạ phu quân...

Đến đoạn cuối, nàng không nén được xấu hổ nên âm thanh đã lí nhí như muỗi kêu. Dương Lăng cũng bị vẻ e thẹn đến mê người của nàng gợi khêu lửa dục, nhưng lại không dám manh động, bèn vội lắc nhẹ đầu nói:

- Không được, không được, tướng công thực không dám. Ấu Nương còn nhỏ, thân thể vốn dĩ còn non nớt, tướng công thực không dám mạo hiểm. Nào, ngồi cạnh tướng công, để tướng công đập hạch đào* cho nàng ăn nhé, bổ não lắm đó.

(*quả óc chó)

-Ưm.

Hàn Ấu Nương xúc động khẽ rên lên, thân thể không nghe theo lời mà thoáng dao động, làn thu ba yêu kiều đã ngân ngấn nước, cặp nhũ hoa trước ngực bị xoa nắn cũng đã nhú cao, săn lại.

Dương Lăng thò tay vào trong bầu ngực nóng hừng hực như lửa của nàng, ngón tay đùa nghịch đôi đầu nhũ mềm như chiếc mào gà non, khiến thân thể của nàng run rẩy từng đợt.

Ánh mắt cháy bỏng của nàng ngước nhìn Dương Lăng, chủ động đưa lên tìm kiếm môi y hôn một cái thật sâu, sau đó kề gò má láng mịn của mình bên tai y, hổn hển:

- Người ta... cũng muốn tướng công yêu thiếp, tướng công có nhiều kiểu đa dạng như vậy... Cùng lắm thì người ta... người ta dùng cách khác để hầu hạ chàng mà.

Dương Lăng lẳng lặng ngắm nhìn nàng trong chốc lát, rồi chợt cúi xuống đỡ bên eo nàng, ôm lấy tấm thân nhỏ nhắn mềm mại của nàng dậy, rồi kề tai nàng khẽ cười nói:

- Tiểu yêu tinh, theo bọn Ngọc Nhi không học điều hay mà lại học dụ dỗ tướng công à.

Mặt Hàn Ấu Nương đỏ au, nàng 'ưm' một tiếng, hai tay bụm mặt, không dám nhìn y, cả người mơ mơ màng màng; Dương Lăng bế nàng đưa vào phòng ngủ.

...

Bước đi trên con đường nhỏ uốn khúc, Cao Văn Tâm cảm thấy có phần mất mát. Hiện nàng đã có thân phận tự do, nhưng Dương Lăng lại vẫn không hề có ý muốn rước nàng về nhà. Anh em trong tộc của nàng phản đối nàng không nói, bản thân nàng là một người con gái sao có thể không biết thẹn mà chủ động mở miệng gợi ý đây. Thấy thanh xuân phí hoài, mình đã sắp đến tuổi hai mươi, vậy mà chuyện chung thân đó...

Nàng khẽ thở dài, đưa mắt nhìn một gốc mai xa xa trong tuyết, cười đau khổ. Vừa bước ra khỏi cửa, Thành Khởi Vận vì sợ lạnh nên vội siết chặt chiếc áo khoác lại. Trông thấy Cao Văn Tâm đứng ngơ ngẩn ở đằng xa, nàng bèn đứng dõi nhìn Văn Tâm một chốc, trong lòng như có điều suy nghĩ, sau đó nhẹ nhàng bước tới gần.

Nghe tiếng bước chân, Cao Văn Tâm liền quay đầu lại, trông thấy Thành Khởi Vận nàng không khỏi ngạc nhiên hỏi:

- Thành cô nương, bên ngoài trời lạnh, sao còn chưa trở vào phòng?

Từ dạo lên đường hồi kinh, chứng kiến Thành Khởi Vận hết lòng hết sức bán mạng cho Dương Lăng, cộng thêm khoảng thời gian qua sống chung trong Dương Phủ biểu hiện của Thành Khởi Vận luôn rất đúng mực, cho nên Cao Văn Tâm đối với thái độ của Thành Khởi Vận cũng không còn nặng thành kiến nữa.

Thành Khởi Vận mỉm cười điềm nhiên, khẽ đáp:

- Cả ngày trốn trong nhà cũng cảm thấy rất chán. Tôi vốn dĩ thấy tài phú văn chương của mình không kém đấng mày râu, nhưng mấy ngày nay đại nhân vì triều chính mà bôn tẩu ngược xuôi, có rất nhiều kiến thức cũng không phải là thứ mà tôi có thể lý giải được.

Rồi nàng cười khổ sở nói:

- Dường như tôi thạo là âm mưu quỷ kế, nhưng trên triều đường địch ta phân chia, dương mưu chiếm đa số, chính kiến bất đồng căn bản không giấu được ai, tôi lại không thể ra sức được gì, thực sự đã trở thành kẻ nhàn nhã nhất của Nội xưởng.

Nàng thở dài một hơi rồi đảo mắt cười hỏi:

- Không biết Cao cô nương có nguyện ý đến phòng tôi ngồi một chút, tôi và cô đánh vài ván cờ được không?

Cao Văn Tâm lặng lẽ lắc đầu nói:

- Khí trời lạnh lẽo, không có tâm tình, tôi đi về trước. Thành cô nương cũng nên sớm trở về phòng đi, chớ để nhiễm phong hàn trở lại.

Thấy vẻ mặt nàng cô đơn, Thành Khởi Vận đột nhiên mỉm cười nói:

- Cô nương tư nhan xuất chúng, lại có chức vị ngự y thất phẩm trên người, cũng đã đến tuổi hai mươi, chẳng lẽ không lo chăn đơn gối chiếc, không muốn có người đàn ông tri âm bên giường bầu bạn đêm dài hay sao?

Khuôn mặt Cao Văn Tâm đỏ bừng, nàng thoắt xoay người nhìn Thành Khởi Vận, thấy ánh mắt nàng ta trong veo như nước, không có vẻ gì là trêu đùa, cơn tức giận vì thế giảm đi, nhịn không được bèn hỏi:

- Thành cô nương nói vậy là ý gì?

Thành Khởi Vận cười đáp:

- Chỉ là tôi không nỡ thấy cô nương đau khổ vì tình cho nên nói lời khuyên nhủ mà thôi.

Đoạn nàng siết chiếc áo choàng chặt lại một chút, rồi vươn bàn tay thanh mảnh ưu mỹ như bạch ngọc ra nhẹ nhàng vuốt ve một nụ hoa chực nhú ở đầu cành, giọng khe khẽ:

- Thực ra cô cũng chớ nên oán trách Dương đại nhân vội. Tuy rằng nam nhi tam thê tứ thiếp là chuyện hết sức bình thường, nhưng chưa đến tuổi hai mươi mà đã nạp ba người thê thiếp cũng không phải là ít. Y lại yêu thương kính mến phu nhân như vậy, cho dù có người con gái mà y ngưỡng mộ trong lòng, sợ rằng... Dù y có lòng yêu thích, cũng sẽ không động lòng rước vào trong nhà đâu.

Thành Khởi Vận khẽ co ngón tay lại rồi búng ra, nụ hoa thuận theo hướng ngón tay bay đi rồi nhẹ nhàng rơi xuống thảm tuyết trắng tinh. Cao Văn Tâm nhìn nửa nụ hoa hồng nhạt chôn dưới mặt tuyết xốp mềm đến xuất thần.

Chỉ nghe tiếng Thành Khởi Vận tiếp tục vẳng lại bên tai:

- Tuy nhiên... hiện tại đã vào nhà Dương đại nhân, theo y đến răng long đầu bạc, cô gái được như vậy so với những thiếu nữ mới lớn mà đám lão gia tuổi đã nửa trăm, râu tóc bạc trắng mới rước về thực may mắn hơn nhiều.

Vừa ngượng vừa giận Cao Văn Tâm giậm chân nói:

- Y có chịu nạp thiếp hay không thì liên quan gì đến ta? Thành cô nương rốt cuộc là muốn nói gì?

Thành Khởi Vận hứng thú đưa mắt nhìn vẻ thiếu nữ xấu hổ hiếm thấy của Văn Tâm, rồi mỉm cười nói:

- Từ xưa hôn nhân đều thuận theo ý cha mẹ, lời của người mai mối, nhưng hạnh phúc chân chính có thể được bao nhiêu? Người đàn ông tầm thường đương nhiên không thể lọt vào tầm mắt của cô. Nếu đó là người đàn ông tài cán, tương lai y lại sẽ khó tránh khỏi muốn nạp thêm vài thiếp thất có nhan sắc hơn cô.

Cho nên nữ nhân thông minh nên chọn gả cho người nam nhân chịu yêu tiếc và quý trọng họ, chịu đối đãi bình đẳng với họ, sẽ không vì tuổi già phai sắc mà đối xử lạnh nhạt với họ. Nhưng trên đời có mấy nam nhân được như vậy? Nếu như cô đã gặp được một người, lại tự than tự oán đợi người ta chủ động đến tiếp nhận cô, chẳng lẽ sự dè dặt còn quan trọng hơn cả hạnh phúc cả đời ư?

Cao cô nương, cô hãy suy nghĩ kỹ một chút, thảng như cảm thấy gả cho y không thể cho cô hạnh phúc, vậy thì hãy chóng vung thanh gươm lý trí chặt đứt sợi dây tình, tìm một phu quân khác, tránh tự rước phiền não vào người. Còn quả như trái tim đã gởi gắm cho y, chỉ cần chọc thủng lớp giấy này liền sẽ có thể đạt được hạnh phúc nhưng lại cứ thế mà bỏ qua cơ hội này thì cô sẽ hối tiếc cả đời đó.

Đoạn Thành Khởi Vận cất giọng xa xăm:

- Bướm ong chẳng chắc mến thương thầm, lòng đắng ngắt khi rời áo đỏ...

Chợt nàng nhướng mày nói:

- Nữ nhân không phải chỉ là một đoá hoa vô tri vô giác, được ong bướm chiếu cố đến liền cảm thấy hạnh phúc vừa lòng. Cô có người trong lòng không? Nếu có thì chỉ đợi y tìm đến cô sao? Nữ nhân thì không thể lựa chọn phu quân cho mình sao?

Cao Văn Tâm nhìn Thành Khởi Vận chằm chằm một hồi, miệng mấp máy như muốn nói rồi lại thôi. Một lát sau nàng xoay người bước đi vội vã như trốn chạy về chỗ ở của mình.

Khuôn mặt trắng như bạch ngọc của Thành Khởi Vận từ từ nở một nụ cười xinh đẹp. Nàng đưa tay vịn lên một cành mai, nhẹ nhàng đưa mũi gần lại. Hoa đỏ héo tàn, kiều nhan như tuyết, trông đẹp không tả thành lời.

Thành Khởi Vận lười nhác đưa cánh hoa mềm mại vuốt ve gò má của mình, mỉm cười ngâm:

- 'Hoa đang thời nở mau mau hái, chớ để hoa rơi lại bẻ cành'. Thường nói nữ nhân như hoa... nếu cũng coi nam nhân là hoa thì hình như mới công bằng...

Thành Khởi Vận đưa hai ngón tay búp măng thon dài ngắt lấy nhánh hoa, nhón một đoá hoa mai đã thành hình rực rỡ, nhìn chăm chú một chốc, trong mắt chợt hiện lên một nụ cười xảo quyệt và tinh quái.

Chú thích:

Đoạn vô phong điệp mộ u hương, hồng y thoát tận phương tâm khổ...

Trích trong bài từ "Đạp Sa Hành" của Hạ Chú

'Hoa khai kham chiết trực tu chiết, mạc đãi hoa lạc không chiết chi'

Trích trong bài thơ "Kim Lũ Y" của Đỗ Thu Nương

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 168: Lời đồn về xuất thân của Hoàng đế

Hàn Ấu Nương ngả người vào lòng Dương Lăng thoả mãn, đôi má vẫn còn nóng hôi hổi.

Dương Lăng mơn trớn cặp mông trơn nhẵn của nàng, lơ đãng gọi:

- Ấu Nương!

- Dạ?

Hàn Ấu Nương khẽ đáp rồi ngước đầu nhìn y dò hỏi. Dương Lăng vỗ nhẹ bờ mông khuất dưới chăn của nàng, hỏi:

- Ta vừa sực nhớ nàng nói Văn Tâm bảo trong vòng ba tháng nàng vẫn có thể làm chuyện phòng the. Các nàng... trước giờ đều chia sẻ mọi thứ như vậy sao?

Hàn Ấu Nương rúc người vào lòng y cười thật tươi, nũng nịu như một chú mèo con:

- Văn Tâm tỷ tỷ sợ người ta bị mất lòng yêu thương của tướng công chứ bộ...

Dương Lăng vờ giận trách:

- Nói bậy, tướng công là người như vậy à?

Rồi y trừng mắt, khẽ búng mũi nàng, Hàn Ấu Nương kêu á lên một tiếng, chun mũi lại.

Dương Lăng gác đầu lên cánh tay, ngửa mặt lên trần nói tiếp:

- Tuy rằng nàng ấy là thái y nhưng suy cho cùng vẫn là cô gái chưa xuất giá, sau này nàng hãy hạn chế đề cập những chủ đề như vậy với Văn Tâm. Tuy các nàng là bạn gái thân thiết chốn khuê phòng song e là... cũng không thích hợp lắm.

- Đúng rồi!

Hàn Ấu Nương lật sấp người lại, nằm đè lên ngực Dương Lăng, mở to cặp mắt tròn xoe hỏi:

- Tướng công! Sang năm Văn Tâm tỷ tỷ hai mươi tuổi rồi. Ngày ấy, trước lúc ra pháp trường, khi kết bái thiếp đã từng nói sẽ nguyện tiếp nhận bọn họ vào nhà. Tướng công... không thích Văn Tâm tỷ tỷ sao?

Dương Lăng vỗ mông nàng một cái rồi bảo:

- Leo xuống, đừng đè lên bụng nữa!

Hàn Ấu Nương "í" một tiếng, le lưỡi rồi ngoan ngoãn bò xuống khỏi người y.

Dương Lăng ôm lấy nàng, dịu dàng:

- Ấu Nương! Nàng đương nhiên nghĩ rằng tướng công nhà mình là nam nhân tốt nhất thế gian, người con gái nào cũng phải được gả cho y mới sẽ có hạnh phúc. Nhưng người đàn ông tốt trên đời không phải là không còn, chẳng qua là nàng chưa có cơ hội gặp gỡ mà thôi.

Không thể so sánh Văn Tâm với Tuyết Nhi và Ngọc Nhi được! Có lẽ khi đó xuất phát vì lòng muốn báo ơn hoặc vì không còn sự lựa chọn nào khác nên nàng ấy mới thuận ý nàng gả cho tướng công. Nay Văn Tâm đã được khôi phục tự do lại có chức quan trên người, chưa hẳn đã không thể tìm được một người chồng tốt. Chẳng lẽ gả vào Dương phủ làm thiếp mới là sự lựa chọn tốt nhất cho nàng ấy sao?

Các nàng phải cho nàng ấy một cơ hội được cân nhắc kỹ lưỡng ở một góc độ mới, dưới một thân phận mới, chứ đừng mặt trong mặt ngoài ép nàng ấy coi mình là người nhà họ Dương để nàng ấy cũng phải nghĩ rằng gả cho ta là lẽ đương nhiên. Nói thật, nếu như không phải do trời xui đất khiến mà Văn Tâm trở thành nô tì của ta, có thể lúc này gặp mặt nàng ấy sẽ kính nhi viễn chi ta đó.

Hàn Ấu Nương trợn tròn mắt, hờn dỗi trách:

- Tướng công lúc nào cũng lý sự nhiều như vậy cả! Chàng nghĩ Ấu Nương mong muốn có thêm tỷ muội để chia sẻ chàng lắm sao? Nhưng mà cha nói rất đúng, hiện tại chàng đã làm quan rất to, nếu không nạp thêm thiếp thất thì cả chàng và thiếp đều sẽ bị người ta bàn tán sau lưng.

Hơn nữa, trong dòng họ Dương, nhân khẩu của nhà tướng công là ít ỏi nhất, tướng công lại là con duy nhất. Để nhà họ Dương này được hưng thịnh không phải chỉ là trách nhiệm của chàng mà cũng còn là trách nhiệm của thiếp. Tướng công luôn đối đãi tốt với Ấu Nương như vậy, đương nhiên Ấu Nương cũng thỏa lòng rồi.

Rồi nàng khẽ thở dài nói tiếp:

- Có lẽ chàng nói đúng. Nếu như ở những hoàn cảnh khác, chàng và tỷ ấy tuyệt đối sẽ không thể ở cùng nhau. Nhưng tỷ ấy gặp nạn lại được chàng cứu giúp, há chẳng phải là duyên phận sao?

Nghe nói Trương hoàng hậu tranh giành sự sủng ái duy nhất, không cho Tiên hoàng sủng hạnh nữ nhân khác. Kết quả khiến cho rất nhiều đại thần chỉ trích bà ấy là được cưng chiều mà kiêu ngạo, không biết suy nghĩ cho tông miếu xã tắc, khiến cho hiện nay dòng dõi của Tiên hoàng chỉ có mỗi đương kim Hoàng thượng. Còn có người nói...

Nàng hơi ngần ngừ, thấy sắc mặt Dương Lăng vẫn bình thản mới nói tiếp:

- Còn có người bảo rằng đương kim hoàng thượng là đứa con mà thái hậu nhận về nuôi do bị bá quan chỉ trích không thể hạ sinh hoàng tử, đây chính là một điều danh bất chính ngôn bất thuận. Hoàng hậu và thái tử cao cao tại thượng còn có thể vì những chuyện trong nhà mà bị người ngoài bàn tán xôn xao, Ấu Nương thực không muốn mang lấy cái tiếng đố phụ(*).

(*) người phụ nữ hay ghen, hay tị nạnh.

Dương Lăng biết mấy năm trước, khi tiên đế còn tại vị, trong triều từng vì chuyện này mà ầm ĩ một hồi, cho nên nghe Ấu Nương nói vậy thì y chỉ cười, định bỏ qua. Nhưng liền đó y lại chợt nghĩ nay Chính Đức đã lên làm Hoàng đế, tự khi nào dân gian lại lan truyền thứ lời đồn đại này? Dám bôi nhọ đương kim Hoàng đế ư?

Tuy là lời đồn đại này không chứng cứ, khi mình đến thời đại này thì cũng phát hiện nếu dân gian có tuyên truyền bậy bạ một ít lời đồn đãi vu vơ thì quan phủ cũng sẽ không quan tâm lắm. Nhưng nếu như xuất phát từ kẻ có lòng bày mưu đặt kế thì mục đích sẽ không còn đơn giản nữa.

Dương Lăng lờ mờ nhớ lại vụ Ninh Vương tạo phản dường như là có sử dụng đến tội danh này, thế là y không khỏi nhíu mày lại hỏi:

- Ấu Nương, nàng nghe ai kể chuyện này vậy?

Thấy sắc mặt y thận trọng, Hàn Ấu Nương không khỏi hơi phát hoảng, lắp bắp đáp:

- Ấu Nương... nghe nương tử nhà họ Nghiêm kể lúc đến nhà trò chuyện. Nghe nói rất nhiều học sĩ Hàn Lâm Viện cũng lén lút bàn tán về chuyện này, hiện nay trong kinh cũng đã loan truyền hết sức ly kỳ.

Dương Lăng ngẫm nghĩ một lúc. Ngô Kiệt chưa từng bẩm báo với y những tin tức về phương diện này. Lời đồn hoàng đế Chính Đức không phải là máu mủ của tiên hoàng đã tồn tại từ lâu, chắc hẳn bên phía xưởng vệ cũng không để ý lắm đến loại tin đồn như thế này.

Nhưng y lại biết việc thừa kế ngôi vua coi trọng nhất là danh chính ngôn thuận. Lúc tân hoàng vừa kế vị, Ninh Vương đã mang tặng một số lượng lớn đèn hoa pháo bông để chơi đùa, hôm qua hắn lại đưa hai mỹ nữ vào cung. Bản thân hắn ta là hoàng thúc, đấy há lào phò tá minh quân sao? Chẳng lẽ hắn đã chuẩn bị tạo phản? Lời đồn lan rộng này là do hắn tạo ra ư?

Dương Lăng vỗ vỗ trán, thầm nghĩ: "Xem ra phải căn dặn Ngô Kiệt chú ý kiểm tra nguồn gốc của những lời đồn đãi này mới được. Để tin đồn lưu truyền trong dân gian thì thực ra cũng dễ, nhưng để cho chuyện này cũng được đồn đãi, bàn tán trong Hàn Lâm Viện thì không thể nào là việc dân đen làm được. Rốt cuộc là kẻ nào đang truyền bá lời đồn đãi này?"

Thấy sắc mặt Dương Lăng nghiêm trọng, Hàn Ấu Nương bèn hỏi:

- Tướng công, có gì không ổn à?

Không muốn nàng lo lắng, Dương Lăng mỉm cười lắc đầu đáp:

- Ồ, không có gì! Ta đang nhớ đến việc này, hôm nay lúc từ trong cung trở về ta đã thấy có rất nhiều nạn dân chạy nạn từ biên tái đến kinh thành. Bọn họ thiếu ăn thiếu mặc, tuy có bộ Hộ chẩn tế nhưng e khó lòng chống chọi cho qua nổi mùa đông rét hại. Ta tính mai sẽ dẫn người đi dựng lều phát cháo. Trong nhà còn thóc gạo, quần áo không?

- A!

Hàn Ấu Nương ngồi bật dậy thất kinh hỏi:

- Năm nay nạn giặc Thát nghiêm trọng như vậy sao? Chốc nữa Ấu Nương sẽ đi đến nhà kho kiểm tra qua, chuẩn bị chút lương thực và quần áo, ngày mai sẽ cùng chàng ra ngoài thành phát cháo nhé. Tướng công còn phải lo liệu việc công, không thể phân tâm quá mức.

Dương Lăng vội kéo chăn đắp cho nàng rồi bảo:

- Mau nằm xuống đi, đừng để nhiễm lạnh. Đến lúc đó ta để Cao quản gia phụ trách là được rồi. Thành cô nương giỏi về điều hành, Văn Tâm biết y thuật, để hai người bọn họ thi thoảng đến thăm qua là đủ rồi, việc phát cháo không cần nàng đi đâu.

Đoạn y ôm Ấu Nương, cắn nhẹ lên bộ ngực mềm mại của nàng khiến nàng rên khẽ một tiếng yêu kiều, nhẹ giọng nói:

- Nàng đó, chỉ cần phụ trách nghỉ ngơi, giữ gìn thân thể cho tướng công để mai này sinh một đứa con bảo bối khoẻ mạnh kháu khỉnh là được rồi, đừng làm lụng quá sức.

****

Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng chạy lên núi nghe ngóng tình hình liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ và tình hình chiến sự ở tiền phương.

Dân du mục coi dân nông canh là kho lúa và là đối tượng cướp bóc "hiển nhiên" của bọn họ. Cho dù đang khi song phương bảo trì quan hệ hoà thuận thì những chuyện như lúc thì giao dịch khi thì cướp bóc vẫn thường xảy ra như cơm bữa. Gặp khi cuộc sống đến bước đường cùng, Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến vùng biên giới cướp bóc kiếm ăn, nhưng bọn họ cũng không dám quá đắc tội với Đại Minh: một là chú ý không giết dân thường, hai là tuyệt không ra tay cùng lúc với người Thát Đát.

Cho nên lần này người Thát Đát công chiếm biên tái, Đoá Nhan Tam Vệ lập tức ước thúc bộ hạ đóng cửa không ra, nghiêm ngặt bảo trì cự ly với Tiểu vương tử, tránh để Đại Minh hiểu nhầm rằng bọn họ cùng hành động chung với người Thát Đát.

Có điều người do Dương Lăng phái đi liên lạc với Đoá Nhan Tam Vệ lần này cũng phải gặp rất nhiều trắc trở; cho nên đến tận bây giờ vẫn chưa có tin tức gì về việc song phương đã liên hệ được với nhau.

Miêu Quỳ cùng Bảo Quốc công Chu Huy và Ngự sử Sử Lâm đã đến Đại Đồng. Cùng với hơn bốn vạn trú quân đã có sẵn, bọn họ liền có trong tay chín vạn nhân mã để đối đầu với bảy vạn quân địch. Cuộc chiến ác liệt với Thát Đát đã qua đến ngày thứ ba, quân Minh đã giành lại được hai toà thành trì. Tin tức đưa về cho biết đại quân đang khổ chiến cùng giặc Thát tại Hoa Mã Trì.

Quân Minh phải chia ra một phần binh lực để thủ thành trong khi giặc Thát lại không bị vướng bận bởi vấn đề này, vì vậy hiện tại binh lực song phương ngang nhau, đang trong thế giằng co. Trước mắt quân Minh vẫn chưa rơi vào thế thua.

Nghe báo cáo xong, cảm thấy hơi an tâm, Dương Lăng bèn dặn dò Ngô Kiệt phái thêm người đi điều tra nguồn gốc tin đồn Hoàng đế Chính Đức không phải là máu mủ của tiên đế, một khi có kết quả phải lập tức bẩm báo với y ngay. Sau đó y chạy đi xem đám Hỏa Giả Á Tam nghiên cứu chế tạo hỏa súng.

Khi Hỏa Giả Á Tam vừa nghe xong nguyên lý khắc thêm rãnh xoắn trong nòng súng khiến viên đạn chuyển động xoay tròn sinh ra lực ly tâm làm gia tăng tầm bắn thì gã liền hiểu ngay, có điều thực sự bắt tay vào làm mới thấy đủ thứ phức tạp.

Đầu tiên là chất lượng nòng súng không tốt lắm, về sau bọn họ phải chọn dùng tinh thép có giá thành cực cao. Thí nghiệm hỏng mất mấy trăm nòng súng bằng tinh thép họ mới đại khái lần ra được chút manh mối, nhưng công nghệ gia công như thế quá mức phiền hà khiến cho chi phí sản xuất loại súng như vậy còn tốn kém hơn cả làm đao bọc thép.

Song nhóm phụ trách nghiên cứu kết nối đầu đạn chung với việc kích nổ lại có được tiến độ rất lớn. Bộ phận phóng đạn được thay đổi hết sức khéo léo, hơn nữa việc nạp đẮ đã được chuyển thành nạp từ phía sau.

Do không có máy dập tương ứng, chế tạo thủ công loại đầu đạn và thân đạn mà Dương Lăng nói vô cùng khó khăn, nhóm thợ bèn đổi sang dùng vỏ giấy làm kíp nổ, lấy đá lửa và hỗn hợp lưu huỳnh làm "ngòi nổ". Khi bóp cò, đá lửa đập xuống, đốt cháy ngòi nổ, kích hoạt thuốc súng bên trong viên đạn khiến viên đạn được bắn đi.

Bên cạnh đó, loại đạn sử dụng cũng được chuyển từ hình tròn thành hình thoi, đầu đạn có thêm ba khía giống như mũi tên, tầm bắn tăng lên gần mười trượng song lực sát thương tăng lên không chỉ ba thành. Hơn nữa tốc độ bắn lại nhanh hơn súng hỏa mai kíp đá lửa thông thường gấp mấy lần, gần bằng với tốc độ bắn tên.

Khuyết điểm của nó là tầm bắn vẫn còn ngắn hơn cung tên, nhưng bù lại là tuy độ chính xác vẫn còn hơi kém nhưng vẫn nhỉnh hơn tên bắn một chút. Quan trọng nhất là Dương Lăng căn dặn bọn họ không ngừng thí nghiệm điều chế thuốc súng, nên sau khi thử nghiệm nhiều lần, bọn họ đã chế tạo được loại thuốc súng tốt hơn; hỗn hợp ni-trát, lưu huỳnh và bột than theo tỷ lệ khoảng 7.5:1.5:1 thì đạt được hiệu quả phát nổ tốt nhất.

Xung lực phát nổ lớn, khói súng và bã thuốc súng cũng ít đi, ước chừng có thể bắn liên tục sáu mươi đến tám mươi phát đạn mà không cần phải lau chùi nòng súng. Trong khi đó một cung tiễn thủ lợi hại cỡ nào cũng không thể bắn liên tục được hai mươi mũi tên. Cho nên chỉ cần quân đội song phương tiếp cận thì dưới sự phối hợp và bảo hộ của binh chủng khác, đội hỏa súng ba hàng bắn luân phiên sẽ là một cơn ác mộng không thể chống lại.

Có điều vấn đề kẹt đạn của loại hỏa súng này vẫn chưa có cách giải quyết hoàn toàn, tính ổn định lại kém, có lúc lại bắn ra đạn lép. Dương Lăng quyết định mau lẹ, y lập tức chạy đi lôi nhóm Hỏa Giả Á Tam đang nghiên cứu rãnh nòng súng (lúc này cả bọn đã nghiên cứu đến mắt xanh biến thành mắt đỏ, tóc tai dựng đứng bù xù, thượng đế là ai cũng quên mất) đến tham gia vào đội ngũ nghiên cứu chế tạo vỏ đạn giấy và súng lắp đạn phía sau. Y bảo bọn họ hãy dốc sức nghiên cứu chế tạo loại vỏ đạn giấy trước, còn về phần rãnh xoắn thì nhất định cũng phải nghiên cứu nhưng tạm thời không vội.

Dương Lăng cho rằng trước khi các ngành nghề liên quan như luyện thép, máy móc, thiết bị tinh vi đạt tới năng lực sản xuất và khoa học kỹ thuật tương ứng mà y vẫn cưỡng ép phát triển súng ống tiên tiến hơn là điều không thực tế. Bản thân y lại không phải là kỹ sư vạn năng, nếu như việc đã không giải quyết được thì nên tạm thời buông bỏ thôi. Loại kỹ thuật này vẫn có thể tiếp tục được nghiên cứu, tin rằng nó cũng sẽ có tác dụng thúc đẩy những ngành nghề khác, nhưng không nên lấy nóphương hướng nghiên cứu chủ đạo.

Hồi nhỏ, Dương Lăng thấy một thằng bạn béo ở trong doanh trại quân đội mang một cây dao găm quân sự rất sắc bén ra khoe. Với bản tánh thông minh lanh lợi Dương Lăng bèn lấy một bộ truyện tranh "Bảng Phong Thần" ra dụ đổi lấy cây dao găm của nó. Đáng tiếc y cầm chơi được có mấy ngày thì đã bị người bố làm tiểu đoàn trưởng của người bạn béo đó đến nhà đòi lại mất.

Giờ nhìn cây súng kíp đã có hình dáng ban đầu, nhớ tới cây dao găm sắc bén có thể lấy máu giết người nọ, Dương Lăng bèn đề nghị lắp thêm lưỡi lê vào. Song nói cho cùng, súng kíp không tiện dụng như trường thương và mã tấu. Trong thế giới hiện đại song phương cùng cầm súng trường thì người cầm súng có gắn lưỡi lê chỉ cần dùng vài động tác đơn giản như hất, gạt, đâm là đã có thể giết người. Còn thời này, trước mặt kẻ địch chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh thì việc gắn thêm lưỡi lê vào súng kíp chỉ là chuyện vô nghĩa.

Chỉ cần Dương Nhất Thanh cầm dao thực hiện vài động tác đâm chém đơn giản làm mẫu thì lập tức Dương Lăng bỏ qua ý định lắp lưỡi lê vào súng. Quyết định cuối cùng vẫn là sẽ chia thêm cho mỗi tay súng kíp một thanh đao giắt hông, đồng thời đội quân bắn súng sẽ liên hợp tác chiến cùng kỵ binh và các binh chủng bảo hộ khác.

Dương Lăng đi đến khu vực nghiên cứu chế tạo đang được trọng binh canh gác. Đứng trong ánh dương quang ấm áp đưa mắt nhìn những thôn xóm xa xa dưới núi, lòng y cảm thấy hơi ngậm ngùi: "Tiếc là Hoả Giả Á Tam không biết gì về hỏa pháo, còn mình thì ngoại trừ biết được cấu tạo đạn pháo và đạn của thời hiện đại chẳng khác nhau mấy, còn nguyên lý cơ bản của hỏa pháo thì lại không biết gì, bằng không bây giờ đã có thuốc súng uy lực mạnh hơn. Nếu chế tạo được hỏa pháo có lực sát thương cao hơn, trên chiến trường nhất định sẽ đánh đâu thắng đó."

Y hít một hơi dài, thầm nghĩ: "Nghe Hỏa Giả Á Tam nói quốc gia bọn họ đã nghiên cứu chế tạo được hỏa pháo lắp đạn phía sau. Nếu như có thể kiếm được một khẩu về nghiên cứu qua, có được chút gợi ý thì dựa vào tay nghề của những thợ thuyền này nhất định sẽ có thể chế tạo được súng ống lợi hại hơn. Tiếc là đường xá xa xôi, đến giờ vẫn chưa nghe nói có thuyền pháo của Phật Lang Cơ đến Trung Thổ quấy nhiễu."

"Hỏa pháo..." Dương Lăng chợt nhớ đến loại pháo cỡ nhỏ có giá đỡ ba chân mà người Nhật Bản sử dụng trong mấy bộ phim kháng chiến chống Nhật, rồi lại nhớ đến lựu đạn. Đó là những loại vũ khí xem chừng dễ chế tạo, dễ mang theo, uy lực lại chắc chắn lợi hại hơn nhiều so với loại súng kíp thông thường này.

Lúc còn ở trạm Kê Minh y từng thấy hỏa khí tương tự như lựu đạn thời hiện đại, có điều chúng quá cồng kềnh nên chỉ có thể dùng để ném từ trên thành xuống dưới đất. Hơn nữa sức công phá của thuốc súng lại không đủ cho nên không thể chế tạo vỏ bằng sắt.

Hiện tại thuốc súng cường lực đã có. Nếu như bọn y chế tạo được lựu đạn hình quả dưa có vỏ hình mai rùa dễ vỡ rồi trang bị cho mọi binh sĩ, tuy rằng công thành phá trại có chút khó khăn nhưng khi tác chiến ngoài đồng trống, loại sức sát thương khổng lồ đó nhất định sẽ có thể chống lại kỵ binh dũng mãnh của Mông Cổ. Hơn nữa những tiếng nổ lớn có thể khiến những con chiến mã Mông Cổ vốn chưa từng quen với hỏa lực hiện đại sẽ hoảng sợ. Chỉ cần người ngựa bọn họ rối loạn thì ưu thế về kỵ binh của bọn họ cũng sẽ không còn.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng phấn khích định quay trở về nói với đám người Hỏa Giả Á Tam về ý tưởng của mình. Nhưng mới vừa đi được vài bước, y lại cảm thấy hiện giờ bọn họ đã quá hao tâm phí sức vào việc nghiên cứu chế tạo vỏ đạn giấy, cứ đợi bọn họ có thành quả rồi mới đưa một mục tiêu mới cho bọn họ vậy.

Dừng chân, Dương Lăng chắp tay sau lưng quay lại đi men theo bước tường đầu chái nhà. Vừa đi được vài bước, y chợt trông thấy ở xa xa cửa phòng của Ngô Kiệt hé mở, một thư sinh vận áo dài xanh bước ra ngoài quay người lại nói với Ngô Kiệt đang theo sau mấy câu gì đó, rồi chắp tay vái chào, đi thẳng đến viên môn.

Dương Lăng nhận ra người thư sinh là Thành Khởi Vận đang cải nam trang, trong lòng không khỏi giật đánh thót: "Thành Khởi Vận tự mình lên núi để làm gì?" Dương Lăng bèn rảo bước từ con đường bên đuổi theo, vừa kịp đến cổng chặn đường Thành Khởi Vận.

Trông thấy Dương Lăng, mặt Thành Khởi Vận thoáng hiện lên vẻ kinh ngạc. Nàng thoáng chần chừ rồi bước lên gượng cười chào:

- Ti chức ra mắt đại nhân!

Dương Lăng nghiêm ánh mắt hỏi:

- Cô... sao lại lên núi vậy? Đường núi đầy tuyết trơn trợt không dễ đi, trong quân lại toàn là đàn ông...

Khuôn mặt Thành Khởi Vận đã không còn vẻ hoảng loạn, nàng trấn tĩnh lại, khẽ cười đáp:

- Ti chức ở trong phủ cảm thấy nhàm chán, hôm nay trời rất ấm cho nên lên núi đi dạo một vòng. Mang thân phận là Nhị đáng đầu của Nội xưởng, suy cho cùng thì không thể không biết chút gì về nha môn của chính mình có phải không? Hì hì...

Dương Lăng mỉm cười, nói:

- Việc này thực sự là do bản quan sơ ý rồi. Đã đi tới những đâu rồi? Đại đáng đầu không đi cùng cô sao? Có muốn bản quan đi cùng cô tham quan khắp nơi một chút không?

Thành Khởi Vận có cảm giác được yêu mến quá mức nên hơi lo sợ. Nhưng khi ngẩng đầu nhìn thấy rõ ánh mắt chất chứa sự dè chừng của Dương Lăng, nàng thoáng nghĩ đến điều gì đó, liền không khỏi tức giận.

Nàng mím môi lại, thoáng hiện hai hàng răng ngọc trắng đều như bắp, rồi cất giọng yêu kiều đáp:

- Đa tạ đại nhân, chẳng qua là ti chức đi vãn cảnh mà thôi! Không phải là đại nhân phải ra ngoài thành bố thí lương thực sao? Ti chức đi chậm, xin phép về phủ trước đợi ngài vậy.

Nói đoạn Thành Khởi Vận duyên dáng vái chào cáo từ. Y phục xanh nhạt dễ thương cùng gương mặt xinh đẹp chỉ trang điểm nhẹ, nụ cười rực rỡ dưới ánh dương quang khiến người ta hoa mắt, thật là muôn phần tươi đẹp.

Trong lúc Dương Lăng thoáng thất thần, Thành Khởi Vận đã nhướng mày, liếc nhanh y rồi khoan thai xuống núi.

Thành Khởi Vận lướt ngang qua người Dương Lăng. Tuy cải nam trang, song nàng lại cố ý bước đi kiểu phụ nữ, eo mảnh khoan thai, dáng người tha thướt, vẻ liếc mắt trông vô cùng mê người. Nàng vừa đi qua, một mùi thơm thoang thoảng kéo ngay đến, khiến Dương Lăng cũng lay động tâm tình, khởi lên bao ý niệm!

Dương Lăng ngạc nhiên đưa mắt nhìn theo bóng lưng nàng ta. Người con gái này bình thường thì có vẻ hoàn toàn vô hại, song nếu nàng ta đã định tâm cám dỗ thì với sắc đẹp, dáng điệu, tâm kế và thủ đoạn của nàng, quả thực chả có mấy người không bị lung lạc. Chẳng lẽ ngay cả Ngô Kiệt đã đến tuổi "tri thiên mệnh" (tuổi năm mươi) cũng không kháng cự được sự mê hoặc của nàng ta?

Dương Lăng muốn đi hỏi Ngô Kiệt, song lại cảm thấy khó mà mở miệng. Chần chừ hồi lâu, y chợt nhớ lại cảnh ngày trước khi Chính Đức đến thăm, chính y cầm kiếm đe dọa đã khiến Thành Khởi Vận phải sa lệ. Rốt cuộc y đành khẽ thở dài rồi đi theo nàng ta xuống núi.

Đi đến trước sườn núi, Thành Khởi Vận đưa khoé mắt khẽ liếc về phía sau, thấy bóng dáng Dương Lăng đang chậm rãi theo sau lưng, nàng tựa cười mà như không cười, quay đầu lại thong thả nhiếc khẽ: "Tiểu oan gia, người ta vì ngươi mà lo sống lo chết. Còn ngươi thì sướng rồi, không biết thông cảm thì thôi, còn đi nghi ngờ người ta cám dỗ này nọ, hừ! Ngươi mắc nợ ta, sớm muộn... sớm muộn rồi có một ngày ta sẽ bắt ngươi trả hết cho ta."

Nàng oán hận vung chân đá bay một cục đá nhưng lại trượt chân ngã ngồi oạch xuống đất. Thành Khởi Vận tức giận đập mạnh tay xuống mặt đất, nhưng băng tuyết chạm vào tay lạnh buốt, thế là lại vội rụt về. Đúng lúc này, Dương Lăng đã đi đến bên cạnh, mỉm cười đưa tay ra.

Thành Khởi Vận liếc y một cái, giận dỗi quay ngoắt đầu đi, bảo:

- Chẳng phải đại nhân hoài nghi ti chức dụ dỗ Ngô lão đầu sao? Sao không đi hỏi cho rõ?

Dương Lăng cười ha hả:

- Không thể trách ta, ai bảo lúc trước cô.... À, có điều ta đã nghĩ thông suốt rồi, cô sẽ không làm thế đâu. Với tầm mắt tài tình của cô nương, sao lại đi làm việc đó chứ?

Thành Khởi Vận vụt quay đầu lại, ngạc nhiên ngước nhìn y, nhất thời tâm tình xao động, chỉ cần có lời này của Dương Lăng, mọi tâm huyết và nỗ lực của mình đều đáng giá.

Con tim tung tăng nhảy múa, nàng vui sướng đưa tay lên. Dương Lăng nắm lấy bàn tay xinh xắn mềm mại của nàng kéo dậy, nhưng y lại buông thêm một câu rất không hợp thời:

- Nếu như cô nương có lòng muốn trèo cao thì ngày đó ở trước mặt Hoàng thượng đã không giữ khuôn phép như vậy. Cho nên cho dù cô nương có muốn cám dỗ ai đi chăng nữa, cô cũng sẽ không cám dỗ Ngô lão. Có lỗi, có lỗi!

Thành Khởi Vận vừa nghe thì giận đến bốc khói, nàng hất tay Dương Lăng ra, cả giận la lên:

- Ngươi... ngươi... ngươi... ngươi cố ý có phải không? Ta tham công danh lợi lộc đến vậy sao? Nhất định phải có lợi ích thì mới chịu thật lòng đối đãi với người ta ư?

Đoạn nàng căm hận quay người bỏ đi. Nhưng do bước vội, đôi giày da hươu lót nhung bị trượt, nàng lại ngã bệch xuống đất, mông đập trúng một cục đá đau điếng khiến nàng trào nước mắt.

Dương Lăng bước ngang qua, ánh cười trong mắt. Thành Khởi Vận thấy ý cười trong mắt y, nhất thời trong lòng dấy lên một nỗi bi thương, đau đớn nói:

- Ta muốn về nhà, ta muốn về phương nam. Ngươi luôn gây khó dễ cho ta, ngay cả tuyết ở đây cũng ăn hiếp ta.

Dương Lăng mỉm cười kéo nàng dậy:

- Đường núi vốn trơn trợt, lúc tôi lên núi còn bị ngã một lần đó, hà cớ gì cô lại trút giận sang người khác? Nào, để tôi dìu cô xuống núi. Ờ... dù gì đi đường không có việc gì làm, cô có thể kể cho tôi nghe rốt cuộc cô tìm Ngô lão để làm gì không?

Mới vừa được kéo dậy, nghe y nói vậy thì Thành Khởi Vận không nhịn được phì cười, một lúm đồng tiền thoáng hiện lên rồi biến mất. Ngay lập tức nàng nhanh chóng che giấu nụ cười, liếc y đáp:

- Không nói! Dù gì thì ta cũng là đồ vô dụng trong mắt ngài, nếu không dụ dỗ con nít thì là dụ dỗ ông già. Ngài có chiêu gì thì cứ dùng đi, nói không chừng khi trường kiếm kề lên cần cổ này rồi, cái gì nên nói cái gì không nên nói ta cũng sẽ khai ra hết đó.

Mũ ô sa của Thành Khởi Vận hơi lệch sang một bên, tóc lộ ra ngoài. Thỉnh thoảng có cơn gió thổi qua, một vài sợi tóc phơ phẩy nhẹ lên mặt Dương Lăng; nhột nhạt, thơm ngát...

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 169: Đạo tặc Dương Hổ

Phủ đệ của Dương Lăng không tích trữ nhiều quần áo cũ và lương thực cho nên y phải cho người vào nội thành mua thêm hai xe ngũ cốc đưa ra ngoài cửa thành tây. Tại đây, y cho dựng lều phát cháo hai lần một ngày. Ở đấy có tổng cộng bốn gia đình dựng lều thí cháo; ngoại trừ lều cháo của vị thiếu phụ áo đỏ nọ thì còn có lều của một vị phú thương Giang Nam đến kinh thành buôn bán và của một vị đại tài chủ bản địa.

Bốn nhà dựng lều thành một hàng, treo cờ trước quán để phân biệt; lần lượt là "Dương, "Dương", "Trâu", "Lý". Những người nông dân áo quần rách rưới, gầy trơ xương chạy nạn trú đông trong những chiếc lều dựng sơ sài của bộ Hộ dường như đã thích ứng với mùa đông giá rét cho nên có rất ít người ngã bệnh.

Sau khi đi đến vài gia đình kê toa biếu thuốc cho những vị lão nhân kém sức ngã bệnh, Cao Văn Tâm trở về lều nhìn xung quanh rồi nói với Dương Lăng:

- Đại nhân! Nhà bên trái cũng họ Dương đó, không ngờ vị thiện nhân này lại là người cùng họ với đại nhân.

Lúc nãy khi Thành Khởi Vận và Cao quản gia dặn dò gia nhân đang tham gia phát cháo tại đây, Dương Lăng đã đi xem xét chung quanh. Y biết Trâu gia ở lều bên phải hình như là cự phú ở thành Vô Tích thuộc Giang Nam, ông chủ họ Trâu tên Vọng. Chỉ riêng ruộng tốt ông ta đã có tới ba mươi vạn mẫu, nô bộc ba nghìn, dinh thự hơn trăm tòa, có thể nói là giàu nứt đố đổ vách.

Lần này Trâu Vọng vào kinh làm ăn, thấy nạn dân chạy đến kinh sư thế là đại phát thiện tâm, phái gia nhân phát cháo cứu tế ở đây, nhà ông ta giàu có nên có thể phát cháo ba lần một ngày. Lúc này là lượt phát cháo vào giữa trưa, tất cả nạn dân đang xếp một hàng dài trước lều của nhà họ Trâu chờ được thí cháo.

Cũng may những nạn dân đứng đó ngăn trở tầm mắt nên Cao Văn Tâm không thấy được nhà họ Lý ở tận cùng bên tay phải chính là nhà của Lý Kế Mạnh từng có hôn ước với nàng, do đó cũng tránh được nhiều điều khó xử.

Dương Lăng lo lắng chốc nữa nạn dân tản đi, Cao Văn Tâm chạm mặt với người nhà họ Lý sẽ sinh chuyện, bèn đáp:

- Ừm! Nhà đó cũng là người ở địa phương khác đi qua kinh sư, họ bỏ tiền cứu trợ bá tánh như vậy thực sự là gia đình tích thiện.

Rồi y nhìn Thành Khởi Vận đang sưởi ấm trước nồi cháo đang dần tắt lửa, mỉm cười nói tiếp:

- Tôi vốn vẫn hơi lo, giờ thấy những nạn dân này tuy ăn không đủ no nhưng ai nấy đều tuân thủ pháp luật, không ai dám đánh cướp lương thực. Chốc nữa cô và Thành cô nương hãy về phủ trước đi, nơi này giao cho Cao quản gia lo liệu là được rồi.

Thành Khởi Vận lạnh đến mũi ửng đỏ, hai má tê rần, nàng sụt sịt nói:

- Nơi này lạnh thật. Ti chức đã có lửa sưởi ấm mà còn lạnh không chịu nổi, thực không tưởng tượng được những người dân đó làm sao sống cho qua được mùa đông. Đại nhân nên phát động thêm nhiều gai đình giàu có ra tay phát chẩn. Những gia đình đó đều có của cải hàng vạn, một nhà giúp đỡ mấy chục nhân khẩu qua mùa đông thực dễ như trở bàn tay.

Ngoài ra, những người chạy loạn này tuy bần cùng đáng thương nhưng phần lớn vẫn còn sức lực, hơn nữa trong đó không thiếu hạng ăn no lười biếng; mấy tháng tới không thể cứ dựa dẫm vào người khác nuôi ăn, bọn họ vẫn có thể làm phu khuân vác hay nô bộc được. Không bằng đại nhân tổ chức tập hợp một số thanh niên khoẻ mạnh lại, cho bọn họ vào thành làm việc. Một là để họ có thể kiếm được chút ít tiền công, hai là cũng để tránh bọn họ không có việc gì làm, ở không lâu ngày lại sinh ra những chuyện bắt gà trộm chó lôi thôi.

Dương Lăng bật cười lớn bảo:

- Nói đúng lắm, ý tưởng này không tệ. Chốc về ta sẽ ghé thăm Thành Quốc công và Thọ Ninh hầu. Hai người này một là huân khanh một là quốc thích, nếu thuyết phục được hai vị ra mặt cứu tế, tiếp đó lại để triều đình và dân chúng ca tụng công đức một hồi thì những hào môn cự phú khác nhất định sẽ hưởng ứng thôi. Ta sẽ lại thương nghị cùng Lý đại học sĩ, bảo Ngũ thành binh mã ti đăng ký những nạn dân này vào sổ, sau đó chọn những thanh niên khoẻ mạnh, gia thế thanh bạch để phát giấy cho phép vào thành làm việc.

Nói xong, thấy Thành Khởi Vận đang nép sát người bên bếp lửa như một chú chim cun cút, y bật cười bảo:

- Có lạnh đến vậy không? Hay là cô hãy vào trong kiệu một lát đi, lấy áo khoác của ta trùm cho ấm người.

Y đang nói chợt thấy một thợt ngựa bờm vàng từ trong cổng thành phóng nhanh lại. Người kỵ sĩ rẽ qua góc thấy lá cờ lớn chữ "Dương" treo trên lều, khom người nhìn vào trong lều mấy lượt rồi lại quất ngựa phi về phía lá cờ chữ "Dương" còn lại.

Gã phóng ngựa có phần vội vã, một thanh niên ngoài hai mươi mới vừa lấy cháo về, vì vội tránh ngựa nên phải nhảy sang một bên bị trượt chân, bát cháo lập tức bị đổ mất một nửa. Người thanh niên đỏ bừng mặt giận dữ, cất tiếng mắng người kỵ sĩ.

Gã kỵ sĩ trên ngựa vung tay vất lại một xâu tiền đồng xuống tuyết, cất giọng trong tiếng cười vang:

- Đắc tội đắc tội! Ngươi hãy tự đi mua chút gì ăn đi, ta đang có việc gấp.

Gã trạc trên ba mươi tuổi, râu quai nón rậm rì trông rất thô kệch. Hành động tuy vô lễ song xem ra vẫn biết thương mến quý trọng những người dân cùng khổ này.

Nhưng người thanh niên nọ vận bộ áo dài màu xanh cũ nát, mặt trắng mày dài, nho nhã lịch sự, xem ra có vẻ cũng là kẻ từng đọc sách, làm sao lại chịu cúi đầu nhặt lấy từng đồng tiền trên mặt tuyết như ăn xin chứ. Hắn hừ một tiếng, thấy trong bát cháo vơi còn non nửa, bèn vội cẩn thận bưng đến một lều cháo.

Thành Khởi Vận thấy vậy thì cười khinh miệt nói:

- Xin cháo không phải là xin à? Nếu thực sự không ăn đồ bố thí thì cứ chết đói cho xong!

Cao Văn Tâm lại nhìn theo thư sinh áo xanh nọ với vẻ đồng tình:

- Vậy cũng không hẳn! Phát cháo là thiện tâm, người gặp nạn tiếp nhận chút hỗ trợ cũng đâu có gì là mất mặt! Nhưng gặp phải chuyện sỉ nhục, là người hơi có khí phách thì sao lại chịu tiếp nhận?

Thành Khởi Vận cười châm chọc:

- Người kỵ sĩ vừa rồi tuy có cử chỉ thô tục, nhưng đụng đổ cháo của hắn xong đã trả lại tiền đồng chẳng phải là nhận lỗi đó sao? Trong lòng hắn cảm thấy khó chấp nhận chuyện cúi mình khom lưng chẳng qua là vì chỉ có một mình hắn cúi mình khom lưng thì sẽ mất mặt mà thôi. Nếu như bên cạnh cũng có một đoàn người che chắn cho hắn giống như lúc hắn bưng bát đi xin cháo thì hắn sẽ không còn thanh cao như vậy đâu.

Cao Văn Tâm vừa định biện bác thêm thì Dương Lăng đã cười bảo:

- Thôi đi! Quan điểm về giá trị của hai cô hoàn toàn bất đồng, có tranh luận thêm cũng sẽ không ra kết quả gì đâu.

Thành Khởi Vận chớp mắt, ngạc nhiên hỏi:

- Quan điểm về giá trị?

Dương Lăng sực nhớ mình đã lỡ lời, đang ấp úng không biết nên giải thích thế nào thì thớt ngựa bờm vàng nọ lại phi trở về, bên cạnh có kèm thêm một con tuấn mã màu trắng lực lưỡng, trên ngựa là một phụ nữa xinh đẹp áo đỏ như lửa. Nàng vừa phóng ngựa vừa hỏi vội:

- Thật là vô dụng, làm sao mà Hổ ca của ngươi lại bị thương vậy? Đã đưa đến đâu rồi?

Gã râu quai nón thô kệch bên cạnh oang oang giọng đáp:

- Tiểu đệ vào thành tìm chị dâu trước, Hổ ca cũng sắp vào thành rồi.

Ngựa lướt ngang qua, người phụ nữ áo đỏ mắt tinh như điện trông thấy Dương Lăng đang đứng trước lều, hiển nhiên nàng vẫn nhận ra hình dạng của y nên tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. Nhìn thấy trên lều treo lá cờ to chữ "Dương", nàng không khỏi mỉm cười duyên dáng khẽ gật đầu chào y rồi lướt ngựa qua như một cơn gió.

Thành Khởi Vận chống tay dưới cằm, đảo mắt hỏi:

- Thuật cưỡi ngựa của vị nương tử áo đỏ ấy thật cao. Đại nhân quen biết cô ta à?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Cô ta chính là bà chủ của lều nhà họ Dương phát cháo bên cạnh. Hôm qua có mấy tên vô lại trêu ghẹo cô ta, ta đã được chứng kiến cô ta ra tay, thật là võ công hết sức cao cường. Liễu Bưu từng nói rằng bản thân gã không thể tiếp được hơn hai mươi chiêu của cô ta.

Thành Khởi Vận chợt ngồi thẳng người dậy, lẩm bẩm:

- Ntử áo đỏ, võ nghệ cao cường. Đại nhân nói... cô ta họ Dương? Vừa nãy bọn họ nói gì ấy nhỉ, ti chức hình như nghe thấy nói Hổ ca gì đó?

Dương Lăng cười nói:

- Có lẽ là cô ta họ Dương, cũng có lẽ nhà chồng họ Dương. Không biết Hổ ca trong miệng bọn họ là anh trai hay là chồng của cô ta.

Thành Khởi Vận chợt nhíu mày lại, nghi ngờ nghĩ bụng: "Sẽ không trùng hợp đến vậy chứ? Đạo tặc Dương Khóa Hổ dám vào kinh thành?"

Hai thớt ngựa một vàng một trắng chạy ra đón chưa xa, đằng trước đã có mấy thớt ngựa và một chiếc xe ngựa chạy tới. Song phương dừng lại trò chuyện một chốc rồi liền cùng quay trở lại. Dương Lăng đứng dưới lều quan sát đội nhân mã đó. Thành Khởi Vận cũng đứng dậy, bó ống tay áo tiến đến, cùng với Cao Văn Tâm đứng hai bên y.

Đội nhân mã càng lúc càng đến gần, Dương Lăng thong thả bước ra mấy bước, đứng ở ven đường. Đội xe ngựa đến gần, người phụ nữ áo đỏ chợt kêu lớn:

- Hà Cương! Đi gọi Thúy Nhi dọn lều cháo đi, ta đưa Hổ ca của ngươi về thành trước.

Lều phát cháo của Dương Lăng dựng bên rìa quan đạo cạnh thành. Chiếc xe ngựa trờ tới gần, rèm xe được vén lên, một người trạc bốn mươi thò đầu ngó ra ngoài, nhìn thấy cổng thành nguy nga đồ sộ thì mừng rỡ kêu lên:

- Dương huynh đệ, nơi này chính là kinh thành ư?

Gã vừa đảo mắt liền trông thấy Dương Lăng. Thoạt tiên gã thoáng ngẩn người, sau đó mừng rỡ kêu lên:

- Lăng đệ? Ngươi là Lăng đệ?

Dương Lăng hơi ngơ ngẩn, thấy người trên xe nọ xấp xỉ bốn mươi, tướng mạo không quá khó coi nhưng vẻ mặt hơi tà dâm. Hắn đang nhìn y với khuôn mặt đầy vẻ mừng rỡ, nụ cười ra vẻ muốn lấy lòng. Dương Lăng cảm thấy người này hơi quen, bèn chắp tay đáp:

- Tại hạ chính là Dương Lăng, các hạ là... A! Dương... Dương... Ngươi là tam... ca?

Dương Lăng cảm thấy hết sức thất vọng. Gã này không phải là cái tên tam ca đã nhiều lần muốn trêu ghẹo Ấu Nương, muốn chiếm đoạt tài sản cả nhà của y đây sao? Sao gã cũng mò đến kinh sư vậy?

Dương Tuyền nghe y xác nhận thân phận thì mừng lắm, liền vội vỗ càng xe gọi to:

- Dừng xe! Mau dừng xe! Đây chính là huynh đệ Dương Lăng của ta, là huynh đệ trong tộc của ta, là tổng đốc đại nhân của Nội xưởng Đại Minh! Ha ha ha...

Từ trong xe lại có một thanh niên mặt mũi thanh tú trạc hơn hai mươi tuổi chui ra. Trông thấy Dương Lăng hắn cũng mừng rỡ kêu lên:

- Lăng thúc? Đúng thật là Lăng thúc thúc!

Người này còn lớn hơn Dương Lăng hai tuổi. Dương Lăng biết vai vế của mình khá cao, khi từ cõi chết trở về đã có không ít người lớn tuổi hơn y cũng gọi y là "thúc thúc". Lúc này nhất thời y cũng không nhớ nổi hắn là ai, có điều chắc hẳn là người họ Dương rồi.

Cưỡi ngựa bên cạnh là một người đàn ông tráng kiện tuổi hơn ba mươi, mặc chiếc áo khoác màu vàng bằng vải thô. Hắn ghì cương, co chân nhảy xuống ngựa, cười hào sảng:

- Các hạ là Dương đại nhân? Thảo dân Dương Phúc, ra mắt đại nhân.

Người phụ nữ áo đỏ cũng nhảy xuống ngựa đi đến bên cạnh hắn, đôi mày thanh tú khẽ nhíu lại, giọng không vui:

- Hổ ca, huynh...

Kẻ tên Dương Phúc quay lại khẽ gật đầu ra hiệu, nàng lập tức hiểu ý ngậm miệng lại.

Thành Khởi Vận thu hết vẻ mặt bọn họ vào trong mắt, khoé miệng thoáng lộ một nụ cười nhàn nhạt.

Dương Tuyền thấy xe ngựa dừng lại, liền cùng người cháu xuống xe, bước tới chào hỏi:

- Lăng đệ! Vị huynh đệ họ Dương này trên đường đã cứu chúng ta, suốt chặng đường còn hộ tống đến kinh thành, là đại ân nhân của chúng ta đó.

Tuy Dương Lăng rất ghét Dương Tuyền và cũng không có cảm tình gì với nhà họ Dương nhưng hiện tại y là người có danh vọng cao nhất nhà họ Dương nên đành phải quay sang gã đại hán thô kệch có sắc mặt vàng vọt, mày rậm đen như mực mỉm cười thi lễ:

- Đa tạ Dương huynh đã cứu giúp anh và cháu của tại hạ.

Khi đại hán nọ nhảy xuống ngựa, tay trái đong đưa mấy cái, xụi lơ, mềm oặt như không còn sức lực. Lúc này hắn vội đưa tay phải ngăn Dương Lăng lại, đáp:

- Đại nhân chớ nên khách khí! Thảo dân là người giang hồ thồ ngựa bán buôn, thực nhận không nổi đại lễ của đại nhân. Trên đường gặp gỡ tương trợ lẫn nhau cũng là duyên phận thôi.

Dương Lăng nhìn thấy cánh tay của hắn rũ xuống bất động, liền hỏi:

- Tay của Dương huynh...?

Dương Tuyền liền chen vào:

- Lăng đệ! Dọc đường chúng ta gặp phải một đạo sĩ có khinh công rất là lợi hại, không biết sao lại đánh nhau với một thanh niên. Người thanh niên nọ bị trúng một chưởng giờ vẫn còn đang hôn mê bất tỉnh, không ngừng thổ huyết, hiện đang nằm trên xe đó. Vị Dương huynh đệ này bị đạo sĩ nọ đánh một chưởng trúng tay, tay liền mềm oặt không còn sức lực gì.

Dương Lăng thấy người đi đường bắt đầu kéo lại xem náo nhiệt bèn bảo:

- Chốn này cũng không phải là nơi trò chuyện, chúng ta cùng đi đến chỗ ở của huynh. Bên tại hạ có một vị thần y, hãy mời nàng ta chẩn đoán trị liệu cho huynh. Đến đó chúng ta hãy nói tiếp.

Dương Lăng dẫn Thành Khởi Vận đang cải nam trang và Cao Văn Tâm đi cùng bọn họ vào thành. Dọc đường hỏi thăm y mới biết thành Kê Minh cũng đã thất thủ. Lần này giặc Thát ồ ạt tiến công biên thùy, đốt nhà giết người cướp bóc hung bạo hơn xa năm ngoái, rõ ràng là mang lòng báo thù cho đứa con yêu quý bị giết của Bá Nhan Mãnh Khả (Khả Hãn).

Dương Gia Bình nằm nơi hẻo lánh, trước đó đã nhận được tin nên dân chúng liền chạy ngay lên núi. Nhưng Dương lão thái gia tuổi tác đã cao, trong núi chịu rét chịu đói, kết quả mắc bệnh nặng, không gượng nổi nên đã mất.

Lúc trước, khi Dương Tuyền nghe nói Dương Lăng làm quan lớn, gã đã có ý vào kinh dựa dẫm. Nhưng ông già Dương lão thái gia lại hết sức cố chấp, ông rất ghét việc con cháu trong nhà trông cậy vào quan hệ để leo cao cho nên khăng khăng không cho. Nay lão chết rồi, không còn ai ước thúc được Dương Tuyền nữa, gã liền xúi giục một người cháu trong họ cùng vào kinh nhờ vả Dương Lăng.

Hai người trèo non lội suối, chỉ chọn đường nhỏ để đi, vất vả lắm mới vòng qua được chiến trường giữa giặc Thát và quân Minh, lại gặp một trận đại chiến giữa một thư sinh trẻ tuổi và một đạo sĩ áo xám dưới núi, liền đó có một đoàn ngựa xe đi qua. Hai bên đánh nhau kịch liệt, thư sinh nọ bị đạo sĩ đánh trọng thương, một nam tử mặc áo vải thô tên Dương Phúc trong đội xe ngựa nhịn không được bèn xông lên trợ chiến. Tuy dựa đông người đuổi được đạo sĩ đi, song bản thân hắn cũng bị đánh trúng một chưởng.

Ở phía bên kia, Dương Phúc đang dắt ngựa sóng vai đi cùng người phụ nữ áo đỏ. Cô ta liếc Dương Lăng rồi thấp giọng

- Huynh bị trúng phải chưởng lực nội gia thâm độc, cho dù là muội cũng phải tốn chút công sức mới có thể khử hết độc tính cho huynh. Đã gặp phải kẻ nào vậy?

Gã đàn ông vóc dài vai rộng, gân nổi đầy trên cặp tay to khỏe, nếu Liễu Bưu nhìn thấy thì biết ngay đấy là do ngoại môn công phu đã luyện đến cảnh giới cao nhất. Hắn quét mắt sang Dương Tuyền đang thì thầm với Dương Lăng, khẽ đáp:

- Huynh không tin, chẳng lẽ cánh tay này phải phế đi ư? Kẻ đó là Lý Phúc Đạt, giáo chủ Di Lặc giáo. Thư sinh trong xe võ nghệ rất cao, đã khiến cho lão ta bị thương. Huynh vốn định thừa cơ trừ khử lão, tiếc là... vẫn để lão ta chạy thoát.

Người phụ nữ áo đỏ trừng mắt mắng:

- Lão yêu đạo đó võ nghệ rất cao cường, chỉ dựa vào huynh mà cũng đả thương được lão à? Hơn nữa, lão ta cũng đang tập hợp dân chúng tạo phản, rất có lợi cho chúng ta. Huynh thực là không có đầu óc!

Tuy Dương Phúc là chồng của nàng nhưng hiển nhiên bị nàng ấy rầy mắng đã quen. Một đại hán khôi ngô như gã mà nay bị mắng như thế chẳng những không giận mà còn lấy làm e sợ. Hắn ngượng ngập giải thích:

- Lý Phúc Đạt tuyên truyền "Phật Thích Ca suy tàn, Phật Di Lặc giữ vững", tự xưng là Di Lặc chuyển thế, rất giỏi mê hoặc lòng người. Huynh cũng được người ta gọi là chân long thiên tử. Nếu như huynh cùng hợp tác với lão ta, liệu còn có thể tập hợp đông đảo nhân mã một lòng theo huynh tranh giành giang sơn không? Nếu có cơ hội, đương nhiên là nên trừ khử lão ta rồi."

Người phụ nữ áo đỏ cười nhạt một tiếng, lạnh lùng:

- Chân long thiên tử cái rắm. Thiên hạ còn chưa giành được mà đã bắt đầu tự sướng rồi. Ta hỏi huynh, huynh lại nổi lòng tốt gì vậy? Việc huynh chịu khuất ép lòng kết giao với cái tên Dương Lăng đó! Y là tổng đốc Nội xưởng, còn chúng ta là một quân một cướp. Huynh cũng dám đùa với lửa sao?

Dương Phúc dày mặt đáp:

- Vốn huynh không định mang theo hai tên tiểu tử đó, nhưng nghe bọn họ tự xưng là họ hàng thân thuộc của Dương Lăng của Nội xưởng. Ta nghĩ kết giao với y sẽ rất có ích cho hoạt động của chúng ta trong vùng này. Đúng rồi, nương tử, nàng đến Sơn Đông một chuyến sao rồi? Đám cướp ở Thái Hành Sơn có đồng ý hưởng ứng khởi sự không?

Nàng lắc đầu đáp:

- Kh! Tên nào tên nấy đều là thứ ếch ngồi đáy giếng. Mới làm đại vương của một núi mà đã tự cho là giỏi lắm rồi, không ai chịu phục ai, đừng nói là có hùng tâm tráng chí gì!

Đoàn người vào đến lạc viện do nàng thuê trọ. Hai bên chào hỏi nhau lần nữa, mới biết người đàn ông tự xưng Dương Phúc này là thủ lĩnh một đoàn ngựa thồ, và người con gái áo đỏ là phu nhân họ Thôi của hắn.

Trên mặt Thành Khởi Vận mang một nụ cười như có như không, lạnh nhạt thờ ơ. Cao Văn Tâm đi tới giúp Dương Hổ kéo tay áo lên, chỉ thấy trên cánh tay thô chắc rậm lông in dấu năm ngón tay đen sì, bắp thịt của cả cánh tay trái hơi sưng lên. Tuy không biết võ nhưng Cao Văn Tâm vẫn nhận thấy được nội phủ hắn đã bị chấn động, kinh mạch trên cánh tay bị tổn thương, hơn nữa phát chưởng lại có độc tính bại huyết.

Dương Lăng rất có hảo cảm với cặp vợ chồng này, thấy vậy bèn vội hỏi:

- Văn Tâm! Thương thế huynh ấy thế nào?

Thôi thị muốn dùng nội công khử độc nhưng nếu không quá nửa tháng thì cũng không thể có biến chuyển gì tốt, cho nên cặp mắt xinh đẹp cũng tập trung trên người Cao Văn Tâm, lộ vẻ hết sức quan tâm.

Lúc nãy Cao Văn Tâm đã xem qua thương thế của thư sinh sắc mặt xám như tro tàn nên lúc này xem xong thương thế của Dương Phúc thì lại thở ra một hơi thật dài, đáp:

- Đại nhân! Vết thương của vị tráng sĩ này lại không nguy cấp. Thân thể của tráng sĩ vốn đã cường tráng nên chỉ cần trích hết máu bầm, trong uống ngoài thoa thêm chút thuốc, điều trị năm sáu ngày thì sẽ khỏi. Nhưng còn vị thư sinh ngực bị trúng thương kia, việc chẩn đoán chữa trị phải tốn chút sức lực, ngoại trừ thuốc men còn cần phải châm cứu trị liệu.

Nói đoạn nàng rút cây bút và nghiên mực mang theo bên người ra, như rồng bay phượng múa viết một đơn thuốc, đưa cho Thôi thị bảo:

- Trước hết tôi sẽ dùng dao bạc giúp quí phu quân rút hết máu bầm. Phu nhân hãy dựa theo hai loại thuốc này tìm mỗi thứ mười thang về.

Thấy người phụ nữ họ Thôi xinh đẹp nọ cầm ngược đơn thuốc, Dương Lăng suýt chút nữa thì bật cười, liền vội ho khan vài tiếng để nén cười.

Thôi thị dĩ nhiên chính là Hồng nương tử, còn được giới lục lâm gọi là Dương Khóa Hổ. Cha mẹ nàng ta đều là hảo hán trong chốn lục lâm. Thôi Oanh Nhi từ thuở nhỏ đã múa thương đánh côn, theo hảo hán lục lâm phá nhà cướp của, khí phách hơn cả đàn ông.

Năm đó nàng tỉ võ chọn chồng, trong số hảo hán của tam sơn ngũ nhạc cũng chỉ có võ nghệ và tướng mạo của Dương Hổ là tạm chấp nhận được nên nàng ta mới cố tình giả thua, gả làm vợ hắn. Tuy dáng vẻ nàng ta thướt tha, dung nhan xinh đẹp, nhưng một chữ bẻ đôi cũng không biết.

Tiếng ho khan quái dị của Dương Lăng khiến nàng cảm thấy như y cười mỉa mình không biết chữ, mặt không khỏi đỏ lên. Nàng liền gọi Thuý Nhi lại, đưa cho đơn thuốc bảo:

- Mau đi tìm tiệm thuốc, dựa theo đơn thuốc mua về cho ta.

Nói xong nàng ngẩng đầu trừng mắt ngó Dương Lăng, càng lúc càng thấy cái tên mặt trắng đó thật không vừa mắt.

Vốn Dương Hổ tính tình hào sảng, lại có ơn cứu giúp thân quyến nhà họ Dương nên hắn hoàn toàn không để ý đến thương thế mà ngồi cùng Dương Lăng bên bàn trò chuyện một hồi, hai bên rất là hợp ý. Chỉ một chốc sau, Thuý Nhi cầm theo hai bao thuốc lớn trở về, một bao là thuốc để thoa ngoài da, một bao là dược liệu sắc uống.

Cao Văn Tâm lấy một con dao bạc rạch ngay trên vết dấu tay đen sì trên cánh tay của Dương Phúc ra. Đến khi máu đen tanh rình chảy hết, trở thành màu đỏ tươi nàng mới cẩn thận rịt đắp thuốc bột lên miệng vết thương, rồi lại dùng vải trắng đã được đun sôi buộc chặt lại. Dương Phúc cảm thấy cánh tay trái vốn mất cảm giác nay đã hơi đau, liền mừng rỡ khen:

- Quả nhiên hữu hiệu.

Cao Văn Tâm khẽ mỉm cười, bảo Oanh Nhi:

- Phu nhân hãy mang thuốc này đi sắc. Mỗi ngày thay thuốc một lần, uống thuốc một lần, khoảng chừng năm sáu ngày sẽ có thể khỏi hẳn.

Cô nàng mừng rỡ ra mặt, liền vội cung tay uyển chuyển nhún người vái tạ.

Dương Lăng cười nói:

- Dương huynh còn đang bị thương, bôn ba đường dài nhất định cũng mệt rồi, chúng tôi không quấy rấy thêm nữa. Còn vị thư sinh đang hôn mê bất tỉnh nọ thì thương thế quá nặng, tại hạ thấy hay là để tại hạ đưa về phủ chăm sóc đi. Dương huynh thấy thế nào?

Dương Hổ đứng dậy cười nói:

- Được! Thương thế thảo dân không nghiêm trọng, đại nhân công vụ bộn bề, vậy xin hãy trở về.

Rồi không để ý đến Thôi thị đang ngầm đưa mắt ra hiệu, hắn cười lớn nói tiếp:

- Được quen biết với đại nhân là may mắn của thảo dân. Ngày khác Dương mỗ nhất định sẽ lại đến nhà cảm tạ ơn cứu mạng của đại nhân.

××××××××××××××××××××××××

Dương Lăng đưa chú cháu Dương Tuyền về trong phủ, bố trí cho bọn họ trọ ở sương phòng, sau đó dọn một căn phòng khác, kêu người khiêng thư sinh đang hôn mê bất tỉnh kia vào. Với sự giúp đỡ của gia nhân, Cao Văn Tâm lại giúp thư sinh sắc mặt xám ngoét, sốt cao không hạ đó chích máu rịt thuốc. Sau khi nàng bận rộn xử lý xong, tuy vẫn chưa tỉnh dậy song chàng thư sinh đã dần dần bớt sốt.

Dương Lăng cúi người quan sát vị thư sinh trẻ tuổi đó một hồi. Bị thương thế hành hạ mấy ngày, khuôn mặt chính trực và sáng sủa của hắn đã lún phún râu ria; chiếc áo dài xanh tuy nhăn nhíu nhưng có thể nhìn được chất liệu khá tốt. Dương Lăng bảo Cao Văn Tâm:

- Văn Tâm, để gia nhân chiếu cố y được rồi. Cô hãy ra nhà sau nghỉ ngơi đi.

Cao Văn Tâm nhẹ nhàng ngồi xuống chiếc ghế dựa, khẽ liếc y rồi thấp giọng đáp:

- Còn cần phải quan sát thêm một hồi nữa. Nếu đại nhân bận rộn công việc thì xin hãy về trước đi.

Dương Lăng cười nói:

- Ta cũng không có việc gì, ở đây đợi thêm một lát vậy.

Cao Văn Tâm ngồi im một lúc, len lén quan sát Dương Lăng một hồi rồi khẽ thở dài:

- Quả thực rất nhớ...

- Hửm? Cô nhớ gì?

Dương Lăng ngạc nhiên ngẩng đầu hỏi.

Cố lấy hết dũng khí, Cao Văn Tâm đáp:

- Nhớ những ngày cùng đại nhân xuống Giang Nam. Tuy lúc đó mang phận nô tỳ, nhưng thiếp lại có thể thường xuyên ở bên cạnh đại nhân. Từ lúc trở về kinh, từ cái đêm hôm đó... đại nhân nghe em họ thiếp nói... Nay càng lúc càng xa lánh thiếp, mỗi lần đến Dương phủ, thiếp đều cảm thấy thân phận mình thực rất bất tiện, không biết nên cư xử thế nào...

Dương Lăng lập tức cảm thấy áy náy. Hai tay bó gối, im lặng một hồi lâu y mới cười khổ sở:

- Văn Tâm! Nàng là tiểu thư khuê cá tài năng và dung mạo đều hơn người, còn lo không có phu quân vừa ý sao? Chính vì ta yêu nàng, kính trọng nàng, mới không muốn nàng phải làm thiếp.

Ấu Nương thuần phác lương thiện, ta cũng đối đãi Ngọc Nhi và Tuyết Nhi như nhau. Mặc dù như thế nhưng bọn họ vẫn giữ lòng kính sợ với Ấu Nương, để tâm lấy lòng. Giữa vợ chồng không phải chỉ có chàng chàng thiếp thiếp mà thôi. Nàng tâm cao khí ngạo, mấy đời thư hương, nếu chỉ vì muốn trả ơn mà gả vào nhà họ Dương thì sớm muộn gì cũng sẽ hối hận.

Cao Văn Tâm xúc động đứng dậy, ánh nến phản chiếu ánh mắt nàng sáng ngời. Nàng lắc đầu, khẽ đáp:

- Đại nhân, thiếp sẽ không hối hận. Thiếp biết, nếu... với thân phận hiện tại của thiếp có lẽ có thể gả làm chính thê người khác, sinh trai đẻ gái, bạc đầu giai lão. Nhưng mà... thân phận còn quan trọng gì khi mình không thể được ở chung với người mình thích?

Ánh mắt nàng trở nên mê mang, nàng mơ màng nói tiếp:

- Khoảng thời gian ở Giang Nam cùng với đại nhân là khoảng thời gian mà thiếp vui vẻ nhất. Đại nhân ra ngoài làm việc, thù tạc, thiếp ở trong phòng đợi đại nhân về; cùng đại nhân lột cua nghe sóng vỗ, cùng chèo xuồng hái ấu, nghe đại nhân thì thầm dai dẳng dưới gốc liễu. Khoảng thời gian đó thực vui vẻ. Ấu Nương muội muội cùng Ngọc Nhi, Tuyết Nhi, bốn người chúng thiếp kết nghĩa kim lan, đã từng đồng sinh cộng tử. Ở chung với bọn họ, thiếp cũng rất vui vẻ.

Ánh mắt nàng dần trở nên ảm đạm, giọng ai oán:

- Nhưng mà hiện tại... thiếp cảm thấy mình và bọn họ cũng đã càng ngày càng cách xa.

Dương Lăng không biết nói gì cho phải, một hồi lâu sau mới cười tự giễu:

- Hiện tại ta cảm thấy mình giống như miếng thịt Đường Tăng vậy. Việc chung thân đại sự của nàng, thật sự chỉ có một sự lựa chọn này thôi sao?

Cao Văn Tâm ngờ vực hỏi lại:

- Thịt Đường Tăng?

Dương Lăng lập tức sực nhớ mình lại lỡ lời, bèn cười gượng gạo sửa lại:

- À! Ta nói nhầm đó, là thịt Đông Pha...

Nói đến đây y chợt nhớ lại lúc hai người cùng chèo xuồng ở Thái Hồ, uống rượu trong biển sen, nhớ lại lúc nàng bị trật chân, y giúp nàng rửa đôi chân xinh xắn, nhớ tới nụ hôn nhẹ của hai người. Lòng y cũng hơi xao động, y liền vội đứng dậy bước ra cửa, nói:

- Nàng vẫn chưa quên lời ta đã nói với nàng chứ? Không biết chừng ngày này năm sau ta đã chôn xương dưới mồ rồi đó.

Cao Văn Tâm rõ ràng thấy y đã động tâm song lại "rút chân về", nàng giận lắm bèn hét lớn:

- Chưa quên! Tiểu tì vẫn nhớ rõ những gì lão gia đã nói. Nếu ngày này năm sau lão gia bỏ mạng dưới suối vàng, tiểu tì sẽ kết bái huynh muội với lão gia trước linh vị của người, nhược bằng lão gia có thể may mắn không chết thì sẽ phải đội khăn gả cho tiểu tì!

Lúc này nàng lại dùng kiểu nói khi còn là nô tì trong Dương phủ trước kia. Dương Lăng nghe vậy thì cười khan mấy tiếng rồi đáp:

- Được, vậy chúng ta hãy chờ xem! Ngày này năm sau nói tiếp.

Sau khi nghe Thành Khởi Vận khuyên bảo vào hôm qua, hôm nay Cao văn Tâm đã nén ngượng thổ lộ hết tâm sự với Dương Lăng, không ngờ y lại vẫn khước từ. Thế là tính khí đại tiểu thư lại nổi lên, cô nàng bèn giậm chân gắt gỏng:

- Chờ thì chờ! Đại nhân nhớ kỹ lấy ước hẹn của mình đó!

Chú thích:

1) Ngoại hiệu của Hồng nương tử là "Khóa Hổ", nghĩa là "cưỡi hổ". Chồng của bà ta là Dương Hổ sợ bà ta một phép.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 170: Điều thêm tướng soái

Dương Lăng vừa về tới nhà, Hàn Ấu Nương đã ra đón y, hỏi ngay:

- Tướng công, nghe nói nhà mình mới đón về mấy vị khách phải không?

Dương Lăng "ừ" rồi đáp:

- Một vị thư sinh trọng thương chưa tỉnh, nghe nói rất giỏi võ nghệ...

Vừa nói đến đây, y sực nhớ ra một chuyện, bèn buột miệng hỏi:

- Đúng rồi, Ấu Nương này, nếu như là nàng, thì có thể nhảy cao đến một trượng không?

Hàn Ấu Nương ngạc nhiên hỏi lại:

-Sao tướng công lại hỏi chuyện này?

Rồi nàng nghênh mặt cười đắc ý:

-Tướng công đã quên trước đây thiếp từng phóng lên đài hành hình cao hơn một trượng rồi à?

Dương Lăng búng mũi nàng một cái, cười nói:

- Biết nàng lợi hại rồi! Tướng công muốn hỏi là nếu đứng tại chỗ bật lên cao một trượng, nàng làm được không?

Hàn Ấu Nương suy nghĩ một chút rồi lắc đầu đáp:

- Không thể, kể cả cha cũng không làm được. Thuật bật thẳng người nếu chỉ dựa vào lực bắp chân thì không thể nào nhảy cao đến một trượng. Thiếp và cha học môn Ngạnh khí công cũng chỉ để cường thân kiện thể, trừ khi là biết thuật điều tức thổ nạp thì mới có thể làm được, cao thủ như vậy cũng cực hiếm.

Nàng bỗng mở to mắt, kéo tay áo Dương Lăng hỏi:

- Tướng công đã gặp qua cao nhân như vậy rồi à?

Dương Lăng cười lớn đáp:

- Cũng không cao lắm, chỉ cao hơn nàng có nửa cái đầu thôi.

Nghe Ấu Nương nói vậy, y chợt cảm thấy có chút nghi ngờ. Lăn lộn cùng đám người Liễu Bưu bấy lâu, y cũng biết được ít nhiều về võ học. Tục ngữ có câu "cùng văn phú võ", tuy rằng thực tế đa số kẻ luyện võ là những người nghèo khổ, nhưng phần lớn bọn họ đều chỉ tu luyện công phu ngoại môn. Một người con gái trong đoàn ngựa thồ có thể mời ở đâu ra được danh sư về truyền thụ cho võ công thượng thừa, hơn nữa còn luyện thành xuất sắc như vậy chứ?

Tuy nhiên vừa nhớ đến chuyện người thiếu phụ áo đỏ ấy không biết chữ, y lại xua tan ý nghi ngờ nàng có thân phận khác. Hàn Ấu Nương hỏi:

-Tướng công đang nghĩ gì vậy?

Dương Lăng vội nói:

- Hả? À không có gì, tướng công chỉ... Do quê nhà đang gặp phải chiến tranh loạn lạc nên cũng có người vào kinh nhờ cậy, có vẻ bọn họ cũng không định trở về nữa. Ta đang nghĩ làm sao thu xếp cho bọn họ đây.

Hàn Ấu Nương mừng rỡ reo lên:

-Khách đến là đồng hương với chúng ta sao? Là vị thân thích nào vậy?

Dương Lăng cười gượng gạo:

-Là... tam ca Dương Tuyền và con thứ Vân Long nhà đại ca.

Nụ cười của Hàn Ấu Nương lập tức cứng đơ. Dương Lăng cũng biết vị anh con bác này trước đây quả thực không ra gì, nhưng dẫu sao những việc xấu xa hắn làm cũng kín, chưa bị phanh phui, nay hắn gặp nạn, từ ngàn dặm xa xôi chạy đến nhờ vả, nếu cự tuyệt không cho hắn vào nhà, mình sẽ bị người ta nhổ nước bọt dìm chết thôi.

Thời đó quan niệm về dòng họ và hương thổ thật sự rất nặng. Đến nỗi kẻ si mê danh lợi, bo bo giữ mình như Tiêu Phương mà một khi có khách cố hương đến nhờ vả cũng còn không dám không hết lòng góp lời cầu xin hoàng thượng giúp đỡ bọn họ. Huống hồ Dương Tuyền là đường huynh của y, luận về huyết thống xa gần trong quan niệm dòng họ thời bấy giờ thì còn thân thiết hơn thê tử cả một tầng.

Thường ngày Dương Lăng trò chuyện với đám người Lưu Cẩn, từng nghe bọn họ kể rằng, năm xưa vua Hoằng Trị từng tin yêu một người hầu thân cận họ Trương. Do gia cảnh bần cùng, lúc chín tuổi vị thái giám đó đã bị phụ thân thiến đưa vào trong cung, để rồi hai mươi năm sau hắn trở thành một trong những hoạn quan được tin yêu nhất bên cạnh vua Hoằng Trị.

Khi người cha già nghèo túng của hắn vào kinh cầu kiến, do Trương thái giám vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện ngày xưa nên mặc dù thái giám bên người nhiều lần khuyên nhủ, hắn vẫn nhất định không chịu gặp mặt. Kết quả lập tức trở thành cái đích cho mọi người chỉ trích. Về sau hoàng đế nghe được chuyện này, từ đó cũng trở nên lạnh nhạt xa lánh hắn, bảo rằng hắn không biết đạo lý làm người, đại nghịch bất đạo.

Mình đến từ thời hiện đại, trong lòng không có nhiều điều kiêng kị, nhưng không thể không suy xét đến quan niệm của người thời này, không nhận thân tộc họ hàng là trái với luân lý cương thường, trong khi thiên hạ được cai trị bởi những nhà Nho, chỉ cần một điểm này thôi là anh đã đủ bị người ta hặc tội bãi quan rồi.

Dương Lăng bối rối nói:

- Hôm nay bọn họ vừa mới vào kinh, ta cũng không có cách gì khác. Đợi dăm ba ngày nữa sẽ giúp bọn họ tìm chỗ ở, tiếp tế ít lương thực, nếu hắn không chơi bời lêu lổng nữa, ta sẽ tìm cho hắn một công việc, coi như đã tận tâm rồi.

Hàn Ấu Nương liền nhớ tới tên đốn mạt kia. Đường đệ của mình còn bệnh nằm liệt giường mà đã động tay động chân với em dâu, nhớ lại hành vi không chút liêm sỉ của hắn làm nàng lại cảm thấy không thoải mái. Trước đây khi gia tộc mình đến Kê Minh nương nhờ, mình không hề có bất kì hành động thất lễ nào với trưởng bối tôn thất của tướng công. Nay tướng công đã là quan lớn, mình càng phải nên chú ý hơn đến những điểm dễ bị người ta chê trách chỉ trích này mới được.

Thấy bộ dạng khó xử của Dương Lăng, nàng vội khoác áo choàng lên, nhẹ giọng nói:

- Ở lâu trong nhà quả thực bất tiện, nhưng mà tướng công cũng không cần phải tìm chỗ ở cho bọn họ vội, để người ngoài không hiểu chuyện nhìn vào sẽ nói những lời khó nghe.

Dương Lăng thấy nàng khoác thêm áo ngoài, bèn hỏi:

- Nàng định ra ngoài đi dạo à? Hôm nay gió lớn, nàng đừng đi.

Hàn Ấu Nương dịu dàng cười đáp:

- Thiếp đi thăm vị khách nọ còn đang bị thương mà. Nói cho cùng thì Dương Tuyền cũng là tam ca của chàng, Vân Long lại gọi thiếp một tiếng thẩm nương. Thiếp là vợ của chàng, sao có thể không quan tâm gì đến cuộc sống của bọn họ chứ?

Dương Lăng vui sướng nói:

- Vợ ngoan, quả nhiên đã có phong thái chủ mẫu nhà họ Dương rồi! Ta còn lo nàng sẽ không vui, nên đang tính giấu nàng nữa cơ.

Hàn Ấu Nương chun mũi, cười tinh nghịch:

- Người ta không có hẹp hòi như vậy đâu. Trước đây hắn buông lời ve vãn ong bướm, nếu không phải vì thấy trong nhà họ Dương, tướng công thân đơn thế cô, sợ chàng không thể tự lo cho mình thì đã dùng côn đánh bay hắn đi rồi. Nay thì không cần Ấu Nương ra tay nữa, tướng công của người ta lợi hại mà... Hắn mà dám... hừm hừm, kể cả cho hắn hai lá gan...

Đôi vợ chồng trẻ rôm rả, cùng nói cười đi đến sương phòng(*) ở nhà chính sân trước. Chú cháu Dương Tuyền mới vừa ăn xong chưa ngủ, vừa nghe vợ chồng bọn họ đến liền vội ra đón. Xưa và nay khác nhau như trời với đất; trạch viện đẹp đẽ sang trọng, gia bộc kính cẩn, loại phong thái cao sang đó Dương Tuyền chưa từng thấy bao giờ.

(*):sương phòng: căn phòng bên cạnh căn phòng chính.

Nhớ lại hành vi vô lễ trước đây, trong lòng hắn thấp thỏm không yên, hắn còn nghe nói thậm chí Hàn Ấu Nương cũng đã được yết kiến hoàng thượng, nay được ban cho thân phận Cáo Mệnh tam phẩm, điều đó đã được huyện Kê Minh ghi chép một cách hết sức long trọng. Dương Lăng rất yêu thương nàng, nếu như nàng ta mượn cớ ấy để trị mình thì hậu quả sẽ rất thê thảm, song hắn lại không nỡ bỏ qua vinh hoa phú quý trong tầm tay.

Đến khi thấy thái độ ân cần, hào phóng và tự nhiên của Hàn Ấu Nương, Dương Tuyền mới cảm thấy yên tâm, liền vội nịnh nọt tâng bốc một phen, chỉ lo nàng vẫn ghi thù hành vi của mình ngày đó.

Dương Vân Long tuy lớn hơn Dương Lăng ba tuổi, nhưng quả thực là con trai của đường huynh y, thế nên hết sức giữ lễ với hai vị tiểu thúc thúc, tiểu thẩm thẩm này. Hắn cũng từng đọc sách, có điều đã đi thi hai lần song vẫn chưa đỗ được tú tài. Tự thấy công danh vô vọng, hắn mới bèn theo tam thúc vào kinh sư dựa dẫm Dương Lăng.

Đợi khi rời khỏi sương phòng, Dương Lăng mới mỉm cười nói với Hàn Ấu Nương:

- Ấu Nương của hôm nay so với trước đây thực đã có khí độ hơn nhiều. Vào kinh được mở mang kiến thức, lại được bọn Ngọc Nhi và Tuyết Nhi hun đúc cho, đối nhân xử thế đã rất có lễ độ.

Chỉ là... nàng vốn không biết giả vờ, lúc nãy cười vẫn hơi gượng gạo. Sau này không cho phép làm vậy với tướng công, bằng không... ta sẽ lấy gia pháp ra 'hầu hạ', chắc chắn phần bên dưới khuôn mặt này sẽ không biết cười vịt vờ đâu.

Vừa nói y vừa vỗ nhẹ bờ mông căng tròn của Ấu Nương một cái, Hàn Ấu Nương kêu lên "ui da", rồi vừa mỉm cười vừa nhảy tới phía trước mấy bước. Dương Lăng vội lật đật kéo nàng lại.

Hàn Ấu Nương kéo một cánh tay của y lên, áp mặt lên tay y thủ thỉ:

- Nghĩ đến sự đáng ghét của hắn là người ta lại không chịu được. Có điều... lúc còn ở quê nhà, Dương tam ca chỉ biết chơi bời lêu lổng, không nghề ngỗng gì, nếu như chàng muốn kiếm cho hắn một công việc, vậy thì phải suy nghĩ kỹ đó. Ca ca làm ở bộ Hình, thường nói với thiếp rằng ở đó quan viên trên dưới đều có vẻ sợ y. Với tính tình hào sảng của huynh ấy mà cũng khó tìm được một bằng hữu tri âm, còn không phải là vì những người đó sợ chàng ư? Với tính cách của Dương tam ca... nếu như hắn lại cáo mượn oai hùm, cậy vào oai danh chàng để làm những điều xằng bậy thì...

Việc đó tự cổ chí kim thực ra không hiếm, Dương Lăng nghe vậy thì khẽ gật đầu. Y cũng cảm thấy cái tên lấc cấc này đến kinh sư khiến mình nuôi thì không ổn, mà đuổi cũng không xong, quả thực có điều khó xử. Đừng thấy hắn lúc này khép nép sợ sệt mà lầm, giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời. Lúc còn ở Dương Gia Bình, hắn đã ỷ là người của gia tộc lớn nhất trong thôn mà bắt gàtrộm chó, gây chuyện khắp xóm làng, xem ra không thể chỉ tìm đại một công việc cho hắn là sẽ có thể đuổi hắn đi được.

*****

Cao Văn Tâm cố lấy dũng khí thổ lộ tâm tình nhưng không ngờ lại khiến cho Dương Lăng sợ chạy mất dép. Lúc này nàng đang ngồi âu sầu, tưởng tượng ra cảnh vào lúc này năm sau Dương Lăng vẫn sống sờ sờ không hề hấn gì, đành phải đội khăn đỏ lên đầu gả cho mình. Trong lòng càng nghĩ càng thấy thú vị, thế là nhịn không được bật cười khúc khích, sự bực tức liền tan biến sạch.

Nàng bước đến bên giường, giơ ngọn đèn cúi xuống nhìn, thấy hơi thở vị thư sinh nọ đã ổn định, sau khi tan hết máu bầm trên ngực, cơn sốt cao đã dần được khống chế. Thuốc giao cho nhà bếp sắc đã được đưa đến, có điều còn nóng chưa uống được, Cao Văn Tâm bèn tính châm cứu trước cho y.

Nàng xoay người lấy túi thuốc châm cứu, kéo chiếc ghế đến bên đầu giường ngồi. Mới vừa mở bọc kim châm, thư sinh nọ chợt rên khẽ một tiếng, rồi từ từ mở mắt ra. Cao Văn Tâm mừng rỡ kêu lên:

- Công tử, ngài đã tỉnh rồi sao?

Lúc này, vẻ mặt thư sinh ngơ ngác, râu ria xồm xoàm, có điều tuy đang bị trọng thương, ánh mắt lại vẫn linh động sáng ngời, trông hết sức lanh lợi. Y ngờ vực ngước nhìn người thiếu nữ dung mạo xinh đẹp trước mặt, thật lâu sau mới yếu ớt hỏi:

- Phải, tại hạ đã đỡ nhiều rồi, đa tạ ơn cứu mạng của cô nương. Nơi này... là đâu vậy?

Cao Văn Tâm cười tươi đáp:

- Nơi này là Dương phủ ở kinh sư, công tử được lão gia... được đại nhân nhà ta cứu về. Công tử chớ vội ngồi dậy, thương thế trên người vẫn còn nghiêm trọng. Công tử tỉnh dậy thì tốt rồi, ta sẽ châm cứu cho công tử một phen trước, chỉ cần giữ cho thần chí tỉnh táo, vết thương này sẽ không chuyển xấu nữa.

Thư sinh thấy vị cô nương này đang mở bọc vải, rút cây ngân châm ra thì liền ngưng miệng. Lúc này sắc trời khá tối, dưới ánh đèn nến hắn thấy Văn Tâm tóc mây vấn cao, phong thái trang nhã, buột miệng hỏi:

- Cô nương, kẻ hèn nhớ rằng mình thọ thương tại Diên Khánh, sao lại chớp mắt đã đến kinh thành rồi?

Cao Văn Tâm tay vê ngân châm, mắt liếc ngang sang, cười nhẹ đáp:

- Thương thế của công tử tuy nặng, song cũng không đến nỗi hôn mê suốt cả chặng đường, đến nỗi mình được ai cứu giúp, đã đi đến nơi nào cũng đều không hay không biết chứ?

Thư sinh nọ vốn thấy nàng có dung nhan xinh đẹp, phong thái tao nhã bất phàm, tính vịn cớ chuyện trò thêm mấy câu, không ngờ người thiếu nữ này lại thông minh như vậy, lập tức nhìn thấu ý đồ của y. Bị ngầm châm chọc một vố, thư sinh không khỏi đỏ mặt, ngượng ngập không biết nói gì.

Cao Văn Tâm khẽ "hừm" một tiếng, xắn tay áo lên, nghiêm mặt lại bảo:

- Có thể ngồi dậy không? Nếu như tỉnh rồi, lại còn có sức nói nhiều như vậy thì nằm dịch lên chút đi, bản cô nương châm cứu cho.

Cao Văn Tâm học được y thuật cao minh từ thuở nhỏ, vừa lớn đã được gán cho danh hiệu "Nữ thần y", trước giờ tâm cao khí ngạo, tầm mắt rất cao, lúc chẩn đoán chữa bệnh cho quan to khách quý cũng hiếm khi nở được nụ cười. Cũng chỉ có cái đêm kinh tâm động phách được Dương Lăng cứu ra khỏi bể khổ, bị y thấy tấm thân chỉ được che đậy bởi áo yếm, về sau lại có Hàn Ấu Nương ám thị cùng nàng ấy hầu hạ chung chồng, thì nàng mới đối xử với y thùy mị dịu dàng như nước.

Lúc này nhận ra sự ngưỡng mộ của thư sinh này, nàng đương nhiên không vui. Thư sinh nọ chống tay dịch lên một chút, dẫu sao thân thể mới vừa tỉnh lại vẫn còn yếu ớt. Thấy vậy Cao Văn Tâm thừa dịp y chống người lên liền kê gối bên dưới, rồi nói:

- Được rồi, cứ nằm như vậy đi.

Thư sinh thở hổn hển mấy hơi, thấy Cao Văn Tâm đưa nến đến sát người, tóc mây hơi rối, nét mặt thanh lệ dịu dàng, bất giác buột miệng khen:

- Vân kế kinh khinh vãn tựu, duyên hoa đạm đạm trang thành. Thanh yên tử vụ tráo khinh doanh, phi nhứ du ti vô..."(*) (tạm dịch: Tóc mây vấn khẽ cao cao, phấn son nhàn nhạt xuyến thêm sắc màu. Khói xanh sương tím bao quanh, bềnh bồng sợi tóc không...)

Còn chưa dứt lời, một tia sáng màu bạc chợt loé lên, một cây ngâm châm đã đâm xuyên qua gò má y. Thư sinh chỉ cảm thấy dưới cằm cứng đơ, miệng không khép lại được nữa. Cao Văn Tâm nhíu cặp mày liễu, hừ lạnh mắng:

- Buông lời cợt nhả, thực là đáng ghét!

Liền đó chợt nghe bên ngoài cửa có tiếng người vọng vào:

- Văn Tâm, cô còn ở trong đó không vậy?

Cao Văn Tâm nghe được giọng của Dương Lăng liền mừng rỡ đứng dậy, làm mặt uy hiếp với thư sinh nọ, rồi lật đật xoay người ra đón.

Thư sinh nọ có thể đả thương yêu đạo Lý Phúc Đạt, hiển nhiên có một thân võ nghệ vô cùng phi phàm, một cây ngân châm nho nhỏ đương nhiên không thể chế ngự được hắn, nhưng hắn lại thấy vẻ giận dỗi của Cao Văn Tâm có một ý vị đặc biệt, tâm tình nhất thời xao động, không dám rút cây ngân châm ra để tránh chọc giận giai nhân.

Cao Văn Tâm đón Dương Lăng và Hàn Ấu Nương vào phòng. Dương Lăng nghe nói người nọ đã tỉnh, liền mừng rỡ đi đến trước giường thăm hỏi:

- Huynh đài tỉnh rồi à? Cảm thấy thế nào?

Thư sinh nọ há miệng ú ớ mấy tiếng, hết nhìn Dương Lăng rồi lại ngó sang Cao Văn Tâm, vừa định đưa tay rút cây ngân châm ra, trông thấy Cao Văn Tâm trừng cặp mắt bồ câu lên, liền vội rụt tay lại. Cao Văn Tâm vờ cười trả lời thay:

- Công tử mới vừa được châm cứu, hiện tại vẫn chưa thể cử động.

Thư sinh nghe vậy thì khổ sở gật đầu, Dương Lăng nghi ngờ hỏi:

- Ngực bị thương mà cần phải châm cứu mặt à, y thuật Cao gia quả nhiên thần diệu vô cùng.

Hàn Ấu Nương dịch chiếc ghế ra một chút, nói:

- Tướng công gấp làm gì, nếu như vị tráng sĩ này đã tỉnh rồi, đợi thêm một chút rồi trò chuyện cũng đâu muộn. Tỷ tỷ à, thương thế của tráng sĩ có nghiêm trọng không?

Thư sinh nọ nghe tiểu cô nương thanh tú này gọi vị công tử anh tuấn hiên ngang ở trước mặt mình là tướng công, lại gọi người con gái mỹ mạo mà y ngưỡng mộ là tỷ tỷ, thì không khỏi giật thót trong lòng. Hắn biết giữa thê thiếp các hộ gia đình giàu có thường gọi nhau là tỷ muội, chẳng lẽ giai nhân đã có nơi gắm gửi rồi?

Nãy giờ hắn vẫn há miệng, nước miếng đã sắp chảy cả ra ngoài, nếu như mỹ nữ đã có chồng, vậy hắn cũng không cần phải lấy lòng chi cho mất mặt nữa. Thư sinh rút cây ngân châm ra khỏi mặt, vặn vẹo miệng mấy cái rồi gượng cười nói:

- Đa tạ ơn cứu mạng của công tử và phu nhân, kẻ hèn thực cảm kích không hết.

Dương Lăng thấy vị thư sinh này da ngăm đen, mặc dù dung nhan tiều tuỵ, nhưng mặt mày sáng sủa vô cùng, nhìn trông rất vừa mắt, bèn cản vai hắn bảo:

- Cứ nằm đi. Huynh đài là người phương nào, họ tên là gì, nghe nói... là một đạo sĩ đã đả thương huynh đài?

Thư sinh thuận thế nằm xuống, mắt thấy công tử trẻ tuổi này dung mạo còn tuấn tú hơn mình mấy phần, khí độ cũng rất bất phàm, hai giai nhân đó hẳn là hiền thê mỹ thiếp của người ta, bèn tự hơi cảm thấy hổ thẹn khi nãy đã buông lời khinh xuất. Hắn mỉm cười đáp:

- Dạ, kẻ hèn là người Tùng Tư, Hồ Bắc, họ Ngũ tên Hán Siêu, thuở nhỏ học nghệ trên Võ Đang. Ngày đó thấy một yêu đạo đang mê hoặc hương dân, nên muốn bắt gã giao cho quan phủ truy xét, tiếc là bản lĩnh không bằng người...

Rồi hắn khẽ lắc đầu cười, nói tiếp:

- Công tử không cần phải nghi ngờ, gia phụ vừa mới nhậm chức Đồng tri ở phủ Thành Đô, tên húy là Văn Tự. Kẻ hèn cũng là gia đình quan lại, không phải là phường lưu manh trộm cướp đâu.

Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Ngũ Văn Định à? Ồ... nhớ rồi nhớ rồi, ha ha, hoá ra là công tử của Ngũ Văn Định. Ta quả có nghe qua danh hiệu của lệnh tôn đại nhân.

Ngũ Văn Định nguyên là quan tiến cử ở Thường Châu, mấy ngày trước Nguỵ Quốc công Từ Phủ tranh chấp ruộng đất với dân, kiện cáo lên đến tận trên châu. Ngũ Văn Định phán giao mảnh ruộng đó cho bá tánh bình dân nọ khiến cho Ngụy Quốc công nổi giận đùng đùng, cậy vào quan hệ mà chuyển vụ án vào kinh thành, hòng nghiêm trị Ngũ Văn Định. May thay lúc đó Hàn Uy đang ở bộ Hình, khi tới thăm vợ chồng Dương Lăng buột miệng nhắc đến chuyện này, cho nên Dương Lăng đã bảo Tiêu Phương chiếu cố một chút. Do đó chẳng những ông ta không bị trừng phạt mà còn được thăng chức lên làm Đồng tri ở phủ Thành Đô. Dương Lăng không ngờ kẻ mình cứu lại là con trai ông ta.

Ngũ Hán Siêu nghe y gọi thẳng tên húy cha mình không hề kiêng kị, thì tỏ vẻ không vui. Thấy vậy, Cao Văn Tâm liền nói:

- Đại nhân nhà ta là thống lĩnh ngự tiền thân quân, tổng đốc Nội xưởng Dương đại nhân, không biết Ngũ công tử có từng nghe nói tới chưa?

Ngũ Hán Siêu vừa nghe lập tức cả kinh. Tiêu Phương giỏi về lung lạc lòng người, lại biết thế lực Dương Lăng, cũng là chỗ dựa của lão, vẫn còn rất yếu, cho nên lúc giúp đỡ cho Ngũ Văn Định đã âm thầm tiết lộ cho ông ta biết rằng do Dương Lăng hỏi đến nên Ngụy Quốc công mới không thể hãm hại ông ấy.

Sau khi Ngũ Hán Siêu học nghệ thành tài xuống núi du lịch bốn bể đã từng gặp cha, đương nhiên biết được mấu chốt trong đó. Hắn càng biết rằng quyền thế Dương Lăng như mặt trời chính ọ, đừng nói là gọi thẳng tên húy của phụ thân hắn mà cho dù vị Đồng tri đại nhân đó có đứng trước mặt y cũng sẽ phải khom gối quỳ vái ra mắt thượng quan.

Ngũ Hán Siêu là con cháu quan lại, vừa nghe đây là quan lớn trong triều, vẻ tự nhiên tiêu sái lập tức biến mất hoàn toàn, lúng túng nói:

- Thì ra... thì ra là Dương đại nhân. Nghe uy danh đại nhân đã lâu, thảo dân mang thương thế trên người, không thể làm tròn lễ...

Dương Lăng ngắt lời:

- Chậc, ta và huynh đài xưng hô huynh đệ không phải là tốt hơn sao? Hà tất dùng những lễ nghi rườm rà chốn quan trường đó? Huynh đài trên người còn mang thương thế, đừng nói chuyện nhiều. Văn Tâm, mau giúp Hán Siêu huynh trị thương đi.

Cao Văn Tâm dạ một tiếng, đi đến thu lại cây ngân châm trong tay Ngũ Hán Siêu, rồi lại rút ra một cây khác, nhắm ngay huyệt đạo dưới cần cổ mà vê nhẹ xuống. Người ngọc ở ngay trước mắt, mùi thơm nhàn nhạt lan toả khắp người, làn da trơn nhẵn như ngọc ửng lên vầng sáng dịu dàng dưới ánh nến, Ngũ Hán Siêu lại không dám có tơ tưởng gì, đành phải nín thở thu mắt lại, im lặng cho nàng chữa trị.

*****

Chú cháu Dương Tuyền đến Dương phủ đã được năm ngày, vào ngày thứ hai Dương Lăng và thê thiếp đã mở tiệc thết đãi cặp chú cháu trong tộc này. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đều là tuyệt sắc giai nhân, lại mặc lụa hoa tơ gấm, đeo vòng châu lắc ngọc, thực ngỡ như tiên nữ giáng trần.

Mặc dù Dương Tuyền không còn dám có bất kỳ ý nghĩ không yên phận gì với gia quyến của vị đường đệ này, song vẫn ngây mắt nhìn. May mà theo lễ nghi, những vị nội quyến này chỉ ra mắt một lần liền quay trở lại nội viện, cho nên Dương Tuyền mặc dù hâm mộ cũng chỉ đành "ngắm trăng dưới giếng" mà thôi.

Mấy ngày qua khí trời trong lành ấm áp, tuyết đã ngừng rơi, Dương Lăng cũng thầm kêu may mắn không thôi. Nếu trời lại đổ thêm trận tuyết lớn nữa, dân chạy nạn quanh thành sẽ khó mà sống nổi.

Được sự gợi ý của Thành Khởi Vận, y biết rằng để khiến những phú hộ giàu có phát chẩn cứu tế thực ra không khó. Lương thực hao phí mỗi ngày không đến trăm lạng bạc, đối với những phú hộ giàu có đó mà nói thật sự như muối bỏ bể, chỉ cần dùng danh tiếng dụ bọn họ thì không lo bọn họ sẽ không góp tay.

Dương Lăng bèn đi gặp Lý Đông Dương, lại đích thân tới thăm Chu Cương và Trương Hạc Linh. Có hai nhà này làm gương phát chẩn cứu tế, có Lý Đông Dương đích thân viết tên lên bia công đức đặt ở Hộ Quốc tự trong kinh sư, lập tức thân hào quý tộc kinh sư ùn ùn hưởng ứng, dân góp người, quan góp sức, lều lán cứu tế được dựng lên khắp kinh thành. Những lao động khoẻ mạnh cũng được cho vào thành tìm việc; bọn họ lấy tiền công thấp, lại chịu được vất vả, thế là bỗng chốc cả làng đều vui.

Lúc này, Dương Lăng vừa mới chạy vào trong cung, lòng ngổn ngang trăm mối. Mấy ngày qua khắp triều đình liên tục nhận được tình báo đại quân giành lại được đất bị cướp, đuổi đánh giặc Thát, thế là cả triều phấn khởi.

Nhưng theo tin hỏa tốc truyền về từ Nội xưởng, thì mấy trận đầu quân Minh cậy vào nhuệ khí quả thực đã chiến thắng, chém rơi nghìn đầu giặc, thu được mấy nghìn thớt ngựa và lạc đà, đồng thời cướp lại được số lớn của cải và người dân bị bắt đi.

Thế nhưng không biết Miêu Quỳ có phải bị thắng lợi làm mê muội đầu óc hay không mà lòng tham công nổi lên, thấy quân địch rút lui liền dốc toàn lực truy kích. Kỵ binh quân Minh có hạn, lực chiến đấu và tính cơ động không đủ, lại phải chia binh đuổi theo giặc Thát chia làm ba lộ rút lui. Kết quả bị Bá Nhan Khả Hãn điều khiển đại quân vây đội quân tiên phong đang đơn độc thâm nhập lại thành như bánh kẹp, ba nghìn quân tinh nhuệ mất sạch vào tay giặc. Nay địch quân thừa dịp quân Minh phân tán chưa kịp tập hợp, đã bắt đầu tập kết trọng binh phản công Đại Đồng.

Dương Lăng suy tính trước sau, đã quyết định đề bạt Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đến biên cương lĩnh soái. Nhưng hai người này một người nhàn rỗi ở nhà, một người đang ăn cơm tù, đều là những người từng đắc tội với Lưu Cẩn, tiến cử tuỳ tiện nhất định sẽ dẫn đến khúc mắc với Lưu Cẩn. Dương Lăng lo nghĩ rất lâu mới quyết định thuyết phục Lưu Cẩn trước, rồi mới đi gặp Chính Đức. Y đã chuẩn bị sẵn câu từ, nào ngờ khi gặp Lưu Cẩn, vừa mới nói rõ ý định thì chỉ thoáng trầm ngâm lão liền đã vui vẻ đồng ý luôn, khiến Dương Lăng rất bất ngờ. Tuy nhiên chiến sự biên giới quá khẩn cấp, y cũng chẳng để tâm nghĩ ngợi nhiều, vội vàng lôi Lưu Cẩn đi gặp Chính Đức.

Mã Vĩnh Thành dẫn hai người bọn họ chạy đến Ngự Hoa viên, thấy Chính Đức đang được mấy cung nữ thái giám hầu hạ chơi đánh quay trên mặt băng, trên con quay gắn thêm cái còi, phát ra tiếng kêu "tu tu".

Chính Đức mặc bộ áo ống bó màu đỏ sẫm, bên ngoài khoác áo lông cừu cộc tay màu thạch anh, đang chơi rất hăng say. Trông thấy Dương Lăng đến, hắn liền chỉ tay vào một cô nương mặc áo da chồn viền tím bên cạnh cười giục:

- Đánh mau lên, đánh mau lên, nếu con quay bị ngã, trẫm sẽ phạt nàng đó.

Chính Đức vừa quay đầu lại nói một cách luyến tiếc, vừa đi đến bên cái hồ cảnh đỡ Dương Lăng đang định sụp lạy dậy, cười nói:

- Miễn lễ miễn lễ, Dương khanh có biết chơi trò đánh quay này không? Trẫm và Giải Ngữ cùng Tu Hoa mới vừa học được đấy, chơi vui lắm.

Dương Lăng lắc đầu cười đáp:

- Trò này vi thần không biết, nhưng mà lúc nhỏ thần từng chơi trượt băng, phải sử dụng cả hai chân, nếu không thì sẽ ngã ngay.

Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, thích thú hỏi ngay:

- Chơi như thế nào? Mau chỉ cho trẫm đi!

Dương Lăng ho khan một tiếng rồi nói:

- Hoàng thượng, hay là bỏ qua trò đó đi, hai chân chơi xong đứng dậy không nổi đó. Một chân thì trượt rất nhanh, nhưng sẽ khiến cho ngài ngã đến mặt mũi bầm dập, lúc đó hoàng thái hậu còn không lấy đầu của thần ư?

Chính Đức đang vò đầu bứt tai thực sự nghĩ không ra cái gì mà chốc thì hai chân chốc thì lại một chân, đang định hỏi rõ thêm thì Dương Lăng đã giành kể ngắn gọn tình hình chiến sự mới nhất ngoài biên tái một lượt. Chính Đức vừa nghe liền cả giận, quát lớn:

- Láo toét!

Mã Vĩnh Thành hoảng sợ quỳ mọp xuống đất, mấy người trên mặt tuyết nghe hắn quát cũng không dám tụ tập chơi đùa nữa, đứng ở xa không dám lại gần. Chỉ có hai cô nương một cao một thấp, khoác áo và đội mũ lông chồn nâu, mắt sáng răng ngà bước đến, người con gái thấp hơn tươi cười nói:

- Hoàng huynh, đừng có như pháo hễ động vào là nổ bùng lên như thế chứ. Dương đại nhân lại trêu chọc gì huynh rồi à?

Dương Lăng mỉm cười, thấy người thiếu nữ tươi cười như hoa đó là công chúa Vĩnh Thuần, còn vị cô nương dong dỏng như ngọc đẹp, áo đen da trắng rạng ngời đứng bên cạnh chính là Vĩnh Phúc, thì liền vội khom người hành lễ:

- Ra mắt trưởng công chúa và Vĩnh Thuần công chúa điện hạ!

Chính Đức đỏ mặt quát lên:

- Trước lúc bọn chúng đi trẫm đã ba lần bảy lượt căn dặn bọn chúng không được chia quân, không được tiến bừa, vậy mà bọn chúng lại coi lời của trẫm như gió thoảng bên tai. Mã Vĩnh Thành, lập tức truyền ý chỉ của trẫm, bắt ba cái tên ngu xuẩn đó về kinh trị tội!

Công chúa Vĩnh Thuần thấy ông anh mình thật sự đang nổi trận lôi đình, thế là tinh nghịch le lưỡi không nói nữa. Công chúa Vĩnh Phúc liếc nhanh Dương Lăng một cái, thấy y khoác áo khoác da chồn màu đen viền vàng, anh tuấn trang nghiêm, khí chất càng trưởng thành chững trạc, khuôn mặt không khỏi hơi ửng lên, vội khẽ giọng nói:

-Dương đại nhân hãy mau đứng dậy, không cần câu nệ.

Chính Đức hậm hực vất chiếc roi sang một bên. Chiếc roi đó được làm từ san hô, trên chuôi quấn tơ vàng, núm chuôi còn cẩn bảo thạch. Mã Vĩnh Thành vội cuống quít bò tới nhặt lại từ trong đống tuyết rồi dùng tay áo lau phủi tuyết đi như thể nó là bảo bối của mình vậy.

Chính Đức cũng chả thèm nhìn, đỡ Dương Lăng đứng dậy rồi nói:

- Đi, theo trẫm về cung Càn Thanh, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng một phen.

Lưu Cẩn và Mã Vĩnh Thành mau lẹ bước theo sau. Công chúa Vĩnh Phúc chậm rãi bước đến dưới hành lang bên hồ, ống tay áo lợp nhung đen mượt đặt trên thành lan can chạm trổ, đưa mắt nhìn theo hướng mấy người rời đi, gương mặt thanh nhã trắng ngần chất chứa một nỗi cô đơn.

Trở về tới gác Tây Noãn, vừa đặt mông xuống ghế, Chính Đức liền nói:

- Đại Đồng đông nối liền Thượng Cốc, nam thông với Tịnh Hằng, tây tiếp giáp Hoàng Hà, bắc đổ ra sa mạc, cả ba mặt đều giáp biên giới, thực sự là bức thành che chở kinh sư của trẫm, nếu bị mấy vạn đại quân giặc Thát đánh sâu vào nội địa Trung Nguyên, vậy hậu quả thực sẽ khó lường. Ba tên... ba tên..., Dương khanh, khanh thấy trẫm có cần phải phái thêm đại quân không?

Dương Lăng liền thưa:

- Hoàng thượng, Miêu Quỳ cũng xem như đã cẩn thận, quân phòng thủ tập kết ở Đại Đồng được bốn vạn. Không có quân số đông gấp mấy lần và vũ khí công thành lợi hại thì giặc Thát có muốn đánh chiếm tòa thành lũy sâu tường vững này cũng sẽ không hề dễ dàng. Hơn nữa binh mã các lộ tiến công cũng đang gấp rút quay về chi viện, Đại Đồng hẳn sẽ không thất thủ đâu.

Chính Đức tuy ham chơi, song cũng biết coi trọng chuyện dùng binh, nghe vậy mới cảm thấy yên tâm hơn. Dương Lăng lại nói:

-Điều mà thần lo lắng là giặc Thát công thì ta ắt cứu, đại quân bị bọn chúng kiềm chế và dắt mũi, tất cả mọi bố trí ban đầu đều bị xáo trộn, sẽ khó mà vãn hồi được thế cuộc suy tàn.

Chính Đức vỗ mạnh bàn một cái, đột nhiên hưng phấn đứng dậy nói:

- Để trẫm thân chinh, Dương khanh làm tiên phong, chúng ta đánh thắng một trận thật hoành tráng cho kẻ khác thấy.

Mã Vĩnh Thành định mở miệng nói, Dương Lăng đã vội cướp lời:

- Hoàng thượng, đạo dùng binh không đơn giản như vậy đâu. Thần đang nghĩ rằng, quân đoàn tinh nhuệ của Đại Minh là kinh quân, nhưng sức chiến đấu của kinh quân lại không bằng biên quân vốn chỉ có trang bị và khí giới sơ sài, nguyên do chính là vì thiếu tập luyện.

Sau khi chiến sự kết thúc, hoàng thượng có thể điều kinh quân đến biên tái, dùng bọn giặc Thát hung hãn làm thầy giáo tốt nhất, các bộ luân phiên canh giữ biên cương và luyện binh, đồng thời điều biên quân về kinh thành, do thần và hoàng thượng mỗi người tự lĩnh quân tác chiến, học hỏi bản lĩnh thống binh lĩnh soái từ những đội quân có kinh nghiệm thực chiến phong phú này. Đến khi ấy, quân đội Đại Minh ai ai cũng đều có kinh nghiệm trận mạc phong phú, quân có thể chiến đấu, quan có thể làm tướng, lúc đó hoàng thượng lại đích thân lĩnh binh tiến ra biên giới, diễn lại oai phong thời hai vua Hồng Vũ và Vĩnh Nhạc. Hoàng thượng thấy thế nào ạ?

Chính Đức nghe vậy sướng rơn, hỏi dồn:

-Hay lắm, rất hay, vậy theo khanh thấy thì hiện tại trẫm nên làm thế nào?

Dương Lăng liếc mắt sang Lưu Cẩn, Lưu Cẩn vội cười siểm đỡ lời:

- Chiến sự tiền phương bất lợi, không phải là vì quân ít tướng hèn, mà vì không có tướng tài thống lĩnh. Nô tài đã kiểm tra Dương Nhất Thanh mà Lý đại học sĩ tiến cử, nghe nói người này rất am hiểu binh pháp, hiểu rõ biên cương, thiện dã chiến, có thể làm chủ soái Đại Đồng.

Chính Đức gật đầu nói:

- Chuẩn cho, Dương Nhất Thanh này hiện đang ở chỗ nào?

Dương Lăng mỉm cười đáp:

- Mấy ngày trước gã không biết thức thời, dâng sớ nói giúp cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, hiện bị bãi chức đang ở nhà nhàn rỗi. Bất quá một khi hoàng thượng hạ thánh chỉ, gã nhất định sẽ vui mừng tòng mệnh. Ngoài ra thần còn xin tiến cử thêm một người, là con của thượng thư Vương Hoa của bộ Lễ tên là Vương Thủ Nhân, chính là chủ sự bộ Binh người đã trình lên hoàng thượng phương pháp khắc chế đao sắc của người Oa. Người này không câu chấp mưu lược trận địa, thích tùy cơ ứng biến, rất hợp với tình thế chiến trường có thể thay đổi trong nháy mắt, có thể đề bạt y trợ giúp cho Dương Nhất Thanh.

Lưu Cẩn thấp thỏm lo lắng, sợ Chính Đức lại hỏi một câu "người này hiện đang ở chỗ nào", may mà khi Chính Đức nghe nói chủ sự bộ Binh thì tưởng rằng gã vẫn còn đương nhiệm, nên cũng không hỏi nhiều.

Dương Lăng lại thưa:

- Hoàng thượng, Dương Nhất Thanh vì phạm tội nên bị bãi chức. Lần này hoàng thượng trọng dụng lại gã, gã nhất định sẽ mang ơn đội nghĩa. Nhưng thân gã đang mang tội, nếu lại phái giám quân, Dương Nhất Thanh ắt sẽ nhụt tâm thoái chí, còn phải chịu cản trở, không thể thi triển hết sở trường.

Tục ngữ có câu 'nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì chớ nghi ngờ', hoàng thượng có thể ra lệnh gã toàn quyền phụ trách chiến sự, tiết chế tam quan, làm tam trấn tổng binh huyện Thiên Quan, tỉnh Thái Nguyên. Nếu có thể lập chiến công, đánh bại giặc Thát, thì thăng lên làm Tam biên tổng chế. Cùng lúc sử dụng ơn huệ và an ủi, Dương Nhất Thanh tất sẽ toàn lực làm việc, dốc sức phục vụ!

Lưu Cẩn vừa nghe lập được chiến công thì sẽ thăng Dương Nhất Thanh lên làm Tam biên tổng chế giống như Vương Việt năm xưa, nắm giữ mười vạn đại quân, trong lòng liền cảm thấy không ổn. Vừa định khuyên can, Chính Đức đã nói:

- Được, nghi ngờ thì không nên dùng người, đã dùng người thì không nên nghi ngờ, chỉ cần gã giải quyết được nỗi ấm ức này cho trẫm, trẫm sẽ phong y làm Tam biên tổng chế.

Nói đoạn Chính Đức chấp bút đích thân viết một tờ thánh chỉ, bảo Mã Vĩnh Thành triệu Thượng Bảo giám đóng ấn, rồi lệnh cho lão ta lập tức đi truyền chỉ. Lưu Cẩn nhớ ra mình vẫn còn một chiêu ám kế, thế là cũng không nói thêm gì.

Đến khi hai người rời khỏi cung Càn Thanh, Lưu Cẩn mới oán trách:

- Dương đại nhân, cái tên Dương Nhất Thanh đó và chúng ta không chung thuyền, ngộ nhỡ để gã lập được đại công, nắm giữ trọng binh, há chẳng sẽ mang phiền phức đến cho chúng ta sao?

Dương Lăng cười đáp:

- Ngài sợ gì chứ? Năm xưa Vương Việt cũng là Tam biên tổng chế, vậy mà chẳng phải một tờ thánh chỉ nói bắt vào kinh liền bắt vào kinh đó sao. Công công là nội tướng của Đại Minh, nắm giữ một nửa triều đình, tục ngữ thường nói 'bụng tể tướng có thể chèo thuyền', gã dâng sớ cầu xin cho Lưu Kiện và Tạ Thiên, chứng tỏ người này cũng trọng tình trọng nghĩa, công công hà tất quá so đo?

Sắc mặt Lưu Cẩn lập tức trở nên hết sức hoà hoãn, lão ta mỉm cười dè dặt nói:

- Nói chí phải, khà khà, đến khi đó ta lại động tay chân vào quân giới khiến hắn không hoàn thành đại sự là được.

Dương Lăng giật mình thất kinh, vội ngăn:

- Vạn lần không thể!

- Hử?

Lưu Cẩn nghi hoặc nhìn y, hỏi:

-Chẳng lẽ Dương đại nhân không phải vì muốn tìm một kẻ chết thay đỡ tội cho Miêu Quỳ nên mới đẩy hai cái tên chướng mắt này ra chiến trường sao? Cớ sao lại bảo vệ bọn chúng như vậy?

Dương Lăng định thần lại một chút rồi mới nói:

- Ờ... thì đúng là như vậy. Miêu Quỳ và chúng ta là ngựa chung một tàu, gặp họa thì cùng chịu mà gặp phước thì cùng hưởng, nếu để lão ta thua đến không thể vãn hồi mới triệu về kinh, công công và ta nhất định sẽ bị ngoại quan hặc tội. Nhưng công công chớ quên, hiện tại Dương Nhất Thanh không phải là do Lý đại học sĩ đề cử, mà là chính miệng công công tiến cử, cái tên Vương Thủ Nhân nọ cũng là do bản quan tiến cử.

Nếu như hai người bọn họ lập được chiến công thì chúng ta sẽ được xem là biết nhìn người, biết dùng người, nước lên thì thuyền lên, uy danh chói lọi. Nhược bằng bọn họ thất bại, đừng thấy bọn họ cùng một hệ với Lý Đông Dương mà lầm, đám người ngoại đình ắt sẽ đổ món nợ ấy lên đầu chúng ta. Công công mới nhậm chức nội tướng, nếu dưới sự chủ trì của công công, quân ta đánh bại bọn giặc Thát hung tợn thiện chiến, ai sẽ dám không thừa nhận tài phò chính của công công? Công lao bọn họ có lớn dường nào, phần công lao lớn nhất còn không phải là của công công à?

Lưu Cẩn vỗ trán nói:

-Phải rồi, Dương đại nhân nói chí lí, xem ra phần cung ứng quân nhu này ta không thể qua loa được. Hừ! Có điều không ngờ hai cái tên không biết thức thời đó đối đầu với ta, nay lại phải chia cho bọn chúng một phần công to, thực là béo bở cho bọn chúng quá.

Lưu Cẩn nói với giọng không phục, trong lòng cũng đã âm thầm tính toán. Bản thân lão là kẻ tham ô, song lại không muốn thấy người khác tham ô, lão thích sử dụng thân nhân làm thân tín, song ghét nhất là kẻ khác dựa dẫm bám víu vào quan hệ. Hơn nữa lão tuy là thái giám song lại không hề tín nhiệm thái giám, cho nên vẫn luôn muốn trọng dụng một số người phe ngoại đình, phát triển thế lực của bản thân. Hiện tại nếu đã không thể lật đổ Dương Nhất Thanh, lão liền âm thầm tính toán làm sao để có thể chiêu nạp cho mình dùng.

Thấy đã thuyết phục được Lưu Cẩn, lúc này Dương Lăng mới thầm thở phào nhẹ nhõm. Đại quân đang chiến đấu ở bên ngoài, nếu như trong triều có người tay nắm quyền lớn như vậy mà ngấm ngầm ngáng chân, thì cho dù là Nhạc Vũ Mục tái thế cũng đừng hòng thắng giặc.

*****

Trong Dương phủ, Hàn Ấu Nương, Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai và Cao Văn Tâm tiễn Âu Dương phu nhân ra về, bọn họ nói cười vui vẻ, hợp ý vô cùng.

Vị phu nhân của Nghiêm Tung còn lớn hơn tướng công thị một tuổi, nhưng tri thư đạt lễ, nết na hiền lành. Nàng giống như Ấu Nương, cũng bầu bạn cùng tướng công mình từ thuở cơ hàn, cho nên rất được Nghiêm Tung kính trọng.

Bà ta thường hay đến nhà trò chuyện cùng đám người Hàn Ấu Nương việc vặt trong nhà, một mặt là do tướng công vốn không có thế lực chống lưng, y đã ngầm tỏ ý muốn bà ta kết giao với một đám nhân vật quyền thế nhằm có thể đứng vững trong kinh sư, đồng thời đích thực cũng bởi bà ta và mấy người Hàn Ấu Nương rất tâm đầu ý hợp.

Bà ta cùng trượng phu mình thành thân đã lâu, nay đã hai mươi sáu tuổi song lại vẫn chưa có mụn con. Hiện tại tướng công đã có quan tước, điều kiện gia cảnh cũng rất tốt, bà ta cũng từng nảy ra ý định muốn nạp thiếp lấy vợ bé cho trượng phu, song lại bị Nghiêm Tung nghiêm khắc cự tuyệt. Việc này càng khiến cho Âu Dương phu nhân cảm thấy hổ thẹn không thôi.

Hôm nay đến Dương phủ viếng thăm, nghe tin vui Hàn Ấu Nương đã mang thai, Âu Dương thị rất đỗi hâm mộ. Cao Văn Tâm nghe bà ta kể tâm sự bèn bắt mạch giúp cho, rồi ghi một đơn thuốc, bảo cầm về uống thử. Vốn đã từng nghe đại danh của nữ thần y, thế là bà ta bèn cất kỹ đơn thuốc vào người như thể là báu vật, hận không thể lập tức lắp hai cánh bay đến tiệm thuốc ngay.

Nhìn thấy điệu bộ hồn vía trên mây của bà, Hàn Ấu Nương bèn cùng mấy tỷ muội đưa tiễn về. Lúc này Ngũ Hán Siêu đang luyện kiếm trước tiền đình. Hắn vẫn chưa khỏi hẳn thương thế, nhưng người từng tu luyện nội công thượng thừa lấy điều hoà hơi thở bên trong làm phụ trợ, khiến tốc độ hồi phục mau chóng vô cùng.

Hàn Ấu Nương cùng Âu Dương phu nhân đi ở phía trước, vừa mới rẽ từ hành lang hông qua, trông thấy vị công tử của Ngũ đồng tri hất, đâm, quét, chém; kiếm pháp sử dụng kình lực liên miên, cương nhu có cả, kiếmuyển chuyển mà hùng hồn. Nàng tuy không biết kiếm pháp nội gia song lại hiểu được lợi hại trong đó, nhịn không được kinh ngạc thốt lên:

- Công phu thật giỏi!

Ngũ Hán Siêu nghe tiếng bèn thu kiếm, trông thấy rõ Dương phu nhân và mấy vị nội quyến, mắt liền hướng thẳng, chắp tay thi lễ chào:

- Kẻ hèn ra mắt phu nhân.

Đám người Hàn Ấu Nương vòng từ hành lang bên hông đi ra, Hàn Ấu Nương cười khẽ nói:

- Ngũ công tử bị thương nặng như vậy, không ngờ đã chóng khỏi rồi.

Ngũ Hán Siêu cười đáp:

- Đó đều nhờ... Cao cô nương diệu thủ hồi xuân. Còn phải cảm tạ đại nhân và phu nhân đã quan tâm chu đáo cho kẻ hèn này.

Vừa nói ánh mắt vừa không kiềm được liếc sang Cao Văn Tâm. Ngày đó hắn nghe Cao Văn Tâm gọi Dương Lăng là 'đại nhân nhà ta', khẩu khí lại không giống như thiếp thất của Dương Lăng, con tim liền hoạt bát trở lại. Bóng hình xinh đẹp lung linh dưới ánh nến và khí chất cao quý của Cao cô nương trong khoảnh khắc vừa tỉnh dậy đã in sâu vào trong lòng hắn; vị thanh niên học nghệ trên núi mười năm này đã động lòng ái mộ.

Hắn nghĩ phụ thân mình tốt xấu gì cũng là châu đồng tri tòng ngũ phẩm, mình lại văn võ song toàn, nhất biểu anh tài, nếu Cao Văn Tâm chỉ là tì nữ Dương phủ, bất luận thế nào mình cũng xứng đôi với nàng ấy. Nhưng bản thân hắn không tiện dò hỏi gia bộc Dương phủ về cô nương nhà người ta. Từ sau ngày đó mỗi lần Cao Văn Tâm đến xem bệnh cho hắn đều luôn kéo theo Cao lão quản gia kè kè bên người, hại hắn đến giờ vẫn như ngắm hoa trong sương mù, tra không ra được thân phận thật của cô nương này. Hiện tại thấy nàng đi chung cùng hai vị thiếu nữ kiều mị cùng búi kiểu tóc phụ nữ đã có gia đình, dáng vẻ không giống như là một thị nữ, trong lòng cảm thấy kế hoạch thất bại rồi.

Khi nãy Hàn Ấu Nương thấy công phu của hắn, biết đó là võ nghệ vô cùng cao siêu, còn võ công của mình là đi theo con đường ngoại gia bá đạo. Tướng công cứ nói điều này đã lâu mà vẫn chưa được học, võ công của người này lại thích hợp để tướng công học tập. Tuy tướng công đã quá tuổi thích hợp để luyện võ, nhưng dùng để cường thân kiện thể vẫn tốt, hơn nữa người này văn võ song toàn, gia thế thanh bạch, nếu có thể giữ lại để phò tá tướng công cũng vẫn có thể xem là một nhân tài.

Hàn Ấu Nương mang trong lòng phần tâm tư này, cho nên đối đãi với hắn càng thêm khách khí, dừng lại chuyện trò vài câu rồi mới kéo tay Âu Dương phu nhân ra cổng. Cao Văn Tâm cũng nheo mắt liếc hắn một cái, rồi cũng đi theo sau Hàn Ấu Nương ra ngoài.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai vừa trò chuyện vừa lặng lẽ đi theo phía sau, một cơn lốc cuộn tới, Ngọc Đường Xuân không chú ý, chiếc khăn hoa quàng cổ đã bị ngọn gió cuốn phăng treo trên ngọn cây cao.

Chiếc khăn quàng cổ này là của Dương Lăng đích thân tặng cho nàng lúc từ Giang Nam trở về, Ngọc Đường Xuân nào nỡ vứt bỏ, liền vội chạy đến bên gốc cây, ngước nhìn ngọn cây cao đến mấy trượng, giậm chân kêu:

- Tuyết Nhi, mau đi tìm người mang thang đến đi.

Ngũ Hán Siêu ngửa đầu nhìn thân cây, nói:

- Thang cũng không bắt tới ngọn đâu, xin phu nhân hãy tránh sang bên, kẻ hèn sẽ giúp người lấy xuống.

Ngọc Đường Xuân nhấc váy lùi lại vài bước, đứng cùng Tuyết Lý Mai kinh ngạc nhìn hắn. Ngũ Hán Siêu hít sâu một hơi, găm kiếm vào trong tuyết, nhẹ nhàng búng người tới trước vài bước rồi phóng người nhảy lên trượng hai trượng ba, một chân điểm nhẹ chính xác lên một cành cây, khóm tuyết rơi lả tả, hắn mượn thế lại phóng lên thêm hơn trượng, liên tục hai lần, vươn một tay với lấy chiếc khăn, rồi vặn lưng trên không trung, nhẹ nhàng sà xuống như một con diều hâu.

Nội thương của hắn chưa khỏi hẳn, chỗ bị thương trên ngực cũng chưa lành, cú nhảy này không dám dốc toàn lực, lúc tiếp đất mặt hơi ửng đỏ. Hắn ho khẽ vài tiếng rồi mới đưa khăn qua, nói:

- Phu nhân, khăn của người đây.

Ngọc Đường Xuân cầm lấy khăn, thán phục:

- Thật lợi hại, con người có thể nhảy cao như vậy sao?

Ngũ Hán Siêu mỉm cười đáp:

- Chỉ là chút tài mọn, khiến phu nhân chê cười rồi. Dương đại nhân là tổng đốc nội xưởng, dưới tay tàng long ngoạ hổ, cao thủ như mây, những kẻ tài giỏi hơn xa tại hạ nhất định đều tề tụ dưới trướng.

Tuyết Lý Mai quả không biết dưới trướng phu quân có những người nào, nhưng dẫu sao trước mặt người ngoài quyết không thể lộ dốt cho tướng công được, thế là nàng cười khẽ một tiếng, tinh nghịch nói:

- Xem như ngươi thức thời, dưới trướng lão gia chúng ta quả thực cao thủ như mây, lúc bắt phản loạn Đông xưởng, năm nghìn đấu với tám nghìn mà chỉ bị thương chưa tới bốn chục.

Ngũ Hán Siêu thấy vị tiểu phu nhân này hãy còn ấu trĩ, dễ đối phó hơn vị đứng cạnh bên, bèn thừa cơ dò hỏi:

- Tại hạ tạm trú ở Dương phủ, song lại không biết hai vị phu nhân, cho nên vừa nãy chưa chào hỏi, thật sự thất lễ, không biết nên xưng hô thế nào?

Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân hơi sững người. Thiếp thất ở các hộ gia đình lớn bình thường đương nhiên sẽ phân làm 'nhị phu nhân', 'tam phu nhân'. Hai người được gả vào cùng lúc, Dương Lăng lại không phân biệt đối xử với bọn họ.

Ngọc Đường Xuân thoáng trù trừ, khi nãy thấy Hàn Ấu Nương đối đãi hết sức kính lễ với hắn, nàng cũng không dám đánh mất lễ nghi, bèn điềm đạm đáp:

- Công tử chớ nên khách khí, trong phủ vẫn luôn gọi ta là Ngọc phu nhân, muội ấy là Tuyết phu nhân.

Ngũ Hán Siêu lại thi lễ hỏi tiếp:

- Ra mắt Ngọc phu nhân, Tuyết phu nhân. Ờm... vị cô nương họ Cao giúp kẻ hèn chẩn bệnh trị thương nọ cũng là Dương phu nhân sao? Kẻ hèn không tiện hỏi thẳng trước mặt, lại sợ xưng hô không đúng lễ phép.

Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, bất tri bất giác lại đột nhiên nhớ đến bức tranh xuân cung khiêu khích nọ, vẻ mặt lập tức có phần ngượng ngập. Quan hệ của hai người bọn họ đã phát triển đến tình trạng như vậy mà vẫn không thấy lão gia có vẻ gì là sốt ruột, chẳng lẽ vì cảm thấy trong một năm mà nạp ba thiếp vào nhà là chuyện khiến người chê cười, nên muốn lần lữa sang năm sao?

Ngọc Đường Xuân do dự đáp:

- Cao cô nương là... thái y ngự tứ của Dương phủ, cũng không phải là nội quyến nhà họ Dương.

Ngũ Hán Siêu vừa nghe liền cả mừng. Vẻ mừng rỡ vừa thoáng hiện bên khóe chân mày, Tuyết Lý Mai đã cười hì hì như một chú chim khách bồi thêm một câu:

- Nếu công tử gọi tỷ ấy là Dương phu nhân thì tỷ ấy cũng sẽ không nổi giận đâu. Hiện tại chưa phải, nhưng qua mấy tháng nữa thì nhất định sẽ phải.

Chú thích:

điều hoà hơi thở

dốt chữ thì giỏi võ

đường huynh, đường đệ là anh/em con bác bên nội; huynh/đệ là anh/em con cậu bên ngoại

thím

nữ chủ nhân

nguyên văn 'Tướng quân ngạch hoành kham tẩu mã, tể tướng đỗ nội năng xanh thuyền' nghĩa là trán tướng quân có thể phi ngựa, bụng thừa tướng có thể chèo thuyền, ý khuyên con người nên rộng lượng và khoáng đạt trong cách đối nhân xử thế.

chỉ danh tướng Nhạc Phi thời Tống

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 171: Ngầm nổi sát khí

Hàn Ấu Nương đưa mắt trông theo kiệu của Âu Dương phu nhân khuất sau hàng rào bụi cây, nàng đang định cùng Cao Văn Tâm trở vào trong thì phía sau hàng rào đã xuất hiện hai con tuấn mã một trắng, một đỏ phóng nhanh đến.

Đường mòn không rộng mấy, có lẽ vì muốn tránh va phải nương tử nhà họ Nghiêm nên cặp tuấn mã phóng vội lên ụ tuyết đọng ven đường. Trước mặt con đường nhỏ là một dòng suối hẹp quanh co đã đóng băng, chỉ thấy kỵ sĩ trên ngựa ghìm cương, nhổm người, hai thớt kiện mã đã chồm lên, xoay thân gần chín mươi độ bay vòng sang.

Lúc xưa tại Kê Minh, Hàn Ấu Nương đã từng gặp Mã Liên Nhi cũng là kỵ sĩ cao cường như thế. Lúc này thấy vậy, hai mắt nàng mở to. Người trên bạch mã là một cô gái xinh đẹp, thân hình tuyệt mỹ, tóc mai đen nhánh, mặt phấn cằm xinh. Cưỡi trên con ngựa đỏ bên cạnh là một tráng niên khôi ngô mặc áo vàng.

Cao Văn Tâm nói nhỏ với Hàn Ấu Nương:

- Muội muội, đó là khách của nhà mình.

Hàn Ấu Nương vừa đáp vâng, hai con ngựa đã phi đến trước mặt. Người đàn ông trên ngựa cười ha ha mở lời:

- Cao cô nương, lại gặp mặt rồi!

Nói xong không cần chống lên yên ngựa, hắn lập tức đánh chéo chân nhảy ngay xuống đất, thân thủ rất mạnh mẽ.

Cô gái áo đỏ nhoẻn cười, vịn yên ngựa rồi cũng nhẹ nhàng nhảy xuống đất, tiến lên hai bước chắp tay cười chào:

- Cao thần y! Vợ chồng chúng tôi đặc biệt đến cảm tạ ơn Cao thần y và Dương đại nhân đã ra tay cứu mạng.

Cao Văn Tâm vội đáp:

- Vị này chính là Dương phu nhân.

Vợ chồng Dương Hổ nghe vậy vội cùng song song chắp tay thi lễ. Hàn Ấu Nương đã nghe sơ qua chuyện của bọn họ, từ khi vào kinh tới nay nàng chỉ gặp người trong quan trường nên cặp vợ chồng hào sảng này rất hợp tính với nàng. Hàn Ấu Nương vội vui vẻ tiến lên trước nghênh đón, nói:

- Dương đại ca, Dương phu nhân, tướng công nhà ta làm công chuyện hãy còn chưa về. Ấu nương đã sớm nghe đến đại danh hai vị. Mau mời vào bên trong.

Vợ chồng Dương Hổ không ngờ một vị cáo mệnh phu nhân lại nói chuyện cởi mở như thế, bên cạnh cảm giác bất ngờ lại có nhiều phần thân thiết. Bốn người vừa vào đến viện đúng lúc Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đến chào đón, đi theo phía sau với vẻ mặt vô cùng đau khổ đích thị là Ngũ Hán Siêu.

Suốt dọc đường Dương Hổ mang đám người Dương Tuyền, Ngũ Hán Siêu vào kinh, Ngũ Hán Siêu đã khi mê khi tỉnh nên ũng coi như quen biết nhau. Vừa thấy hắn, Dương Hổ liền phóng tới nhằm bả vai đối phương đấm một quyền, vừa ha ha cười nói:

- Ngũ lão đệ, ngươi đã khỏe chưa?

Hắn luyện công phu ngoại môn, một đôi thiết chưởng có thể đánh tan bia, vỡ đá. Quyền này xuất lực rất nhiều, nhưng Ngũ Hán Siêu phản ứng cực nhanh, quyền phong vừa tới sát, thân hình hắn liền hơi rùn xuống, bả vai hơi hạ thấp. Động tác này ngay lập tức đã tước mất quá nửa lực đấm của Dương Hổ.

Dương Hổ chỉ cảm thấy quyền đánh vào không khí, giống như đánh trúng một tấm vải mùng treo trên không trung, không hề có lực phản chấn. Đương lúc hắn ngẩn ngơ thì một luồng kình mềm dịu bắn ra, cú đấm đã sượt bả vai Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu vẫn đứng tại chỗ như không có chuyện gì, chỉ cười khổ nói:

- Dương huynh nhẹ tay một tí đi, huynh đệ còn chưa khỏe hẳn đâu.

Thôi Oanh Nhi chưa từng cùng yêu đạo Lý Phúc Đạt chạm mặt, nhưng biết lão có ba con trai tên Nhân Từ, Đại Nghĩa, Đại Lễ. Ba người này hiện vẫn chỉ là thanh niên xấp xỉ đôi mươi. Năm trước ở Bá Châu, Thôi Oanh Nhi đã giao thủ cùng Lý Đại Nghĩa, hai người ngang tài ngang sức.

Thôi Oanh Nhi rất tự tin vào bản thân, nàng không tin gã thư sinh trước mặt này có thể đánh bị thương cha của Lý Đại Nghĩa, cho nên trước khi đến đây đã bày mưu đặt kế để trượng phu thăm dò võ công của hắn nông sâu thế nào. Có câu kẻ thạo nghề chỉ cần vừa ra tay, liền biết tài năng như thế nào. Vừa rồi thử Ngũ Hán Siêu một chiêu, Thôi Oanh Nhi đã nhìn ra võ nghệ của thư sinh này quả thật tuyệt vời. Dù là chính mình cũng chưa chắc là đối thủ của hắn.

Thôi Oanh Nhi xoay tròn đôi mắt xinh đẹp, liếc Dương Hổ, sẵng giọng:

- Tay chân lúc nào cũng vụng về, vị Ngũ huynh đệ này vết thương chưa lành, chàng đừng làm cho người ta bị nặng thêm.

Nói xong nàng cười khanh khách nghênh đón Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân, mỗi tay dắt một cô, khen:

- Dương phu nhân đoan trang hào phóng, hai vị muội muội cũng là nhân gian tuyệt sắc, khiến tỷ tỷ thấy mà rất hâm mộ đấy.

Ngọc Đường Xuân mặt như trăng rằm, mắt như làn thu thủy, mắt ngọc mày ngài, tự có nét phong lưu. Bởi vì ngày mai chính là hai mươi ba tháng chạp, nên tất cả cùng quét dọn nhà cửa cúng ông táo. Đây là ngày tết chính thức đầu tiên sau khi Dương Lăng thành lập gia đình. Bởi Ấu Nương rất quan tâm đến ngày này, cả phủ trên dưới đều vô cùng coi trọng.

Ngọc Đường Xuân mặc chiếc váy dài xếp nếp màu hồng mặc trong dịp lễ hội, bên ngoài khoác áo chẽn màu xanh nhạt, trên mái tóc mây cài một cây trâm bạch ngọc, tư thế yểu điệu thanh tú, eo thon dịu dàng vừa một nắm tay. Vẻ yêu kiều của nàng đúng là mỹ lệ nhất trong chúng nữ.

Tuyết Lý Mai mặc một bộ áo khoác tơ tằm màu lục dệt kim tuyến, vận một cái váy gấm kết hoa vàng nhạt, miệng anh đào nhỏ nhắn, răng trắng môi đỏ, mặc dù trông hơi xinh xắn ngây thơ, nhưng cũng là tiểu mỹ nhân linh động hoạt bát.

Tuy hai cô chưa biết thân phận của Hồng nương tử nhưng thấy Thôi Oanh Nhi cũng mắt hạnh hàm đào, xinh đẹp như ngọn lửa nóng mà lại không hề tiếc lời ca ngợi hai cô như thế nên không khỏi mở cờ trong bụng, lật đật mỉm cười chào nàng.

Những cô gái này tụm lại với nhau. Cô này khen cô kia có kiểu tóc kết rất đẹp, cô kia khen lại cô này có bộ quần áo phối hợp rất duyên, ... chuyện nhà chuyện xóm vui vẻ trò chuyện không thôi, vứt Dương Hổ và Ngũ Hán Siêu qua một bên. Hai người nhìn nhau cười khổ, đành phải chậm rãi bước theo sau cùng bước vào phòng chính.

Cao quản gia thấy khách đến nhà đã sớm dặn dò nữ nô tì bưng lên trà thơm, hạt dưa, mọi người liền ở phòng khách nói chuyện phiếm. Đang lúc nói chuyện, ngoài cửa chợt vang lên tiếng ngựa hí, chỉ trong chốc lát Dương Lăng khoác chiếc áo khoác dài dẫn hai phiên tử đi huỳnh huỵch vào trong viện, từ xalớn tiếng la lên:

- Quản gia! Thành cô nương có đang ở nhà không?

Cao quản gia vội vàng đẩy cửa ra ngoài đón, nhỏ giọng thưa:

- Lão gia! Có khách đến viếng phủ, phu nhân đang tiếp khách đấy.

Dương Lăng hơi giật mình, hỏi:

- Ai tới vậy?

Đang khi hỏi chuyện, y vừa đưa mắt lên đã thấy Hàn Ấu Nương và vợ chồng Dương Hổ nghe tiếng đã ra tới cửa đón. Dương Lăng vội vàng thu lại sắc mặt vô cùng lo lắng của mình, thay bằng bộ mặt tươi cười nói:

- Hóa ra là Dương huynh, Dương phu nhân! Đã không nghênh đón sớm rồi!

Tuyết Lý Mai lén cười khúc khích, thầm thì vào tai Ngọc Đường Xuân:

- Vị này là Dương phu nhân, vị kia cũng là Dương phu nhân. Nhắm mắt lại nghe, còn tưởng rằng đang gọi phu nhân của mình.

Ngọc Đường Xuân nghe xong cũng nhoẻn miệng cười, nàng sợ bị người nghe thấy nên lặng lẽ bấm cô em gái nghịch ngợm này. Tuyết Lý Mai đang cười trộm, chợt cảm thấy trên mông bị chích nhẹ vội quay đầu lại nhìn, nhưng chẳng phát hiện được gì nên nàng hơi kinh ngạc.

Trong khi đó, Dương Hổ và Ngũ Hán Siêu lại đều thấy rõ động tác của Thôi Oanh Nhi. Nàng không hề quay đầu lại, chỉ cung tay búng ra, một viên đá nhỏ lập tức bắn về phía sau, lượn một vòng cung chính xác đánh trúng vào mông Tuyết Lý Mai. Hai người cùng liếc mắt nhìn nhau, lại cùng thầm hiểu trong lòng, không cần nói gì cũng không quay đầu lại.

Dương Lăng vừa từ trong cung trở về. Mới đến cổng thôn y gặp quản gia của Cao viên ngoại - một trong Lục Đại địa chủ của bảy tòa hoàng thôn trang bản địa, Dương Lăng liền xuống ngựa bắt chuyện với lão.

Y không muốn quấy nhiễu dân chúng. Thực tế cho dù lấy quyền thế của y muốn cưỡng đoạt đất đai của những địa chủ thân hào nông thôn này cũng chẳng thể được. Nhưng mà, sau lễ cúng ông Táo chính là lập xuân. Y muốn ở gieo trồng rộng rãi loại giống lương thực mới lân cận kinh thành, nhằm sản xuất đại trà giống lương thực này, đào tạo một lứa gia phu hiểu rõ phương cách thu hoạch canh tác mới, làm cho trăm quan trong triều cúi đầu với sự thật trước mắt. Nhưng mà trong tay y lại không có đủ đất đai nên tất cả sẽ chỉ là nói suông.

Dương Lăng thử dò hỏi vị lão quản gia này về khả năng thuê hoặc mua đất đai của Cao viên ngoại, y không thể ngờ lão quản gia kia nghe xong lại tỏ vẻ kinh ngạc khó hiểu. Từ miệng lão, Dương Lăng mới biết được, ngoài Lý Kế Mạnh ra, bây giờ đất đai sáu vị viên ngoại xung quanh đều thuộc quyền sở hữu của Thành Khởi Vận. Chuyện này là do vị công tử họ Thành và Cao lão gia bàn bạc. Ngay cả lão quản gia cũng không biết rõ tình hình.

Dương Lăng và Thành Khởi Vận sống chung với nhau hơn hai tháng. Y sớm biết vị Thành cô nương này tùy hứng kiêu ngạo, làm việc chỉ theo sở thích, không màng chính tà. Tuổi thực của Dương Lăng còn lớn hơn của Thành Khởi Vận hai tuổi, sao y lại nhìn không ra tâm tư ton hót muốn lấy lòng mình của cô nàng?

Bình thường y chỉ là giả ngu giả dại thôi, bây giờ nghe xong tin tức này y không biết Thành Khởi Vận dùng thủ đoạn lừa gạt như thế nào lại khiến cho sáu vị thân hào này ngoan ngoãn giao đất đai, hơn nữa cho tới nay vẫn không dám loan tin, cho nên y vội vàng chạy về phủ muốn hỏi cho rõ.

Y không ngờ vợ chồng Dương Hổ lại đến thăm viếng vào lúc này, đành phải bình tâm tiếp đãi hai vị khách trước đã. Nam chủ nhân trở về nhà, đám phụ nữ cũng không tiện ở bên cạnh, Hàn Ấu Nương bồi tiếp Thôi Oanh Nhi, một đám chị em líu ríu đi thẳng vào nhà sau. Dương Lăng cùng Dương Hổ, Ngũ Hán Siêu ở phòng chính nói chuyện phiếm.

Ba người chuyện vãn một hồi, dần dần kéo sang chuyện võ học. Ngũ Hán Siêu và Dương Hổ một mặt vừa kể lại kinh nghiệm ngày ấy cùng lão đạo sĩ động thủ so chiêu, một mặt hoa tay múa chân diễn tả. Trò chuyện tới lúc hào hứng, hai người liền muốn so tài một phen.

Trước cửa có cây cối vườn hoa nên không tiện động thủ. Dương Lăng cũng rất muốn xem thử một lần những võ lâm cao thủ thật sự này đánh nhau ra sao, liền đứng lên cười nói:

- Hai vị! Sân sau của tại hạ khoáng đãng rộng rãi, các vị đã muốn so tài một phen hay là chúng ta hãy đi đến đó đi. Ha ha, có điều vết thương của hai vị vừa lành, chúng ta cần phải đến điểm là dừng nhé.

Ba người nói cười đi vào hậu viện, đi thẳng tới sân vườn phía sau. Dương Lăng thấy bên trái chính là thư phòng nơi Thành Khởi Vận ở tạm, liền bảo:

- Hai vị! phu nhân tại hạ cũng là người thích võ. Ha ha, để ta gọi các nàng cùng đến mở rộng tầm mắt. Quản gia, ông đưa hai vị quý khách đến vườn sau trước đi.

Dương Lăng cáo lỗi xong, vội rẽ vào nội thư phòng. Vừa vén mành cửa, y đã thấy Thành Khởi Vận đang ngồi ngay ngắn trên ghế tựa, nghiêng nghiêng vầng trán xinh đẹp, bàn tay trắng nõn đang cầm cây bút lông sói viết gì đó trên tờ giấy TĐào màu lam nhạt. Thấy Dương Lăng đi vào, Thành Khởi Vận hơi kinh ngạc, xen lẫn vui mừng. Nàng cười thánh thót như suối reo, đặt bút xuống, tha thướt đứng dậy bước vòng qua thư án, chào:

- Đại nhân, sao hôm nay ngài nhàn rỗi đến thăm ty chức vậy?

Dương Lăng thấy nàng mặc chiếc váy trong nhà màu xanh nhạt, ngoài choàng áo chẽn cùng màu, toàn thân trắng trong thuần khiết, xinh đẹp nho nhã. Hơn nữa chiếc váy của nàng được may cắt khéo léo, áo chẽn nhẹ nhàng mềm mại càng tôn lên những đường cong nhấp nhô mềm mại, thân thể uyển chuyển vô cùng.

Dương Lăng đột nhiên nhớ tới ngày nàng mới tới Dương phủ, eo thon mang vòng chuông vàng nhỏ, xinh đẹp với làn da như nước, xương mềm như rắn. Cơn giận hơi hơi hạ xuống một ít, y bình tĩnh chậm rãi bước thong thả tới ngồi vào ghế tựa chất vấn:

- Ta hỏi cô, hiện nay có tám chín phần mười đất đai bảy tòa hoàng trang đều đã đứng tên cô phải không? Sao ta không biết gì cả?

Thành Khởi Vận ngạc nhiên, hai mắt mở to, sau đó cười khúc khích, ngọt ngào đáp:

- Đại nhân việc công bận rộn quá đi, chút chuyện nhỏ này tự nhiên có ty chức cống hiến sức lực rồi. Ngài biết được cũng tốt, nếu không thì hôm nay ty chức cũng dự định báo cho ngài biết. Qua Tết nên sớm chuẩn bị đầy đủ, trâu cày này, các loại lương thực này, nông cụ này, còn có việc động viên tá điền nữa. Việc cần chuẩn bị cũng không ít đâu.

Dương Lăng nhíu mày bảo:

- Không phải ta hỏi việc này. Ta muốn hỏi cô làm thế nào mà có thể khiến cho những địa chủ kia chịu nhượng lại đất đai?

Thành Khởi Vận tỏ vẻ ngoan ngoãn, khóe môi anh đào lại giống như lấp ló ý cười. Nàng trộm liếc Dương Lăng, cười xinh xắn đáp:

- Đại nhân đoán không ra à? Hì hì, có Nội xưởng dùng làm chiêu bài chữ vàng ấy, ty chức.......

Dương Lăng nghe tới đây thì lòng trầm hẳn xuống, nhịn không được vỗ bàn, tức giận gắt:

- Quả nhiên không ngoài sở liệu của ta, cô...... Cô dùng Nội xưởng đe dọa cưỡng bức bọn họ. Cô định biến Nội xưởng thành ra như Cẩm y vệ và Đông xưởng hay sao?

Y tức giận đến xanh mặt, phất tay áo đứng lên nói:

- May mà bản quan biết sớm, bằng không sau vài ngày các Ngự Sử ngôn quan sẽ ào ào thượng tấu buộc tội bản quan. Bản quan chưởng quản hoàng trang chưa đầy một năm đã chiếm cứ hết sạch đất đai, tội danh này làm thế nào thoát khỏi? Lập tức mang ruộng đất trả hết cho ta. Đúng là việc tốt không đủ, việc xấu lại có thừa!

Thành Khởi Vận chết sững, hai tay trong tay áo run lên nhè nhẹ, ống tay áo đang cuộn cũng rũ xuống, cặp mắt long lanh chơm chớp, một làn hơi nước nhanh chóng trào lên. Nàng bước từng bước đến bên cạnh bàn, nhìn chăm chú Dương Lăng rất lâu rồi bỗng nhiên gật đầu lộ vẻ sầu thảm cười nói:

- Hay lắm! Thì ra đại nhân xem ta là loại người như vậy.

Nàng đưa một tay đang run lẩy bẩy nhón lên một xấp giấy từ trên bàn, chậm rãi đưa đến trước mặt Dương Lăng. Năm ngón tay nàng xòe rộng, xấp giấy rơi xuống một cách buồn bã.

Dương Lăng ngạc nhiên nhặt xấp giấy lên. Tờ nằm ở trên cùng rõ ràng là bản khế ước Cao viên ngoại bán ruộng đất, có chữ kí và dấu lăn tay của hai bên, lại có bảo trưởng, hương thân làm chứng. Văn tự ghi rõ Cao viên ngoại đem tám trăm ba mươi mẫu đất liệt kê bên dưới bán cho nàng lấy chín nghìn lượng, lập ngày mồng một tháng chạp năm Hoằng Trị thứ mười tám.

Giá cả thế này rất là hợp lý, với lại so với giá thị trường thì còn cao hơn một chút. Nhưng Dương Lăng cũng biết rằng cho dù giá cả cao gấp vài lần đi chăng nữa, trừ phi cuộc sống khó khăn không còn cách nào xoay xở chứ những hương thân địa chủ này cũng dứt khoát không bán điền sản. Y lật qua một tấm khác, vừa liếc qua không tránh khỏi sửng sốt. Tờ văn tự này cũng có đôi dấu tay như tấm trước, nhưng bản này lại là khế ước Thành Khởi Vận bán đất.

Bản khế ước này ghi rõ Thành Khởi Vận bán tám trăm ba chục mẫu đất cho Cao viên ngoại lấy bảy ngàn năm trăm lượng. Dương Lăng nhìn mà chẳng hiểu ra sao, mãi tới lúc nhìn thấy ngày ký giấy là ngày một tháng chạp Chính Đức nguyên niên, y mới chợt bừng hiểu.

Thì ra Thành Khởi Vận lấy lời to dẫn dụ bọn họ, ký cho mấy vị đại địa chủ này tấm "chi phiếu" nhận tiền ở tương lai. Những ruộng đồng này một năm thu lãi ròng nhiều nhất là một ngàn lượng, bây giờ không cần bận tâm chút nào mà cho dù hạn hán hay bão lụt đi chăng nữa họ vẫn có thể cầm được một ngàn năm trăm lượng bạc trắng. Có khế ước trong tay, sang năm lại có thể thu đất đai trở lại. Loại chuyện tốt như thế này chỉ có đồ ngốc mới không đồng ý.

Dương Lăng vội vàng đứng lên, nhìn thấy nàng đang bành miệng, uất ức giống như một đứa bé, trong lòng vừa áy náy, vừa hơi buồn cười. Y dừng chân một chốc, thở dài than:

- Cô...... Sao cô không sớm nói cho ta biết, cần gì phải giấu giấu giếm giếm.

Thành Khởi Vận ấm ức:

- Người ta nghĩ được biện pháp này, nhưng người ta cũng không biết bọn họ sẽ đồng ý hay không, làm sao mà có thể nói trước cho đại nhân biết chứ? Nếu như chính mình không làm địa chủ, những nông dân tá điền kia sẽ không an tâm canh tác. Chính người ta tự móc bạc ra làm việc cho đại nhân... Từ khi đến làm môn hạ của đại nhân, sức cũng vì đại nhân mà dốc, mạng cũng vì đại nhân mà bán. Tuy đã từng có lần lầm lỗi với đại nhân, nhưng làm sao đại nhân lại cho rằng người ta tệ hại như vậy?

Thành Khởi Vận càng nói càng thương tâm, hai hàng nước mắt trong vắt dọc theo gò má trơn bóng của nàng từng giọt rơi xuống. Từng giọt lách tách đập vào nửa trang giấy Tiết Đào, ngay lập tức thấm nhòe nét mực.

Dương Lăng chỉ cảm thấy toàn thân nóng bừng, áy náy nói:

- Này...... Này...... Phải phải phải, là ta sai rồi, ta nhận lỗi với cô. Ái chà, làm sao cô vừa gặp ta là khóc thế này!

Thành Khởi Vận nói tiếp:

- Còn không phải chính đại nhân hại người ta sao?

Nhưng lời này vừa ra miệng, cảm thấy ý nghĩa hơi mập mờ, má nàng không khỏi nóng lên.

Dương Lăng không dám nhìn bộ dạng đau lòng đáng thương của nàng, ánh mắt cụp xuống. Y nhìn thấy những chữ trên tấm giấy hoa tiên kia có phần quen mắt, nhịn không được kéo nó lại gần. Nước mắt đã làm ướt nhòe vài chữ, hai hàng bên trái còn thấy rõ, dòng chữ nhỏ nhắn xinh đẹp viết chính là "Thiếp tựa mù giăng, chàng tựa trăng. Trăng lặn mù tan đọng sương lan. Cảm lòng chàng..."

Dương Lăng chỉ vừa đọc đến đấy thì đã bị Thành Khởi Vận đoạt tấm giấy lại, mặt trái xoan đỏ bừng. Nàng sẵng giọng:

- Chưa thấy đại nhân nào lại như vậy, ai đời... Ai lại xem đồ của người ta một cách tùy tiện như thế!

Tuy nàng lớn như vậy nhưng vẫn là lần đầu động chân tình, lại bị Dương Lăng thấy được, nhất thời không kiềm được xấu hổ, vẻ mặt xinh đẹp đỏ như ráng chiều, còn muốn mạnh miệng nói bướng. Ngược lại Dương Lăng ước rằng chính mình chưa đọc được nó. Y đang xấu hổ không biết nói cái gì cho phải thì ngoài phòng có tiếng bước chân vang lên, giọng Hàn Ấu Nương vọng lớn:

- Tướng công! Thành cô nương!

Dương Lăng sợ nàng thấy Thành Khởi Vận rơi lệ, vội vàng quay lại bước ra ngoài đón. Y thấy Hàn Ấu Nương đang dẫn Cao Văn Tâm đi tới, vui vẻ nói:

- Tướng công, chàng đang ở đây à. Dương đại ca và Ngũ công tử muốn tỷ thí võ nghệ, Thành cô nương có muốn xem qua không?

Nàng đến gần kéo tay Dương Lăng, nhỏ giọng nói:

- Tướng công, võ công Ngũ công tử rất cao. Chàng nhận chức Tổng đốc Nội xưởng, thủ hạ đều là hảo hán sử thương múa bổng. Lát nữa chàng tìm cơ hội bái huynh ấy làm thầy học một chút đi, vừa có thể phòng thân lại có thể khỏe người.

Dương Lăng cười nói:

- Nàng thật là.... Có món tốt nào cũng đều muốn đắp vào người tướng công. Đa số người trong võ lâm đều giữ kín tay nghề, xem như châu báu. Đã mở miệng mà người ta không dạy chẳng phải là mất mặt sao?

Từ sau sau lưng y một âm thanh khẽ cười vang lên:

- Đại nhân, phải là Võ Đang ước gì có được người đệ tử như ngài mới đúng. Võ Đang chính là từ đường của hoàng gia Đại Minh, chưởng giáo chân nhân nhận chức lục phẩm tại triều đình. Trước nay luôn do ti Lễ Giám phụ trách việc quản lý, ước thúc tất cả công việc của Long Hổ Sơn ở Giang Tây, núi Võ Đang ở Hồ Bắc, am Ngọc Hoàng ở Sơn Đông. Nếu như ngài mở miệng, còn sợ chưởng giáo Võ Đang không liều mạng nịnh bợ sao?

Thành Khởi Vận nói xong khoan thai bước đến, thu lại tay chắp sau lưng dịu dàng thi lễ với Hàn Ấu Nương, chào hỏi:

- Ra mắt phu nhân! Mới vừa rồi ty chức cùng đại nhân thương nghị việc đổi mới cây trồng vào đầu xuân, làm trễ nải nhã hứng của mọi người rồi.

Dương Lăng đưa mắt nhìn.Vừa rồi hai mắt Thành Khởi Vận còn đẫm lệ mơ màng, nay mà chỉ trong giây lát hai má nàng lại trắng suốt không tỳ vết, rất mịn màng, hai mắt trong vắt như suối nước mùa thu. Dáng cười trong trẻo của nàng nào còn mang một chút dấu vết gì là đã khóc. Công phu trấn tĩnh của nàng cũng khiến cho Dương Lăng hoài nghi không biết mới vừa rồi mình có hoa mắt nhìn lầm hay không.

Bốn người trở lại trong viện. Dương Hổ, Ngũ Hán Siêu, Hồng nương tử Thôi Oanh Nhi và Ngọc nhi, Tuyết nhi cùng với người nhà đều đang đợi trong viện. Cả đoàn người cùng kéo vào sân sau xem hai người tỷ thí võ nghệ.

Dương Lăng mong thấy được cảnh phóng qua, vọt lại phi phàm như trong phim ảnh, không ngờ khi thật sự giao thủ lại cực kì nhàm chán. Động tác ra chiêu công thủ căn bản không có gì đẹp đẽ, hai người càng rất ít khi nhảy vọt khỏi mặt đất. Dương Hổ dáng người cao lớn, ngoại gia công phu xuất thần nhập hóa, quyền cước uy vũ phát tiếng gió vùn vụt, Dương Lăng đứng ngoài nhìn thấy còn có chút hào hứng. Thế nhưng Ngũ Hán Siêu lại cứ như cọng bún, ẹo qua ẻo lại, Dương Lăng nhìn một lát thì chán, không thấy hứng thú tí nào.

Hàn Ấu Nương và Thôi Oanh Nhi thì lại nhìn chăm chú, không hề chớp mắt. Hàn Ấu Nương nhìn chằm chằm từng động tác quyền cước của Dương Hổ, môi mấp máy ra vẻ nóng lòng muốn thử. Thôi Oanh Nhi cũng luyện quyền cước nội gia, nên đặc biệt để ý từng chiêu từng thức do môn nhân của Võ Đang - Thái Sơn Bắc Đẩu về công phu nội gia, xuất ra.

Trên sân khí thế chiến đấu ngất trời mà Dương Lăng hết ngó đông lại nhìn tây. Y thấy từ bên trong hầm sưởi phương xa có người chui lên, vội rời khỏi đoàn người hai bước, vẫy vẫy tay gọi người kia lại.

Ông già nọ là lão nông dân bản địa được thuê để coi sóc và học trồng trọt, thu hoạch cây khoai tây, cây ngô... Lão đang cầm một sọt phân khô định mang đi ủ trở về. Nhìn thấy Dương Lăng gọi, lão vội đặt giỏ xuống, hấp tấp chạy tới.

Dương Lăng cười hỏi:

- Lão Lưu, hai ngày này bận rộn, ta không thu xếp được để vào hầm nhìn qua. Những cây giống nuôi trồng thế nào rồi? Đừng để chúng bị sâu bệnh nhé.

Lão Lưu ha ha cười nói:

- Lão gia yên tâm. Chúng tôi đều hết sức cẩn thận chăm sóc những mầm cây này như là chăm nom tiểu bảo bối trong nhà. Những cây ớt ngoại bang đã đỏ rồi, theo như lời lão gia dặn dò, chúng tôi đã dời chúng đến chỗ có thể thấy ánh nắng mặt trời. Ngoài ra, những cây cà chua cũng đã nở hoa rồi.

Dương Lăng nghe xong mừng rỡ ra mặt, lúc này phía sau lưng y vọng đến hai tiếng trầm trồ khen ngợi trong trẻo. Dương Lăng quay đầu nhìn lại, thấy Dương Hổ hơi đỏ mặt vì thẹn đang chắp tay nói gì đó với Ngũ Hán Siêu, sau đó hai người cầm tay nhau trở lại. Xem ra Dương Hổ đã thua rồi.

Lúc này Hàn Ấu Nương mới phát hiện tướng công đã tránh sang một bên cùng lão nông nói chuyện phiếm. Nàng bước đến vừa bực mình vừa buồn cười nói:

- Tướng công luôn miệng nói muốn tìm một danh sư học tập võ nghệ. Nay Dương đại ca và Ngũ công tử đều à cao thủ đệ nhất đẳng, hai người xuất sắc như vậy tỷ thí, chàng lại chạy sang cho khác.

Rõ là Hàn Ấu Nương cố ý nói cho Ngũ Hán Siêu nghe. Dương Lăng cười đáp:

- Đáng tiếc ta là một tay ngang, nhìn mãi một hồi lâu cũng nhìn không ra được chút xíu gì, cho nên mới bỏ chạy đi chăm sóc hoa mầu của mình đấy. Ha ha ha......

Hồng Nương Tử ngạc nhiên hỏi:

- Hoa mầu? Hoa mầu ở đâu hả đại nhân...... Người có thân phận như vậy còn bận tâm đến một ít thu hoạch hay sao?

Hàn Ấu Nương giải thích:

- Dương phu nhân! Tướng công ta tìm được mấy loại hoa mầu được đưa từ Tây Dương về. Mấy cây khoai tây, khoai lang có sản lượng gấp vài lần hoa mầu đang được trồng. Còn có một loại cây ngô, sinh sản rất nhanh, chống chịu được hạn hán, đất đai cằn cỗi. Tướng công nói muốn đẩy mạnh việc gieo trồng rộng rãi, đến lúc đó thiên hạ sẽ không còn nhiều dân chúng chết đói nữa.

Nói xong, nàng ái mộ nhìn Dương Lăng. Thôi Oanh Nhi cùng Dương Hổ ngạc nhiên nhìn nhau. Dương Hổ bị quan phủ ức hiếp bóc lột, cuộc sống khó khăn mới phẫn nộ mà gia nhập lục lâm. Thôi Oanh Nhi là do ông nội chịu đủ đau khổ do sưu cao thuế nặng nên mang cả nhà dời vào rừng sâu, chiếm núi làm vua, trở thành lục lâm đại đạo.

Có thể nói hai người hoàn toàn không có một chút thiện cảm gì với đám người làm quan. Dương Lăng là quan lớn dường nào? Nếu như bảo y muốn mua danh chuộc tiếng thì y chỉ cần cứu tế nạn dân một tí, xử lý vài tên tiểu lại tham ô thì hiệu quả vừa trực tiếp lại rõ ràng, việc gì y phải dùng tới biện pháp tốn sức như thế? Dương Lăng cười cười nói:

- Mấy ngày nay bận rộn việc chiến sự nơi biên ải, mãi không thể đi xem qua những thứ cây trồng này, trong lòng Dương mỗ thật là có chút nhớ mong. Nếu như thuận lợi, sang năm loại cao sản hoa mầu này có thể được quảng canh khắp Đại Minh. Ba vị có muốn đi nhìn thử một chút hay không? Ha ha, xin mời!

Dương Lăng đưa cả bọn đến hầm sưởi, đem đủ loại cây giống ra mỗi thứ đều giới thiệu cho bọn họ. Y cùng vị lão nông trở về từ Nam Dương kia kẻ tung người hứng giảng giải kỹ càng cho bọn họ đặc điểm của từng loại hoa mầu này.

Dương Lăng biết vào thời kỳ này hoa mầu rất dễ hỏng: hạn hán, lũ lụt, sâu bệnh... mọi thứ đều ảnh hưởng lớn đến thu hoạch. Nếu như mưa thuận gió hoà vất vả lắm một năm một mẫu sản xuất được ba bốn trăm cân lương thực thì đã được xem là ruộng hạng nhất rồi.

Mà cây khoai lang, khoai tây từ nam chí Bắc đều thích hợp, mỗi mẫu thu được ít nhất hai ngàn cân; thậm chí các tỉnh phía nam có thể trồng một năm ba vụ. Cây ngô không cần trồng trong ruộng tốt, sản lượng cũng hơn xa loại cây trồng hiện nay. Nghĩ đến những loại hoa mầu này tương lai có thể cứu sống được vô số nạn dân, Dương Lăng vuốt ve những cây giống tươi tốt kia, trong lòng cũng tràn đầy cảm giác thành tựu.

Thôi Oanh Nhi nghe Dương Lăng từ tốn mô tả cảnh tượng thu hoạch tốt đẹp kia, cặp mắt sáng ngời lặng lẽ nhìn chăm chú vào y, trong lòng tràn ngập tò mò: viên quan này và các quan chức trong ấn tượng của nàng khác nhau rất lớn. Y chịu vì dân chúng mà suy nghĩ, mọi kẻ đọc sách khác đều xem việc canh tác là việc thấp hèn nhưng dường như y lại vô cùng thích thú việc đồng áng.

Đủ loại tin đồn có liên quan đến Dương Lăng đan chéo lẫn nhau trong đầu Thôi Oanh Nhi. Y là sủng thần cao quý của thiên tử, là đốc chủ Nội xưởng máu lạnh ham thích giết chóc, chỉ trong một đêm đã diệt sạch Đông xưởng, là thư sinh yêu vợ nặng tình trọng nghĩa dám kháng thánh chỉ, là tướng quân oai phong lẫm liệt đánh đại bại giặc Oa. Quả thực tất cả những điều trên không thể nào liên hệ đến vị công tử không hề có quan uy đang mặt mày hớn hở kể chuyện hoa mầu trước mặt này.

Nàng nhìn hàng dãy các loại cây trồng chưa bao giờ thấy qua, nghĩ thầm:

- Người này thật sự có năng lực cứu thiên hạ dân chúng sao? Những hoa mầu kỳ quái này có thể cứu được rất nhiều dân chúng khỏi đói khát bần cùng trong những năm lũ lụt sao?

Tuy nàng chưa từng đọc sách nhưng từ nhỏ đã trưởng thành ở bên trong ổ cường đạo, nên rất thấu hiểu lòng người. Nàng nhìn ra được những điều Dương Lăng nói chính là thật sự là cảm giác chân thật của y, nhưng nàng lại rất hoài nghi tác dụng của những loại hoa mầu này.

Trong thiên hạ người giàu có thì bất nhân, người làm quan thì không trong sạch. Cho dù khắp nơi đều thu hoạch lương thực dồi dào đi chăng nữa, không phải cũng rơi vào tay những tên tham quan ô lại kia hay sao? Những người dân quê kia áo cơm không có, đã bị quan phủ bắt buộc nuôi dưỡng ngựa công lại bị làm khó dễ nhiều đường. Bao nhiêu dân chúng cửa nát nhà tan, y có thể cứu hết những người cùng khổ như vậy hay sao?

Tuy nhiên... Thôi Oanh Nhi liếc mắt nhìn Dương Lăng, mỉm cười, thầm nghĩ:

- Vị Dương công tử này là một người tốt, là một vị quan tốt. Đợi đến khi chúng ta giết được tên cẩu hoàng đế, khởi binh đoạt được thiên hạ, chúng ta có thể cho y làm một chức quan to.

Dương Hổ ở bên lại thầm kinh hãi. Hắn bây giờ đã tích góp được một số tài lực, nhân lực tương đối rồi, chỉ còn đợi thời cơ vừa đến thì lập tức khởi binh tạo phản, cướp lấy thiên hạ. Hắn tin tưởng vững chắc rằng chỉ cần hắn đăng đàn hô hào, chắc chắn những dân chúng áo cơm không có, phải chịu đủ ức hiếp trăm bề sẽ vùng lên hưởng ứng rầm rộ. Ít nhất ở vùng quê hương Bá Châu hắn đã có thể lôi kéo được trên vạn người.

Nhưng hắn vốn là một viên hiệu úy nhỏ nhoi trong quân đội, cũng do đồn điền bị quan tướng chiếm đoạt, cuộc sống quả thực không chịu xiết mới bỏ đi làm lục lâm thảo khấu. Hắn biết rõ những dân chúng kia nếu có được một con đường thoát chết, có thể ăn cơm no bụng thì sẽ rất khó lôi kéo. Bọn họ sẽ không đi theo mình giành lấy chính quyền nữa.

Thật ra, lúc đầu nỗi căm hận của Dương Hổ đối với triều đình Đại Minh đơn giản hơn rất nhiều. Hắn muốn lật đổ Đại Minh, xây dựng lại một chế độ quan phủ thanh liêm yêu dân. Nhưng khi thế lực ngầm của hắn càng lúc càng lớn thì dã tâm và tham lam cá nhân của hắn cũng dần dần bành trướng theo. Bây giờ hắn muốn tạo phản, đa phần chính là để bản thân làm hoàng đế, ngồi ôm thiên hạ. Cái ý nghĩ tham lam này đã dần dần thay thế nguyện vọng muốn tìm một đường sống cho dân chúng thiên hạ khi trước.

- Không thể để cho y thành công!

Trong lòng Dương Hổ chợt nảy sát khí, ánh mắt sắc bén chĩa vào người Dương Lăng. Hắn thầm nghĩ:

- Tên cẩu quan này, nhất định phải chết!"

Chú thích:

Tiết Đào đời Đường là một danh kỹ đất Thục, hay làm những bài thơ ngắn, vì tiếc giấy nên cắt hẹp lại. Từ đấy, những tài tử trong Thục lấy thế làm tiện, cũng cắt những tờ giấy nhỏ để viết thư, gọi là giấy Tiết Đào.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 172: Bày trận đón địch

Dương Lăng đang hào hứng chỉ vào cây cà chua non xanh mơn mởn, miêu tả màu sắc và mùi vị quả chín của nó một cách sống động, khiến cho Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân thèm đến rỏ dãi, đám người Hàn Ấu Nương và Thôi Oanh Nhi cũng lắng nghe hết sức say sưa.

Dù Thành Khởi Vận đang thong dong mân mê mấy dây khoai lang giống nhưng nụ cười ác độc thoáng nhếch trên khóe môi và sát ý lóe lên trong mắt Dương Hổ không qua được mắt nàng. Nàng khéo léo đến sát người Dương Lăng và cười nói:

- Đại nhân, phu nhân đang mang thai, nơi này lại nóng bức, hay là chúng ta trở về nhé?

Dương Lăng nói:

- À, nhất thời nói hăng quá nên ta quên mất. Ha ha, đi thôi, chúng ta lên trên.

Y vừa ân cần dìu Ấu Nương đi vừa quay ra ngoài nói:

- Dương huynh và phu nhân là thủ lĩnh đoàn ngựa thồ, đi khắp đó đây, nhất định sẽ còn có cơ hội trở lại kinh thành. Đợi đến mùa thu năm sau, khi hai vị trở lại kinh sư sẽ có thể thấy một núi khoai lang, khoai tây và cả bông bắp ánh vàng rực rỡ nữa. Rồi đến năm tới, những thứ này sẽ có thể được trồng trọt khắp Đại Minh.

Bá tánh thật khổ, nhưng thiên hạ Đại Minh rộng lớn như thế này, mấy ngàn vạn lê dân bá tánh mong ước có được cơm no áo ấm, dẫu bất cứ kẻ nào cũng không thể làm được trong một sớm một chiều. Những giống cây trồng này có sản lượng gấp mấy lần so với các loại hoa màu hiện nay, chúng sẽ có thể cứu đói cho rất nhiều bá tánh.

Y nhớ đến việc Nội xưởng lợi dụng các cửa hàng ngựa xe gây dựng thanh thế khắp thiên hạ, phát tán tin tức nói rằng triều đình có ý định giải trừ cấm biển, cho phép bá tánh thông thương với bên ngoài; thấy vợ chồng Dương Phúc có năng lực mua gạo cứu tế, thế lực đoàn ngựa thồ của hắn nhất định không nhỏ, cũng là kẻ đáng để lung lạc, bèn nói:

- Hình như đoàn ngựa thồ của Dương huynh chuyên môn giúp đỡ các thương nhân lớn vận chuyển hàng hóa muối gạo có phải không? Hiện tại có ít đại thần đang chuẩn bị kiến nghị với triều đình giải trừ cẩm biến, dẹp yên lãnh hải, đến lúc đó thông thương với hải ngoại, hàng hóa vận chuyển khắp đất Đại Minh, nước nhà nhất định sẽ càng thêm phồn thịnh, việc làm ăn của Dương huynh cũng sẽ có thể thu về vô số tiền tài.

Dương Hổ nghe vậy, sát ý trong lòng càng nặng thêm, nhưng hắn cũng không ngu ngốc mà động thủ vào lúc này. Một mặt hắn ậm ừ cười đáp, mặt khác len lén quan sát cảnh vật nơi hầm sưởi này. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh nói:

- Hóa ra chuyện này không phải là nói đùa. Kẻ hèn sau khi hạ sơn đã không ngừng nghe được tin tức loan truyền khắp nơi, xem ra Đại Minh cấm biển hơn trăm năm, cuối cùng cũng sắp mở cửa lãnh hải rồi.

Bọn họ bước lên bậc tam cấp, Ngũ Hán Siêu lại nói:

- Đại nhân thân ở trong triều, tin tức đương nhiên linh thông hơn xa chúng tôi. Có điều nghe khẩu khí của ngài, thì những đại nhân có lòng dâng tấu khuyên giải triều đình mở lại lãnh hải đều muốn mở bến thông thương khắp nơi ngay sau khi cấm biển được giải trừ ư?

Dương Lăng thấy lạ bèn hỏi lại y:

- Nếu như số kẻ phản đối không đông, đương nhiên sẽ làm luôn một thể. Như vậy không tốt sao? Ngũ huynh có cao kiến gì chăng?

Ngũ Hán Siêu thoáng nghĩ ngợi rồi đáp:

- Kẻ hèn ngu dốt, chỉ biết rằng dục tốc thì bất đạt. Nay cướp biển vẫn còn lộng hành, muốn gỡ bỏ lệnh cấm biển, trước phải diệt trừ hải tặc. Thế nhưng cho dù chỉ là đám sơn tặc chiếm núi xưng vua, muốn quét sạch ổ bọn chúng cũng không phải là chuyện một sớm một chiều, huống chi là trên biển rộng mênh mông? Hơn nữa, thủy quân Đại Minh cũng không giỏi hải chiến, cần phải huấn luyện ra một đơn vị tinh binh mới được, mà chuyện đó lại không thể trù trừ.

Huống hồ Đại Minh ngày nay chỉ có một bến cảng dùng để tiếp đãi sứ thần triều cống của các nước. Nếu như toàn bộ duyên hải được mở cửa trong một đêm, nơi nơi vội vã thiết lập Bạc ty, không có quan giỏi hiểu việc trị biển trông coi, không có sẵn điều lệ quy tắc, đám thân hào sĩ tộc hám lợi các nơi nhất định sẽ nhúng tay vào ùn ùn. Lúc đó đạo đức quan lại sẽ càng thêm suy đồi, bá tánh chịu khổ, thương nhân nước ngoài bỏ chạy. Quốc sách có hay cách mấy cũng sẽ thành luật lệ tàn khốc hại dân mà thôi.

Kẻ hèn cho rằng, trị quốc như nấu món ngon, tuy đó là chuyện lợi cho dân nhưng nếu mà thổi lửa to quá, món ngon mấy cũng sẽ bị cháy khét. Chi bằng tạm thời mở vài ba bến cảng trước, như vậy triều đình cũng dễ giám thị hơn, đồng thời xóa sạch được đám giặc cướp trên biển.

Đợi đến khi cướp biển không còn có thể gây nhiều nguy hại nữa, triều đình cũng đã có kinh nghiệm thông thương bến biển, lại có ty thuế bản địa và bá tánh thu hoạch lợi ích làm bằng chứng, các nơi nhất định sẽ hưởng ứng hết mình, khi ấy sẽ có thể thừa thế xông lên, giải cấm toàn diện.

Nói xong, thấy Dương Lăng dừng bước nhìn mình đến thất thần, hắn bất giác cũng đứng lại, ngượng ngập nói:

- Ý kiến... ý kiến của kẻ hèn thật ngu xuẩn, vì trong lòng có điều băn khoăn nên đành bày tỏ. Lời nói có phần ấu trĩ, đã khiến đại nhân chê cười rồi.

Dương Lăng mừng rỡ lắc đầu nói:

- Không phải đâu, không phải đâu. Ngũ huynh du lịch thiên hạ, đi vạn dặm đường hơn đọc vạn quyển sách, lời của huynh thật là cao kiến, khiến Dương mỗ bội phục không thôi. Lệnh tôn đại nhân là quan triều đình, Ngũ huynh là kẻ văn võ toàn tài, chắc có lẽ cũng chẳng mong chôn vùi trong chốn dân gian đúng không? Không biết huynh có nguyện ý ở lại kinh sư vì triều đình mà ra sức?

Ngũ Hán Siêu vừa nghe thì mừng ra mặt, liền vội đáp ngay:

- Kẻ hèn du lịch thiên hạ cũng vì muốn tăng thêm lịch duyệt, để có một ngày báo ân triều đình, kiến công lập nghiệp. Ví bằng đại nhân cảm thấy kẻ hèn có thể kham công gánh việc, Hán Siêu xin tự nguyện theo sau.

Phải biết rằng triều Minh trọng văn không trọng võ, mãi đến năm Thiên Thuận thứ tám mới ban bố "Võ cử pháp", thế nhưng năm đó lại chẳng có một ai báo danh tham gia kỳ thi Võ cử nhân. Năm Thành Hóa thứ tư, kỳ thi Võ cử nhân được tổ chức lần hai, song cũng chỉ tuyển chọn được có hai người.

Hoàng đế Hoằng Trị giỏi về trị văn, mà lại xem nhẹ võ công. Bởi thấy võ bị xao nhãng nên vào năm Hoằng Trị thứ mười bảy, Võ cử được tổ chức theo lối bát cổ, được quy định chính thức ba năm một lần. Tuy nhiên năm Hoằng Trị thứ mười bảy tuyển được bốn mươi võ tiến sĩ, thì chỉ có một người tên Hứa Thái trong khoảng thời gian hai năm ngắn ngủi thăng lên được đến Tham tướng, còn lại đa số đều không được trọng dụng.

Năm tới là Chính Đức nguyên niên, Ngũ Hán Siêu vốn định kiếm một chức quan thông qua đại hội Võ cử. Song nếu Dương Lăng đã chịu tán thưởng trọng dụng hắn, vậy hiển nhiên đó là một con đường tắt. Dương Lăng thấy hắn đồng ý, trong lòng cũng cao hứng vô cùng. Đoàn người rời khỏi hầm sưởi; Dương Hổ âm thầm ghi nhớ địa hình lạc viện ở Dương phủ, sau đó cảm tạ Dương Lăng rồi cáo từ.

Sau khi Dương Lăng và vợ tiễn vợ chồng Dương Hổ ra khỏi cửa, y đang định kéo Ngũ Hán Siêu đến thư phòng trò chuyện thêm, chợt thấy Thành Khơi Vận đang đứng sau lưng mọi người nháy mắt ra hiệu với y, miệng hơi nhếch nhếch. Dương Lăng thoáng ngẩn ra, rồi thản nhiên mỉm cười nói với Ngũ Hán Siêu:

- Ngũ huynh hãy đi nghỉ ngơi cho khỏe. Dương mỗ đã hẹn với mấy vị đồng liêu Nội xưởng ngày mai ghé phủ dự yến tiệc, đến lúc đó sẽ mời Ngũ huynh tham dự để giới thiệu với bọn họ.

Ngũ Hán Siêu tuy chưa chính thức đạp chân vào quan trường, sau cuộc đối đáp khi nãy thì đã coi như là người trong triều được một nửa rồi, bèn liền vội chắp tay đáp:

- Dạ, tại hạ tất thảy xin nghe theo đại nhân sắp đặt.

Dương Lăng đi cùng đám nữ quyến đến hậu trạch, Thành Khởi Vận khẽ nhún eo thon, thu người vái một vái, nói cùng Dương Lăng và Hàn Ấu Nương mấy câu, rồi ung dung đi đến bên cạnh phòng khách. Lúc vén mành bước vào phòng, nàng liếc mắt về phía sau một cái thật nhanh, rồi mới uyển chuyển dịu dàng rời đi.

Dương Lăng cũng đứng thẳng người lại nói:

- Thành đáng đầu đã mua được tất cả đất đai thôn trang chung quanh. Giờ cơm vẫn chưa đến, để ta đi thương nghị cùng cô ấy một chút về các hạng mục chuẩn bị cho đất nông canh.

Y nhìn sang Cao Văn Tâm cười bảo:

- Văn Tâm đừng về vội, tối nay ở lại đây dùng bữa đi.

Đoạn quay sang dặn tiểu nha đầu Vân Nhi:

- Đi đi, thông báo cho Văn Lan một tiếng.

Đừng nói Cao- Hàn hai người kết nghĩa kim lan, tình như tỷ muội, chỉ việc Cao Văn Tâm đã chữa khỏi chứng bệnh cho Dương Lăng, giúp nàng mang cốt nhục tướng công, đã đủ để Hàn Ấu Nương khắc sâu trong lòng. Nàng không dám lạnh nhạt với Cao Văn Tâm, vội kéo tay nàng cười bảo:

- Tướng công đi làm công việc của mình đi, thiếp và tỷ tỷ về phòng trò chuyện.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, cất bước đi vào trong phòng của Thành Khởi Vận. Vừa tiến vào thư phòng y liền vái một cái thật sâu, nói:

- Tại hạ hiểu lầm cô nương, là cái sai của tại hạ, xin được nhận lỗi với cô nương. Đại nhân không chấp kẻ tiểu nhân, cô nương đừng để chuyện đó ở trong lòng.

Thành Khởi Vận thấy y làm ra vẻ tội nghiệp đáng thương, nhịn không được phì cười. Tuy khi nãy vẫn còn chút oán giận trong lòng, song lúc này cũng đã tan thành mây khói. Nàng nguýt Dương Lăng một cái và nói:

- Đại nhân ăn nói nhũn nhặn như thế, tiểu nữ nào dám ghi nhớ lỗi của đại nhân vào trong lòng?

Dương Lăng thuận thế đứng thẳng dậy, cố ý thở ra một hơi dài nói:

- Vậy tôi yên tâm rồi. Tôi còn tưởng rằng cô nương kêu tôi lại là để hưng binh hỏi tội ấy chứ.

Thành Khởi Vận hờn mát mà vui mừng "hứ" một tiếng, ngay sau đó sắc mặt liền trở nên nghiêm trọng, khẽ giọng nói:

- Đại nhân có biết rõ nội tình của vợ chồng Dương Phúc không?

Dương Lăng nghe thấy trong lời nói nàng có ẩn ý khác, không khỏi nghi hoặc bèn hỏi:

- Đôi vợ chồng này võ nghệ rất cao, Liễu thiên hộ cũng từng nảy lòng nghi ngời thân phận vị Dương phu nhân đó. Chẳng lẽ Thành cô nương cũng hoài nghi bọn họ không phải là chủ đoàn ngựa thồ hay sao?

Thành Khởi Vận lắc đầu nhè nhẹ nói:

- Phải, bọn họ đúng là đoàn ngựa thồ. Trên thiên hạ thì ở Cam Thiểm có nhiều đoàn ngựa thồ nhất, nhưng đoàn ngựa thồ lớn nhất ở phương bắc lại chính là bọn họ.

Dương Lăng thở phào một hơi, cười nói:

- Vậy thì đúng rồi. Đoàn ngựa thồ hành tẩu giang hồ, áp tải vận chuyển hàng hóa giúp người ta, vừa kiêm cửa hàng ngựa xe vừa làm tiêu cục, một thân hai phận, đương nhiên phải có một thân võ nghệ cao cường rồi.

Thành Khởi Vận vẫn ung dung ngồi xuống, mỉm cười nói:

- Đúng thế thật, cho nên ở điểm này không có vấn đề gì. Nếu như ngay lúc này đại nhân phái ngươi đi điều tra vật tùy thân, hộ tịch, giấy giới thiệu của bọn họ, sẽ không thấy có vấn đề gì, có điều ti chức vừa khéo biết được một thân phận khác của bọn họ.

Ánh mắt Dương Lăng trở nên chăm chú, y cũng ngồi xuống phía đối diện, rồi hỏi:

- Thân phận gì?

Thành Khởi Vận nhả ra từng chữ:

- Đạo, tặc, Giang, Dương!

Dương Lăng nhìn nàng, lầm bầm hỏi:

- Lạ thật! Hình như thiên hạ không có chuyện gì là cô không biết, ngay cả người của quan phủ cũng không biết thân phận bọn họ, thế sao cô lại biết?

Thành Khởi Vận thích thú quan sát vẻ mặt của y, nhưng không dám nói ra chân tướng ngọn ngành tin tức mà mình biết được. Cái tên này cái gì cũng tốt, chỉ có điều lòng dạ hẹp hòi, nếu để y biết được mình giấu giếm y, sau này há sẽ càng khiến y không tin mình ư?

Thành Khởi Vận nhoẻn miệng cười duyên dáng:

- Hắc bạch lưỡng đạo thế như nước với lửa. Cái thiên hạ này vốn là một nhóm người sống chỗ sáng, một nhóm người sống trong bóng tối, đại nhân thân ở cao nơi miếu đường, đương nhiên không biết mấy chuyện tam giáo cửu lưu này rồi.

Ti chức cũng không nhận ra bộ dáng bọn họ, có điều ti chức biết có một đôi vợ chồng, hai người ngoài sáng thì làm nghề thồ ngựa, trong tối thì là đạo tặc lục lâm. Hơn nữa bọn họ đang bôn ba liên lạc khắp nơi, ý đồ mưu phản, người chồng họ Dương, người vợ họ Thôi, một thân võ nghệ trùm thiên hạ, tuổi tác cũng tương đương với bọn họ. Nếu đổi lại là đại nhân, thì sẽ có còn coi bọn họ là bá tánh lương dân không?

Ánh mắt Dương Lăng lóe lên, nhìn chằm chằm vào Thành Khởi Vận thật lâu, không nói tiếng nào. Thành Khởi Vận lại nói:

- Khi nãy lúc đại nhân khoe khoang những vật trồng ở trong hầm sưởi, ti chức thấy mặt của vị Dương Phúc nọ nhìn đại nhân đã lộ sát khí. Ti chức tự tin vào nhãn lực của mình, quyết sẽ không nhìn lầm.

Dương Lăng trầm ngâm rồi nói:

- Bản quan gặp Dương phu nhân đơn thuần là ngẫu nhiên, chú cháu Dương Tuyền đến kinh sư tìm ta cũng là do nảy ý trong nhất thời. Dương Phúc nhất định chẳng thể chuẩn bị trước việc mượn bọn họ để tiếp cận ta. Đạo tặc Giang Dương ý đồ mưu phản thì hẳn nên cách xa triều đình một chút. Nếu như cô suy đoán không sai, vậy vợ chồng bọn họ đến kinh sư là để làm gì?

Thành Khởi Vận nguýt y một cái rồi nói:

- Ti chức không phải là thần tiên hạ phàm, sao mà biết được chứ? Ti chức nghĩ bọn họ cũng sẽ không điên đến nỗi cho rằng vào kinh giết hoàng thượng thì sẽ có thể cướp được thiên hạ. Huống hồ cho dù võ công hắn có cao cỡ nào đi nữa cũng làm sao có thể xông vào Tử Cấm Thành? Bọn họ đến kinh thành làm gì thì ti chức đoán không ra, bất quá chuyện lúc ở dưới hầm sưởi tên Dương Phúc đó đột nhiên nổi sát ý với đại nhân thì tuyệt đối không sai.

Đoạn nàng chau cặp mày quyến rũ, tay cầm cây bút lông xoay xoay, miệng khẽ lẩm bẩm:

- Nếu như ti chức là đạo tặc Dương Hổ, có cơ hội kết thân với đại nhân thì nhất định sẽ dụng tâm mà vin lấy. Đại nhân là quan lớn triều đình, từ chỗ đại nhân sẽ có thể biết thêm được nhiều chuyện đại sự trong triều, nhất định sẽ rất có ích cho đại nghiệp của ti chức.

Nàng đặt cây bút lông xuống, đứng dậy chắp tay sau lưng thong thả bước đi trong phòng, nghiêm túc nhập mình vào vai Dương Hổ đang có ý đồ tạo phản, vắt óc suy nghĩ nói:

- Nhưng ta vốn có dịp kết giao với đại nhân mới được vào Dương phủ, lẽ gì đột nhiên lại nổi sát ý? Đại nhân lại không trêu ghẹo gì nương tử của ta...

Dương Lăng nghe thấy câu sau thì không khỏi vừa bực mình vừa buồn cười. Y đang tính tiếp lời, ánh mắt Thành Khởi Vận bỗng nhiên lóe lên, vỗ tay reo lớn:

- Ti chức nghĩ ra rồi, ti chức đã nghĩ ra rồi. Nếu là ti chức, ti chức cũng sẽ muốn giết đại nhân!

Dương Lăng giật nảy mình, vội hỏi:

- Giết ta? Lý do gì?

Mắt Thành Khởi Vận sáng rỡ, hưng phấn nhìn y nói:

- Những hoa màu đó! Đại nhân từng nói một khi cho trồng chúng rộng rãi, sẽ có thể giúp cho rất nhiều bá tánh tránh khỏi khốn khó cơ hàn!

Rồi nàng nhìn y cười 'nham hiểm' nói tiếp:

- Muốn đoạt thiên hạ trước hết phải chiếm được lòng dân. Nếu bá tánh có thể cơm no đầy bụng thì ai còn chịu theo ti chức tạo phản nữa? Nếu đổi lại là ti chức, thì không những chỉ phải giết đại nhân mà còn phải hủy hết những hoa màu đó để diệt trừ hậu họa!

Nàng nói đến đây, ánh mắt liền chạm với ánh mắt Dương Lăng, hai người đều bất động. Một lát sau Thành Khởi Vận mới từ trong hưng phấn hồi tỉnh lại, khuôn mặt thoáng đỏ lên, lúng túng nói:

- Ti chức... ý ti chức là Dương Hổ muốn giết đại nhân, chứ không phải ti chức có ý giết đại nhân.

Dương Lăng chậm rãi đứng dậy, thở ra một hơi dài, rồi liền xoay người bước ra bên ngoài. Thành Khởi Vận hoảng hốt kêu lên:

- Đại nhân... muốn đi đâu vậy?

Dương Lăng dừng bước, nói:

- Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất. Khi nãy ta đã nói với bọn họ rằng qua Tết sẽ kêu người mang giống lương thực mau chóng trồng ở khắp nơi. Nếu như bọn họ thực sự là cặp đôi đạo tặc như cô nói, muốn ra tay thì sẽ là trong mấy ngày này. Ta đi kêu người lên núi triệu Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh xuống, cô hãy ở đây đợi ta.

***

Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi thả lỏng dây cương để mặc ngựa song hành, mỗi người ôm một bầu tâm sự riêng. Khi rời khỏi thôn sắp rẽ ra quan lộ, Thôi Oanh Nhi chợt gọi Dương Hổ:

- Hổ ca...

Ánh mắt Dương Hổ đăm đăm, không biết đang nghĩ gì trong lòng, nhất thời không hề phản ứng, Thôi Oanh Nhi thoáng giật cổ tay, roi ngựa vút lên không trung kêu "chát" một tiếng, gọi lớn:

- Dương Hổ!

Dương Hổ sửng sốt, quay đầu lại hỏi:

- Hử? Ồ... có chuyện gì?

Thôi Oanh Nhi thúc bụng ngựa, cưỡi nhanh lại gần, nói:

- Huynh định... Nếu quả thật đúng như vị Dương đại nhân đó nói, có thể khiến cho bá tánh được ăn no, lại trừng trị những quan lại phạm pháp, mở biển thông thương, thật sự có thể phú quốc cường dân ư?

Dương Hổ cười gằn đáp:

- Muội còn chưa nếm đủ đau khổ do bọn quan viên Đại Minh gây ra sao? Tại sao cha nàng phải chiếm núi xưng vương? Còn không phải vì bị triều đình ép buộc ư? Bọn chúng mà chịu làm việc tốt cho bá tánh, trừ khi là mặt trời mọc đằng tây. Muốn cho bá tánh sống được cuộc sống tốt đẹp, thì phải lật đổ cái triều đình này, gây dựng lại thiên hạ!

Thôi Oanh Nhi nhíu mày khẽ thở dài nói:

- Muội đột nhiên cảm thấy chúng ta hình như đã nghĩ quá đơn giản. Cho dù để huynh ngồi lên bệ rồng, bá tánh liền nhất định sẽ có cơm ăn áo mặc sao? Huynh thử ngẫm lại lời bọn họ nói khi nãy, triều đình muốn giải cấm thông thương, rõ ràng là chuyện tốt, vậy mà cũng không thể gấp rút làm ngay. Bọn họ là những kẻ đọc sách, nói vậy nhất định là có cái lý của bọn họ. Muội và huynh chém chém giết giết thì còn được, liệu cai trị thiên hạ có thực sự là đơn giản như thế không?

Dương Hổ đáp hết sức hùng hồn:

- Có gì mà khó chứ? Đoạt được thiên hạ, đương nhiên sẽ có kẻ đọc sách đến qui thuận chúng ta. Chẳng phải Chu Nguyên Chương chỉ là một tiểu sa di, một kẻ chăn trâu mà cũng đã cai trị thiên hạ hay sao? Ha ha, hãy cứ đợi đi, vi phu cũng đã chuẩn bị sắp xong rồi, chỉ chờ thời cơ đến liền sẽ phất cờ khởi nghĩa, lúc đó ta ngồi lên bệ rồng, muội sẽ là hoàng hậu chân to của ta.

Thôi Oanh Nhi liền nhướng mày lên, roi ngựa lại vụt lên, song chỉ đáp nhẹ trên vai hắn, cười mắng:

- Nói bậy bạ gì đó hả huynh, bộ chân người ta lớn lắm sao?

Dương Hổ bật cười ha hả, thấy Thôi Oanh Nhi cười tươi rói không hề tức giận, thừa dịp liền nói tiếp:

- Oanh Nhi, về đến nơi ta liền triệu tập anh em, tối nay vợ chồng chúng ta sẽ động thủ...

Đoạn hắn hạ thấp giọng, bàn tay chém mạnh xuống dưới một cái:

- Muội giữ chân tên họ Ngũ đó, ta sẽ dẫn người giết cả nhà Dương Lăng, hủy sạch cái hầm sưởi đó.

Thôi Oanh Nhi giật nảy mình hoảng hốt, cặp mắt xinh đẹp mở trừng kinh ngạc:

- Huynh nói cái gì? Muội thấy cái tên Dương Lăng đó là tên quan tốt mà, giết hắn để làm gì?

Dương Hổ nói:

- Nương tử của ta ơi, chúng ta sắp khởi sự, nếu như hoa mầu Tây dương gì đó mà cái tên Dương Lăng đó trồng thật sự cho ra sản lượng dồi dào, chắc chắn số người chịu theo chúng ta liều mạng ắt sẽ giảm đi hơn nửa, lúc đó muội còn có thể làm hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ à?

Thôi Oanh Nhi vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ nói:

- Huynh đang nói cái gì thế hả? Chúng ta muốn tạo phản là vì cái gì? Nếu y thật sự có thể khiến bá tánh quê hương chúng ta ấm no, thì tại sao còn phải làm phản? Chúng ta không phải đều bị đám quan viên không coi bá tánh là người dồn ép lên núi sao? Nếu như hoa màu đó thật sự là thứ tốt, sao chúng ta lại có thể đi làm chuyện có lỗi với những người nông dân chứ?

Dương Hổ thấy vậy liền vội cười nịnh chữa lời:

- Huynh thấy hắn ăn nói ba hoa thôi, những thứ đó làm gì có tác dụng lớn như vậy chứ? Sao có thể để cho hắn mê hoặc lòng người làm hỏng đại sự của chúng ta được?

Thôi Oanh Nhi không đồng ý, nói:

- Vậy thì đã sao? Y nói có thật hay không thì không cần đến một năm liền sẽ thấy kết quả thôi.

Dương Hổ nói:

- Nhưng mà lần này chúng ta vào kinh, nếu đại sự có thể hoànthì không cần đến một năm là đã có thể khởi binh. Vả lại... nhạc phụ đã bỏ ra cả đời để chiêu binh mãi mã, chúng ta không thể để lão nhân gia thất vọng được. Nếu như có thể sớm thành đại sự, để lão nhân gia lên làm quốc trượng...

Thôi Oanh Nhi thoáng sầm mặt, giận dữ quát:

- Muội không đồng ý! Đó cũng là lý do à? Chúng ta đã nói với các huynh đệ là sẽ thế thiên hành đạo, chứ không phải vì vinh hoa phú quý của bản thân. Hơn nữa y lại là vị quan rất lớn trên triều đình; nếu như giết chết y, triều đình nhất định sẽ cảnh giác. Người nọ tuy có nói là đã thu xếp nội ứng nhưng sợ rằng đến lúc đó cũng sẽ không cách nào câu được con cá to kia đâu. Huynh hãy biết yên phận một chút đi!

Dương Hổ xưa nay sợ vợ, thấy ngữ khí nàng ta kiên quyết, liền vội đảo mắt cười nịnh nọt:

- Được rồi được rồi! Ta nghe nương tử hết, nàng nói làm sao thì chúng ta làm vậy!

***

Dương Lăng phái người lên núi gọi Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh xuống. Hai thiên hộ này cai quản ngục hình và vũ lực của Nội xưởng, thủ hạ mỗi người khống chế đều là quân đội tinh nhuệ trăm người chọn một. Dương Lăng cùng Thành Khởi Vận đến thư phòng phòng khách ngồi thưởng thức trà chờ đợi được một lát, thì hai người bọn họ đã từ trên núi vội vã chạy xuống.

Thấy Ngô Kiệt cũng xuống núi theo, Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên, vội đứng dậy đón:

- Sao cả Ngô lão cũng bị kinh động vậy?

Ngô Kiệt cười nói:

- Ti chức có chuyện quan trọng khác muốn bẩm báo với đại nhân.

Dương Lăng ra hiệu cho hai người Liễu, Dương ngồi xuống, rồi quay sang Ngô Kiệt hỏi:

- Có chuyện quan trọng gì mà phải phiền đến Ngô lão tự thân xuống núi vậy?

Ngô Kiệt thu lại nụ cười trên mặt, thấy trong phòng chỉ có Thành Khởi Vận và hai người Liễu, Dương, đều là tâm phúc của Dương Lăng, mới nói:

- Đại nhân, bên phía Đóa Nhan Tam Vệ đã truyền tin tức về rồi.

Dương Lăng cả mừng liền hỏi:

- Đã gặp được Hoa Đáng rồi à? Hắn nói sao?

Ngô Kiệt thở nhẹ một tiếng đáp:

- Đại nhân, người của chúng ta đã gặp được Hoa Đáng và thông báo điều kiện của triều đình. Cuộc sống hiện tại của Đóa Nhan Tam Vệ rất không dễ chịu, điều kiện hậu đãi như vậy quả thực đã khiến bọn họ động tâm. Nhưng mà...

Dương Lăng hỏi dồn:

- Nhưng mà thế nào?

Ngô Kiệt lấy làm tiếc nuối đáp:

- Nhưng mà... từ lúc Lý Hạo vô cớ tàn sát mấy ngàn bá tánh Đóa Nhan Tam Vệ, đám tù trưởng quý tộc của Đóa Nhan Tam Vệ rất hận Đại Minh. Bọn họ nói, đường đường tổng binh đại nhân của Đại Minh mà còn có thể thất tín bội nghĩa như vậy nên bọn họ không tin sứ giả chúng ta gửi đến. Nhất định phải có thiên tử Đại Minh đích thân thừa nhận, bọn họ mới chịu hợp tác cùng chúng ta.

Dương Lăng cười nói:

- Vậy thì có gì là khó? Đáp lại với bọn họ rằng, bảo bọn họ phái sứ giả đến, hoàng thượng nhất định sẽ thấy xót thương mà đích thân động viên.

Ngô Kiệt cười khó xử nói:

- Đại nhân! Đóa Nhan Tam Vệ bị kẹp giữa Thát Đát và Đại Minh, xưa nay luôn giữ thuận lợi cho mọi bề, thấy gió giong buồm. Đám người đó tuy kiêu dũng thiện chiến, nhưng còn giỏi cò kè mặc cả và lợi dụng thời cơ hơn cả đám con buôn xảo trá nhất. Hiện tại là chúng ta đang cần bọn họ, hơn nữa một khi giao dịch cùng chúng ta, kiềm hãm hậu phương của Thát Đát, thì bọn họ sẽ mạo hiểm việc đoạn tuyệt với Bá Nhan, cho dù là Hoa Đáng cũng không thể tự mình làm chủ được.

Người của chúng ta đợi ở đó năm ngày, tù trưởng các bộ lạc Đóa Nhan Tam Vệ cãi nhau ỏm tỏi không ngơi, có người thì đồng ý, có kẻ lại phản đối, còn có cả kẻ ba phải, cuối cũng vẫn là Hoa Đáng ra quyết định, bằng lòng tiếp nhận điều kiện của Đại Minh. Có điều...

Ngô Kiệt liếc nhìn sắc mặt Dương Lăng rồi lấy dũng khí nói tiếp:

- Hắn yêu cầu thiên tử Đại Minh cùng hắn và ba vị thủ lĩnh bộ lạc được Đóa Nhan Tam Vệ bầu ra cùng gặp mặt, tế cáo thiên hạ, uống máu kết minh. Có như thế bọn họ mới chịu phục tùng triều đình, giao dịch với Đại Minh, hãm chân Thát Đát, và cung cấp chiến mã miền Hà Sáo với giá phải chăng.

Dương Lăng thoáng sững người, lưỡng lự hồi lâu mới nói:

- Vậy..., Hoa Đáng và ba vị đại thủ lĩnh bộ lạc muốn gặp hoàng thượng? Bọn họ nhất định... sẽ không vào kinh kiến giá ư?

Ngô Kiệt gượng cười hai tiếng, thấp giọng đáp:

- Dạ thì... đúng thế ạ! Đóa Nhan Tam Vệ lo ngại triều đình lại nuốt lời, thừa cơ giam giữ bốn vị đại thủ lĩnh làm con tin, cho nên... đòi gặp mặt cùng hoàng thượng trên núi Bạch Đăng cách ngoài thành Đại Đồng mười dặm.

Dương Lăng nghe vậy hai mắt cũng nghiêm lại. Y biết không phải Đóa Nhan Tam Vệ cố tình làm khó, mà quả thực vì bị Đại Minh lừa mãi nên đã sợ. Những tủ trưởng dân tộc tái ngoại này không hề biết rằng bọn họ có thể tùy ý đi đến bất cứ nơi nào trên thảo nguyên, nhưng muốn thiên tử Đại Minh rời khỏi Tử Cấm Thành là điều vô cùng khó khăn. Bảo hoàng đế của thiên triều thượng quốc rời khỏi kinh sư, vứt bỏ thân phận tôn quý mà hạ mình chạy đến núi Bạch Đăng hội kiến mấy tù trưởng bộ lạc bọn họ ư? Điều đó làm sao được!

Dương Lăng ngẩn ra một hồi rồi mới nói:

- Tiếp tục phái người thông báo với bọn họ: bản quan hoặc đại học sĩ triều đình đều có thể đi, có thể mang thánh chỉ hoàng thượng để tỏ rõ thành ý của chúng ta. Nhưng thiên tử Đại Minh thực sự không thể rời khỏi kinh thành nửa bước!

Ngô Kiệt thở dài đáp:

- Dạ đã nói rồi. Hoa Đáng thực sự muốn đáp ứng, dẫu sao hắn cũng là đại đầu lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, mà bá tánh của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đã chết cóng không ít người. Hắn rất nóng lòng muốn tiếp nhận viện trợ của Đại Minh, nhưng trong số quý tộc của Đóa Nhan có hơn phân nửa thủ lĩnh bộ lạc không đồng ý. Bọn họ nói rằng... Việc giao dịch cùng Đại Minh cũng là ý chỉ của thiên tử Đại Minh, Lý Hạo chính là đại thần nhị phẩm của Đại Minh, là võ quan cao cấp nhất thế mà cũng nuốt lời. Do đó, trừ phi đích thân gặp mặt thiên tử Đại Minh, bằng không bọn họ sẽ không hợp tác cùng Đại Minh.

Dương Lăng thả bước trong phòng một hồi, rồi khoát tay bảo:

- Bỏ đi, đợi ta đi gặp hoàng thượng xong rồi hẵng nói tiếp. Nếu thực sự không được thì xin hoàng thượng phái một vị trong hoàng thất ra mặt. Chứ muốn hoàng thượng đi gặp hắn ư? Sao mà được!

Ngô Kiệt đáp:

- Dạ! Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân đã đến Đại Đồng. Hai người không biết đang làm gì, bỗng nhiên đình chỉ mọi hoạt động, không chút động tĩnh. Nhưng một khi Thát Đát rút lui, bọn họ lập tức dốc toàn lực bọn họ lập tức dốc toàn bộ khinh kị binh ra quấy rối không ngừng; giặc Thát phản công liền lập tức lui về trong thành thủ vững không ra. Song phương giằng co, chiến sự triền miên, tình thế vào lúc này thực ra cũng không gấp lắm.

Dương Lăng nghe vậy thì thấy hơi mắc cười. Nếu đổi bọn giặc Thát này thành Trương Phi, đối mặt với cục diện như vậy sợ rằng đã đứng ngoài thành Đại Đồng rống to lên rằng:

- Đánh thì không đánh, lui cũng chẳng lui, rốt cuộc là muốn làm gì!

Y cũng nghĩ không ra hai người đó đang làm cái quỷ gì, nhưng nếu như chiến sự đã không còn gấp rút, vậy lúc này cũng không cần phải hỏi nhiều đến làm gì. Y bèn gật đầu, quay sang Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh bảo:

- Hôm nay bản quan gọi các người lại, là bởi vì bản quan e ngại sẽ gặp một chuyện phiền phức, song cũng có thể chỉ là sợ bóng sợ gió...

Y nói tiếp:

- Gần đến cuối năm, vốn định để các huynh đệ cũng được ăn Tết vui vẻ thoải mái, song lúc này e rằng sẽ phải làm phiền bọn họ một phen rồi.

Liễu Bưu cười đáp:

- Nuôi quân nghìn ngày, dùng quân trong chốc lát, cái đám gia hỏa này ngày thường có ngày nào mà không giống như ăn Tết ở trong Nội xưởng chúng ta? Đại nhân có chuyện gì xin cứ việc căn dặn, tinh binh được ti chức và Nhất Thanh huấn luyện vẫn chưa có cơ hội để dốc sức phục vụ đây.

Dương Lăng cười bảo:

- Tốt, đợi qua được mấy ngày này sẽ thưởng cho các huynh đệ mỗi người năm lạng bạc, cho bọn họ nghỉ thật đã.

Đoạn y đi ra đằng sau bàn ngồi xuống, nói:

- Mới đây có một đoàn ngựa thồ đi đến kinh sư. Bọn họ có giấy thông hành hợp pháp, trong vùng lại không có ai quen biết bọn họ, trừ khi bắt bớ vô cớ, bằng không e rằng sẽ không có cách nào tra rõ bọn họ. Có điều vẫn mong Thành đáng đầu đem tình hình cụ thể tỉ mỉ kể lại cho Ngô lão một lượt, phái vài người khôn ngoan tài cán đi dò thám một chút, chú ý đừng kinh động đến bọn họ.

Y rút ra một tời giấy, đặt lên bàn rồi vẽ một vòng tròn, nói:

- Liễu Bưu, Nhất Thanh, đây là Cao Lão Trang, Nội xưởng chúng ta khổ tâm kinh doanh tại nơi này. Ngô lão bố trí rất nhiều trạm canh gác công khai lẫn bí mật trong thôn và ngoài thôn, những nơi này các ngươi đều có thể sử dụng, bố trí tinh binh của các người mai phục ngày đêm.

Dương Lăng mỉm cười ngước nhìn Thành Khởi Vận và nói:

- Nếu như nữ Gia Cát của chúng ta suy đoán không sai, trong mấy ngày nữa sẽ có những vị khách không mời mà tới. Lúc đó sẽ phải nhờ các ngươi thay ta tiếp đãi khách khứa thật chu đáo đó!

Chú thích:

"Bạc" nghĩa là thuyền đi biển. Đây cơ quan quản lý thuế tàu, trưng thu thuế cảng, thu mua hàng hóa nhập khẩu vân vân. Quan trông coi nơi này gọi là Bạc sứ

"Võ cử" chỉ cử nhân võ nghệ (võ cử nhân), nghĩa là "luật cử nhân võ nghệ". Nhà Minh tổ chức cho các võ sinh ở các tỉnh thi hương tại các tỉnh thành, người trúng cử được gọi là "Võ cử nhân"

năm đầu tiên của một niên hiệu vua chúa

Cam Túc và Thiểm Tây

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 173: Lặng lẽ vào thôn

Tứ hợp viện đã lên đèn. Bên trong nhà chính, một đạo sĩ trạc tứ tuần, thân hình gầy gò, mặc áo dài tro đang ngồi trước bàn, trong góc tường dựng một cây đại kỳ coi mạng đoán số có thể bắt gặp ở khắp hang cùng ngõ hẻm nào, trên mặt lá cờ vẽ sơ sài hình một con âm dương bát quái ngư.

Một người thiếu nữ xinh đẹp yêu kiều bê khay trà đến, đạo sĩ không cầm lấy chén trà mà lại chộp cổ tay cô ta kéo vào trong lòng mình, đôi bàn tay to lớn lần vào trong ngực cô ả vân vê ve vuốt, cười dâm đãng nói:

- Thúy Nhi, hai tháng không gặp, cặp bánh bao thịt này đã nở ra nhiều rồi đó.

Thuý Nhi khẽ lắc chiếc eo thon thoát khỏi lão, ngón trỏ dí trán lão một cái, cười mắng:

- Đi chết đi, lão già mất nết, mọi việc đều xử lý ổn thoả hết rồi chứ?

Đạo sĩ luyến tiếc nhìn chằm chằm vào khe áo đang được ả chỉnh trang lại, trong nháy mắt làn da mịn màng đã bị che mất. Lão gật đầu đáp:

- Ừm, xem ra chuyện này phải đợi thêm một thời gian nữa. Sắp đến cuối năm, trong cung rất nhiều sự vụ, tuy tên hôn quân đó liên tục bị hai vị cô nương xúi giục, song cũng không thể thoát ra ngoài cải trang du ngoạn. Đành phải đợi đến tháng hai, sang xuân, khi y dọn đến Báo phòng ở rồi mới bàn tiếp. Có hai vị cô nương nội ứng, lợi dụng vợ chồng Dương Hổ giết y, đến lúc đó triều đình sẽ như quần long vô thủ, tất phải chọn một trong các vị vương gia làm tân đế. Ninh Vương khổ tâm ẩn nhẫn lâu năm, dùng sông vàng núi bạc đã lung lạc rất nhiều quan viên trong triều. Cho dù là huynh đệ Thọ Ninh hầu cũng nhận nhiều hối lộ từ hắn, đến lúc đó để bọn họ mê hoặc khiến thái hậu nói tốt cho, lại thêm quần thần ủng hộ, thế tử Ninh Vương nhất định sẽ có thể đăng ngôi cửu ngũ chí tôn.

Thuý Nhi cau mày nói:

- Thực không hiểu giáo chủ lão nhân gia đang nghĩ gì nữa. Hao tổn tâm huyết như vậy để giết một người nhà họ Chu rồi lại đưa một kẻ vẫn là họ Chu lên. Giáo chủ là Di Lặc chuyển thế, thần thông quảng đại, chẳng nhẽ chúng ta không thể gầy dựng hương quân, dùng vũ lực chiếm lấy giang sơn này của nhà họ Chu sao?

Đạo sĩ cười trêu chọc:

- Thiên hạ dễ chiếm đoạt thế ư? Cũng chỉ có cái tên ngu xuẩn Dương Hổ đó mới tin vào lời bịp bợm của ta, tưởng rằng hắn là sao Tử Vi trên trời chuyển thế, đứng trên cao hiệu triệu liền sẽ được làm hoàng đế. Ha ha, giáo chủ lo xa nghĩ rộng, há để nàng có thể nhìn thấu. Đại công tử đổi tên thành Lý Tự Nhiên, làm thượng khanh phủ Ninh Vương. Nếu có thể phò trợ Ninh Vương lên thềm rồng, đại công tử tất sẽ được phong hầu bái tướng, nắm giữ trọng binh. Tam công tử cũng đang chiêu binh mãi mã tại vùng Hà Tây. Đám cường đạo, thổ phỉ, hoặc lưu manh không chốn nương thân ở Trung Nguyên phải chạy ra biên tái tránh tội, những lính đào ngũ, phạm nhân trốn ngục, hay tù phạm khổ sai bị đày và mã tặc các bộ tộc du mục, một khi tập trung lại, sẽ là một đội quân hung tàn. Nàng hãy nghĩ đi, khi đó binh quyền triều đình và hương quân đều nằm trong tay bản giáo, chúng ta lại công bố chuyện Ninh Vương là kẻ làm bề tôi mà giết Chính Đức, khiến hắn mất đi sự ủng hộ của quan viên Đại Minh và phiên vương các nơi. Đại Minh như rắn mất đầu, muốn đoạt thiên hạ còn không dễ như trở bàn tay ư? Ha ha ha...

Đạo sĩ nói đến hả hê. Lão cầm lấy chén trà hớp một ngụm, rồi hau háu nhìn tấm thân nhỏ nhắn yêu kiều của Thúy Nhi rồi tiếp:

- Đến lúc đó lão Lưu ta dẫu sao cũng là đại quan tổng đốc, tất sẽ đón cô ả quyến rũ bé bỏng nàng về làm phu nhân của ta ngay.

Thúy Nhi nguýt lão một cáingọt:

- Tốt cho ông quá nhỉ, đợi ông thật sự làm đại quan rồi hẵng nói nhé.

Đạo sĩ nhòm ra ngoài trời rồi nói:

- Sắc trời đã tối, sao bọn chúng vẫn chưa về? Hừm, mua gạo cứu tế ư? Lòng dân là cái rắm thúi. Bản giáo chuyên giảng đạo và thu nhận đám thân hào sĩ tộc và quan viên danh sĩ làm đồ đệ, đấy mới là thuật kinh bang tế thế giành lấy thiên hạ.

Thúy Nhi hừ nhẹ, buông giọng ghen tuông:

- Ông gấp gì chứ? Hay là Lưu hộ pháp đã tăm tia Hồng nương tử nhà người ta rồi? Nói thật cho lão hay, hai người bọn họ hiện không phải đang cứu tế ngoài thành đâu, mà là đến thăm tổng đốc Dương Lăng của Nội xưởng đấy. Xem ra Dương Hổ không phải chỉ là loại vũ phu chỉ biết dùng sức, hì hì, mà còn biết kết giao với quyền quý nữa đấy.

Lưu đạo sĩ cả kinh, vội đứng bật dậy, vẻ mặt kinh hoảng kêu lên:

- Hồ đồ! Hoang đường! Bọn chúng làm vậy chẳng phải là dắt dê vào miệng cọp sao? Dựa theo tin tức mật thám bản giáo truyền về, khu vực thành Tây trong tối ngoài sáng đều có thám tử của Nội xưởng. Cái xưởng mới lập này rõ ràng khác rất xa hai xưởng một vệ chỉ biết bắt bớ dọa dẫm kia, trong xưởng này hiển nhiên có cao nhân phò tá. Nếu để lộ sơ hở, há chẳng hỏng việc lớn ư?

Lưu đạo sĩ vừa nói xong, cổng trước sân ngoài đã vang lên tiếng gõ thình thình, người trong sương phòng nghe tiếng liền ra mở cổng. Vợ chồng Dương Hổ dắt ngựa đi vào, đạo sĩ vội đặt chén trà xuống rồi ra đón. Thúy Nhi cũng thu nét mặt lại, vẻ phóng đãng tiêu hồn tán cốt hoàn toàn tan biến, trở lại thành một tiểu tỳ ngây thơ đáng yêu lanh lợi, chạy ra ngoài cất giọng giòn tan:

- Tiểu thư, anh rể, hai người đã về rồi.

Hồng nương tử nghiêm mặt ừm đáp, trông thấy đạo sĩ thì mặt mới bớt giận, chắp tay chào:

- Lưu tiên sinh đã đến rồi à!

Trước nay Thôi Oanh Nhi luôn cảm thấy những gì vợ chồng nàng làm là thay trời hành đạo, cho dù trượng phu muốn tạo phản, cũng là vì bá tánh lê dân, nào ngờ Dương Hổ vì muốn được làm hoàng đế lại rắp tâm phá hủy thứ có thể cứu vớt mấy mươi vạn dân, làm vậy có khác gì đích thân ra tay giết hại dân chúng chứ?

Dương Hổ tuy đã xin lỗi nhận sai với nàng, thề không dám có âm mưu gì với Dương Lăng và đám hoa màu đó nữa, nhưng dọc đường từ hành vi và lời nói Dương Hổ đã thầm biểu hiện dã tâm và tham vọng, tỏ thái độ vì làm hoàng đế mà không từ thủ đoạn, khiến Thôi Oanh Nhi cảm thấy khinh bỉ, trong lòng hết sức không vui.

Dương Hổ trông thấy quân sư của mình liền vội vàng rảo bước, kéo tay lão ta, mừng rỡ nói:

- Dương Hổ nhận được truyền tin của tiên sinh liền đã gấp rút đêm ngày chạy đến kinh sư, sợ lỡ thời gian, nhưng đến nơi này lại không gặp tiên sinh. Ngài vân du tứ phương, hành tung bất định, ta đang sốt ruột đây.

Lưu đạo sĩ chính là vị Lưu thần tiên năm đó đoán mệnh cho Dương Hổ, tâng bốc hắn là chân mệnh thiên tử chuyển thế. Lão ta dùng những thủ đoạn như bút gỗ đào viết vào mâm cát, giấy vàng hiện chữ, trong núi đào được bia đá ghi lại lời kệ của tiên nhân, khiến cả Dương Hổ, sơn tặc và bá tánh cùng khổ khắp cả Bá Châu đều bị mê hoặc tin lấy tin để, đều cho rằng Dương Hổ đích thực là chân long thiên tử.

Lưu đạo sĩ cười lớn nói:

- Thời cơ chưa đến, đương nhiên không tiện hiện thân. Hiện tại chẳng phải bần đạo đã đến rồi đó sao? Ha ha ha...

Lão ta thoáng liếc sang Thôi Oanh Nhi, trêu hắn:

- Lạ thực, ngươi đã ăn phải gan hùm mật gấu hay sao mà lại dám đắc tội với Khóa Hổ phu nhân thế?

Trong giới lục lâm ai nấy đều biết phu nhân Thôi Thị của Dương Hổ võ nghệ hơn xa hắn, tính tình lại ương bướng ngang ngược. Dương Hổ là một hảo hán tiếng tăm vang dội trong giới lục lâm, ấy thế mà trước mặt phu nhân lại khép nép như mèo, vậy nên những người quen hắn đều trêu gọi nương tử hắn là Dương Khóa Hổ, ý nói nàng khoẻ mạnh dũng cảm hơn hẳn ông chồng, thường hay gọi trêu trước mặt bọn họ, vợ chồng Dương Hổ cũng không vì thế mà khó chịu.

Dương Hổ cười hề hề, khẽ liếc nương tử hắn rồi lại thân thiết nói với đạo sĩ:

- Chắc hẳn tiên sinh đã có tin tức chính xác rồi phải không? Nào nào, bên ngoài lạnh lẽo, chúng ta vào trong nhà đi. Thúy Nhi, đi làm một mâm thịt muối, hâm hai hũ rượu nóng, ta và nương tử phải uống với Lưu tiên sinh vài chén, cùng thương nghị đại sự.

Hồng nương tử chưa nguôi giận, lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:

- Giờ huynh có bản lĩnh rồi, ta là phận nữ nhi thì có thể đưa ra ý kiến gì chứ. Huynh hãy uống với tiên sinh đi, ta đi về phòng.

Nói đoạn quay sang Lưu đạo sĩ khẽ gật đầu tỏ ý, rồi cũng không thèm liếc Dương Hổ lấy một cái, đi thẳng vào phòng trong. Lưu đạo sĩ tham lam liếc theo bóng dáng mỹ miều của nàng, quay đầu lại thấy trên mặt Dương Hổ hiện chút lúng túng, liền vội cười bảo:

- Ha ha, cọp cái đã ra oai rồi, chốc nữa ngươi hãy tạ tội với phu nhân thì sẽ khiến nàng ta vui trở lại thôi. Nào, hai người chúng ta đã lâu không gặp, vào trong chuyện trò một chút!

*****

Dương Lăng và Thành Khởi Vận đưa tiễn Ngô Kiệt và hai người Liễu, Dương rồi chậm rãi thả bộ đi về phía hậu viện. Mới nhớm nửa bước chân vào dãy hành lang bằng đá, Dương Lăng chợt dừng lại ngước đầu nhìn bầu trời; nửa vầng trăng lưỡi liềm mới vừa được treo trên trời đêm, chỉ lác đác vài vì sao sáng lấp lánh.

Y nghĩ ngợi một chút rồi nói:

- Chúng ta phái người lần theo hộ tịch, giấy giới thiệu đến quê nhà bọn họ điều tra nội tình, e rằng cho dù có tra ra được cũng phải mất hơn một tháng. Nếu bọn họ thật sự muốn ra tay, tuyệt đối sẽ không đợi đến lúc đó.

Thành Khởi Vận dừng lại bên cạnh y, mùi thơm nhàn nhạt lan tỏa khắp bốn phía, nàng lên tiếng đáp:

- Dạ. Đại nhân từng nói với bọn họ rằng mười lăm tháng giêng sẽ bắt đầu sai người mang giống cây trồng chia cho các nơi. tới giờ trước sau gì tính ra cũng chỉ còn lại hơn hai mươi ngày, nếu như bọn họ muốn động thủ nhất định sẽ là trước lúc ấy.

Dương Lăng thở dài:

- Chỉ mong bọn họ không phải là người như cô nói, nếu như bọn họ thật sự là đôi vợ chồng đạo tặc, cô nghĩ khi nào thì bọn họ sẽ đến?

Thành Khởi Vận mỉm cười đáp:

- Nếu là ti chức, nội trong ba ngày nhất định sẽ tới! Thân phận đôi bên chênh xa, hôm nay đến nhà là để cảm tạ, nếu lui tới nhiều lần sẽ khó tránh khiến người ta nghi ngờ. Vả lại... bọn họ còn có một lớp thân phận khác, cũng không thể không lo đêm dài lắm mộng, ngộ nhỡ bị đại nhân nhìn thấu, vậy thực công lao đổ biển rồi.

Dương Lăng cười lớn:

- Tốt, vậy ta sẽ chuẩn bị tinh thần, chờ hắn mấy ngày.

Đám người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang cười nói chuyện trò trong phòng khách, Dương Lăng từng nói đêm nay muốn giữ Cao Văn Tâmăn cùng, cho nên Hàn Ấu Nương kéo nàng ấy ngồi cạnh mình, không chịu thả cho về. Lúc này đã quá thời gian thết tiệc mà Dương Lăng vẫn còn cùng đám người Ngô Kiệt luận bàn nghị sự ở trung đường. Hàn Ấu Nương căn dặn nhà bếp hâm nóng thức ăn, mọi người chưa ăn vội. Thấy Dương Lăng và Thành Khởi Vận kẻ trước người sau bước vào trong phòng, Hàn Ấu Nương tươi cười đứng dậy đi đến đón, vừa ra hiệu cho Vân Nhi báo cho nhà bếp dâng món ăn lên, vừa cầm giúp áo khoác cho Dương Lăng, cười nói:

- Cứ hễ bàn đến việc công là tướng công lại quên cả ăn uống, mau ngồi xuống đi, mọi người đang đợi đó.

Tiểu nha đầu xinh xắn ngây thơ năm xưa giờ đã mang hơi hướm của một thiếu phụ thanh tú đẫy đà, như đóa hồng ngậm sương đã nở rộ. Dương Lăng quở trách:

- Xem nàng kìa, đã nói biết bao nhiêu lần rồi, khi nào ta bận việc thì đừng có chờ, lúc này nàng có thể để cho mình đói được sao? Hơn nữa tối nay chúng ta còn giữ Văn Tâm lại ăn mà, thực vô lễ quá.

Y nói vậy quả thực đã coi Cao Văn Tâm như người ngoài. Tuy rằng nàng đích thực là người ngoài, song sắc mặt Cao Văn Tâm vẫn hơi mất tự nhiên. Tô Tam thấy vậy liền cười khẽ đỡ lời:

- Xin lão gia hãy mau ngồi bên trên, chúng thiếp mới vừa ăn chút điểm tâm, vả lại Văn Tâm tỷ tỷ và chúng thiếp thực cũng không thể xem như người ngoài mà.

Nàng chỉ nghĩ rằng Dương Lăng và Cao Văn Tâm chắc đã sớm có quan hệ tình cảm mập mờ, vừa nói cặp mắt trong vắt vừa liếc Cao Văn Tâm một cách đầy thâm ý. Cao Văn Tâm không biết nội tình, còn tưởng rằng nàng ấy nói đến chuyện mấy người bọn họ kết nghĩa kim lan, thế là không khỏi mỉm cười cảm kích.

Dương Lăng nghĩ nếu hai người Dương, Phúc thực sự là đôi vợ chồng Dương Hổ, nói không chừng đêm nay sẽ tìm đến Cao Lão trang, một khi nhận được tin tức y sẽ phải đích thân đốc chiến, Ấu Nương đang có mang, không thể để nàng ấy bận lòng lo lắng, liền nói:

- Phải phải phải, đúng là lỗi của ta, sớm biết các nàng tình như tỷ muội rồi, ha ha.

Đoạn y ngồi xuống trước bàn, nói với Cao Văn Tâm:

- Ngày mai là tết ông Táo, ta có mời mấy vị đồng liêu ở Nội xưởng đến phủ, nội quyến dẫn theo cũng sẽ được thết tiệc ở hậu đường. Ta vốn định đến lúc đó mời cô cùng đến dự luôn, hay đêm nay cô đừng về, ở lại ngủ với Ấu Nương đi.

Hàn Ấu Nương nghe vậy thì lấy làm lạ, bèn hỏi:

- Tướng công, đêm nay chàng còn phải ra ngoài sao?

Dương Lăng ho khan một tiếng rồi đáp:

- Không có, đêm nay ta ngủ lại trong phòng Tuyết Nhi là được.

Tuyết Lý Mai đang mới vừa cắn một miếng dưa, nghe vậy trong lòng liền tràn ngập hoan hỉ, vểnh môi nhìn về phía Dương Lăng; ánh mắt trong veo, trên má không hẹn mà đã hưng phấn đỏ hây.

*****

Mọi người dùng bữa xong, bưng trà lên phòng khách tiếp tục tán gẫu hơn nửa canh giờ, rồi ai nấy tự về phòng nghỉ. Dương Lăng ngồi lại một mình trong phòng thêm một chốc, chợt Cao quản gia dẫn Liễu Bưu vội vã chạy đến hậu viện. Dương Lăng đứng dậy đón:

- Đã an bài mọi thứ thỏa đáng rồi chứ?

Liễu Bưu gật đầu đáp:

- Dạ, đã kiểm soát chặt chẽ bọn chúng, chỉ cần chúng có hành động bất thường gì chúng ta sẽ lập tức có thể thu được tin tức. Tuân theo sự căn dặn của đại nhân, để tránh cho bá tánh bị kinh hoảng, ti chức đã an bài nhân mã hai bên quan đạo vào thôn, chỉ cần bọn chúng dám đến, cam đoan sẽ bắt được cả người lẫn vật.

Dương Lăng cười nói:

- Cực cho các huynh đệ rồi, làm to chuyện như vậy, hiện tại ta lại chỉ lo bọn chúng không đến. Huynh hãy toạ trấn ở trung đường đi, có biến động gì hãy lập tức bảo quản gia thông báo cho ta.

Nói đoạn y quay sang Cao quản gia nhắn nhủ:

- Sợ là mấy ngày này lão quản gia cũng không thể ngủ giấc ngon rồi, hôm nay ta sẽ ngủ lại trong phòng Tuyết Nhi, đến khi xảy ra chuyện ông phải ngàn vạn lần cẩn thận, chớ để kinh động đến phu nhân.

Cao quản gia hết lòng trung thành chỉ biết có kẻ lại muốn gây bất lợi với Dương phủ, trong lòng căm phẫn không thôi, nghe Dương Lăng dặn dò xong liền vội kính cẩn đáp:

- Dạ, ban ngày lão nô không có việc gì làm cũng đã tranh thủ thiếp đi một chút, hiện tại hết sức tỉnh táo, lão nô sẽ đi cùng đại nhân đây vào trung đường, lão gia cứ yên tâm.

Hai người lui khỏi hậu viện, Dương Lăng uống thêm một chén trà, rồi đến phòng Tuyết Lý Mai. Trong phòng thắp hai cây nến đỏ, màn đã được buông xuống, Tuyết Lý Mai đang quỳ trên giường ải chăn nệm; quần áo mượt mà dán sát người nàng tôn lên đường cong uyển chuyển của bờ mông tròn lẳn, tấm màn lụa mỏng như sương mù phản chiếu một bóng hình thon thả mông lung.

Nghe thấy tiếng kẹt cửa Tuyết Lý Mai vội vén màn, xoay người trèo xuống giường, khuôn mặt hoa đào khi giận lẫn khi vui đều xinh đẹp ấy mang theo mấy phần thẹn thùng. Nàng chỉnh trang vái Dương Lăng một lễ, dịu dàng thỏ thẻ:

- Lão gia...!

Dương Lăng nhìn thấy trên giường tấm chăn lụa 'uyên ương hí thủy' và chiếc gối đôi độn trà thơm Long Tĩnh đều đã được sắp xếp ngay ngắn, tuyết Lý Mai vận áo khoác mỏng lụa xanh, chiếc quần ống tơ màu hồng nhạt, đôi giày ngủ thêu hoa. Mái tóc buông xoã hai vai, trông muôn phần kiều mị.

Căn phòng ngập tràn hơi ấm. Dương Lăng đưa mũi ngửi, trong chậu than lửa đang cháy rừng rực, bên trong hẳn đã cho thêm hương liệu hảo hạng; mùi thơm dìu dịu nức mũi. Xem ra cô nàng này quả thực vì muốn lấy lòng lão gia mà đã chuẩn bị đây.

Dương Lăng nhịn không được bật cười lớn, bộ dạng nghênh ngang đi đến ngồi xuống chiếc ghế trước bàn, nói với Tuyết Lý Mai:

- Ha ha, Tiểu Tuyết Nhi, qua đây!

Tuyết Lý Mai kéo vạt áo lại, bước tới. Dương Lăng chắn ôm lấy nàng, đặt nàng ngồi ngang trên đùi mình, hôn nhẹ lên gò má trắng như tuyết của nàng một cái rồi nói:

- Đêm nay lão gia có thể có công vụ phải lo, không muốn khiến phu nhân lo lắng, đến chỗ nàng ngủ, là bởi vì Tuyết Nhi của ta thông minh lanh lợi, sẽ giúp lão gia che giấu. Đừng để cho lão gia bị lộ sơ hở đó, biết không?

Tuyết Lý Mai vừa nghe liền biết mình đã hiểu lầm ý, con tim thiếu nữ cảm thấy chán chường, nàng trề môi:

- Biết rồi mà, lão gia muốn làm gì, người ta đương nhiên sẽ giúp chàng, không nói cho Ấu Nương tỷ tỷ biết là được.

Tấm thân của Tuyết Lý Mai mềm mại yêu kiều, giọng nói giòn tan, ngồi lả lướt trên đùi y, mềm mại như không xương. Vẻ điềm đạm yêu kiều ấy khiến Dương Lăng yêu mến không thôi, nhịn không được bèn ôm chặt lấy chiếc eo thon của nàng kéo sát vào trong lòng, miệng cười ha hả:

- Vậy mới ngoan chứ. Làm gì mà trề môi ra vậy hử? Tiểu Tuyết Nhi của ta ngoan như vậy, biết để tâm như vậy, sao lão gia nỡ để cho nàng thất vọng chứ?

Tuyết Lý Mai bị y nói trúng tâm sự, không khỏi đỏựng mặt, ấp úng:

- Người ta... người ta mới không... thất vọng đó, lão gia cứ thích ức hiếp thiếp.

Bờ mông tròn mượt vểnh cao của Tuyết Lý Mai, cho dù đang cách một lớp lụa mỏng vẫn đầy tính đàn hồi kỳ diệu. Lúc này nàng hiện rõ vẻ thẹn thùng, ngữ khí nhẹ nhàng, mặc dù Dương Lăng nếm trải rất nhiều tuyệt sắc, vẫn không khỏi bị thần thái ngượng ngùng thánh khiết ấy làm cho chảy dãi.

Y ôm chặt lấy tiểu mỹ nhân khiến người ta phải thương tiếc đó, ngón tay lần vào trong áo, xuôi xuống dưới ngực chụp lấy quả tuyết lê nhỏ nhắn mềm mại, khẽ cười thì thào vào tai nàng:

- Nàng nói lão gia ức hiếp nàng, vậy lão gia sẽ ức hiếp nàng cho biết, để làm "công chuyện" của nàng trước rồi nói tiếp...

Gần đến canh ba, Dương Lăng đột nhiên bị lay tỉnh dậy, một cây nến đỏ trên bàn chưa tắt, lúc này cũng đã le lói sắp tàn, ánh sáng cực kỳ yếu ớt. Dương Lăng đang định mở miệng hỏi, Tuyết Lý Mai đã thì thầm: "Lão gia, có người nhìn cửa, nghe tiếng thì hình như là của lão quản gia."

Dương Lăng ngóng tai nghe, ngoại đường có vài tiếng ho khan, sau đó có tiếng người gọi khẽ: "Lão gia, lão gia, xin hãy mau thức dậy."

Dương Lăng và Tuyết Nhi sau cơn hoan ái cùng cực đều đã mặc đồ lót, lúc này nghe tiếng lập tức ngồi bật dậy, khoác lấy miên bào (áo dài vải bông), chộp lấy cây nến khác châm lên, rồi ra gian ngoài mở cửa phòng. Chỉ thấy lão quản gia tóc bạc phơ đang cầm ngọn đèn lồng đứng trước cửa phòng, khuôn mặt đỏ au, giọng căm giận:

- Lão gia, Liễu đại nhân kêu lão nô truyền tin gấp cho người, đám cường đạo đó quả thực đã chạy đến chỗ chúng ta rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì cười khổ sở, vung tay thổi tắt nến rồi khẽ thở dài: - Điều không mong muốn lại xảy ra..., đi thôi, chúng ta ra phía trước xem thử.

Đoạn y quay về phía trong phòng gọi:"Tuyết Nhi, tự cài then cẩn thận nhé."

Vừa nói vừa rời khỏi cửa phòng lật đật theo sau quản gia, buộc thắt lưng lại rồi đi vào trung đường. Cuối ngã rẽ hướng ra ngoài phòng khách chính là nội thư phòng, Dương Lăng vừa mới đi đến cửa, bên trong chợt vọng ra tiếng gọi: "Đại nhân, bọn chúng đến rồi à?"

Cùng lúc rèm cửa được vén lên, Thành Khởi Vận tay cầm đèn lồng bước ra ngoài. Chỉ thấy trên đầu nàng vấn khăn, người mặc áo dài cổ tròn ống chật, eo thắt đai rộng, chân mang đôi giày da dê màu đen, một thân nam trang; trong vẻ thanh tao nho nhã lộ ra khí thế mạnh mẽ oai hùng.

Dương Lăng không khỏi lấy làm kinh ngạc, hỏi:

- Cô... không hề ngủ sao?

Thành Khởi Vận hớn hở trả lời:

- Vốn lẽ định ngủ, nhưng nghĩ đến những điều đã ba hoa khoác lác với đại nhân, nếu thực sự mình hiểu lầm người ta, điều động binh lực để đại nhân lo lắng như vậy, khiến cho hơn nghìn huynh đệ phải chịu lạnh gác đêm, ti chức thực sự khó mà yên gối. May mà... ha ha...

Dương Lăng thấy vẻ hớn hở yên lòng trên khuôn mặt nàng, bất giác cũng hơi rung động, y mở miệng, cuối cùng lại nở một nụ cười, điềm nhiên nói:"Đi thôi, theo ta xem thử thì sẽ biết kết quả ngay", ngữ khí dịu dàng chưa từng có.

*******

Nửa vầng trăng sáng treo trên không trung, ngoài bờ tây kinh sư, mặt đất vốn là đồng ruộng đều bị bao trùm trong lớp tuyết trắng toát. Bên trong những mẫu ruộng nằm chếch về phía Cao Lão trang, hơn hai trăm gã hán tử đang đứng nghiêm trang, không một tiếng động, chỉ có tay áo phất phơ trong gió. Dương Hổ vào kinh do bị lão quân sư quạt mo Lưu thần tiên mê hoặc, hòng thích sát Chính Đức. Đám hảo hán lục lâm này đôi lúc suy nghĩ hết sức đơn giản, lại đi tin mấy lời nói xằng của Lưu đạo sĩ, bảo rằng giết chết Chính Đức thì thiên hạ sẽ đại loạn, một nửa giang sơn liền sẽ vào tay.

Dương Hộ không hề biết quân sư của hắn thật ra là nhân vật quan trọng trong giáo phái Di Lặc, thế là bèn an bài tâm phúc lần lượt tề tụ tại kinh thành dưới các dạng thân phận, rồi lại phi ngựa triệu hồi nương tử của hắn là Thôi Thị đang ở Sơn Đông thuyết phục bè phái các nơi cùng mưu đại sự, hòng một vố giết Chính Đức luôn.

Thế nhưng tuy hai mỹ nữ giáo phái Di Lặc đưa vào trong cung chiếm được lòng yêu mến của Chính Đức, có biện pháp lừa phỉnh Chính Đức cải trang vi hành, nhằm tạo cơ hội cho bọn họ. Song đám nhân vật giang hồ bọn họ đã quá xem nhẹ tầm quan trọng của ngày Tết.

Vào dịp này, hoàng thất phải cử hành các loại nghi lễ mà so với gia đình bình thường còn phức tạp gấp trăm lần, trong khoảng thời gian này Chính Đức căn bản không cách gì rời khỏi hoàng cung. Khó khăn lắm Lý Phúc Đạt mới an bài hai thân tín bên cạnh hoàng đế, cũng không mong bọn họ vì quá ân cần khuyên dụ mà bại lộ thân phận, vì vậy khi nghe nói sang xuân Chính Đức sẽ dời ra khỏi hoàng cung dọn đến Báo phòng, để chắn chắn ổn thoả, chúng đã quyết định trì hoãn thời gian động thủ.

Thế là Lưu đạo sĩ lại bịa chuyện với Dương Hổ nói rằng đế tinh ảm đạm sắp sụp, nhưng bỗng có tướng tinh bảo hộ, lúc này không thích hợp để động thủ, khuyên hắn tạm thời nhẫn nại, hai tháng nữa thời cơ chín mùi mới hẵng trở lại kinh sư. Dương Hổ thấy hắn bảo sao nghe vậy, vô cùng tin tưởng mấy thứ huyền diệu khó giải thích này, đương nhiên không dám trái lời.

Tuy nhiên Dương Hổ vẫn chưa từ bỏ ý niệm trừ khử Dương Lăng, hắn đem tình huống thăm viếng Dương phủ cho Lưu đạo sĩ để cùng tìm ra sơ hở, thỉnh kế quân sư. Lưu đạo sĩ nghe xong cũng cảm thấy chuyện này rất có ảnh hưởng đến đại kế của giáo chủ, cần phải nhổ cái đinh trong mắt này đi. Thuộc hạ của Dương Hổ vào kinh dưới đủ các loại thân phận, đám ngựa dùng để kéo xe thồ hàng chở người đều là ngựa tốt thượng đẳng, sẽ kéo ra ngoài thành trước, một khi xong chuyện liền sẽ cao bay xa chạy, khi đó còn ai có thể tra ra căn nguyên của vụ huyết án này.

Huống hồ với số nhân mã Dương Hổ dẫn đến, nếu tập kích bất thình lình, thì không một gia tướng bảo vệ trạch viện của bất kỳ một vị vương công đại thần nào có thể chống chọi nổi. Hơn nữa cho dù giết chết Dương Lăng, cũng sẽ không khiến hoàng đế sợ đến nỗi hai tháng sau vẫn còn cảnh giác không dám ra ngoài du ngoạn.

Hành tung của Lý Phúc Đạt được xếp vào hạng cực cơ mật của giáo phái Di Lặc, ngoại trừ ba vị công tử của lão ta, không ai biết được tăm tích của lão, cho nên Lưu đạo sĩ không cách nào xin được ý kiến giáo chủ. Lo trước tính sau cảm thấy phần thắng rất cao, lão liền gật đầu đồng ý.

Dương Hổ lập tức phái thân tín báo tin cho toàn bộ nhân mã thừa dịp cổng thành chưa khóa lặng lẽ lẩn ra khỏi thành. Hắn chỉ sợ Thôi Thị sinh nghi mà ngăn cản, không dám đột ngột rời đi, cố ý cùng Lưu đạo sĩ uống rượu đến tận canh hai. Khi thấy Thôi Thị đã ngủ, mới thay quần áo dạ hành, dùng móc câu thừng chão nối với đầu thành trèo xuống rồi đi tìm thuộc hạ của mình.

Hắn muốn giữ Lưu đạo sĩ ở lại phủ, đợi đến sát lúc mới sẽ thông tri để Thôi Thị rời thành, cùng đào tẩu đến địa điểm ước định. Khi đó đại sự đã thành, cho dù nàng ấy không vui cũng phải đành chịu.

Dương Hổ vận một bộ trang phục bó sát màu xanh thẫm, trên tấm thắt lưng da rộng sáu tấc gắn mười hai thanh phi đao, trong tay cầm một thanh đơn đao đầu hẹp, đứng đầu đội ngũ hô:

- Các vị huynh đệ, chốc nữa đến thôn trang, xông thẳng vào phủ Uy Vũ bá, toàn trang trên dưới không bỏ qua bất cứ kẻ nào. Mã nhị ca, Điền lão tứ phụ trách vây giường giết người, Trọng Dương dẫn ba mươi anh em theo ta, nghe thấy hiệu lệnh của ta thì rút lui.

- Ngựa của chúng ta đang tập trung tại Lộ Ao Lý cách bốn mươi dặm ngoài phía trước, xong việc lập tức chạy đến đó, chia thành đội mười người, tản ra trốn ở các nơi tránh gió, đừng tùy tiện trở về Bá Châu, đi!

Mấy tên đầu mục khẽ dạ một tiếng, những lưỡi đao trắng buốt như rừng lập loè phản chiếu dưới ánh trăng, phát ra một quầng hào quang lạnh lẽo.

Hơn hai trăm đạo tặc lục lâm giết người không chớp mắt, bước chân như gió, chạy ào ào về phía thôn trang đang đắm mình trong ánh trăng yên ả, trong tĩnh lặng chỉ có tiếng gió lạnh thổn thức táp vào mặt.

Chú thích:

Cuối đời nhà Nguyên, Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông lợi dụng danh nghĩa tôn giáo tổ chức cuộc khởi nghĩa võ trang nông dân, dùng khăn đỏ làm dấu hiệu, thường gọi là "hồng quân" (quân đội đỏ), bởi bọn họ thắp hương cúng Phật, nên cũng gọi là "hương quân" (quân đội dâng hương). (theo Minh sử - Hàn Lâm Nhi truyện)

Người xưa cho rằng quan tướng và vua chúa đều ứng với một vì sao trên trời. Tướng tinh chỉ vì sao tượng trưng cho đại tướng. Đế tinh, còn được gọi là thiên đế, tục gọi là sao Tử Vi, là ngôi sao trong chòm Tử Hùng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 174: Mãnh hổ phá vây

Trước mặt là vài chục gốc táo to, ở giữa là một con đường dẫn đến một cây cầu, vượt qua cây cầu nọ là đã đến địa giới Cao Lão trang. Lá cây đã rụng hết, những gốc táo già hình thù kì lạ có vẻ hơi quỷ dị giữa màn đêm.

Quen thuộc đường lối, Dương Hổ giơ tay phất nhẹ rồi lập tức chạy tới. Bọn hắn chỉ còn cách rừng táo chừng hơn hai mươi trượng thì trước mặt chợt có một chùm ánh lửa bắn lên cao, cảnh vật chung quanh hiện rõ trong màn đêm. Dương Hổ không khỏi cả kinh, bước chân vừa hơi chậm lại thì giữa không trung đã nổ bùng một quả cầu lửa.

Ánh sáng chiếu lên rực rỡ, nhưng tiếng nổ thì lại rất nhỏ, khói lửa bừng lên rồi vụt tắt, trong khu rừng phía trước đột nhiên xuất hiện rất nhiều bóng người. Cũng chẳng rõ có bao nhiêu người tất cả, nhưng dưới ánh trăng mờ mịt, ánh sáng lạnh ngắt phản chiếu từ những thanh vũ khí thì lại tràn ngập những luồng sát khí khiến người ta phải rùng mình.

Tên sơn tặc Mã Nhị theo sát bên cạnh Dương Hổ kinh hãi kêu lên:

- Hổ ca! Bọn chó săn đã phòng bị rồi, chúng ta mau rút thôi!

Dương Hổ cũng kinh hãi không ít, nhìn tình hình này thì rõ ràng quan binh đã sớm mai phục ở đây. Sao tin tức bị rò rỉ được?

Dương Lăng đã chuẩn bị sẵn, đêm nay muốn động đến y e là không còn cơ hội rồi. Trong lòng Dương Hổ thầm bực bội nhưng cũng chẳng sợ hãi chút nào, sự bất tài của quan binh hắn sớm đã lãnh giáo qua. Cho dù đám sơn tặc bình thường đi chăng nữa thì bọn quan binh nếu không có quân số đông gấp mấy lần thì cũng chẳng dám tùy tiện trêu chọc, huống chi lần này để ám sát Hoàng đế Chính Đức hắn đã mang tới kinh sư toàn những thủ hạ đắc lực.

Chẳng hề sợ hãi, Dương Hổ lạnh lùng nhìn về phía trước. Nhận thấy số người đột ngột xuất hiện trong rừng có khoảng hai trăm, nhân số hai bên tương đương nhau nên hắn lại càng trấn tĩnh. Hắn lập tức cao giọng ra lệnh:

- Các huynh đệ đừng rối loạn! Bọn chúng không đông, hãy lập tức rút về phía sau.

Đúng lúc này, ở hai bên cánh cũng có người kinh hãi kêu lên:

- Hổ ca! Bên này cũng có người. Mẹ nó, chúng ta bị bao vây rồi.

Dương Hổ kinh hãi đảo mắt nhìn qua hai bên. Dưới ánh trăng tà, hắn nhìn thấy từ những cánh đồng hoang hai bên cánh cũng đột nhiên xuất hiện vô số quan binh. Những kẻ này không nói một lời, chỉ lặng lẽ tiến đến, mang theo một luồng áp lực và sát khí vô hình khiến người ta run sợ.

Dương Hổ thấy vậy trái tim bất giác run lên, Điền lão tứ từ phía sau lại chợt kêu lớn:

- Phía sau cũng có người! Hổ ca, xông ra ngoài thôi!

Dương Hổ dừng chân lại, nghiến răng:

- Các huynh đệ, lao ra ngoài thôi! Đến điểm hẹn lấy ngựa rồi phải lập tức chia nhau rời khỏi kinh sư!

Lúc này các quan binh đột nhiên xuất hiện từ bốn phía đã tiến đến khoảng hơn hai mươi trượng (khoảng 67m), loáng thoáng nghe có người hô:

- Bắn!

Tiếng tên xé gió bay tới vun vút, một loạt những tiếng kêu thảm vang lên, bốn phía xung quanh đã c mấy chục tên sơn tặc trúng tên gục ngã, cả bọn lập tức trở nên hỗn loạn. Những phiên tử dưới tay Dương Lăng đều xuất thân từ quân ngũ, mà quân đội tác chiến lấy cung nỏ làm đầu; chỉ mong giết được càng nhiều kẻ địch càng tốt, ai còn quan tâm đến việc so bì võ nghệ cá nhân?

Trong quân có nỏ cứng, lực sát thương có thể xa tới ngàn bước chân, cung nỏ thì có thể đưa người ta vào chỗ chết trong phạm vi ba trăm bước. Thần Cơ doanh của Dương Lăng lấy hỏa khí làm chủ, ngoại trừ năm trăm cận vệ của Dương Lăng, phần lớn đều không sở trường cung nỏ.

Nếu đám phiênt ử Nội xưởng sử dụng một lượng lớn hỏa khí để ra đòn phủ đầu ngay ở gần kinh sư thì âm thanh phát ra một là sẽ làm kinh động trăm họ, hai là nếu chuyện lọt vào trong cung, e rằng sẽ khiến triều đình kiêng dè, nghi kỵ. Do đó lần chiến đấu này mọi quan binh đều được trang bị nỏ liên châu.

Nỏ liên châu chỉ có phạm vi sát thương trong vòng bốn mươi trượng, nhưng hộp tên lại chưa được mười mũi, mỗi lần có thể bắn liên tiếp đượcmười phát. Hơn nữa lực sát thương cũng rất mạnh, trong phạm vi hai mươi trượng có thể bắn xuyên qua tấm giáp bằng da thuộc găm thẳng vào cơ thể người. Nội xưởng hiện giờ đã là Đại Quan Thương(*) đứng đầu thiên hạ, dưới sự kinh doanh của Vu Vĩnh tiền tài đổ vào không ngừng, ngay đến nỏ liên châu đắt đỏ cũng được trang bị tới hơn một ngàn chiếc, ở cự li gần như vậy đương nhiên là sức sát thương càng lợi hại hơn.

(*: Quan thương: Chỉ quan lại tham gia việc buôn bán, kinh doanh; Ở đây là Công ty quốc doanh, tập đoàn nhà nước,...)

Mắt thấy nhiều huynh đệ một lòng trung thành với mình bỏ mạng ngay trước mặt như vậy, hai mắt Dương Hổ như phun lửa, hắn lớn tiếng quát:

- Các huynh đệ, đánh giết ra ngoài!

Nói đoạn, hắn cầm cương đao xông về phía quan binh Thần Cơ doanh ở gần nhất.

Đám đại đạo lục lâm dũng mãnh không sợ chết nào đã từng phải chịu thiệt như thế này? Sau chốc lát hoảng loạn, mùi máu tanh đã khiến hung tính bùng lên, bọn chúng lập tức vung vũ khí theo sau Dương Hổ lao về phía quan binh.

- Hự...

Một tên đại đạo vừa lao đi được vài bước thì đã bị tên bắn xuyên qua cổ họng, hắn vẫn lao tiếp về phía trước vài bước theo quán tính rồi mới nặng nề ngã xuống. Những mũi tên nỏ đều ngắn, nhỏ, khi bay đi gần như không phát ra tiếng động. Ở giữa màn đêm thì dù với công lực của Dương Hổ cũng khó mà nhìn thấy. Hắn bèn múa đao kín kẽ đến mức giọt nước mư cũng không thể lọt qua, sau nháy mắt đã lao đi được hơn mười trượng, chém bay bốn năm mũi tên.

Bên cạnh Dương Hổ không ngừng có người trúng tên ngã xuống khiến hắn càng trợn mắt phẫn nộ. Mắt thấy chỉ cần xông tiếp về phía trước hơn mười trượng là có thể đánh giết vào đám quan binh, tìm được một con đường sống thì đột nhiên hắn cảm thấy đùi tê rần, thân thể loạng choạng ngã khuỵu xuống đất.

Đưa tay sờ thử, Dương Hổ nhận thấy trên đùi đã bị một mũi tên cắm ngập, chỉ còn thừa lại phần đuôi. Không kịp rút tên ra, hắn vứt đao qua một bên, nén đau đưa tay thọc vào thắt lưng, hai tay ném ra liên tiếp; mười hai mũi phi đao không ngừng bay đi, quan binh trúng đao lần lượt gục ngã xuống đất.

Mười mấy tên cường đạo võ nghệ cao cường nhân cơ hội ấy hung hãn xông vào giữa đám phiên tử, cận chiến với quan binh. Trận chiến đấu bằng đao kiếm bắt đầu diễn ra giữa vùng đồng cỏ hoang vu, những tiếng keng keng vang lên không ngớt. Quan binh tuy đông người, nhưng đơn đả độc đấu thì đâu thể là đối thủ của lũ đại đạo kia. Mấy viên quan binh vừa vội vã rút đao nghênh chiến thì đã bị chém ngã xuống đất, đám đại đạo còn lại thừa cơ ào ào xông lên, cùng quan binh triển khai một cuộc hỗn chiến.

Vừa rồi mấy lượt tên dày như mưa xé gió bay tới khiến hai trăm tên đại đạo ngay cả bóng mũi tên còn chưa nhìn thấy thì đã có quá nửa gục ngã rồi. Còn lại sáu bảy chục người thì phần lớn đều có võ nghệ cực cao, hơn nữa đều vô cùng hung hãn và cảnh giác. Có kẻ vừa thấy huynh đệ xung quanh trúng tên bèn lập tức lăn xuống mặt đất, có kẻ thì dứt khoát xách đồng bọn vừa bị bắn chết lên làm lá chắn, giữ lấy tính mạng của bản thân.

Dương Hổ rút mũi tên trên đùi ra, cầm lấy thanh đơn đao lưỡi hẹp vươn người đứng dậy. Mấy viên phiên tử vung đao xông tới, Dương Hổ gầm lên một tiếng vang trời, vung chân quét mạnh, một mảng đất bị hất tung lên, xen lẫn với những bông tuyết bay rào rào về phía bọn họ.

Mấy viên phiên tử vội che mặt lùi về phía sau. Chỉ trong chớp mắt ấy, Dương Hổ đã cười gằn tung người nhảy vọt tới, đơn đao chém ngang qua eo lưng một người, đưa viên phiên tử đó về cõi chết. Dương Hổ đại triển thần uy, quả nhiên chẳng khác gì hổ xông vào đàn dê, lưỡi đao đi đến đâu máu bèn bắn tung lên ở đó, chỉ trong nháy mắt đã có sáu bảy người gục ngã dưới đao của hắn.

Sau lượt giao thủ này Dương Hổ mới phát hiện ra điều ảo diệu. Thì ra những viên phiên tử này đều khoác áo choàng có màu sắc rất kỳ lạ: một đường xám rồi một đường trắng ngoằn ngoèo xen lẫn vào nhau. Cho dù ở cách rất gần, Dương Hổ cũng khó lòng nhìn thấy rõ những viên phiên tử đang quay lưng về phía hắn mà giao chiến với các huynh đệ của hắn dưới ánh trăng. Thảo nào bọn chúng có thể mai phục mấy trăm người ở phạm vi ngoài ba mươi trượng mà tai mắt mình cũng không hề phát hiện.

Cường đạo tuy dũng mãnh, nhưng phiên tử lại đông người, hơn nữa tuy võ công kém nhưng không hề có người sợ hãi lùi lại. Sáu bảy chục gã đại đạo có gần phân nửa đã bị trúng tên rồi, chỉ cần tên nào động tác hơi chậm lại một chút là sẽ có bốn năm thanh đao sắc bén xé nát hắn ra thành từng mảnh vụn. Sau một hồi giao đấu, tuy quan binh đã tử thương mấy chục người, nhưng đám cường đạo cũng chỉ còn hơn ba mươi người sống sót.

Dương Hổ thấy một huynh đệ bị phiên tử chém trúng đùi lảo đảo ngã xuống, lưỡi đao của viên phiên tử kia đã vung lên chuẩn bị chém xuống. Hắn vội phóng vụt thanh đao trong tay, chỉ nghe phập một tiếng, thanh đao đã cắm vào giữa sống lưng viên phiên tử kia. Dương Hổ quyền đấm cước đá, lại đánh cho một viên phiên tử hộc máu ngã bay đi, lớn tiếng hô to:

- Đừng ham đánh, đi!

Nói rồi hắn dẫn đầu xông thẳng ra ngoài, đám cường đạo bèn lập tức bám sát theo sau. Vết thương trên đùi Dương Hổ chưa được băng bó nên sau một hồi giao chiến miệng vết thương bị rách toạc ra, máu tuôn như suối. Tuy thế hắn vẫn chẳng để tâm, vừa chạy vừa vung chân quết, hất không ngừng, khiến những viên đất vụn và hoa tuyết bắn tung tóe. Trong lúc các phiên tử thu đao lại để che đỡ, đám cường đạo đã nhân cơ hội xông vào chém giết rồi.

Mấy chục tên đại đạo này tụ tập lại một chỗ để phá vây, các phiên tử có thể giao chiến trực tiếp với bọn chúng chỉ còn là những người đang đối diện bọn chúng, ưu thế về nhân số lập tức giảm hẳn. Do đó, bọn chúng dần dần xông ra, sắp thoát khỏi vòng vây.

Các phiên tử này đều là do hai người Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh dốc lòng dốc sức huấn luyện, nhưng kinh nghiệm chiến đấu lại không đủ. Trong bọn chỉ có mấy viên thập trưởng là kinh nghiệm chiến đấu phong phú, lại từng theo Dương Lăng trải qua mấy cuộc đại chiến ở Giang Nam. Một viên thập trưởng thấy người của mình võ nghệ kém xa đám đại đạo hung hãn kia, chiến đấu giáp lá cà chính là lấy sở đoản của mình đấu với sở trường của kẻ địch. Y lập tức gọi những phiên tử có nỏ liên châu chưa bắn hết tên lại, rồi quay về phía những người còn đang liều chết ngăn cản đám đại đạo mà hô lớn:

- Lùi hết lại đi, đừng hỗn chiến với bọn chúng, nhanh lên...

Lời của y còn chưa dứt, Dương Hổ đã nhận biết được điều không hay. Hắn lập tức tung người nhảy vọt tới hệt như mãnh hổ vồ mồi, sau nháy mắt đã đứng trước mặt y. Mấy viên phiên tử vừa vung đao lên, Dương Hổ đã quát lớn một tiếng như sấm động, thiết quyền trên tay phải mang theo tiếng gió đánh ra, "bình" một tiếng trúng vào ngực của viên thập trưởng kia, khiến cho ngực y lõm hẳn vào.

Lời của viên thập trưởng bị nghẹn lại trong cổ họng, thân hình ngã bay về phía sau, làm ngã mấy viên thủ hạ. Lúc này trong cổ họng y chỉ còn phát ra những tiếng rên khẽ, thất khiếu đều rỉ máu, hẳn không sống được nữa rồi. Thân hình Dương Hổ khom xuống, tránh khỏi hai thanh cương đao, đoạn cùi trỏ tay trái thúc ra, đánh bay một viên phiên tử, lại vung chân phải đá về phía sau, trúng vào bụng một người, lại tiện tay đoạt lấy một thanh đao, giữa không trung lập tức bắn tung một màn mưa máu. Bốn phía xung quanh đao thương liền sát, không ngờ lại chẳng ai có thể đến gần hắn được.

Dương Hổ nhân cơ hội xông trở về giữa đám cường đạo, lớn tiếng hô to:

- Xông ra theo ta, kẻ nào cản ta thì chết!

Những phiên tử này vốn chưa từng nhìn thấy tên cường đạo nào hung hãn dũng mãnh như vậy, khí thế lập tức giảm hẳn. Dương Hổ cùng mấy tên đại đạo tung hoành phương bắc, là những tay đại đạo hung hãn nhất, xông lên trước mở đường. Vũ khí trong tay bọn chúng vung lên chém xuống không ngừng, ra tay không hề nương nhẹ, rốt cuộc lại mở được một con đường máu. Hơn ba mươi tên cường đạo một lòng liều mạng trốn vào trong màn đêm hun hút.

***

Cửa lớn của phủ Uy Vũ Bá mở rộng, hai chiếc đèn lớn màu đỏ chiếu sáng khu vực trước cửa như ban ngày, trong phòng chính thắp một cây nến to bằng cánh tay trẻ nhỏ. Mái tóc dài của Dương Lăng được buộc lại buông qua sau vai, trên người mặc một chiếc áo bông ống tay bó màu xanh nước biển, bên ngoài khoác thêm chiếc áo không tay, ngồi nghiêm trang giữa phòng, dáng vẻ hết sức phong tưu tiêu sái.

Thành Khởi Vận đầu đội chiếc mũ cánh chuồn cánh mềm(**), trên người mặc chiếc trường bào cổ tròn tay áo hẹp, môi đỏ răng trắng, dáng vẻ nôn nóng đi đi lại lại trước mặt Dương Lăng. Liễu Bưu đứng ngay trước cửa phòng, một gã phiên tử vội vã chạy vào trong sân, lại gần gã khẽ nói mấy câu gì đó. Liễu Bưu phất tay cho lui, đoạn xoay người bước vào phòng. Thành Khởi Vận lập tức không kìm được hỏi:

- Liễu đại nhân, thế nào rồi?

(**) xem hình thứ 3 http://www.sdmuseum.com/upload/2012-...1130556071.jpg

Liễu Bưu cất tiếng tán thưởng:

- Quả không hổ là đại đạo Dương Hổ, sơn tặc hung hãn nhất lục lâm phương bắc!

Xưởng đốc! Thành đại nhân! Dương Hổ dẫn theo chừng hai trăm người. Dù bị chúng ta phục kích nhưng hắn vẫn mang được hơn ba mươi người mở một đường máu, đột phá trùng vây.

Dương Lăng và Thành Khởi Vận nghe xong liền đồng thanh cất tiếng hỏi. Dương Lăng hỏi rằng:

- Người của chúng ta thương vong thế nào?

Thành Khởi Vận thì hỏi:

- Đã phái người đuổi theo chưa? Phục binh ở nơi giấu ngựa đã thu xếp ổn thỏa chưa?

Hai người vừa mới nói xong, Thành Khởi Vận liền không khỏi đỏ mặt.

Trong lòng Dương Lăng thầm thở dài. Cô nương này vẫn quá chú trọng đến lợi ích, chỉ suy nghĩ đến bản thân, hoàn toàn không để tâm đến sự sống chết của người khác.

Tuy nàng đã lặng lẽ giúp đỡ Dương Lăng rất nhiều chuyện, lại hết sức dịu dàng chưa từng than trách. Cho dù là người làm bằng sắt hẳn cũng phải bị nàng khiến cho mềm lòng rồi, nhưng Dương Lăng thủy chung vẫn có mấy phần cảnh giác, nguyên nhân chính là vì điều này.

Nàng có lẽ đã thật sự nảy sinh tình cảm với y, nhưng Dương Lăng không biết mối tình cảm này có trọng lượng thế nào trong lòng nàng. Y không thể biết một khi gặp phải áp lực nặng nề từ bên ngoài, khi buộc phải phát sinh xung đột lợi ích với y, liệu nàng có từ bỏ tình cảm để lựa chọn lợi ích, phản bội y hay không.

Cuộc đời nàng quá phức tạp, tuy thực khiến người khác phải cảm thông, nhưng cũng vì thế mà đã tôi luyện trái tim của nàng trở nên cứng rắn như sắt đá, chỉ biết lấy lợi ích làm đầu. Không trải qua những sự trải nghiệm lâu dài và quan sát cẩn thận, thực sự người ta khó có thể yên tâm về sự trung thành của nàng.

Liễu Bưu đáp lời Dương Lăng:

- Xưởng đốc bất tất phải lo lắng! Chúng ta chẳng qua chỉ thương vong mấy chục người, lũ sơn tặc ngoài mười mấy kẻ trọng thương bị bắt và hơn ba chục kẻ trốn thoát ra, còn lại đều đã bị giết chết.

Nói xong gã lại quay sang cười nói với Thành Khởi Vận:

- Thành đại nhân yên tâm! Bành đáng đầu đã đích thân dẫn theo người của Hỏa Súng doanh đến mai phục chỗ Lộ Ao Lí cách đây mấy dặm. Đám tàn dư sơn tặc nếu không chạy tới đó thì ngày mai chúng ta sẽ truy nã khắp nơi, bọn chúng chỉ có thể khoanh tay chờ trói. Còn nếu bọn chúng chạy tới chỗ đó thì đêm nay cho dù mọc cánh cũng khó mà bay thoát.

Dương Lăng gật gật đầu, bảo:

- Là bản đốc đã đánh giá thấp đám sơn tặc này! Thật không ngờ bọn chúng còn dũng mãnh hơn hải khấu, vốn ta cho rằng ngoài vợ chồng Dương Hổ ra thì chẳng còn cao thủ nào khác nữa.

Thành Khởi Vận hơi chau mày lại, nói với Dương Lăng:

- Đại nhân! Vốn chúng ta tưởng rằng bọn chúng sẽ dốc hết lực lượng, sau khi xong việc thì trốn đi nơi khác, do đó phục binh của chúng ta đều mai phục ở ngoài thành. Dương thiên hộ chỉ dẫn theo hơn hai chục huynh đệ giám sát trong thành mà thôi.

Tin tức vừa đưa về cho biết chỉ một mình Dương Hổ rời khỏi khu nhà đó, nương tử của hắn sao còn lưu lại trong thành? Chẳng lẽ không sợ bên này xảy ra chuyện, ả sẽ chẳng còn cơ hội rời đi ư? Hay là còn có âm mưu gì khác?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Ta cũng không đoán được dụng ý của vợ chồng bọn họ, ban đêm khi cửa thành đã đóng dù là bản quan cũng chẳng thể kêu mở cửa thành được.

Y đứng dậy đi đi lại lại vài bước trong phòng, đột nhiên ngẩng đầu ra lệnh:

- Không thể đợi thêm nữa, mau đi truyền tin, kêu Dương Nhất Thanh lập tức triệu tập người của Ngũ Thành Binh Mã ti đi bắt... đi bắt Hồng Nương Tử ngay!

***

Cửa phòng của Thôi Oanh Nhi vang lên mấy tiếng "cốc cốc". Nàng lập tức giật mình tỉnh dậy, hỏi:

- Chuyện gì thế?

Nàng vén chiếc rèm lên, vì đợi trượng phu trở về nên nàng vẫn để nguyên ngọn nến không tắt. Đưa mắt nhìn ngọn nến thấy đã cháy được quá nửa, Thôi Oanh Nhi bất giác hơi chau mày, lúc này chắc hẳn đã đến canh ba mà Dương Hổ và Lưu Thần Tiên vẫn còn đang uống rượu hay sao?

Giọng nói của Thúy Nhi ngoài cửa khẽ vang lên:

- Tiểu thư! Mau mau dậy thôi, chúng ta phải lập tức rời đi!

Hồng Nương Tử đưa tay với áo váy vội vã mặc vào, bước xuống giường mang giày rồi kéo cửa phòng ra. Thấy Lưu đạo sĩ cũng đang đứng ngoài cửa với Thúy Nhi, bất giác nàng ngây người. Vừa buộc chặt cổ áo nàng vừa hỏi:

- Xảy ra chuyện gì vậy? Dương Hổ đâu?

Mái tóc của Hồng Nương Tử buông xõa qua vai, làn da để lộ ra nơi cổ áo trắng mịn động lòng người, đầu tóc hơi rối, dáng vẻ mơ màng, thực là vô cùng quyến rũ. Lưu đạo sĩ không kìm được cặp mắt sáng bừng, lão không dám để lộ ra vẻ thèm muốn, bèn vội vàng cúi đầu xuống.

Thúy Nhi lắp bắp đáp:

- Tiểu thư, cô gia lúc canh hai đã rời thành đến phủ Uy Vũ Bá rồi. Lúc này e rằng đã phát động, chúng ta cũng phải mai mau rời thành mới được.

Hồng Nương Tử ngẩn người, rồi lập tức cả giận:

- Hắn còn không chịu bỏ cuộc sao? Lá gan của ngươi lớn thật, sao đến bây giờ mới nói với ta?

Lưu lão đạo vội cười xun xoe:

- Phu nhân! Thủ lĩnh quyết ý muốn đi, bắt lão đạo phải giấu giếm thay cho ông ấy, Thúy Nhi cô nương cũng vừa mới biết. Thủ lĩnh đã chuẩn bị sẵn ngựa ở Lộ Ao Lí bên ngoài thành, yêu cầu lão đạo đến canh ba thì thông báo cho phu nhân mau mau rời thành đến đó hội họp. Lúc này thời gian vừa đúng, chúng ta mau mau lên đường thôi. Đến khi trời sáng thì tin tức Dương Lăng bị giết chắc đã truyền vào trong thành, lúc đó muốn đi cũng khó.

Mày liễu dựng ngược, Hồng Nương Tử chẳng nói lời nào vội vã đi vào trong phòng, cánh cửa phòng rầm một tiếng đóng chặt lại. Thúy Nhi không kìm được le le lưỡi, Lưu lão đạo thì lại lộ một nụ cười quỷ dị tỏ ý gian kế đã thành.

Chỉ sau khoảnh khắc cửa phòng đã lại mở ra. Hồng Nương Tử thay một bộ quần áo màu xanh bó sát người, mái tóc dài được một chiếc khăn lụa quấn chặt lại, trên vòng eo thon đeo một thanh đoản kiếm, dưới chân đi đôi giày đế mềm, thần thái lạnh lùng, tràn đầy khí khái.

Thôi Oanh Nhi bừng bừng nổi giận bảo:

- Đi, theo ta rời thành!

Chú thích:

Cuối đời nhà Nguyên, Hàn Sơn Đồng và Lưu Phúc Thông lợi dụng danh nghĩa tôn giáo tổ chức cuộc khởi nghĩa võ trang nông dân, dùng khăn đỏ làm dấu hiệu, thường gọi là "hồng quân" (quân đội đỏ), bởi bọn họ thắp hương cúng Phật, nên cũng gọi là "hương quân" (quân đội dâng hương). (theo Minh sử - Hàn Lâm Nhi truyện)

Người xưa cho rằng quan tướng và vua chúa đều ứng với một vì sao trên trời. Tướng tinh chỉ vì sao tượng trưng cho đại tướng. Đế tinh, còn được gọi là thiên đế, tục gọi là sao Tử Vi, là ngôi sao trong chòm Tử Hùng.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 175: Không rõ sống chết

Bóng đêm sâu thẳm trở lại vẻ tĩnh mịch vốn dĩ của nó.

Trận đại chiến ngoài thôn chỉ kinh động đến hơn chục hộ gia đình kế cận, song tiếng chó sủa inh ỏi lại khiến cả thôn náo loạn. Có mấy kẻ hóng chuyện mặc quần áo vào chạy ra quan sát thì bị phiên tử được bố trí canh phòng trong thôn ngăn cản, giải thích rằng có giặc cướp đột nhập vào thôn cướp bóc, Nội xưởng đang tróc nã, rồi hết sức khách sáo mời bọn họ trở về.

Những thôn dân này thấy động tĩnh không lớn, quan binh lấp ló đầy thôn xóm, nghĩ bụng dưới chân thiên tử cho dù có giặc cỏ cũng bất quá chỉ là vài con sâu mọt hại dân, bèn lẩu bẩu lầu bầu trở về nhà, chèn thêm cây chày cán bột lên cửa rồi yên tâm đi ngủ.

Trong Phủ Uy Vũ Bá, Dương Lăng hớp ngụm trà đặc, Thành Khởi Vận đang ngồi bên cạnh, y vô tình nhìn thấy nàng đang lấy bàn tay nhỏ nhắn che miệng ngáp khẽ, không khỏi hiểu ý bèn cười bảo:

- Mọi thứ đã rõ ràng, đại cuộc đã định, lần này hẳn là đã yên tâm rồi chứ? Những thứ hiện cần làm chẳng qua là giải quyết hậu quả, nữ Gia Cát hãy về phòng nghỉ ngơi một chút đi.

Thành Khởi Vận nguýt yêu y, khẽ trách:

- Còn dám nói giải quyết hậu quả ư? Vẫn chưa bắt được hai tên đầu mục Dương Hổ và Hồng Nương Tử đó. Bọn chúng ấy... giang hồ truyền rằng chúng đang chuẩn bị tụ tập tạo phản, đại nhân há có thể lơ là?

Ngoại trừ Ninh Vương, Dương Lăng không nhớ vào thời Chính Đức có sự kiện quy mô lớn nào khác. Cuộc khởi nghĩa Bạch Liên giáo của Đường Tái Nhi, Từ Hồng Nho, thậm chí là cuộc khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành và Trương Hiến Trung đều không thuộc niên đại này, thiết nghĩ cho dù có chuyện giang hồ đồn đãi thì cùng lắm cũng chỉ lũ nhãi nhép không có tiền đồ tự chiếm núi xưng làm vua cỏ mà thôi.

Dương Lăng nghĩ đi nghĩ lại, nhớ rõ là không có đôi đạo tặc nào như vậy thành công, bèn tự tin cười nói:

- Đại Minh vận nước đang thịnh, bên ngoài không có họa lớn có thể thương tổn đến gốc rễ, bên trong cũng không lo bị dân biến. Chỉ vài tên đạo tặc lục lâm thì có thể làm nên chuyện gì chứ? Huống hồ, trừ phi Dương Hổ thấy tình thế không ổn, lập tức bỏ đường cái mà chạy, bằng không chỉ cần hắn đến Lộ Ao lí, trước năm trăm tay súng hỏa mai, cho dù võ công có lợi hại thế nào cũng đừng hòng thoát chết. Nếu nói lo lắng thì ta lại lo cho tình hình trong thành. Giết quan chính là tạo phản, vạn lần không ngờ Dương Hổ tập kích mà Hồng Nương Tử lại vẫn ở trong thành. Nơi đó chỉ an bài hơn hai mươi người, cái đám phiên tử cậy quyền đó tuy là những kẻ lành nghề trong việc khoét cửa đào hang và dò la tin tức, song lại không thạo việc bắt giặc tróc hung. Ta đã từng chứng kiến võ nghệ của Hồng Nương Tử, nếu ả nhận được tin tức mà trốn tránh trước khi Ngũ thành binh mã ty xuất binh, Nhất Thanh tuyệt sẽ không ngăn được ả.

Thành Khởi Vận đảo tròng mắt, che môi khẽ cười nói:

- Hoá ra đại nhân cực khổ chờ đợi ở đây không phải vì muốn biết tung tích của Dương Hổ mà vì lo vuột mất vị Hồng Nương Tử này.

Dương Lăng vờ nạt:

- Giỏi cho Khởi Vận nhà ngươi, đem bản quan ra đùa cợt có phải không?

Thành Khởi Vận liền duyên dáng đáp lại:

- Khởi Vận nào dám ạ?

Dương Lăng trừng mắt với nàng, rồi thở dài bảo:

- Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên, để xem cô ta có mạng sống đến bình minh không. Đám người này tụ tập làm loạn, ít nhiều cũng vì bị tham quan ô lại và sự quản lý tồi của triều đình bức bách, vô kế mưu sinh mới phải lên Lương Sơn. Tội không thể tha, song về tình thì có thể thứ. Ép bản quan phải vùi hoa dập liễu, quả thực trong lòng có phần không nỡ.

Từ xưa đến nay những kẻ tạo phản đối kháng triều đình đều có hình tượng rất tốt trong đánh giá của dân gian, nếu Dương Lăng không bởi thân ở triều đình, mình nằm trong cuộc, nghe kể về những chuyện anh hùng lục lâm này, khó dám đảm bảo rằng sẽ không xem bọn họ như những người anh hùng thay trời hành đạo. Y nhớ lúc trước từng xem một bộ phim truyền hình tựa là "Đường Tái Nhi", trong đó tướng lĩnh nhà Minh đi dẹp loạn đều bị khắc hoạ là nham hiểm độc ác, tham lam háo sắc, ai nấy đều là đại tham quan. Dương Lăng không khỏi thầm cười khổ: "Nếu trên danh sách nịnh thần lại ghi thêm tên mình, nói không chừng một ngày nào đó trên màn ảnh mình cũng sẽ mang hình tượng mắt tam giác, gò má cao, chua ngoa cay nghiệt, hà hiếp thiện lương đây."

Thành Khởi Vận nghe vậy thì đăm chiêu, lẩm bẩm:

- Tội không thể tha, song về tình lại có thể thứ, tình có thể thứ...

Nàng trầm ngâm hồi lâu, mới thoáng liếc lấy Dương Lăng, cất giọng hờn dỗi:

- Đạo tặc giết quan tạo phản trong miệng đại nhân lại có lý lẽ để tha thứ, vậy mà một tiểu nữ tử một lòng dốc sức cho đại nhân thì lại năm lần bảy lượt suýt nữa bị đại nhân chém đầu.

Mặt Dương Lăng thoáng đỏ lên, hơi lúng túng nói:

- Lại nữa rồi. Ta cũng chỉ hù doạ cô một chút thôi, chứ đâu thực sự muốn động đao động kiếm? Hồng nương tử và bản quan ranh giới phân minh, cho dù bị hại, trong lòng bản quan cũng không có kiêng dè, cô thì lại khác...

Ánh mắt Thành Khởi Vận sáng lên, nàng mím môi, đôi mắt quyến rũ như tơ trời liếc y, ngữ khí dịu dàng:

- Nô gia... nô gia và ả ta có gì khác biệt?

Dương Lăng bỗng cảm thấy hơi rợn người, y vươn người đứng dậy, làm như không nghe thấy và nói:

- Đi thôi, chúng ta ra trước thôn đi dạo một chút. Nếu cô đã không ngủ, vậy đi dạo một chút sẽ không buồn ngủ nữa.

Trêu ghẹo Dương Lăng đã trở thành chuyện vui nhất cuộc đời của nàng, ngày tháng còn dài, Thành Khởi Vận cũng không muốn bức chàng trai trẻ - mà trong ý thức nàng coi là chỗ dựa, là tình nhân, rồi dần dà lại coi là người đệ đệ yêu mến cưng chiều này - thẹn quá mà hoá giận. Lúc này nghe ẩn ý y tiết lộ trong lúc vô tình, trong lòng Thành Khởi Vận chợt có cảm giác hoan hỉ và thoả mãn lạ kỳ. Nàng cũng không truy vấn tiếp, chỉ tươi cười đứng dậy theo.

Dương Lăng đi đến trước cửa, lão quản gia vội mang áo khoác dài đến, mười mấy tay thị vệ đứng ngoài đình trông thấy Dương Lăng liền vội khom người thi lễ. Dương Lăng cầm lấy áo khoác, thấy Thành Khởi Vận ăn mặc hơi sơ sài, ngồi trong trung đường lâu như vậy, đôi môi đã có chút nhợt nhạt, liền đưa cho nàng và nói:

- Khoác vào đi, ban đêm trời rét, cô chịu không nổi lạnh đâu.

Hai hàng thị vệ theo sát Dương Lăng bước vào trong sân, chợt một giọng nói sang sảng cất lên dưới hành lang bên trái:

- Đại nhân, trong thôn có phải đã xảy ra chuyện gì? Có cần kẻ hèn cống hiến sức lực không?

Trung đường đèn đóm sáng trưng, cả đám thị vệ phiên tử đeo đao giắt kiếm đứng trang nghiêm trong sân, đừng nói thoát không khỏi tai mắt của Ngũ Hán Siêu mà ngay cả chú cháu Dương Tuyền cũng sớm đã bị kinh động. Có điều khắp sân thị đều là vệ sát khí đằng đằng, Dương Tuyền biết Dương Lăng không ưa mình nên cũng không dám ra ngoài hỏi han.Ngũ Hán Siêu chưa được phép nên cũng không tiện đường đột yết kiến, lúc này thấy Dương Lăng dẫn người định rời phủ, mới nhịn không được lách ra khỏi phòng cất to tiếng hỏi han.

Dương Lăng dừng chân lại, cười gọi:

- Là Hán Siêu à? Nhân mã huyên náo, thực đã làm quấy nhiễu giấc ngủ của huynh rồi. Ha ha, huynh hãy qua đây!

Đám phiên tử tay lăm lăm đao canh phòng cẩn thậnnhường ra một con đường, Ngũ Hán Siêu đi đến bên cạnh Dương Lăng ôm quyền vái một vái; đầu y đội khăn tiêu dao, thân vận thường phục đơn bào, để tránh hiểu lầm nên hai tay để không, thực trông cũng rất tuấn tú.

Dương Lăng vỗ vai y cười nói:

- Bản quan đã coi thường bản lĩnh của đám cường đạo giỏi võ đó quá. Nếu sớm mời huynh xuất thủ, tên Dương Hổ đó vị tất đã có thể trốn chạy.

Ngũ Hán Siêu theo cạnh Dương Lăng, vừa ra ngoài thôn vừa nghe y kể lại lai lịch vợ chồng Dương Hổ, lúc này mới biết Dương Phúc, thủ lĩnh đoàn ngựa thồ dọc đường cứu mình rồi hộ tống vào kinh, lại là đạo tặc lục lâm. Ngũ Hán Siêu ngoài giật mình thất kinh còn không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tuy y là con cháu quan lại nhưng đồng thời cũng là người trong võ lâm, nghĩa khí giang hồ tri ân tất báo ấy đối với y có ảnh hưởng rất lớn. Bất kể Dương Hổ xuất phát từ mục đích gì, dẫu sao mình cũng đã được hắn cứu giúp và chăm sóc đưa vào kinh, nếu thực gặp lại trong cảnh binh đao, là bắt hay tha đều sẽ muôn phần khó xử.

Ngoài đầu thôn. mấy trăm tên phiên tử đang thắp đèn soi đuốc lùng sục khắp rừng táo bao la bát ngát; để ngừa có giặc cướp giả chết náu thân, sĩ tốt bị thương và chết của Nội xưởng đều đã được đưa về núi. Liễu Bưu đang bố trí lại canh gác, trông thấy Dương Lăng đến liền vội bước đến đón.

Dương Lăng nhìn thấy từng cỗ thi thể bị kéo vào trong rừng táo thì nói với Liễu Bưu:

- Sai người canh gác, sau khi trời sáng đừng để thôn dân đến gần, tránh làm cho bọn họ kinh sợ. Một khi cổng thành mở ra liền sai người thông báo cho bộ Hình và Ngũ thành binh mã ty, phái người đến xử lý.

Một thớt khoái mã phi tới, bị phiên tử chặn lại ở đằng xa, người trên ngựa thì thầm cùng phiên tử một chốc thì được dẫn đến trước mặt. Người này cũng vận trang phục Nội xưởng, nhìn thấy xưởng đốc đại nhân cũng có mặt liền vội quỳ sụp xuống thi lễ:

- Ra mắt xưởng đốc đại nhân, Liễu đại nhân.

Liễu Bưu vội hỏi:

- Mau đứng lên, Lộ Ao lí có tin tức à? Thế nào rồi?

Phiên tử nọ đứng dậy, dáng vẻ vui mừng đáp:

- Đại nhân, giặc cướp tháo chạy về Lộ Ao lí, Cổ đáng đầu quát ra lệnh bọn chúng tước nộp vũ khí, một đợt hỏa lực đồng loạt đã bắn cho chúng thành cái nia, không tên nào thoát thân.

Dương Lăng lộ vẻ xúc động hỏi:

- Dương Hổ... cũng nằm trong số đó chứ?

Phiên tử do dự một chút rồi đáp:

- Việc đó... Lộ Ao lí không giữ lại người sống, chúng thuộc hạ không biết tướng mạo tên đạo tặc đó, Cổ đáng đầu đang dẫn người dọn dẹp thi thể, độ nửa canh giờ nữa sẽ có thể đưa toàn bộ xác người về tới.

Liễu Bưu khẽ nói:

- Đại nhân từng thấy diện mạo của tên thủ lĩnh đạo tặc đó, cũng có thể tra hỏi mấy tên còn sống bị bắt, đại nhân chớ nên sốt ruột. Có điều... theo ti chức thấy, Dương Hổ ắt sẽ lành ít dữ nhiều.

Dương Lăng lặng lẽ gật đầu, phiên tử nọ lại hớn hở khoe:

- Xưởng đốc đại nhân, hai trăm thớt mã đó đều là ngựa tốt ở biên tái, Bành đại nhân mê thích không thôi, Nội xưởng chúng ta quả thực chưa từng có ngựa tốt như vậy.

Dương Lăng chỉ cười cười mà không nói gì, thời này ngựa tốt khó tìm, cũng khó trách Bành Kế Tổ vui sướng như vậy, nếu còn một canh giờ nữa Bành Kế Tổ mới trở về, Dương Lăng liền muốn trở lên núi thăm hỏi thương binh một lượt. Trong lúc vô ý, y hướng mắt vọng nhìn về phương xa, mắt chợt nheo lại, trong bóng đêm lờ mờ thoáng ẩn hiện một chấm đen; người đó cưỡi ngựa, không men theo đường nhỏ, mà băng thẳng qua đồng ruộng phi tới, phương hướng chính là kinh thành.

Thành Khởi Vận và Ngũ Hán Siêu cũng đến gần, khi còn cách khoảng mười bước người đó liền nhảy xuống ngựa, vừa chạy đến phía trước vừa gọi lớn:

- Có Liễu đại nhân ở đây không? Trong thành đã truyền tin tức đến rồi.

Liễu Bưu vội vàng bước lên mấy bước đón, quát:

- Đừng gấp, từ từ mà nói, xưởng đốc đại nhân đang ở đây.

Phiên tử nọ không ngừng thở dốc, trông thấy Dương Lăng dưới hai hàng đuốc, vội vàng bước tới thưa:

- Đại nhân, trong thành Dương thiên hộ truyền ra tin tức, vào canh ba Hồng Nương Tử dẫn theo sáu bảy người đột nhiên rời khỏi viện trạch, Dương thiên hộ chưa kịp điều binh, đành phải âm thầm bám đuôi, Hồng nương tử chưa rời khỏi ngõ hẻm liền phát hiện có người theo dõi, lập tức đã dẫn người trốn vào trong một hộ gia đình rồi trèo tường chạy mất. Dương đại nhân nhận được lệnh căn dặn của đại nhân, đã thông tri cho Ngũ thành binh mã ty lục soát truy bắt khắp khu vực đó, song vẫn chưa có tung tích.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, nói với Liễu Bưu:

- Ta đoán bọn chúng cũng sẽ không ở yên đó chờ đợi. Nhất Thanh nhân thủ không đủ, đối phó không nổi đám cường đạo bản lĩnh cao cường này là việc nằm trong dự liệu, bất kể bọn chúng ở lại trong thành còn có âm mưu gì, đã kinh động chúng ta, đêm nay sẽ không giở thêm thủ đoạn gì nữa đâu. Bảo Nhất Thanh đừng làm ra thanh thế quá lớn, không có chứng cứ tạo phản, nếu chỉ vì mấy tên cường đạo xâm phạm phủ ta mà lục soát toàn thành, đám ngôn quan sẽ lại sinh sự đấy.

Liễu Bưu dạ một tiếng, căn dặn tên phiên tử đó mấy câu, kẻ đó liền chắp tay cáo từ, phóng lên ngựa rồi lại vội vàng phi lướt vào trong màn đêm. Dương Lăng dõi về phía kinh thành đương chìm trong bóng đêm, khẽ lắc đầu nói:

- Kinh sư rộng lớn như vậy, nếu bọn chúng đã chạy thoát, biển người mênh mông, muốn bắt lại sẽ khó đây.

Thành Khởi Vận máy động trong lòng, vội nói:

- Đại nhân, quả như Dương Hổ đã chết, vậy phải đề phòng Hồng Nương Tử báo thù cho chồng. Người phụ nữ này có công phu cao cường, nếu tập kích ám sát, sẽ khó lòng phòng bị.

Từ khi đến thời đại này, Dương Lăng cũng biết võ nghệ cá nhân còn lâu mới lợi hại như trên phim ảnh, có thể ngang nhiên xông vào đối địch với thiên quân vạn mã. Bất quá trong thời đại chủ yếu sử dụng vũ khí lạnh này, chung quy võ nghệ vẫn còn có thể phát huy tác dụng trọng đại. Nếu như có một quả phụ xinh đẹp có thể băng tường vượt nóc như đi trên đất bằng suốt ngày tìm cách lấy mạng mình, hại khiến mình đi đâu cũng chẳng dám đi, thì thực sẽ khiến người ta rất nhức đầu.

Y dời ánh mắt, chợt thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng cạnh mình, thế là không khỏi bật cười thoải mái:

- Ta có Ngũ Hán Siêu, há còn sợ Hồng Nương Tử? Hán Siêu à, bản quan vốn định ngày mai tiến cử huynh vào triều làm quan, tìm một công việc trong Lục Bộ, nay xem ra huynh phải tạm thời ở cạnh bản quan chờ đợi rồi.

Võ nghệ của Ngũ Hán Siêu hơn hẳn tài văn chương, cũng không có thành kiến gì với xưởng vệ, ở lại trong Nội xưởng quyền khuynh thiên hạ đương nhiên oai phong hơn hẳn đi đến Lục Bộ làm một chức quan bé rồi. Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì mỉm cười, vái một vái dài đáp:

- Vốn là mong ước không dám thỉnh cầu. Hán Siêu nguyện noi theo ý đại nhân, bám gót từ đây.

*****

Hồng Nương Tử đang dẫn người chạy ra khỏi ngõ tắt, liền phát hiện có người âm thầm theo dõi. Nơi ở của nàng đã nằm trong sự giám thị, vậy hành động tập kích thôn trang của Dương Hổ còn có thể thành công sao? Thôi Oanh Nhi vừa nghĩ vậy, lòng liền như lửa đốt, hận không thể lập tức xông ra khỏi thành, cứu trượng phu thoát khỏi lao ngục.

Công phu quyền cước của Lưu đạo sĩ tuy kém, song tâm kế lại cao sâu hơn nàng, vừa nghe có người ngầm theo dõi, lập tức khuyên Hồng Nương Tử theo lão lẩn trốn trước. Lúc này hành động của Dương hổ sớm đã phát động, nếu như trúng kế thì cũng đã trúng rồi.

Lúc này mà rời thành thì chỉ tổ tự chui đầu vào lưới, chi bằng thừa lúc đối phương vẫn chưa điều động nhân thủ đối phó với nàng mà mau chạy trốn và náu thân. Quả như Dương Hổ bình yên vô sự, sẽ lại phái người đến liên lạc cùng hắn, ví bằng Dương Hổ thất bại, có thể cứu được thì cứu, cùng lắm cũng có thể giữ lại người báo thù cho hắn.

Hồng Nương Tử tuy bận lòng đến sự an nguy của trượng phu như từ nhỏ lớn lên trong giới lục lâm, nghe quen tai nhìn quen mắt, đương nhiên biết được lợi hại trong đó. Tuy nói rằng kẻ nào tài cao gan đều lớn, song nàng cũng không dám vọng tưởng lấy sức một mình mình đối kháng với quan binh đã sớm có chuẩn bị, sau thoáng cân nhắc, đành chọn theo Lưu đạo sĩ trốn đi.

Từ thời Tống, Nguyên đến nay, Bạch Liên giáo nhiều lần khởi sự, nhiều lần thất bại, nhưng hương hoả vẫn chưa tận. Sau khi Chu Nguyên Chương lợi dụng Bạch Liên giáo khởi sự và thâu tóm được thiên hạ, sự đả kích đối với bọn họ càng thêm kinh khủng. Trong quan phủ có một lượng lớn xuất thân là người của Bạch Liên giáo, cho nên hiểu rõ phương thức liên lạc như lòng bàn tay, qua nhiều bài học kinh nghiệm bằng xương máu, hành tung của Bạch Liên giáo và phân đàn của nó càng trở nên bí hiểm, kinh nghiệm trốn chạy cũng vì vậy mà phong phú hơn.

Từ sau khi giáo phái Di Lặc của Lý Phúc Đạt khởi sự ở Sơn Tây thất bại, bị quan phủ vây quét, đã chuyển hướng vươn vòi sang các thế lực thân hào đại tộc các nơi, nơi an toàn để ẩn náu càng nhiều không đếm xuể.

Có dân chúng cuồng tín bị bọn họ dùng phép thuật che mắt khiến cho thần hồn điên đảo, có phú hào đại tộc bước lên thuyền giặc, đến khi tỉnh ngộ muốn rút chân thì vận mệnh của cả gia tộc đều đã ràng chung với giáo phái Di Lặc, không thể không tiếp tay cho giặc.

Ở kinh sư Hồng Nương Tử lạ nước lạ cái, song Lưu đạo sĩ lại biết rõ đường đi lối tắt hơn nhiều. Ban đêm binh sĩ tuần thành ở kinh sư cực đông, bọn họ xuyên nhà trèo tường mà đi, vừa thoát khỏi Dương Nhất Thanh và đám thủ hạ, lại tránh được tai mắt quan binh.

Bọn họ lặng lẽ trèo vào một khu trạch viện rộng lớn, rồi lại men theo bóng đêm trèo từ phía vách tường vào; cũng không biết là nhà của ai. Lưu đạo sĩ bịa chuyện nói rằng đây là nơi ở của một tín đồ của lão, bảo đám người Hồng Nương Tử đợi tại hoa viên, còn lão thì lách vào bên trong sân như một bóng ma, lặng lẽ đi vào tìm kiếm chủ nhân.

Sau thời gian hai chén trà, một viên ngoại dáng phốp pháp mồ hôi đầy đầu mặc áo dài gấm màu đồng, đích thân cầm đèn lồng theo Lưu đạo sĩ chạy ra, cuống quít dẫn bọn họ vào sâu trong nhà rồi thu xếp chỗ ở.

Cho dù kết cấu phòng ốc, trạch viện của mỗi gia đình giàu có những thay đổi nhất định nhưng phần lớn vẫn theo kết cấu tạo thành bởi tiền viện, trung đường, hậu viên của nội quyến, sương phòng. Cùng lắm là thêm vài nhà ngang ở phía đông và phía tây để thết đãi bạn bè thân thích, tuy nhiên những chỗ chi tiết thì rất hiếm khi rập khuôn. Trong bóng tối mà Lưu đạo sĩ có thể tìm thẳng đến chủ nhà mà không kinh động những người khác, hiển nhiên là hết sức quen thuộc nơi này.

Với sự cơ cảnh thường ngày của Hồng Nương Tử trông thấy chuyện này khó tránh sẽ có điều nghi ngờ về thân phận thật của Lưu đạo sĩ, có điều lúc này lòng nàng đang rối như tơ vò, nên cũng không bận tâm đến những chi tiết nhỏ này. Tuy rằng nàng vô cùng bất mãn với hành vi của trượng phu mình, song nói cho cùng thì vẫn là phu quân nàng, sao có thể không để ý đến sống chết của hắn.

Trạch viện này là chỗ ở gia đình này dùng để chiêu đãi thân bằng quyến thuộc, do đã cuối năm, cho nên phòng ốc được dọn sạch sẽ tươm tất. Căn phòng của Thôi Oanh Nhi là nơi ở dành cho nữ quyến, trên bàn trang điểm thắp một ngọn đèn dầu, phát ra ánh sáng lờ mờ u ám.

Chủ nhà được gọi là Cừu viên ngoại kêu mấy gia nhân tâm phúc dậy đốt hai lò than đồng hình đầu thú trong phòng, trong chốc lát căn phòng ấm áp như xuân. Thu xếp ổn thoả hết thảy, Lưu đạo sĩ đưa Cừu viên ngoại đi. Hai người ra đến dưới hành lang bên ngoài, thấy không ai ra theo, Cừu viên ngoại mới quệt mồ hôi túa ra vì căng thẳng, hết sức lo lắng nói:

- Lưu hương chủ, ngài dẫn đến đều là những kẻ gì vậy. Kẻ nào kẻ nấy cầm kiếm cầm đao, ngay cả vị nương tử áo đỏ đó trông cũng thật đáng sợ. Gần trăm nhân khẩu cả nhà Cừu mỗ, ngài đừng hại ta đó.

Lưu đạo sĩ cười nham hiểm trấn an:

- Cừu viên ngoại, ông cứ việc yên tâm, chỉ cần ông không rêu rao ra ngoài, trừ khi là hoàng đế bị giết, ai dám xông vào hết mọi nhà trong kinh thành để bắt người chứ? An toàn lắm.

Lão thấy trời đang rét run mà Cừu viên ngoại lại đổ mồ hôi ròng ròng khắp mặt thì nhịn không được bèn bật cười ha hả, rồi vỗ vỗ vai hắn nói:

- Ông là thí chủ hộ pháp của bản giáo, nếu như bản giáo đoạt được thiên hạ, vinh hoa phú quý há sẽ thiếu phần ông? Yên tâm đi, chúng ta ở lại đây nửa bước không ra, sáng sớm ngày mai ông phái người ra ngoài dò la tin tức một chút, xem thử Nội xưởng có động tĩnh gì không?

Cừu viên ngoại cuống quít giậm chân nài khẩn:

- Ối trời ơi! Hương chủ của tôi ơi, không ngờ các người lại trêu chọc đến Nội xưởng nữa? Bên phía xưởng vệ đáng sợ nhất chính là Nội xưởng đó. Các người... các người...

Lưu đạo sĩ lạnh lùng nói:

- Ông tỉnh lại đi, chúng ta làm là giao dịch tạo phản đoạt thiên hạ! Nội xưởng ư? Cho dù là hoàng đế, chúng ta cũng không sợ trêu phải. Ngươi là hộ pháp hương đàn của bản giáo trong kinh sư, làm nhiều việc cho bản giáo như vậy, đứa con bảo bối độc nhất của ngươi thì được giữ lại bên người giáo chủ, sớm đã là người cùng hội cùng thuyền với chúng ta rồi.

Lão hừ một tiếng rồi tiếp:

- Còn nữa, phải tránh nhắc đến thân phận của và ta trước mặt người khác, kể cả những người mà ta dẫn đến, bọn họ không phải là người của bản giáo. Trở về ôm lục phu nhân của ngươi mà ngủ ngon giấc đi, ngày mai thức dậy đừng quên đi dò la tin tức cho ta đó.

Đoạn lão cười ám muội nói:

- Lục phu nhân là đệ tử thánh đường của bản giáo, cô ả lẳng lơ đó quyến rũ động lòng người, công phu trên giường cao thâm lắm. Cái đồ già nhà ngươi có phước hưởng thụ còn không phải vì bản giáo coi trọng thân phận của ngươi ư. Nên tự thu xếp cho ổn thoả đi.

Nói rồi Lưu đạo sĩ xoay người đi vào phòng. Cừu viên ngoại cầm đèn lồng, đứng ngây người trong gió thật lâu. Một cơn gió thổi tới, lão bất giác rùng mình, lúc này mới thở dài ra một hơi, thẫn thờ bước đi.

Lưu đạo sĩ lách mình vào trong căn phòng của Hồng Nương Tử. Đây là khuê phòng nữ nhân, màn lụa cuộn lên, trên chiếc giường khảm ngà voi đặt một chồng chăn gấm, bề mặt lờ mờ để lộ hình uyên ương hí thủy bằng tơ lụa. Thôi Oanh Nhi vận bộ đồ bó sát người màu xanh thẫm, đang ngồi trước bàn nhíu mày trầm tư.

Eo thon mảnh khảnh, bờ mông tròn lẳn đẫy đà, phơi bày mọi đường cong, vẻ phong tình mê hoặc lòng người. Lưu đạo sĩ bước vào, vừa trông thấy dưới ánh đèn Thôi Oanh Nhi tựa như một đoá mẫu đơn màu đen; dáng người như ngọc, nét mặt như hoa, trong mắt không khỏi loé lên vẻ dị thường.

Thúy Nhi đang đứng hầu cạnh bên trông thấy vậy thì không khỏi bĩu môi. Hồng Nương Tử là hào kiệt lục lâm, không hề để ý đến những quy củ thối tha của các gia đình giàu có, thấy lão ta không gõ cửa đã xông vào khuê phòng thì không hề lấy làm tức giận, mà lại lo lắng hỏi:

- Lưu tiên sinh, Hổ ca sống chết không rõ, ta thật sự một khắc cũng không yên, theo tiên sinh thấy, huynh ấy có thể gặp chuyện không?

Lưu đạo sĩ bày ra bộ mặt thần bí khó lường, nghiêm mặt nói:

- Dương phu nhân, bần đạo đã bấm đốt tính toán, đương kim hoàng đế Đế tinh sắp sụp, lại có Tướng tinh phò tá, tạm thời chuyển nguy thành an. Khi ấy không biết Tướng tinh đó là người nào, nay xem ra, chính là ứng trên người Dương Lăng. Chậc, là bần đạo không thể xem trộm thiên cơ, đã không ngăn cản lão đại.

Lão ngồi đối diện với Thôi Oanh Nhi, dưới ánh đèn hai cánh tay thon thả trắng nõn như hoa lan, da dẻ sáng ngời, trong lòng lão không khỏi gợn sóng, lập tức cụp ánh mắt, kiềm chế ý niệm muốn vuốt ve một phen. Nữ nhân này thoạt trông thì yêu kiều mềm mại, lúc động thủ lại hung mãnh hơn cọp dữ, quyền nào ước nào đều đủ lấy mạng, lão thực không dám vọng động.

Lưu đạo sĩ bấm ngón tay, làm bộ làm tịch nói:

- Trong số mạng của mỗi con người đều có ba ngôi sao chính, Thất Sát coi giữ thành bại, Phá Quân coi giữ chinh phạt, Tham Lang coi giữ hoạ phúc, hiện Tổng Biều Bả Tử bị sao Phá Quân coi giữ chinh phạt nhập vào cung chủ mệnh, mới gặp phải kiếp nạn này.

Thôi Oanh Nhi run rẩy hỏi:

- Vậy... có thể bị thương hoặc sống chết sao?

Lưu đạo sĩ nào dám nói hắn đã chết, người phụ nữ này tính nóng như lửa, trở mặt còn nhanh hơn lật sách, nếu ngày mai nhận được tin báo tử của Dương Hổ, e rằng cho dù mình có nói ông trời sắp sập thì cô nàng cũng sẽ không chịu để yên đâu.

Thế là Lưu đạo sĩ cười khùng khục, ậm ờ trả lời:

- Dương Lăng là Tướng tinh hộ vệ cho Đế tinh cũ, mà lão đại là Đế tinh mới, cũ mới thay nhau, nhật nguyệt luân chuyển, trong số mệnh của lão đại nên có kiếp này. Bất quá Phá Quân nhập chủ cũng là chuyện tốt, đại nạn không chết mai sau ắt sẽ gặp phúc. Chờ hai ngôi sao còn lại cũng nhập vào cung chủ mệnh, Sát-Phá-Lang tam tinh tụ hợp, thì thiên hạ tất sẽ đổi chủ, không thể nghịch chuyển!

Thôi Oanh Nhi đứng bật dậy vung tay áo nói:

- Nói cả buổi vẫn chưa biết rõ là sống hay chết, cửa ải này có thể vượt qua hay không còn không biết đây,

Nói rồi nàng mới cảm thấy mình quá nặng lời, bèn lúng túng phẩy mái tóc mai, giọng dịu lại:

- Nô gia lo cho trượng phu, nóng lòng nên đã thất lễ, xin tiên sinh chớ trách.

Nói đoạn nàng đanh mặt lại, sát khí đằng đằng:

- Nô gia sẽ đợi tại nơi này, ngày mai dò thám được tin tức rồi hẵng nói tiếp. Nếu Dương Hổ bình yên vô sự thì thôi, nhược bằng huynh ấy xảy ra chuyện gì không may, Thôi Oanh Nhi là phận nữ nhi, cũng sẽ mặc kệ hắn là Tướng tinh hay Đế tinh gì, ta nhất định sẽ đánh vào Dương phủ. Cho dù có liều mạng đồng quy vu tận cũng phải giết chết cái tên khốn đó!

Chú Thích

Đường Tái Nhi (1399 - không rõ năm mất), nữ thủ lĩnh Bạch Liên giáo trứ danh trong cuộc khởi nghĩa nông dân đầu thời Minh, là người huyện Bồ Đài châu Tân tỉnh Sơn Đông.

Từ Hồng Nho (không rõ năm sinh - 1622), người Cự Dã tỉnh Sơn Đông, giáo đồ Bạch Liên giáo, thủ lĩnh cuộc dân biến cuối thời Minh, tự xưng là Trung Hưng Phúc Liệt đế.

Lý Tự Thành (1606 - 1645?), người Mễ Chi, tỉnh Thiểm Tây, là người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nông dân lật đổ nhà Minh vào năm 1644, tự xưng Đại Thuận hoàng đế.

Trương Hiến Trung (1606 – 1647), tên tự là Bỉnh Trung, hiệu là Kính Hiên, người Bảo Giản, huyện Liễu Thụ, vệ Duyên An, là lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Minh, từng kiến lập chính quyền Đại Tây; đồng thời với Lý Tự Thành, người kiến lập chính quyền Đại Thuận.

"tiêu diêu cân", còn gọi là "hà diệp cân" (khăn lá sen). Xem hình: http://www.yntao.com/UploadFiles/201...4232351521.jpg

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 176: Tiệc rượu

Hôm qua một toán cướp lớn bị tiêu diệt, gần hai trăm cỗ thi hài được giao cho Ngũ thành binh mã ty. Dưới chân thiên tử lại xảy ra vụ án lớn như vậy, Ngũ thành binh mã ty và Kinh doanh khẩn trương vạn phần, lập tức tăng cường kiểm soát kinh sư, nghiêm ngặt thẩm tra từng bá tánh muốn ra khỏi thành; thám mã của bộ Hình lẫn ba xưởng một vệ liên tục xuất hiện, dò la tin tức khắp nơi.

Triều đình không muốn bá tánh biết tin vào ngày cận Tết lại có một đám cướp lớn tập kích trọng thần triều đình vào ban đêm, tránh cho lòng người phấp phỏng; nhưng như thế lại càng phản tác dụng, đủ loại tin đồn vẫn được lan truyền.

Đến khi có người đến Cao Lão trang thăm viếng bạn bè trở về, câu chuyện dần dần được thống nhất: kể rằng có một đám đại đạo đến từ phương Bắc, đều là hảo hán lục lâm võ nghệ cao cường, một có thể chọi trăm, ban đêm tìm đến Nội xưởng làm loạn. Sau khi giáp chiến với mấy ngàn phiên tử Nội xưởng, toàn quân đã bị diệt. Lại kể rằng thủ lĩnh đám giặc cướp nọ tên là Dương Hổ, thân cao hai trượng, lưng hùm vai gấu, một mình đã giết chết hơn trăm viên phiên tử Nội xưởng, cuối cùng bị súng thần hỏa bắn thủng như cái nia. Tin tức đó đã trở thành đề tài hấp dẫn nhất của mọi người khi thăm thân nhân viếng bằng hữu trong dịp tết ông Táo.

Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đều mong muốn biến cả Cao Lão trang thành quân doanh để đề phòng vợ chồng Dương Hổ quay lại, nhưng Dương Lăng nhất quyết không chịu. Đừng nói hôm nay là ngày tết ông Táo, là ngày mà bá tánh đi thăm viếng thân nhân bằng hữu, mà cho dù là ngày thường, cũng không có lẽ gì lại hạn chế mọi người ra vào. Đây là Cao Lão trang, chứ không phải là Nội tập sự xưởng; là Uy Vũ bá cư trú ở thôn trang, chứ không phải người của thôn trang cư trú trong Nội xưởng.

Không còn cách nào khác, hai người Liễu Bưu đành "ngoài buông lơi trong siết chặt". Tuy không cấm tiệt bá tánh lui tới trong thôn thăm hỏi thân nhân, cũng không hề có người đến gặng hỏi, song chung quanh phủ Uy Vũ Bá lại bí mật bố trí thêm nhân thủ, tăng cường canh gác.

Thi thể của đám đạo tặc bị loạn súng bắn chết tại Lộ Ao lý hôm qua đều đã được đưa về, trong đó không hề thấy hình dáng của Dương Hổ. Vào giờ Tỵ ba khắc, Bắc trấn phủ ty Thiệu Tiết Vũ của Cẩm Y vệ phái người đến đưa tin rằng bọn họ bắt được một tên đạo tặc bị thương đang chạy trốn. Kẻ đó hung hãn không sợ chết, khi phải hứng chịu đủ loại cực hình của Cẩm Y vệ đã định cắn lưỡi tự vận nhưng không thành. Sau khi trải qua thêm mấy loại cực hình tàn khốc khác hắn đành phải thều thào tiết lộ sự thật.

Đêm qua Dương Hổ thoát khỏi kiếp nạn quả thực là do ý trời. Vốn dĩ Dương Hổ trúng tên trên bắp đùi, trong lúc chiến đấu ác liệt miệng vết thương bị toét lớn, máu chảy không ngừng. Thoát ra khỏi vòng vây được ba dặm thì thân thể cường tráng của hắn cũng không chịu nổi nữa, bốn tên bộ hạ thân tín đành phải dìu hắn ẩn náu trong một phần mộ ven đường để băng bó vết thương, chờ đợi các huynh đệ đi kiếm ngựa về.

Không ngờ đợi một hồi rồi lại thêm một lúc, cả bọn láng máng nghe đâu đó như có tiếng súng giòn giã như đậu rang. Một tên đạo tặc bèn lặng lẽ bí mật lẻn đi quan sát thì thấy Bành Kế Tổ đang hào hứng dẫn binh sĩ thu thập thi thể và thu gom ngựa chiến. Tên đạo tặc này thấy tình thế không ổn, lập tức trở về bẩm báo với Dương Hổ, mấy người bọn chúng bèn trốn vào đồng hoang.

Đến tảng sáng, bọn chúng chạy vào một thôn trang nhỏ không rõ tên, cướp được ba thớt la và ngựa, hai tên thân tín kèm Dương Hổ chạy trốn mất dạng, hai tên còn lại chia nhau lẩn tránh. Tên này luống cuống không biết đường, bị Cẩm Y Vệ thấy khả nghi chặn lại. Vừa mới bị gặng hỏi mấy câu thì tên đạo tặc này liền đột ngột ra tay đả thương người, giết chết sáu bảy tay Cẩm Y Vệ. Cuối cùng một người không chống nổi đám đông nên gã đã bị bắt.

Nghe được tin tức này, Dương Lăng liền đoán rằng rất có nhiều khả năng Dương Hổ đã trốn về sào huyệt, bèn căn dặn thủ hạ thông tri cho bộ Hình, bảo bọn họ gởi công văn đến Bá châu, lệnh cho quan phủ địa phương tra kỹ vụ án này. Thu xếp xong xuôi, Dương Lăng mới trở về phủ chuẩn bị đón tiếp khoản đãi khách mời sẽ đến dự tiệc hôm nay.

Tuy rằng trong ngoài kinh sư căng như dây đàn nhưng bên trong Dương phủ lại ngập tràn bầu không khí vui vẻ. Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh, Bành Kế Tổ, Liên Đắc Lộc, Phùng Đường và thậm chí cả Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh sau khi đã an bài thủ vệ thỏa đáng đều tụ tập dưới một mái nhà. Những người này đều là trụ cột của Nội xưởng, hết lòng theo phò Dương Lăng, tận sức tận lực, Nội xưởng mới có thể phát triển nhanh chóng như hiện nay.

Hơn nửa năm mưa máu gió tanh, chung vai tác chiến, những người này cùng tiến cùng lui, nay nghiễm nhiên đã trở thành một nhóm có chung lợi ích gắn kết vững bền. Dương Lăng tin tưởng bọn họ vô cùng.

Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận và Vu Vĩnh đều dẫn theo gia quyến đến phủ. Ngô Kiệt dưới gối không con, chỉ dẫn phu nhân cùng đến; Hoàng phu nhân dẫn theo cháu trai; trưởng nữ của Vu Vĩnh đã xuất giá, lão ta dẫn theo cả phu nhân lẫn nhị nữ, tam nữ. Gia quyến của ba vị Đô ty thuộc Thần Cơ doanh trước đây đều đang sinh sống ở nơi khác; bình thường bọn họ vẫn sống trên núi, chỉ thi thoảng vào thành tìm đến xóm làng chơi hưởng thụ mùi vị âu yếm, cho nên bọn họ đi dự tiệc hết sức thuận tiện.

Ngày thường Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi ăn mặc hết sức tùy ý, trang điểm qua loa, vì ở không trong nhà nên các nàng cùng lắm cũng chỉ đeo bông tai và cài trâm nạm trân châu. Hôm nay khách đến rộn nhà, bọn họ bèn khoác lên người những bộ cánh sang trọng theo bên cạnh Dương Lăng, xinh đẹp như hoa, sáng ngời như ngọc.

Hoàng phu nhân, Ngô phu nhân và Vu phu nhân tuổi đã hơn năm mươi nên rành rẽ lễ nghi. Vừa gặp các vị Cáo Mệnh phu nhân của triều đình, cả ba bà liền vội bước tới làm đại lễ yết kiến khiến ba cô nàng tuổi còn nhỏ xíu ngượng chín cả mặt, lật đật bước tới đỡ dậy.

Phu nhân Vu Vĩnh cũng là người Sắc Mục, mũi cao mắt sâu, mái tóc vàng óng. Người Sắc Mục ở kinh sư không hiếm nên ngoại trừ Hàn Ấu Nương, các cô này ai nấy đều có kiến thức sâu rộng nên không hề lấy làm lạ, nhưng hai người con gái thướt tha chưa xuất giá của Vu phu nhân đang đứng sau lưng bà ấy thì lại hấp dẫn ánh mắt mọi người.

Vóc dáng thon cao, so với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận bọn họ còn cao hơn non nửa đầu, mái tóc mềm mại óng vàng, mặt che bởi một lớp voan mỏng chỉ để lộ hai con mắt xinh xắn màu xanh thẫm, chiếc mũi ngọc ngà cùng cánh môi anh đào như ẩn như hiện dưới lớp voan càng làm tăng thêm vẻ mỹ miều.

Đôi tỷ muội này vận váy lụa cân vạt ống tay hẹp, bên ngoài khoác áo chẽn bông nhiều màu. Bên dưới là một chiế quần dài ống chật màu xanh nhạt làm tôn thêm vẻ mềm mại dịu dàng của thân hình gợi cảm; đường cong trên đôi chân thon thả chắc nịch ẩn dưới lớp quần trông hết sức mê người. Lúc di chuyển eo thon khẽ đong đưa càng khiến người ta thêm mê mệt, gây một ấn tượng thật mạnh.

Phụ nữ thời Minh ra ngoài rất thích mặc áo chẽn váy khít, rất hiếm người mặc quần dài ống chật hoặc miệng ống loe, có thể gặp mỹ nữ phong tình dị quốc ăn mặc như vậy lại càng thêm hiếm. Tô Tam và Tuyết Lý Mai thầm nổi lòng hiếu thắng, thế nhưng bên dưới bộ ngực cao vút và bên trên cặp mông tròn lẳn như trăng rằm mà dường như còn to gấp đôi của bọn họ, chiếc eo thon thả mảnh dẻ khiến người ta phải đỏ mắt vì ghen tị ấy không khỏi khiến bọn họ âm thầm cảm thấy hổ thẹn.

Các cô thực không biết hai chị em đó đã dùng thứ gì mà có thể thít chặt eo đến tắt thở như vậy, bằng không cho dù eo họ có thon cỡ nào đi chăng nữa thì làm sao có thể thon thả bằng chiếc eo của hai cô chứ?

Dương Lăng tươi cười đón khách vào trong nhà. Thành Khởi Vận và Cao Văn Tâm cũng tươi cười nghênh đón, rồi cùng với Hàn Ấu Nương vừa vui vẻ chuyện trò vừa đưa nữ khách theo hành lang bên hông vào trong hậu viện.

Dương Lăng đưa đám khách đàn ông vào trung đường. Trong chậu than lửa kêu tí tách, than củi thượng đẳng trộn lẫn hương liệu cháy thơm ngát cả căn phòng. Quản gia sớm đã bày biện đủ bàn ghế.

Mọi người ngồi vào chỗ trò chuyện cười đùa. Uống trà đàm đạo được một chốc, Dương Lăng mỉm cười đứng dậy nói:

- Ngô lão, Hoàng lão, các vị huynh đệ đồng nghiệp! Dương mỗ nhờ có các vị dốc lòng tương trợ, Nội xưởng mới có được ngày oanh oanh liệt liệt như hôm nay. Hôm nay là ngày tết ông Táo, Dương mỗ mời các vị hảo huynh đệ vào phủ sum họp một nhà là để biểu đạt sự tôn kính và lòng cảm tạ với các vị. Chỉ mong huynh đệ chúng ta nắm tay đồng hành, về sau kiến công lập nghiệp, Nội xưởng của chúng ta...

Đoạn y chỉ vào ngọn lửa đang cháy bùng trong chậu than nói tiếp:

- Nội xưởng của chúng ta dưới sự nỗ lực chung của các vị và ta sẽ huy hoàng rực rỡ, phát triển không ngừng như ngọn lửa này.

Liên Đắc Lộc cười lớn:

- Xưởng đốc quá khách sáo rồi, nếu như Nội xưởng không có đại nhân chủ trì thì sao có được oai phong của ngày hôm nay? Thỉnh thoảng ti chức trở về Thần Cơ doanh chơi, những người bạn đồng liêu nơi đó gặp ti chức đều kính sợ và hâm mộ không thôi. Theo đại nhân ngài kiếm sống, tuyệt đối là không sai.

Một trận cười lớn nổ vang khắp căn phòng. Bành Đắc Lộc ưỡn cái bụng phệ ra vẻ trịnh trọng gật gù phụ hoạ:

- Nói rất đúng. Thực ra lần đầu ti chức gặp đại nhân, thấy đại nhân bước lên điểm tướng đài, khí vũ hiên ngang, oai phong lẫm liệt, liền đã cảm thấy đại nhân tuyệt không phải là vật trong ao rồi. Nhãn quang của lão Bành quả nhiên không tệ!

Lời ba hoa tâng bốc của lão khiến ngay cả Phùng Đường xưa nay luôn hiền lành ít nói cũng nhịn không được phải bật cười phì. Dương Lăng mỉm cười nhìn lão, chế diễu:

- Thật như thế à? Khi đó bản quan bị Bào tham tướng gây khó dễ, dẫn mấy người các ông dùng đại lễ yết kiến Liễu thiên hộ; lúc bản quan đăng đài điểm tướng, bản quan thấy lão Bành ông hình như vẫn chưa tình nguyện quỳ xuống mà. Chẳng lẽ vì bụng quá to cho nên khó quỳ?

Bành Kế Tổ bị y trêu khiến khuôn mặt già đỏ au, nghe được câu cuối liền vội vỗ bụng tán thành:

- Chính phải, chính phải! Xưởng đốc thật anh minh. Ti chức đều bị cái bụng này cản trở, hắc hắc, là do cái bụng to này cản trở.

"Ha ha", mọi người càng cười to hơn. Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh nghe xong cũng không khỏi cảm khái vạn phần. Đúng là "nam sợ đi lầm đường, nữ sợ gả lầm chỗ". Mới nửa năm trước đây mình chỉ là một viên hiệu úy cỏn con của Cẩm Y vệ, từ ngày đi theo Dương Lăng lại thăng tiến như diều gặp gió, nay cho dù là Cẩm Y đề đốc gặp mình cũng phải đối đãi nồng hậu mấy phần. Chức thiên hộ này kẻ khác dù lăn lộn ba mươi năm cũng chưa chắc đã với tới được.

Đợi mọi người ngưng cười, Dương Lăng nói tiếp:

- Thành nhị đáng đầu là nữ nhân, không tiện cùng mọi người uống rượu, hiện cô ta đã ra hậu viện bầu bạn cùng phu nhân, chúng ta không cần phải...

Bành Kế Tổ ngoác miệng cười to:

- Cô ta không có mặt ở đây càng tốt. Lần trước cô ta đến Nội xưởng dạo một vòng, cặp mắt hoa đào đó liếc Bành mỗ một cái, hại khiến lão Bành ta tim đập thình thịch, cả ngày cũng không yên...

Liên Đắc Lộc ngồi cạnh chợt huých khuỷu tay vào hông Bành Kế Tổ khiến lão loạng choạng suýt ngã. Lão quay đầu lại bực bội la lên:

- Cái tên Liên mặt rỗ này, chưa uống mà đã bị ma men nhập rồi à?! Ngươi huých ta làm gì?

Liên Đắc Lộc nháy mắt với lão:

- Lỡ tay, chỉ là lỡ tay thôi mà! Ha ha, chốc nữa huynh đệ tự phạt ba chén là xong.

Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh không nhịn được cúi mặt cười thầm. Ngô Kiệt vừa vuốt râu mỉm cười vừa liếc nhìn Dương Lăng không nói gì. Dương Lăng thấy Vu Vĩnh nghiêng người kề tai nói nhỏ mấy câu với Bành Kế Tổ, khuôn mặt lão Bành lập tức xám ngoét như quả gan lợn, thấp thỏm liếc về phía mình, thì bất giác cũng cảm thấy lúng túng.

Đừng nói là ở thời đó, cho dù ở xã hội hiện đại thì việc trọng dụng một người con gái cũng đã là đề tài câu chuyện được mọi người say sưa bàn tán, huống hồ đó lại là một người con gái duyên dáng yêu kiều, phong tình tha thướt; làm sao không có những lời đồn đãi phong tình chứ?

Dương Lăng ho khan vài tiếng, vờ như không trông thấy, tiếp tục:

- Ngoài ra, bản quan còn muốn giới thiệu với các vị một vị bằng hữu: Hán Siêu!

Ngũ Hán Siêu từ nội thư phòng lách người bước ra, ôm quyền vái mọi người:

- Ngũ Hán Siêu ra mắt các vị đại nhân.

Mọi người thấy là người do Dương Lăng tự thân giới thiệu nên nào dám qua quýt, liền vội đứng dậy chào hỏi. Dương Lăng ra hiệu bảo Ngũ Hán Siêu ngồi vào chỗ rồi cười nói:

- Hán Siêu là công tử của Ngũ Văn Định đại nhân, Thành Đô đồng tri, là đệ tử thân truyền của chưởng môn chân nhân núi Võ Đang, giỏi văn hay võ, một thân tài nghệ hết sức cao cường.

Nội xưởng vừa mới thành lập, nhân tài thiếu hụt, bản đốc cầu hiền như khát nước, may kết giao được Hán Siêu, huynh ấy đã đáp ứng tương trợ bản đốc, gia nhập vào Nội xưởng cùng làm việc. Sau này Hán Siêu sẽ là đồng liêu của các vị, hôm nay các vị hãy cùng nhau gặp mặt, sau này chúng ta sẽ cùng hội cùng thuyền, cùng vượt qua hoạn nạn.

Nói xong Dương Lăng vỗ tay, gia bộc nối đuôi nhau đưa món ăn lên, nhất thời sơn hào hải vị, thức ăn hoa quả có đủ, thịnh soạn vô cùng. Từng chiếc đĩa sứ Thanh Hoa tinh xảo sáng bóng được bày lên bàn, tiểu tì nhẹ nhàng dâng rượu rót đầy từng chén rồi lui sang chầu chực một bên.

Dương Lăng nâng chén đứng dậy:

- Trên bàn rượu bất luận chức vị tôn ti. Ở đây Hoàng lão và Ngô lão tuổi tác cao nhất, trước ta xin kính hai vị trưởng giả, tiếp kính các vị huynh trưởng Bành, Liên, Phùng. Hôm nay chúng ta nhất định phải vui cho thoả thích, không say không về.

Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt vội đứng dậy chắp tay cảm tạ, mọi người đều theo Dương Lăng đứng dậy kính rượu hai lão. Hai ông già được Dương Lăng trọng đãi như vậy không khỏi cảm kích vạn phần, hai người ngưỡng cổ uống cạn rượu ngon trong chén, dốc cho mọi người xem chén rượu cạn trơn rồi mới mỉm cười ngồi xuống.

Dương Lăng cũng uống một hơi cạn rượu trong chén rồi từ từ ngồi xuống. Rượu hôm nay dịu mà tinh khiết ngọt lịm, uống vào hai má ngát hương, là rượu Phượng Tường chính gốc, mới uống vào thì cảm thấy không nặng, dần dà ngấm vào lại không nhẹ. Tửu lượng Dương Lăng không cao cho nên y chỉ kính rượu hai chén, sau đó mặc kệ đám người phàm ăn tục uống Bành Kế Tổ hét hò thi rượu.

Sau ba tuần rượu, thưởng thức đồ ăn đủ các loại mùi vị(*), Ngô Kiệt mới nghiêng người thấp giọng hỏi:

- Đại nhân, nghe nói lúc sáng Cẩm Y Vệ bắt được một tên đạo tặc lọt lưới, đã đặc biệt chạy đến báo tin cho đại nhân?

(*) nguyên văn "ngũ vị", chỉ các món mặn, ngọt, chua, cay, đắng.

Dương Lăng kinh ngạc cười nói:

- Tai mắt của Ngô lão càng lúc càng lợi hại, người Trấn phủ ti nha môn chạy đến ông liền biết rõ nội tình ngay. Đúng vậy, Thiệu Tiết Vũ quả thực đã phái người đến. Nhắc đến việc này, ta chợt nhớ đến một chuyện. Mục tiêu dò xét và truy lùng bên phía Ngô lão dường như chỉ chú trọng vào các quan viên văn võ; tin tức dân gian tuy phần nhiều là hoang đường không đáng tin, song tăng cường thêm bên phía ấy cũng rất có ích. Nội tình chuyện Dương Hổ đến nay chúng ta vẫn chưa nắm rõ. Sau này cũng nên chú ý thêm về phương diện này.

Ngô Kiệp đáp:

- Dạ! Bởi Nội xưởng vừa mới thành lập mạng lưới tình báo, nên vẫn chưa đủ sức xâm nhập đến mọi ngõ ngách. Ti chức lo ngại trong triều vẫn còn quan viên gây bất lợi cho đại nhân, cho nên cố ý yêu cầu bọn thám tử tập trung tinh thần vào triều đình nhiều hơn, việc trong thiên hạ chúng ta cũng sẽ dần dà để ý tới.

Dương Lăng ừ một tiếng, lại nghe Ngô Kiệt nói tiếp:

- Cẩm Y vệ nghe nói đại nhân bị tập kích, đã phóng ngựa khắp nơi, dốc lòng bán sức, vì bắt một tên cường đạo mà đã bị tử thương sáu bảy người. Đại nhân có biết vì sao Cẩm Y vệ lại dốc sức giúp ngài như vậy không?

Ánh mắt Dương Lăng lập tức trở nên tập trung, y thấp giọng hỏi:

- Bên trong còn có nội tình gì khác à?

Ngô Kiệt cười ra vẻ bí hiểm:

- Biếu lễ cho người tất có mưu cầu. Ban đầu Trương Tú của Cẩm Y vệ dựa vào Đông xưởng, phái Mâu Bân cực kỳ bất mãn với hành vi khom lưng uốn gối của lão ta, cho nên sau khi lên nắm quyền hắn vẫn duy trì khoảng cách với Đông xưởng, Tây xưởng và Nội xưởng, giữ cho Cẩm Y vệ không chịu sự tiết chế của ba xưởng. Nay hắn hao tâm tổn trí tặng cho đại nhân món nhân tình này, đương nhiên là có dụng tâm khác.

Dương Lăng rót rượu vào chén Ngô Kiệt, trầm ngâm:

- Ừm! Dạo này khoảng cách giữa Cẩm Y vệ và chúng ta đích thực không xa cũng không gần, song bọn họ lại đem hết sức mình giúp đỡ chúng ta điều tra chuyện buôn lậu của đám quan lại, sĩ tộc và thân hào cự phú vùng duyên hải. Mâu Bân và Thiệu Tiết Vũ lại hết lòng trợ giúp chúng ta bắt cướp như vậy là có dụng ý gì?

Ngô Kiệt mỉm cười đáp:

- Đây cũng chỉ là suy đoán của ti chức. Liên hệ hai việc bề ngoài không hề có liên quan gì với nhau mà suy đoán ra, tuy nhiên dựa theo những hoạt động nổi bật của Cẩm Y Vệ trong thời gian gần đây, dường như cũng chỉ có chuyện này là có thể giải thích được.

Đoạn lão liếm môi, mỉm cười nói:

- Hẳn đại nhân vẫn còn nhớ chuyện hai mươi mốt người Đới Nghĩa dâng tấu xin Hoàng thượng giữ lại Lưu Kiện và Tạ Thiên chứ?

Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Không phải là mấy lão ngự lại ngôn quan đó bị nhốt vào ngục một hồi rồi lại đuổi về rồi sao? Xui xẻo nhất là hai người Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân cũng đã được ta bảo vệ đưa đến Đại Đồng làm tướng. Chẳng lẽ lại có người đến gây chuyện hay sao?

Ngô Kiệt cười cười đáp:

- Vậy cũng không phải, chỉ là dư âm chưa nguôi mà thôi. Khi đám người Đới Tiễn bị bắt vào Cẩm Y vệ, lúc ở trong ngục đã viết tờ khai, luôn miệng mắng Lưu Cẩn là tên thiến cậy quyền. Tờ khai đưa vào cung, Lưu Cẩn xem xong thì rất lấy làm bất mãn, chưa dám dâng thẳng lên cho Hoàng thượng, mà trả lại Cẩm Y vệ kêu bọn họ sửa đổi lời khai rồi mới trình lên. Mâu Bân cả giận, hắn bảo xưa nay Cẩm Y vệ xét xử chưa từng có tiền lệ tự ý thay đổi lời khai của khâm phạm để dối gạt thiên tử, cho nên khăng khăng không chịu, hai bên đã căng thẳng nhiều ngày rồi.

Cốc Đại Dụng từng ra mặt hoà giải, nhưng Mâu Bân như cưỡi trên lưng cọp, lúc này mà hắn cúi đầu trước mặt thuộc hạ thì sẽ mất sạch oai phong, thế là đành phải mượn cớ chạy đến phương nam để tránh gió.

Mấy ngày trước còn có việc Doãn Chu Tỉ của phủ Thuận Thiên và Hầu Dương Nguyên của Ngũ Quan giám bị Lưu Cẩn phạt đình trượng đến chết. Lý do công khai là tham ô và chểnh mảng công vụ, song thực tế bên trong là bởi bọn họ qua lại quá thân thiết với Cẩm Y vệ, cho nên Lưu Cẩn mới giết gà để doạ khỉ.

Dương Lăng tựa lưng vào ghế ngẫm nghĩ một chốc, rồi lắc đầu cười khổ:

- Nói vậy không bao lâu nữa thì Thiệu trấn phủ sẽ lại đến nhà nhờ ta ra mặt hoà giải ư? Đã xét phạt cựu thần khiến cho đại học sĩ phải dẫn đầu bá quan đến quỳ dưới cổng cung, món nợ này còn chưa tính xong mà giờ lại quay sang gây sự với Cẩm Y Vệ rồi. Chậc! Lưu Cẩn ơi Lưu Cẩn, vị Lưu công công này tinh thần thật là khoẻ đây, lão ta nghĩ rằng có Hoàng thượng chống lưng thì không còn phải sợ gì nữa hay sao?

Bành Kế Tổ đang uống say đến độ con mắt lừ đừ, loáng thoáng nghe câu được câu mất, liền bật cười lớn chen lời:

- Lưu công công hả? Ờ... sức khoẻ đương nhiên có đủ, lão ta có sức mà không thể tiêu trên mình đàn bà, đương nhiên phải tìm ít việc làm để tiêu bớt sức lực rồi.

Liên Đắc Lộc cũng đã uống say quắc, khuôn mặt gầy gò đỏ gay như đít khỉ, cười hềnh hệch bảo:

- Lão Bành lại nói bậy rồi! Lời này mà lan truyền ra ngoài, chính ông sẽ là người "tiêu" đấy.

Bành Kế Tổ trợn mắt:

- Ai sẽ rêu rao ra ngoài hử? Là ngươi? Là ngươi? Hay là ngươi?

Ngón tay thô kệch của gã chỉ một vòng, đến khi chỉ tới mũi Dương Lăng, gã mới phát hiện bất tiện, không khỏi cười hắc hắc rồi cầm chén rượu của mình lên nốc một hơi.

Dương Lăng cười cười, cúi đầu trầm ngâm:

- Phía bắc có giặc Thát xâm phạm, dùng binh là việc lớn của nước nhà. Việc bãi bỏ lệnh bế môn tỏa cảng và dẹp trừ giặc Oa cũng cần triều đình thật tâm đoàn kết, trên dưới một lòng. Lúc này xưởng vệ lại đấu đá lẫn nhau thực không phải là chuyện tốt, xem ra việc hoà giải lần này vẫn phải do bản quan đứng ra thực hiện rồi.

- Không được!

Hoàng Kỳ Dận và Ngô Kiệt nãy giờ im lặng lắng nghe bỗng đồng thanh kêu to ngăn cản. Mấy người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu ngồi cách xa đó đang nâng rượu mời nhau nghe được câu này bèn quay đầu nhìn lại.

Hai ông già mưu sâu kế rộng liền vội nhỏ giọng lại. Hoàng Kỳ Dận nói:

- Đại nhân! Làm người tốt chưa hẳn đã là việc hay. Đại nhân nhất định đừng nhúng tay vào, nếu Thiệu Tiết Vũ tìm đến nhà, đại nhân cũng phải lựa lời thoái thác, khi nào bọn họ còn chưa phân rõ thắng thua, đại nhân chưa thể ra mặt.

- Hử?

Dẫu sao Dương Lăng vẫn còn trẻ, mấy chuyện ơn nghĩa nhân tình này y kém hiểu biết hai ông già lăn lộn lâu năm giữa chốn quan trường, chịu đủ mọi ghẻ lạnh này nhiều nên không khỏi nhìn bọn họ nghi hoặc.

Ngô Kiệt giải thích:

- Ti chức chính là lo Cẩm Y Vệ sẽ tìm gặp đại nhân, cho nên mới cố ý khơi ra chuyện này. Chuyện này rất quan hệ đến uy vọng của Cẩm Y vệ và Ti Lễ giám. Dựa vào ảnh hưởng của đại nhân, nếu đại nhân tỏ thái độ ủng hộ một phe, phe kia cũng chỉ có thể nuốt giận mà thôi.

Thế nhưng bất luận đại nhân có ăn nói khách sáo và uyển chuyển như thế nào đi chăng nữa, nếu đại nhân đã khuyên Lưu Cẩn nhượng bộ, để Cẩm Y vệ công khai trình lời cung tố cáo "bọn thiến lạm quyền" lên Hoàng thượng thì không chỉ Lưu Cẩn sẽ ôm lòng oán hận ngài mà Bát Hổ của Nội đình cũng sẽ canh cánh trong lòng. Còn nếu đại nhân khuyên giải Mâu Bân sửa xoá lời cung thì oai vọng mà hắn cực khổ gầy dựng trong Cẩm Y vệ cũng sẽ rơi xuống nghìn trượng.

Hoàng Kỳ Dận gật đầu tiếp lời:

- Trừ phi một phe chịu lùi bước, bằng không cuộc chiến rối rắm này sẽ không thể nào hoá giải. Nếu như đại nhân đứng giữa điều đình, thì phe phải lùi bước sẽ trút giận sang đại nhân. Bởi thế... đại nhân nên đặt thân mình ngoài cuộc, mặc cho bọn chúng đấu đá long trời lở đất, đợi đến khi một phe thất bại thảm hại rồi, lúc đó đại nhân hãy ra mặt thu nhặt tàn cuộc. Dù đại nhân chỉ hơi đưa tay cứu vớt, đảm bảo cho sự an nguy của bọn chúng thì bọn chúng, vốn đã hứng chịu đủ mọi khổ đau, vẫn sẽ phải mang ơn đội nghĩa đại nhân.

Dương Lăng nhìn hai người một lúc rồi lặng lẽ gật đầu. Quan lại đấu đá, diệt trừ lẫn nhau, sự cay nghiệt v vô tình trong đó y đã phần nào giác ngộ. Y đành thở dài bảo:

- Thôi bỏ đi. Mâu Bân đã chạy đi tránh gió, xem ra bản quan cũng phải trốn tránh một chút vậy.

Lưu Cẩn là đại thủ lĩnh Ty Lễ Giám, mấy ngày này sự vụ trong cung rất nhiều, lão ta nhất định không thể dứt ra bức bách Cẩm Y vệ làm việc cho lão. Ngày mai bản quan sẽ đi gặp Hoàng thượng, việc minh ước với Đoá Nhan Tam Vệ không thể trì hoãn quá lâu. Bản quan phải tấu xin Hoàng thượng phái một vị thân thuộc nào đó trong hoàng thất đủ để thay mặt triều đình đến Đại Đồng vào năm sau. Bản quan sẽ đi cùng y, trong kinh cứ để lão ta làm loạn đi.

Tiệc vui người say, đến lúc hoàng hôn nặng nề buông xuống, hầu hết mọi người trong phòng khách đã uống đến say mèm. Hai người Bành, Liên như hai con chó chết được thân binh dìu đỡ lên ngựa, vừa leo lên lại ngã cắm đầu xuống đất, khiến tay đội trưởng thân binh chỉ biết cười khổ sở gọi mấy tay phiên tử cường tráng cõng hai viên đáng đầu đang say như chết trở lên núi.

Phùng Đường bước chân cũng đã xiêu vẹo, song hành động vẫn còn tỉnh táo, cũng cáo từ Dương Lăng xin phép lui ra. Lão quản gia đi đến hậu đường báo Ấu Nương mời các vị nữ khách ra ngoài. Tiệc rượu trong hậu viện sớm đã tàn, Ấu Nương đang ngồi tiếp chuyện trong phòng khách, nghe tin liền vội đưa các vị nữ khách đến tiền sảnh.

Hàn Ấu Nương sắp sẵn gia nhân mang lễ vật theo sau. Nàng là nữ chủ nhân của Dương phủ, vốn có quyền tặng lễ vật, nhưng hôm nay Dương Lăng đáp tạ đồng liêu Nội xưởng nên nàng để Thành Khởi Vận giúp chọn ra vài món quà vừa hào phóng vừa đúng mực, nhằm trượng phu đích thân tặng khách.

Nghe Ấu Nương dặn dò xong, Dương Lăng mỉm cười đi đến trước mặt mấy người Ngô Kiệt và nói:

- Năm mới sắp đến, Dương mỗ có chuẩn bị một ít quà nho nhỏ tặng các vị, vẫn mong Ngô lão, Hoàng lão và Vu đại nhân đừng từ chối.

Đoạn y lấy từ trên tay gia bộc một gói quà, hai tay bưng lấy đưa cho Hoàng Kỳ Dận và bảo:

- Hoàng lão! Khí trời đang lạnh, Hoàng lão lại không tập võ, cả ngày chạy lên chạy xuống phủ trên núi e sẽ nhiễm phong hàn. Đây là hai cuộn nhung Lan Châu, nhẹ mềm lại giữ ấm, xin tặng Hoàng lão và phu nhân làm áo nhung.

Vải nhung Lan Châu vốn đã nổi danh, được chế tạo từ nhung của loài sơn dương, một cuộn nặng chỉ mười bốn lạng (một lạng Tàu tương đương 50gr - ND), mỏng nhẹ mà tinh xảo, trơn mượt như lụa tơ, mềm mại khít người, mặc vào rất ấm. Hai cuộn vải nhung này cầm vào càng thấy mềm mại nhẹ nhàng hơn mấy phần, xem ra là loại nhung Lan Châu thượng phẩm. Mặc dù đối với Dương Lăng thì giá trị của nó không quá quý giá gì, nhưng cũng đủ biểu lộ sự quan tâm yêu quý của y, Hoàng Kỳ Dận vui vẻ nhận lấy.

Dương Lăng cúi xuống xoa đầu đứa cháu nhỏ mới hơn mười tuổi của Hoàng Kỳ Dận, cười bảo:

- Thằng nhóc này lại cao thêm rồi, đã mời được thầy dạy chưa?

Thằng bé lễ phép thưa:

- Dương thúc thúc... Con chào đại nhân ạ! Hiện nay gia gia không có thời gian dạy con viết chữ đọc sách nữa, cho nên đã mời thầy cho con rồi. Thầy giáo không tốt bằng gia gia đâu, thỉnh thoảng lại đòi khẽ tay con nữa.

Dương Lăng bật cười lớn, mọi người đứng bên cạnh cũng không khỏi mỉm cười. Dương Lăng cười bảo:

- Con mà ngoan ngoãn đọc sách thì sẽ không còn ai khẽ tay con nữa đâu.

Nói rồi y thuận tay gở miếng ngọc bội đeo ở hông, miếng ngọc bích óng ánh trong suốt, rõ là loại thượng phẩm trân quý. Dương Lăng nhét nó vào tay thằng bé rồi dặn dò:

- Đây, thúc thúc đại nhân tặng con quà năm mới, mau cao chóng lớn, chăm chỉ đọc sách, học được một thân bản lĩnh nhé. Sau này con làm quan rồi sẽ chỉ có con khẽ tay người khác, người khác sẽ không khẽ được tay con nữa.

Nói rồi Dương Lăng đứng dậy, lấy một món quà khác nói với Ngô Kiệt:

- Ngô lão! Đây là hai cuộn lụa Tô Châu, một cuộn thảm lông Thiên Trúc, ngoài ra ở đây còn có một hũ rượu thuốc. Ngô lão là con cháu Ngô lão thần y Ngô Thanh Viễn, gia đình có truyền thống uyên bác từ lâu, lại biết y thuật. Có điều nếu như phương thuốc trị thấp khớp của ông đã không thể trị khỏi thì hãy dùng thử hũ rượu thuốc này của bản quan xem sao.

Ngô Kiệt hiểu ý bèn liếc sang Cao Văn Tâm đang đứng mỉm cười bên cạnh, cười đáp:

- Hẳn là do tay nữ thần y pha chế rồi? Ngô Kiệt thẹn là con cháu y đạo thế gia, thế mà ngoại trừ một ít phương thuốc tổ truyền là còn nhớ, đối với y thuật chỉ hiểu biết lơ mơ mà thôi. Thực đã làm phiền xưởng đốc đại nhân và Cao cô nương rồi.

Vu Vĩnh bàn đến chuyện buôn bán thì hết sức hào hứng. Nhưng bữa tiệc đêm nay không ai tình nguyện nói mấy chuyện này với hắn, nên hắn đành vừa uống rượu vừa tính toán mấy chuyện buôn ngựa Tây Bắc, chế áo lông Đông Bắc, nấu muối ăn duyên hải. Càng tính càng cảm thấy rất có lời nên tự rót tự uống vẫn cảm thấy rất thú vị, lúc này cũng phải nhờ tôi tớ dìu đỡ mới đứng vững được.

Dương Lăng cũng không dám đối đãi qua quýt với ông thần tài này, y cầm lên ba hộp gấm:

- Vu huynh trông nhiều hiểu rộng, bản quan cũng không biết nên tặng món gì. Ở đây có ba món nữ trang, tuy rằng giá trị không cao nhưng chế tác rất là tinh xảo, tặng cho phu nhân và con gái huynh vậy.

Vu Vĩnh coi Dương Lăng là tri âm có mắt nhìn người, vật phẩm của y tặng thì tốt xấu cũng không hề quan tâm, bèn vội cười nói:

- Đa tạ đại nhân! Na Na, Liễu Liễu, mau bước lên cảm ơn đại nhân đi.

Hai người thiếu nữ vội bẽn lẽn bước lên, uyển chuyển quỳ lạy, cất giọng dịu dàng:

- Na Na, Liễu Liễu cảm ơn Dương đại nhân.

Ở hậu trạch bọn họ đã bỏ khăn che mặt ra, khi trở về lại che mặt lại, hiện nay tấm lụa mỏng đã che phủ hai gương mặt.

Lúc bọn họ đến khách khứa rất đông, tuy Dương Lăng cảm thấy hai người thiếu nữ này có tấm thân khiến lòng người rung động, song cũng không thể chú ý nhiều. Lúc này y để ý mới thấy bọn họ vận áo xanh ống hẹp, áo chẽ bó sát người, quần dài mảnh khảnh, trên mặt lại phủ một lớp lụa mỏng chỉ để lộ cặp mắt long lanh màu lam; lúc đôi mày liễu cong vút ngó quanh thì thần thái trông hết sức mê người.

Hàn Ấu Nương cầm lấy hộp gấm trong tay Dương Lăng đưa đến tay người con gái có vóc dáng cao hơn, mỉm cười:

- Hai vị muội muội thật xinh đẹp, vẫn mong hai món nữ trang này có thể hợp với tâm ý của hai người.

Hai cô thiếu nữ cúi đầu vái thêm một vái, rồi mỉm cười nhận lấy hộp gấm.

Dương Lăng cười bảo:

- Ừm! Na Na nhất định là chị thứ hai, còn Liễu Liễu thì là cô em thứ ba rồi. Vu huynh, bản quan nói có đúng không?

Dương Lăng chưa đến tuổi nhược quán (20 tuổi), nhưng luôn mồm gọi lão là "Vu huynh", thực đã coi mình là thúc thúc của hai người thiếu nữ này. Người thiếu nữ có cặp mặt xanh ngắt như mặt nước hồ che miệng khẽ cười đáp:

- Dương phu nhân gọi con là muội muội, Dương đại nhân lại gọi cha là Vu huynh. Cha à, cha giỏi nhất là tính toán, không biết phép tính này nên tính thế nào nhỉ?

Vu Vĩnh trừng mắt với nàng, rồi đáp lời Dương Lăng:

- Đúng vậy, nha đầu tinh nghịch này chính là Na Na. Phùng Y Cống Phú Nhĩ Tư Thái Bá Cách Na Na, ha ha, đại nhân nghe thấy có oai phong không?

Mấy người Hàn Ấu Nương nghe thấy cái tên dài kỳ lạ như vậy đều bất giác che miệng cười, Vu Vĩnh không hề phát hiện, vẫn tự dương dương dương đắc ý. Chắp tay từ biệt Dương Lăng và các vị phu nhân xong, lão bước xiêu vẹo ra ngoài cổng, trèo lên kiệu trở về phủ.

Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và Ngũ Hán Siêu vừa rồi cũng đã ngà ngà say, khi thấy Dương Lăng đã hồi phục tinh thần, ba người liền vụt đứng thẳng người dậy. Các khuôn mặt tuấn tú tuy vẫn còn hồng hào nhưng ánh mắt đã lanh lợi sắc sảo trở lại.

Dương Lăng gật đầu hài lòng, bảo:

- Cực khổ cho các vị rồi, mấy ngày nay vẫn cần đề phòng kín kẽ. Đám đại đạo đó dám tụ tập mấy trăm người ngang nhiên gây án trong kinh sư, coi thường vương pháp, trong mắt vốn không hề có triều đình. Bọn chúng có còn to gan xông tiếp vào Dương phủ hay không, việc đó không ai dám nói trước. Liễu Bưu hãy ngủ ở tiền viện, điều hành việc phòng vệ.

Liễu Bưu mỉm cười chắp tay đáp:

- Tuân lệnh đại nhân. Bọn ti chức cũng không uống nhiều nên sẽ không để lỡ việc công,

Nói đoạn gã xoay người rời đi.

Dương Lăng gật đầu ra lệnh tiếp:

- Ừm! Nhất Thanh hãy đến hậu viện! Hầm sưởi đó là nơi bản quan hết sức coi trọng. Từ trận chiến hôm qua có thể thấy được rằng, nếu không cậy vào vũ khí lợi hại mà chỉ dựa vào sự tinh nhuệ của Nội xưởng ta thì sẽ không phải là đối thủ của đám đại đạo lục lâm vùng vẫy chốn núi rừng đó. Huynh phải hết sức cẩn thận.

Dương Nhất Thanh để lọt mất Hồng Nương Tử ngay dưới mắt mình trong khi Liễu Bưu ở nơi này đã vây đánh hơn hai trăm tên đại đạo ngang tàng hung hợn nhất trong giới lục lâm, trong lòng gã sớm đã cảm thấy hổ thẹn. Cho nên gã đã hao tổn tâm huyết đảm bảo an ninh cho hậu viện, nghe dặn dò xong liền tự tin đáp ngay:

- Đại nhân yên tâm! Trừ phi đám giặc đó không đến, bằng không cho dù có ba đầu sáu tay cũng sẽ không thoát khỏi thiên la địa võng của ti chức!

Ngũ Hán Siêu thấy Dương Nhất Thanh đã đi, bèn nôn nóng hỏi:

- Đại nhân! Tại hạ sẽ làm gì?

Dương Lăng nhìn đánh giá chàng ta mấy lượt, rồi mỉm cười hỏi Ấu Nương:

- Ấu Nương, nàng thấy vóc người của Hán Siêu có giống ta không?

Hàn Ấu Nương cười tươi đáp:

- Ưm, chỉ rắn chắc hơn tướng công một chút thôi.

Dương Lăng bèn cười nói:

- Vậy thì được rồi, nàng hãy chuẩn bị một bộ áo dài của ta, bảo người đưa đến phòng của Hán Siêu. Ngày mai ta muốn Hán Siêu cùng theo ta vào thành một chuyến.

Ngũ Hán Siêu nhìn lại mình từ trên xuống dưới một lượt. Dương Lăng mua quần áo cho y không chút keo kiệt, nếu vào thành thì cớ gì phải thay đồ của Dương Lăng chứ. Nhất thời y không biết Dương Lăng làm vậy là có dụng ý gì, trong lòng không khỏi hơi nghi hoặc.

Dương Lăng không để ý đến vẻ ngơ ngác của chàng ta, lại nói tiếp:

- Bản quan vẫn chưa mệt, hay đến phòng huynh ngồi một chút đi.

Nói rồi y đến bên cạnh Ngũ Hán Siêu,cùng sánh vai đồng hành, vừa đi vừa cười nhẹ:

- Nội công tâm pháp mà đêm qua huynh dạy cho ta, cái gì mà tay trái ôm nhật nguyệt, tay phải gạt Càn Khôn, bảo rằng lúc đi đường cũng có thể luyện tập đó, sáng nay ta mới thử một chút mà thiếu chút nữa đã trẹo cả lưng. Sáng sớm mai bản quan sẽ kêu quân dịch (quân bưu vụ, đội dịch trạm của quân đội) đưa thiệp bái sư đến thẳng Võ Đang cho Tiêu chưởng môn. Huynh có nói là chưởng môn chân nhân nhất định sẽ thu nhận ta, vậy bây giờ xin nhờ đại sư huynh tương lai chỉ giáo thêm cho tiểu đệ luôn nhé!

Ghi chú:

loại rượu trắng nổi tiếng ở huyện Phượng Tường, Thiểm Tây, Trung Quốc

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 177: Chính hợp ý trẫm

------------------------

Dương Lăng đến cổng cung, kiệu phu và bốn tay thị vệ tự đi sang chỗ tránh gió để sưởi nắng và nghỉ ngơi. Chỗ ở của Dương Lăng cách nơi này quá xa. Thường ngày y đều cưỡi ngựa vào thành nhưng lúc này hai tên đầu sỏ của bọn thổ phỉ một đã chạy trốn, một thì không biết có còn ẩn náu trong kinh sư không. Cho nên Dương Lăng không dám chủ quan, sợ chẳng may sẽ bị trúng tên bắn lén.

Chiếc ghế mềm nửa nằm hoa lệ trong chiếc kiệu lớn này đã bị bỏ đi, thay bằng hai băng ghế, một trước và một sau. Ngồi đối diện tấm rèm vải mỏng che cửa sổ kiệu ở băng trước là Ngũ Hán Siêu đang ăn mặc giống y. Dương Lăng ngồi băng phía sau, nhìn từ bên ngoài tuyệt không thấy chỗ nào đáng ngờ.

Dương Lăng là 'khách quen' trong cung, dù thị vệ trực gác được thay phiên ba ngày một lần nhưng ai cũng có thể nhận ra vị đại nhân này. Ngọ môn tướng quân (viên quan gác cổng Ngọ môn - ND) nhận lấy thẻ bài bằng ngà, liếc qua lấy lệ, rồi tươi cười hai tay dâng trả cho Dương Lăng.

Dương Lăng thuận tay nhét thẻ bài vào trong người rồi hỏi:

- Hoàng thượng vẫn chưa bãi triều à?

Ngọ môn tướng quân cười đáp:

- Dạ phải thưa đại nhân, hạ quan vẫn luôn canh gác cổng cung, các vị đại nhân chưa rời cung đâu.

Dương Lăng khẽ gật đầu, không xuôi theo hướng cầu Kim Thủy, mà đi vòng qua điện Thái Hoà. Lúc này tiếng chuông, trống đồng loạt vang lên, bá quan bãi triều, Dương Lăng đứng dưới cột hành lang lầu gác, đợi cho bá quan văn võ lui hết ra, đội nghi trượng của hoàng đế đi về phía hậu điện, đến khi chiếc lọng vàng khuất khỏi tầm mắt, y mới tiếp tục cất bước về phía trung điện.

Đến trước điện Hoa Cái, chỉ thấy có hai vị đại nhân đang nổi giận đùng đùng bước ra khỏi cổng điện, từ từ chạm mặt với Dương Lăng. Dương Lăng nhận ra họ gồm đại tài tử Vương Ngao từng thi đỗ Tam Nguyên và Chiêm sự Dương Phương thì lấy làm bất ngờ, bước chân bất giác dừng lại, chắp tay thi lễ với bọn họ.

Sau khi Lưu Cẩn giáng chức Lưu Kiện và Tạ Thiên, Dương Phương vì phẫn nộ mà cáo bệnh về quê, đã lâu không ở trong kinh, hôm nay bỗng thấy ông ta lộ diện, tuy không còn giữ cương vị xưa, song Dương Lăng vẫn dùng lễ đối đãi.

Dương Phương tuy già nhưng vẫn rất kiên cường, dù biết hiện nay chức vị Dương Lăng tuy không đổi, nhưng quyền thế ngút trời, có thể ảnh hưởng thao túng triều chính, song vẫn giữ mắt nhìn thẳng, lướt ngang vai mà đi.

Cách nhìn của Vương Ngao về Dương Lăng đã thay đổi rất nhiều, nhất là sau lần bá quan quỳ trước cổng cung trong đêm tuyết, Dương Lăng khuyên bảo hoàng đế thu hồi danh sách bè lũ gian thần, lại tiến cử Dương Nhất Thanh đang bị bãi quan và Vương Thủ Nhân đang ở trong ngục cầm quân giữ ấn, thì cảm nhận của ông về y tốt hơn rất nhiều. Thấy Dương Lăng thi lễ, ông vội vã dừng bước trả lễ và nói:

- Dương đại nhân hãy bớt lễ tiết, Dương chiêm sự đã phát sinh tranh chấp với Lý đại học sĩ nên mới tức giận bỏ đi, Vương mỗ phải đi khuyên giải đã.

Vương Ngao, Dương Phương vốn có quan hệ thân thiết với Lý Đông Dương, Dương Lăng không biết giữa bọn họ có tranh chấp gì, bèn vội mỉm cười nói:

- Xin Vương đại nhân cứ tự nhiên.

Vương Ngao cười gượng gạo rồi nâng áo đuổi vội theo Dương Phương. Dương Lăng ngẩn ngơ một chốc rồi cũng xoay người đi vào điện Hoa Cái.

Tiểu thái giám trông thấy Dương Lăng đến, vừa định cao giọng xướng lễ, Dương Lăng đã vung tay ngăn lại. Vén tấm rèm che làm bằng da dê dày cộp, y bước vào buồng sưởi bên phải. Bên trong, Lý Đông Dương đang ngồi chấp bút phê duyệt tấu chương.

Thấy Dương Lăng đi vào, Lý Đông Dương vội gác bút đứng dậy, mỉm cười với y:

- Dương đại nhân, sao hôm nay nhàn rỗi đến thăm vậy? Xin hãy mau ngồi.

Dương Lăng cười đáp:

- Không dám nhọc đại nhân đâu.

Nói đoạn tự kéo chiếc ghế dựa đến đầu bàn ngồi. Lý Đông Dương gọi người dâng lên một chén trà nóng, ngồi xuống rồi nói:

- Lão quan hoảng sợ khi nghe đêm qua có đám giặc cướp trắng trợn xông vào phủ của đại nhân gây hại, bản tấu của bộ Hình ghi lại không tỉ mỉ, chẳng hay bên ấy đại nhân có tình hình cụ thể và chi tiết không?

Dương Lăng đáp:

- Mấy tên giặc cướp bị bắt hung hãn không sợ chết, song cực hình của xưởng vệ không phải thứ mà da thịt có thể chịu đựng được, bọn chúng không thể không khai. Theo khẩu cung của đám đạo tặc đó, thủ lĩnh của bọn chúng là đại đạo Dương Hổ quả thực có ý đồ mưu phản, có điều hành động ban đêm tập kích phủ đệ của bản quan lần này dường như là do bất chợt nảy sinh, tuy nhiên rốt cuộc vì sao bọn chúng lại tụ tập đông người như vậy lặng lẽ vào kinh thành, thì đám đạo phỉ đó cũng không nắm rõ cụ thể.

Lý Đông Dương chau mày, khẽ gật đầu, nói:

- Ta đã xem qua kỹ lưỡng công văn từ bộ Hình, nếu nói bọn chúng đến là vì Dương đại nhân, về tình hay lý đều không thuyết phục, càng không cần phải giả danh Dương Phúc kết giao với đại nhân. Xem ra đích thực là do nhất thời nảy lòng, thay đổi kế hoạch, rốt cuộc mục đích ban đầu bọn chúng vào kinh là để làm gì, thực khiến người ta khó lòng nghĩ ra.

Dương Lăng cười nói:

- Lúc này để bộ Hình và quan phủ Bá Châu đi lùng bắt là được rồi. Những chuyện khôi hài về kẻ ngu dân mù quáng tin vào mấy lời nói vô căn cứ, tự cho mình là chân mệnh thiên tử nhiều vô số kể, hiện triều đình đang phát lệnh truy nã, thiết nghĩ bọn chúng cũng sẽ không dám giở trò gì đâu.

Chẳng phải thôn Mạnh Trì tỉnh Hà Nam từng có người tự cho mình là hoàng đế, nửa số dân của cả thôn đều là tể tướng, đại thần, đứa bé mười tuổi cũng phong làm Trạm Điện tướng quân, xưng vua gọi chúa hơn hai mươi năm mới bị triều đình phát hiện đó sao? Tiên đế hay tin cũng chỉ cười xoà cho qua, đám ngu dân đó không một ai bị trừng trị cả.

Lý Đông Dương nhìn y một cách đầy thâm ý, rồi vuốt râu nói:

- Hình như Dương đại nhân có ý rất muốn thông cảm lượng thứ cho đám cường đạo có ý đồ phản nghịch này thì phải?

... đoạn lắc đầu:

- Con đê dài nghìn dặm vỡ toang chỉ vì tổ kiến nhỏ, nhà cao trăm thước cháy rụi chỉ bởi ống khói hư. Dương Hổ không giống như đám ngu dân đấy. Hắn đã liên lạc đại đạo lục lâm của tam sơn ngũ nhạc, âm mưu tạo phản, thậm chí tập kích trọng thần triều đình ngay dưới chân thiên tử, có thể thấy sự hung hãn. Một khi khởi sự, nhất định sẽ là họa lớn khôn lường.

Dương Lăng gật đầu nói:

- Đại nhân nói chí phải, có điều cái họa của bọn trộm cướp vốn lại do tệ nạn của triều đình, bằng không hôm nay diệt trừ Dương Hổ, ngày mai lại sẽ có Trương Hổ, Lý Hổ, sẽ không bao giờ giết hết được.

Tiên đế nắm quyền hơn mười năm, chăm lo việc nước, là vị vua hiền minh sáng suốt xưa nay hiếm có, chỉ bởi không biết vì sao mấy năm nay thiên tai liên miên, thường xuyên có lũ lụt cuồn cuộn nơi này, hạn hán nghìn dặm nơi nọ, lại có một đám tham quan không biết thương xót dân tình. Bá tánh thiếu cơm ăn áo mặc, nên mới mặc kệ triều đình trong sạch hay thối nát, bị kẻ có lòng mê hoặc, khó tránh có người làm loạn.

Y nâng chén hớp một ngụm trà, rồi nói tiếp:

- Những vật trồng Nam Dương mà hạ quan giới thiệu quả thực có thể khiến sản lượng lương thực Đại Minh tăng trưởng mấy lần, cứu giúp vô số bá tánh. Hạ quan cho rằng Dương Hổ đột nhiên nảy lòng mưu hại bản quan, chính là vì những mầm cây được chăm sóc trong hầm sưởi mà ra. Có lẽ thoạt đầu hắn vì bị bức bách nên làm giặc, nay đồng bọn mỗi lúc một đông, lòng tham cũng lớn theo dần, có ý dòm ngó ngôi báu quốc gia, đương nhiên sẽ không từ thủ đoạn.

Lý Đông Dương cười lớn:

- Từ khi bản quan nghe nói về những giống cây trồng Nam Dương mà đại nhân giới thiệu, đã từng phái người đến Nam Dương điều tra qua một phen, đám cây trồng đó sản lượng quả thực rất cao. Tuy lão quan không biết Đông Bắc và Tây Bắc có thích nghi để trồng trọt hay không, song nếu trồng trên dải đất rộng lớn ở Giang Nam nhất định sẽ không thành vấn đề.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nói:

- Đại nhân đã điều tra rồi ư? Hạ quan tuyệt không nói dối. Đất khô hạn hoặc lạnh lẽo cũng đều thích hợp để trồng, sang xuân sau khi trồng thử liền sẽ biết rõ đúng sai, có điều việc này cũng chỉ có thể giúp bá tánh no bụng, nếu muốn cho dân giàu nước mạnh, giải trừ cấm biển mới là khẩn thiết.

Bá tánh vùng duyên hải chiếm ít nhất một phần tư dân số Đại Minh, nơi đó ba phần núi, sáu phần nước, ruộng đất chỉ chiếm một phần, đất hẹp người thưa, ngũ cốc không phong phú. Người dân sống ven biển đều lấy thuyền làm nhà, lấy biển làm ruộng, cấm biển rồi, sinh kế của bá tánh tiêu điều, khiến những kẻ tụ tập làm giặc mới ngày một đông.

Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, không chỉ giúp bá tánh được sung túc, làm dồi dào quốc khố, hơn nữa còn có thể tăng cường giao lưu với mọi quốc gia hải ngoại, người nước ngoài có sở trường của họ, chúng ta có sở đoản của chúng ta, lấy sở trường của họ bổ sung cho sở đoản của ta, trăm sông đổ về biển lớn, đều là con đường duy nhất để con dân Đại Minh có thể mở rộng tầm mắt và kiến thức, triều đình có thể mở rộng biên cương, kéo dài lãnh thổ, quân đội lớn mạnh, oai danh tứ hải. Đóng cửa làm xe còn không vừa khớp, huống hồ là một quốc gia to như vậy?

Lý Đông Dương gật đầu nói:

- Tình hình duyên hải, bản quan cũng đã sai người điều tra kỹ càng tỉ mỉ. Người xưa có nói: hang chuột tuy là nguồn gốc của cái xấu, cũng cần phải giữ lại một cái, nếu bịt hết lại rồi, nơi đâu cũng sẽ toàn lỗ thủng. Gỡ bỏ lệnh cấm thông thương cũng có cái tác hại của nó, nhưng việc cai trị vốn là bỏ hại lấy lợi, chỉ vì mắc nghẹn mà bỏ cái ăn là điều rất không khôn ngoan.

Ông nhướng mắt mỉm cười:

- Thật ra bản quan cũng đã cân nhắc nhiều ngày, ta nguyện ý giúp đỡ Dương đại nhân gỡ bỏ lệnh cấm biển, mưu lược thông thương cùng với ngoại bang. Có điều theo bản quan thấy, vẫn còn hai điểm cần phải thương thảo. Thứ nhất là không thể thuyết phục bá quan triều đình, thứ nhì là nếu hiện tại gỡ bỏ lệnh cấm toàn diện, được cái này sẽ mất cái kia, loạn giặc Oa trên biển còn chưa...

Dương Lăng hưng phấn cắt ngang:

- Điểm thứ nhất không khó xử lắm, chỉ cần Lý đại học sĩ gật đầu đồng ý, những việc khác xin cứ giao cho hạ quan đi làm. Còn về điểm thứ hai, đại nhân lo lắng rất phải, hạ quan cho rằng có thể mở lại Bạc ty ở Ninh Ba và Quảng Châu thị trước, rồi mở tiếp Bạc ty ở Thiên Tân thị, cộng thêm Bạc ty sẵn có ở Tuyền Châu thị, tổng cộng bốn nơi.

Thiên Tân thông với Triều Tiên, La Sát. Ninh Ba thông với Nhật Bản. Tuyền Châu thông với Lưu Cầu. Quảng Châu thông với Chiêm Thành, Xiêm La và các nước Tây Dương. Tiếp để bộ Hình, bộ Lễ và bộ Hộ lập ra các nha môn quan lại quản lý luật pháp, tố tụng, thuế khoá và nghị định về giá cả hàng hoá giao dịch thông thương trong và ngoài nước. Đại nhân thấy có được không?

Điều mà Lý Đông Dương lo lắng nhất là Dương Lăng lạm quyền độc đoán, giành nắm hết quyền thông thương vào tay, nghe y nói vậy thì không khỏi lấylàm kinh ngạc: Dương Lăng hao tâm tổn sức muốn gỡ bỏ lệnh cấm thông thương, chẳng lẽ lại không hưởng bất kỳ lợi ích, không muốn bất cứ quyền lợi gì ư?

Lý Đông Dương do dự một hồi, hỏi:

- Dương đại nhân khởi xướng việc này, chẳng lẽ một khi gỡ bỏ lệnh cấm rồi, nội xưởng sẽ không can thiệp vào trong ư?

Dương Lăng cười thầm trong bụng. Xem ra vị Lý đại nhân này không chỉ là hạng văn chương sáo rỗng, mà cũng biết theo đuổi lợi ích, là một người thực dụng đây. Một khi lệnh cấm thông thượng được gỡ bỏ, cửa hàng ngựa xe rải rác khắp toàn quốc của Dương Lăng sẽ trở thành ngành vận chuyển lớn nhất khống chế tiền bạc lưu thông, nếu nói một ngày thu về một đấu vàng thì cũng không hề quá lời chút nào

Dương Lăng lại nắm quyền Ty Thuế Giám, đến khi đó không biết bao nhiều người sẽ đâm lén, bắn trộm, ghen tức với lợi ích của y, cho dù Bát Hổ hiện giờ đang cương quyết đứng chung chiến tuyến với y, về lâu về dài cũng khó đảm bảo sẽ không có dị tâm. Dương Lăng sớm đã muốn vứt bỏ cái Ty Thuế Giám này.

Dương Lăng cười đáp:

- Người thông thương trên biển qua lại với ngoại bang rất nhiều, vừa có bộ Hình phán quyết kết quả kiện tụng, Cẩm Y Vệ lùng bắt con buôn phạm pháp, Ty Thuế Giám và Ty Thuế lại của bộ Hộ thay nhau phụ trách, Ty Thuế Giám thu thuế, Ty Thuế Lại giám sát thuế, cũng có thể đổi ngược lại, khiến cho các nha môn chế ước lẫn nhau, có thể tránh việc các nha môn mạnh ai nấy làm, tự tạo danh mục, giúp cho bá tánh đỡ khổ.

Lý Đông Dương cười vui vẻ nói:

- Xem ra Dương đại nhân suy nghĩ tường tận, sớm đã có lòng tin. Rất tốt, đại nhân thấy khi nào thì nên dâng tấu lên Hoàng thượng?

Dương Lăng thầm tính toán: thám mã điều tra quan viên có bố cảnh thân hào sĩ tộc duyên hải trong triều vẫn chưa đưa tin tức về đầy đủ, chiến sự phương bắc đang căng thẳng, lúc này đề xuất chính sách mới cũng không thích hợp, bèn nói:

- Bản quan thấy hay là đợi chiến sự phương bắc yên ả trở lại, triều đình mới có toàn lực ứng phó làm tốt việc lớn này. Vậy quyết định vào... tháng hai năm sau thì thế nào?

Lý Đông Dương mỉm cười gật đầu, Dương Lăng thoải mái trong lòng, đặt chén trà lên bàn, lúc này mới để ý trên bàn đang bày ra một bức tranh. Nếu là công văn Lý Đông Dương đang xử lý thì y cũng không tiện xem kỹ, nhưng nếu là một bức tranh thì lại không có gì. Dương Lăng thuận tay xoay bức tranh lại, chỉ thấy trên tranh vẽ một bà lão xấu xí đang cưỡi trên lưng một con trâu, vênh vang thổi sáo, trên trán bà lão đề một hàng chữ nhỏ: "Sự nghiệp tể tướng của Lý Tây Nhai là đây".

Tây Nhai là tên hiệu của Lý Đông Dương, kẻ nào mà quá to gan, không ngờ dám sỉ nhục lão như thế? Dương Lăng giật mình thất kinh, liền không kịp nhìn kỹ bên dưới, ngạc nhiên hỏi:

- Là... là kẻ nào vô lễ như vậy, dám vẽ tranh sỉ nhục đại nhân vậy?

Lý Đông Dương cười hờ hững, nói:

- Dương Phương và lão phu đùa giỡn một chút mà thôi, không can hệ gì, ha ha.

Dương Lăng nhớ lại ình cảnh ban nãy Dương Phương nổi giận đùng đùng rời khỏi đây, lại đăm chiêu xem tiếp phía dưới bức tranh đó. Tranh không phải mới vừa được vẽ, nhưng bên tranh lại đề một bài thơ chưa ráo mực, hiển nhiên mới được đề lên chưa lâu. Bài thơ tuyệt cú đó như rồng bay phượng múa, viết rằng: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca." (dịch thơ:)

Lời đề tặng cũng là Tây Nhai, thì ra là khi nãy Lý Đông Dương xem xong tranh đã đề thơ. Câu thơ khí phách vô cùng, không hề quan tâm đến ý châm biếm ông ăn trên ngồi trốc, cúi đầu với nịnh thần ở trong tranh, ngược lại còn xoay chuyển bố cục, đưa ra một cái nhìn khác. Dương Lăng giở tranh xem xong, đứng thẳng người dậy, cung kính vái Lý Đông Dương một vái thật dài.

Lý Đông Dương kinh ngạc hỏi:

- Dương đại nhân làm vậy là ý gì?

Dương Lăng đáp:

- Đại học sĩ khí tiết thanh cao, bụng dạ rộng lượng, khiến cho Dương Lăng khâm phục không thôi. Bức tranh này do tài tử Dương Phương vẽ, Thủ phụ Lý công đề thơ, Dương mỗ xem xong xúc động muôn phần. Thanh giả tự thanh, trọc giả tự trọc, còn mong đại học sĩ tặng bức tranh này cho hạ quan, hạ quan nguyện học theo đại nhân, vì Đại Minh, vì bá tánh, còn sợ chi lời ra tiếng vào?

Trong mắt Lý Đông Dương thoáng loé lên vẻ kỳ dị. Lần trước Dương Lăng đến nhà thăm viếng, vừa vào đề liền mắng ngay Bát Hổ, ông liền thầm nghi ngờ Dương Lăng làm vậy là vì muốn chơi trò hai mặt với Bát Hổ, mượn sức Bát Hổ để thể hiện tham vọng trong lòng. Quan sát hành động của y hôm nay, nghe ý tứ trong lời nói của y, hiển nhiên đây cũng là người đồng đạo. Lý Đông Dương lo lắng ở chỗ Bát Hổ thế to, hoàng thượng lại ham chơi, đế quốc to như vậy, một mình ông khó chống, nếu như Dương Lăng thật sự là người cùng chung chí hướng, vậy còn phải lo lắng gì?

Lý Đông Dương mừng lắm, nói:

- Chỉ là một bức tranh mà thôi, nếu như Dương đại nhân thích, vậy cứ cầm lấy đi.

Dương Lăng cuộn bức tranh lại cất vào người, ngồi xuống rồi nói:

- Vừa rồi Dương đại nhân nuốt giận mà đi, lại để lại bức tranh ngầm châm biếm, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Lý Đông Dương nói với giọng bất đắc dĩ:

- Lưu công công chủ trì nội đình trước nay, một số đại thần trong triều rất bất mãn, lũ lượt cáo bệnh không đến nha môn làm, khiến cho rất nhiều nha môn có quan lại không ai xử lý công việc, công văn chất cao như núi.

Cộng thêm chiến sự phương bắc căng thẳng, trưng dịch, sung quân, chiến sự, cứu tế, lương thảo, điều binh, liên can đến hơn chục nha môn, quan chủ sự vắng mặt, chánh lệnh không được thi hành, đã lỡ rất nhiều đại sự.

Lưu công công giận đến tím mặt, liền ban lệnh rằng: quan viên không thể xử lý công vụ đến một tháng do bị bệnh, miễn bổng lộc tháng đó; đến một năm, giáng xuống chức quan nhàn tản; đến ba năm, bãi quan làm dân, không bao giờ thu nhận lại.

Những quan viên đó hết cách đành phải trở lại nha môn làm việc. Lưu công công vẫn chưa nguôi giận, lại xin thánh dụ, nói rằng quan văn quá lạm dụng ban thưởng, sau này nếu không có chiến công hiển hách, chính tích chói lọi, không được ban thưởng. Dương đại nhân vừa mới trở lại nha môn, nghe được tin tức chỉnh đốn quan văn này liền giận đến tím mặt, tìm gặp lão phu để lý luận, kết quả... Chao ôi!

Dương Lăng nghe xong cũng phẫn nộ vô cùng: đây mà là thanh quan ư? Bất chấp đại cuộc, không thấy được đạo lý, chỉ vì cái 'phong cách thanh cao' đáng tởm ấy của bọn họ, mà gác lại toàn bộ chính sự sang một bên, gác lại việc quân có quan hệ đến sống chết của hàng nghìn hàng vạn bá tánh sang một bên, cáo bệnh nghỉ ốm, yên tâm thoải mái mà hưởng thụ bổng lộc triều đình. Thật là một đám khốn nạn!

Dương Lăng nghiến hàm răng lại, cười gằn nói:

- Quan lại tham ô phạm pháp, không đáng dùng! Quan lại thanh liêm nhưng tầm thường vô năng, không đáng dùng! Quan lại bảo thủ tuy thanh liêm và giỏi giang song lại thiển cận, trở ngại triều đình trừ bỏ tệ bệnh, hưng thịnh Đại Minh, càng không đáng dùng! Có lẽ Lưu công công có rất nhiều điểm bị người ta chỉ trích, và mục đích để chỉnh đốn lại cũng không chính đáng gì, nhưng quan lại như vậy, thực đáng vứt đi không dùng. Hạ quan kiên quyết ủng hộ quyết định này của Lưu công công.

Dương Lăng đã thật sự nổi giận, bèn đứng dậy nói:

- Đại học sĩ không cần phải khó xử, những việc ác này hãy cứ giao cho Lưu công công đi làm là được. Triều đình thực thi biện pháp chính trị, dẫu sao cũng không thể không mất lòng nhau, cả nhà cùng vui. 'Trầm chu trắc bàng thiên phàm quá, bệnh thụ tiền đầu van mộc xuân'(*), những hủ bại vướng víu chân tay này, cứ đá văng đi là xong! (*tạm dịch: một chiếc thuyền chìm nghìn chiếc vượt, một cây phải bệnh vẫn xanh rừng)

Dương Lăng cáo từ lui khỏi điện Hoa Cái, cơn giận trong lòng mới nguôi được một ít. Tuyết đọng trong cung đã được quét sạch, không khí khô mát, Dương Lăng hứng cơn gió lạnh lùa vào mặt, thần chí liền thanh tỉnh lại, mới cảm thấy mình vô cớ nổi giận như vậy, dường như đã quá dễ bị kích động rồi.

Y âm thầm cảnh tỉnh bản thân: giờ đây quyền uy của mình mỗi ngày một lớn, mỗi một lời nói mỗi một hành động đều dẫn đến sự chú ý của mọi người, không nên hành động theo cảm tính, giận vui đều lộ hết ra mặt, sau này cần phải để ý tu thân dưỡng tính hơn, học cách đối nhân xử thế.

Dương Lăng uốn cong lưỡi hít sâu vào một hơi, toàn thân thả lỏng, rồi dựa theo phương pháp mà Ngũ Hán Siêu đã chỉ dạy: tay trái vòng vào trong, như vẽ một quả cầu tròn, ngón trỏ tay phải bấm vào chi ngọ trên ngón giữa, hai gối hơi trùng, chân đi chậm rãi, như bước nhẹ trên mây.

Đây là nội công tâm pháp thượng thừa của Võ Đang, nếu luyện đến đại thành, có lẽ phải mất đến mấy mươi năm. Dương Lăng đã qua tuổi đẹp nhất để tập võ, cũng không nghĩ hề nghĩ sẽ luyện thành cao thủ võ lâm gì, chủ yếu luyện cho tinh thần và thể xác được khỏe mạnh và tu thân dưỡng tính mà thôi.

Có điều thuật thổ nạp này quả thực có chỗ kỳ diệu, chẳng những khiến tâm linh con người thanh sảng, không còn bồn chồn nóng nảy, tĩnh tọa một hồi cũng có thể giải trừ mệt mỏi, tinh thần sảng khoái. Dương Lăng chẳng thèm quan tâm đến cái gì là môn quy, nghe xong khẩu quyết, hỏi cho kỹ càng, trở về liền giảng kỹ lại cho Ấu Nương nghe một lượt. Hàn Ấu Nương vốn đã có nền tảng vững chắc, lại từng luyện qua ngạnh khí công, vì vậy học thêm công phu thượng thừa không khó. Bản thân Dương Lăng đã không thể thành tài, nhưng nếu nương tử học được rồi, thì chẳng khác con cháu đời sau của nhà họ Dương cũng sẽ học được, cái lợi trong đó Dương Lăng coi như cũng hiểu được.

Dương Lăng mới học mới luyện, động tác hơi lóng ngóng, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tim, dáng đi kỳ dị nhẹ nhàng tiến về phía Tây Noãn gác cung Càn Thanh. Khi ngẩng đầu thì nhìn thấy Chính Đức toàn thân vận long bào màu đen tuyền, đầu đội mũ Dực Long, tay ôm cái lò sưởi trước bụng, đang nhìn y cười tủm tỉm, đám thái giám và cung nữ đúng chung quanh và một đám người cũng đều đang ngóng nhìn, mặt đầy vẻ hiếu kỳ.

Dương Lăng không khỏi cười ngượng nghịu, liền vội bỏ tư thế đó rồi vội vã bước tới thi lễ:

- Vi thầm tham kiến hoàng thượng. Sao hoàng thượng lại đứng đây?

Chính Đức anh tuấn, mặt như ngọc, kéo Dương Lăng dậy mừng rỡ nói:

- Ha ha, trẫm đang ở trong sân xem du hí tạp kỹ, nghe có người nói khanh đi lắc la lắc lư, giống như một con vịt, cho nên chạy qua xem náo nhiệt một chút.

Dương Lăng thoáng đỏ mặt, trông thấy trong sân dựng cái đài, cửa điện Noãn gác mở rộng, bên trong đốt một lò than, chính giữa bày một chiếc ghế nằm hình rồng cuộn, bên trên trải thêm một tấm thảm nhung mượt trắng như tuyết.

Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn si mê những trò tạp kỹ này, không khỏi nhắc nhở nhẹ nhàng:

- Hoàng thượng, cũng khó trách đám ngoại thần càm ràm bát sát, hoàng thượng đã kế thừa đế vị, cưới hậu nạp phi, qua mấy ngày nữa sẽ thay đổi niên hiệu thành Chính Đức, nay trong triều chưa ổn định, biên ải lại đang có chiến tranh, ngài thật không nên quá phân tâm vào những việc này.

Chính Đức nhăn nhó nói:

- Lý học sĩ khuyên, Dương sư phụ khuyên, Tiêu đại nhân khuyên, giờ khanh cũng tới khuyên trẫm. Bị nhốt trong thâm cung, mỗi ngày những nơi trẫm có thể đi đến chỉ có điện Thái Hòa, cung Càn Thanh, cung Nhân Thọ. Sinh ra và lớn lên ở đây, ngẩng đầu lên là cái bầu trời đó, cả ngày ngoại trừ thượng triều, nghe giảng, phê duyệt tấu chương, thì không còn gì khác, ít ra cũng phải để trẫm kiếm chút gì đó làm chứ? Dương thị độc, tấu chương của trẫm đều được phê duyệt đúng hạn, tuyệt không tồn đọng đâu nhé.

Dương Lăng nghe hoàng thượng 'kể khổ' như vậy, chỉ đành nói:

- Nhưng mà... trời lạnh rét, hoàng thượng dựng đài xem tạp kỹ trong sân, cửa Noãn gác lại mở toang, nếu bị nhiễm phong hàn, vậy sẽ nguy biết bao!

Chính Đức không nghĩ vậy, nói:

- Đâu dễ như thế. Sáng nào trẫm cũng luyện Thái tổ trường quyền hai lần, đều mặc áo manh giáp mỏng, luận về thân thể, trẫm còn khỏe khoắn hơn khanh đấy.

Đoạn y phấn khởi nói:

- Đúng rồi, khanh theo trẫm vào trong điện. Hôm nay mấy con khỉ cũng đã biết đánh quyền, cho khanh xem mở rộng tầm mắt.

Chỉ thấy, một lão già mặc một đồ màu xanh nước biển, đầu đội khăn vuông, dắt bốn con khỉ bước ra, làm đủ các trò nhào lộn, chồng người, hay nhất là lão già vừa hút sáo một tiếng, bốn con khỉ liền xúm lại đánh quyền. Dương Lăng thấy hai con khi vung vẩy cái chân đầy lông lá của chúng, lảo đa lảo đảo trông hết sức ngây ngô, bèn không kiềm được mà mỉm cười vỡ lẽ: trông bộ dạng, có lẽ là đang đánh túy quyền.

Hai con khỉ còn lại đánh quyền đâu ra đấy, có bài có bản hẳn hoi, tuy chưa được bốn năm chiêu liền chạy về bên lão già xin trái cây ăn, song Chính Đức lại nhìn ra bài quyền chúng đánh đích thực là Thái tổ trường quyền, bèn vỗ tay cười nói:

- Người đâu, thưởng cho thưởng cho.

Hai tên tiểu thái giám xách cái sọt nhỏ, cười hì hì đi tới trước bậc thềm, dùng sức ném cái sọt ra ngoài một cái, trong cái sọt đều là tiền đồng mới toanh, sợ không dưới nghìn văn tiền, vương vãi xuống đất kêu rào rào.

Chính Đức cười bảo:

- Ha ha, trẫm thấy mấy con khỉ này còn dễ mến hơn cái đám người đáng ghét trong cung và ngoại đình đó. Dương thị độc, khanh thấy chúng đánh quyền có hay không?

Dương Lăng mỉm cười, chợt nghe trong phòng bên được ngăn cách bởi cửa sổ có tiếng đàn ông cất lên:

- Đích xác là thú vị, mấy con khỉ này thật thông minh, nhớ buổi sáng thấy Hoàng thượng luyện tập quyền cước, bài Thái tổ trường quyền uy vũ nhanh nhẹn, liền học trộm được chiêu thức ngay.

Dương Lăng sững ra, tròn xoe hai mắt: giọng nói đó giống hệt như y, âm điệu và ngữ khí đều hoàn toàn giống, thậm chí y còn nghi ngờ rằng có phải mình đang ở trong căn phòng khác không. Tiếp theo sau đó, một tràng cười lớn đắc ý truyền ra, lại nghe giọng nói của hoàng đế "Chính Đức":

- Tuy rằng thú vị, nhưng xem cũng đã chán rồi. Nếu là cảnh xuân về hoa nở, muôn chim tranh hót, cảnh đẹp ấy hơn xa xem mấy con khỉ này nhiều.

Theo đó, giọng nói "Dương Lăng" lại cất lên:

- Điều đó có gì khó? Hoàng thượng là thiên tử, muốn ra lệnh cho xuân về khắp mặt đất, trăm hoa đua nở, muôn chim đến hót, có lẽ vị thần xoay chuyển bốn mùa cũng không dám không tuân thánh dụ.

Âm thanh chưa dứt, lờ mờ lại nghe như có tiếng chim tước hót vang, dần dà tiếng vó ngựa nổi lên, có tiếng cười yêu kiều duyên dáng, khiến trong đầu người ta bất giác hiện ra một bức tranh cung nữ đạp xuân, chậm rãi bước tới; rừng tùng, nước chảy, cảnh trí mênh mông sâu thẳm như hiện ra ngay trước mắt, lại có phu tử ngâm thơ, tiếng tiêu réo rắt.

Mắt Dương Lăng càng lúc càng mở lớn, tim đập loạn thình thịch, suýt nữa thì đã buột miệng thốt ra một cái tên. Y không kiềm nén được tâm tình lao qua, vừa kéo mở cửa gác, các loại âm thanh lập tức im bặt, hai người con gái xinh đẹp đang khom nửa người kinh ngạc đứng dậy.

Hai người thiếu nữ xinh đẹp vận áo lĩnh tím, gấm đen, chẽn đỏ, dưới mặc váy màu xanh nhạt, hai bàn chân yêu kiều xỏ đôi giày da dê màu vàng, nước da sáng ngần thơm ngát, khuôn mặt trái xoan, cặp mày lá liễu, chính là hai người con gái phường hát y gặp qua lần trước.

Tu Hoa vẫn vậy, là một khuôn mặt xinh đẹp đầy lạnh lùng, Giải Ngữ thì lại cười tươi liếc y, má tựa mây hồng, mắt như thu thủy, càng khiến người ta rung động tâm hồn. Chính Đức lầu bầu nói:

- Không vui gì cả, không vui gì cả, đợi chút nữa sẽ còn có tiết mục thiếu niên hung ác thôn quê khinh nhờn dân nữ, trẫm ra tay cứu người cho khanh xem đấy, bị vạch trần như vậy mất hết cả vui đi, khanh thực là dễ bị kích động quá.

Dương Lăng thất vọng quay người lại, lặng lẽ đến bên thân Chính Đức nói:

- Vi thần... vừa nãy nghe loại khẩu kỹ giống y như đúc này, bất giác nhớ tới một cố nhân, còn tưởng rằng... ngoài cửa là cô ấy...

Giải Ngữ và Tu Hoa cũng bước tiến vào trong điện, duyên dáng đứng hai bên Chính Đức, nghe thấy lời này hai cặp mắt xinh xắn đều dồn vào người Dương Lăng.

Chính Đức lấy làm lạ bèn hỏi:

- Lúc trẫm được nghe khẩu kỹ này quả sự đã rất kinh ngạc, ngay cả tiếng đàn sáo nhạc cụ bọn họ cũng bắt chước được, vị cố nhân đó của khanh là ai, cũng có bản lĩnh như vậy sao?

Dương Lăng nhớ đến người thiếu nữ đứng trong nắng, vẻ mặt rạng ngời giải thích với y. Nàng thoáng nhướng đôi mày liễu, nụ cười trong vắt:

- Dương đại nhân, tiêu này của tiểu tỳ ấy, không cần tiêu thổi...

Giọng nói yêu kiều giòn giã vẫn còn quanh quẩn bên tai. Y lại nhớ tới tảng đá dính máu và vài sợi tóc bên dốc núi nọ, con tim như thắt lại. Cổ họng Dương Lăng nghèn nghẹn, y ho khan vài tiếng rồi mới cảm thán nói:

- Vị cố nhân này, hoàng thượng ngài cũng biết, đó chính là vị Đường cô nương... Đường Nhất Tiên.

- Đường... Nhất Tiên...

Chính Đức từ từ nhớ lại, sắc mặt cũng dần trở nên ảm đạm, người con gái lưu lại bóng hình đầu tiên trong lòng hắn, nào dễ dàng quên được.

Hai người đàn ông im lặng, bọn thái giám và cung nữ trong ng không biết đã xảy ra chuyện gì, không ai dám mở miệng nói gì. Giải Ngữ và Tu Hoa đưa mắt nhìn nhau, khẽ mím môi, hàng mi dài cong vút chớp chớp không ngừng, vẻ mặt hết sức hiếu kỳ.

Đàn ông bọn họ gặp đã nhiều, song thực hiếm thấy khi hai người đàn ông ở trước mặt, một người là hoàng đế tay ôm thiên hạ, một người là trọng thần triều đình dưới một người trên vạn kẻ, muốn bao nhiêu mỹ nữ cũng được, lại có thể biểu lộ cảm xúc hoài niệm khi nhắc đến một người con gái. Người con gái đó là ai? Nhất Tiên... cái tên thật là đẹp.

Chính Đức rờ mũi, một lúc sau mới chợt hỏi:

- Vẫn chưa có tin tức gì sao? Cho dù là... tin xấu?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Dạ chưa, bên phía quan phủ đã sớm bỏ qua tìm kiếm, vi thần đã sai phiên tử Nội xưởng để ý quan sát, tuyệt nhiên vẫn không có manh mối.

Chính Đức chán nản vung tay nói:

- Giải tán hết đi, Dương thị độc vào cung, nhất định có việc công cần bàn với trẫm.

Đoạn hắn nhìn sang Liễu Giải và Tu Hoa, hai người con gái rất biết điều, biết khi nào có thể làm nũng đùa cợt, khi nào phải giữ phận, lập tức nhún người thi lễ, rồi cũng lặng lẽ lui ra.

Hai người đi vào thư phòng, Chính Đức ngồi lên ghế, thuận tay chỉ xuống bảo:

- Khanh ngồi đi.

Thư phòng của Hoàng thượng làm gì có chiếc ghế thứ hai, bên cạnh chính là giường ngủ của Chính Đức. Từ dạo bị Vương Quỳnh trỏ mặt mắng cho một trận, Dương Lăng đã không dám không để ý đến những tiểu tiết này nữa, bèn mỉm cười đứng trước ngự án, nói:

- Tạ hoàng thượng, thần đứng đây cũng tiện bẩm báo sự tình rồi.

Chính Đức gật nhẹ đầu, liếc mắt trầm ngâm một chốc rồi hỏi:

- Là chuyện gỡ bỏ lệnh cấm biển có manh mối hay là biên tái phương bắc có chiến sự khẩn cấp?

Dương Lăng lắc đầu đáp:

- Thưa, đều không phải. Hoàng thượng còn nhớ trước lúc xuất binh từng bí mật căn dặn Miêu Quỳ nghiêm trị Tiểu vương tử, răn nhẹ Hỏa Sư, phân hóa bọn chúng, và bí mật liên lạc với Đóa Nhan Tam Vệ không?

Mắt Chính Đức liền sáng lên, hưng phấn hỏi:

- Có phải đã có hiệu quả?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Dạ, Tiểu vương tử nghi ngờ Hỏa Sư có hiệp nghị bí mật với Đại Minh, hiện đang rất đề phòng bọn họ, một vạn năm nghìn nhân mã của Hỏa Sư đang bị an bài bên sườn, một mình chống cự với đại quân của Tổng binh Hứa Thái, lương thảo cướp được cũng không muốn chi viện cho bọn họ, có rất nhiều bộ hạ của Hỏa Sư đã buông lời oán hận. Tình thế chiến trường trước mắt xem ra không nguy cấp lắm, Dương Nhất Thanh án binh bất động, lại níu chặt lấy chân Tiểu vương tử không cho hắn đi, trong đó tất có ý đồ. Có điều hằng năm giặc Thát đều đến biên cảnh ta cướp bóc, họa này nhất định phải tiêu trừ, hiện tại phân hóa Hỏa Sư chỉ là bước thứ nhất.

Nếu đạt được sự hỗ trợ của Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta sẽ có thể không tốn gì mà có được một đội tinh binh, đồng thời mỗi năm có thể lấy được lượng lớn chiến mã từ vùng Hà Sáo. Một mặt vừa có thể tăng cường tính cơ động và năng lực tác chiến của biên quân.

Mặt khác, bá tánh vùng Hà Bắc phụ trách dưỡng mã, nhưng nơi đó lại không nuôi cho ra được ngựa tốt, bá tánh cực công phu dịch, uổng công khổ lao, mà lại không đem nhiều ích lợi cho đất nước. Nếu có thể cải thiện quan hệ với Đóa Nhan Tam Vệ, sẽ có thể khiến bá tánh trút được gánh nặng này. Chúng ta có được ảnh hưởng ở Hà Sáo và Liêu Đông rồi, tương lại sẽ có thể tiến thêm một bước, mở mang bờ cõi, chiếm lấy thảo nguyên phì nhiêu. Sau đó đi vào A Lạp Bá Mã (tên gọi các dân tộc Ả Rập xưa - ND), dùng nó để cải tạo ngựa Mông Cổ và Tây Nam, thì ưu thế của Thát Đát Mông Cổ sẽ không còn nữa.

"Mở mang bờ cõi", đó là cụm từ khiến cho mọi vị vua từ xưa đến nay động lòng nhất. Trong các triều đại lịch sử, chưa một vị vua nào dám sánh mình với vị vua khai quốc. Cho dù là quân vương có sáng suốt và tài đức cỡ nào thì chính tích cũng không thể nào rạng rỡ và chói lọi như mở mang bờ cõi được.

Trái tim của Chính Đức đập thình thịch, khuôn mặt trẻ tuổi anh tuấn đỏ bừng vì hưng phấn, hắn gật đầu lia lịa:

- Dương khanh nói rất đúng, đánh với Thát Đát một trận bất quá chỉ là công tích nhất thời, kết minh với Đóa Nhan Tam Vệ, chúng ta thêm một đội quân, địch quân mất đi một mảnh đất, lại phân hóa làm cho bọn chúng tan rã, mới là sách lược chính trị lâu dài. Nếu sự này thành, công lao của Dương khanh thực sẽ không chỉ như đại tướng công thành chiếm đất, chém tướng đoạt cờ. Có phải phía Đóa Nhan Tam Vệ đã nhận được mật hàm của triều đình không?

Dương Lăng gật đầu thưa:

- Đã liên hệ được với bọn họ, tuy vậy do giữa chúng ta và Đóa Nhan Tam Vệ từng có rất nhiều bất hòa, đại thủ lĩnh Hoa Đáng tuy có lòng hướng về phía phe Đại Minh chúng ta nhưng trong ba bộ lạc lớn lại có rất nhiều quý tộc vẫn còn nặng lòng nghi ngờ. Bọn họ không tin tưởng sứ thần mà chúng ta phái đi lắm. Tin tức hồi đáp là các tù trưởng đó muốn Đại Minh ta...

Y thoáng do dự. Điều kiện Hoa Đáng đưa ra quả thực đã đặt địa vị của hắn ngang hàng với thiên tử Đại Minh, nếu y nói ra chỉ sợ thiên tử Chính Đức sẽ long nhan nổi giận. Song đây là việc lớn, y thực không dám bỏ qua, Dương Lăng bèn lấy hết can đảm nói:

- Hoa Đáng chẳng qua chỉ là đại tù trưởng một bộ lạc thảo nguyên, không học thánh hiền, không hiểu lễ nghi, thế mà lại yêu cầu hoàng thượng phải đích thân đến Đại Đồng, cùng hắn uống máu ăn thề trên núi Bạch Đăng, thì Đóa Nhan Tam Vệ mới chịu nương về Đại Minh.

Dương Lăng nói xong liền vội vã chêm thêm:

- Tuy nhiên chuyện này thực vẫn có thể mặc cả. Theo ý vi thần, hoàng thượng có thể cử một vị tông thân hoàng thất thay mặt cho triều đình và thiên tử đi đến nơi hẹn ước, ắt sẽ có thể xua tan mối lo ngại của hắn.

Không ngờ, nằm ngoài dự đoán của Dương Lăng, Chính Đức nghe xong không hề nổi giận, ngược lại vuốt cằm như có điều suy nghĩ. Trầm ngâm một hồi lâu, hắn mới khẽ mỉm cười, ngước mắt nhìn Dương Lăng và nói:

- Muốn trẫm đích thân đến gặp bọn chúng? Cho dù là Bá Nhan Khả Hản lúc đánh hay cầu hòa cũng đều lấy lễ bầy tôi mà đối đãi với trẫm. Lá gan của Hoa Đáng thực không nhỏ.

Dương Lăng nghe vậy thì cuống lên, vội nói:

- Hoàng thượng, vi thần cũng biết Hoa Đáng làm vậy thực hơi cuồng vọng, nhưng việc nhỏ nếu không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng.

Ánh mắt của y chợt trở nên ranh mãnh, thấp giọng nói khẽ:

- Không cùng tộc với ta, tim nó ắt khác. Đóa Nhan Tam Vệ tựu chung vẫn là kẻ ngu muội, bọn chúng nương về chúng ta, chỉ bởi bọn chúng không có thực lực lớn mạnh như Bá Nhan Khả Hãn có thể cướp bóc của cải với số lượng lớn, cho nên hiện tại hợp tác chẳng qua là vì lợi ích riêng.Hiện tại chúng ta tạm thời nhẫn nhịn, sau này sức nước cường thịnh, vũ lực đầy đủ, chẳng những sẽ sát nhập Thát Đ Mông Cổ, Ngõa Thích Mông Cổ vào bản đồ Đại Minh, mà con hổ cạnh giường này sao có thể là ngoại lệ? Việc nhỏ không nhịn thì kế lớn sẽ hỏng đó bệ hạ.

- Ha ha ha ha...

Hoàng đế Chính Đức đứng dậy, cười như con gà mái đẻ. Hắn đấm vào ngực Dương Lăng một cái, cười khanh khách:

- Ai nói trẫm không thể nhẫn nhịn tạm thời?

Đoạn hắn xòe hai tay ra, chớp chớp mắt nói:

- Tiên hoàng chỉ có mỗi một mụn con là trẫm, tông thân hoàng tộc khác đều phong làm vương gia ở các nơi, há có thể thay mặt triều đình và thiên tử? Nếu là ái khanh thì phái ai đi mới thích hợp đây? Là thái hoàng thái hậu? Thái hậu? Hay là hai vị ngự muội của trẫm?

Dương Lăng nghe xong mà nghẹn họng, trong lúc còn chần chừ, chợt thấy Chính Đức nhảy bật lên, ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Ha ha, một khi vận khí lên hương, liền như nước lũ tường thành khôn ngăn. Cái tên Hoa Đáng thực đáng yêu quá đi.

Đoạn hắn dương dương đắc ý nói:

- Lần này trẫm sẽ đích thân đi đến Đại Đồng, đó là vì nước vì dân, vì giang sơn xã tắc Đại Minh, bá quan văn võ sẽ không nói gì nữa chứ?

Dương Lăng nghe vậy thì há hốc mồm, chỉ thấy Chính Đức mặt đỏ bừng, hai tay chống nạnh nói:

- Không để trẫm đi công khai, trẫm sẽ lén đi. Đại Đồng trẫm đã quyết định sẽ đi rồi!

Đoạn hắn chỉ vào Dương Lăng, nói với giọng oai phong lẫm liệt:

- Chuyện này giao cho Dương khanh phụ trách. Qua năm mới, chúng ta sẽ mở đường Tuyên Phủ, thẳng tiến Đại Đồng!

Chú thích:

nguyên văn "Thử Lý Tây Nhai tướng nghiệp". Tích rằng: vào năm Chính Đức (1506 - 1521), Lưu Kiện và Tạ Thiên của Nội các bị giáng chức đuổi khỏi kinh, chỉ còn lại một mình Lý Đông Dương. Đương thời Lưu Cẩn nắm quyền lực triều chính, Lý Đông Dương một cây chống chẳng vững nhà, không cách nào xoay chuyển. Vì vậy có người vẽ một bức tranh bà lão cưỡi trâu thổi sáo nhằm châm biếm. Trên trán bà lão đề "Thử Lý Tây Nhai (tên hiệu của ông) tướng nghiệp", nghĩa là "sự nghiệp tể tướng của Lý Đông Dương là đây", nhằm trào phúng Lý Đông Dương. Có người báo cho ông hay biết chuyện này, thế nhưng ng vẫn dửng dưng, tự đề lên tranh một bài thơ tuyệt cú: "Dương Phi thân tử Mã Ngôi pha, xuất tái Chiêu Quân oán hận đa. Tranh tự a bà kỵ ngưu bối, xuân phong nhất khúc thái bình ca", nghĩa là "Dương Quý Phi thì bỏ thân nơi Mã Ngôi, Chiêu Quân mang theo ra biên tái nhiều ai oán. Sao như bà lão cưỡi trâu, hát vang khúc thái bình trong gió xuân". Về sau trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ Lưu Cẩn, họ Lý đã nổi lên như một nhân vật có vai trò mấu chốt.

chính phủ triệu tập người dân thực hiện nghĩa vụ quân sự gọi là 'trưng dịch'

loại lò sưởi cầm tay

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 178: Nàng vốn là người tốt

Hoàng đế là vua một nước. Vua chúa dựng nên các triều đại có ai mà không cả đời chinh chiến, chém giết nơi chiến trường? Để Chính Đức chứng kiến qua sự thảm khốc ở chiến trường, thấu hiểu được một phần nỗi khổ của bá tánh sẽ còn tác dụng nhiều hơn đọc vạn câu di huấn của các bậc thánh hiền.

Những lý lẽ này đương nhiên Dương Lăng hiểu rõ. Hế nhưng vừa nghĩ đến việc dẫn Hoàng đế ra biên tái, còn phải để hắn ta âm thầm lặng lẽ giữa chiến trường chém giết của hơn mười vạn quân Minh và Thát Đát mà lẻn lên núi Bạch Đăng gặp mặt thủ lĩnh của đám người Đóa Nhan Tam Vệ lúc là bạn lúc là thù thì... Càng nghĩ Dương Lăng càng thấy lo sợ.

Để cho đức vạn thặng chi tôn(*) giá lâm đến nơi hiểm địa, chỉ một chuyện này thôi đã đủ khiến bá quan dốc mạng mà hặc tội y rồi. Hơn nữa, nếu như Thát Đát hay tin đem trọng binh tập kích, hoặc là Hoa Đáng khởi dị tâm bắt Chính Đức làm con tin, lúc đó phải làm sao?

(*) nghĩa đen: bậc tôn quí giá trị bằng vạn cỗ xe. Cụm từ này thường được dùng để chỉ nhà vua.

Đang gật gù đắc ý, hoàng đế Chính Đức chợt nhìn thấy sắc mặt Dương Lăng trắng bệch, hắn không khỏi thu lại nụ cười, nghiêm túc gọi Dương Lăng:

- Dương thị độc...

- Có thần!

Dương Lăng khổ sở đáp.

Chính Đức nghiêm mặt nói:

- Người trong thiên hạ thường nói thiên hạ của trẫm rộng lớn, thế nhưng thiên hạ của trẫm chẳng lẽ chỉ là một mảng đất trời trong Tử Cấm Thành này đây sao? Trẫm muốn ra ngoài nhìn ngắm giang sơn vạn dặm thì có gì là không tốt? Huống hồ, hiện tại đi gặp mặt Hoa Đáng chính là làm một việc lớn cho Đại Minh. Quân đội của trẫm sẽ có thể bớt đổ máu, bớt hy sinh; con dân của trẫm sẽ bớt chịu khổ đau. Thân là quân vương, trẫm... không nên đi hay sao?

Thoáng ngưng lại, hắn nhẹ giọng nói tiếp:

- Trẫm biết khanh đang lo lắng cho an nguy của trẫm, cũng lo lắng sẽ vì vậy mà bị bá quan chỉ trích.

Rồi hắn cười nhạt một tiếng, giọng khinh miệt:

- Cứ để mặc bọn chúng nói cho sướng miệng. Bọn chúng chỉ muốn coi trẫm là một con chim bị nhốt trong cái lồng này, chỉ cần trẫm giữ khuôn phép đúng mực một chút, kính trọng sĩ tử một chút, lắng nghe lời ngay thẳng của bọn chúng một chút, yên tâm ngồi đây làm một vị thần bằng đất sét thì sẽ là hoàng đế tốt trong mắt bọn chúng.

Nhưng mà, trẫm không muốn làm loại vua như vậy! Đại Minh là thiên hạ của trẫm, trẫm phải làm tròn trách nhiệm thiên tử!

Dương Lăng ngẩn ngơ đứng nhìn Chính Đức, khuôn mặt non trẻ của hắn đầy sự nghiêm túc hiếm có. Ánh mắt sáng ngời, hắn nhìn chằm chằm Dương Lăng nói tiếp:

- Còn nhớ lúc khanh mới vào kinh thành, từng kể cho trẫm nghe rất nhiều chuyện về vạn quốc ở hải ngoại hay không? Vị quân vương anh minh trong đó, khi không làm tròn trách nhiệm bản thân, lại lo sợ rúc mình trong cung điện, tự hào nói với kẻ khác rằng bảo vệ tốt cái mạng của hắn chính là làm tròn bổn phận với con dân. Khanh mong muốn trẫm là một hoàng đế như vậy sao?

Chính Đức nhếch cặp mày tuấn tú, buông từng chữ:

- Trẫm là thiên tử, hiện tại trẫm muốn đi làm một việc cần làm cho Đại Minh! Khanh là bầy tôi yêu mến của trẫm, khanh có thể phò tá trẫm hoàn thành tốt việc này hay không?

Trong lòng Dương Lăng dậy sóng: ai bảo tiểu hoàng đế trước mặt này trẻ người non dạ, trong mắt chỉ có vui chơi đùa nghịch? Là do hắn chưa từng suy nghĩ nghiêm túc về trách nhiệm làm vua hay là vì hiện thực cay đắng khiến hắn chỉ có thể đắm chìm vào trong đủ loại trò chơi để giết thời gian?

Không nói lời nào, Dương Lăng lui lại hai bước, lần đầu y mang lòng kính trọng vái Chính Đức một cái thật sâu:

- Vi thần tuân chỉ! Thần nguyện phò tá đức vua, chấn hưng Đại Minh, hoàn thành bá nghiệp lẫy lừng!

Chính Đức mừng rơn nắm chặt lấy tay Dương Lăng lắc lia lịa, vừa định mở miệng thì chợt nghe có tiếng 'rột rột' phát ra. Hắn thoáng ngẩn người, rồi không nín được bật cười lớn:

- Cùng khanh trò chuyện say sưa nên quên mất đã đến bữa rồi. Lại đây, Dương khanh hãy dùng bữa cùng trẫm! Chuyến đi đến Đại Đồng của trẫm sẽ nhờ vào khanh cả đấy.

Lúc còn kèm thái tử đọc sách ở Xuân Phường, đã không ít lần Dương Lăng dùng bữa chung với hắn, nhưng sau khi Chính Đức đăng cơ lên ngôi đế thì đây mới là lần đầu. Được dùng bữa cùng với Hoàng đế là đãi ngộ trọng hậu vô cùng, trên Khởi Cư Chú và công báo triều đình đều phải ghi rõ.

Dương Lăng không muốn bị rêu rao nên đang tính lựa lời cự tuyệt thì Chính Đức đã quay ra ngoài cửa gọi to:

- Người đâu, truyền đưa cơm vào! Trẫm muốn dùng bữa chung với Dương khanh. Gọi Giải Ngữ và Tu Hoa đến cùng luôn đi.

Dương Lăng cuống quýt thưa:

- Hoàng thượng, làm vậy không thích hợp lắm đâu. Giải Ngữ, Tu Hoa tuy không phải là phi tần trong cung, nhưng dẫu gì cũng là người hầu hạ cho Hoàng thượng, thần sao dám cùng bọn họ...

Chính Đức không đồng ý, khoát tay ngăn y, rồi hào hứng bàn tiếp cách rời khỏi kinh sư. Trong lúc hai người đang bàn bạc thì tiểu thái giám của Ngự Thiện phòng đã đưa các món ăn thịnh soạn trong cung lên thoăn thoắt như thoi đưa, bọn họ bèn dừng trò chuyện.

Trên chiếc bàn lớn thếp vàng chạm trổ hình con rồng cuộn mình bày đầy các thức ăn, bốn chiếc ghế gấm đặt ở bốn cạnh bàn. Tiểu thái giám nhanh nhẹn dùng đũa bạc thử qua từng món ăn, lại nếm thử từng món một, sau đó quay sang vái Chính Đức một lạy rồi lặng lẽ lui ra, chỉ để lại bốn tiểu thái giám đứng hầu.

Giải Ngữ và Tu Hoa bước vào trong điện, tha thướt như một đám mây, mùi thơm của son phấn tức thời ùa vào trong cánh mũi. Chính Đức bảo hai người con gái xinh đẹp yêu kiều đó dùng tách ngọc, còn hắn và Dương Lăng thì ngồi đối diện với nhau, cả hai đều dùng chén rượu ba chân.

Mới uống một chén mà Dương Lăng đã thấy hơi ngà ngà. Trong lòng lo nghĩ đến chuyện năm sau hoàng thượng sẽ xuất kinh nên mặc cho Chính Đức năm lần bảy lượt thúc giục y cũng không dám uống thêm, chỉ gắp vài món ăn nhẹ cho vào miệng.

Chính Đức thì lại cao hứng vô cùng, ăn đến non nửa mới cười nói với Dương Lăng:

- Dương thị độc, hai vị cô nương này đều biết hát dân ca đấy. Giải Ngữ, Tu Hoa, hai nàng hãy hát một khúc trợ hứng cho trẫm đi.

Giải Ngữ nhoẻn miệng cười, sóng mắt đong đưa liếc Dương Lăng, thuận tay nhón lấy chiếc đũa ngà gõ nhè nhẹ lên cốc vàng bát ngọc. Trong tiếng nhạc trong vắt vui tai, cô nàng cất tiếng ngân nga một điệu hát dân gian. Tiếng ca dịu dàng mà da diết, Chính Đức nhịp đùi đắc ý, nghe rất say sưa.

Cố gắng đợi đến khi tiệc tàn rượu cạn, nhân lúc Chính Đức đang rửa tay trong thau vàng, Dương Lăng mới thấp giọng thưa với hắn:

- Hoàng thượng! Nếu ngài muốn xuất cung thì đó là việc quan trọng vô cùng. Khi nãy thần đã suy tính kỹ lưỡng rồi, muốn bá quan gật đầu đồng ý thì thật là điều không thể, xem ra chỉ có thể theo ý của Hoàng thượng là lặng lẽ rời kinh mà thôi.

Nhưng mà, cho dù có thể giấu được bá quan văn võ thì dù sao trong kinh cũng phải có người chủ trì, cho nên không thể giấu giếm ba đại học sĩ. Tiêu đại học sĩ lão luyện thành thục lại rất quan tâm đến thánh ý, thần muốn mật nghị với ông ta trước đã.

Chính Đức cười hì hà bảo:

- Được, khanh đi đi! Việc này là ý tưởng của trẫm, Dương khanh chỉ là bị ép buộc phải tuân lệnh vua, theo vua làm việc mà thôi, không ai dám làm gì khanh đâu.

Đại Minh tuy nhiều tệ chính, nhưng đương thời vẫn là quốc gia có quốc lực lớn mạnh nhất, lúc có chiến tranh, lương thảo và quân bị đều hơn xa những nước bé chung quanh, thế nhưng chiến sự lại thường luôn ở thế hạ phong, nguyên do lớn nhất là vì "trọng văn khinh võ".

Bản thân không thể trải nghiệm qua sát phạt, thì sao rèn thành một Chính Đức văn hay, trị giỏi, võ công cao? Sau khi nghe xong lời tâm sự chân thành của Chính Đức, Dương Lăng đã quyết định mặc kệ được mất cá nhân, cho dù núi đao biển lửa y cũng sẽ cùng hắn đi một chuyến. Y nghe Chính Đức ôm hết trách nhiệm về mình, không muốn y bị bá quan thừa cơ chỉ trích thì cảm kích mỉm cười rồi cung tay thưa:

- Tạ ơn Hoàng thượng quan tâm che chở, thần xin cáo lui.

Chính Đức lấy chiếc khăn lụa trắng mịn như tuyết lau tay xong, hai người con gái xinh đẹp liền vây lại, mỗi người ôm lấy một cánh tay y. Giải Ngữ cười duyên dáng hỏi:

- Hôm nay sao Hoàng thượng vui vẻ quá vậy? Đầu mày cuối mặt ngài đều rất tươi tỉnh.

Từ khi lớn đến giờ Chính Đức mới có cơ hội được ra khỏi "nhà" lần đầu, hơn nữa lại được đi đến chốn sa trường xa xôi, cho nên hắn thực sự không kiềm nén được sự hưng phấn trong lòng. Vả lại Giải Ngữ và Tu Hoa đều là những mỹ nữ vô cùng đáng yêu; hơn nữa Giải Ngữ vui vẻ rạng ngời, nghênh đón người ta bằng sự ngọt ngào mềm mại, rất hợp với tính khí của hắn.

Không kiềm được sự hào hứng trong lòng, hắn vuốt nhẹ khuôn mặt mịn màng của Giải Ngữ, hăm hở:

- Trẫm nói cho nàng hay, nhưng nàng nhất định không được để cho người khác biết đó.

Đoạn y hạ thấp giọng, nói nhỏ:

- Đợi sang năm, trẫm sẽ trốn khỏi kinh đi tuần rồi, ha ha ha! Biển rộng sóng dâng cá vẫy vùng, trời cao gió lộng chim tung cánh.

Giải Ngữ và Tu Hoa chợt ngẩn người, bốn mắt của hai cô vừa chạm vào nhau, trong mắt Tu Hoa liền không nén được sự vui mừng. Cô nàng cũng khoác lên một bộ dáng tươi cười ngọt lịm, kéo tay Chính Đức cạ vào bộ ngực đầy đặn cao vút của mình, thỏ thẻ:

- Hoàng thượng! Ngài nói rõ hơn được không, nô gia có thể đi cùng ngài không?

Chính Đức vội lắc đầu, đáp:

- Không được không được! Nếu dẫn phụ nữ theo thì nhất định Dương thị độc sẽ không cho, trẫm thực không muốn tự làm mất mặt mình.

Tu Hoa giậm chân làm nũng:

- Trời ơi! Vậy ngài nói cho nô gia biết sẽ đi đâu đi! Hoàng hậu nương nương không ưa gì chị em nô gia, nếu như ngài không ở trong kinh nữa..., - vừa nói cô nàng vừa làm ra vẻ chực khóc.

Chính Đức thấy vậy thì trở nên mềm lòng, liền vội kéo lấy tay cô nàng cười nói:

- Yên tâm đi, trẫm sẽ thu xếp cho các nàng đến Báo phòng, bảo Lưu Cẩn hết sức chăm sóc cho hai nàng là được rồi. Muốn biết trẫm sẽ đi đâu hả? Hắc hắc, thơm trẫm một cái đi rồi sẽ nói!

***

Giờ đây, trong ba đại học sĩ thì Tiêu Phương xếp thứ hai. Được quyền cao chức trọng, thân phận tôn quý, lại không phải chịu sự ghẻ lạnh như lúc còn ở bộ Lễ và bộ Lại năm xưa, sau lưng có Dương Lăng chống đỡ, tiền đồ như thuyền xuôi gió, thế nên mặt mày của lão luôn luôn tươi rói.

Lão đang ngồi trong điện phê duyệt tấu chương, thu xếp các bộ tính toán quân lương, chuẩn bị phu dịch, vận chuyển lương thảo, khí giới, vỗ về giúp đỡ những binh sĩ thương vong, điều động thầy lang, thu gom dược liệu, ... Cả đống công việc nên lão bận đến túi bụi. Chợt nghe báo Dương Lăng đến thăm, ông già Tiêu Phương liền vội bước xuống giường lò, tươi cười ra đón.

Dương Lăng là thống lĩnh thân quân của Hoàng đế, là võ tướng Chánh tam phẩm. Nội xưởng là nha môn Hoàng đế tự lập ra, không hạn chế bởi phẩm hàm trong triều, không có cấp bậc, nhưng Dương Lăng thân mang tước vị (Bá tước – ND), mặc áo bào thêu hình mãng xà bốn vuốt do vua ban thưởng, quyền lực thực tế lại không ai sánh được.

Tiêu Phương tự coi mình là người cùng phe cánh với Dương Lăng, mỗi khi gặp y vẫn đều tôn kính gọi là đại nhân, tự nhún nhường xưng là môn hạ. Lúc này tuy đang ở trong cung nhưng lão vẫn rất cung kính giữ lễ. Nghênh đón Dương Lăng vào trong thư các xong, lão đích thân dâng chén trà ngon rồi mỉm cười mở lời:

- Đại nhân vào cung lúc nào vậy? Mấy ngày nay môn hạ cần phải xử lý tấu chương rất nhiều, mãi chưa đến quý phủ thăm viếng được. Môn hạ đang tính năm mới sẽ dẫn khuyển tử đến nhà thăm viếng ngài đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Lão Tiêu chớ nên khách sáo. Trong triều còn có những quan viên mượn việc công trả thù riêng, các nha môn bất tuân chính lệnh, tiền phương đang có chiến tranh; những việc mà hậu phương phải làm cũng quan trọng không thua kém gì. Thực đã làm khó cho ông rồi.

Gương mặt già nua của Tiêu Phương thoáng đỏ lên, lão xúc động:

- Đa tạ đại nhân đã quan tâm, môn hạ cảm kích vô cùng. Lưu công công biết được những chuyện này đã nổi cơn thịnh nộ, mấy ngày nay đang ra lệnh cho bá quan lập tức trở về nha môn xử lý chính vụ, bận rộn thêm dăm bữa nữa thì sẽ thoải mái hơn.

Dương Lăng gật đầu, ngồi xuống bên mép giường. Nhìn thấy tên tiểu thái giám đang đứng chầu chực ngoài cửa, y bèn bảo:

- Lui xuống đi! Ở đây không cần ngươi hầu hạ nữa.

Đợi tấm rèm dạ nhung buông xuống sau lưng tên tiểu thái giám, Tiêu Phương mới sáp lại gần, nhỏ giọng hỏi:

- Đại nhân! Có phải là có chuyện quan trọng không?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Ừm! Quả là có chuyện muốn thương nghị cùng ông một chút, - đoạn y đem chuyện Chính Đức muốn đến Đại Đồng kể cho Tiêu Phương nghe.

Tiêu Phương vừa nghe liền nhảy dựng lên, vội vã xua hai tay phản đối:

- Vạn lần không thể được! Đúng ra đại nhân nên khuyên can Hoàng thượng, chỗ binh đao há lại có thể để cho Hoàng thượng dễ dàng mạo hiểm? Việc này không thể được, vạn lần không thể được.

Dương Lăng im lặng nhìn lão, đợi lão bình tĩnh trở lại rồi y mới nhẹ nhàng bảo:

- Thánh ý đã quyết! Tôi tới tìm lão Tiêu ông là muốn thương nghị cùng ông làm sao để thu xếp cho Hoàng thượng đi được đến Đại Đồng, việc trong kinh phải xử lý thế nào. Chuyện khuyên can sẽ không bàn tới nữa.

Lúc này Tiêu Phương mới định thần lại. Lão ngồi xuống cạnh bàn, vuốt râu, đôi mày bạc phơ cau tít, một lúc lâu sau mới khổ sở lắc đầu:

- Văn võ bá quan quyết sẽ không đồng ý.

Dương Lăng gật đầu đồng tình:

- Ừm! Việc này tôi cũng đã nghĩ đến, cho nên... Hoàng thượng chỉ có thể cải trang vi hành.

Y trầm ngâm một chút rồi nói tiếp:

- Vốn để bí mật gặp gỡ thủ lĩnh Đoá Nhan Tam Vệ, Hoàng thượng vẫn phải bí mật mà đi; cho dù không có bá quan ngăn cản thì hành trang cũng vẫn phải gọn nhẹ.

Nhưng..., tuy nói là cải trang vi hành nhưng số người bảo vệ cũng không thể ít được, cho nên tôi muốn rút lực lượng tinh nhuệ nhất từ Cấm quân, Kinh doanh, Nội xưởng và Đông xưởng để đi cùng Hoàng thượng. Ít nhất cũng phải... năm nghìn người, toàn bộ nhân mã sẽ cải trang thành quân binh tăng viện cho biên ải. Như vậy, năm nghìn nhân mã cũng không đáng kể, ít nhất cũng sẽ không khiến cho quan phủ địa phương và mật thám của phe giặc chú ý.

Dương Lăng thuật lại tình hình tỉ mỉ cho Tiêu Phương rõ. Nghe xong, Tiêu Phương suy nghĩ một hồi rồi hỏi:

- Đại nhân có đi cùng không?

Dương Lăng cười khổ sở đáp:

- Nếu tôi không ở cạnh trông coi Hoàng thượng thì sao yên tâm cho được? Chỉ sợ lúc đó muốn ăn ăn không nổi, muốn ngủ ngủ không yên, đương nhiên tôi phải chăm sóc bên cạnh Hoàng thượng rồi. Tôi sẽ mượn cớ thị sát để có thể đồng hành cùng Hoàng thượng đến biên ải.

Sắc mặt của Tiêu Phương lập tức hoà hoãn trở lại, lão hơi trầm ngâm:

- Vậy thì... kế này có thể thực hiện được. Nhưng để cẩn thận, đến Đại Đồng rồi, đại nhân nên bí mật thông báo cho tuần phủ Đại Đồng là Hồ Toán biết. Hắn là quan viên quân chính (kiêm quân sự lẫn chính trị - ND) cao nhất của Đại Đồng. Hiện tại tuy Dương Nhất Thanh thống lĩnh binh sĩ tiền tuyến, Miêu Quỳ đốc quân song trong tay hắn có thể điều động ít nhất hai vạn nhân mã. Có hắn âm thầm phối hợp mới bảo đảm không gặp phải sơ hở gì.

Sau thoáng trầm ngâm, Dương Lăng gật đầu đồng ý:

- Tốt lắm! Ngoài ra, chuyện này sẽ không thể giấu được mấy vị đại học sĩ Nội các. Đến khi đó Hoàng thượng sẽ mượn cớ long thể suy bệnh để lần lữa mấy ngày, áng chừng đợi bọn tôi đến Tuyên Phủ rồi, mới sẽ nhờ lão Tiêu ông thông báo cho hai vị đại học sĩ Lý, Dương.

Khi đó ván đã đóng thuyền, bọn họ cũng chỉ đành phải giúp giấu giếm cho. Có ba vị tọa trấn kinh sư thì tôi yên tâm rồi, còn về những quan viên khác... Ba đại học sĩ Nội các cứ hiểu dụ Lục Bộ Cửu Khanh, tuyên bố với toàn bộ quan viên bên dưới rằng Hoàng thượng long thể bất an, tạm thời không thể thăng triều là được.

Tưởng tượng đến lúc Lý Đông Dương và Dương Đình Hoà phát hiện Hoàng thượng mất tích sẽ nổi trận lôi đình như thế nào, Tiêu Phương không khỏi cảm thấy nhức đầu. Lão đành thở dài:

- Thôi được, phải xin Hoàng thượng hạ mật chỉ vậy! Bằng không môn hạ sẽ không kiềm nổi hai vị đại học sĩ đâu.

Lão suy nghĩ một chút rồi lại hỏi:

- Ngoài ra, việc lập trữ vương trấn thủ(*) sẽ được thu xếp thế nào?

(*) nguyên văn là "kiến trữ cư thủ", trữ vương: người được chỉ định kế nhiệm ngôi vua.

Dương Lăng trố mắt hỏi:

- Lập trữ vương săn thú(*)? Lập trữ vương săn thú gì?

(*) nguyên văn 'kiến trữ thu thú', do hai chữ 'cư thủ' (jū shǒu, nghĩa canh giữ) và 'thu thú' (qiū shòu, nghĩa đi săn) đọc na ná nhau, nên Dương Lăng mới hiểu lầm

Dương Lăng đã lộ dốt. Y chỉ từng nghe nói hoàng đế triều Thanh hằng năm vào mùa thu thường đến Mộc Lan săn bắn, nên việc rời cung săn bắn gọi là "thu thú". Chẳng lẽ rời kinh còn được gọi là săn thú, sao thời Minh cũng có cái thú đi săn này này?

Tiêu Phương cũng ngẩn người. Lão chợt sực nhớ vị đại nhân này chỉ đậu tú tài, vào kinh một bước lên trời mới trở thành bầy tôi quyền cao chức trọng, cho nên y không hiểu lắm về chế độ triều đình cũng là lẽ thường. Lão bèn thư thái cười đáp:

- Lập trữ vương trấn thủ là pháp lệnh mà các đời triều đình bắt buộc phải tuân theo. Đã gần trăm năm Hoàng thượng Đại Minh chưa từng rời kinh, bình thường không ai nhắc đến thể chế cũ này, chẳng trách đại nhân không nhớ.

Tiêu Phương hớp một ngụm trà, giải thích tiếp:

- Hoàng đế thân chinh ra trận hoặc giả tuần du thiên hạ, đều phải ra lệnh cho thái tử ở lại canh giữ kinh thành, gọi là "giám quốc". Nếu như Hoàng thượng chưa có con nối dõi, hoặc thái tử tuổi còn nhỏ không thể trông nom quốc sự, thì phái hoàng đệ làm giám quốc cho, cũng có thể châm chế được.

Năm xưa khi Anh Tông bắc chinh, ngài đã phái hoàng đệ là Thành Vương ở lại trông giữ. Đương kim Hoàng thượng chưa có con nối dõi, cũng không có anh em ruột thịt, vậy chỉ có thể tạm thời tìm một vị thế tử lập làm người kế vị, có người kế vị rồi mới bàn đến trấn thủ vậy.

Dương Lăng nhíu mày hỏi:

- Hoàng thượng tuổi xuân đang thịnh, hiện mới chỉ mười sáu, có cần phải lập trữ vương này nọ to chuyện như vậy không?

Tiêu Phương vội vàng giải thích:

- Đại nhân! Đây chỉ là một quy định phải có, lo trước khỏi họa sau mà thôi. Nếu như Hoàng thượng đã bí mật rời kinh thì đương nhiên việc phong lập này cũng chỉ là soạn mật chỉ. Đến lúc đó cũng chỉ có Lục Bộ Cửu Khanh và ba đại học sĩ biết được chuyện này, cho dù là thế tử phiên vương được lập cũng không hề biết đến việc ấy. Hoàng thượng hồi kinh lại hủy đi ý chỉ đó là xong.

Dương Lăng nghe xong mới cảm thấy yên tâm, nhưng việc lập người kế vị chính là chuyện của Hoàng thượng, xem ra chuyện này vẫn phải do Chính Đức quyết định. Dương Lăng đang do dự không biết có nên quay lại cung Càn Thanh gặp Chính Đức hay không thì chợt nghe có tiếng tiểu thái giám bên ngoài kêu:

- Đại học sĩ đang thương nghị quốc sự với Dương Lăng Dương đại nhân. Ngài cứ để công văn ở đó, chốc nữa sẽ quay lại lấy.

Dương Lăng cất giọng hỏi:

- Chuyện gì vậy? Ai đưa công văn đến?

Tên tiểu thái giám đứng gác bên ngoài cung kính đáp:

- Hồi bẩm đại nhân! Là lang trung Nghiêm Tung của bộ Hộ, nói có tấu chương về việc chuẩn bị lương thảo và điều động phu dịch cần trình cho đại học sĩ.

Nghiêm Tung không phải là người ngoài. Phẩm quan của hắn thấp kém cho nên hắn rất biết điều, hiếm khi đến nhà Dương Lăng mà chỉ thông qua phu nhân làm công tác ngoại giao, thủy chung vẫn bảo trì quan hệ mật thiết với nhà họ Dương.

Dương Lăng sai phái ba tỉnh Giang Nam, Hồ Nam, và Thiểm Tây, mỗi nơi cắt cử một vùng, một huyện, một tỉnh trồng thử những giống cây lương thực mới. Tuy lúc này giống lương thực và những người nông dân được đào tạo vẫn chưa được phái đi, nhưng y đã sớm ra lệnh cho ba tỉnh đo đạc và tính toán ruộng đất, nắm rõ tình hình đất đai trồng trọt nơi đó, chuẩn bị nông cụ và thuyết phục tá điền. Tất cả những việc này đều thông qua bộ Hộ ban bố thành mệnh lệnh hành chính.

Đối với việc chưa trồng thử nghiệm mà đã cho trồng trọt thí nghiệm khắp cả một tỉnh, Hàn Văn vẫn giữ vững ý kiến phản đối. Mặc dù Tuần phủ Thiểm Tây là người cùng phe cánh được Lưu Cẩn bổ nhiệm, tận hết sức lực chấp hành mệnh lệnh này, song phản ứng của Hàn Văn đối với tin tức truyền đạt từ trên xuống lại hết sức tiêu cực. Nếu không nhờ có Nghiêm Tung, là một Lang trung nho nhỏ của bộ Hộ, đứng giữa điều đình và liên lạc giữa hai bên thì không biết Dương Lăng sẽ còn lao tâm khổ trí biết bao nhiêu mà kể, tuyệt sẽ không an nhàn như hiện tại.

Dần dà hình tượng vốn có về Nghiêm Tung là một đại gian thần trong lòng Dương Lăng đã tiêu tan. Người này tuy đam mê quyền lực nhưng lại không háo sắc, không tham tiền tài, đơn giản chỉ là một kẻ cuồng sự nghiệp. Dương Lăng có cảm nhận rất tốt về hắn, đã coi hắn như tâm phúc đắc lực của mình, cho nên nghe vậy liền bảo:

- Gọi hắn vào đi!

Nghiêm Tung ôm một chồng tấu chương bước vào, đưa mắt nhìn Dương Lăng song vẫn dựa theo quy củ phẩm hàm mà thi lễ với Tiêu Phương trước, sau đó mới quay sang thi lễ với Dương Lăng. Hắn nhũn nhặn cười nói:

- Hạ quan không biết đại nhân đang cùng đại học sĩ thương nghị quốc sự, đến thực mạo muội rồi. Những tấu chương này chỉ báo cáo tình hình lương thảo và quân dịch, quan phủ các địa phương cũng không dám qua loa với việc lớn như dụng binh, họ không dám trì hoãn giấu giếm gì cho nên cũng không có gì hệ trọng.

Dương Lăng cười nói:

- Việc này các vị biết phải làm thế nào rồi. Nếu có gì thật sự khó xử thì cứ đi tìm Lưu công công, ông ấy đang rất háo hức được vẫy vùng, đang lo lắng không có chỗ để ra tay đấy. Bản quan sẽ không xen vào đâu.

Tiêu Phương và Nghiêm Tung nghe xong đều bật cười. Dương Lăng mỉm cười nói tiếp:

- Đừng khách sáo nữa, ngươi cũng ngồi xuống đi, bản quan đang có một việc lớn thương nghị cùng lão Tiêu. Ngươi cũng không phải là người ngoài, cùng nghe luôn đi.

Nghiêm Tung dạ một tiếng, ngồi khép nép xuống chiếc ghế dựa mũ quan cạnh giường, mỉm cười nói:

- Lúc hạ quan còn ở Hàn Lâm viện thì cả ngày chỉ chơi đùa với bút, viết lách ít văn chương thơ cú. Từ khi chuyển sang bộ Hộ suốt ngày tiếp xúc với lương thảo gạo tiền, mới cảm thấy tài học nông cạn, sức không bằng người. Thật như đại nhân có chuyện quan trọng, hạ quan đành xin ngóng cả hai tai, trái nghe phải đoán vậy.

Dương Lăng bực mình cười đáp:

- Chuyện này vô cùng quan trọng. Bản quan vốn biết ngươi tính tình nghiêm cẩn, hành sự ổn thỏa nên mới muốn ngươi cùng tham nghị, nếu chỉ nghe thôi thì không được.

Dương Lăng phải đi cùng Chính Đức đến Đại Đồng mà việc trồng thử lương thực mới lại không thể gác lại, rất nhiều việc lớn đều cần phải bàn giao cho gã tâm phúc này. Vốn y cũng không muốn giấu giếm hắn nên bèn thuật lại sự tình một lần nữa.

Nghiêm Tung lắng nghe, khoé miệng mang nụ cười nhẹ. Nghe nói Hoàng đế muốn cải trang rời kinh đi tuần, sắc mặt hắn cũng không hề có vẻ gì là kinh sợ, nghe đến việc an bài của Dương Lăng và Tiêu Phương, hắn cũng liên tục gật đầu, mãi đến khi nghe việc lập trữ vương trấn thủ, đôi mày rậm của hắn mới thoáng nhíu lại. Hắn trầm ngâm một lúc lâu mới lo sợ nói:

- Hạ quan cho rằng... việc này không ổn.

Dương Lăng và Tiêu Phương kinh ngạc nhìn nhau, Tiêu Phương vuốt râu bảo:

- Ừm! Duy Trung có kiến giải gì thì đừng ngại, cứ nói ra nghe thử.

Nghiêm Tung chần chừ một chút rồi đáp:

- Hạ quan cho rằng việc Hoàng thượng đi tuần phương bắc, hai vị đại nhân sớm đã tính toán sẵn trong lòng, hẳn cho rằng sẽ không có gì hung hiểm, vậy cớ gì phải rập theo cái lệ cũ là lập trữ quân trấn thủ?

Năm xưa Lưu Bang nhà Hán từng bị bốn mươi vạn thiết kỵ Hung Nô vây hãm trên Bạch Đăng sơn, nhưng thời thế xưa nay đã khác. Mảnh đất trải dài phía bắc và tây Đại Đồng đều đã nằm trong tay Đại Minh ta. Giặc Thát tuy đang tập kích quấy nhiễu, Đoá Nhan Tam Vệ tuy chưa hẳn đã trung thành, nhưng về binh mã thì Đại Minh ta lại chiếm ưu thế.

Hoàng thượng có thể đến Đại Đồng trước, sau đó mới báo tin cho Đoá Nhan Tam Vệ. Trong thời gian đó sẽ thu xếp điều binh khiển tướng, an bài ổn thỏa, chiếm hết thiên thời, địa lợi, nhân hoà, thì cho dù là Thát Đát hay Đoá Nhan Tam Vệ cũng sẽ không thể thừa cơ tấn kích. Nhưng nếu lập trữ vương trấn thủ thì ngược lại sẽ mang đến nhiều mối nguy hiểm và hậu họa vô cùng.

Dương Lăng lo lắng hỏi:

- Nghĩa là thế nào? Ngươi hãy nói rõ hơn đi!

Nghiêm Tung cưa quậy thân thể gầy như cây sậy, liếm môi đáp:

- Đại nhân! Họa không nằm ở bên ngoài mà là ở bên trong. Đại nhân thử nghĩ xem: Hoàng thượng ở bên ngoài, nếu như gặp chuyện khốn khó như bị vây hãm, những người đi theo bảo vệ đương nhiên sẽ tận lực hộ giá, còn trong triều như rắn mất đầu, bá quan văn võ tất sẽ trên dưới một lòng, hy vọng quân vương sớm ngày trở lại.

Việc Hoàng thượng không ở trong cung chưa hẳn sẽ thật sự che giấu được bá quan văn võ, cùng lắm là bọn họ e ngại lòng người hoang mang nên vờ như không biết. Nhưng giả như Hoàng thượng đã lập người kế vị..., khó dám đảm bảo sẽ không có kẻ mang dị tâm.

Hoàng thượng lâm triều chưa trọn một năm, căn cơ chưa ổn, Lục Bộ Cửu Khanh há sẽ đều trung thành? Giả như có người mang ý niệm ủng hộ vua mới, kiến công lập nghiệp thì cho dù Hoàng thượng vốn không có gì nguy hiểm, sợ rằng cũng sẽ có kẻ tiết lộ tin tức cho giặc Thát. Còn nếu như Hoàng thượng đang bị vây hãm, vậy sẽ càng...

Dương Lăng vừa nghe liền bừng tỉnh. Người kế nghiệp chưa được quyết định, bá quan văn võ tất sẽ tận tâm cống hiến và ra sức tranh giành sự yêu mến của Hoàng đế. Còn nếu người kế nghiệp đã được xác định, Hoàng đế lại ở nơi nguy hiểm mà bất cứ lúc nào cũng có thể bị kẻ khác thay thế, vậy thực sẽ rất nguy. Bá quan văn võ tất sẽ có mưu tính riêng cho mình, ngáng chân cấu xé lẫn nhau, vậy sẽ lỡ hết đại sự.

Thêm nữa, sau khi Chính Đức kế vị, triều chính đổi thay, đầu tiên là một nửa số thượng thư Lục Bộ bị cho bãi chức, tiếp đó ba đại học sĩ lại mất đi hai, bá quan văn võ bị liên lụy nhiều vô số kể. Một số lão thần sớm đã sinh lòng oán hận với Hoàng thượng, cho dù là họ có ý định lập một vị vua mới có ích cho giang sơn hay là có tư tâm, muốn ủng hộ lập nên một vì vua mới, kiếm công phò tá quân vương cũng vậy, e rằng bọn họ sẽ chỉ khoanh tay đứng nhìn, thậm chí có thể còn ném đá xuống giếng nữa.

Như vậy, việc lập trữ vương trấn thủ sẽ trở thành chuyện không đề phòng chưa hẳn đã có họa, mà có đề phòng thì nhất định sẽ có họa lớn. Tiêu Phương lăn lộn lâu năm chốn quan trường, vừa nghe liền thông suốt điểm kỳ diệu trong đó ngay.

Dương Lăng bỗng vỗ đùi đánh đét nói:

- Phải à! Nếu đã như vậy, kiến nghị lập trữ vương trái lại sẽ khiến Hoàng thượng sa vào hiểm địa. Ngươi suy nghĩ rất phải, việc lập trữ vương trấn thủ tuyệt không thể làm, là ta suy xét chưa chu toàn rồi.

Nghiêm Tung khom người khẽ cười đáp:

- Không dám! Hoàng thượng bản tính thượng võ, đại nhân có phần lo lắng cũng là để Hoàng thượng không phải lo âu về việc cung đình, mới có thể như cá gặp nước mà thản nhiên đi tuần du bên ngoài.

Tiêu Phương vuốt râu đưa mắt nhìn Nghiêm Tung, khẽ thở dài:

- Đến cửu biên tái ngoại, mạo muội dấn thân nơi đầu giáo mũi kiếm, nguy hiểm khôn lường, quả nên suy xét mọi mặt như ngươi. Ừm! Đúng là hậu sinh khả úy, hậu sinh khả úy!

Tiêu Phương thuộc làu các điển chương và quy định, Nghiêm Tung lại thông thạo thế sự nhân tình. Có hai người một già một trẻ rất có tiềm năng trở thành "gian thần lộng quyền" này xem xét cặn kẽ, Dương Lăng đứng giữa cân nhắc chọn lựa, việc Chính Đức cải trang rời khỏi kinh sư được an bài hết sức cẩn thận. Chuyện trò đến lúc trời gần nhá nhem, ba người mới vui vẻ chia tay.

Lòng như tấu nhạc, Dương Lăng vui sướng rời khỏi cổng cung, chui vào trong chiếc kiệu quan, đám người hầu nâng chiếc kiệu lớn lên. Ngũ Hán Siêu đang ngồi tĩnh tọa, thấy y trở về bèn thu thế lại nhường chỗ cho y chui vào. Dương Lăng vào trong kiệu, vừa ngồi xuống liền áy náy:

- Đã làm phiền Hán Siêu rồi! Với tài học của mình, huynh vốn có nhiều chỗ để dùng, giờ lại bảo huynh bảo vệ che chở cho ta, ha ha! Đợi mấy ngày nữa đi, chờ yên ổn rồi, ta sẽ bổ nhiệm cho huynh một chức quan.

Ngũ Hán Siêu cười đáp:

- Đại nhân không cần phải khách sáo, kẻ hèn thương thế chưa khỏi, nghỉ ngơi thêm mấy ngày cũng tốt. Khi còn ở trên núi, thông thường mỗi lần tĩnh tọa là suốt một ngày, cho nên quả thực cũng không cảm thấy buồn tẻ.

Trong lúc hai người chuyện trò, chiếc kiệu đã được nhấc lên, lắc lư di chuyển trên đường.

Chiếc kiệu rời khỏi sân rồng lát đá xanh, rẽ vào một phố lớn phồn hoa. Ngũ Hán Siêu đang quay đầu giảng giải tâm pháp nội công cho Dương Lăng thì bất chợt ngừng lại, thân dưới thoáng nhích, cả thân trên đột nhiên dịch sang ngang nửa thước, một thanh kiếm bén ngót lạnh lẽo từ ngoài rèm kiệu đâm vào. Một kiếm đâm hụt, kẻ ra tay cũng phát hiện được, "xoạt" một tiếng trường kiếm bèn được rút về.

Lúc này ngoài kiệu hỗn loạn, một loạt những âm thanh huyên náo vọng vào. Ngũ Hán Siêu mắng khẽ:

- Quả nhiên có thích khách!

Dứt lời chàng quơ lấy thanh trường kiếm bên cạnh, búng người phóng ra ngoài.

Nhát kiếm vừa nãy khiến cho Dương Lăng trông thấy mà khiếp vía vô cùng. Ngoài kiệu tiếng binh khí chạm nhau vang lên dồn dập xen lẫn với những tiếng la hét ầm ĩ của bá tánh trên đường, sau đó có tiếng con gái chửi mắng vọng lại xa dần, lại nghe Ngũ Hán Siêu quát tháo: "Bảo vệ đại nhân", rồi không còn tiếng động gì nữa.

Dương Lăng thoáng định thần lại, vén hờ rèm kiệu, thấy bốn tay thị vệ đang căng thẳng bao vây chung quanh. Gần cuối năm nên nhiều người dân ra đường mua đồ sắm tết đông đúc, nơi này lại là con đường cực kỳ phồn hoa, đám đông nhốn nháo hoảng loạn quanh đấy vẫn còn trốn chạy, trên đường vứt bừa bãi nào là đầu heo, nào là bàn thờ, vàng mã,... ngổn ngang hỗn loạn.

Dương Lăng vén rèm bước ra ngoài quát hỏi:

- Ngũ huynh đâu?

Một tay thị vệ cầm đao, vừa căng thẳng nhìn bá tánh đang chạy tán loạn khắp nơi vừa đáp:

- Dạ đã đuổi theo nữ thích khách che mặt nọ rồi.

Dương Lăng thở phào một hơi, ra lệnh:

- Cử một người đi bảo người của Ngũ thành binh mã ty mau đến trấn áp khu vực, tình hình càng hỗn loạn thì....

Y còn chưa dứt lời, mắt đã thấy một bóng hình yêu kiều mà mau lẹ chợt xuất hiện, tay thị vệ bị kẻ đó đá văng vào trong đám người, mồm hộc máu tươi.

Kẻ vừa xuất hiện hết sức nhanh nhẹn, kiếm loé như chớp, một tay thị vệ khác vừa cảnh giác vặn người bổ một đao đã bị một kiếm đâm xuyên vai. Kiếm lui chân tới, tên thị vệ bị đá quay một vòng văng vào giữa đám đông. Dương Lăng chỉ cảm thấy hông bị siết lại, y đã bị người ta ôm chặt, bên tay vẳng lại giọng nữ khẽ quát:

- Mau đoạn hậu! Gió rát, ai nấy về chùa! (từ lóng: ý nói tình thế không tốt, mọi người rút lui)

Dương Lăng chân không chạm được đất, bị kẻ đó kẹp nhảy vào trong đám đông, rẽ quanh rẽ quẩn rồi tiến vào một con hẻm chưa chong đèn. Con hẻm không sâu, nháy mắt đã ra khỏi đầu hẻm, đã có một cỗ xe ngựa đợi sẵn. Tay kẻ đó thoáng vung lên, ném bay Dương Lăng vào trong xe, rồi co người nhún chân nhảy vọt lên xe, quát:

- Lập tức rời thành!

Dương Lăng bị ném ngã vào trong xe, đầu vàng mắt hoa, vừa mới ngẩng đầu lên liền có một người nữa xông vào, chen ngồi cạnh y. Kế đó y bị kẻ kia túm lấy cổ áo nhấc lên.

Dương Lăng hoảng hốt chống tay gượng dậy. Y cảm thấy tay vịn vào một khối thịt mềm mại nở nang, vừa phát hiện ra là một cặp đùi săn mẩy chắc nịch thì cả người y đã bị ấn về phía sau, đập vào thanh xe "bộp" một tiếng, một lưỡi kiếm sắc lẹm lạnh lẽo đã kề sát trên cổ.

Dương Lăng định thần lại, thấy trong xe treo một cây đèn bão. Dưới ánh đèn, kẻ đó gỡ khăn che mặt xuống, toàn thân mặc đồ đen, da trắng như tuyết, tôn lên một vẻ đẹp không nhiễm bụi trần.

Gương mặt xinh xắn đó thanh nhã mà thoát tục, rực rỡ rạng ngời, một cây trâm ngọc bích màu xanh lá óng ánh cài trên mái tóc đen mượt, dưới hàng mi cong cong là một đôi mắt xinh đẹp lóe lên vẻ lạnh lùng và nghiêm nghị vô cùng.

Dương Lăng thoáng sững người, bật thốt:

- Dương Khóa Hổ Hồng Nương Tử?

Người con gái xinh đẹp vận bộ đồ bó màu đen nọ thoạt tiên ngẩn ra, sau đó nhếch miệng cười, thấp thoáng hàm răng trắng đều như bắp:

- Thì ra ngươi đã biết rõ tông tích của ta. Không sai, ta chính là Thôi Oanh Nhi! Xưởng đốc đại nhân, dù bản lĩnh ngươi to như vậy mà còn không phải đã rơi vào trong tay ta đó ư?

Nàng thoáng lật mũi thanh đoản kiếm, sống kiếm ấn vào cổ Dương Lăng, khuôn mặt xinh đẹp nghiêm lại, giọng lạnh lùng quát:

- Trượng phu của ta đâu? Có phải đã trúng phải độc thủ của ngươi rồi không?

Nụ cười thoáng qua kia như "bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước", nét mặt tươi cười tựa như "mây phá, trăng ra, hoa giỡn bóng", rúng động lòng người. Trong chớp mắt vẻ đẹp rạng ngời như bóng ngựa qua khe cửa, thoáng cái đã không thấy tăm hơi, trên khuôn mặt thanh tú lạnh lùng chỉ còn lại một đôi mắt đang nhìn y chằm chằm đầy thù hận.

Chú thích:

Nguyên văn "Khanh bản giai nhân".

Ngoài nghĩa là người đẹp, giai nhân cũng có nghĩa là người tốt, chỉ bực quân tử.

Hán Vũ đế trong "Thu Phong từ" có câu: "Lan hữu tú hề cúc hữu phương, huề giai nhân hề bất năng vong." (Ý: Lan đẹp có cúc mới có hương thơm, gần người quân tử không thể mất nước).

Cụm từ "khanh bản giai nhân" được dùng với ý trách móc: "Ngươi vốn là người tốt, sao lại..."

Trong Đào Khản truyện, sách Tấn thư, có câu: "Khanh bản giai nhân, hà vi tùy chi dã?" (Ý: Ngươi là người tốt, sao lại theo làm (điều xấu)?).

(nguồn: http://baike.baidu.com/view/850350.htm)

"Khởi Cư" nghĩa là sinh hoạt thường ngày; đây là quyển sổ ghi chép sinh hoạt hằng ngày của vua chúa

nguyên văn "tước bôi" là loại chén rót rượu cao có ba chân thời xưa, hình giống con chim sẻ (chim tước), thường thấy trong phim Tam Quốc Diễn Nghĩa.

người trên bảo cho các người dưới đều biết gọi là hiểu dụ, cũng như hiểu thị.

từ thời Chu, con vua và các chư hầu đều được gọi là thế tử.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 179: Rơi vào tay kẻ địch

Nhát kiếm đó từ ngoài tấm rèm đâm vào, thế kiếm hết sức tàn độc, vẻ như thể nhất quyết phải thành công. Trong lòng Ngũ Hán Siêu lửa giận bừng lên, bèn xách kiếm lao ra ngoài kiệu, thấy bốn gã thị vệ đang rút đao xông về phía tên thích khách đột nhiên tập kích kia, còn kiệu phu thì đã sợ hãi trốn qua một bên rồi. Y bèn lập tức rút kiếm lao tới, giao chiến với tên thích khách mặc đồ đen có thân hình nhỏ nhắn, che mặt bằng khăn đen kia.

Y đã nhận định trong lòng đây chính là đại đạo Thôi Oanh Nhi chưa kịp trốn đi. Giang hồ đồn rằng Thôi phu nhân xinh đẹp như hoa, thuần thục nghề cung ngựa, một thân võ nghệ còn lợi hại hơn trượng phu, người trong giang hồ tặng cho biệt hiệu là Dương Khóa Hổ. Ngũ Hán Siêu từng kiến thức võ nghệ của Dương Hổ, tuy còn kém xa mình, song lúc này trên người đang có nhiệm vụ nặng nề, đối mặt với nữ tử bịt mặt này cũng không dám sơ ý.

Hai bên giao đấu được vài hiệp, Ngũ Hán Siêu liền cảm thấy yên tâm, Dương Khóa Hổ chỉ có hư danh, võ nghệ thật ra cũng chỉ xấp xỉ với Dương Hổ. Đấu được một lát nữ tử kia cũng nhìn ra mình không phải là đối thủ của Ngũ Hán Siêu, đột nhiên quát lớn một tiếng, vung tay ném ra một thanh tiểu đao, đoạn thừa cơ trốn vào trong đám người.

Ngũ Hán Siêu vừa mới theo vào dưới trướng Dương Lăng, nếu có thể bắt được ả đại đạo này ắt là một công lớn, có thể nở mày nở mặt, y làm sao chịu bỏ qua, bèn lập tức tung người đuổi theo. Trong suy nghĩ của y, Dương Khóa Hổ đã sinh lòng sợ hãi, dựa vào võ công của y muốn bắt sống đối phương cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn.

Nhưng nữ tử bịt mặt kia cực kỳ giảo hoạt, ỷ có thân hình nhỏ nhắn nên không ngừng rẽ trái rẽ phải trong đám người, dựa vào sự che chắn của dòng người khiến Ngũ Hán Siêu không cách nào bắt được. Đuổi theo chừng hai con đường, trong lòng Ngũ Hán Siêu chợt động, cảm thấy sự tình có điều không ổn.

Y vốn cho rằng nữ tử võ nghệ cao cường này chính là Hồng Nương Tử, một mình tới hành thích Dương Lăng, xem ra là đã ở vào đường cùng không còn ai để sai phái, do đó y mới yên tâm đuổi theo. Nếu lỡ như ả còn mai phục thêm người khác, dựa vào những thị vệ chỉ quen việc chiến đấu nơi sa trường, không giỏi về võ nghệ kia liệu có thể bảo vệ chu toàn cho đại nhân không đây?

Ngũ Hán Siêu nghĩ tới đây, không dám tham công đuổi theo tiếp nữa, tập tức quay người chạy về chỗ cũ. Khi về đến nơi chỉ thấy một đội quan binh đang vây quanh nơi đó, trên mặt đất có một thi thể, bốn gã phiên tử đều đã bị thương. Trái tim Ngũ Hán Siêu nhảy lên tận cổ họng, hoang mang chạy đến gần. Chỉ thấy một thị vệ đang dùng tay giữ chặt vai, máu tươi rỉ ra không ngừng song cũng chẳng để tâm tới vết thương của bản thân, hướng về phía đám quan binh tuần thành lۮ tiếng gầm lên:

- Còn đứng ngây ra đó làm gì? Tổng đốc Nội xưởng đã bị quân giặc cướp bắt đi rồi, mau đi thông báo cho Ngũ Thành Binh Mã ti lục soát toàn thành, lệnh cho Kinh doanh (Trỏ doanh trại quân đội đóng ở khu vực kinh sư - ND) đóng chặt Cửu môn, mau đi!

Hôm qua Dương phủ bị tập kích, gian tặc đến xâm phạm gần như đã bị tiêu diệt hoàn toàn, tên thủ lĩnh đã trốn đi. Dựa theo lẽ thường thì cường đạo dù hung hãn đến đâu đi nữa, một khi đã bại lộ hành tung trước mặt quan phủ thì ắt sẽ cao chạy xa bay, không dám ở lại chỗ cũ nhưng quan binh tuần thành cũng không dám sơ ý chút nào. Dưới mệnh lệnh của cấp trên, các quan binh mười người lập thành một đội đi lại khắp thành, nơi nào có động tĩnh cũng đừng hòng giấu được.

Nơi này vừa mới xảy ra giao tranh bọn họ đã lập tức nghe tin mà tới, năm tên đại đạo phụ trách đoạn hậu có một tên trúng đao bỏ mạng, những kẻ còn lại thấy tình hình không hay liền lập tức tản đi, lẩn vào trong đám người rồi biến mất chẳng còn tung tích. Bốn gã thị vệ vừa lo lắng vừa tức giận, không kìm được nổi cơn lôi đình với lũ ngu ngốc kia.

Tổng đốc Nội xưởng bị bắt cóc ngay tại kinh sư, Ngũ Thành Binh Mã ti hay tin thì không ngừng kêu khổ, lập tức phái ra toàn bộ lực lượng. Các nha dịch người cầm đao kẻ cầm thương khí thế bừng bừng phong tỏa mọi con đường, năm bước một trạm gác nhỏ, mười bước một trạm gác lớn, toàn thành giới nghiêm.

Hình bộ nhân lúc cửa cung còn chưa đóng vội vã đưa tin vào trong cung. Chính Đức hay tin thì cả giận, lập tức hạ lệnh đóng chặt Cửu môn phong tỏa toàn thành, lại vội vã triệu Lưu Đại Hạ vào cung, lệnh cho ông ta quét sạch đám giặc cướp tụ tập làm loạn ở khu vực Bá Châu. Hình bộ, Kinh doanh, Đông xưởng, Tây xưởng, Cẩm Y vệ cũng nhận được thánh dụ, phái nhân thủ đi khắp nơi, khiến cho khắp kinh sư rơi vào cảnh gà bay chó chạy.

Các vị quan sai lão gia của các ti các bộ đều nhân cơ hội này để làm khó các gia đình giàu có, lấy cớ có người tố cáo mà đến tận cửa lục soát, tiện tay vơ vét những thứ đồ đáng tiền. Các phú thương giàu có sao chịu để cho đám sai dịch như lang như hổ đó vào nhà tìm kiếm, để cầu bình an chỉ còn cách bỏ ra chút tiền cho xong việc, đuổi đám quan sai lão gia ấy đi.

Thế nhưng lượt này đi rồi lượt sau lại tới, còn cái bóng của Dương Lăng thì vẫn chẳng thấy đâu, rốt lại thành ra giúp lũ người đó kiếm được một khoản tiền. Tin tức truyền lên trên núi, Ngô Kiệt hay tin không khỏi cả kinh, nếu Dương Lăng có mệnh hệ gì Nội xưởng coi như sụp đổ. Dù ông ta trước nay cơ cảnh bình tĩnh nhưng cũng bị tin tức này làm cho kinh hãi đến độ lòng dạ rối bời, nhất thời không nghĩ ra được chủ ý nào hay cả.

Duy có Hoàng Kỳ Dận là hết sức tỉnh táo, hỏi kĩ tình hình từ viên phiên tử đến báo tin, rồi kêu y lập tức trở về dặn dò đám người Ngũ Hán Siêu phải ở lại Hình bộ không được trở lại Dương phủ. Vẻ mặt lo âu, ông ta quay sang nói với Ngô Kiệt:

- Ngô đại nhân, xin chớ tự làm loạn trận cước, tên đại đạo đó bắt mà không giết, ắt là còn có mục đích khác, đại nhân tạm thời không có mối nguy về tính mạng đâu.

Ngô Kiệt trấn tĩnh trở lại, nói:

- Đúng rồi, bản quan hay tin mà kinh hãi quá, trong lòng chẳng nghĩ ra được chủ ý nào. Bọn chúng bắt đại nhân đi ắt có mưu đồ, phòng ốc trong kinh sư dày đặc, dân cư trăm vạn có dư, nếu mà ẩn nấp thì thực khó lòng tìm được, Hoàng lão có diệu kế gì không?

Hoàng Kỳ Dận nói:

- Phu nhân đang mang thai, lỡ mà hay tin đại nhân gặp nguy hiểm, với nỗi kinh hãi và lo lắng khó đảm bảo sẽ không có điều sơ sảy nào. Đại nhân cần lập tức phái người đi phong tỏa phủ Uy Vũ bá, không được để tin tức truyền vào trong phủ!

Ngô Kiệt nghe xong cả kinh, Dương Lăng chưa rõ sống chết, nhất thời chẳng biết tìm ở đâu. Y chỉ có một người con này, quả thực là một chuyện lớn không thể sơ xuất. Ông ta bèn quay sang nói với Liễu Bưu vừa hay tin chạy tới:

- Liễu thiên hộ, chuyện này giao cho ngươi đấy, nhất định phải bảo vệ Dương phủ an toàn, không được có điều sơ sảy!

Liễu Bưu thần sắc ngưng trọng, chẳng nói lời nào, vội vã ôm quyền rời đi. Ngô Kiệt suy nghĩ rồi tiếp:

- Nữ tặc đó bắt đại nhân đi, trong lòng thấp thỏm, chưa chắc đã dám ở lại trong kinh, có điều ả đã bắt mà không giết, chắc chắc là có mưu đồ, dù đi cũng không đi xa. Bành đáng đầu, Liên đáng đầu, Phùng đáng đầu, Dương thiên hộ, các vị mỗi người dẫn theo một đội quân, lập tức đến bốn cửa lớn của kinh thành tra hỏi xem có xe ngựa nào khả nghi không. Tìm kiếm thật kỹ, hãy nhớ mọi sự phải cẩn thận, đừng ép gấp quá, khiến cho lũ đạo tặc chó cùng rứt giậu.

Bốn người lập tức vâng lời, rồi cũng vội vã rời đi. Ngô Kiệt đưa mắt nhìn Hoàng Kỳ Dận, thở dài than rằng:

- Nay ta và ông chỉ có thể ngồi đây chờ tin tức, mong rằng đại nhân... người tốt sẽ được trời trợ giúp!

***

Dương Lăng bị lưỡi đao sắc bén kề lên cổ họng, trong lòng nghĩ thầm: "Hồng Nương Tử mạo hiểm như thế bắt mình đi, xem ra là còn chưa biết Dương Hổ đã trốn thoát. Nếu nàng ta biết tin tức chính xác của Dương Hổ, hẳn đã nghĩ cách trốn khỏi kinh thành rồi, sao dám mạo hiểm như vậy để bắt mình chứ? Cũng may mà nàng ta chưa biết trượng phu còn sống hay đã chết, ném chuột sợ vỡ đồ, do đó mới không dám giết mình. Mình vì chuyện này mà gặp họa, cũng vì chuyện này mà được an toàn, xem ra nhất thời không có nguy hiểm về tính mạng rồi."

Xe ngựa đi nhanh rất xóc. Dương Lăng nghĩ đến đây, trong lòng thầm thở dài một hơi, lại đưa mắt nhìn khuôn mặt xinh đẹp trắng ngần của Thôi Oanh Nhi, bèn khẽ thở dài nói:

- Hôm trước cô còn là khách của ta, hôm nay ta lại là tù nhân của cô rồi. Dương phu nhân, bản quan đối với vợ chồng cô hết sức đúng mực, không hề có chút ác ý nào, cớ sao lại tập trung mấy trăm kiêu hùng, muốn giết cả nhà ta?

Thôi Oanh Nhi nghĩ đến mục đích của chồng mình, trong lòng thoáng qua một chút áy náy, nhưng ngay sau đó lại trầm mặt gằn giọng:

- Ngươi là quan, ta là giặc, quan và giặc vốn đã thế bất lưỡng lập rồi. Quan binh bắt giặc, giặc giết quan binh, đều là dựa vào bản lĩnh, còn cần có lý do gì sao?

Nàng nghĩ đến việc trượng phu sống chết chưa rõ, hai trăm thủ hạ đắc lực mà y dẫn theo gần như đã bị thư sinh trước mắt này giết sạch, không khỏi căm hận nghiến răng nghiến lợi, hằn học hỏi:

- Mau nói đi, trượng phu của ta hiện giờ thế nào rồi?

Dương Lăng thấy nàng quả nhiên không biết tin tức của Dương Hổ, trong lòng lại càng yên tâm hơn, bèn ung dung nói:

- Đám đạo tặc đó nửa đêm xông vào Cao Lão Trang, dưới sự bao vây của hơn ngàn quan binh đã bị tiêu diệt hoàn toàn, còn về Dương Hổ...

Hồng Nương Tử nghe vậy thần sắc lộ rõ vẻ lo lắng, vội vã hỏi:

- Chàng thế nào rồi?

Dương Lăng bấm bụng nói:

- Trên đùi gã trúng một tên, đã bị bản quan bắt sống, hiện giờ đang bị nhốt trong đại lao.

Dương Hổ trúng tên bị thương, sau đó bị bắt sao? Điều này nghe cũng có mấy phần đáng tin, với tính cách của Dương Hổ quyết không lý nào lại một mình bỏ chạy, mà nếu gã không bị thương, dựa vào võ công của quan binh muốn bắt được gã thì chẳng phải chuyện dễ dàng gì.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng vẻ bán tín bán nghi, cười lạnh một tiếng nói:

- Được, ta tạm thời tin ngươi, ngươi sống hay chết phải xem xem Dương Hổ giờ đây sống hay chết. Nếu để ta biết tin chàng đã không còn sống trên đời, ta sẽ dùng cái đầu ngươi để tế vong hồn của trượng phu ta!

Thôi Oanh Nhi đột nhiên thu kiếm lại, dùng cán kiếm vén rèm cửa sổ xe lên, đưa mắt nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó bèn thay quần áo ngay trước mặt Dương Lăng, mặc vào một bộ quần áo bình thường, dáng vẻ thản nhiên như thể Dương Lăng là một người chết vậy.

Thứ nàng mặc bên trong tuy không phải quần áo lót, nhưng vì nàng eo thon ngực nở, chân dài mông cong, vóc dáng quyến rũ vô cùng, trong khoang xe lại chật hẹp, thỉnh thoảng có va chạm là lại một phen diễm phúc, nhưng rốt cuộc lại làm cho Dương Lăng thấy thiếu tự nhiên, ngoảnh đầu qua hướng khác.

Hồng Nương Tử nhanh chóng thay xong quần áo, đoạn yêu kiều quát bảo:

- Dừng xe!

Xe ngựa dừng lại, Hồng Nương Tử đưa tay chụp lấy cánh tay Dương Lăng, hệt như một chiếc vòng sắt quấn vào, khiến cho Dương Lăng chẳng thể giãy giụa. Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:

- Xuống xe!

Nàng kéo Dương Lăng xuống xe, ngồi bên ngoài đánh xe là một đại hán râu quan nón mặc áo đay, Hồng Nương Tử nói:

- Hồ lão tứ, ra ngoài thành rồi hãy đánh xe đi một mạch về hướng bắc, sau đêm nay hãy tạm thời tránh đi, đợi khi gió yên sóng lặng thì trở về sơn môn.

Hồ lão tứ đó vốn là một đại đạo độc hành, sau bị Dương Hổ thu phục về rồi kết nghĩa huynh đệ, cái trò một mình đi lại giữa sự bao vây của quan phủ này trải qua đã nhiều, đối với tương lai nguy hiểm trước mắt căn bản chẳng để tâm là mấy, vẫn thản nhiên cất tiếng cười vang:

- Tẩu tẩu yên tâm, huynh đệ đi đây, tẩu tẩu nhớ bảo trọng!

Dứt lời bèn nhìn Dương Lăng cười gằn một tiếng, vung roi quất ngựa rời đi.

Dương Lăng có chút bất ngờ, nghĩ bụng: "Hồng Nương Tử chỉ là một đại đạo lục lâm, trong kinh sư này cũng có chỗ ở bí mật sao? Mình vừa bị bắt, ắt đang được tìm kiếm khắp toàn thành, nếu ở tại khách điếm hay gia đình bình thường nào đó, nàng ta làm sao đảm bảo rằng không bị phát hiện đây?"

Con hẻm này có chút vắng vẻ, đằng xa thỉnh thoảng mới có vài bóng người qua lại, Hồng Nương Tử thúc cán kiếm vào eo lưng Dương Lăng, thấp giọng nói: "Chớ có lên tiếng, đi theo ta! Nếu dám giở trò, ta sẽ cho ngươi đầu rơi xuống đất." Nói xong bèn đưa tay đẩy Dương Lăng, ép y đi vào trong con hẻm âm u.

Kinh sư phân làm bốn lớp là cung thành, hoàng thành, nội thành và ngoại thành, nơi này đã là ngoại thành, không được xây dựng tường thành, nhưng vẫn thuộc vào phạm vi kinh sư. Nhân khẩu cư trú ở đây khá ít, đi ra khỏi con hẻm là một mảnh đất hoang vu, đi tiếp về phía trước nữa thì là một đạo quán còn chưa được xây dựng xong.

Trong đạo quán Lưu lão đạo đang rì rầm nói chuyện riêng với Thúy Nhi. Lưu lão đại đưa mắt nhìn mấy tên sơn tặc đang ôm vũ khí đi qua đi lại trước mắt, ngồi dựa vào hương án thấp giọng nói:

- Thật là thất sách, ta trù tính để nàng ra tay trước, chính là muốn nàng một kiếm lấy mạng gã họ Dương kia luôn, ai ngờ hắn thật quá giảo hoạt, còn chơi trò giấu thêm người trong kiệu, không biết giờ Hồng Nương Tử đã đắc thủ chưa?

Thúy Nhi cũng thấp giọng nói:

- Dương Hổ rất có uy vọng trong giới lục lâm phương bắc, hô một tiếng ắt có vô số người theo, có thể giúp ích rất nhiều cho đại kế của giáo chủ. Nếu Hồng Nương Tử thật sự có thể dùng hắn đổi về Dương Hổ, tính ra lại càng có lợi cho chúng ta, giết một tên thủ lĩnh Nội xưởng thì có lợi gì cho đại cuộc chứ?

Lưu lão đạo khẽ hừ một tiếng:

- Dương Hổ là sống hay chết vẫn còn chưa biết, nếu còn sống thì liệu có thật sự đã rơi vào tay quan phủ hay không cũng chưa biết. Quan phủ liệu có chịu bất chấp thể diện mà trao đổi con tin với đạo tặc không cũng vẫn chưa biết. Chúng ta đi theo ả mạo hiểm như vậy, còn cống hiến luôn cả hương đàn bí mật vẫn chưa hoàn thành này của bản giáo ra, nếu không có chút thu hoạch nào, biết ăn nói ra sao với giáo chủ đây?

Rồi lão lại thấp giọng:

- Ta đã an bài nhân thủ đi thăm dò tin tức chuẩn xác trong cung và trong nha môn. Nếu Dương Hổ căn bản không ở trong tay quan phủ, vậy thì cứ giết Dương Lăng, sau đó tạm tránh trong địa cung vài ngày, đợi phong ba lắng xuống một chút rồi sẽ rời đi.

Thúy Nhi cười phì một tiếng nói:

- Việc này không cần ông lo, nếu Hồng Nương Tử thả Dương Lăng đi thì biết ăn nói thế nào với các huynh đệ của trượng phu chứ? Hơn nữa mấy kẻ bên cạnh chúng ta hiện giờ đều là bè lũ với hai trăm tên đại đạo kia, hận Dương Lăng đến thấu xương. Bất luận Dương Hổ còn sống hay đã chết, Dương Lăng đều đừng hòng còn sống mà rời đi được.

Hai người đang nói chuyện, ngoài cửa chợt vang lên mấy tiếng động nhỏ, mấy người trong điện vội cầm binh khí lặng lẽ nấp vào hai bên cửa điện, phía xa có một âm thanh khe khẽ vang lên:

- Đừng lo, là đại tẩu trở về rồi.

Đám người trong điện mừng rỡ vô cùng, vội vàng bước ra nghênh đón, Lưu lão đạo và Thúy Nhi đưa mắt nhìn nhau, cũng vội bước ra theo.

Hồng Nương Tử và Dương Lăng bước vào trong điện dưới sự vây quanh của mấy hán tử tay cầm đao kiếm, trong điện không thắp đèn, bởi vì trời lạnh, mái điện lợp được một nửa thì tạm dừng, ánh trăng ánh sao từ trên trời chiếu xuống, khung cảnh cũng có thể nhìn thấy khá rõ ràng.

Hồng Nương Tử hạ giọng nói:

- Các huynh đệ đã an toàn trở về hết chưa?

Một tên đại đạo nói:

- Ba Lục Tử bị giết ở đó rồi, các huynh đệ khác đều không sao.

Nói rồi đá mạnh Dương Lăng một cái, cất tiếng mắng chửi:

- Cẩu quan, nhất định phải bắt ngươi đền mạng cho các huynh đệ!

Hồng Nương Tử lạnh lùng quát một tiếng:

- Dừng tay, Hổ ca của ngươi còn ở trong tay quan phủ, người này còn có tác dụng.

Lưu lão đạo thò đầu nhìn ra bên ngoài một chút, sau đó co đầu lại nói:

- Tốt rồi, người đã bắt được rồi, mọi người cũng an toàn trở về rồi, mau tránh vào trong mật thất đi, cẩn thận đừng để lộ hành tung!

Lão rón ra rón rén đi đến bên cạnh hương án, mày mò trên nền đá một hồi, đẩy một phiến đá ra, để lộ ra một cửa hang động tối thui. Có người đánh lửa lên, dẫn tất cả mọi người tránh vào trong mật thất dưới lòng đất đó.

Công trình trên mặt đất còn chưa hoàn thành, phía dưới này cũng rất sơ sài đơn giản, chỉ có ba căn phòng đá trống không, mấy bức tường đều lạnh ngắt. Có điều những người này đã quyết ý tạm lánh ở đây, đã chuẩn bị sẵn nước uống đồ ăn và đuốc thắp. Lúc này ngọn đuốc được thắp lên, chiếu sáng mọi thứ.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Lăng bị hai tên đại đạo áp giải vào trong một căn phòng đá, xoay người lại cười nói với Lưu lão đạo:

- Tiên sinh đúng là thần cơ diệu toán! Thảo nào lại cứ phải để Thúy Nhi động thủ trước, hóa ra trong kiệu của Dương Lăng còn có cao thủ mai phục, nếu không nhờ tiên sinh dùng kế, chúng ta cứ thế xông lên để lộ hành tung, ắt khó mà bắt được Dương Lăng.

Lưu lão đạo ngẩn ra một chút, cười khan hai tiếng nói:

- Điều này... Khụ khụ, có tin tức gì của thủ lĩnh không?

Thôi Oanh Nhi vừa biết tin trượng phu bình yên vô sự, bèn vui vẻ kể lại:

- Vừa rồi hắn khai nhận rằng đã bắt được Hổ ca, Hổ ca hiện giờ chỉ bị thương, không có nỗi lo về tính mạng. Hôm nay sắc trời đã tối, đi lại trong thành hết sức khó khăn, tiên sinh có văn thư thông hành trong người, hẳn không bị kẻ khác hoài nghi. Ngày mai còn phiền tiên sinh đến đưa cho quan phủ một bức thư mật, yêu cầu đổi tên cẩu quan này lấy Hổ ca.

Lúc này từ trong căn phòng trống trải phía bên kia chợt vang tới mấy tiếng kêu lớn, Thôi Oanh Nhi lập tức đứng dậy chạy qua, thấy hai tên đại đạo kia đang muốn dùng hình với Dương Lăng, lập tức quát bảo:

- Các ngươi làm gì đấy?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 180: Lại sinh thêm chuyện

Vừa nhìn tình hình liền hiểu rõ mọi chuyện, Hồng Nương Tử lạnh lùng quát:

- Bỏ hắn ra, các ngươi ra ngoài!

Tuy hận Dương Lăng đến thấu xương nhưng dưới uy thế của Dương Khóa Hổ, hai gã đại đạo cũng không dám phát tác bừa bãi. Dù sao Dương Lăng cũng đã rơi vào trong tay rồi, chẳng sợ y trốn đi đâu được, hai gã bèn nhổ một bãi nước bọt về phía Dương Lăng, khẽ ôm quyền chào Hồng Nương Tử rồi bước ra ngoài.

Dương Lăng ôm ngực thở dốc, chậm chạm đứng dậy. Hồng Nương Tử hờ hững đưa mắt nhìn y, đoạn xoay người bước ra ngoài. Một lát sau nàng quay trở lại, đưa cho y một túi nước sạch và hai chiếc màn thầu, ôm bảo kiếm ngồi dựa vào vách đá, bảo:

- Ta ở đây trông coi ngươi, ăn xong rồi nghỉ ngơi đi. Ngày mai ngươi hãy tự tay viết một phong thư gửi đến quan phủ yêu cầu đổi người, ta đảm bảo cái mạng chó của ngươi sẽ giữ được.

Dương Hổ sớm đã trốn thoát mất rồi, nếu để nàng biết sự thật liệu mình còn sống được ư? Dương Lăng nhất thời chẳng có cách nào khác, đành cầm lấy túi nước và bánh màn thầu, ngồi xuống dựa lưng vào vách đá đối diện với nàng, khẽ thở dài:

- Lần đầu gặp mặt, phu nhân đang bỏ tiền mua lương thực cứu tế nạn dân, một lòng nhân từ, khá có tác phong hiệp nghĩa. Dương mỗ tuy thân ở triều đình, nhưng tự hỏi chưa từng làm chuyện gì có lỗi với trăm họ, cớ sao các vị lại muốn dồn ta vào chỗ chết vậy?

Y định nhắc tới chuyện ở hầm sưởi nhưng lại sợ cô ả này thẹn quá hóa giận khiến mình sẽ phải chịu thêm khổ sở, lời nói đã đến miệng đành nuốt trở về. Thôi Oanh Nhi cũng hơi nghẹn họng, nàng khựng lại một hồi rồi cười lạnh đáp:

- Ta cứu tế nạn dân là vì bản thân ta cũng là người cùng khổ, biết rõ nỗi khổ sở khi phải chịu đói chịu rét. Bọn ta không chỉ muốn giết ngươi mà còn muốn giết tất cả đám quan lại, lật đổ cái thiên hạ hại người này, xây dựng một triều đại mới.

Dương Lăng thở dài thườn thượt, nói:

- Cô cứu tế nạn dân cũng chỉ có thể cho bọn họ ăn no một bữa cơm. Thiên tai nhân họa không ngừng, trăm họ bữa nào cũng cần ăn, cô có bao nhiêu tiền bạc để mua sắm lương thực chứ? Đợi đến lúc kho lương của quan phủ cũng bị ăn hết cả rồi, cô kêu trăm họ trong thiên hạ phải ăn cái gì đây? Cô chỉ giúp được bọn họ nhất thời, còn ta đưa những thứ cây trồng từ nước ngoài về lại là kế sách dài lâu.

Đừng tưởng rằng chỉ có cô mới xót thương trăm họ! Thiên hạ hiện nay tuy có nhiều tệ nạn, nhưng triều đình không hề thối nát, các quan viên cũng có rất nhiều người thương dân như con. Cô muốn lập triều đình mới, vậy phải đánh bao nhiêu trận, chết bao nhiêu người đây? Đánh cho thiên hạ này trở nên tan nát, phá xong lại lập, nhưng sao bằng ủng hộ các đại thần thanh liêm chính trực trong triều, canh tân cải cách, trừ bỏ lũ tham quan ô lại để trăm họ được ăn no, được mặc ấm, có đất cày? Hơn nữa, chỉ dựa vào các người mà có thể lật đổ được thiên hạ này sao?

Hồng Nương Tử ngạo nghễ đáp:

- Quan binh giỏi lắm hay sao? Sơn trại của bọn ta bị tiễu trừ biết bao nhiêu lần rồi, đám quan binh đó có làm gì được bọn ta? Nếu nhân mã của tất cả các sơn trại tập hợp lại, chắc chắn sẽ là một đội tinh binh vượt hẳn quân đội triều đình. Muốn lấy thiên hạ, có gì là khó chứ?

Dương Lăng cười lạnh:

- Mơ tưởng hão huyền!

Thôi Oanh Nhi trừng mắt, Dương Lăng vội vã nói tiếp:

- Các người dựa vào địa lợi, quan binh tới tiễu trừ thì nấp vào trong núi sâu nên có thể an toàn thoát khỏi tay quan binh mà không tổn thất gì. Nhưng như thế mà cho rằng có thể đối phó với thiên quân vạn mã của triều đình sao?

Cô vào nam ra bắc, thấy nhiều hiểu rộng, phải biết rằng hoàng thất Đại Minh chính thống mang họ Chu, trong thiên hạ người tin phục nhiều vô số kể. Khi các người chỉ làm đại vương trên núi thì tưởng rằng điều này chẳng quan trọng gì, nhưng một khi thật sự muốn khởi binh tạo phản, liệu có bao nhiêu người tin phục mà đi theo đây? Còn bốn chữ Đại Minh chính thống kia thì lại có thể biến thành lương thảo, tiền tài, đao thương và binh sỹ, biến thành những lực lượng thật sự.

Thôi Oanh Nhi cười lạnh không đáp, Dương Lăng lại lấy can đảm nói tiếp:

- Cô nói là muốn lật đổ triều đình, thành lập một triều đình mới phải không? Được, ta hỏi cô, nếu Hồng Nương Tử cô là chủ nhân của thiên hạ, cô định tạo phúc cho nhân dân trăm họ bằng cách nào đây?

Hai mắt sáng rực, Hồng Nương Tử buột miệng đáp:

- Đương nhiên là hủy bỏ những thứ sưu thuế đáng chết kia, không bắt trăm họ ở Hà Nam, Hà Bắc phải nuôi ngựa cho triều đình để rồi nhà tan cửa nát nữa, để trăm họ được sống cuộc sống yên lành, có cơm ăn, còn có thịt ăn, có quần áo mặc, không phải chịu đói chịu rét. Bản thân ta phải chịu khổ đã nhiều, ắt không bạc đãi nhân dân trăm họ.

Dương Lăng cười nhạt không ngớt. Thôi Oanh Nhi đỏ bừng mặt ngọc, lúng túng quát bảo:

- Ngươi cười cái gì? Ta nói sai cái gì sao?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Đúng, đều đúng hết! Vậy để ta hỏi cô, năm nay Hà Nam lũ lụt, Thiểm Tây hạn hán, Sơn Đông bị nạn châu chấu ngợp trời, còn Thổ Dao làm loạn suốt một dải Miêu Sơn. Cô hủy bỏ sưu thuế, vậy lấy cái gì để nuôi dưỡng quân đội của cô, nuôi dưỡng những quan viên trong triều đình của cô, lấy cái gì để cứu tế cho những người dân sắp chết đói? Trong cơn thiên tai nhân họa, lương thực chỉ thu hoạch được không tới ba phần mười, cô làm thế nào để nhân dân trăm họ không phải lo về cơm ăn áo mặc đây?

Thôi Oanh Nhi hơi ngẩn người. Xưa này nàng chỉ oán hận quan phủ vô dụng bất tài nên muốn giành lấy giang sơn để mọi người dân đều được sống những ngày tốt đẹp, thực chưa từng nghĩ tới những điều này. Nàng cắn chặt môi, đáp:

- Những tên phú hào địa chủ đó đều có đất đai vạn khoảnh, dù gặp năm thiên tai trong nhà cũng ăn đủ mặc đầy. Ta có thể để trăm họ ăn lương thực của những kẻ đó, dù sao cũng không thể đến nỗi phải chết đói.

Dương Lăng lắc đầu:

- Khi đó những người phú hào kia cũng là con dân của cô, tài sản đất đai của bọn họ đều phải qua bao nhiêu đời mới tích cóp được, cô muốn ép bọn họ phải tạo phản sao? Hơn nữa số phú hào trong thiên hạ thực chẳng có tới một phần mười, tiền tài tụ tập trong tay một số ít người bọn họ thì coi như là giàu đến chảy mỡ, nhưng sau khi chia ra cho trăm họ thì chẳng qua mỗi người cũng chỉ có bát cháo mà ăn. Triều đình dẫn trăm họ đi ăn lương thực của nhà giàu, đây chính là cách của cô sao?

Cô lại nói đến việc hủy bỏ mã chính (Chính sách bắt buộc người dân phải nuôi ngựa cho nhà nước - ND), không sai, ta cũng từng nghe nói việc quan phủ hà khắc, ép cho trăm họ khổ sở vô cùng, điều này triều đình cần phải sửa đổi từng chút một, nhưng chẳng lẽ không nuôi ngựa nữa lại là phương cách tốt hay sao? Hiện nay giặc Thát đang xâm phạm biên cảnh, thiết kỵ của giặc có tới mấy vạn, nếu không có kỵ binh, cô dựa vào cái gì để bảo vệ giang sơn và trăm họ? Giặc Thát tới rồi, sự tàn độc của chúng còn chẳng hơn sưu thuế cả trăm lần ư?

Nơi duyên hải giặc Oa làm loạn, có cần đóng thuyền không? Có cần huấn luyện thủy quân không? Chặt cây, đóng thuyền cần dùng đến lao dịch, nuôi binh luyện binh cần thu sưu thuế, đóng thuyền may áo giáp chỗ nào cũng cần phải bỏ tiền. Trong lòng cô chỉ nghĩ cần đối xử tốt với trăm họ, nhưng cô có làm được không?

Hồng Nương Tử nghe mà mặt mũi tái hẳn đi, Dương Lăng lại tiếp tục tàn phá sự tự tin của nàng, chẳng hề lưu tình:

- Sưu thuế, nuôi ngựa không thể không cần, nhưng phải xem thi hành thế nào. Quan lại, đồn điền không thể không sửa, nhưng phải xem sửa như thế nào. Quản lý hành chính, xử lý sưu thuế các người có hiểu không? Các người chỉ biết phá hoại, không biết xây dựng!

Hồng Nương Tử không kìm được, quát:

- Câm miệng! Mặc cho ngươi ngụy biện thế nào, Chu Hồng Vũ kia vẫn có xuất thân như thế, chẳng phải y cũng trị được thiên hạ đó sao?

Dương Lăng ung dung đáp:

-Hoàng đế Hồng Vũ xuất thân thấp kém nhưng chẳng phải là hạng võ phu bất học vô thuật, hơn nữa ông ta nổi lên chống lại nhà Nguyên tàn bạo, bên cạnh có biết bao người tài trí giúp đỡ chứ? Còn cô thì sao? Chắc cô cũng biết trái tim người đọc sách trong thiên hạ đứng về bên nào phải không?

Nếu thật sự làm phản, các người chẳng qua là từ sơn tặc biến thành giặc cỏ, theo sóng gió mà nổi lên rồi lại theo sóng gió mà chìm xuống. Một trăm năm sau, người đời có nhắc đến các người cũng chẳng qua chỉ là nhắc đến một đám thổ phỉ gây họa một thời, khiến cho thiên hạ máu chảy thành sông, chẳng giúp ích gì cho nhân dân trăm họ. Nếu các người có con cháu, ắt bọn chúng cũng cảm thấy xấu hổ thay cho các người...

Một hơi của Dương Lăng còn chưa nói hết, đã nghe "keng" một tiếng vang lên lanh lảnh, ánh sáng tỏa ra lạnh ngắt. Thanh đoản kiếm đã kề sát vào cổ y, khiến cho y bất giác run rẩy từng hồi. Thoạt đầu Dương Lăng hơi hoảng loạn, nhưng ngay sau đó y dần bình tĩnh, thản nhiên đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử.

Trong thạch thất nhất thời trở nên tĩnh lặng, chỉ nghe thấy tiếng hô hấp của hai người. Một hồi lâu sau Hồng Nương Tử mới lạnh lùng nói:

- Ta biết ngươi đọc sách nhiều, đừng có hòng khoe chữ với ta! Ta chỉ biết cả nhà ta đều bị quan phủ ép phải lên núi làm giặc, chỉ biết trăm họ ở Bá Châu và vô số nơi khác còn đang bị quan phủ áp bức thậm tệ, ăn bước trước phải lo bữa sau, do đó... bọn ta muốn làm phản!

Nàng nói xong bèn thu kiếm lại, "cạch" một tiếng đút kiếm vào vỏ, rồi dựa đầu vào vách đá, khép hờ hai mắt đe:

- Đừng có nghĩ đến chuyện bỏ trốn! Ngoan ngoãn nghỉ ngơi đi, nếu còn nhiều lời nữa ta sẽ cắt cái lưỡi của ngươi xuống!

Dương Lăng thấy khuôn mặt nàng thoáng co giật, hiển nhiên đang cố gắng đè nén lửa giận nên y cũng không tiện nói tiếp nữa mà ngồi ngây một hồi. Y vẫn chưa nghĩ được nếu ngày mai Hồng Nương Tử mang y đi trao đổi với Dương Hổ, y phải làm thế nào mới thoát thân được đây?

Dương Lăng trầm tư hồi lâu, thầm nghĩ mấy người Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận đều đa mưu túc kế, trong triều cũng có không ít bậc tài năng. Ngày mai đưa bức thư trao đổi con tin đến chỗ bọn họ, ắt bọn họ không ngu xuẩn đến mức nói với đạo tặc rằng không có người để trao đổi. Hiện giờ chỉ đành đi bước nào tính bước đó thôi, chờ có cơ hội rồi thoát thân.

Y thở dài một hơi, cảm thấy trong bụng đã hơi đói, bèn vừa uống nước vừa ăn một chiếc màn thầu, sau đó dựa vào vách đá nhắm mắt giả vờ ngủ. Chốc lát sau, ngọn đuốc trên vách đá yếu dần đi, cuối cùng tắt hẳn.

Dương Lăng cũng bắt đầu cảm thấy hơi buồn ngủ, chỉ là y chưa từng ngủ trên nền đá cứng ngắt lạnh băng thế này nên nhất thời khó mà ngủ được. Trong phòng tĩnh lặng như tờ, Dương Lăng cứ lặng lẽ ngồi dựa vào vách đá, thầm suy nghĩ đối sách. Chợt y phát giác phía đối diện phát ra những tiếng sột soạt, dường như nàng đang trằn trọc chuyển mình không ngủ được, thỉnh thoảng còn xen lẫn những tiếng thở dài. Xem ra những lời vừa rồi của Dương Lăng nàng vẫn nghe lọt vào tai.

***

Dưới lòng đất chẳng biết trời đã sáng hay còn tối, nhưng thời gian tới là tự nhiên tỉnh dậy, trong phòng lại được thắp lên một ngọn đuốc, người canh gác bên ngoài lẳng lặng đi vào, theo sau là Lưu lão đạo. Hóa ra đêm qua lão ta không hề nghỉ lại đây, khi trời vừa sáng mới từ chỗ ở của một tín đồ bí mật khác trở về.

Hồng Nương Tử và Thúy Nhi vội bước lên nghênh đón. Hồng Nương Tử hỏi:

- Lưu tiên sinh, tình hình bên ngoài hiện giờ thế nào?

Lưu lão đạo cười khổ:

- Quan binh kiếm chuyện một hồi lâu rồi cũng dừng lại, nhưng nội thành hiện đã giới nghiêm, mọi con đường xung quanh kinh sư đều đặt trạm gác. Vào thành không bị ngăn trở nhưng người ra ngoài thành nhất định phải có giấy thông hành của quan phủ, tất cả mọi xe ngựa hàng hóa đều bị kiểm tra, ngay đến một con ruồi cũng không thoát ra ngoài được. Những người từ ngoại ô vào thành nếu không có giấy thông hành thì phải đến quan phủ đăng ký, có người nhà đảm bảo mới được ra ngoài.

Hồng Nương Tử biến sắc:

- Ồn ào đến vậy hay sao? Lưu tiên sinh có bị người ta chú ý đến không?

Lưu lão đạo đáp:

- Còn may ta là một đạo nhân vân du bốn bể, theo giấy thông hành thì ta là người từ phương nam tới nên rất ít bị hiềm nghi; hơn nữa ta chỉ đi lại trong thành không hề xuất kinh, do đó kiểm tra một phen rồi cũng không sao. Chỉ là... lần này lộ tẩy, cơ nghiệp do chúng ta vất vả đánh hạ ở một dải Bá Châu e là sẽ bị hủy trong một sớm một chiều thôi.

Hồng Nương Tử không đồng tình:

- Sợ cái gì chứ? Núi xanh còn đó, lo gì không có củi đun? Huống chi tổng trại sớm đã di dời khỏi Bá Châu. Ta sẽ lập tức kêu Dương Lăng tự tay viết một bức thư, chỉ cần bọn chúng đồng ý đổi người, chúng ta sẽ dùng tính mạng con tin uy hiếp bọn chúng để rời thành. Trao đổi người ở chỗ Phong Đài xong, dựa vào khoái mã đã được chuẩn bị sẵn và thuật cưỡi ngựa của chúng ta, một khi ra khỏi kinh sư là sẽ không kẻ nào chặn được.

Mấy tên đại đạo bên cạnh nghe nói đại ca sắp được cứu ra, không kìm được đều xoa tay nắn chân rất mực hưng phấn. Lưu lão đạo thường mang theo cây phướn, lấy việc đoán chữ đoán mệnh làm vỏ bọc, bút mực giấy nghiên luôn có sẵn trên người, bèn lấy từ trong ruột tượng ra giao Hồng Nương Tử đưa vào để Dương Lăng viết thư.

Dương Lăng do dự một hồi mới cầm bút viết một bức thư. Cũng coi như y rất biết điều, trong thư không dám ám chỉ vị trí của mình hiện tại chút nào. Thực tế y cũng chẳng quen thuộc thành Bắc Kinh cho lắm nên ngoài việc biết nơi này nằm phía dưới một đạo quán còn chưa được xây dựng xong, y cũng chẳng biết hiện mình đang ở đâu.

Trong thư Dương Lăng nói rõ mình đã bị bắt làm con tin, kẻ xấu yêu cầu trao đổi mình với Dương Hổ. Y lại nhắc người đọc được thư này mau dâng lên Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng cho phép hãy đến chỗ Cẩm Y vệ đưa đại đạo Dương Hổ bị nhốt trong đại lao ra, lại dựa theo yêu cầu của đối phương mà mang đến địa điểm chỉ định. Để cho chân thực, y còn cởi ngọc bội tùy thân ra làm tín vật.

Phong thư đã chỉ ra một cách rõ ràng địa điểm mà Dương Hổ bị bắt nhốt. Cho dù người trong quan phủ đọc được thư này là kẻ ngốc đi chăng nữa hẳn cũng không đến nổi không hiểu được ý của y.

Có điều hiện giờ là thời đại vũ khí lạnh, đám đạo tặc chỉ cần có võ nghệ cao cường, thuật cưỡi ngựa tinh thông là có thể dễ dàng thoát thân khỏi tay quan binh. Huống chi khi hai bên trao đổi con tin, ắt bọn chúng không cho phép quan binh phái ra quá nhiều người, như vậy hai bên cùng lắm cũng chỉ có thể trao đổi người khi cách nhau hai ba mươi trượng, Dương Lăng chẳng lạc quan chút nào về việc mình có thể thoát khỏi tay đối phương.

Nếu quan phủ định dùng kẻ giả mạo để trao đổi, đám đại đạo Bá Châu chẳng có lý nào lại không kiểm tra, hơn nữa Hồng Nương Tử còn là người chung chăn gối với Dương Hổ, chỉ cần nàng nhìn dáng người cũng đoán được sáu bảy phần rồi. Dù quan phủ có hiểu được sựám thị của mình thì việc cứu mình thoát thân vẫn là một vấn đề khó khăn.

Hồng Nương Tử đứng một bên nhìn y chằm chằm. Dương Lăng cũng chẳng thể nghĩ nhiều, chỉ đành bấm bụm viết thư xong giao cho Hồng Nương Tử; chỉ mong triều đình có người tài nghĩ ra kế hoạch nào đó có thể gạt được đám lục lâm này.

Hồng Nương Tử đón lấy bức thư cùng ngọc bội, kêu hai người đến trông coi Dương Lăng, còn chính mình thì vội vã đi ra ngoài đưa thư cho Lưu lão đạo. Lưu lão đạo năm lần bảy lượt đọc thật kỹ bức thư dưới ánh đuốc, xác thực không có ẩn ý gì, nhìn ngang nhìn dọc đều không thấy huyền cơ, mới yên tâm nhét bức thư vào trong chiếc dây lưng dưới tấm đạo bào, rồi bảo:

- Các cô ăn chút gì đó rồi cứ chờ ở đây, đợi ta đến Ngũ Thành Binh Mã ti tìm cơ hội chuyển bức thư này cho quan phủ.

Lưu lão đạo vội vã ra khỏi địa đạo, đóng chặt cửa động lại rồi lặng lẽ rời đi. Một gã đại đạo mặt mũi dữ dằn đứng bên cạnh Hồng Nương Tử lạnh lùng đưa mắt nhìn căn phòng nhốt Dương Lăng, khẽ nói với Hồng Nương Tử:

- Tẩu tẩu, đợi sau khi cứu được đại ca ra, chúng ta cứ giết luôn tên tiểu tử này rồi hẵng bỏ trốn. Ra khỏi kinh thành rồi thì chúng ta như là mãnh hổ về núi, giao long xuống nước, đừng hòng có ai làm gì được chúng ta nữa.

Hồng Nương Tử hơi khựng người, do dự:

- Nói bậy! Phía chúng ta động thủ vậy bên quan binh sẽ không động thủ ư? Hôm nay có thể cứu được Hổ ca của ngươi về là được rồi, đừng để sinh thêm chuyện phiền toái!

Một tên đại hán đầu trọc mặt rỗ lỗ chỗ, nhìn rất ghê người gằn giọng đáp:

- Đại tẩu yên tâm! Chúng ta không động thủ chẳng lẽ quan binh lại chịu trơ mắt nhìn chúng ta đi ư? Tụ tiễn (ám tiễn giấu trong tay áo - ND) tẩm độc của Hồ Đại Chùy này trong vòng mười trượng chính là thiếp mời của diêm vương. Hổ ca thành thạo Địa Tranh quyền (một môn quyền thuật Trung Quốc, các động tác chủ yếu được thực hiện khi bò rạp hay lăn lộn dưới đất - ND), đến lúc đó chỉ cần tiểu đệ hô lên một tiếng, huynh ấy bò rạp xuống đất mà chạy ra, sẽ không có chuyện gì đâu. Chẳng lẽ chúng ta còn phải nói chuyện tín nghĩa với quan binh hay sao chứ?

Trong lòng Hồng Nương Tử hơi loạn. Những lời Dương Lăng nói đêm qua đã lưu lại một dấu ấn rất sâu trong lòng nàng, quả thật nàng muốn cứu trượng phu ra rồi thảo luận kỹ lưỡng với hắn một phen. Còn đối với Dương Lăng thì quả thực nàng chẳng thể sinh ra chút sát tâm nào cả.

Thúy Nhi ở bên cạnh nhìn rõ vẻ mặt Hồng Nương Tử, bèn lựa lúc mà chen vào:

- Tiểu thư! Lời của Hồ đại ca đúng lắm, cô gia với các huynh đệ tình như thủ túc, lần này có tới gần hai trăm huynh đệ thân cận nhất đã mất mạng trong tay Dương Lăng. Với tính cách hiệp nghĩa của cô gia, món huyết hải thâm thù này sao có thể bỏ qua được chứ?

Nếu để tên cẩu quan đó an toàn quay về, ngày sau ắt sẽ phòng bị nghiêm ngặt, cô gia muốn báo thù há chẳng phải hung hiểm muôn phần hay sao? Chúng ta cứ tiện tay kết liễu luôn cái mạng chó của y, vừa hay có thể báo thù cho các huynh đệ vừa bị giết, khi trở lại sơn môn cũng tiện ăn nói, lại tránh cho cô gia một lần nữa dấn thân vào nơi nguy hiểm.

Mấy tên đại đạo nghe thế đều gật đầu lia lịa, nhất tề đưa mắt nhìn Hồng Nương Tử. Hồng Nương Tử lòng rối như tơ vò, suy nghĩ suốt hồi lâu mới giẫm mạnh chân, cắn răng quyết:

- Được rồi! Nếu vậy ta nghe theo lời các ngươi. Có điều nhất định phải hết sức cẩn thận, lấy sự an nguy của Hổ ca làm đầu!

Mấy tên đại đạo đồng loạt gật đầu đáp:

- Đại tẩu yên tâm, điều này thì bọn đệ hiểu!

Thúy Nhi thấy thế thì khẽ mỉm cười, một tia đắc ý thoáng qua trong đáy mắt.

***

Đường xá chốn kinh sư vẫn phồn hoa như cũ nhưng lại tràn ngập không khí căng thẳng, tất cả mọi cửa thành đều gươm giáo như rừng, phòng bị nghiêm ngặt. Bởi vì việc kiểm tra diễn ra rất chậm nên người ra vào thành đều phải xếp thành một hàng rất dài.

Trên đường lớn của kinh sư, không khí hoan hỉ chuẩn bị đón ngày đầu năm đã nhạt đi không ít, từng đội quan binh của Kinh doanh và lính đi tuần liên tục qua lại, tất cả các nha môn và nơi ở của quan viên đều được bố trí trọng binh canh gác kỹ càng. Các vị đại thần thường ngày chỉ đi xe nhẹ và dẫn theo vài tên tùy tùng, nay đều có mấy chục gia tướng tiền hô hậu ủng, còn những quan viên không có cái thực lực ấy thì liền dứt khoát chẳng ra ngoài.

Không khí căng thẳng như vậy quả thực chưa từng xuất hiện tại chốn kinh sư. Bởi việc xuất nhập không tiện, rất nhiều hàng hóa dịp tết chẳng thể đưa được vào thành, dẫn đến việc vật giá tăng cao. Có tin nếu không tìm được Dương xưởng đốc thì lệnh cấm thành sẽ không được hủy bỏ sớm, do đó mọi người dân đều lo vật giá sẽ tăng thêm nên đành liều mình chịu rét mà ra ố mua sắm đồ tết.

Lưu lão đạo giơ cao cây phướn liêu xiêu bước đi trên đường. Quan binh đi ngang chỉ cho rằng lão là một lão đạo còm nhom dáng vẻ bình thường, đang nhòm đông ngó tây kiếm mối làm ăn, nên chỉ liếc nhìn qua rồi không chú tâm đến nữa.

Lưu lão đạo chậm rãi bước tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi đi vào trong một con hẻm nhỏ ngay bên hông nha môn. Khi sắp đi tới đầu hẻm, lão bèn giả vờ đặt cây phướn xuống nghỉ ngơi. Sau đó lão nhặt một hòn đá lên, móc phong thư trong thắt lưng ra, quấn vải bọc chung thư vào với hòn đá. Thừa dịp mọi người không chú ý, lão ném mạnh viên đá cùng bức thư qua bức tường rồi vác phướn vội vã rời khỏi.

Người của Binh Mã ty không thể làm chủ việc này, nên bức thư cứ thế được trình dần lên, nhanh nhất cũng phải đến trưa mới có trả lời. Nếu triều đình đồng ý đổi người, ắt sẽ lưu lại ký hiệu dễ thấy ở tòa nhà mà lão chỉ định. Đến lúc đó lão lại tìm một nha môn khác để ném thư, đưa ra yêu cầu tiếp theo là được.

Đường Xưởng Điện có rất nhiều cửa tiệm nhỏ, là một con đường khá phồn hoa. Lưu lão đạo bỏ ra một văn tiền thuê một chiếc bàn của quầy hoành thánh để tự mở quán riêng, nhởn nha chờ khách tới. Hôm nay người có tâm tư xem bói không nhiều, không những chẳng có ai ghé thăm mà ngay cả đến liếc mắt nhìn qua cũng chẳng có hứng thú. Lưu lão đạo chẳng hề để tâm, lão chỉ nheo mắt quan sát mặt trời ước lượng thời gian. Đang lúc lão chuẩn bị dọn quán tìm chỗ ăn trưa, một thiếu niên mặt mũi thanh tú bộ dạng như kẻ hầu đã đứng trước quán của lão ta.

Lưu lão đạo hờ hững liếc mắt nhìn gã, vuốt râu cười hỏi:

- Tiểu ca muốn đoán chữ hay đoán mệnh? Hoặc là muốn ta viết hộ thư nhà chăng?

Thiếu niên cười đáp:

- Ta không biết chữ, cả đời này chỉ có cái số hầu hạ người khác, còn đoán làm gì? Xin tiên sinh giúp ta viết bức thư nhà.

Trong lúc nói, gã có vẻ như quá buồn chán nên bàn tay gảy gảy túi hành lý đeo trên người, những ngón tay tạo ra mấy ký hiệu gì đó một cách mau lẹ.

Sắc mặt Lưu lão đạo hơi đổi, bàn tay thu vào trong tay áo rồi cũng đáp lại bằng mấy ký hiệu mà chỉ có thiếu niên đang đứng trước mặt mới nhìn thấy, sau đó thân mật mời:

- Mời ngồi mời ngồi!

Rồi lão vừa lấy bút mực ra, vừa khẽ hỏi:

- Cấp trên có mệnh lệnh gì không?

Gã hầu đó đưa tay chống cằm nhìn xuống bàn, thấp giọng:

- Rất gấp! Bất kể thế nào đi chăng nữa cũng phải giữ được tính mạng Dương Lăng, đưa y trở về. Bất luận dùng cách gì cũng được!

Lưu lão đạo hơi ngẩn người. Lão nhẹ nhàng trải một tờ giấy ra, cầm lấy chiếc nghiên ra bộ mài mực, đáp:

- Tên này là tâm phúc của Hoàng đế, giết y sẽ rất lợi với đại nghiệp của chúng ta, tại sao phải thả y chứ? Huống chi y đã giết nhiều người của Dương Hổ như vậy, đời nào Hồng Nương Tử lại chịu bỏ qua? Xin trở về báo lại với đàn chủ, người này không thể tha được.

Gã thiếu niên kia tuy có vẻ ngoài như kẻ hầu người hạ, nhưng lại lập tức vênh mặt nghênh ngang với lão rất có khí thế. Gã cười lạnh bảo:

- Nếu Hồng Nương Tử cản trở thì cứ giết luôn cả Hồng Nương Tử! Ngươi nhớ lấy, bằng bất kỳ cách nào cũng phải giữ cho y được an toàn. Đây không phải mệnh lệnh của đàn chủ, mà là mệnh lệnh của giáo chủ!

Lưu lão đạo cả kinh, bàn tay mài mực lập tức dừng lại, kinh ngạc hỏi:

- Giáo chủ lão nhân gia cũng ở kinh sư sao? Chuyện này... thực khó xử quá, sao đột nhiên lại phải bảo vệ y vậy?

Ánh mắt thiếu niên trở nên lạnh ngắt, gã gằn giọng:

- Giáo chủ đang ở đâu, đây là điều mà ngươi có thể dò hỏi sao?

Lưu lão đạo khẽ rùng mình, không dám hỏi tiếp nữa. Bờ môi mỏng dính của gã thiếu niên hơi nhếch lên:

- Trong cung vừa đưa tin ra, chân long sắp xuất thủy, thiếu y thì việc chưa chắc đã thành, muốn câu được rồng thì phải tạm bỏ tướng cua. Hơn nữa, Dương Hổ đã trốn thoát rồi, nếu Hồng Nương Tử mà chết thì còn sợ hắn không càng thêm bán mạng giúp chúng ta đoạt thiên hạ hay sao?

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 181: Âm mưu bại lộ

Chiếc trống kêu an trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti vẫn còn nằm nguyên ở đó. Theo ước định trong thư, nếu quan phủ đồng ý đổi người thì bọn họ sẽ cất chiếc trống kêu oan này đi. Nha môn nằm giữa chốn phố phường đông đúc, đứng từ xa tít đã có thể nhìn thấy rõ chiếc trống lớn vẫn còn đó, xem ra quan phủ nhất thời còn chưa thể đưa ra quyết định.

Lưu lão đạo đứng ở chỗ rẽ đằng xa liếc mắt nhìn qua, rồi giơ cây phướn lên bỏ đi thẳng như chẳng có chuyện gì. Hoàng thượng muốn xuất kinh, Dương Hổ đã bỏ trốn, quan binh chuẩn bị ồ ạt tiến tới Bá Châu, dưới cơn phẫn nộ của thiên tử thế lực lục lâm của Dương Hổ sắp lâm nguy đến nơi. Một loạt những tin tức vừa nhận trên khiến tính toán ban đầu của lão trở nên rối loạn.

Vốn Di Lặc giáo không định lợi dụng đại đạo lục lâm để tranh đoạt thiên hạ. Bọn họ muốn đi theo con đường thượng tầng, mưu đoạt binh quyền và hoàng vị để giành lấy thiên hạ một cách thuận lợi. Hiện giờ lại sắp có cơ hội tốt nhân khi Hoàng đế xuất kinh, cho dù thế nào đi chăng nữa, Lý Phúc Đạt cũng không thể vì một con tôm nhỏ mà bỏ một con cá lớn được.

Huống chi dưới sự bao vây tiễu trừ toàn lực của quan phủ, thế lực lục lâm ở Bá Châu đã chẳng còn bao nhiêu giá trị sử dụng nữa rồi. Hiện giờ, Dương Hổ chẳng qua cũng chỉ có tác dụng như một tên thích khách kiêu dũng, gã quân sư như lão có bại lộ thân phận cũng chẳng sao, do đó cấp trên mới hạ nghiêm lệnh cho lão phải bảo vệ an toàn cho Dương Lăng bằng mọi giá.

Lưu lão đạo thầm cười khổ một tiếng. Đêm qua mình còn ra sức nghĩ kế đưa Dương Lăng vào chỗ chết, ai ngờ chỉ sau một đêm mọi chuyện đã xoay chuyển như thế này, giờ đây lại phải nghĩ cách bảo vệ tính mạng cho y. Nếu người đời thật sự do vận mệnh chi phối, e rằng trên đời này chẳng còn ai tốt phúc hơn y.

Giả bộ sợ hãi trước quan uy mà đến tố cáo với quan phủ, rồi dẫn quan quân đến bắt giết Hồng Nương Tử ư? Vừa mới nghĩ đến ý này, lão đã lập tức nhẹ lắc đầu, hộ tịch và giấy thông hành của lão và Thúy Nhi đều là đồ giả. Một tên đại đạo lục lâm như Dương Hổ không thể tìm hiểu được gốc gác thật sự của lão nhưng quan phủ thì quyết không dung thứ cho một kẻ lai lịch bất minh như lão.

Hai vị được đưa vào cung kia quả thực đã từng đóng giả làm nghệ nhân tạp kỹ mà đi lại trên giang hồ hết bảy, tám năm, nhưng dù là như vậy cũng vẫn cần đích thân Ninh vương đứng ra làm người đảm bảo mới có thể đưa được họ vào trong cung. Lão mà đi tố cáo với quan phủ, lỡ mà bị người ta điều tra được chân tướng... Năm đó lão từng theo giáo chủ Lý Việt truyền giáo ở một dải Cam Thiểm, là một trong tám đại hộ pháp có tiếng tăm ở đó, rất nhiều người nhận biết lão.

Tốt nhất là Hồng Nương Tử biết điều, sau khi hay tin Dương Hổ đã trốn thoát thì chịu thả Dương Lăng, nếu không... Lưu lão đạo thầm nghiến răng, một tia sát khí thoáng lóe lên nơi đáy mắt.

***

Buổi ngọ triều đã trôi qua rất lâu, các vị trọng thần trong điện Bảo Hòa vẫn chen chúc vào một nơi, cuộc tranh cãi sôi nổi mãi vẫn chưa đến hồi kết. Vốn Chính Đức muốn cho mang thức ăn lên cho các vị đại thần này ăn no cái bụng trước đã, nhưng nhìn tình hình này thì hắn bất giác bực mình, cứ ngồi yên vừa nhìn bọn họ cãi nhau vừa đè nén lửa giận, sắc mặt càng lúc càng khó coi.

Các vị đại thần cũng chú ý đến sắc mặt tiểu Hoàng đế, tiếng huyên náo dần nhỏ lại.

Chính Đức lẳng lặng vân vê chiếc chén ngọc cực kỳ tinh xảo trong tay, chậm rãi nhìn quanh một vòng. Hắn thấy Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng đang rì rầm nói chuyện gì đó; Lý Đông Dương và Tiêu Phương thì cùng trưng vẻ mặt như quả mướp đắng, không ngừng vuốt râu; Dương Đình Hòa đang chắp tay sau lưng nhìn bức tranh chữ trên tường. Còn Lục bộ Cửu khanh và Thị lang các bộ mỗi người một thần sắc riêng, kẻ thì đầy mặt giận dữ, người thì hả hê ra mặt.

Chính Đức lại liếc nhìn Ngô Kiệt. Vị đại nhân già nua, gày gò chưa từng bước vào hoàng cung này mặt mũi lấm tấm mồ hôi, đang nhìn về phía hắn với vẻ vạn phần lo lắng.

Chính Đức khẽ ho một tiếng, xả bớt khí giận trong lồng ngực ra rồi mới nói:

- Các vị ái khanh! Cứ theo tình hình hiện nay, hẳn là nữ tặc Hồng Nương Tử chưa biết trượng phu của ả đã trốn khỏi kinh thành nên muốn đổi Dương thị độc lấy Dương Hổ. Hiện lũ đạo tặc đang chờ câu trả lời của triều đình, các vị ái khanh bàn bạc thế nào rồi?

Lưu Đại Hạ trầm giọng thưa:

- Hoàng thượng! Lão thần cho rằng nữ tặc đó đã có thể gửi thư vào kinh nên hiển nhiên là kinh sư phong tỏa kịp thời, bọn chúng còn chưa kịp trốn thoát. Hiện giờ trong thành binh mã như mây, có Binh bộ, Kinh doanh, Thuận Thiên phủ, Ngũ Thành Binh Mã ti, rồi còn cả ba xưởng một vệ, muốn lật tung kinh thành lên cũng có gì là khó? Có thể lệnh cho các bộ tăng cường tìm kiếm lục soát, bọn chúng còn có thể trốn lên trời hay sao?

Chính Đức cười lạnh:

- Đã tìm suốt một ngày một đêm rồi, nhưng đã tìm được gì chưa? Thuận Thiên phủ dâng sớ tâu trăm họ ở kinh sư đã cất tiếng oán than đầy đường, còn muốn tìm kiếm như thế nào nữa đây? Vả lại Dương khanh đang ở trong tay bọn chúng, nếu ép quá há lại chẳng phải xôi hỏng bỏng không hay sao?

Dương Phương cất tiếng:

- Hoàng thượng! Thần cho rằng lời của Lưu đại nhân đúng lắm, đường đường triều đình há có thể mặc cả với đám đạo tặc? Năm xưa Hạ Hầu Thuần phòng thủ Bộc Dương, Lữ Bố phái người bắt cóc ông ta đòi lấy tiền tài, nhưng bộ tướng của ông ta là Hàn Hạo đóng quân ngoài doanh quyết không thỏa hiệp, còn kiên quyết dùng binh với lũ tặc nhân, từ đó không còn kẻ nào dám bắt người làm con tin nữa. Nay lũ cuồng đồ dám phạm trọng tội ngay dưới chân Thiên tử, còn cả gan mặc cả với triều đình, như thế thể diện của triều đình còn đâu nữa? Mà ngày sau lũ gian tặc lại học theo đó, triều đình phải ứng phó ra sao? Việc này dứt khoát là không được!

Tiêu Phương nhướng mày lên cãi:

- Lời này của Dương đại nhân sai rồi. Có câu rằng binh bất yếm trá, Dương Hổ vốn chẳng ở trong tay triều đình, chúng ta cứ tương kế tựu kế, giả vờ đồng ý trao đổi con tin rồi thừa cơ cứu Dương đại nhân ra, thế có gì là không được? Chẳng lẽ lại trơ mắt nhìn một vị trọng thần của triều đình mất mạng trong tay gian tặc, như thế há lại chẳng mất thể diện của triều đình ư?

Hàn Văn trầm ngâm:

- Hoàng thượng! Luật pháp của triều đình không thể không để tâm đến, mà tính mạng của Dương đại nhân cũng cần phải bảo toàn. Theo thần thấy, chúng ta cứ nên suy nghĩ thêm, tính toán chu toàn. Lũ gian tặc đã có việc cần, ắt tạm thời Dương đại nhân không bị hại. Đương nhiên triều đình cũng cần phong tỏa tin tức, tăng cường tuần tra trong thành, đừng để lũ gian tặc trốn mất, cũng đừng để lộ tin Dương Hổ đã trốn thoát rồi.

Lý Đông Dương nghe vậy thì khẽ lắc đầu, vừa khéo Chính Đức nhìn thấy động tác của ông ta bèn vội hỏi:

- Lý đại học sỹ có cao kiến gì chăng?

Lý Đông Dương chắp tay thưa:

- Bẩm Hoàng thượng! Theo thần thấy, nếu đại đạo Dương Hổ thật sự ở trong tay chúng ta, với một tên thủ lĩnh cường đạo tụ tập giặc cướp chốn núi rừng, dám mưu sát đại thần, ý đồ làm phản như vậy, có nên thỏa hiệp hay không mới cần bàn bạc kỹ, dù sao luật pháp và mặt mũi của triều đình cũng là điều không thể bỏ mặc. Dương đại nhân đã hưởng ơn vua, tất nhiên phải suy nghĩ cho triều đình, không đồng tình với hành vi thỏa hiệp này cũng là hợp lẽ.

Nhưng... hiện giờ Dương Hổ không ở trong tay chúng ta, tạm dùng kế quyền nghi cũng không phải là không được. Thần cho rằng nên tạm dừng việc lục soát nhà dân để tra xét. Đừng nói là hành động này chưa chắc đã tìm được nơi ẩn nấp của lũ gian tặc mà cho dù thật sự tìm được đi chăng nữa, Dương đại nhân đang ở trong tay bọn chúng, ném chuột sợ vỡ đồ thì làm sao cứu người được đây?

Do đó, triều đình cứ đồng ý với yêu cầu của bọn chúng cũng chẳng sao, dù gì hai bên muốn đạt thành hiệp nghị cuối cùng cũng cần thời gian hai, ba ngày. Triều đình nên lệnh cho Kinh doanh và Ngũ Thành Binh Mã ti tăng cường phong tỏa và tuần tra, tránh việc gian tặc trốn thoát. Lại lệnh cho mật thám của Hình bộ và người của xưởng vệ bí mật tìm kiếm chỗ Dương đại nhân bị giam giữ, chờ thời cơ ứng cứu. Đợi khi hai bên bàn định xong nơi trao đổi con tin, triều đình có thể bố trí cung thủ phục kích, tùy cơ hành sự.

Mã Văn Thăng nghe xong bèn bước lên một bước. Lão vừa định mở lời, Cốc Đại Dụng đã bàn bạc với Lưu Cẩn xong xuôi bèn giành tâu trước:

- Hoàng thượng! Nô tài cho rằng kế này của Lý đại học sỹ là thỏa đáng nhất. Nếu không đồng ý thì thành ra hại mất tính mạng của Dương đại nhân, đường đường trọng thần của triều đình mà mất mạng trong tay gian tặc, như thế há chẳng ảnh hưởng đến thể diện của triều đình hay sao?

Còn nếu cứ đồng ý bừa, trong tay chúng ta không có tên đại đạo Dương Hổ kia, lỡ mà kẻ địch phái một tên lâu la kiểm tra thực giả, ắt sẽ bị bại lộ. Chi bằng cứ tạm đồng ý trước đã, bấy giờ chúng ta vừa chuẩn bị vừa dốc sức tìm kiếm, nếu có thể thuận lợi cứu được Dương đại nhân ra là tốt nhất, còn nếu không thể, lại nghĩ cách khác đánh lừa bọn chúng, khi trao đổi con tin sẽ làm một mẻ lưới tiêu diệt sạch lũ gian tặc luôn.

Chính Đức nghe vậy bèn vỗ án hô lớn:

- Hay! Các khanh không cần bàn bạc thêm nữa, cứ làm theo cách này đi! Đại Dụng, đi truyền tin cho Ngũ Thành Binh Mã ti, chờ gian tặc phái người đến liên hệ, còn việc truy tìm sào huyệt kẻ địch và trao đổi con tin thì do ngươi và Ngô Kiệt của Nội xưởng phụ trách. Nhớ lấy, trẫm cần một Dương Lăng sống chứ không phải một Xưởng đốc chết.

Các vị đại thần nhất tề khom người đáp:

- Thần tuân chỉ!

***

Lưu lão đạo vừa đi lại trên đường vừa suy tính đối sách. Nếu trao đổi con tin, khó đảm bảo bên phía quan phủ sẽ không bố trí phục binh; cho dù Hồng Nương Tử chạy thoát được thì bản thân mình có thể chạy thoát hay không cũng là một vấn đề khó nói.

Lại nữa, Hồng Nương Tử cũng từng không ít lần bắt cóc người nhà giàu đòi tiền chuộc, có thể coi là một chuyên gia trong nghề bắt cóc đòi tiền, nếu trước khi trao đổi ả phái người kiểm tra con tin, ắt hẳn sẽ lộ tẩy.

Nếu nói rõ với Hồng Nương Tử việc Dương Hổ đã trốn thoát, khả năng Dương Lăng được thả ra là rất nhỏ; rất có thể y sẽ bị lập tức giết chết ngay. Nói với ả việc thả Dương Lăng ra có thể dụ Hoàng đế xuất kinh ư? Cô ta từ nhỏ đã đi lại trong giới lục lâm, là người hết sức cảnh giác: mình mới vừa đi loanh quanh trong kinh sư được canh phòng nghiêm ngặt này mới có một vòng mà đã nhận được tin tức cơ mật và chuẩn xác như thế, làm sao cô ả không nảy lòng nghi ngờ?

Lưu lão đạo suy đi tính lại, rốt cuộc đành hạ quyết tâm cứ tạm trở về một chuyến trước, đợi thăm dò được suy nghĩ của cô ả rồi tính sau. Nếu thật sự không được, để câu con cá to là Hoàng đế Chính Đức và cũng vì tiền đồ của bản thân, ta đành gieo khổ cho Hồng Nương Tử vậy. Một tiểu nương tử xinh đẹp như hoa như ngọc phải bỏ mạng lúc tuổi còn xanh thì thật đáng tiếc lắm thay.

Lưu lão đạo đoán mệnh cho hai vị lão thái thái, nhận được mấy văn tiền, sau buổi trưa lại lòng vòng đi tới trước cửa nha môn Ngũ Thành Binh Mã ti. Lão thấy trên chiếc giá đã chẳng còn gì, chiếc trống kia không biết đã đi đâu mất rồi. Lúc này sắc trời đang âm u, lưa thưa mấy bông tuyết phất phơ bay xuống, người đi lại trên đường dần dần thưa thớt, Lưu lão đạo sợ khiến người khác hoài nghi, bèn xoay người lại chậm rãi đi về phía thành bắc. Đi tới con hẻm, thấy không có người nào chú ý, Lưu lão đạo bèn vội vã bước vào trong đạo quán.

Tòa đạo quán xây dở này ngay đến cửa cũng không có, bốn phía gió lùa. Đêm qua là đêm đầu tiên, còn có thể phái người ra ngoài canh gác, ban ngày thì lại không thể cho người đứng chờ ở ngoài sợ sẽ khiến người đi đường chú ý. Lưu lão đạo khởi động cơ quan, lặng lẽ chui vào trong thạch thất, hai đại hán cầm đao kiếm nhìn thấy là lão bèn buông vũ khí trong tay xuống, nôn nóng hỏi:

- Lưu tiên sinh, quan phủ có đồng ý không? Hổ ca vẫn an toàn chứ?

Lưu lão đạo khẽ mỉm cười đáp:

- Còn may, quan phủ đã tỏ ý bằng lòng trao đổi con tin với chúng ta.

Lúc này Thôi Oanh Nhi và Thúy Nhi cũng hay tin ra đón. Lưu lão đạo cùng bọn họ tránh vào trong một gian thạch thất, sau khi sắp xếp về những lời cần nói, lão bèn hỏi:

- Phu nhân có dự định gì không? Sau khi cứu được đại đương gia ra nên xử trí Dương Lăng thế nào đây?

Rốt cuộc Hồng Nương Tử vẫn phải cắn chặt môi, khẽ cất tiếng:

- Sáng nay bọn ta đã bàn định xong. Mối thù của hơn hai trăm huynh đệ không thể không báo, một khi cứu được người ra sẽ lập tức giết chết Dương Lăng, tế vong linh của bọn họ.

Lưu lão đạo gượng cười:

- Chuyện này... Cứ nên lấy đại cục làm trọng. Phu nhân và đại đương gia đều là người làm việc lớn, nếu vì chuyện này mà chọc giận quan phủ, cơ nghiệp do đại đương gia vất vả lắm mới gây dựng được khó tránh khỏi sẽ bị tấn công tiêu hủy, chi bằng tha cho y một phen...

Thúy Nhi ngẩn ra, nhìn lão với vẻ rất kinh ngạc, không biết lão lại có trò mới gì. Nụ cười của Lưu lão đạo hơi nhiễm vẻ cay đắng, nhưng lại chẳng thể nói rõ ra được.

Hai tên sơn tặc đứng ngoài cửa nghe vậy thì bèn bước vào. Một gã đại hán mặt mày hung ác nói với vẻ bất mãn:

- Lưu tiên sinh sao lại có lòng nhân từ của đàn bà như thế? Cho dù không giết hắn thì chúng ta cũng đã gây ra sự biến lớn đến thế này rồi, quan phủ còn chịu dễ dàng bỏ qua hay sao chứ?

Tên đại hán trọc đầu còn lại hăng hái:

- Chính thế! Chúng ta đã làm việc này thì không sợ đắc tội quan phủ, chỉ sợ danh hiệu không vang dội mà thôi. Lần này tiến kinh tổn thất mất hai trăm huynh đệ, không giết được y thì khi về trại biết ăn nói với mọi người sao đây? Còn nếu giết y rồi, các hảo hán ở tam sơn ngũ nhạc có ai mà không khâm phục chúng ta? Ắt hẳn danh hiệu của Hổ ca sẽ càng vang dội hơn, cho dù cả ngọn núi kia bị hủy đi, chúng ta muốn xây dựng lại cơ nghiệp ở nơi khác cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.

Hồng Nương Tử nghe tới đây bèn quyết tâm:

- Cứ làm như vậy đi, với quan phủ thì còn phải nói gì đến tín nghĩa nữa chứ? Hồ Đại Chùy, quan phủ đã đồng ý rồi, vậy ngày mai chúng ta sẽ chuẩn bị dùng vũ lực rời thành, ngươi tới chỗ quan phủ xem tình hình của đại ca ngươi trước, đừng để bọn chúng lừa đấy.

Mặt mày hung ác, Hồ Đại Chùy gật đầu đáp với vẻ thản nhiên:

- Đại tẩu yên tâm! Có tên cẩu quan kia ở đây, quan phủ còn có thể làm gì được một gã tiểu âu la như đệ chứ? Đệ nhất định sẽ có thể cùng Hổ ca an toàn đến Phong Đài, quan binh đừng hòng giở trò gì với đệ.

Lưu lão đạo nghe tới đây thì lòng dạ nguội lạnh hẳn đi.

Hồng Nương Tử nghĩ đến Dương Lăng, tuy trong lòng vẫn hơi áy náy nhưng trượng phu đã đi theo con đường này rồi, nàng là thê tử, ngoài việc tiếp tục đi theo hắn thì còn có thể làm được gì khác nữa? Nàng buồn bã thở dài một hơi, nói với Lưu lão đạo:

- Lưu tiên sinh đã vất vả rồi, ông hãy nghỉ ngơi trước đi. Đợi qua được ngày mai, chúng ta sẽ có thể cao bay xa chạy rồi.

Hồng Nương Tử xoay người đi vào phòng của Dương Lăng, Hồ Đại Chùy và gã đại hán đầu trọc Hắc Diêu Tử kia lén lút theo sau. Thôi Oanh Nhi ngoảnh đầu trừng mắt nhìn bọn hắn, hai gã sơn tặc nhìn về phía Dương Lăng cười cười với vẻ hung ác, đoạn chậm rãi bước ra ngoài.

Dương Lăng vịn tường gượng đứng dậy, trong phòng không đốt lửa, tuy ấm hơn bên ngoài một chút nhưng vẫn lạnh lẽo vô cùng. Thân thể y vốn đã không so được với đám sơn tặc, lại ở một mình trong gian phòng đá, khó chịu vô cùng, bèn ngồi xếp bằng tĩnh tọa theo cách của Ngũ Hán Siêu. Hiện giờ y vẫn chưa biết ngồi kiểu "đại bàn", dưới sự trông coi của đám sơn tặc cũng không dám quá lộ liễu, nhưng chỉ ngồi kiểu "tiểu bàn" hơn nữa canh giờ, hai chân cũng đã mỏi nhừ.

(tiểu bàn: ngồi xếp bằng bình thường, bàn chân dưới đùi; đại bàn: kiểu hoa sen, bàn chân này gác lên đùi kia)

Thấy sắc mặt Hồng Nương Tử, y hỏi:

- Triều đình đồng ý trao đổi rồi ư?

Nhìn dáng vẻ hơi tiều tụy của y, trái tim Hồng Nương Tử bất giác nhũn đi. Trên đời liệu có mấy vị quan chịu bỏ tiền phát cháo cứu tế cho nạn dân? Y còn khổ tâm dốc sức nghĩ cách để cải tạo giống cây trồng, thật là một vị quan tốt.

Khi đến thăm phủ của y, phu nhân của y cũng là một người hòa nhã thân thiện, không hề có vẻ kiêu ngạo của một ả vợ quan, nhưng... Nếu không giết y, biết phải ăn nói thế nào với các huynh đệ khác về hai trăm huynh đệ đã bị giết? Hơn nữa trượng phu đã bước lên con đường này rồi, càng là vị quan hữu dụng với triều đình thì càng là đại địch của mình. Có ai ngờ được lần này lên kinh sư, không giết được Hoàng đế mà lại để y trở thành con dê chịu tội thay chứ?

Trong lòng đang áy náy, giọng nói cũng bất giác dịu hơn vài phần, nàng khẽ gật đầu:

- Ừm, xem ra Hoàng đế rất coi trọng ngươi đấy, vì ngươi mà phong tỏa toàn bộ kinh thành, bọn ta đưa ra yêu cầu trao đổi, quan phủ chẳng hề nghĩ ngợi gì đã đồng ý ngay. Ngày mai ta sẽ phái người đi gặp quan phủ, chỉ cần bọn chúng không giở trò gì khi trao đổi con tin, ngươi sẽ... sẽ có thể trở về rồi.

Thôi Oanh Nhi tung hoành chốn núi rừng, giết người cướp bóc cũng là tay lão luyện, chưa từng chớp mắt bao giờ. bằng không làm sao nàng có thể khuất phục được bao nhiêu tay đại đạo kiêu căng như thế. Nhưng nói tới đây khuôn mặt nàng lại bất giác nóng rần, có chút hổ thẹn. Nàng vội vã xoay người, cởi chiếc áo choàng độn bông ra, vứt cho y rồi bảo:

- Các ngươi làm quan không so được với bọn ta, đã ở đây rồi cũng đừng làm bộ làm tịch kiểu nhà quan nữa, khoác nó lên đi, đêm nay... Ta kêu người đi kiếm chút rượu thịt về, ngươi cũng không đến mức lạnh quá không ngủ được như đêm qua.

***

Trong gian phòng trước, Hồng Nương Tử vừa mới rời đi, Thúy Nhi đã ghé sát đến bên cạnh Lưu lão đạo, thấp giọng hỏi:

- Ông giở trò gì thế? Không phải ông từng bảo cần xúi bẩy Hồng Nương Tử giết y sao? Sao lại đổi quẻ rồi?

Lưu lão đạo cười khổ, đưa mắt liếc nhìn ra bên ngoài, đáp nhanh:

- Ôi! Cũng là việc đời khó liệu... Giáo chủ đã đích thân phái người đến thông báo có thể Hoàng đế sẽ xuất kinh, đây là một cơ hội cực tốt. Mà Dương Lăng lại là nhân vật quan trọng đi theo phò tá, nếu thiếu sự ủng hộ của y, e là Hoàng đế khó lòng đi được. Do đó chúng ta nhất định phải bảo vệ sự an toàn của Dương Lăng, bằng bất cứ cách nào cũng không được để y chết.

Thúy Nhi cả kinh, thấp giọng:

- Có chuyện như vậy sao? Thảm rồi, bây giờ phải làm thế nào đây? Mấy kẻ kia cứ nhất quyết muốn báo thù cho huynh đệ, ta cũng đã đỡ lời khuyên nhủ Hồng Nương Tử rồi. Nếu ả đã quyết định chuyện gì rồi thì ngoan cổ lắm, chẳng mấy người có thể khiến ả thay đổi ý kiến được đâu.

Lưu lão đạo lạnh lùng đáp:

- Cô cũng đã đi theo ả mấy năm, rất quen thuộc tính cách của ả, ả cũng đã coi cô như tỷ muội thân thiết nhất rồi, đợi lát nữa hãy thử khuyên nhủ thêm xem. Ta sẽ ngụ lại tại nhà của Hồng viên ngoại ở phía sau đạo quán. Ở đây không thể nghe thấy tiếng điểm canh, cô cứ ước lượng thời gian, chừng canh hai ta sẽ dẫn người tới, cô giả vờ đi tiểu đêm ra ngoài gặp ta. Nếu Hồng Nương Tử đã hồi tâm chuyển ý thì thôi, còn nếu không, cô ra mặt giải quyết người canh gác trước, rồi chúng ta và ả đoạn tuyệt quan hệ!

Thúy Nhi thất thanh:

- Cái gì? Nếu như vậy thì tâm huyết bao năm nay của chúng ta ở giới lục lâm...

Lưu lão đạo khẽ giải thích:

- Bọn chúng đã để lộ diện trước mắt triều đình, cô nghĩ dưới sự vây ráp tiễu trừ của quan binh mà bọn chúng còn làm gì được nữa hay sao? Vốn liếng của chúng ta không thể đặt cả vào đám sơn tặc ấy được!

Ban đêm. Ánh lửa trong phòng khi mờ khi tỏ. Thúy Nhi đang ngủ ngoài cửa đột nhiên mở mắt ra, chậm rãi chống tay ngồi dậy, nhìn qua phía Hồng Nương Tử với vẻ hơi căng thẳng. Thị thấy lúc này Hồng Nương Tử đang dựa lưng vào bức tường đá, hai tay ôm vai, quàng thanh đoản kiếm trước ngực, hơi thở đều đều tự nhiên.

Thúy Nhi lại nhìn vào trong phòng. Dương Lăng không quen ngủ trong tư thế ngồi nên đang nằm co, cuộn người lại trên mặt đất trong chiếc áo choàng độn bông. Thúy Nhi khẽ thở phào một hơi, đứng dậy lẳng lặng đi ra phía ngoài. Đêm nay người canh gác bên ngoài là Hồ Đại Chùy và Phàn lão nhị. Thấy ả đi tới, Hồ Đại Chùy cười híp mắt lại:

- Thúy Nhi, có phải cô lạnh quá không ngủ được phải không? Để ca ca đây ôm một chút cho ấm nhé!

Thúy Nhi cười mắng:

- Cút ngay! Chớ nói với ta những lời dơ bẩn đó, để tiểu thư nghe được xem người có thu thập ngươi không! Tránh xa ra một chút!

Thúy Nhi đi lên bậc thang. Tuy Hồ Đại Chùy dám bỡn cợt ngoài miệng nhưng lại không dám động chân động tay với người của Hồng Nương Tử. Huống chi hắn cũng biết võ công của cô gái này cao minh hơn mình nhiều, nên bèn cười hì hì tránh sang một bên, nhìn cặp mông căng tròn kia ưỡn ẹo biến ra khỏi tầm mắt.

Phía sau đạo quán là một vạt rừng thấp. Hồi chiều gió lạnh rít gào nhưng lúc này đã bớt gió, từng bông từng bông tuyết lớn lặng lẽ rơi xuống, trời không trăng không sao, tối đen như mực.

Ứng phó xong với gã đại đạo canh gác bên ngoài, Thúy Nhi lẳng lặng đi vào trong rừng. Lắng nghe thử thấy phía sau không có động tĩnh gì, ả lại rón rén đi tiếp về phía trước, lần mò đến bên cạnh bức tường thấp bên ngoài khu rừng. Thúy Nhi ghé tai lắng nghe một hồi, hai bàn tay khẽ vỗ ba cái, cách đó không xa có người thấp giọng hỏi:

- Ai đó?

Thúy Nhi cũng thấp giọng đáp:

- Trời giáng Di Lặc phật.

Đối phương vui mừng đáp lại:

- Làm chủ thế giới kia! Lưu hộ pháp, người tới rồi.

Thúy Nhi lần mò bước về phía trước. Phía đối phương không dám đốt đèn, dưới ánh sáng mờ mờ chỉ có thể nhìn thấy sáu bảy bóng người đi tới. Người ở giữa khẽ hỏi:

- Thúy Nhi, thế nào rồi?

Nhận ra giọng của Lưu lão đạo, Thúy Nhi vội bước tới đáp:

- Hồng Nương Tử cảnh giác lắm, hồi sáng ta mới khuyên ả giết Dương Lăng xong, buổi tối khuyên một câu rồi cũng không dám khuyên nữa, sợ khiến ả nảy lòng nghi ngờ. Về sau mấy người Hắc Diêu Tử nghe thấy, lại tới phản bác lời ta. Bọn họ đều là huynh đệ kết nghĩa của Dương Hổ, Hồng Nương Tử nghe xong lời của bọn họ lại càng không chịu thay đổi ý định.

Lưu lão đạo buồn bực:

- Chẳng còn cách nào! Vì đại kế của giáo chủ, giờ đây xem ra chỉ đành phải giết ả thôi. Con ả này võ công ghê gớm lắm, đợi lát nữa hãy nhanh nhạy một chút. Đáng tiếc chúng ta không mang theo dược vật, nếu không thì tiện lợi hơn nhiều rồi.

Thúy Nhi thấp giọng trách:

- Trên đời này làm gì có thứ độc dược nào không màu không mùi chứ? Hơn nữa ta đã theo ả mấy năm, biết rõ sự lợi hại của ả. Mấy thứ hại người tầm thường đó ả chỉ cần ngửi cái là biết ngay, đừng đưa ra mấy ý kiến tồi tệ như vậy nữa! Chẳng bằng nhân lúc ả ta không đề phòng mà tung ra đòn thật mạnh đi!

Lưu lão đạo đồng ý:

- Được! Mọi người chú ý, nhất định phải làm thật nhanh thật độc, quyết không được tha cho bất cứ kẻ nào! Sau đó đổ cái chết của Hồng Nương Tử lên đầu quan binh; khi ấy cho dù có phải leo núi đao thì Dương Hổ cũng chẳng quản ngại gì.

Một bóng đen có địa vị dường như không thấp khẽ cười, vẻ dâm dật:

- Hay cho kế xua hổ đuổi lang! Đáng tiếc, Dương Hổ đại danh đỉnh đỉnh lại là một con hổ ngốc, tự dưng lãng phí hai trăm tên tâm phúc đắc lực cho chúng ta rồi hiện giờ ngay đến ợ cũng để mất. Nghe nói ả đó một thân võ nghệ quyền cước hơn người, tướng mạo quyến rũ, vóc dáng yêu kiều. Ta có mang theo 'Thần Tiên Võng' đây, có cần bắt sống ả không?

Lưu lão đạo nghĩ đến dáng vẻ xinh đẹp quyến rũ của Hồng Nương Tử thì cũng thầm bức rức trong lòng. Có điều có thể lọt vào hàng ngũ Bát đại hộ pháp của Di Lặc giáo thì đều là hạng tâm chí kiên định, sau khi cân nhắc một lúc về sự lợi hại được mất, lão bèn hủy bỏ ý định này, nghiêm chỉnh đáp:

- Vạn lần không được! Hồng Nương Tử võ nghệ cao cường, nhất định phải nhân lúc ả không để phòng mà nhanh chóng giết chết! Đi thôi!

Cả bọn theo sau Thúy Nhi lặng lẽ lần mò về hướng đạo quán. Nhìn thấy mấy tòa kiến trúc đen thui phía trước, Thúy Nhi dừng lại sau một gốc cây, thấp giọng:

- Trên xà ngang của ngôi điện phía trước có kẻ canh gác. Các ngươi đợi ở đây, ta đi dụ hắn xuống rồi kết liễu hắn trước.

Lời của Thúy Nhi còn chưa dứt, kẻ đi sau cùng chợt kêu thảm một tiếng rồi im bặt. Mấy người đi phía trước tay nắm chặt binh khí kinh hãi nhìn về phía sau, chỉ thấy bóng đen đó lắc lư mấy cái, rồi đổ gục xuống mặt đất.

Cả bọn đều sởn gai ốc, cơ thịt toàn thân căng cứng, đều không dám động đậy. Tuyết vẫn từ trên trời buông xuống, ngay đến bờ mi mỗi người cũng đều có tuyết bám vào, nhưng lại chẳng ai dám giơ tay lên gạt đi.

Tất cả đều mở to hai mắt nhìn chằm chằm vào bóng đêm tối mịt xung quanh, qua một hồi lâu Thúy Nhi mới run giọng hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Từ phía bên trái chợt vang lên tiếng leng keng vũ khí va chạm. Cả bọn chợt thấy hai bóng người rất nhanh đã quấn vào một chỗ, sau đó một bóng người lao đi, biến vào trong màn đêm. Người còn lại thì kêu lên "Ối!" một tiếng, ngã ngược về phía sau, đau đớn kêu lên:

- Có kẻ tập kích, ta... dưới xương sườn ta bị trúng một kiếm.

Lưu lão đạo vội hỏi:

- Có chuyện gì thế? Là kẻ nào? Quan binh đã tìm tới rồi hay ...

Lão đột nhiên xoay người lại, khẽ quát Thúy Nhi:

- Ngươi đã phản bội bản giáo?

Thúy Nhi hoảng hốt:

- Ta... Ta không có, rốt cuộc là kẻ nào?

Một giọng nữ uy nghiêm vô hạn vang lên:

- Là ta!

Thúy Nhi và Lưu lão đạo đều toàn thân chấn động. Thúy Nhi la thất thanh:

- Hồng Nương Tử? Ta... Ta không nên khuyên ngươi, khiến ngươi nảy lòng nghi ngờ!

Giọng nữ kia cười lên khe khẽ. Tiếng cười chợt dừng lại, thay bằng giọng nói khoan thai:

- Thúy Nhi! Chắc ngươi chưa biết ta từng bị quan binh vây quét, liên tục hai mươi ngày không được ngủ đẫy giấc nào. Huống chi đây là nơi kinh sư trọng địa, dưới sự bao vây trùng trùng của quan binh làm sao ta có thể ngủ sâu được cơ chứ?

Những lời khuyên của ngươi hoàn toàn không hề khiến ta nghi ngờ. Chỉ là khi thức dậy ngươi không nên lén lút thăm dò động tĩnh của ta như thế! Dã thú hết sức mẫn cảm với địch ý của kẻ khác, còn ta chính là một con mãnh hổ trong rừng!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 182: Xin tiễn người đi

Trong Ngũ thành binh mã ty, đám hung thần nha môn tụ tập lúc nhúc; Đông Xưởng, Tây Xưởng, Nội Xưởng, Cẩm Y Vệ và các quan lớn của bộ Hình giống như những con tu hú chiếm lấy tổ chim khách, dồn viên Ngự sử tuần thành xuống chỗ ngồi bên dưới, vị quan này đang chau mày lắng nghe tên nô bộc trẻ tuổi chuyển lời.

Bởi phong thư đầu tiên được nhận ở Ngũ thành binh mã ty nên quan lớn các bộ đều chạy đến đây, hy vọng chiếm được tin tức trước một bước. Chung quanh Ngũ thành binh mã ty thông rộng ra bốn con đường, mặc kệ tuyết lớn bay lả tả, trời tối như mực, mật thám vẫn được cài cắm, nếu ban đêm có người tình cờ dám tạt qua, lập tức sẽ xuất hiện những kẻ không biết từ đâu chui ra, bất ngờ kẹp nách xốc vào trong căn nhà nhỏ bên đường ngay.

Trên công đường, các quan lớn không ngừng nhận được tình báo thu thập từ nhiều con đường khác nhau, nhưng đúng như người ta thường nói, "một người đem giấu, vạn kẻ khó tìm", kinh sư rộng lớn như vậy, muốn giấu vài người quả thực dễ như trở bàn tay, đến tận giờ vẫn chưa có được tin tức gì hữu dụng. Đến canh ba, Lưu Cẩn và mấy đại nhân không thức nổi nữa bèn kêu người dọn chiếc bàn chân thấp ra khỏi giường, rồi nằm chen chúc nhau đánh một giấc.

Công đường của Binh mã ty đã sớm rối như canh hẹ; đám chủ nhà Điển sử, Chủ bộ, Tuần kiểm đều không dám về nhà, toàn bộ ở lại công đường bận bịu làm việc của mỗi người. Ngũ Hán Siêu đi đi lại lại trên công đường, đã hai ngày hai đêm nay hắn không thể chợp mắt, râu dưới cằm đã mọc lún phún, mắt hằn đầy tơ máu, trông hệt như một con thú bị nhốt trong chuồng.

Hắn lầm tưởng cô ả che mặt kia là Hồng Nương Tử, mới ra ràng nên nặng lòng háo thắng, chỉ nghĩ bắt sống được tên đạo tặc đó, làm đại lễ quy thuận Nội xưởng, không ngờ lại trúng phải kế điệu hổ ly sơn, giờ đây không rõ Dương Lăng sống hay chết. Nghĩ đến hậu quả có thể xảy ra, hắn liền sởn gai ốc.

Ngũ Hán Siêu thả bộ đi đến bên chiếc bàn chân thấp, ngọn đèn dầu trên bàn sáng trưng, một Chủ bộ khoác trên người áo da đang chống cằm ngủ gật. Ngũ Hán Siêu nhìn thấy trên bàn bày chồng hồ sơ dày cộp, thuận tay nhón lấy một tờ lên xem, vừa nhìn thấy tin tức bên trên, liền cúi xuống gõ nhẹ bàn.

Lão Chủ bộ đang ngủ say sưa, đột nhiên bị hắn đánh thức. Lão không biết Ngũ Hán Siêu, có điều vị công tử này tuy không ăn vận như sai nha, mấy ngày nay lại thường thấy hắn đi ra đi vào cùng với đám người của xưởng vệ, dường như lai lịch không nhỏ, lão Chủ bộ nào dám xem thường, liền vội dụi mắt hỏi:

- Công tử, ngài có việc gì sao?

Ngũ Hán Siêu trỏ vào hồ sơ án hỏi:

- Lính bảo an khu hẻm nghèo nát phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có một đạo sĩ vân du lạ mặt thường hay ra vào, sáng hôm nay có tên hầu đổ phân phát hiện lão ta bước ra từ trong một đạo quán đang xây dở, đã phái người tra xét chưa?

Lão Chủ bộ khẽ gật đầu, thần trí tỉnh lại một chút rồi lại lắc đầu, Ngũ Hán Siêu nổi giận, túm lấy lão nhấc lên, quát:

- Rốt cuộc là đã tra chưa?

Lão Chủ bộ nhăn nhó khổ sở van xin:

- Công tử hãy buông tay, hãy buông tay, xin nghe lão phu nói đã. Khụ khụ khụ, thở... thở không nổi rồi.

Ngũ Hán Siêu hừ lạnh, bỏ tay ra, lão Chủ bộ vuốt vuốt cổ họng, thở hổn hển nói:

- Công tử, tra không nổi đâu. Nhân mã của chúng ta tuy đông, nhưng vào lúc này, cả thành Bắc Kinh nơm nớp lo sợ, chia quân ra canh gác, trông coi các nha môn và phủ đệ của các vị đại nhân, tuần tra kinh thành, có điều khắp kinh thành cũng sẽ không đủ dùng.

Từ khi triều đình dán công văn treo thưởng, tin báo nhận được trong mấy ngày nay không một vạn cũng tới tám nghìn, kẻ nào cũng nói tận mắt trông thấy, kết quả mỗi lần phái đại đội nhân mã đều là một chuyến uổng công, bắt được toàn những kẻ trộm vặt, ăn cướp, lừa bịp, và lưu dân không có giấy tùy thân, thậm chí có cả thông dâm nuôi trai, đại lao đã nhét chật cả người.

Nay tình hình kinh sư như vậy, ngay cả khách điếm cũng không muốn tiếp đón khách mới, càng đừng nói là chùa chiền đạo quán. Đạo sĩ đó vân du bốn phương không chỗ ngả lưng, nghỉ lại nơi miếu chùa đổ nát ngoài thành cũng hết sức bình thường, những kẻ khả nghi còn tra không nổi, lấy đâu người mà đến đó điều tra lão ta?

Ngũ Hán Siêu lạnh lùng hừ một tiếng, xoay người đi ra, lão Chủ bộ liền trừng mắt, nhếch môi. Không thấy tin tức này thì thôi, nhưng nếu đã thấy rồi, người trong lúc tuyệt vọng chỉ cần có một tia hy vọng liền sẽ không kiềm được mà suy nghĩ lung tung, cho nên tin tức này thủy chung vẫn luẩn quẩn trong đầu Ngũ Hán Siêu.

Ngũ Hán Siêu trở lại ghế ngồi, song càng nghĩ càng thấy bực bội, nếu không đích thân đi xem thử thì chuyện này sẽ mãi canh cánh trong lòng. Hắn bỗng đứng dậy, chụp lấy áo khoác ngoài trên ghế rồi vội vã mặc vào.

Liễu Bưu đang ủ rũ từ trong nhị đường bước ra, trông thấy bộ dáng của hắn như vậy bèn đi đến hỏi:

- Ngũ công tử, hiện chỉ có thể đợi đám đại đạo đưa tin đến lần nữa, huynh đệ đã hai ngày không chợp mắt, đến bữa cũng không ăn miếng nào, nếu cứ tiếp tục như vậy, đến lúc có được tin tức của đại nhân rồi, sợ rằng huynh đệ cũng không gắng gượng được nữa đâu.

Ngũ Hán Siêu gượng cười nói:

- Đa tạ Liễu huynh đã quan tâm. Đại nhân bị bắt là do tiểu đệ không làm tròn bổn phận, mỗi khi nghĩ đến chuyện này, thực sự đứng ngồi không yên.

Liễu Bưu nhìn bộ dạng của hắn, thắc mắc:

- Huynh đệ còn muốn ra ngoài ư?

Ngũ Hán Siêu đáp:

- Tin báo bên phía thành bắc nói rằng mấy ngày nay có đạo sĩ vân du lui tới một đạo quán đang xây dở, đệ tính đến đó điều tra cho rõ.

Chủ bộ nọ không nhịn được bèn chen miệng vào:

- Đại nhân, khu vực thành bắc, bao gồm cả đạo quán đang xây dở đó cũng đã được Binh mã ty điều tra một lượt, không hề phát hiện có gì khác thường.

Ngũ Hán Siêu vặn lại:

- Tuy đã điều tra đạo quán, nhưng đã điều tra lão đạo sĩ nọ chưa? Ngươi từng nói có thể đạo sĩ đó đang tá túc tại đấy, lúc này tiết trời giá rét, thế nhưng bên trong đạo quán đó chăn đệm hay vết lửa không?

- Việc đó...

Lão Chủ bộ cứng họng, rờ mũi không biết nói thế nào. Liễu Bưu nhíu mày lại, thấp giọng nói:

- Ngũ công tử, có câu vua không sai được lính đói, quan binh tìm kiếm cả ngày lẫn đêm, cả người lẫn ngựa sớm đã mỏi mệt, lúc này vẫn chưa đến canh tư, thêm nữa tuyết lớn mịt mù, ta thấy hay là đợi trời sáng một chút hẵng cùng nhân mã đi điều tra.

Ngũ Hán Siêu buộc đai lại, đeo kiếm lên, nói:

- Thực như đã có nghi ngờ, dẫn đại quân đến sẽ khiến kẻ gian cảnh giác. Tự mình đệ đi xem thử.

Liễu Bưu biết trong lòng hắn không thoải mái, cũng không khuyên bảo thêm, bèn nói:

- Thôi được, ta sẽ đi cùng huynh đệ một chuyến.

Tuyết vẫn rơi lả tả, trời lại nổi gió, gió rít gào cuốn phăng những bông tuyết. Bóng đêm mờ mịt, mặt đất xốp mềm, cầm đèn soi không thấy nổi ba trượng. Liễu Bưu sang phòng trực gác đêm gọi bốn tay thân binh dậy, sáu người cưỡi ngựa chạy đến phía thành bắc, những giao lộ trọng yếu dọc đường vẫn có quan binh canh gác, kiểm tra thẻ bài giắt lưng của Liễu Bưu xong thì vẫy tay cho qua.

Trong rừng, Lưu đạo sĩ, Thúy Nhi và một giáo đồ Di Lặc giáo dựa sát vào nhau thành hình chữ phẩm (品); nỗi khiếp đảm và một phen chiến đấu đã khiến bọn họ thở hổn hển như trâu. Lưu đạo sĩ đảo mắt liên tục, hòng tìm cơ hội đào thoát, nhưng trong cái bóng đêm như mực ấy, bất cứ lúc nào cũng có thể có một bà la sát nhảy ra đòi mạng, không có Thúy Nhi và tay giáo đồ Di Lặc giáo nọ bảo vệ, lão căn bản không dám tự mình chạy trốn.

Hai bên vừa mới giao thủ, tên đạo tặc canh gác trên xà nhà của đạo quán đã loáng thoáng nghe thấy động tĩnh; lúc Hồng Nương Tử âm thầm bám theo Thúy Nhi ra khỏi hầm, nàng vẫn chưa thể xác định ả ta có hai lòng hay không, vì vậy chỉ bảo tên nọ canh phòng cẩn thận, lúc này nghe thấy tiếng binh khí va chạm, không cần Hồng Nương Tử ra lệnh, hắn liền chạy vào trong hầm gọi người ra.

Đám cướp còn tưởng rằng đã bị quan binh bao vây, bèn để một tên ở lại trông chừng Dương Lăng, những kẻ khác cầm lấy binh khí xông ra ngoài. Đến lúc xông vào trong rừng, Hồng Nương Tử lập tức quát bảo bọn chúng bao vây bốn phía, không cho bất cứ kẻ nào thừa lúc hỗn loạn mà đào thoát.

Bọn chúng cũng không biết đã xảy ra chuyện gì, đến khi nghe nói những kẻ này là giáo đồ Di Lặc, dư nghiệt của Bạch Liên giáo, từng hoành hành tại Cam Túc, Thiểm Tây và Sơn Tây, đám cướp mới yên tâm. Song phương đều 'đen', không thể ra 'sáng', chỉ cần không phải quan binh thì dễ xử rồi.

Người trong lục lâm căm ghét nhất chính là bị phản bội, nếu có người làm chuyện có lỗi với huynh đệ, cho dù đó là cha ruột, bọn chúng cũng sẽ không chút do dự tìm kẻ đó để chấp hành sơn quy. Bọn chúng không biết Thúy Nhi vốn là người trong Di Lặc giáo, cho nên chỉ dò hỏi mấy câu qua loa, nhầm tưởng ả phản bội gia nhập Di Lặc giáo, thế nên trong lòng căm ghét vô cùng.

Thúy Nhi có võ công cao nhất trong đám giáo đồ Di Lặc này, tuy đả thương được hai tên dưới sự công kích điên cuồng của bọn chúng, song vẫn bị chặn đường lui. Hồng Nương Tử có võ nghệ kinh người, mượn màn đêm mà rảnh rang ra tay giữa bầy địch, căn bản không cần phân biệt địch ta, chém giết nửa canh giờ, hiện chỉ còn lại ba tên.

Lưu đạo sĩ búng chân thoăn thoắt, chợt khàn giọng kêu lên:

- Hồng Nương Tử, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, nay triều đình đã điều động đại quân, sơn trại lục lâm của ngươi sắp không giữ được nữa rồi. Bắt cóc mệnh quan triều đình là tội lớn tày trời, ngươi và Dương Hổ đã không còn lối thoát. Bản giáo căn cơ hùng hậu, giáo đồ rải khắp thiên hạ, với võ nghệ hai vợ chồng ngươi, nếu như gia nhập bản giáo, tất sẽ là một viên hổ tướng. Ngươi có muốn suy nghĩ lại không?

Hồng Nương Tử nắm chặt thanh đoản kiếm nhuốm máu, lặng lẽ di chuyển trong khu rừng, cười khẩy nói:

- Có lẽ ngươi nên suy nghĩ trước đi! Di Lặc giáo dùng những trò bịp mê hoặc những đôi vợ chồng ngu dốt dâng hiến mọi tiền tài con cái cho các ngươi, cung cấp nô dịch cho các ngươi sai khiến, hán tử trong giới lục lâm chúng ta cũng khinh thường các ngươi. Giết!

Thừa lúc nói chuyện khiến đối phương buông lỏng, Hồng Nương Tử đột ngột lộn người tới phía trước, đâm một kiếm vào ngực gã tín đồ Di Lặc giáo nọ, rồi lại búng người lủi vào trong bóng đêm. Tên tín đồ Di Lặc nọ kêu "hự" một tiếng, buông cây đơn đao trong tay, lảo đảo mấy bước rồi ngã sấp xuống mặt đất phủ tuyết, máu tươi trong ngực trào ra ồ ạt.

Lưu đạo sĩ cực kỳ bi phẫn, giọng run lên:

- Con đàn bà ngu ngốc nhà ngươi, hợp tác thì cùng có lợi, mà chia rẽ thì đều có hại, gia nhập bản giáo, ngươi và Dương Hổ sẽ có thể được phong làm Thiên sư và Phật mẫu, dưới một người trên vạn kẻ, vinh hoa phú quý hưởng không hết.

Không sai, hai trăm huynh đệ đó của ngươi là do bọn ta sai khiến, bán mạng cho chúng ta, nhưng người trong giang hồ nguy hiểm chập trùng, việc đó có gì kỳ lạ? Chỉ dựa vào ngươi ư? Hay dựa vào ngươi và cả Dương Hổ thì có thể báo thù?

Đoạn lão cười sằng sặc dọa nạt:

- Cho dù là nhân mã lục lâm cùng tận ở Bá Châu của ngươi, cũng đừng hòng đối phó với bản giáo. Trong khu rừng này, ta là cá thịt, ngươi là dao thớt, nhưng chỉ cần rời khỏi nơi đây, ta sẽ có tiền tài và nhân thủ vô tận để dùng, cả đời này ngươi cũng đừng mơ báo thù!

Thúy Nhi cũng thấp giọng dụ dỗ:

- Đại tiểu thư, đừng trách Thúy Nhi vô tình, chúng ta ai nấy đều vì chúa của mình. Giáo chủ thần thông quảng đại, là Di Lặc giáng trần, người mới là chân long đó. Bây giờ tiểu thư đã biết Tử Vi chuyển thế, ứng tại Dương Hổ gì đó đều là lời nói gạt rồi chứ?

Hãy nghe Thúy Nhi khuyên một câu, chỉ cần tiểu thư dừng tay giảng hòa, ta và Lưu hộ pháp có thể bảo đảm rằng người sẽ có được địa vị cao quý trong bản giáo. Hiện tiểu thư đã thấy công phu thực tế của ta không kém người là mấy rồi chứ? Nếu thực sự liều mạng liệu tiểu thư có thể giết được ta mà không mất mấy người không?

Trong rừng im phăng phắc, chỉ có tuyết rơi, gió thổi...

Nghe xong lời này Hồng Nương Tử và mấy tay đại đạo đều im lặng không nói lời nào. Một lúc lâu sau, mới nghe Thôi Oanh Nhi cất giọng lạnh lùng:

- Muốn ta không giết ngươi cũng được, ngươi và ta đều phản lại triều đình, chúng ta sẽ không quy thuận các ngươi, có điều muốn hợp tác cũng không hẳn là không thể...

Thúy Nhi mừng ra mặt, vội nói:

- Đại tiểu thư, người đồng ý sao?

Thôi Oanh Nhi cười nhạt nói:

- Đừng gọi ta là đại tiểu thư, hẳn là địa vị của ngươi trong Di Lặc giáo cũng không thấp chứ? Ngươi nên biết là rằng kẻ làm thủ lĩnh nếu muốn thu phục mọi người, thì phải không phụ lòng huynh đệ. Chúng ta lúc đi mang theo hai trăm người, cha mẹ vợ con bọn họ vẫn đang chờ bọn họ trở về ăn Tết, nay đến cả di hài ta cũng không thể mang về thì sao có thể ăn nói với bọn họ?

Thúy Nhi do dự hỏi:

- Vậy... ý của tiểu thư là...?

Thôi Oanh Nhi nói một cách quả quyết:

- Nếu không phải vì Lưu đạo sĩ, chúng ta hà tất phải cực khổ chạy vào trong thành tìm chết? Ngươi giết cho ta cái tên chủ mưu gây nên chuyện này, để ta có thể ăn nói với các huynh đệ, ta sẽ tha cho ngươi, hơn nữa sẽ suy nghĩ hợp tác cùng Di Lặc giáo. Ngươi yên tâm, chuyện này trời biết đất biết, tuyệt sẽ không có bất cứ tín đồ Di Lặc nào biết ngươi làm đâu.

Người Lưu đạo sĩ thoáng run lên, cố mạnh miệng cười nói:

- Ha ha, ha ha, đúng là buồn cười, ngươi muốn chia rẽ để bọn ta tự giết lẫn nhau, để ngươi ngồi hưởng lợi ngư ông sao? Thuý Nhi là Tiên cơ của bản giáo, có thể mắc lừa ngươi sao?

Lão và Thúy Nhi vốn tựa lưng vào nhau, kết chặt thành một khối, nhưng miệng vừa nói vậy lão lại lặng lẽ tách người ra một chút, đặt một nửa sự chú ý ra phía sau, lo sợ Thúy Nhi sẽ bất thình lình cho lão một kiếm.

Thôi Oanh Nhi cười lạnh, giọng quanh quẩn khắp nơi:

- Vừa nãy ai đã nói kẻ thức thời là trang tuấn kiệt? Thúy Nhi, ngươi và ta quen biết đã lâu, nên biết lời ta thốt ra tuyệt không thay đổi. Ta sẽ đếm đến mười, nếu ngươi không động thủ, ta sẽ kêu các huynh đệ chôn xác các ngươi tại nơi này, có lẽ mấy ngày sau thi thể trong đống tuyết của ngươi cũng sẽ bị chó hoang bươi ra thôi. Một, hai, ba...

Theo nhịp đếm của Thôi Oanh Nhi, trái tim của Lưu đạo sĩ và Thúy Nhi đập thình thịch, Lưu đạo sĩ đột nhiên thấy Thúy Nhi bên cạnh thoáng có cử động, bèn cũng vội giật mình tránh thân, hông dường như bị vật gì chém sượt qua, liền nổi giận đùng đùng, chém trả lại một đao, mở miệng mắng:

- Con điếm thối tha, ngươi thực sự động thủ với ta à?

Thúy Nhi lánh người là do cũng bị một vật quét sượt qua, cảm giác giống như cành cây khô, lập tức phát giác bị mắc lừa, ngay lúc nào Lưu đạo đã hung tợn bổ một đao tới. Thúy Nhi vừa tức giận vừa lo lắng, hất kiếm lên, "keng" một tiếng, một loạt tia lửa bắn ra. Thúy Nhi quát lớn:

- Đồ ngu, đừng trúng kế ả ta.

Chính vào lúc này, từ trong bóng đêm, Hồng Nương Tử người theo ánh kiếm mang theo hoa tuyết, lao đến nhanh như một cơn lốc, một tiếng quát lạnh lùng và nghiêm nghị vang lên:

- Giết!

Từ động tác và phản ứng của Thúy Nhi sau khi vung đao, Lưu đạo sĩ liền phát hiện mình đã bị trúng kế, lúc này nhìn thấy những bóng đen đánh úp tới, Lưu đạo sĩ không kịp suy nghĩ, lập tức vung đao chém tới, la lên:

- Cẩn thận!

Một kiếm của Hồng Nương Tử vốn nhắm vào ngực Thúy Nhi, nàng liền khom người tránh lưỡi đao của lão, rồi hất kiếm lên, đâm ngay vai Thúy Nhi, tiếp đó thân kiếm bị đao chém trúng, mũi kiếm kẹp dưới xương quai xanh của Thúy Nhi rung mạnh, khiến cô ả đau đớn kêu thét lên, trước mắt tối sầm, cơ hồ ngất xỉu.

Rồi không thèm suy nghĩ, nàng lập tức bỏ kiếm, co người bổ nhào vào Lưu đạo sĩ, ôm lấy lão lao về phía trước. Hai người quấn vào nhau, trượt xa hơn trượng mới ngừng lại.

Lúc này, Lưu đạo sĩ đã choáng đến không còn biết trời đất sao trăng chi nữa. Hồng Nương Tử nâng gối thúc mạnh một cái ngay giữa quần lão, giữa tiếng kêu la thảm thiết nàng lại lấy hai tay kẹp lấy đầu lão vặn mạnh, "rắc" một tiếng, tiếng kêu thảm thiết vừa thốt ra lập tức im bặt.

Trúng phải một kiếm nọ, Thúy Nhi vẫn có thể chịu được, nhưng cây kiếm cắm vào hốc xương lại bị đao chém vào gần như chẻ xương quai xanh của ả đứt rời. Cô ả nửa quỳ trên mặt đất, khó khăn lắm mới có thể thẳng lưng dậy, liền tuyệt vọng phát hiện bên cạnh có mấy bóng người lầm lì vây quanh.

Thôi Oanh Nhi buông một câu lạnh nhạt:

- Kéo nó vào đạo quán!

Thúy Nhi chưa kịp mở miệng, liền cảm thấy da đầu bị siết lại, một cánh tay to lớn nắm đầu cô ả kéo lên, sau đó hai vai lại bị đánh một chưởng, hai cánh tay lập tức rũ xuống mềm oặt, chỗ bị thương chịu phải một kích này gần như khiến cô ả đau muốn ngất đi.

Mấy gã đại hán kéo lê Thúy Nhi vào trong đạo quán, Thôi Oanh Nhi đứng nguyên tại chỗ không nói lời nào, mấy tay hán tử còn ở lại bèn gọi:

- Chị dâu...

Thôi Oanh Nhi nhỏ giọng nói:

- Mặc dù bọn chúng để lại tai mắt nhưng tạm thời khó có thể tập hợp nhân thủ, có điều vẫn nên cẩn thận là hơn, đi dạo một vòng xem thử. Nơi này... đã không thể ở lại nữa.

Hai tên đại đạo dạ một tiếng, rồi lặng lẽ xoay người bước đi. Thôi Oanh Nhi ngước mặt lên trời, để mặc cho bông tuyết rơi phất phơ xuống khuôn mặt, hoá thành giọt nước lạnh ngắt. Tuyết đổ rất dày, rất nhanh mấy thi thể trên mặt đất đã bị phủ lên bởi một lớp tuyết trắng ngần.

Thôi Oanh Nhi khẽ run rẩy, quay người trở về trong đạo quán. Dương Lăng ngồi chờ trong một căn phòng đá nằm ở trong cùng, chỉ nghe thấy bên ngoài có tiếng con gái kêu la thảm thiết, lại bị bọn cướp nhốt trong phòng không cho ra ngoài, y còn tưởng đám giặc cướp này không chịu nổi trống vắng cho nên đêm khuya đã bắt cóc con gái nhà dân về chơi đùa, trong lòng căm hận không thôi.

Thôi Oanh Nhi đi vào trong hang, thấy cả người Thúy Nhi đầy máu, khuôn mặt vốn dĩ xinh đẹp đã bị đánh cho tím bầm, tóc tai bù xù trông như quỷ dữ. Hồ Đại Chuy xách đầu cô ả, đang định tát thêm một cái, Thôi Oanh Nhi liền nghiêm giọng nạt:

- Dừng tay!

Nàng bước tới trước mặt Thúy Nhi, chậm rãi ngồi xếp bằng, lạnh lùng nhìn một hồi lâu, rồi mới cất giọng hỏi:

- Ta hỏi ngươi ba việc. Một, tình hình của Hổ ca hiện nay thế nào? Hai, ngươi và Lưu đạo sĩ là Hộ pháp và Tiên cơ của Di Lặc giáo, lại lao tâm tổn sức trà trộn vào trong sơn trại của chúng ta rốt cuộc tính làm gì? Ba, nếu đã muốn lợi dụng ta, cớ sao lại muốn giết ta?

Thúy Nhi phun ra một bãi nước bọt lẫn với máu, thở hổn hển nói:

- Ngươi cứ giết ta đi, đừng hòng moi được tin tức gì từ chỗ của bản Tiên cơ, rồi sẽ biến thành con ma dốt của quan phủ. Ha ha... hộc!

Hắc Diêu Tử đạp một cước vào bụng dưới cô ả, tiếng cười thảm thiết của Thúy Nhi lập tức ngưng bặt. Thôi Oanh Nhi chỉ cười nhạt, lấy làm thú vị hỏi:

- Tiên cơ? Nghe nói Di Lặc giáo thần thông quảng đại, có thể lôi kéo ngũ quỷ, có thể biến sắt thành vàng, đao thương bất nhập, bạch nhật phi tiên, lừa gạt khiến một đám dân đen điên đảo thần hồn. Được, vậy để ta lĩnh giáo thủ đoạn của tiên cô Thúy Nhi một chút.

Đoạn nàng đứng dậy, mỉm cười, rút từ trên tường một cây đuốc chưa cháy hết, cầm kiếm gọt vài cái, đẽo thành một cây cọc có cạnh sắc nhọn, sau đó đến bên cạnh Thúy Nhi, đột nhiên vén váy cô ả lên, thò tay giật ống quần của cô ả xuống.

Bên dưới chiếc váy là chiếc quần màu xanh nhạt, trong lợp vải bông, nhưng sức tay của Thôi Oanh Nhi rất khoẻ, vừa kéo xoạt một tiếng, khúc chân trắng trẻo, thon thả và ưu mỹ liền lộ ra. Thúy Nhi rúm người lại, giọng run rẩy:

- Ngươi muốn làm gì?

Thôi Oanh Nhi nhướng đôi mày liễu, giơ cây cọc đen thùi lên, thản nhiên nói:

- Ta đang nghĩ, nếu như đục một lỗ trên chân ngươi, cắm cây cọc này vào, xuyên nó lên tận bắp đùi, không biết đám yêu đạo có thể thỉnh nhờ Đại La Kim Tiên nhập xác các ngươi sẽ vẫn chịu nổi hay không.

Sắc mặt Thúy Nhi trắng bệch. Cô ả cúi đầu trầm tư một chốc, rồi mới cười đau khổ nói:

- Thôi được! Ta biết rõ thủ đoạn của Hồng Nương Tử ngươi, rơi vào tay ngươi rồi, cũng đừng hòng sống mà thoát ra. Ta nói cho ngươi rồi, chỉ xin ngươi... có thể cho ta một cái chết thoải mái.

Thôi Oanh Nhi cười đáp:

- Thông minh, lại đây, nói nhỏ một chút. Ta đồng ý với yêu cầu của ngươi!

* * *

Sắc trời chạng vạng, bông tuyết tuy nhỏ nhưng cũng rất dày, giống như mạt phấn. Hồng Nương Tử và năm gã đại hán áp giải Dương Lăng loạng choạng đi về phía thành ngoại. Dương Lăng lạnh đến độ da dẻ tím tái, y nheo mắt để tránh gió tuyết, bước thất tha thất thểu theo sau Hồng Nương Tử.

Thành bắc là thành ngoại, bên ngoài không có tường thành, mãi đến những năm Gia Tĩnh sau này tường thành của thành ngoại mới bắt đầu được xây sửa để phòng ngừa giặc ngoài. Tiếc rằng chuẩn bị không thỏa, kế hoạch ban đầu là bao thành nội lại, song sức người và sức của không đủ, chỉ xây được mặt thành nam, còn đông và tây chỉ cho ôm lấy thành nội qua loa là liền cho kết thúc công trình.

Vốn vào thời điểm này, cấm thành trong kinh sư bình thường đều tập trung kiểm tra ở cổng nội thành, nhưng do trọng thần trong triều bị bắt cóc, cho nên hiện tại nơi ra vào của thành ngoại dựng đầy lều trại và trạm gác. Mỗi trạm gác đều có một Bả tổng, kiểm tra nghiêm ngặt người ra vào.

Vẫn chưa đến canh năm, cộng thêm tuyết lớn, trạm gác chỉ có bốn tay vệ binh ôm giáo sắt co ro đứng gác. Trông xa xa thấy có mấy nam nữ đi tới, một tên binh sĩ lập tức quát hỏi:

- Kẻ nào sớm như vậy đã muốn rời thành? Mau đưa ra giấy thông hành và hộ tịch, ngươi, một mình qua đây, những người khác không được tới gần.

Bởi vì gió gắt, tiếng của binh sĩ nọ nghe không thấy lớn. Thôi Oanh Nhi dừng bước chân, ngó năm sáu căn lều trại dựng ở đó, cười lớn bảo:

- Đi gọi quan tướng dẫn binh của các ngươi ra đây, nói có đại đạo Bá Châu là Hồng Nương Tử muốn gặp hắn!

***

Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu dẫn bốn tay thân binh tiến vào căn ngõ hẻm cũ kỹ ở thành bắc. Đến trước đạo quán nọ, Ngũ Hán Siêu nhảy xuống ngựa nói:

- Liễu huynh, tiểu đệ vào trong xem thử!

Chàng ta phi thân vào trong đại điện. Một nửa số phòng ốc của đại điện trống trơn, tuyết bay vào không ít, dưới một bên tường tuyết bị gió cuốn vào gom thành ụ, phía tường đối diện lại không có chút tuyết nào. Chàng ta quan sát chính điện trống không, rồi đẩy mở cửa hông, điện thờ hai bên vẫn chưa lợp mái, chỉ đặt một cái giá, chỉ cần liếc một chút là thấy hết bên trong ngay.

Chàng ta bước mấy bước về phía trước, Liễu Bưu cũng cầm đao theo vào, vòng qua trụ điện, vừa thấy đài đá đặt hương án nọ, hai người liền không khỏi sững ra. Mặt bên hương án xuất hiện một lỗ hang, Ngũ Hán Siêu mừng quýnh, liền phóng qua, trông thấy bên trong dường như có ánh sáng lập loè. Chàng ta cúi tai xuống đất lắng nghe động tĩnh bên trong, đoạn bạt kiếm ra khỏi vỏ rồi nhảy xuống.

Liễu Bưu không kịp cản, vội cùng bốn tay thị vệ đi theo cầm đao đứng thủ ngay cửa hang, chỉ khoảnh khắc liền nghe giọng Ngũ Hán Siêu run run cất lên:

- Liễu huynh hãy mau xuống đây, nơi này không có người, chỉ có xác của một cô gái!

Liễu Bưu nghe vậy liền phóng người nhảy xuống, một lúc sau, hai người lại vội vã nhảy ra ngoài. Ngũ Hán Siêu nói:

- Thân hình và vóc dáng nữ nhân này cực kỳ giống với người đã giao thủ cùng tiểu đệ, thi thể mới vừa cứng lại, đuốc trong động vẫn chưa tàn, chứng tỏ bọn họ rời nơi này chưa lâu. Xem đồ vật để lại bên trong, hẳn có thể giấu được năm, sáu người, rất có khả năng chính là nơi này!

Liễu Bưu liền quát ra lệnh:

- Kỳ chưởng ban, lập tức đi gọi người, đến cổng thành nội, triệu tập nhân mã lật tung cả thành bắc cho ta!

Thị vệ nọ nghe có tin tức của xưởng đốc, liền vội mừng rỡ đáp vâng, rồi xoay người chạy đi. Liễu Bưu trầm ngâm nói:

- Nếu như nơi này chính là nơi ẩn nấp của bọn chúng, bọn chúng bỏ ổ, tại sao không che lấp miệng hang để giấu? Trừ phi...

Ngũ Hán Siêu tiếp lời:

- Trừ phi bọn chúng không muốn trốn nữa!

Liễu Bưu lập tức biến sắc, lo lắng nói:

- Hỏng rồi! Chẳng lẽ tin tức Dương Hổ không nằm trong tay chúng ta đã bị bọn chúng biết rồi sao? Nếu quả như vậy, bọn chúng sẽ đi đâu?

Hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng đồng thanh:

- Ra khỏi thành!

* * *

Trước mặt gần trăm quan binh giáp trụ sáng choang, đao thương san sát, đám người Hồng Nương Tử ngông nghênh cưỡi những con ngựa của họ. Chỉ có năm thớt ngựa, hai trong số đó lại là ngựa thồ, Hồng Nương Tử và Dương Lăng ngồi chung một ngựa, hai tên đại đạo có thân thể gầy gò khác cưỡi chung một ngựa.

Hồng Nương Tử kẹp chặt bụng ngựa, một tay ôm lưng Dương Lăng, một tay cầm thanh đoản kiếm gác trên cổ y, nhoẻn miệng cười tươi như hoa, nói với tay Bả tổng râu xồm đang đứng ngây tại chỗ:

- Đa tạ tướng quân đã ban thưởng ngựa, đại nhân đã kiểm tra lệnh bài ra vào hoàng cung của Dương đại nhân rồi, quả thực không chút giả tạo. Hiện tại ta muốn mời Dương đại nhân của ngươi tiễn ta một chặng, nếu như ngươi dám mang một binh một tốt đuổi theo, hơn trăm quan binh ở đây có thể bảo đảm rằng Dương đại nhân chính là bị ngươi bức chết. Lúc đó tự ngươi đi mà giải thích với đám hổ sói của Nội xưởng nhé. Giá!

Nàng co chân thúc vào bụng ngựa, nghênh ngang phóng đi trong chuỗi tiếng cười hào sảng.

* * *

Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đuổi theo một mạch, giữa đường gặp được tên binh sĩ được gã Bả tổng xui xẻo nọ phái trở về báo tin, nghe chưa hết lời hai người liền phi ngựa đuổi đến lều trại, chỉ thấy một đám quan binh đang đứng trong gió tuyết, gã Bả tổng râu xồm nọ đầu tóc và hai vai dính đầy tuyết. Trông thấy bọn họ đuổi đến, vẻ mặt của lão ta cũng không biết là đang khóc hay đang cười.

Ngựa chạy được một chốc, vừa rời khỏi tầm mắt quan binh, cả bọn liền bỏ quan đạo mà xông vào trong đồng cỏ hoang vu. Dương Lăng đột nhiên hỏi:

- Cô không định trao đổi Dương Hổ sao?

Hồng Nương Tử cười mỉa mai:

- Huynh ấy thực sự nằm trong tay các ngươi sao?

Dương Lăng im lặng, một hồi sau mới nói:

- Các người trốn không thoát đâu, chỉ với mấy thớt ngựa này, còn có tuyết lớn như vậy, các người chạy không tới mười dặm.

Hồng Nương Tử cười lớn nói:

- Đa tạ Dương đại nhân quan tâm. Thực ra ta phải cảm ơn con tuyết lớn này. Tuyết lớn khó đi, đất không lưu vết, đường không thấy người, ngoài trăm trượng không thấy rõ gì cả, trời đất mịt mù, cho dù có trăm vạn truy binh đuổi theo phía sau, có thể làm gì được ta chứ?

Nàng bỗng đảo mắt, kẹp lấy lưng Dương Lăng, ném y xuống đất. Dương Lăng ngã lảo đảo mấy bước, giữ cho ổn định người lại, rồi bình tĩnh ngước nhìn nàng hỏi:

- Cô muốn giết ư?

Hồng Nương Tử vòng ngựa đi quanh y mấy vòng rồi dừng lại, hai người đưa mắt nhìn nhau, bông tuyết rơi nhẹ giữa hai người, che mờ dung mạo của bọn họ. Hồng Nương Tử hít vào một hơi, rồi chợt nói:

- Oan có đầu, nợ có chủ, thật sự bại dưới tay của ngươi, là do bản lĩnh chúng ta kém, hán tử lục lâm không ghi món thù này.

Xúi giục bọn ta vào kinh giết ngươi là người của Di Lặc giáo, gian tế của Di Lặc giáo đó, cũng là thị nữ Thúy Nhi bên người của ta đã bị xử tử. Ngươi cũng đã thấy, hai trăm mạng người này, ta sẽ tìm Di Lặc giáo đòi lại. Dương đại nhân, Hồng Nương Tử ta, nói là giữ lời, hôm nay mượn ngươi để rời thành, thì sẽ tha ngươi một mạng!

Hồng Nương Tử quay đầu ngựa, quát bảo thủ hạ:

-Đi!

Rồi quay đầu lại, mỉm cười nói với Dương Lăng:

- Dương đại nhân! Ngươi là quan, ta là giặc, trượng phu ta bại dưới tay ngươi, ngày sau, chúng ta gặp nhau trên chiến trường, ta sẽ tìm trở lại cuộc chiến này! Giá!

Nói đoạn, nàng vung roi, kiện mã tung bốn vó, phóng như bay đuổi theo mấy tên thủ hạ. Dương Lăng đứng ngẩn ngơ vòng nhìn theo bóng lưng bọn họ đang dần biến mất trong màn tuyết mù mịt đất trời, nhất thời không dám tin nàng ấy sẽ dễ dàng tha cho mình như vậy.

Ngựa chạy xa dần, phía trước vẫn là một màn trời mênh mông mờ mịt. Đang dẫn đầu ở đằng trước, Hồng Nương Tử đột nhiên ghìm cương ngựa, quát:

- Đi, đến Phong Đài, đổi ngựa tốt của chúng ta, nhờ sự trợ giúp của trời đất, rời xa kinh sư!

Hồ Đại Chuy vừa chạy song song với nàng, vẫn bất bình nói:

- Chị dâu, Hổ ca tuy rằng đã thoát khỏi hiểm địa, nhưng sao chúng ta không thừa cơ giết chết tên cẩu quan đó luôn? Cứ vậy mà tha cho hắn, huynh đệ thực sự không phục!

Hồng Nương Tử cười nhạt, vặn hỏi:

- Giết y? Giết y rồi Di Lặc giáo sẽ ra tay với hoàng đế thế nào? Di Lặc giáo mà không ra tay với hoàng đế, liệu triều đình sẽ tập trung toàn lực đi báo thù thay chúng ta sao?

Hồ Đại Chuy sực tỉnh nói:

- A! Ý của chị dâu là...

Hồng Nương Tử cướp lời:

- Chạy mau lên, y tưởng chúng ta chạy về Bá Châu, chúng ta càng phải theo y đến Đại Đồng. Di Lặc giáo coi chúng ta là giáo, lần này ta muốn mượn 'cây giáo' này của triều đình đối phó với lão già Lý Phúc Đạt!

Chú thích:

nơi làm việc đằng sau công đường trong quan phủ

còn gọi là Ngũ ôn thần, hay Ngũ ôn sứ giả, gồm có: Xuân ôn Trương Nguyên Bá, Hạ ôn Lưu Nguyên Đạt, Thu ôn Triệu Công Minh, Đông ôn Chung Sĩ Quý, Tổng quản trung ôn Sử Văn Nghiệp

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 183: Vua muốn đi xa

Quan binh canh giữ những quan ải quan trọng của kinh thành cũng không có nhiều kỵ binh cho lắm, mặc dù là kinh sư cũng không nuôi nổi bấy nhiêu chiến mã mà bình thường chỉ để đó không dùng. Nhưng ngay khi tin vừa được đưa vào nội thành, đề kỵ của Cẩm Y Vệ và mã khoái (sai nha cưỡi ngựa) của Ngũ thành binh mã ty liền tranh đi trước đại quân, đuổi theo ra ngoài thành tới mấy dặm đường, bất chấp tuyết rơi mù trời.

Tuyết lớn khó đi, bọn họ đuổi đến khi cả người lẫn ngựa đều mệt lử thì chợt trông thấy ở đằng trước xuất hiện mấy bóng người lẻ loi trên đường. Đám quan binh vội ghìm ngựa rút đao, dè chừng tiến tới gần mới thấy rõ là vài viên thị vệ Nội xưởng đang đứng bất động trong tuyết.

Đám Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu đang đứng như trời trồng, hồn bay phách lạc: phía trước, một gốc cây khô to bằng một vòng tay bị tuyết nặng đè gãy chắn ngang trên đường, trên gốc cây tuyết xốp phủ đều, hiển nhiên bọn đạo tặc đã đi vòng qua. Thế nhưng tuyết lớn mịt mù, trên đường mất sạch dấu tích, bọn họ chẳng khác gì anh mù cưỡi ngựa lòa, biết đuổi về phương nao bây giờ?

Một tay Cẩm Y bách hộ tra cây Tú Xuân đao vào vỏ, thúc ngựa tiến tới. Khi đến gần, trông thấy người ngồi trên ngựa ở đằng trước là Thiên hộ Liễu Bưu của Nội xưởng, hắn liền vội ôm quyền thi lễ:

- Liễu đại nhân! Có phải đã có tung tích của Dương xưởng đốc?

Liễu Bưu quay đầu lại, thấy sau lưng có hơn trăm quan binh cưỡi ngựa bèn hít sâu một hơi rồi quát bảo:

- Toàn bộ tản ra! Năm người một nhóm, lấy nơi này làm trung tâm tìm kiếm chung quanh, thường xuyên trao đổi tin tức lẫn nhau. Một khi có manh mối của đại nhân phải lập tức phi ngựa về báo, không được tự ý quyết định.

Tay Bách hộ đó vâng dạ rồi dặn dò Cẩm Y Vệ và mã khoái tản vào trong đồng hoang. Một lát sau, thềm nhiều người ngựa lục tục kéo đến lũ lượt gia nhập vào trong đoàn người tìm kiếm.

Dương Lăng bị mang vào đồng hoang cách đường cái mấy dặm. Đôi giày quan của y bị tuyết ngấm vào ướt sũng, đôi giày da trâu này vừa ẩm vừa nặng, y bước đi loạng choạng, đi đến độ mồ hôi đẫm lưng, tim đập như trống. Chợt trông thấy trong gió tuyết có mấy bóng người đang đến gần, Dương Lăng trợt chân, suýt nữa ngã nhào.

Mấy tay quan quân trông thấy trước mặt có người, cũng căng thẳng rút đao thương ra quát lớn:

- Kẻ nào đó? lại! Cấm đến gần! Người đâu mau lên, ở đây có người, ở đây có người!

Dương Lăng định thần lại, trông thấy những kẻ trước mặt mang mũ tua đỏ trông như quan binh, liền vội quát:

- Ta là Dương Lăng, các ngươi là quan binh của bộ nào?

Mấy tên quan binh đó nghe xong thì bán tín bán nghi, bèn đi tới gần quan sát y từ đầu đến chân một lượt, trông thấy y phục của y lập tức tin tưởng mấy phần, nhịn không được liền hào hứng reo to:

- Tìm được Dương đại nhân rồi! Chúng tôi tìm được Dương đại nhân rồi!

Tay tiểu ngũ trưởng cầm đầu hưng phấn đến độ cả mặt đỏ bừng, "Công to ở ngay trước mắt rồi! Đây quả là ông trời tặng đại lễ mừng Tết cho ta rồi!". Gã chỉnh đốn lại y phục, bước vội tới dùng quân lễ ra mắt, cao giọng thưa:

- Tiêu hạ (như thuộc hạ - ND) là Hạ Đại Niên, Ngũ trưởng của Chấn Uy doanh, tham kiến xưởng đốc đại nhân!

Dương Lăng cười khổ, bảo:

- Miễn lễ, mau đưa bản quan trở về! Thực sự chịu hết nổi rồi.

Tay Ngũ trưởng nọ liền vội đứng dậy rồi cùng với một sĩ tốt cường tráng dìu Dương Lăng nhanh chóng quay về. Tin tức mau chóng lan truyền, quan binh nhanh nhẹn tụ tập về hướng đó, đến khi Ngũ Hán Siêu và Liễu Bưu hay tin, mừng như điên chạy đến nơi thì người dìu Dương Lăng đã đổi thành Tì tướng Lưu Bản Nguyên và Bả tổng Trương Khai của Chấn Uy doanh.

Liễu Bưu mặt mày kích động, dừng bước chân ngắm nhìn Dương Lăng một lúc rồi mới nghẹn ngào:

- May sao xưởng đốc đại nhân... bình an vô sự!

Ngũ Hán Siêu bước đến trước mặt Dương Lăng, hổ thẹn nhìn y, rồi không nói không rằng vén áo bào quỳ xuống tuyết.

Tuy Dương Lăng ngồi nơi ghế cao nhưng lại không hề có thói kênh kiệu vênh vang, lấy thân chủ nhân đãi phận tôi tớ; đó cũng là chỗ khác biệt giữa y và những mệnh quan khác.

Tuy thuật tiết chế kẻ dưới từ xưa quý nhất là ở chân thành, chứ không phải thủ đoạn, coi chúa như thầy, coi vua như bạn, coi việc mất nước cấp bách như việc quân. Thế nhưng thời xưa quan niệm tôn ti trên dưới quá nghiêm, dẫu rằng quan viên có đối đãi rộng lượng với kẻ dưới cũng rất khó lòng tôn trọng thuộc hạ, mà chủ yếu là chỉ ban thưởng tiền tài và danh lợi. Cho nên Trình Bất Thức trị quân nghiêm ngặt, một vạn sĩ tốt dưới trướng ai nấy đều nghe lệnh, còn Lý Quảng cai quản thuộc hạ khoan dung, ấy vậy mà năm nghìn thủ hạ lại có thể chọi năm vạn người, mỗi khi gặp chiến trận ai nấy đều dốc sức liều mạng.

(Xin xem Lý tướng quân liệt truyện – Sử ký Tư Mã Thiên, http://www.saharavn.com/index.php?pa...2773&page_num=)

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi mà Dương Lăng có thể xem các nội tướng Ngô Kiệt, Hoàng Kỳ Dận, Vu Vĩnh cùng ba vị nguyên Đô ty Thần Cơ doanh và hai người Liễu, Dương là tâm phúc. Bọn họ cũng theo y không rời không bỏ, dĩ nhiên cũng có nhân tố là họ theo y để được tiền đồ như gấm, song quan niệm "sẵn sàng chết vì tri kỷ" của những nhân sĩ này cũng chiếm một phần rất lớn tâm tư của bọn họ.

Về phần Ngũ Hán Siêu, hắn xuất thân võ lâm chỉ mới vừa gia nhập Nội xưởng; uổng cho một thân võ công thế mà lại chưa hề có ý thức làm bảo tiêu. Nay thấy hắn xấu hổ tự thẹn, bộ dạng lôi thôi lếch thếch, Dương Lăng cũng không nỡ trách thêm.

Y bước tới đỡ Ngũ Hán Siêu dậy, mỉm cười nói:

- Minh thương dễ tránh, ám tiễn khó phòng, đừng tự trách mình nữa. Có điều sau này phải nhớ kỹ bốn chữ 'làm tròn bổn phận', không phải chức trách của mình thì không can dự vào. Ngươi là thị vệ cận thân của bản quan, hộ vệ bản quan không bị làm hại chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, việc bắt giặc cứ giao cho nha môn xử án là xong. Nếu như lần sau lại xảy ra việc như vầy, cho dù bản quan không phạt gậy ngươi thì phu nhân của ta cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu.

Lời của Dương Lăng khoan dung độ lượng, có mềm có cứng, khiến Ngũ Hán Siêu cảm kích không thôi. Miệng hắn mấp máy, muốn nói rồi lại thôi, cuối cùng đành chôn chặt sự hối hận và cảm kích trong lòng, không thốt tiếng nào.

Dương Lăng quay đầu hỏi Liễu Bưu:

- Chuyện của ta... phu nhân đã biết chưa?

Hiện tại Liễu Bưu đã kiềm được sự kích động khi vừa gặp mặt, rạng rỡ đáp:

- Đại nhân yên tâm! Ngô đại nhân và Hoàng đại nhân không dám để trong phủ hay tin. Thuộc hạ đã đưa tin cho phu nhân rằng do chiến sự tiền phương và sắp đến Tết nên ở cung đình sự vụ bộn bề, vì vậy mấy ngày nay đại nhân không thể hồi phủ.

Liễu Bưu vừa cởi áo choàng của mình khoác cho Dương Lăng vừa nói tiếp:

- Đại nhân! Tin tức đã được phi mã hồi báo về thành rồi, đại nhân hãy mau hồi kinh đi, tránh để Hoàng thượng nhung nhớ. Mấy tên cường đạo đó...?

Dương Lăng bảo:

- Trời tuyết lớn khó lần ra tung tích, bọn chúng chạy về hướng nào khó mà đoán được. Quay về bảo quan phủ các nơi dán tranh, vẽ hình truy nã nghiêm ngặt là được. Còn nữa, bảo người của chúng ta chú ý đến những nhân vật khả nghi vừa xuất hiện trong thành.

Đạo tặc Dương Hổ đến kinh thành, lại do Di Lặc giáo âm thầm dụ dỗ, cuối cùng hai bên lại xảy ra chém giết, rõ ràng không chỉ đơn giản là tạm thời nảy ra ý muốn giết mình như vậy. Tuy Hồng Nương Tử không nói rõ ràng, song Dương Lăng cũng ngờ rằng trong đó ắt có âm mưu, chỉ là chuyện này y không tiện đề cập với Liễu Bưu trước đám đông người.

Y chỉ kể lại qua loa chuyện mình được thả, rồi được mọi người dìu đỡ lên ngựa vội vã hồi thành. Lưu Cẩn vừa nhận được tin, một mặt sai người báo tin mừng cho Hoàng thượng, mặt khác đích thân dẫn người ra ngoài nghênh đón.

Lúc Dương Lăng vào cung, tảo triều hãy còn chưa kết thúc. Thái giám đứng hầu ghé tai nói nhỏ với Chính Đức mấy câu, hắn vừa nghe liền mừng ra mặt, vội vã giải quyết cho hết công vụ, cho dừng tảo triều rồi liền lập tức chạy về phía điện Bảo Hòa.

Chính Đức vừa bước vào đại điện, Dương Lăng đang ngồi dựa bên cạnh lò than lửa long phượng sưởi ấm trông thấy lập tức bước tới làm lễ ra mắt. Chính Đức nâng tay đỡ y, quan sát một lượt rồi mừng rỡ cười nói:

- Tốt, tốt! Trở về là tốt rồi, mấy ngày nay khiến trẫm thực lo quá đi.

Hắn kéo Dương Lăng vào trong nội điện, ngồi trên giường lò, rồi cười nói với đám người Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng:

- Ngồi đi, ngồi xuống cả đi! Dương khanh, đám đại đạo Bá Châu đó không làm khó gì khanh chứ?

Tiểu hoàng môn dọn vào sáu bảy cái bệ gấm, đám người Dương Lăng tạ tội rồi ngồi xuống. Thấy trong phòng chỉ có mấy người trong đám bát hổ, Dương Lăng bèn đáp:

- Dạ! Nữ tặc đó bắt cóc thần chỉ vì muốn trao đổi với đạo tặc Dương Hổ của ả, cho nên không hề ngược đãi thần. Về sau biết được Dương Hổ đã bỏ trốn, ả mới mang tính mạng của thần uy hiếp, phá ải xông ra ngoài tẩu thoát.

Chính Đức nhướng mày, nôn nao bứt rứt:

- Từ xưa những kẻ cậy võ vi phạm cấm lệnh, dám bắt cóc trọng thần triều đình quả thực rất hiếm. Gan dạ và bản lĩnh của nữ tặc này thực bất phàm, có thể bắt cóc khanh ngay giữa phố chợ sầm uất, phải chăng là phi tặc biết khinh công bay lượn trong truyền thuyết? Thực khiến cho trẫm rất háo hức, tò mò đây.

Dương Lăng đáp:

- Lên cao xuống thấp như đi trên đất bằng, búng người không cao hơn một trượng, kiếm không (dài) tới ba thước chỉ có thể cậy võ phạm cấm, khiến cho máu đổ năm bước mà thôi. Điều Hoàng thượng tu chính là Thiên Tử kiếm, một cái vung tay, binh ở ngoài vạn dặm liền kéo đi như thủy triều, vừa ra chiếu lệnh, liền thao túng tính mạng sinh tử cùng hỷ nộ ái ố của tất cả mọi người. Võ công cao có gì mà đáng hâm mộ?

Chính Đức cười to, mặt mày nở nang:

- Ái khanh nói chí phải! Thị vệ đại nội của trẫm cũng có bản lĩnh như vậy, cái gì là tám bước đuổi ve, lướt bèo qua nước gì chứ!? Có lần trẫm cao hứng từng bảo bọn chúng tay không trèo lên điện Thái Cực, song lại không một ai trèo nổi.

Dương Lăng tiếp lời:

- Lời đồn của dân gian bao giờ cũng thổi phồng bản lĩnh của bọn họ. Có điều đám mã tặc này cậy vũ lực đối chọi phép vua vẫn không đáng sợ, song hiện tại lại có một lực lượng mà Hoàng thượng vạn lần chớ nên xem nhẹ.

Chính Đức hiếu kỳ hỏi:

- Lực lượng nào?

Dương Lăng thưa:

- Di Lặc giáo! Bọn chúng dùng lời tà thuyết mê hoặc dân chúng, khắp tam giáo cửu lưu đều có tín đồ mù quáng nghe theo. Theo lời của đám mã tặc Bá Châu mà thần nghe trộm được, lần này mấy trăm đại đạo âm thầm vào kinh chính là do sự sai bảo của giáo chủ Di Lặc, mưu đồ hiển nhiên không chỉ là tính mạng của thần. Cái nguy hại của tà giáo hơn xa mối nguy của đám vũ phu tụ tập nơi núi rừng, Hoàng thượng không thể không cẩn thận!

Từ xưa, điều đế vương e ngại nhất chính là những tổ chức tà giáo mê hoặc lòng dân; lực lượng của bọn họ như rễ cây bám sâu vào lòng đất, ẩn náu trong dân gian. Khi bọn họ không phát động đấu tranh hoặc nổi loạn thực khó mà phân biệt lương dân với tín đồ; đợi đến khi bọn họ vừa khởi sự lập tức đã có ngay mấy mươi vạn tín đồ, sẽ rất nguy hại cho triều đình. Triều Minh vốn lợi dụng giáo phái để khởi sự, thành sự rồi mới thoát ly khỏi bọn họ, cho nên hiểu rõ nhất về sự đáng sợ của lực lượng tôn giáo.

Chính Đức nghe xong nụ cười liền tắt vụt, lo lắng:

- Di Lặc giáo? Lúc bọn chúng truyền đạo ở Thiểm Tây, lôi giành sự ủng hộ xa gần, ngu dân giào nghèo theo họ có kẻ dâng biếu cả nghìn vàng, cho dù phá gia cũng cam tâm tình nguyện, hoặc hy sinh con cái, hoặc buông bỏ đồ dùng, nối đuôi mà theo. Một khi giáo chủ hạ lệnh, liền có thể thu được vạn lượng hoàng kim trong một tối, hương dân gần xa không ai mà không theo bóng nó, quả thực là cái họa lớn của triều đình.

Có điều sau khi cái tên Lý Việt bị chém đầu, bọn chúng liền tan đàn xẻ nghé, triều đình đã không còn nghe đến tung tích của Di Lặc giáo nữa, chẳng lẽ bọn chúng vẫn đang hoạt động?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Dạ, Di Lặc và Bạch Liên vốn một nhà. Từ cuối đời Đường, Tống, Nguyên đến nay, người Hán làm chủ thì sẽ phản Hán, người Nguyên làm chủ lại sẽ phản Nguyên, mưu đồ của nó chính là xã tắc vậy. Mỗi khi gặp phải đả kích, nó liền sẽ biến lớn thành nhỏ, biến nhỏ thành không, rút vào trong bóng tối, âm thầm tích góp lực lượng chậm rãi chờ ngày quật khởi. Theo thần nghĩ, do lực lượng của bọn chúng hiện chưa đủ để đối kháng với triều đình nên mới mượn tay kẻ khác, nhằm loạn chính nhiễu dân.

Chính Đức đứng bật dậy, đám người Dương Lăng và Lưu Cẩn liền vội đứng lên theo. Chính Đức chậm rãi thả bước trong điện một hồi, chợt trỏ Cốc Đại Dụng bảo:

- Đại Dụng! Việc này giao cho ngươi đi làm, tập hợp lực lượng Đông xưởng, Tây xưởng và Cẩm Y Vệ, bí mật truy lùng Di Lặc giáo, nhất thiết phải diệt trừ gốc rễ bọn chúng.

Cốc Đại Dụng liền vội vâng dạ đáp lời. Chính Đức thoáng trầm ngâm, lại vung tay hạ lệnh:

- Các ngươi lui xuống đi, Dương khanh hãy ở lại.

Đợi mọi người lui ra khỏi điện rồi, Chính Đức vội nói với Dương Lăng:

- Dương khanh, mạch máu của Bạch Liên giáo kéo dài đã mấy trăm năm, đời sau nối tiếp đời trước, trước nay đều không thể tiêu diệt được nó.

Khi tiên hoàng còn sống, thường hay nói rằng bá tánh thờ ngưỡng nó, hoặc vì phú quý, hoặc do trường sinh, trong đó không thiếu người lương thiện, chưa hẳn đều là những kẻ có mưu đồ tạo phản. Nếu như trừng phạt quá rộng, sẽ gây tổn hại đến gốc rễ của Đại Minh, còn nếu chỉ tiêu diệt kẻ cầm đầu, lại sẽ như ngắm hoa trong sương. Đại Minh từ thời dựng nước đã diệt trừ tà giáo, không biết còn phải diệt trừ đến năm nào tháng nào.

Việc này không gấp, giao cho hai xưởng một vệ xử lý là được. Nội xưởng của khanh vẫn còn phải để ý đến chiến sự ngoài Đại Đồng và chuẩn bị cho trẫm đi lên phương bắc.

Dương Lăng do dự:

- Hoàng thượng! Thần bị đạo tặc bắt cóc đã khiến cho lòng người bất an, nếu như lúc này Hoàng thượng xuất kinh, e rằng bá quan sẽ càng kinh hãi. Chi bằng bí mật thông tri cho Đoá Nhan Tam Vệ trước, đợi khi việc thanh trừng giặc cướp và đả kích tà giáo của thần có chút thành quả rồi Hoàng thượng mới khởi hành. Hoàng thượng thấy thế nào?

Chính Đức có mỗi việc xuất kinh này là chuyện vui, thật sự còn sướng hơn cả đón Tết nên nào thèm nghe. Hắn không chịu:

- Kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ sớm một ngày thì biên ải sẽ bớt được một ngày tổn hại. Đây là đại sự nước nhà, trẫm đường đường là vua một nước, há có thể sợ một đám giặc cướp? Lòng dân bất ổn thì mặt mũi triều đình càng bị tổn hại, cho nên trẫm càng phải xuất kinh!

Rồi hắn hớn hở nói tiếp:

- Đợi trẫm từ biên ải nở mày nở mặt trở về kinh sư, lòng dân sẽ yên ổn ngay. Nếu như ngay cả lãnh thổ của chính mình mà trẫm còn không dám bước chân đến thì mới thực sự là mất hết mặt mũi đó. Bọn chúng có thể bắt cóc ái khanh giữa dăm ba thị vệ là có thể khiến trẫm bị thương giữa trăm nghìn giáp sĩ ư? Nếu như có bản lĩnh đó, bọn chúng cũng có thể xông vào cung bắt cóc trẫm vậy. Thế thì trẫm cũng nên chắp tay dâng cái giang sơn này cho rồi, trốn trong Tử Cấm Thành còn an toàn sao?

Dương Lăng cười khổ sở đáp:

- Muốn Hoàng thượng xuất kinh, tự dấn thân nơi biên ải, thị sát dân tình, kết giao với nước chư hầu, làm một thánh quân lưu danh thiên cổ, vốn là tâm nguyện của thần. Nhưng mà Hoàng thượng lại can hệ đến cả thiên hạ, thần thực sự chưa nguôi hết nỗi lo.

Chính Đức cười hí hửng:

- Chưa nguôi hết nỗi lo thì sẽ từ từ mà nguôi, kinh thành này trẫm vẫn sẽ phải rời khỏi. Trẫm dẫn theo ba trăm thị vệ đại nội, cộng thêm mấy nghìn quân thiết giáp của khanh, thực muốn xem thử còn ai có thể đả thương trẫm.

Nói đoạn hắn sực nhớ ra một chuyện, bèn hớn hở kể:

- Đúng rồi! Dương khanh quả nhiên có nhãn quan độc đáo. Mấy ngày trước có đám ngôn quan dâng sớ chỉ trích Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân uổng công ôm mười vạn quân nhưng lại đóng thành không ra, mặc cho giặc Thát hung hăng càn quấy ngoài thành. Ái khanh lại nói bọn họ làm vậy ắt có mưu đồ, cho nên trẫm nghe xong mới không hạ chỉ giục bọn họ xuất binh, chỉ chuyển tấu chương hặc tội đến cho Dương Nhất Thanh, bảo gã dâng sớ biện bác.

Hôm qua tấu chương của Dương Nhất Thanh đã được đưa vào trong kinh, bọn họ quả nhiên có mưu kế khác. Ha ha, hai người này khẩu vị không nhỏ đâu à! - Chính Đức vừa nói vừa lục lọi trên chiếc bàn chân thấp trên giường một hồi, không tìm thấy bản tấu chương bèn kể tiếp - Xưa nay giặc Thát xuất binh, luôn lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, không mang theo cấp dưỡng, và thực sự là bọn chúng cũng không có cấp dưỡng để mang theo. Cho nên khi đánh luôn phải nhanh như mưa sa gió táp, phải một kích tất trúng. Mục đích không đạt được liền chuyển sang công kích nơi khác, không thể dừng lại ở một nơi quá lâu.

Lúc đầu bọn chúng công thành chiếm đất, cướp được một số lượng lớn tiền bạc và lương thực. Dương Nhất Thanh lại không cho bọn chúng có cơ hội rút lui, cứ kẹp chặt lấy bọn chúng, níu chân bọn chúng ở vùng lân cận Đại Đồng. Hơn bảy vạn đại quân giặc Thát, phải nuôi cả ngựa lẫn người, nay những thức bọn chúng cướp được đều đã hết sạch.

Năm nay bọn chúng xuất binh cướp bóc, chẳng những không thể lấy được gì về cấp dưỡng cho bộ tộc mình mà lúc xuất binh còn dùng hết lương thực dự trữ, sau khi trở về e rằng sẽ phải giết bò ngựa mới có thể qua khỏi mùa đông, ắt sẽ đại thương nguyên khí. Tên Dương Nhất Thanh này đánh giặc không chỉ lo nghĩ trước mắt, mà tầm mắt lại còn trông xa đến vậy, quả nhiên là một tướng tài.

Hai ngày trước Vương Thủ Nhân đóng quân giữ ải, sau một ngày khổ chiến đã quăng mũ cởi giáp, vờ đại bại mà chuồn, bỏ lại lương thảo cho giặc Thát. Những tên lính đói đó vội vã chôn nồi nấu cơm. Ăn xong bữa đó, lính trúng độc mà chết đã có hơn năm nghìn, ngay cả chiến mã ăn phải cỏ độc cũng chết quá nửa, đó đều là tinh nhuệ của Bá Nhan đó à. Ha ha, không phí một binh một tốt mà có thể khuất nhục được địch quân, đánh trận như vậy trẫm mới thích!

Chậc! Có điều không biết Bá Nhan Mãnh Khả nghe báo xong có thổ huyết không nữa, chốc nữa hãy kêu người của khanh thám thính thử xem sao.

Chính Đức mỉm cười vỗ vai Dương Lăng, hết sức hài lòng.

Dương Lăng nghe xong cũng vui sướng vô cùng, bèn tâu:

- Công lớn như vậy, Hoàng thượng nên thưởng lớn mới được. Trên chiến trường, làm tướng dụng binh thực không dễ, có Hoàng thượng ban thưởng, nhuệ khí sẽ được nâng cao, một lính có thể chọi hai quân đấy.

- A! Chính Đức vỗ vỗ trán, - Vốn trẫm cũng định ban thưởng, nhưng Lưu Cẩn nói mới chỉ là tin thắng trận mở màn, nếu như thưởng to, e rằng binh tướng sẽ sinh ra kiêu ngạo, cho nên trẫm đã gác lại. Việc này... hiện tại ban thưởng có sao không?

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì ngẩn người. Y đã lường trước Lưu Cẩn nhất định cực kỳ bất mãn với hai người Dương Nhất Thanh, tuy kết quả dụng binh của hai người này có liên quan trực tiếp đến niềm vui nỗi buồn của lão cho nên lão phải dốc sức làm tốt công việc hậu cần, song lão sẽ không mong thấy hai người bọn họ được khen thưởng.

Dương Lăng không trả lời ngay, mà lại cười, nhớm hỏi:

- Có công thì thưởng, có tội thì phạt, lúc nào ban ơn, khi nào nghiêm luật, Hoàng thượng nhất định đã có dự tính sẵn trong lòng. Nếu như Hoàng thượng là tướng lĩnh dẫn binh, sẽ hy vọng thế nào?

Chính Đức không hề nghĩ ngợi gì, hùng hồn đáp ngay:

- Trẫm ư? Trẫm đã lập được đại công thì đương nhiên muốn được thưởng, muốn thăng quan, muốn tiến chức, muốn cưỡi ngựa diễu hành, được nở mày nở mặt mà, bằng không ai còn bán mạng cho khanh chứ? Trẫm hài lòng thì lính của trẫm cũng không... ồ...

Hắn chợt ngậm miệng, liếc xéo Dương Lăng, cười tủm tỉm, đấm ngực y một cách thân thiết, rồi cười lớn bảo:

- Nói chuyện vòng vo! Dương thị độc cũng gạt cả trẫm vào tròng rồi.

Chính Đức suy nghĩ một hồi rồi nói:

- Vậy tức là thưởng. Tết rồi, tướng sĩ ở tiền phương phục tùng mệnh lệnh, không vì chuyện này thì vẫn phải thưởng. Chốc nữa trẫm sẽ bảo Lý Đông Dương và Tiêu Phương thu xếp là được. Đúng rồi, tấu chương liên danh của Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân còn đề cập đến việc khi giặc Thát đại thương nguyên khí, bọn chúng lấy du mục làm chủ, không quen trồng trọt, mùa đông năm nay dê bò tiêu hao quá nhiều, e rằng sang xuân cũng sẽ thay đổi thói quen trước kia, sẽ không ngừng tập kích biên giới. Bọn họ kiến nghị với trẫm là vẫn cho phép đóng trọng binh ở biên tái. Nếu như Thát Đát tập kích biên giới mà không được gì, chắc hẳn bọn chúng sẽ quay sang Đoá Nhan Tam Vệ gây áp lực đòi lấy tài vật, cho nên đề nghị trẫm ban ơn lôi kéo Đoá Nhan Tam Vệ, không ngờ lại khéo hợp với đề nghị của khanh.

Dương Lăng đăm chiêu đáp:

- Ừm! Bọn họ ở tiền phương, đương nhiên sẽ thấy được rõ, nghĩ được xa, năm sau Thát Đát tập kích biên giới, chính hợp với ý thần. Đúng lúc Hoàng thượng đổi chỗ Kinh doanh và biên quân để bọn họ luân phiên ra chiến trường rèn luyện một phen, nhân dịp này mượn tay Thát Đát huấn luyện quân Đại Minh của chúng ta.

Về phần Đoá Nhan Tam Vệ, chuyện này vốn đã được dự tính trước, đây cũng là một cơ hội tốt để bức bọn chúng quy thuận triều đình. Có điều bọn chúng chỉ biết theo đuổi cái lợi, không giữ vững lập trường, đục nước béo cò, trước đây khi còn giao hảo vẫn thỉnh thoảng tập kích cướp bóc biên cảnh, chưa hề thực sự ngoan ngoãn quy thuận. Kết minh chẳng qua chỉ là cái kế tạm thời, mảnh đất rộng lớn Liêu Đông sớm muộn gì sẽ phải nằm trong tay triều đình mới được, cho nên không thể vì vậy mà áp chế bọn chúng.

Muốn nhận trước hết phải cho. Bọn chúng có ngựa, chúng ta có lương thực, dầu, muối, vải vóc, tơ lụa, lợi ích chẳng những không thua kém, mà còn có thể cho bọn chúng nhiều hơn, tăng thêm tỉ suất trao đổi chiến mã và lương thực dầu mỡ, khiến chúng càng lúc càng giàu, càng sẽ không để ý đến Thát Đát nữa. Thát Đát cũng sẽ càng lúc càng đỏ mắt vì ghen tị, khi đó sẽ chính là cơ hội của triều đình.

Dường như Chính Đức bẩm sinh rất hứng thú với những thủ đoạn lừa bịp của phường cường đạo, không hề có chút giác ngộ nào của bậc đế vương thiên triều, nghe xong kế sách "hèn hạ thâm độc" của Dương Lăng thì hắn không khỏi gật đầu lia lịa, luôn mồm khen phải.

Đã sát cuối năm, chuyện vì một đại đạo mà binh giáp khắp thành đã tổn hại đến năng lực và uy tín trong việc khống chế thiên hạ của triều đình, nếu không phải việc cực chẳng đã, thực sự triều đình chẳng cần phải căng thẳng như vậy. Hồng Nương Tử đã thoát khỏi kinh sư, Lý Đông Dương liền xin Chính Đức thánh chỉ rút quan binh Kinh doanh về, kinh sư dường như đã khôi phục lại cục diện yên tĩnh phồn vinh trước đây.

Bộ Hình lập tức công khai phát công văn đến các phủ và các đạo, ra lệnh truy bắt đại đạo Dương Hổ và Hồng Nương Tử.

Mùa đông mà dụng binh với sơn tặc là việc lợi bất cập hại, thế nhưng hành động của vợ chồng Dương Hổ đã làm mất thể diện của triều đình. Dưới tình hình đó Lưu Đại Hạ cũng không dám làm trái thánh chỉ, lão đành phải âm thầm căn dặn tướng lĩnh dẫn binh vừa đấm vừa xoa, vây bắt thay vì tấn công, không được tùy tiện xông vào núi một cách ồ ạt.

Trên thi thể được phát hiện phía sau đạo quán trong con hẻm đổ nát phía thành bắc, quan viên khảo sát hiện trường của bộ Hình đã phát hiện tín vật của Di Lặc giáo, chứng thực nhận định của Dương Lăng. Vốn hai xưởng một vệ tưởng rằng Di Lặc giáo đã tan thành mây khói, lúc này mới biết bọn họ đã quật khởi, không khỏi bèn tăng cường việc lùng bắt.

Đã sắp đến Tết. Trước Tết ba ngày ấy là lúc triều đình được 'nghỉ phép', vua không phải xử lí chính sự, một ít quan viên vùng khác cũng xin nghỉ trở về quê ăn Tết. Ngày này khắp chốn ăn mừng, ngay cả kinh sư cũng cho phép ăn xin kiếm cơm trong thành; lệnh giới nghiêm ban đêm được dỡ bỏ, đám quan sai của Ngũ thành binh mã ty cũng bớt hống hách, không tùy tiện vụt roi người đi đường phạm lỗi nữa.

Trận tuyết lớn hai ngày trước đã làm đổ nhà một số hộ dân ở thành bắc và thành tây. Bộ Hộ phái dịch phu tu sửa hoặc tài trợ ít tiền tài. Đây là thông lệ của triều đình, quan phủ các nơi cũng đều như vậy, không ai dám làm trái.

Những người phụ nữ mà ngày thường không bước chân ra khỏi nhà nay cũng có thể ra ngoài dạo chơi, đi chùa thắp hương, ra chợ mua ít son phấn, bột nước, tranh Tết cầu may lẫn những thứ mà bọn họ ưa thích.

Trở về đến phủ, Dương Lăng vẫn không dám để lộ chuyện bị bắt cóc. Thấy đám phụ nữ trong nhà hớn hở muốn ra ngoài dạo phố, y không nỡ cắt sự hào hứng của bọn họ trong ngày Tết nên đành âm thầm phái người Nội xưởng đi theo làm tùy tùng kiêm bảo vệ. Lần này y không dám lơ là, bốn mươi viên phiên tử vận thường phục được chọn đi theo ba vị phu nhân cùng với Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận đều là những kẻ biết công phu giang hồ, trong người đều nhét nỏ mạnh và hỏa súng ngắn.

Quan viên ở lại trong kinh đều phải tham gia đại lễ tại triều đình, ngoài ra, là người đứng đầu một nhà, bọn họ còn phải chủ trì thu xếp đón ngày Tết cho toàn gia đình, nên ai nấy bận rộn không thôi. Dương Lăng càng bận bịu hơn, bận đến nỗi thậm chí không có thời gian dạo phố cùng ba vị phu nhân. Cả ngày y bôn ba giữa ba xưởng, một vệ và mười hai đoàn doanh, chỉnh đốn quân ngũ, kiểm tra gia thế để tinh lọc, tuyển trạch tinh nhuệ, dùng Nội xưởng làm chủ lực nhằm tuyển chọn tinh binh theo tùy tùng Hoàng đế đến phương bắc. Đương nhiên những việc này đều được tiến hành một cách bí mật, rất ít người biết được mục đích thật sự của y.

Dương Lăng thân vận giáp mềm, khi ra vào thành cũng được bảo vệ canh gác, chận đường nghiêm ngặt. Vốn xuất thân danh môn nên Ngũ Hán Siêu vẫn coi thường việc sử dụng ám khí, song từ dạo ăn phải trái đắng, lúc này ngoài thanh lợi kiếm tùy thân hắn còn kè kè thêm hai bọc phi tiêu Kim Tiền, theo Dương Lăng như hình với bóng, một tấc không rời. Chung quanh y còn có mười hai viên phiên tử bảo hộ công khai và ngần ấy người âm thầm bảo vệ, có thể nói là gió mưa không lọt.

Thị vệ cận thân của Hoàng đế đã có cao thủ đại nội, còn những tinh binh do Dương Lăng tuyển chọn đều là những tráng sĩ trăm người chọn một, kiêu dũng hơn người. Đội ngũ gồm năm nghìn người tinh nhuệ như thế này đủ khiến bất kỳ một đội quân nào cũng phải ghen tị.

Năm trăm nữ kiếm sĩ hộ vệ tùy thân, hai nghìn nội giám quân túc trực luân phiên, cộng thêm dũng sĩ và quan quân hộ giá, thị vệ đại nội, lại còn có một số sư thái là đệ tử thân truyền của sư thái Thủy Vân của am Thủy Vân, đạo sĩ phái Long Hổ Sơn do Bỉnh Nhất chân nhân Đào Trọng Văn tiến cử, một số đạo sĩ của Toàn Chân Long Môn phái, đạo sĩ tu chân ở các miếu Võ Đang được hoàng gia sắc kiến, võ tăng ở các chùa chiền Thiếu Lâm được hoàng gia sắc kiến, cao tăng Ngũ Đài Sơn ở Sơn Tây; một đám người đang sẵn sàng đứng trước xa giá chờ nghe hiệu lệnh, thật là quyền thế ngút trời.

Tuyển chọn quân dũng sĩ tinh nhuệ xong, vẫn cần bọn họ làm quen với nhau, phối hợp ăn ý. Dương Lăng thu xếp cho năm nghìn tinh binh này ở trong Thần Cơ doanh, mời Ngũ quân đô đốc phủ và đại nội luân phiên phái người huấn luyện cho bọn họ phép đánh trận và phối hợp chiến đấu. Hôm nay y mới vừa từ trong Thầnh Cơ doanh chạy về, còn phải trở lên Nội xưởng xem thử hành trình xuất kinh cụ thể mà đám người Ngô Kiệt đã chuẩn bị cho Hoàng đế.

Ngựa chạy đến cổng thành, trong dòng người đông nghìn nghịt Dương Lăng chợt nhìn thấy mấy bóng hình quen thuộc. Y chăm chú nhìn, thấy là các cô Hàn Ấu Nương, Tô Tam và Tuyết Lý Mai đang kiễng chân sờ cái ụ đồng trên bề mặt cổng thành, đứng sau lưng là hai người Cao Văn Tâm và Thành Khởi Vận. Nghiêng đầu mỉm cười, hai má ửng hồng, các cô gái ấy xinh đẹp muôn phần, dân chúng đi qua đều trao cho bọn họ những nụ cười đầy thiện cảm.

Quan binh chặn gác cổng thành vẫn còn rất đông, cộng thêm hiện đang là lúc Bá Châu quét cướp, Đại Đồng chống giặc, thế nên thường có quan binh cưỡi ngựa lui tới báo tin. Cách cổng thành không xa là hai đội múa lân múa rồng trống chiên inh ỏi. Đám người Dương Lăng đi từ ngoài thành vào, vẫn chưa thu hút sự chú ý của các cô, có điều Liễu Bưu đứng cạnh mấy vị phu nhân luôn để ý đến động tĩnh chung quanh đã trông thấy y tới. Hắn vội ghé tai nói nhỏ với một người cải trang làm bá tánh thường dân mấy câu, sau đó vòng qua bọn họ tiến về phía y.

Dương Lăng ngồi trên ngựa khom người xuống hỏi:

- Các vị phu nhân đang làm gì vậy?

Liễu Bưu không nhịn được cười đáp:

- Đại nhân! Thuộc hạ đi theo phu nhân vào miếu dâng hương rôi đi dạo phố chợ, thuộc hạ có nhắc đến chuyện mười sáu tháng giêng nữ giới nên leo lên đầu thành, lên tường thành xua tan bệnh tật, chị em bạn dâu qua cầu nhỏ để vượt tai ương, rờ ụ đồng thì sẽ sinh con, còn là con trai nữa. Khụ khụ... mấy vị phu nhân liền đến... liền đến rờ ụ đồng. Thuộc hạ có nói rằng mười sáu tháng giêng mới linh, song Tuyết phu nhân lại nói... đã sẵn dịp ra ngoài, rờ thêm một lần cũng tốt vậy.

Dương Lăng nghe xong thì lắc đầu cười khổ. Y thấy mấy vị phu nhân đang cao hứng như vậy mà lúc này mới là chính ngọ, nếu mình đi ngang qua, bọn họ trông thấy nhất định sẽ theo mình trở về. Hiếm khi bọn họ có dịp ra ngoài như thế nên Dương Lăng không muốn làm bọn họ mất hứng. Y đang do dự không biết có nên tránh đi hay không, bỗng nhiên một hàng người ngựa dừng lại bên cạnh. Một người đàn ông vạm vỡ tuổi trạc tứ tuần, vận áo bào ống rộng, ngồi thẳng trên lưng ngựa, ghìm cương cười hỏi:

- Đằng trước có phải là Dương đại nhân không?

Dương Lăng ngẩng đầu, thấy người đó ria mép đen như mực, áo gấm đai ngọc, thẳng lưng trên ngựa, khí khái hào hùng, hai bên có mấy gia tướng đi theo; cưỡi ngựa bên cạnh là một vị tuổi trạc ngũ tuần, toàn thân vận nho phục cổ tròn, dáng cười toe toét.

Dương Lăng suy nghĩ một lúc mới nhớ ra người này là con trai của Vũ Định hầu Quách Lương, tên là Quách Huân. Tuy vẫn chưa kế thừa tước vị, song vì thân phụ tuổi đã cao, không tiện đi lại, mọi việc đối đáp xã giao đều giao cho ông ta ra mặt, cho nên ông nghiễm nhiên mang thân phận huân khanh. Nhà họ Quách và hoàng thất đã kết thân ba đời, hiện Quách Huân là Chánh đề đốc của Tam Thiên doanh, hai ngày trước Dương Lăng đã từng gặp qua.

Dương Lăng rẽ ngựa sang, chắp tay chào:

- Hóa ra là Quách tướng quân, thất lễ thất lễ! Tướng quân đang muốn ra ngoài thành ư?

Quách Huân cười đáp:

- Hôm nay ba mươi tháng chạp, là ngày phong ấn, nha môn không phải mở cửa làm việc. Vị bạn tốt này của bản tướng lại phải vội vã rời kinh đi nhậm chức, vì vậy ta tiễn y ra ngoài thành.

Dương Lăng thấy Quách Huân trỏ vào người đàn ông tuổi ngũ tuần trông nho nhã và thân thiện bên cạnh, nghe nói ông ta đi nhậm chức quan, lại là bạn thân của Quách Huân nên hẳn không phải là một chức quan nhỏ, bèn vội chắp tay chào:

- Hân hạnh hân hạnh! Vị đại nhân này thực lạ mặt, đã sắp đến Tết rồi, sao không ở lại kinh ăn Tết rồi hẵng đi nhậm chức vậy?

Quách Huân cười nói:

- Không phải đâu! Đại nhân tưởng vị hảo hữu hào hoa phong nhã này của bản tướng là quan văn ư? Vị này họ Trương tên Dần. Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ gặp cơn bạo bệnh mới qua đời, vị hảo hữu này của bản tướng nhận lệnh kế nhiệm vận chuyển vũ khí trang bị và lương thảo từ các nơi đến Đại Đồng. Y đã đến Thái Nguyên nhiều lần, trọng trách nặng vai, cho nên không thể không đi ngay.

Chú thích:

trỏ quan lại truy nã tội phạm

loại đao lưỡi hẹp của Cẩm Y Vệ, xem hình trang phục Cẩm Y Vệ (http://www.forex.com.cn/upload/2010-...4073125912.jpg)

nguyên văn "hưu mộc"', nghĩa là "nghỉ để tắm gội". Lệ xưa làm quan cứ mười ngày được nghỉ một lần để tắm gội, cho nên sau này ngày lễ nghỉ được gọi là 'hưu mộc nhật'

"sắc" nghĩa chiếu thư của vua; "kiến" nghĩa xây dựng, trỏ công trình dựng nên theo chiếu mệnh vua ban

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 184: Mồng sáu lên đường

Thái Nguyên và Đại Đồng nương tựa lẫn nhau, tạo thành thế ỷ giốc. Giặc Thát nhiều lần tấn công biên ải, đa phần đều tấn kích trước vào Tuyên Phủ Đại Đồng. Thái Nguyên tựa vào đất liền, không phải là mục tiêu công kích chính nên binh mã Thái Nguyên đã trở thành một cánh quân quan trọng để kiềm chế Thát Đát. Mỗi khi Đại Đồng gặp phải hiểm nguy triều đình đều điều động binh mã từ Thái Nguyên đến cứu viện.

Trước khi đại quân của Dương Nhất Thanh tiến đến Đại Đồng, do tình thế biên quan nguy cấp nên Chỉ huy sứ của vệ Thái Nguyên đã dẫn đại quân gấp rút chi viện. Trên chiến trường ông bị trúng phải tên lạc, bệnh tình vốn không quá nghiêm trọng, nhưng không ngờ sau khi trở về Thái Nguyên, vết thương lại đột nhiên diễn biến xấu, thế là ô hô thương thay. Không ngờ Chỉ huy sứ tân nhiệm của vệ Thái Nguyên lại chính là vị Trương đại nhân Trương Dần này.

Nhà họ Quách rất có ảnh hưởng trong quân đội, xem ra vị Trương Dần này hẳn là thân tín do Quách Huân đề bạt. Dương Lăng bèn vội chắp tay chào ông ta:

- Ngưỡng mộ đã lâu, ngưỡng mộ đã lâu! Đêm giao thừa mà Trương đại nhân vẫn phải bôn ba trên đường, thực sự là cực khổ cho ngài rồi.

Trương Dần ôm quyền thi lễ, mỉm cười đáp:

- Hoá ra là Dương đại nhân ở ngay trước mặt. Hạ quan nghe uy danh của đại nhân đã lâu, như sấm bên tai, hôm nay được gặp thật là may mắn ba đời. Thân đã gửi vào nơi binh nghiệp, vốn chính là nuôi quân nghìn ngày, dùng quân một chốc, lúc này cực khổ cũng là lẽ đương nhiên thôi.

Lão ta vừa nói vừa quét mắt sang những người bên cạnh Dương Lăng, lúc thấy Ngũ Hán Siêu ánh mắt lão dừng lâu hơn một chút, rồi lại dời mắt về phía Dương Lăng như thể không có việc gì. Dương Lăng thấy lão nhã nhặn nho nhã, hai mắt có thần, nói chuyện đúng chừng đúng mực, cũng bất giác nảy sinh hảo cảm.

Đôi bên trò chuyện mấy câu, thấy người đứng ở cổng thành càng lúc càng đông, đã hơi bị ùn tắc, Quách Huân bèn khẽ chau mày nói với Dương Lăng:

- Không quấy rầy Dương đại nhân nữa. Trương huynh nóng lòng nhậm chức lo liệu chính sự, xin phép cáo từ tại đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Được! Có dịp chúng ta sẽ lại trò chuyện, cung tiễn Quách tướng quân, Trương đại nhân!

Trương Dần mỉm cười gật đầu, cất giọng sang sảng:

- Dương đại nhân, hạ quan cáo từ!

Dương Lăng dõi mắt tiễn bọn họ phóng ngựa rời khỏi kinh thành. Lúc quay lại, y mới thấy mấy người Hàn Ấu Nương và Tô Tam đang đứng ở một bên tươi cười ríu rít. Thấy y quay đầu lại, Hàn Ấu Nương đi đến hớn hở khoe:

- Tướng công! Hôm nay là ngày ba mươi rồi, thiếp và mấy tỷ muội đang nói không biết khi nào tướng công mới trở về đây, không ngờ chàng lại về sớm như vậy rồi.

Dương Lăng trở người nhảy xuống ngựa đi đến chỗ bọn họ, đưa mắt nhìn các cô Tô Tam rồi mỉm cười hỏi:

- Không phải các nàng đi miếu dâng hương sao? Chạy đến cổng thành để làm gì?

Hàn Ấu Nương thoáng đỏ mặt, Tô Tam và Tuyết Lý Mai cũng có phần ngượng nghịu còn Cao Văn Tâm đứng ở phía sau che miệng cười khẽ. Dương Lăng cũng không nỡ vạch trần, bèn cười nói:

- Đã gặp rồi thì cùng nhau trở về thôi.

Kiệu của các cô dừng lại bên đường cho mấy vị cô nương lên kiệu. Dương Lăng cưỡi ngựa chậm rãi theo cạnh, vừa nhìn không khí đón tết tưng bừng trong kinh sư, vừa cách rèm trò chuyện cùng Hàn Ấu Nương. Lúc gần đến rìa thành tây, mọi người trông thấy bên đường có một đám đông đang túm tụm, người của Binh mã ty cũng đã kéo đến.

Sau việc Xưởng đốc bị bắt cóc lần trước, chỉ cần có chút biến động nhỏ là đám phiên tử dưới quyền của Dương Lăng ai nấy liền như lâm phải đại địch, mấy chục người trong tối ngoài sáng liền lập tức bảo hộ kiệu và ngựa, cách ly toàn bộ bá tánh, lặng lẽ thò tay vào ngực, nắm chặt lấy nỏ cứng và súng ngắn.

Ngũ Hán Siêu cũng không để ý đến chốn om sòm ở đằng trước. Hắn vừa ghìm ngựa đến gần Dương Lăng, vừa liếc nhanh quan sát chung quanh, để ý đến bá tánh bên đường. Dương Lăng hơi nhổm người, ngó vào trong đám đông, vừa nhìn thấy người đứng giữa, y không khỏi khẽ chau mày. Vẫy tay gọi Liễu Bưu lại, y thấp giọng bảo:

- Đi xem thử đã xảy ra chuyện gì!

Liễu Bưu hiểu ý, buông cương nhảy xuống ngựa, chen vào trong đám đông đang xem chuyện náo nhiệt. Hắn thấy ông chủ một tiệm may vừa lôi kéo một gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần vừa rống họng tru tréo với tuần bộ của Binh mã ty:

- Hồ tứ gia đến thực tốt quá, kẻ này thực không biết lý lẽ gì cả. Hôm trước hắn đến, bỏ một lạng bạc ra đặt cọc, nói rõ là muốn thảo dân may một bộ áo bào Cô nhung hảo hạng. Hôm nay đến thử thấy vừa vặn, hắn lại chối bay bảo là ban đầu nói chỉ mua đồ nhung hạ phẩm. Thảo dân đưa ký ước ra cũng bị hắn xé vụn, nói là thảo dân vu cáo hắn.

Lão đây tự nhận xui xẻo, vốn định nhân nhượng cho khỏi phiền, hắn lại nói ngày mai là năm mới, thảo dân đã may nhầm áo bào của hắn, phải lấy áo nhung này ra để bồi thường. Lão đây mở tiệm ba mươi năm, xưa nay mua bán công bằng, chưa từng khinh già gạt trẻ, láng giềng phố phường đều có thể làm chứng, đã từng gạt người bao giờ? Kẻ này thật quá ư ngang ngược đi!

Đứng cạnh gã đàn ông tuổi trạc tứ tuần đó là một thư sinh tuổi trạc độ hai mươi, đang đỏ mặt níu áo hắn. Gã đàn ông trung niên gạt tay hắn vùng ra, thấy quan binh chẳng những không sợ mà ngược lại còn nghênh ngang tự đắc. Gã liếc xéo tay thủ lĩnh Tuần bộ rồi cười nhạt:

- Ngươi không lừa gạt? Ngươi không lừa gạt chẳng lẽ đại gia ta lại lừa gạt sao? Buông tay!

Đoạn gã hừ một tiếng, vùng khỏi tay thợ may già, phủi phủi vạt áo, thong thả nói tiếp:

- Ngươi có biết ta là ai không? Đại gia ta là đường huynh của Đề đốc nội xưởng, thống lĩnh ngự tiền thân quân của hoàng thượng, Uy Vũ bá gia Dương Lăng!

Người thợ may già nghe xong thì sợ run cầm cập. Tay thủ lĩnh Tuần bộ được gọi là Hồ tứ gia nọ cũng không khỏi biến sắc, bốn bề im phăng phắc. Gã ta vẫn ung dung nói tiếp:

- Là đường huynh! Hồ tuần bộ, người nói đại gia ta có giống phường lừa bịp không?

Nói đoạn, gã vênh mặt nhướng mắt. Không ngờ làm vậy, vừa khéo khiến gã trông thấy bên ngoài đám đông, Dương Lăng được vây quanh bởi mấy thớt ngựa to lớn, đang sầm mặt nhìn gã. Cả người gã không khỏi run lên, vẻ mặt lập tức trở nên lo lắng.

Hồ tuần bộ khổ sở gật đầu khom người đáp:

- Không giống không giống! Đại gia ngài dáng vẻ đường đường, quả là huynh trưởng của Dương bá gia Dương đại nhân rồi, nào sẽ lại ức hiếp ông chủ tiệm may nho nhỏ như lão ấy chứ. Hề hề, hề hề.

Cười nịnh bợ xong, hắn liền thẳng lưng quát lão thợ may:

- Lão Bùi à, rõ ràng là lão già rồi lẩm cẩm, nghe lầm lời căn dặn rồi. Dương đại gia là người có danh phận, lẽ nào lại so đo tính toán với một thợ may nho nhỏ như lão chứ? Đã có lỗi với đại gia, ông tự nói nên làm sao đây?

Người thợ may già ấp úng:

- Vậy... vậy..., lão đây đưa bộ áo bào này cho đại gia xem như là nhận lỗi vậy!

Nói xong câu này, lão cảm thấy rất đau lòng, nhưng mà xưởng vệ thực sự không thể trêu vào.

Thường có câu "bắc có Cô nhung, nam có Nữ cát", nhung quý Lan Châu cực phẩm chỉ có thể thấy trong cống phẩm hoàng cung. Chiếc áo khoác lụa vàng lót Cô nhung màu mận tía mà Dương Lăng đang khoác chính là mới được hoàng đế Chính Đức ban thưởng hai ngày trước, trị giá trăm lạng bạc ròng.

Cô nhung của lão thợ may tuy không phải là cống phẩm, nhưng cũng trị giá gần mười lạng bạc ròng, là thứ mà gia đình giàu có thường mặc cả mấy mươi năm, thậm chí truyền xuống đời con đời cháu. Đem thí bộ áo bào này rồi, coi như lão làm không công mấy tháng.

Dương Tuyền nhìn Dương Lăng lom lom, miệng môi trắng bệch, nào còn dám nhận lấy chiếc áo bào Cô nhung đó chứ. Liễu Bưu quay đầu nhìn Dương Lăng, y nén giận, gật đầu tỏ ý, Liễu Bưu bèn gật đầu, xoay người chen vào trong đám đông. Hắn lấy từ trong tay áo một thỏi bạc nặng, nhét vào trong tay người thợ may già, mỉm cười nói:

- Sao Dương phủ có thể tiếm lợi ích của ông được? Tam gia vốn định may một bộ thường phục mặc thường ngày, cũng không lo bị dơ hoặc sờn. Nếu bộ áo này đã dùng vải tốt, vậy chúng ta nhất định sẽ mua. Thỏi bạc này đủ mười lạng, cộng với một lạng đặt cọc trước, hẳn là đã đủ chứ?

Lão thợ may họ Bùi mừng khôn kể xiết, liền gật đầu cảm ơn rối rít:

- Đủ rồi đủ rồi! Khấu trừ tiền vải và tiền công, còn phải trả lại cho ngài năm phân bạc nữa.

Liễu Bưu cười hà hà:

- Không cần đâu, làm lễ tế trời không thể sơ sài, coi như tam gia nhà ta thưởng cho ngươi đó.

Nói đoạn, hắn cầm lấy bộ áo bào rồi nói với Dương Tuyền:

- Tam gia, chúng ta về phủ thôi.

Dương Tuyền giật mình, vội "à, ờ" mấy tiếng rồi ngoan ngoãn bước theo hắn ra khỏi đám đông. Dương Lăng mặt nặng như chì, hờ hững nhìn gã rồi giật cương ngựa đi trước. mặt Dương Tuyền trờ thành tím ngắt. Liễu Bưu làm việc hết sức khéo léo, tuy biết Dương Lăng rất giận, song suy cho cùng chú cháu Dương Tuyền là người nhà họ Dương, có xa cách mấy vẫn gần hơn hắn rất nhiều. Hắn biết hai người không thể cưỡi ngựa, bèn vội gọi một viên phiên tử lại thuê kiệu ngựa đưa hai người về.

Thành Khởi Vận vén rèm kiệu, trông thấy hết mọi chuyện, đôi mắt đen láy của nàng đảo một vòng, ra vẻ đăm chiêu.

Về đến phủ, Dương Lăng hầm hầm bước vào trong trung đường, cởi áo khoác ra. Hàn Ấu Nương biết hiện tại tâm tình y không tốt nên bèn ngoan ngoãn cầm lấy áo, trộm nháy mắt với mấy vị tỷ muội, mọi người lặng lẽ trở về nhà sau.

Dương Lăng chỉ vận áo cổ bó ống tay hẹp màu xanh thẫm, mới vừa vào thư phòng trong trung đường ngồi, Dương Tuyền và Dương Vân Long đã lo lắng bước theo vào. Dương Tuyền ngượng ngập mở miệng:

- Lăng đệ...

Dương Vân Long cũng sợ sệt gọi:

- Lão thúc!

Trong nhà dán đầy câu đối cùng chữ Phúc lẫn tranh tết, tràn ngập một không khí hân hoan. Khắp nơi trong thôn thi thoảng lại có tiếng pháo rộn ràng. Hôm nay đã là ba mươi tết...

Nhớ đến điều đó, Dương Lăng chỉ thở dài, đứng dậy bảo:

- Nếu như thường ngày không đủ chi dùng, tam ca cứ nói với Ấu Nương một tiếng là được. Làm sao nhà chúng ta lại có thể làm những chuyện khiến người ta đàm tiếu sau lưng như vậy chứ?

Dương Tuyền vừa xấu hổ vừa bực tức nhưng lại không dám phát tác, chỉ biết vâng vâng dạ dạ. Dương Lăng liếc qua Dương Vân Long nói:

- Đã sắp sang năm mới, ta đã báo cho bộ Lại, qua ngày mười lăm sẽ thu xếp cho Vân Long một công việc. Ngươi biết viết biết tính, đừng chỉ dựa vào cái danh hiệu nhà họ Dương, hãy dựa vào bản lĩnh của mình mà làm cho tốt, đừng có được voi đòi tiên.

Dương Vân Long mừng rỡ cảm ơn:

- Đa tạ lão thúc! Chỉ cần có công việc ở trong kinh là được, Vân Long nhất định sẽ không gây thêm phiền phức cho thúc đâu.

Dương Lăng ừ một tiếng, rồi ngó sang Dương Tuyền bảo:

- Cho dù làm một tiểu tốt ở nha môn trong kinh cũng không phải là dễ. Tam ca... ờm... chốc nữa đệ sẽ giúp huynh tìm một vị trí ổn thỏa.

Dương Tuyền hơi thất vọng nhưng không dám biểu hiện ra mặt, chỉ đành vâng dạ; thấy Dương Lăng không muốn nói thêm gì với gã nữa, bèn cáo từ lui ra.

Ngồi trên ghế dựa, Dương Lăng day ấn đường nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc. Dương Tuyền văn dốt võ dát, phẩm hạnh tồi tệ, thực sự y không muốn dây dưa với gã. Nhưng mà quan hệ họ hàng thân thuộc như một cái lưới vô hình khổng lồ bao trùm lấy y, loại áp lực ngầm ấy khiến con người ta không thể nào phản kháng. Sóng to gió lớn cỡ nào y cũng đã đều trải qua, thế nhưng y lại không biết nên làm thế nào cho phải với cái tên tiểu nhân vật bé tí như con kiến này.

Ban đầu y còn định thu xếp cho gã công việc cai ngục trong đại lao bộ Hình, song xem ra cũng không thể sử dụng tên này được. Dương Lăng thở dài, tạm thời không nghĩ đến gã nữa, y lại cân nhắc kỹ lưỡng việc thu xếp để năm sau hoàng đế xuất kinh một lượt, rồi mới đứng dậy đi về phía nhà sau.

Trên khuôn mặt Thành Khởi Vận đọng một nụ cười ngọt ngào, nàng vừa mới chào hỏi ba vị phu nhân và Cao Văn Tâm xong. Vừa rẽ vào trong thư phòng, nụ cười trên gương mặt lập tức tan biến, nàng uể oải thỏng vai, rì rì bước vào chỗ ở của mình.

Đám người Hàn Ấu Nương đều là con gái tuổi còn khá trẻ, tinh lực dồi dào, trò chuyện cũng ăn ý. Nàng lớn hơn bọn họ cả chục tuổi, kinh nghiệm và tuổi tác khiến nàng khó lòng cảm thấy hứng thú với những đề tài mà bốn người con gái nọ nói chuyện say sưa. Buổi sáng đi dạo trong thành, đám người Hàn Ấu Nương vẫn tràn trề tinh lực, trong khi sự nhạt nhẽo và vô vị lại khiến nàng cảm thấy cả người rã rời.

Thành Khởi Vận sợ lạnh, cho nên Dương Lăng đặc biệt căn dặn đặt nhiều lò sưởi trong phòng nàng, ban ngày đốt lò sưởi, buổi tối giường lò và tường kép sưởi ấm cũng được đốt lửa khiến cho căn phòng trở nên ấm áp. Lúc này mặt trời mới vừa qua chính ngọ, bởi đêm nay là giao thừa, cho nên lò sưởi trong phòng vẫn được đốt, cả phòng ấm áp như tắm trong gió xuân.

Thành Khởi Vận lười nhác cởi váy lụa, áo kép, thay giày da hươu bằng giày thêu, ngồi duyên dáng trước gương; khuôn trăng đầy đặn trong gương, mày như lá liễu mắt như sao trời, má đào môi hạnh sáng ngời, vẫn là một vẻ rạng ngời như hoa.

Nàng vận chiếc áo cánh ống hẹp cân vạt, quần dài xanh nhạt chấm đất, chiếc "yếm kha tử" màu đỏ tươi mặc bên trong ôm chặt lấy bộ ngực đầy đặn, rãnh ngực hõm sâu, như chực bung ra ngoài, phác hoạ nên đường cong mê người.

Thành Khởi Vận khẽ thở dài một hơi, ngón tay như ngọc trắng vuốt nhẹ bộ ngực mềm mại và mịn màng. Thân thể nàng vẫn kiều mị mê người như trước, cặp mắt hạnh to và sáng như sao trời vẫn có sức hút mê hoặc chúng sinh như trước, nhưng sẽ còn được bao nhiêu năm tháng thanh xuân? Hết hôm nay, sẽ lại già thêm một tuổi.

Không khí vui mừng rộn rã khắp Dương phủ và tiếng pháo giòn giã thi thoảng truyền đến từ thôn trang khiến nàng cảm thấy lạc lõng và cô quạnh, chán chường và mệt mỏi với hết thảy mọi thứ mà nàng đã theo đuổi trước đây. Lúc này nàng chỉ muốn tìm kiếm một người để nàng có thể tựa vào, có thể cuộn vào trong lòng thủ thỉ chuyện trò. Nhưng yêu cầu tối đơn giản đến vậy cũng không kiếm dễ bằng kim tiền và quyền thế.

Lười nhác chùng vai, Thành Khởi Vận ngước nhìn hình ảnh mình trong gương rồi thở dài chán nản. Nàng vừa định leo lên giường nghỉ ngơi một chút, chợt có tiếng Dương Lăng từ ngoài cửa vọng vào:

- Thành cô nương, cô đã đi nghỉ chưa?

Thành Khởi Vận giật mình, ánh mắt chợt loé lên tia vui mừng, cảm giác mệt mỏi đau nhức lập tức tan biến, tinh thần thoắt đã trở lại. Nàng vội đáp:

- Vẫn chưa ạ! Đại nhân chờ một chút, ti chức sẽ ra ngay.

Thành Khởi Vận lật đật nhặt lấy quần áo mặc vào, kéo lê đôi giày thêu đế mềm vội vã chạy ra nghênh đón. Dương Lăng đang chắp tay đứng bên cạnh bàn ngắm bức tranh do Thành Khởi Vận tiện tay vẽ nguệch ngoạc nên. Trông thấy nàng kéo rèm bước ra, y mỉm cười hỏi:

- Chắc mệt hả? Tôi cũng ghét nhất là đi dạo phố, mùa hè thì thà thả câu dưới bóng dương liễu, buông cần xuống nước, nằm trên chiếu nghe gió mà chìm vào giấc ngủ; mùa đông thì ngả trên đầu giường đọc quyển sách hay. Các cô Ấu Nương còn nhỏ, hiếm khi được dịp ra ngoài cho nên ham thích náo nhiệt. Mọi người lại không phải người ngoài, cô không cần thuận theo bọn họ, không muốn đi thì cứ đợi trong phủ cũng được.

Thành Khởi Vận vụt cười duyên dáng:

- Thì bởi khó có dịp ra ngoài, ti chức sao nỡ làm mọi người cụt hứng? Mấy ngày nay đại nhân công việc bộn bề, ti chức cũng không tiện hỏi han, có điều nghe nói đại nhân thường đến chỗ trú đóng của ba xưởng một vệ và mười ba đoàn doanh, phải chăng vẫn là vì chiến sự phương bắc?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Ừ! Sự việc trọng đại, trong Nội xưởng cũng chỉ có một mình Ngô lão biết rõ tình hình tường tận mà thôi, những người khác chỉ biết nó như vậy, chứ không biết rõ nguyên do. Ha ha, lúc đầu vốn định vào kinh thu xếp ổn thoả rồi sẽ quyết định thời gian để cô trở về Giang Nam. Không ngờ, trước tiên là vì dỡ bỏ lệnh cấm biển mà phải toan tính đến chuyện nông canh, vì nông canh mà lo toan đến giống cây trồng, rồi lại sơn tặc vào kinh, giặc Thát tác loạn biên cương, khiến cho chuyện của cô cứ bị hoãn lại. Cô ở đây đã quen chưa?

Thành Khởi Vận khẽ hé môi cười đáp:

- Phương bắc gió như dao cắt, ban đầu thì chưa quen, bây giờ cảm thấy nó cũng có ý vị khác. So với nhà cửa phương nam trong ngoài đều ẩm thấp lạnh lẽo, ở đây khi bước vào lại có cảm giác ấm áp như xuân. Đại nhân và phu nhân cũng hết mực quan tâm ti chức, cứ tiếp tục như vậy, ti chức thực sẽ vui đến quên quê nhà đấy.

Dương Lăng mỉm cười:

- Như vậy sao được, muốn quên quê nhà cũng phải làm xong đại sự giải trừ lệnh cấm biển rồi mới được.

Ánh mắt Thành Khởi Vận vụt sáng, nàng hỏi:

- Đã nắm chắc rồi sao?

Dương Lăng gật đầu:

- Ừ, có điều phải cực khổ cho cô rồi. Mồng sáu tôi sẽ phải rời kinh lên bắc, cô cũng sẽ đồng thời vào nam xuống Kim Lăng, bắt đầu chuẩn bị hết thảy mọi việc. Thượng tuần tháng hai, nhất định cô phải dẫn được người vào kinh. Về phía các quan viên đại biểu cho quan lại vùng duyên hải đó, tôi đã nắm thóp được một ít rồi, Hoàng thượng cũng đã gật đầu đồng ý. Hiện tại khó nhai nhất chính là đám hại nước, hại dân đã bảo thủ mà lại cứ hùng hồn mượn thể diện thiên triều thượng quốc làm lá chắn. Đánh thì không đánh được, chửi cũng không chửi nổi, thực phải phiền đến phương cách của Thành cô nương để bịt miệng bọn họ lại thôi.

Thành Khởi Vận chậm rãi ngồi xuống chiếc ghế dựa đối diện, cười duyên dáng:

- Đại nhân yên tâm, Khởi Vận nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh. Tháng giêng về Kim Lăng, tháng hai ti chức nhất định sẽ về kinh phục lệnh đúng hẹn.

Đầu ngón tay Dương Lăng mơn trớn miếng chặn giấy trơn nhẵn bằng ngọc thạch, y đáp:

- Được! Tuy cô thể chất yếu ớt, nhưng lại là nữ trung hào kiệt, chưa từng lừa dối bản quan. Cô làm việc, ta tuyệt đối tin tưởng.

Y thoáng trầm ngâm, rồi đứng dậy nói tiếp:

- Hôm nay là giao thừa, đến giờ cơm chiều cô hãy đến phòng khách, mọi người tề tụ cho náo nhiệt, đừng trốn ở đây nữa.

Thành Khởi Vận mỉm cười dạ đáp lời, trông thấy y bước ra cửa, chợt hỏi:

- Đại nhân! Vị bà con Dương tam gia vào kinh nương nhờ, dường như đại nhân đang lo nghĩ không biết nên bố trí như thế nào cho ổn thỏa thì phải? Không bằng để ti chức dẫn gã đến Giang Nam xem sao?

Dương Lăng do dự:

- Việc này... quả thực khiến người ta lo nghĩ. Cũng không giấu gì cô, người này văn dốt võ dát, thói xấu lại có đủ, tuy không phải là một mầm họa lớn, song thực sự khiến người ta khó ưa. Do có huyết thống họ hàng nên đuổi thì không được, giữ cũng không xong. Bản quan nhìn tên lưu manh này, thực như chó cắn phải nhím, không biết nên mở miệng thế nào. Cô dám rước cái của phiền phức này theo bên mình sao?

Thành Khởi Vận nghe y nói với giọng điệu tự giễu, không khỏi che miệng cười nói:

- Đại nhân! Nói hắn không biết phấn đấu là được rồi, sao còn so sánh mình với... với... Ha ha, ti chức có gì mà không dám chứ, có điều đương nhiên phải xin đại nhân một cây Kim Phê lệnh tiễn. Dương tam gia là người chí thân của đại nhân, từ xưa việc quản lý thuộc hạ khó nhất chính là vướng phải quan hệ thân thích. Ti chức xa cách một tầng, chỉ cần công chính vô tư, vẫn dễ nói chuyện với gã hơn đại nhân nhiều.

Dương Lăng nghĩ ngợi một lúc rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Được, vậy tôi sẽ giao cho cô cái của nợ này. Cô phải nghiêm khắc không được dung túng gã, nếu tôi nghe nói gã cậy vào quyền thế của tôi làm điều xằng bậy thì tôi sẽ chỉ hỏi tội cô thôi đó!

Thành Khởi Vận cười đáp:

- Ti chức tuân lệnh!

***

Mùng một tết, Hoàng đế không phải lâm triều, tuy nhiên đám cận thần trong cung vẫn phải vào cung viếng thăm theo lệ. Cả nhà Dương Lăng quây quần trong phòng sưởi, chơi đùa trò chuyện đến quá trưa. Ước chừng đại thần vào cung đều đã về hết rồi, y mới dẫn theo người hầu thân cận vào cung gặp Hoàng đế.

Chính Đức bận bịu suốt cả buổi sáng: sớm ra vừa thức dậy đầu tiên là đến tẩm cung thỉnh an Thái hoàng thái hậu và Thái hậu, nhận lì xì, sau đó trở về cung Càn Thanh ngồi ngay ngắn đón một đám hoàng thân quốc thích và đại thần văn võ đến thỉnh an, phát bao lì xì. Hiện hắn đã làm xong tất tần tật những công việc cần làm, đang cùng Giải Ngữ và Tu Hoa ở trong điện thi ném thẻ vào vò. Lưu Cẩn đứng một bên cười vỗ tay ủng hộ.

Dương Lăng bước vào điện, đứng một bên đợi Chính Đức ném hết thẻ trên tay xong, mới bước đến làm lễ, chúc mừng năm mới. Diễn xong màn hỏi han chúc mừng xong, hai người vua tôi bọn họ mới cùng thở ra một hơi thật dài.

Chính Đức bảo Dương Lăng và Lưu Cẩn vào nội thư phòng, rồi không thể đợi thêm nữa, hắn lập tức hỏi ngay:

- Dương thị độc, mọi thứ chuẩn bị thế nào rồi?

Dương Lăng đáp:

- Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ, chỉ đợi có cơ hội thích hợp, mời Hoàng thượng hạ chỉ, lệnh cho thần đến biên cương ủy lạo, sau đó sẽ có thể thực hiện kế minh tu sạn đạo...

Khi nói đến đây, y chợt nhớ đến một chuyện, mặt liền biến sắc.

Chính Đức cũng rất lanh trí, trông thấy mặt y cứng lại, liền hỏi:

- Đã xảy ra chuyện gì vậy?

Dương Lăng lưỡng lự một lúc rồi hỏi:

- Hoàng thượng, chuyện ngài xuất kinh, ngoại đình chỉ có thần, Tiêu đại học sĩ và Nghiêm Tung của bộ Hộ rõ, Nội xưởng có Ngô Kiệt biết, nội đình ngoài Lưu công công ra còn có ai nghe nói đến nữa không?

Chính Đức thoáng do dự rồi gượng cười nói:

- Chuyện thú vị như vậy mà phải đem giữ ở trong lòng trẫm thực sự cảm thấy khó chịu, cho nên... ta đã từng nhắc đến với hai vị cô nương Giải Ngữ và Tu Hoa. Có điều chỉ nói sẽ đi về phía bắc, cuối cùng sẽ đến Đại Đồng, ngoài ra chưa từng nói với bọn họ điều gì khác. Có chuyện gì sao?

Dương Lăng chau mày thưa:

- Thần nhớ đến một chuyện, hai trăm đại đạo lục lâm Bá Châu bị Di Lặc giáo mê hoặc đột nhiên vào kinh, mục đích ban đầu là gì, chỉ có mấy thủ lĩnh trong đám sơn tặc đó biết, chứ hiện tại chúng ta vẫn chưa tường tận. Hoàng thượng xuất kinh là chuyện lớn biết dường nào, người biết được thực không nên quá nhiều.

Đoạn y cười khan hai tiếng, làm bộ nói đùa bảo tiếp:

- Từ dạo thần bị Di Lặc giáo "dạy dỗ", đến giờ vẫn còn khiếp sợ chưa vơi. Nhớ lần đầu gặp cô nương Giải Ngữ, từng thấy trên người nàng ấy đeo một miếng ngọc bội khắc tượng phật Di Lặc. Nữ tử đeo tượng phật trên người chẳng phải kỳ quái sao? Ha ha, đương nhiên, có thể là thần đã suy nghĩ quá nhiều, thực có hơi vô lý...

Chính Đức thoáng ngẩn ra, rồi bật cười nói:

- Khanh đó nha, đúng là hoang đường! Khanh nghi ngờ hai vị mỹ nhân Giải Ngữ và Tu Hoa là người của Di Lặc giáo à? Làm sao có khả năng đó chứ, hơn nữa, nam đeo quan âm nữ đeo phật, tượng phật mà cô gái đeo ngẫu nhiên lại là phật Di Lặc thôi. Nếu như vậy liền coi là Di Lặc giáo, các cô gái trong thiên hạ mười phần sẽ có đến bảy phần bị chém đầu rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngớ ra. Nghe Chính Đức nói, y mới nhớ trước đây mình cũng từng nghe nói nam đeo quan âm nữ đeo tượng phật, chỉ là nhờ Chính Đức nhắc nhở mới nhớ lại. Ngẫm kỹ lại, tri thức về lịch sử của mình có hạn, mặc dù biết Ninh Vương tạo phản, song lại chưa từng nghe nói có liên quan gì với Di Lặc giáo cả. Hay là mình đã quá đa nghi?

Dương Lăng ngượng ngập đáp:

- Chuyện này... cẩn thận một chút vẫn tốt hơn. Thần vốn cũng không phải vì vậy mới sinh lòng nghi ngờ, có điều khi ấy bái kiến Hoàng thượng, hai vị cô nương biết tránh sang một bên để không phải tội nhận xằng đại lễ của quan viên. Người dân quê mùa lại hiểu biết lễ nghi như vậy, thần mới cảm thấy hơi kỳ quái.

Lưu Cẩn đứng một bên nghe xong cũng bật cười ha hả, nói:

- Dương đại nhân, bọn họ tuy xuất thân quê mùa, nhưng trước khi được đưa vào trong cung, phủ Ninh vương sẽ phải dạy dỗ đủ mọi lễ nghi cung đình hết ba tháng. Trước khi tiến cung, Ty Lễ giám lại phái người dạy thực tập hết năm ngày, những lễ nghi này mà còn không biết thì mới là lạ đó.

Bọn họ được Ninh vương bảo đảm đưa đến. Ninh vương là hoàng thúc, là hoàng tộc Đại Minh, Di lặc giáo phản lại chính là hoàng triều của Đại Minh chúng ta, hai bên vốn không thể nào đồng loã. Huống hồ trước giờ Ninh vương vẫn luôn trung thành với Hoàng thượng!

Chính Đức nhớ lại lúc làm đại lễ đăng cơ, trong số phiên vương đến tặng lễ vật thì Ninh vương trú đóng ở nơi xa nhất, lễ vật đem tặng cũng nhiều nhất, hợp với tâm ý của mình nhất. Nay lại tặng thêm Giải Ngữ và Tu Hoa, có thể thấy được sự kính cẩn và nể sợ của hắn. Huống hồ trong tay hắn lại không có một binh một tốt, sao có thể có ác ý chứ. Thế là Chính Đức bèn gật đầu kêu phải.

Dương Lăng nói:

- Có lẽ là thần đã đa nghi. Có điều vì an toàn của Hoàng thượng, thần sẽ quyết định đường đi, hành tung, phương thức xuất kinh và thời gian xuất kinh, vẫn mong Hoàng thượng đừng đề cập chuyện này với bất cứ người nào khác, bao gồm cả hai vị nương nương.

Chính Đức bất đắc dĩ cười bảo:

- Theo ý khanh, theo ý khanh đi! Chỉ cần có thể xuất kinh, trẫm sẽ theo ý khanh hết, được chưa?

Dương Lăng thấy Chính Đức vẫn chưa thực tâm đồng ý với mình, bèn nghiêm mặt thưa:

- Hoàng thượng, vua không nói lời đùa giỡn, ngài đã đồng ý thì vạn lần phải giữ lấy lời. Hoàng thượng phải đến Đại Đồng, ấy là vì tận trách nhiệm của thiên tử với thiên hạ, thần cũng sẽ vì sự an nguy của Hoàng thượng mà tận trách nhiệm của thần!

Chính Đức nghe xong bèn nghiêm túc trở lại, nghiêm nghị:

- Được, ra khỏi miệng khanh, chỉ vào tai trẫm! Đừng nói là Giải Ngữ và Tu Hoa, - hắn liếc sang Lưu Cẩn rồi nói tiếp, - Cho dù là lão Lưu, trẫm cũng sẽ không nói cho lão biết. Như vậy được chưa?

Chú thích:

vải thô, làm bằng dây đay, dùng may áo mặc mùa hè

nguyên văn "đại quá niên", xuất phát từ câu "quá đông đại quá niên". Ý nghĩa của nó là: ngày xưa, vào ngày đông chí, từ đế vương ở trên cho đến bá tánh ở dưới đều phải mổ gia súc và lấy trái cây tế trời hết sức trang trọng để cảm tạ ông trời năm qua đã ban ơn, và đồng thời khấn cầu năm sau ông trời tiếp tục cho dân gian được mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, vân vân.

loại áo nịt ngực thời xưa

xem hình giữa http://www.china001.com/ifile.php?xn...1216202912.jpg

Lệnh tiễn: còn gọi là cờ lệnh, ý TKV xin DL cho phép TKV toàn quyền trị tội Dương Tuyền.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 185: Rồng ra biển lớn

Năm mới đã qua được ba ngày, tuy vẫn còn non nửa văn võ bá quan chưa hồi kinh chấp hành nhiệm vụ nhưng tới mồng bốn hoàng đế vẫn lâm triều xử lí chính sự. Ngay khi thượng triều, Chính Đức liền ban một ý chỉ, bảo rằng bởi Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu thắng trận, làm tiêu tan nhuệ khí của quân đội Thát Đát nên đặc biệt bổ nhiệm Dương Nhất Thanh làm Tam biên tổng chế, Vương Thủ Nhân làm phó tướng, toàn bộ tổng binh của ba trấn đều phải theo sự điều khiển, dưới quyền của hai người.

Thát Đát tập kích biên giới cũng giống như người Hán đón tết, mỗi năm đều tới. Lúc đầu quân Minh chiếm thượng phong, sau nữa thì hai bên thế lực ngang bằng, đến mấy năm gần đây phàm là Thát Đát phái trọng binh tiến đánh, nếu không có binh mã đông gấp đôi trở lên thì quân Minh không thể nào chống lại nổi.

Dương Nhất Thanh tính tình chính trực, cương nghị thanh liêm, rất được đại học sĩ Lý Đông Dương xem trọng lại vốn xuất thân từ quan văn, cho nên khi giành được trọng dụng với chiến quả ấy, văn võ cả triều cũng không ai dị nghị gì. Thừa dịp mọi người cao hứng, Chính Đức lại tuyên bố để khao thưởng tướng sĩ cực khổ ở tam quan, nay ban đặc chỉ cho Thống lĩnh ngự tiền thân quân thị vệ là Dương Lăng sẽ dẫn quân đến Đại Đồng ủy lạo, khởi hành vào mồng sáu.

Sáng mồng năm, mấy chục tay thị vệ cường tráng mặc đồ đen đứng im phăng phắc trước cổng phủ Uy Vũ bá của họ Dương. Hai cỗ xe ngựa tam mã đỗ bên cạnh, mấy thớt ngựa lực lưỡng sốt ruột cào vó, phì phì thở ra sương trắng.

Dương Lăng và ba vị phu nhân cùng Cao Văn Tâm đưa Thành Khởi Vận và chú cháu Dương Tuyền ra ngoài. Thành Khởi Vận khoác áo choàng lông chim rộng màu đỏ, nổi bật giữa mảng đất trời trắng xóa, dung nhan thùy mị như sóng nước, tựa hoa mai ngạo nghễ trong tuyết trời; trong vẻ xinh tươi khiến tim người ta đập thình thịch đó lại mang theo mấy phần hào khí.

Dương Lăng ghé mắt nhìn sang, không khỏi cười nói:

- Trông bộ dạng của cô y hệt như một Hồng Nương Tử vậy. Chuyến nam hạ này, nếu không có đám thị vệ này đi cùng, không biết cô sẽ bị quan phủ tróc nã mấy lần đây?!

Thành Khởi Vận bó tay vào trong ống tay áo, tay áo gấm hoa lộ bên dưới chiếc áo choàng, lông chồn trắng trên viền tay áo khẽ lay trong gió.

Có thể trở về với vùng đất phương nam quen thuộc, được làm một số việc, quả thực nàng có phần hào hứng. Đưa mắt nhìn Dương Lăng, thật tâm nàng cũng có phần quyến luyến. Nàng liếc nghiêng Dương Lăng, rồi như trêu ghẹo mà "nghiêm túc" đáp rằng:

- Lo gì?! Cùng lắm thì ti chức sẽ lệnh cho bọn thị vệ bắt Dương đại nhân ngài. Có ngài làm hộ tống, dù là chân trời góc biển, có nơi nào mà không thể đến chứ?

Dương Lăng nhìn Thành Khởi Vận. Tuy nàng chỉ buột miệng nhưng trong ánh mắt lại lộ tình ý miên man thắm thiết. Dương Lăng không khỏi giật thót trong lòng, y vội ho khan mấy tiếng rồi dời mắt đi, đánh trống lãng:

- Còn chưa hết tết mà đã bắt cô phải vội vã lên đường, quả thực là chuyện đặng chẳng đừng. Chuyện của Kim Lăng xin nhờ vào cô vậy.

Thành Khởi Vận thầm buông tiếng thở dài, khoé môi cố nặn một nụ cười, khẽ giọng đáp:

- Đại nhân yên tâm, ti chức... lo liệu được.

Hàn Ấu Nương có thai chưa được hai tháng, lưng bụng vẫn chưa thấy có gì thay đổi, nhưng một khi nàng ra khỏi nhà liền trở thành đối tượng bảo hộ trọng điểm. Khoác áo choàng vải nhung lạc đà mềm mại ấm áp, đeo đôi găng tay da chồn, nàng đang nói chuyện phiếm với Cao Văn Tâm, nghe thấy hai người trò chuyện bèn quay sang Thành Khởi Vận mỉm cười nói:

- Tỷ tỷ, mấy ngày qua sống chung với nhau, thực không nỡ để tỷ đi xa. Tướng công nói cần tỷ đi làm một việc hệ trọng, vậy Ấu Nương không thể ngăn tỷ rồi. Tướng công thường nói rằng Ấu Nương một thân võ nghệ, Văn Tâm tỷ tỷ y thuật diệu kỳ, Tuyết Nhi và Ngọc Nhi thông minh ngoan ngoãn, cầm kỳ thi họa đều tinh thông; nhưng nếu luận về mưu kế và trí tuệ, thì cho dù là nam nhi trong thiên hạ cũng không có mấy người bằng được tỷ tỷ. Tướng công được tỷ giúp đỡ rất nhiều, cho nên làm xong đại sự rồi, mong rằng tỷ tỷ có thể trở về phương bắc sớm một chút.

Trong lòng Thành Khởi Vận chợt có một cảm giác ấm áp ùa vào: cô bé này đúng thật là vị cô nương tốt, cô nàng ấy làm bạn khuê phòng với Cao Văn Tâm, nhất định đã sớm biết xuất thân và lai lịch của mình, đã từng... Cho dù mình ăn ngon mặc đẹp, những thôn phụ bên đường vẫn ném về phía mình những cái nhìn miệt thị, thế nhưng vị Cáo Mệnh phu nhân này lại không hề có ý gì là xem thường và khinh bỉ mình. Nàng ấy thực sự coi mình là người đáng được tôn trọng.

Mắt Thành Khởi Vận rơm rớm, nàng vuốt nhẹ tay Hàn Ấu Nương, khẽ giọng:

- Đa tạ phu nhân quan tâm! Lần này Khởi Vận đi đến khoảng thượng tuần tháng hai là sẽ trở về. Phu nhân đang mang thai, xin hãy bảo trọng thân thể. Khởi Vận mong ngóng đến trung thu năm nay, khi cây quế tỏa hương, được ôm tiểu Uy Vũ bá gia trắng trẻo và bụ bẫm vào lòng đấy!

Hàn Ấu Nương đỏ mặt, vừa ngượng vừa thích, liếc Dương Lăng rồi lại lay nhẹ tay Thành Khởi Vận trách:

- Tỷ tỷ đừng nói vậy! Người ta còn chưa biết mà, nhỡ đâu... nhỡ đâu là con gái cũng không chừng.

Vừa nói nàng vừa lo lắng liếc sang Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười:

- Con gái thì sao chứ? Tướng công nhà nàng thích con gái mà.

Nói đoạn Dương Lăng vẫy tay gọi lão quản gia đến, cầm lấy một gói đồ rồi nói:

- Thành cô nương, ở đây có mấy món lễ vật mà tôi và Ấu Nương tặng cho Mã Liên Nhi cô nương ở quán rượu Trường đình trong xóm Trường Can. Sau khi đến Kim Lăng, phiền cô hãy giúp tôi chuyển đến cho cô ấy nhé!

Thành Khởi Vận nghe xong thì lấy làm ngạc nhiên, "Dương Lăng đến từ Tuyên Phủ, không hề có thân thích gì ở phương nam, mình cũng từng nghe nói đến việc này. Vị Liên Nhi cô nương này là gì của y?" Thành Khởi Vận liếc nhanh sang Hàn Ấu Nương, bèn lờ mờ đoán ra mấy phần, thế là ngoài sự kinh ngạc còn có chút ghen tị.

Nàng không biết về quá khứ của Dương Lăng và Mã Liên Nhi, còn tưởng rằng đây là một vị cô nương mà khi Dương Lăng xuống Giang Nam vừa gặp đã yêu ngay. Vị cô nương này có thể khiến y nhung nhớ không quên như vậy, phải là mỹ nhân xinh đẹp tới dường nào?

Chung quy thì Thành Khởi Vận vẫn là phụ nữ, một người phụ nữ xinh đẹp và tự phụ, lại mang lòng yêu mến Dương Lăng. Cho dù nàng có rộng lượng đến đâu, việc có liên hệ đến đức lang quân của mình thì làm sao mà nàng không để ý đến được?

Nhìn toàn bộ số nữ nhân bên cạnh Dương Lăng: Ấu Nương như đóa tường vi, Tô Tam tựa hoa bách hợp, Văn Tâm như loài u lan, Tuyết Nhi lại giống đỗ quyên, tuy ai nấy muôn vẻ yêu kiều, đều có sở trường riêng, song luận về sắc đẹp và vẻ phong tình thì không một ai có thể sánh bằng nàng. Vị cô nương này có thể khiến cho Dương Lăng bận lòng như vậy, chẳng lẽ lại là quốc sắc thiên hương? Thành Khởi Vận âm thầm ghi nhớ trong lòng, việc đầu tiên phải làm khi trở về Kim Lăng là đi gặp vị Mã cô nương này thử một chuyến.

Nàng giữ vẻ mặt điềm tĩnh cầm lấy gói quà rồi mỉm cười đáp:

- Đại nhân yên tâm! Ti chức nhất định sẽ không làm nhục sứ mệnh.

Thành Khởi Vận lễ phép gật đầu chào với từng người trong đám phụ nữ xong xoay người bước lên kiệu, rồi vén rèm cửa sổ từ biệt:

- Đại nhân! Tiết trời lạnh lẽo, xin các vị hãy trở về, Khởi Vận lên đường đây!

Dương Tuyền nghe vậy liền như được đại xá. Hiện nay Dương Lăng ra vào đều mang theo một đám thị vệ trùng trùng, loại khí thế mỗi lúc một oai nghiêm đó khiến ngay cả gã vốn là kẻ ngu ngốc hồ đồ cũng cảm nhận được rất rõ. Từ lúc đến Dương phủ gã đều luôn tuân thủ khuôn phép, không ngờ mới vừa lần đầu định tác oai tác phúc, thử làm ra vẻ đại lão gia một chuyến thì lại bị Dương Lăng phát hiện.

Mấy ngày nay gã đều co đầu rụt cổ không dám lộ diện, lần này có thể rời khỏi Dương Lăng đi đến tận Giang Nam trù phú nhất thiên hạ, gã liền thấy nhẹ nhõm cả người, như thể đã trút được gánh nặng. Với thân phận hiện tại của gã, nếu chỉ quanh quẩn bên người Dương Lăng thì sẽ chẳng là gì, nhưng một khi rời khỏi Dương Lăng, dựa vào tấm chiêu bài là "đường huynh của Xưởng đốc Nội xưởng", thì đi đâu cũng sẽ thuận tiện. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ chứ, đúng không?

Huống hồ vị Thành cô nương này thực sự là mỹ nhân hiếm thấy. Mặc dù bình thường nàng ta trông có vẻ lạnh lùng, nhưng khi nàng thi thoảng nhoẻn miệng cười, vẻ xinh đẹp vụt thoáng qua ấy thực khiến cho gã đầu váng mắt hoa, thần hồn ngơ ngẩn. Có thể theo cạnh mỹ nhân như vậy... nghe nói nàng ta còn là thuộc hạ của đường đệ mình? Khà khà...

Dương Tuyền lật đật cáo từ vợ chồng Dương Lăng, rồi lập tức trèo lên chiếc xe thứ hai. Dương Lăng thoáng chau mày nhìn theo bóng lưng gã. "Cuối cùng cũng đã nuốt trôi được miếng thuốc cao này." Nhưng mà, cậy vào quan hệ với mình, nếu gã đến Giang Nam tác oai tác phúc, liệu Thành Khởi Vận có dám quản chế gã không?

Dương Lăng cảm thấy hơi lo lo, song hiện tại y cũng không còn cách nào khác. Cho dù Dương Tuyền có khiến người ta chán ghét đến đâu, thì dựa vào quan hệ họ hàng và địa vị thấp kém của gã, vẫn sẽ là tấm bài ngụy trang dễ thu hút được sự đồng cảm của mọi người nhất. Nếu mình chiếu cố gã không chu đáo, thì sẽ bị coi là kẻ bất chấp cương thường, khinh họ hàng chê nghèo khó, là loại người xấu xa mà từ vương hầu công khanh cho đến bá tánh lê dân ai nấy đều căm ghét và khinh bỉ.

Trông thấy vẻ mặt lo lắng của Dương Lăng, khóe môi Cao Văn Tâm bất giác nhếch nụ cười nhẹ.

Hàn Ấu Nương chỉ có nàng là chị em có tuổi tác lớn hơn một chút, nên hễ có gì trong lòng đều đem kể cho nàng nghe. Nàng sớm đã được nghe kể chuyện vị Dương tam gia này chòng ghẹo đe dọa em dâu như thế nào, cho nên khi biết Thành Khởi Vận muốn mang Dương Tuyền xuôi nam, nàng bèn lén khéo léo tiết lộ thông tin đó cho cô ta biết.

Không ai có thể thấu rõ tâm tư của Thành Khởi Vận đối với Dương Lăng như nàng, nàng tin tưởng Thành Khởi Vận sẽ không tiếc sức lực, thậm chí cả thủ đoạn để bảo vệ y.

Ai mà có ý định làm tổn hại đến uy vọng, quyền lực và hạnh phúc của Dương Lăng, thì mỹ nhân muôn vẻ phong tình ấy lập tức sẽ cởi bỏ tấm da vẽ(*), nhe nanh giơ vuốt ra ngay. Ngay dưới tầm mắt của Dương Lăng, vị Dương tam gia này vô tình đã được y che chở, người ngoài cũng không ai dám làm gì gã. Nhưng nếu gã đến phương xa làm loạn, bằng vào tâm tư của Thành cô nương mà không trừng trị khiến gã phải ngoan ngoãn thành thật được thì mới là chuyện lạ.

(*): nguyên văn "họa bì", nhắc đến truyện Họa Bì trong Liêu Trai Chí Dị

Xem http://thptdaimo.cc/f/baiviet/8975-L...Bo-da-ve.daimo

Thành Khởi Vận buông rèm, ngồi vào chỗ mới đột nhiên phát hiện trong kiệu xe bài trí hết sức thoải mái: đệm ngồi bằng da gấu trắng, thảm nhung tuyết Ba Tư lộng lẫy, xa hoa, áo bông mỏng cổ lông chồn, một bên là bếp lửa bằng đồng, trên cái giá ở bên kia là mấy quyển sách cùng điểm tâm và rượu ngon các loại.

Con tim Thành Khởi Vận thoáng trở nên loạn nhịp, nàng chợt vươn tay về phía rèm cửa, ngón tay chạm vào rèm, hơi vén ra một chút thì liền ngưng lại. Kiệu xe khẽ lắc lư di chuyển. Một chốc sau, nàng lặng lẽ rút tay về, day nhẹ khóe mắt, rồi uể oải cuộn người vào trong tấm chăn lông mềm mại và ấm áp. Thân thể dần ấm lên, con tim cũng thêm phần ấm áp, một nụ cười ngọt ngào vụt thoáng trên khuôn trăng, chân mày khóe mắt chợt toát ra một vẻ dịu dàng mê hồn khôn xiết.

Ngựa xe bắt đầu lên đường, nụ cười trên khuôn mặt Hàn Ấu Nương cũng dần biến mất: "Chao ôi! Hôm nay Thành cô nương xuôi nam, ngày mai tướng công lại phải đi đến Đại Đồng." Phu quân đi xa, bảo sao nàng có thể không bận lòng lo lắng?

Bọn họ ai nấy mang theo tâm tư của mình dõi nhìn theo chiếc xe ngựa lộc cộc chạy đi, tiếng vó ngựa vang lên giòn giã, chớp mắt đã rẽ qua góc đường...

Mồng sáu tháng giêng. Trên thao trường điểm binh.

Cờ phướn tung bay rợp trời, trên đài cao treo đầy bảng đỏ, dưới quảng trường kiếm rìu đao kích kín mít như rừng.

Năm nghìn tinh binh chọn ra từ trong mười vạn quân đều cưỡi chiến mã khỏe mạnh được mua về từ địa khu Hà Sáo. Ai nấy đều mặc giáp nhẹ, chia ra làm đội cung nỏ, đội phi lao, đội trường thương, đội đao thuẫn cưỡi ngựa, đội thiết côn, đội hỏa súng và năm trăm thị vệ hạch tâm.

Đội quân này được trang bị giáp nhẹ, khinh kỵ và vũ khí công kích sắc bén khác hẳn với trang bị mà các binh đoàn lớn của quân Minh sử dụng để tác chiến và công thủ thành trì. Thứ mà đội ngũ này đòi hỏi chính là "ứng biến nhanh, công kích lẹ, rút lui mau", chẳng những sức chiến đấu phải hơn người Mông Cổ, mà tính cơ động cũng được yêu cầu rất cao, có thể nói là rất hao tâm tổn huyết.

Các tướng lĩnh của bộ Binh, Ngũ quân đô đốc phủ và mười hai đoàn doanh trong kinh trông thấy kiểu cách như vậy đều không khỏi cười thầm. Một vị đô đốc thuộc Ngũ quân đô đốc phủ thấp giọng cười bảo:

- Dương xưởng đốc thực là người tâm tư. Bảo y đến Đại Đồng ủy lạo binh sĩ mà thôi chứ đâu phải kêu y ra chiến trường đâu, thế mà y lại tuyển chọn ra đám tinh binh trải qua muôn vàn trui luyện từ trong hơn vạn người của mười hai đoàn doanh này. Bộ y muốn chuẩn bị chạy thoát thân hay sao chứ?

Mấy vị tướng quân đứng cạnh nghe xong đều khẽ cười hắc hắc. Dương Lăng có danh vọng rất cao trong quân đội, cho nên đám tướng lĩnh này mới không hề có ác ý với y, bằng không sẽ không hợp tác tuyển chọn tinh binh từ các bộ như vậy. Tuy nhiên có cơ hội trêu chọc Dương xưởng đốc, biểu hiện oai phong của bậc tiền bối trong quân đội thì đương nhiên bọn họ sẽ không bỏ qua.

Khoác trên người bộ tỏa tử giáp màu bạc, chiến bào màu đỏ, dải tua đỏ trên mũ tung bay, Dương Lăng bước vào thao trường dưới sự bảo hộ của tám viên hiệu úy cầm thương. Thao trường lập tức im phăng phắc, hàng nghìn cặp mắt đồng loạt đổ dồn về phía y.

Đã lâu Dương Lăng chưa trải qua khung cảnh này: trên thao trường năm nghìn tinh binh chẳng những sát khí đằng đằng, hình thành một loại sát khí và nghiêm trang vô hình, mà vây quanh dưới điểm tướng đài là những quan quân cao cấp trong quân đội. Y nín thở, trang nghiêm bước ra khỏi đám người, bước lên điểm tướng đài, ủng giáp kêu lộp bộp.

Thoáng cái, tiếng trống trận vang rền, lọng vàng từ phương xa từ từ kéo tới. Hoàng đế Chính Đức đích thân đăng đài điểm tướng, tiễn biệt Dương Lăng. Hoàng đế đích thân ngự giá, mọi tướng sĩ trong thao trường rào rào quỳ xuống nghênh đón.

Tiểu hoàng đế Chính Đức vận áo bào thêu hình rồng cuộn màu đen tuyền, tôn lên môi hồng răng trắng, khí phách bừng bừng. Khi hắn bước lên đài, viên minh châu gắn trên mũ Dực Long khẽ rung rinh. Hắn vừa đến chính giữa điểm tướng đài, Dương Lăng liền vội quỳ xuống nghênh giá.

Theo sau Chính Đức là Lưu Cẩn và bốn tên tiểu thái giám, dâng chiếc khay sơn son thếp vàng đựng thánh chỉ, lệnh tiễn, ấn tín và Thiên Tử kiếm. Trên tấm thảm đỏ trải chính giữa điểm tướng đài, long thư án (cái bàn họa khắc hình rồng -ND) và long ỷ bề mặt phủ bởi vải lĩnh màu vàng đã sớm được bày biện ngay ngắn. Hoàng đế Chính Đức bước tới ngồi sau chiếc bàn, cao giọng tuyên:

- Chúng khanh bình thân!

Giáp bào lào xào, hơn năm nghìn viên tướng sĩ đồng loạt đứng dậy. Ba tiếng pháo vang lên rền rã khắp trời, tiếng kèn lệnh réo gào cùng tiếng trống trận gầm gừ như sấm dậy lần nữa được vang lên, khiến hoàng đế Chính Đức nghe thấy cũng dâng trào nhiệt huyết.

Khuôn mặt anh tuấn như ngọc của hắn đỏ bừng vì kích động, vừa định đứng lên nói mấy lời, hắn chợt sực nhớ nơi đây cũng có quy củ riêng của nó, bèn hướng mắt sang Lưu Cẩn. Lưu Cẩn vội hô to:

- Tướng lĩnh phụng chỉ tuần biên bước lên nghe chỉ!

Dương Lăng bước lên mấy bước, quỳ lạy:

- Có mạt tướng!

Lưu Cẩn cầm lấy thánh chỉ, cao giọng tuyên:

- Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu rằng: Nay phương bắc có Thát Đát xâm phạm Đại Minh ta, quấy nhiễu nhân dân ta, khiến cho tiếng oán dậy trời, thế nên trẫm xuất binh đánh chúng. Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân lần đầu lập chiến công, đáng nên khen thưởng. Ý trẫm trao cho Dương Lăng chức Uy Vũ tướng quân, đặc biệt ban cho Thiên Tử kiếm, thay trẫm tuần thú(*) biên thùy, ủy lạo tướng sĩ, và quyết định chiến sự tiền phương; đồng thời cử đề đốc Kinh doanh là Trương Vĩnh làm phó sứ, thưởng cho mãng long bào. Hai người lập tức lên đường, không được trì hoãn. Khâm thử!"

(*: thiên tử đi tuần, xem xét các đất nước chư hầu thì gọi là tuần thú)

Dương Lăng lĩnh chỉ tạ ơn, Trương Vĩnh cũng vội quỳ dưới đài, cung kính thưa lĩnh chỉ.

Dương Lăng cầm lấy Thiên Tử kiếm giắt bên hông, tiếp nhận kim ấn và lệnh tiễn, rồi lệnh cho đại quân lên đường, năm nghìn tinh binh hùng dũng rời khỏi thao trường. Trước đây Chính Đức đã ban thưởng mãng long bào cho Dương Lăng, Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng, duy chỉ Trương Vĩnh là chưa có phần, khiến lão trông thấy mà phát thèm. Lần này phụng chỉ tuần biên, cuối cùng lão cũng đã được ân thưởng mãng long bào, Trương Vĩnh hớn hở không thôi. Tiếp nhận lấy áo bào mặc vào chỉnh tề, lão cũng trèo lên ngựa, cung kính ôm quyền thực hiện quân lễ với Chính Đức, rồi quay đầu ngựa đi theo đại quân.

Hoàng đế Chính Đức tủm tỉm cười nhìn theo Dương Lăng bước xuống điểm tướng đài, vịn yên nhảy lên ngựa tung bụi rời đi, liền như không thể chờ được nữa mà hắn lập tức khởi giá hồi cung. Thao trường này đặt trong Thần Cơ doanh, vốn nằm bên ngoài kinh thành. Hôm nay Chính Đức đòi bày ra nghi thức xuất binh long trọng như vậy, văn võ trong triều chỉ nghĩ tiểu hoàng đế lại thích vẽ chuyện cho nên cũng không ai để ý.

Hắn không thể thượng triều, nhưng đại sự trong triều vẫn phải có người xử lí, cho nên đại học sĩ nội các và Lục Bộ Cửu Khanh đều phải yên phận ở lại trong kinh xử lí công việc. Hoàng đế ngự giá rời khỏi thao trường, các võ tướng bèn quỳ xuống đưa tiễn, không ai dám sóng vai cùng hắn rời khỏi viên môn. Mãi khi lọng vàng khuất xa khỏi góc núi, các viên tướng mới lần lượt bảo đám thân binh dắt ngựa đến, rồi chắp tay cáo từ nhau.

Đội nghi trượng ngự giá dài cuồn cuộn, bám đuôi theo đại quân của Dương Lăng. Ngã ba phía trước có một con đường rẽ về kinh sư, một đi tuốt đến Xương Bình. Hai đội ngũ mỗi đội tiến về một hướng. Đang lúc từ từ tách ra, trong đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức mà hôm nay trông long trọng một cách dị thường chợt có hơn mười tay hiệu úy hông giắt bội đao phóng ngựa tách ra, lặng lẽ gia nhập vào trong đại quân của Dương Lăng.

Đội nghi trượng của Hoàng đế Chính Đức vẫn thong thả túc tắc trở về kinh sư. Xa xa ở phía sau đám võ tướng không dám vọt lên vượt qua đội nghi trượng của Hoàng đế, bèn nhẫn nại chống đầu ngựa chờ ở ven đường. Ở hai bên đường, cứ ba bước một đội, năm bước một tiêu (đồn), binh sĩ đứng canh gác nghiêm ngặt, không cho bất kỳ kẻ vô phận sự nào đến gần trong phạm vi mười trượng.

Giữa đại quân, có mấy chục tay tiểu hiệu kè kè bên người Dương Lăng, trong đó có một hiệu úy theo sát y, mặt mày hăm hở, hết nhòm đông lại ngó tây, rất không yên phận.

Dương Lăng ghìm cương, đợi hắn lên cạnh rồi mới nhỏ giọng khuyên:

- Hoàng thượng! Cỗ xe ngựa ở phía trước tuy bề ngoài chỉ dùng để vận chuyển quân nhu nhưng bên trong bài trí rất là thoải mái, hay là Hoàng thượng hãy vào trong xe nghỉ ngơi đi. Trời lạnh gió rét, xin ngài chớ để nhiễm lạnh.

Năm nghìn quân tinh nhuệ chỉ biết phải theo Dương Lăng đến Đại Đồng tuần thị, ủy lạo quân sĩ. Ngoài ba trăm đại nội thị vệ được điều vào trong quân trước đó, cũng chỉ có mấy tướng lĩnh hạch tâm như Dương Lăng và Trương Vĩnh mới thật sự biết Hoàng đế đang trà trộn vào trong quân đội. Chung quanh bọn họ, ngoài vài người là tâm phúc của Dương Lăng, còn lại đều là thị vệ cao thủ của đại nội, cho nên Dương Lăng mới dám gọi thẳng hắn là Hoàng thượng.

Chính Đức cười khì khì, vung vẩy chiếc roi ngựa trong tay, liếc xéo Dương Lăng nói:

- Muốn đi thì ngươi đi đi! Ngươi là đại tướng quân phụng chỉ tuần biên mà, ta chỉ là hiệu úy thủ hạ cỏn con của ngươi, đương nhiên phải có đãi ngộ giống những sĩ tốt cùng đi cùng nghỉ rồi. Vả lại, luận thân thể và xương cốt, ta còn cường tráng hơn ngươi nhiều đó. Phù... thì ra không cần phải cứ hễ mở miệng thì phải xưng "trẫm" lại thoải mái đến như vậy, ha ha ha ha...

Chính Đức cười toe toét, quất mạnh roi lên mông ngựa phóng thẳng về phía trước. Mấy chục tay cao thủ đại nội chung quanh khiếp sợ lập tức vung roi phóng ngựa vọt lên theo sau.

Dương Lăng chỉ đành lắc đầu cười khổ sở. Hoàng đế xuất kinh vi hành như vậy, còn cải trang làm một tiểu tốt thấp hèn, trong mắt đám sĩ phu, hẳn là một hành động đánh mất tôn nghiêm đáng hổ thẹn của thiên tử. Xem ra vị Hoàng đế này hãy còn rất ham chơi, rời khỏi kinh sư rồi mà cũng không chịu thay quần áo, ngược lại còn hào hứng như vậy, quả là lạc quan yêu đời.

Đại quân tiến về phía trước, Dương Lăng tổ chức nhân mã của Xích Hầu(*) doanh của Nội xưởng thành mười đội thám mã, ở phía trái và phía phải mỗi bên có ba đội giữ khoảng đi cạnh ở xa xa, đằng sau đặt thêm hai đội, đằng trước là bốn đội luân phiên hồi báo tin tức. Đại quân đều là thiết kỵ, ngay cả vật tư mang đi cũng được xe tứ mã kéo theo, cho nên hành quân rất nhanh.

(*: 'xích' nghĩa là trinh sát, hiểu là đội quân chuyên trách trinh sát)

Đi được hơn hai canh giờ, đến giữa trưa, đoàn quân dừng lại dưới một triền núi chôn nồi nấu cơm. Nơi đây, một bên là triền núi hướng mặt trời, chung quanh được bao bọc bởi rặng núi dài, cho nên ấm áp vô cùng. Dương Lăng phái bốn đội, mỗi đội trăm người chia ra đồn trú bên ngoài một dặm để phòng ngừa bất trắc. Y xuống ngựa, cùng Trương Vĩnh đưa Chính Đức lên triền núi nghỉ chân.

Ánh nắng chói chang, khí hậu ôn hoà, thảm đỗ quyên mọc trên triền núi đã hé lộ những nụ hoa tươi tắn. Tuy cây vẫn khô lá, nhưng những cành cây khô ấy cũng đã hút đủ nước, vỏ cây đã hơi nhuốm sắc xanh nhưng dưới khóm hoa vẫn còn một màu trắng xoá.

Chính Đức lấy làm lạ:

- Nơi đây thực kì quái! Hoa này chẳng phải là hoa mai, song lại có thể đâm chồi trong tuyết, xem ra, có lẽ qua mấy ngày nữa hoa tươi sẽ nở rộ đây.

Dương Lăng cười đáp:

- Đúng vậy! Hoa này tên là đỗ quyên. Lúc trời thoắt nóng thoắt lạnh, mọi loài hoa đều thần phục trước cái oai đáng sợ của cái rét mùa đông, là lúc đỗ quyên bắt đầu nở bung trong tuyết trắng. Chờ khi Hoàng thượng thành công trở về, khắp triền núi này sẽ phủ một màu đỏ rực như lửa, vừa khéo chúc mừng Hoàng thượng.

Chính Đức thích thú cười ha hả. Hắn đứng trên triền núi dõi mắt nhìn về phương bắc xa xăm, một hồi lâu sau mới ngoái lại nói với Dương Lăng:

- Trẫm đang nghĩ, vị Bá Nhan Khả Hãn được tôn sùng là hùng ưng chốn thảo nguyên cùng dũng sĩ Hỏa Sư hung mãnh như một con ngựa hoang kia đang dẫn thiên quân vạn mã quét ngang thảo nguyên, rong ruổi sa trường, hẳn là oai phong và mãn nguyện lắm. Trẫm thua kém bọn họ sao? Không!

Lần này đi là vì mưu lược chính sự. Rồi sẽ có một ngày, trẫm sẽ đích thân dẫn binh gặp gỡ cái tên Bá Nhan và Hỏa Sư đó. Hoàng đế Hồng Vũ đã đuổi bọn chúng rút về đại mạc, hoàng đế Vĩnh Nhạc đánh đuổi bọn chúng phải trốn đông núp tây, hiện tại đến phiên trẫm làm Hoàng đế, chẳng lẽ phải ngồi nhìn giang sơn Đại Minh trở thành bãi chăn thả của bọn chúng, con dân Đại Minh trở thành bò dê của bọn chúng ư?

Rồi hắn quả quyết:

- Khanh hãy xem đi! Sẽ có một ngày trẫm sẽ đích thân nói với bọn chúng rằng, thiên tử của người Hán là thần long hô mây gọi mưa, ngao du khắp chín tầng trời, chứ không phải là một con giun đất, mặc cho bọn chúng tha mổ, gặm rỉa!

Dương Lăng mừng thầm, giảng trăm đạo lý không bằng để Hoàng đế tận mắt nhìn thấy giang sơn và nhân dân của mình mà cảm ngộ ra đạo lý riêng. Đại Minh đồi bại là ở điểm này, là ngay ở lãnh tụ của bọn họ. Nếu như vua nhà mạt Tần thời bảy nước không phải là Doanh Chính, liệu sẽ có Tần Thủy Hoàng Đế? Nếu như Hoàng đế đời thứ bảy của nhà Tây Hán không phải là Lưu Triệt, liệu sẽ có câu "Kẻ nào xâm phạm đến Đại Hán hùng mạnh của ta, cho dù chạy xa cách mấy cũng sẽ bị đuổi giết"?

Dương Lăng mừng rỡ đáp:

- Hoàng thượng nói rất phải, hùng ưng ngựa hoang gì đều sẽ phải thuần phục Hoàng thượng hết thảy! Đến lúc đó, Hoàng thượng cao hứng muốn đi săn, sẽ cưỡi con ngựa Hỏa Sư, dẫn con ưng Bá Nhan, tiêu dao tự tại biết dường nào!

Trương Vĩnh chen vào phụ họa:

- Hỏng rồi! Như vậy há chẳng phải Hoàng thượng trở thành phường áo gấm ác ôn ư?

Dương Lăng thõng tay "than":

- Biết làm sao được! Thiên hạ thái bình rồi, không có gì để cai trị, Hoàng thượng không cưỡi ngựa dẫn ưng dạo chơi thì còn việc gì để làm nữa chứ?

Chính Đức được bọn họ kẻ tung người hứng sướng đến nở mặt nở mày, thế là liền nổi hùng tâm, phấn khởi bảo:

- Ai nói không có việc gì làm chứ? Đến lúc đó, trong nước đã thái bình, trẫm sẽ thả thuyền đến Đông Dương, căng buồm giong biển!

Mặt mày hoan hỉ, Dương Lăng liền thưa:

- Quả nhiên Hoàng thượng hùng tài đại lược! Phải chăng ngài muốn Đại Minh chúng ta xây dựng hạm đội thủy quân vô địch, oai truyền bốn bể, trở thành bá chủ thiên hạ?

Chính Đức trợn mắt:

- Bậy bạ! Làm vậy có gì là thú vị? Trẫm muốn giống như trong truyện mà khanh đã kể với trẫm vậy:

"Tay trần cầm chắc Quỷ Đầu đao,

Đầu quấn lên thêm tấm vải đào,

Mắt đeo miếng bịt cho hung bạo,

Đi làm hải tặc sướng biết bao!"

Chú thích:

xem hình http://www.elanzhou.net/story/Upload...5185427229.jpg

ngày xưa có câu "giá ưng khiên cẩu" (架鹰牵狗) nghĩa là dẫn theo chim ưng dắt theo chó săn, nhằm trỏ phường ác bá cậy quyền cậy thế. Trương Vĩnh trêu Chính Đức là dựa trên câu nói này.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 186: Tú tài gặp phải ông lính

Sau bữa cơm, đại quân nhổ trại tiếp tục lên đường. Tuyết đọng trên đường bị bánh xe lừa, ngựa cày xới khiến cho quan đạo lầy lội không thể tả, tốc độ của đội ngũ vì thế bị chậm lại rất nhiều. Không lâu sau, bọn họ đuổi gặp một đội quan binh áp tải đội xe lừa ngựa dài hun hút, đang gian khổ lặn lội trên đường.

Thám mã hồi báo với Dương Lăng rằng đây là đội xe vận chuyển lương thực và rơm cỏ đến Đại Đồng. Lương thảo và trang bị vận chuyển từ nam lên bắc thường đi trên con đường này, ngựa xe liên miên không dứt khiến con đường đất bằng phẳng được đầm chặt chẻ, dễ đi nay đã bị tàn phá nghiêm trọng. Đã lồi lõm gập ghềnh lại thêm tuyết đọng phủ dày, đường quan đạo nay rất trơn trợt khó đi.

Thấy đại quân giáp trụ chỉnh tề, hành trang gọn ghẽ đi tới, đội quân nhu tự giác tránh sang bên đường. Đại quân của Dương Lăng tu chỉnh lại đội hình, từ từ vượt lên.

Chính Đức kẹp hờ lưng ngựa, cả người hơi nhấp nhô, ánh mắt chậm rãi quét vào dòng người của đội xe. Đội xe chen chúc ở một bên, đám dân phu áo quần lam lũ, có người tu bổ mặt đường, có người vai khiên chân đạp, ra sức nâng đẩy bánh xe đang lọt vào hố tuyết.

Phu dịch đánh xe thì ngồi trên xe điều động, còn những dân đinh trai tráng đang ra sức bắc cầu sửa đường, vai khiên tay gánh này đều là những người dân lưu lạc cùng với tá điền và thôn phu tự nguyện tham gia vận chuyển lương thảo. Những người dân lưu lạc lo kiếm miếng cơm manh áo, những tá điền gia cảnh bần hàn, mùa đông không có gì làm, dựa vào chút sức khoẻ ra khỏi nhà tìm ít công việc, vừa kiếm cơm nhằm giảm gánh nặng cho gia đình, vừa có thể kiếm thêm mấy văn tiền lớn.

Nhìn những người dân nghèo khổ mày mặt xanh xao này, nụ cười ung dung trên khuôn mặt của Chính Đức vụt tắt. Khi đoàn quân vượt lên khỏi đội xe quân nhu tiếp tục tăng tốc tiến về phía trước, Chính Đức vẫn không ngừng ngoái đầu nhìn về phía "con rồng" dài đang chầm chậm di chuyển đó.

Đại quân dừng ở Xương Bình nghỉ một đêm. Huyện lệnh của Xương Bình không hề biết đương kim Hoàng đế đang ở trong quân, tuy nhiên chỉ nội hai tấm chiêu bài tiếng tăm vang dội là đề đốc Nội xưởng và đề đốc Kinh doanh đã đủ khiến lão ta bận đến túi bụi rồi.

Đại quân của Dương Lăng đồn trú tạm trong Dịch thừa quán của huyện thành nho nhỏ, toàn bộ sai dịch và đầu bếp trong quán Dịch đều bị đuổi ra ngoài, gọi người do Trương Vĩnh dẫn tới. Huyện lệnh của Xương Bình chỉ cho rằng hai vị đề đốc đại nhân quyền thế ngút trời này muốn bày vẽ xa hoa nên cũng không hề nghi ngờ gì, chỉ vội vàng đưa mấy chục con lợn béo đến. Thấy hai vị đại nhân cũng không nhiệt tình bắt chuyện cùng, lão bèn biết điều mà cáo từ rời đi.

Bên trong chiếc lều lớn dựng tạm trong quân doanh, ngay khi Dương Lăng vừa an bài ổn thoả việc trực đêm và hành trình hôm sau xong, hai viên thân quân dẫn theo một thanh niên mặc y phục thường dân bước vào. Người này ăn mặc không có gì bắt mắt nhưng cử chỉ và khí độ lại khá uy nghiêm, Dương Lăng trông thấy gã liền vui vẻ cười gọi:

- Liễu Bưu lại đây, mau ngồi đi! Có tin tức gì không?

Dương Lăng phái Dương Nhất Thanh đi theo Thành Khởi Vận xuống phương nam, thu thập nhược điểm của những quan viên được các thân hào sĩ tộc duyên hải ủng hộ và giúp đỡ mà bọn họ đã phái người điều tra từ trước. Y điều Tam đáng đầu Nội xưởng là Bành Kế Tổ dẫn theo đội năm nghìn tinh binh này; Liễu Bưu phụ trách việc chỉ huy và phối hợp thám mã trong tối lẫn ngoài sáng dọc đường; Ngũ Hán Siêu chạy trước đến Tuyên Phủ và Đại Đồng, chủ động liên lạc và âm thầm phối hợp với Hàn Lâm đang trú đóng ở đó.

Liễu Bưu thực hiện quân lễ, rồi ngồi xuống bên cạnh. Dương Lăng mỉm cười châm cho gã một chén trà, Liễu Bưu khom người cảm ơn, rồi cảnh giác quét mắt một vòng, mấy viên thị vị đứng chung quanh hiểu ý lui ra. Lúc này Liễu Bưu mới thấp giọng bẩm báo:

- Đại nhân! Thám mã trong kinh đã đưa tin đến: hai vị cô nương mà đại nhân muốn chúng ti chức để ý đến tịnh không có hành động gì bất thường. Hai người đã được đưa đến Báo phòng, dường như rất biết yên phận. Ti chức đã cho người tiếp tục giám thị.

Ngoài ra, tin tức từ thám mã tiền phương đưa về, báo rằng đường đến Cư Dung Quan, Tuyên Phủ rất thái bình. Do đội xe chở thương binh về và đưa quân nhu đến Đại Đồng nối nhau không dứt nên quân lính và dân phu hoà lẫn vào nhau. Dưới tình hình đó, nhằm phòng ngừa gian tế của Thát Đát, dọc đường đều thiết lập trạm kiểm soát, không có lệnh dụ và giấy thông hành do quân đội ban hành thì tất cả những nhóm năm người trở lên đều không được phép qua, vì vậy dọc đường tuyệt sẽ không thể xuất hiện nhân mã số lượng lớn. Nếu quả thật có mấy trăm lục lâm muốn gây hấn trước sự bảo vệ của năm nghìn quân chúng ta, bảo đảm bọn chúng sẽ chỉ có đi không về.

Dương Lăng khẽ gật đầu, hơi yên tâm. Y thả bước trong lều, trầm ngâm:

- Ngũ Hán Siêu đi sớm hơn bản quan một ngày, hiện tại vẫn chưa có tin tức đưa về, dọc đường không có hung hiểm gì thì tốt. Đợi vào đến Tuyên Phủ, Đại Đồng, nơi tập hợp trọng binh, sẽ an toàn hơn. Liễu Bưu, tạm thời huynh hãy lui xuống dùng bữa, chuyến đi này nhất định phải tập trung hết tinh thần. Bây giờ đã không như trước đây, chỉ cần Hoàng thượng mất một cọng lông, huynh và ta cũng đều sẽ có thể mất đầu đó!

Liễu Bưu đứng dậy nghiêm trang đáp:

- Ti chức hiểu được, xin đại nhân cứ yên tâm! Ti chức xin phép cáo từ!

Dương Lăng gật đầu, Liễu Bưu xoay người rời đi. Một viên thân binh bước vào bẩm báo:

- Đại nhân, bữa tối cho Hoàng thượng đã chuẩn bị xong rồi ạ!

Dương Lăng đáp:

- Ừ, để coi thử! Bản quan đi thăm Hoàng thượng một chút.

Trong cung Hoàng đế có Ngự thiện phòng chuyên phụ trách ẩm thực. Tuy bên người Trương Vĩnh vẫn có tiểu thái giám hầu hạ nhưng lão không thể mang ngự trù ra khỏi kinh. Dương Lăng đã hao tổn nhiều tâm tư mới tìm được một vị đầu bếp nghỉ hưu của Ngự thiện phòng. Y cũng không nói rõ mọi sự với ông ta, chỉ nói rằng cần chế biến món ăn cho mình dọc đường, rồi kiếm mấy thị vệ trung thành đáng tin cậy cho đi cùng với lão phụ trách bữa ăn cho Hoàng đế.

Cho dù là phụ nữ khéo tay cũng khó mà nấu được bữa trưa ngon dọc đường, hoàng đế Chính Đức cũng ăn vội mâm cơm trà đơn giản, đây cũng là bữa cơm chính thức đầu tiên của hắn. Dương Lăng đến nơi trọ của Chính Đức sau hậu viện, toàn bộ đại nội thị vệ canh gác đều nhận ra vị Dương đại nhân này, một quan thị vệ vội bước lên nghênh đón:

- Dương đại nhân!

Dương Lăng khẽ gật đầu, hỏi:

- Hoàng thượng xuất kinh lần đầu, đi đường tròng trành hẳn là đã mệt? Có phải người đã nghỉ ngơi rồi không?

Viên võ quan cũng đã cải trang thành một hiệu úy bình thường, nghe hỏi bèn cười đáp:

- Đại nhân đoán sai rồi! Hoàng thượng rất cao hứng, vừa mới tắm rửa xong liền đã dẫn Trương đề đốc ra ngoài rồi.

Dương Lăng giật nảy mình, biến sắc, hỏi ngay:

- Lúc này trời đã tối, đêm lạnh gió buốt, Hoàng thượng còn đi đâu?

Viên võ quan vội vàng giải thích:

- Đại nhân không cần phải lo! Hoàng thượng chỉ đi dạo trong doanh, thăm hỏi tướng sĩ thôi, chắc chắn không đi xa.

Lúc này Dương Lăng mới yên tâm, y vội xoay người vừa đi ra ngoài vừa nói vọng lại:

- Bản quan đi xem một chút, ngươi hãy nghỉ ngơi đi.

Dương Lăng đi vội ra khỏi dịch quán. Dịch quán của toà thành nhỏ này nằm ở đầu thành phía đông, ngoại viện vốn là nơi dừng chân và trú đóng của những đội xe quân nhu thường xuyên lui tới, chung quanh xây tường bao bọc, bên trong tường trú đóng gần nghìn tay quan binh, số còn lại trú đóng bên ngoài. Lúc này lửa trại được đốt lên khắp nơi, không khí tràn ngập mùi thịt nướng.

Dương Lăng đưa mắt nhìn quanh, trông thấy mấy đống lửa bên phải có rất đông người lui tới, bèn vội vã đi qua. Quanh đống lửa có một đám sĩ tốt đang ngồi, bên trên bắc một nồi cơm to; đồ tể mổ xong mấy chục con heo mập thì cũng đã bắc nồi, từng miếng thịt lớn chìm nổi trong nồi nước sôi sùng sục. Bọn sĩ tốt vừa rôm rả nói cười vừa nhai bánh bao, gặm xương; ăn rất ngon miệng.

Dương Lăng vẫn đang mặc trang phục tướng quân, khi đám sĩ tốt trông thấy y, tiếng nói cười lập tức dần nhỏ lại rồi lần lượt đứng dậy hành lễ. Dương Lăng mới vừa đi qua hai đống lửa, chợt có bóng người vụt sát tới gần kéo lấy tay y, khẽ giọng hỏi:

- Dương đại nhân! Đi đâu vậy?

Dương Lăng định thần nhìn kỹ, ánh lửa soi rõ ngân quang lấp loé trên mình người đó: một bộ mãng quan bào mới cáu, đai lưng ngọc bích sáng lung linh có vài phần oai phong lẫm liệt, chính là vị đề đốc Trương Vĩnh.

Dương Lăng mừng rỡ, vội nắm lấy tay lão hỏi ngay:

- Người đâu?

Y đang ở bên ngoài, tuy gần đó không có ai khác, nhưng "gió đưa lời người", chỉ sợ bị người khác nghe được nên không dám nói đến hai chữ "Hoàng đế". Trương Vĩnh nháy mắt, kéo y đi mấy bước sang một bên, khẽ hất hàm về phía trước, nói nhỏ:

- Kìa! Đang ở bên đó đó, không cho ta theo. Ta thấy ngài chơi vui vẻ như vậy nên cũng chỉ đành đi tuần chung quanh, không dám đến gần.

Dương Lăng nhìn sang bên ấy, thấy rõ ánh lửa rừng rực soi sáng một khuôn mặt anh tuấn trẻ tuổi. Hoàng đế Chính Đức vận bộ đồ hiệu uý ngồi cùng một đám binh sĩ, vai kề vai, lấy cây gỗ xuyên qua bánh bao rồi hơ trên lửa, một tay cầm một khúc xương to, thi thoảng lại cắn một miếng, chuyện trò rất vui vẻ.

Một tay lính lão làng râu ria xồm xoàm đấm xuống vai Chính Đức một quyền, khiến vai hắn trùng hẳn xuống. Tên đó cười lớn bảo:

- Tiểu tử! Lần này Xưởng đốc đại nhân xuất binh, huynh đệ chúng ta được chọn ra từ hơn mười vạn đại quân trong mười hai đoàn danh, ai nấy đều biết cưỡi ngựa bắn cung, múa đao đi quyền, năm bảy tên lực lưỡng cũng không thể sáp lại. Xem thằng nhóc ngươi này: da thì trắng thịt thì mềm, làm quái được gì? Sao là đối thủ của giặc Thát được?

Nghe vậy Chính Đức cũng không nổi cáu, chỉ cười hề hề đáp:

- Đại ca chớ coi thường tiểu đệ! Tuy đệ chưa từng ra chiến trường, thậm chí trước đây đã từng đánh nhau với một tên lưu manh không biết võ nghệ trong thanh lâu, tiểu đệ còn bị hắn bất ngờ đấm cho một quyền vào mặt, suýt nữa thì trẹo cả mũi. Nhưng đó là lúc đệ còn ngu muội, chưa biết gì. Nếu thực sự luận bàn võ nghệ, nay tiểu đệ đã được mấy vị sư phụ võ công nhất đẳng đích thân chỉ dạy, sợ rằng đại ca chưa chắc đã là đối thủ của tiểu đệ đâu.

- Ồ, ồ, ồ! Tiểu tử ngươi thực biết khoác lác nhỉ! - một binh sĩ khác bộ dạng uể oải song thân thể cứng cáp cười nói, - thì ra ngươi là thân binh của đại soái, còn tưởng ngươi là con cháu phú gia chạy ra ngoài kiếm chút công danh. Nhưng ngươi lại không có vẻ gì là thiếu gia vọng tộc cả. Với bộ dạng này của ngươi, dù biết chút võ vẽ múa may thì có tác dụng gì chứ? Trên chiến trường chính là chém giết bằng đao thật thương thật, mà tiểu ca ngươi trông tuấn tú như vậy, chớ để giặc Thát bắt đi làm "thỏ tướng công" đó.

Chính Đức rút chiếc bánh bao đã bị nướng cháy xém về, xé một miếng cho vào trong miệng, vừa nhai say sưa, vừa tò mò hỏi:

- Thỏ tướng công? Thỏ tướng công là gì?

Đám binh sĩ ngồi bên đống lửa cười phá lên. Tên binh sĩ có bộ râu xồm vỗ vai hắn cười ha hả:

- Ngươi không biết sự đời như vậy, thực không biết làm sao lại lăn đến bên người Dương đại soái được nữa! Đám người bên phía giặc Thát ai nấy đều cao lớn hung tợn, lưng hùm vai gấu, cho dù là đàn bà cũng không dễ nhìn hơn đàn ông bao nhiêu. Những tiểu ca nhi tuấn tú như ngươi bị bọn chúng bắt đi, sẽ không lo phải bị bắt làm nô lệ, mà không chừng sẽ được tù trưởng bọn chúng đưa về ân sủng làm ái thiếp đấy. Ha ha ha!!!...

Trương Vĩnh nghe vậy liền nổi giận, lông mày chau lại, sát khí ùn ùn định xông qua. Dương Lăng vươn tay giữ lão lại, quát khẽ:

- Bình tĩnh chớ nóng! Kẻ không biết không có tội. Hoàng thượng còn chưa nổi giận, ông nổi giận làm gì?

Trương Vĩnh bình tĩnh nhìn lại, lão thấy dường như Chính Đức chỉ hơi mắc cỡ. Tay binh sĩ đó nói như vậy thì hắn đương nhiên biết "thỏ tướng công" chính là "ái nhi" rồi. Nhưng Chính Đức không hề nổi giận, lần đầu tiên trong đời có người nói chuyện thô tục như vậy với hắn, ngoài sự mới lạ hắn còn cảm thấy rất... hay.

Chính Đức không đồng ý, phản bác:

- Giặc Thát bắt trẻ em phụ nữ ta, trẫm... trong trấn tiểu đệ cũng thường nghe khách buôn phương bắc nhắc đến. Có điều hình như bọn chúng cướp bóc lương thảo là nhiều, chứ chẳng lẽ cũng cướp nhiều người lắm hay sao?

Binh sĩ chung quanh dần thu lại nụ cười. Lúc lâu sau một Ngũ trưởng tuổi chừng hơn ba mươi, mặt đỏ bầm, thở dài một hơi rồi bảo:

- Đó là lẽ đương nhiên! Nhiều năm qua, giặc Thát tấn công Tuyên Phủ, tấn công Đại Đồng, tấn công Kế Xương không biết đã bắt đi bao nhiêu là bá tánh.

Một quan binh trông có vẻ văn nhã hơn vỗ đùi đánh bộp, căm tức mắng:

- Cái đám chó đẻ đó! Dân đen sợ bị giặc Thát cướp bóc, có chạy cũng chỉ có thể chạy vào Trung Nguyên. Còn những người dân nhiều đời vẫn dựa vào mấy mẫu ruộng tổ tiên để lại thì không chốn nương thân, chỉ có thể mặc cho bọn chúng lăng nhục. Hễ là ông già hay tráng niên đều sẽ bị chúng giết chết. Còn thiếu niên và phụ nữ thì bị bắt làm nô bộc và thê thiếp, giúp chúng thả dê, vắt sữa, may vá, nấu rượu, tính toán. Ngươi nói chúng bắt đi có nhiều không?

Hắc hắc! Giặc Thát ít dân, một gia đình chăn thả bò dê thì mấy chục dặm chung quanh sẽ chỉ có gia đình này, không còn nhà nào khác. Bộ lạc Cát Nang ở địa khu Hà Sáo bắt đi nhiều người Hán nhất, một gia đình Mông Cổ không quá năm sáu người song lại có đến sáu bảy nô lệ người Hán.

Ngũ trưởng mặt đỏ nọ cười gằn rồi an ủi:

- Lão Đoạn, lại nhớ đến chuyện đau lòng à? Chẳng phải Dương tổng chế đã thắng một trận lớn đó sao? Người Man ít tráng đinh, vị phó tướng Vương Thủ Nhân nọ đánh một trận hạ độc chết ba nghìn giặc Thát, những gia đình giặc Thát đó chỉ còn lại người già phụ nữ và trẻ em, chẳng bao lâu sẽ phải sa vào cảnh làm nô bộc cho các bộ tộc khác. Đó gọi là báo ứng!

Chính Đức liếc sang tay lính từng trải trông có vẻ nho nhã nọ, hỏi:

- Đoạn... Đoạn đại ca, gia đình của huynh đã từng bị giặc Thát hại sao?

Người lính từng trải nọ im lặng không nói gì. Gã lính râu xồm ngồi bên cạnh kề tai Chính Đức nói nhỏ:

- Lão Đoạn là người dân ở bảo Trợ Mã, Đại Đồng. Huynh đệ tỷ muội toàn tộc của lão có sáu mươi lăm người, bị giặc Thát cướp giết sạch, chỉ còn lại năm người lão ấy bị bắt đến thảo nguyên làm nô lệ, trồng trọt thả dê.

Hai năm sau, bộ lạc đó xảy ra chiến tranh với một bộ lạc khác, mấy thân nhân của lão Đoạn đều bị loạn mã giẫm chết trong chiến trận. Lão ấy giả chết, sau đó chạy từ nghìn dặm xa xôi về quan nội. Vì lão ấy cưỡi ngựa giỏi, cho nên mới gia nhập Thần Cơ doanh, chuyên việc huấn luyện cưỡi ngựa.

Chính Đức nghe kể vậy thì giận lắm, song lúc nghe nói đến trồng trọt lại lấy làm kinh ngạc, hắn bèn hỏi:

- Giặc Thát cũng biết trồng trọt sao? Bọn chúng trồng những gì?

Gã lính râu xồm đáp:

- Năm xưa người Nguyên thống trị Trung Nguyên hơn trăm năm cũng không học trồng trọt cấy cày mà cũng không nghĩ đến việc trồng trọt canh tác. Nhưng đến khi bọn chúng bị đuổi về đại mạc rồi, không còn ai cung cấp lương thực sẵn cho nữa, thì mới lại muốn học cách ày cấy.

Hiện tại người Mông Cổ lấy việc chăn thả làm chủ, song cũng trồng trọt ở một số nơi. Tuy nhiên người Mông Cổ không biết nông canh, những việc này đều do những người Hán bị bắt cóc làm cả. Nhân thủ không đủ dùng, thi thoảng giặc Thát còn chiêu mộ người dân lưu lạc ở biên tái nữa.

Người Mông Cổ cũng bắt đầu học tập người Hán trồng trọt rồi ư? Chính Đức thật sự không biết tin tức ấy. Năm xưa mật thám Cẩm Y Vệ tới lui vùng quan ngoại cũng chỉ chú ý đến tình báo quân sự và chính trị, cho dù có thấy người Mông Cổ khai phá một ít ruộng đồng thì cũng chả ai để ý. Chính Đức nghe xong trong lòng như chợt loé linh cơ, hắn định nắm bắt lấy nó, song lại như một giấc mơ, không thể nhớ được gì nữa.

Gã lính râu xồm rút từ trong dây thắt lưng ra một con dao nhỏ chọc một miếng thịt nhễu nước từ trong nồi ra, cắn một miếng ngon lành, rồi nhoẻn miệng cười nói:

- Đừng ủ rũ nữa! Nào, ăn miếng thịt to đủ gom lấy sức. Đợi đến Đại Đồng rồi, ngộ nhỡ giặc Thát vẫn chưa bị Dương tổng chế đuổi chạy hết, không chừng huynh đệ chúng ta vẫn có thể xuất chiến đó!

Chính Đức cũng bắt chước theo, rút một con dao nhỏ chọc lấy ra một miếng thịt, cười vang:

- Nói phải lắm, gom góp sức lực, sẽ có một ngày chúng ta sẽ đoạt lại hết những gì giặc Thát đã cướp. Chê bọn chúng tay chân thô kệch không thể đun trà ngâm nước, chúng ta sẽ bắt chúng làm những công việc nặng nhọc.

Dương Lăng mỉm cười, hỏi nhỏ Trương Vĩnh:

- Trương công công! Vị đó ra ngoài chưa được một ngày, ông xem thử có phải là người đã thay đổi gì không?

Trương Vĩnh nghe vậy bèn quan sát Chính Đức kỹ lưỡng một lượt, rồi gật đầu bảo:

- Ừm! Thực không phải mà, mặc quần áo vải thô đó, sao cứ thấy chướng mắt thế nào! Còn nữa, còn nữa... xem cái tướng ngồi tướng ăn đó, ôi chao! Bình thường ta chán nhất là cái đám đại nhân già ấy cứ vung tay vung chân bảo Hoàng... bảo người phải thế này, phải thế kia! Thế mà hiện tại ngay cả ta cũng thấy vị đó không vừa mắt đây.

Dương Lăng liếc mắt nhìn quanh, thấy đại nội thị vệ cải trang làm quân sĩ bình thường ra vẻ như đang đi dạo khắp nơi. Bên cạnh Chính Đức sợ không ít hơn bốn mươi tay cao thủ đại nội bảo vệ, chung quanh cũng toàn là binh sĩ đáng tin cậy do chính mình đích thân tuyển chọn, y bèn yên tâm vỗ vai Trương Vĩnh mỉm cười nói:

- Tôi lại cảm thấy hiện tại vị đó đã có khí phách nam tử hơn, và cũng đã hiểu chuyện hơn nhiều.

Trương Vĩnh đưa mắt nhìn theo Dương Lăng đang khoan thai bước đi, đoạn quay lại quan sát Chính Đức kỹ thêm lần nữa, rồi nghi hoặc lẩm bẩm:

- Vẫn vậy mà! Chẳng lẽ lúc đầu ngài không có khí phách nam tử, không hiểu chuyện sao?

* * *

Sáng hôm sau, đại quân lên đường rời Xương Bình tiến đến Cư Dung Quan.

Hôm nay trời âm u, gió bắc kéo tới ùn ùn, thổi tung những hạt tuyết trên mặt đất, hất vào mặt đến lạnh. Dương Lăng khoác áo choàng Cô nhung lớn còn cảm thấy lạnh muốn chịu không thấu, một góc tỏa tử giáp lộ ra dưới tấm chiến bào; khi tháo găng tay da dê ra, bàn tay nóng hổi liền sẽ bị cóng ngay.

Y thấy Chính Đức vẫn ở chung với đám thị vệ, mặc quần áo hiệu úy bình thường, nheo mắt chống chọi với gió rét mà đi, thì liền tới gần khuyên:

- Hoàng thượng! Bất luận thế nào ngài cũng phải vào trong xe... nghỉ ngơi. Mặc dù thân thể Hoàng thượng cường tráng, nhưng dẫu sao vẫn chưa từng chịu qua cái rét lạnh đến bực này, nếu thực sự bị cảm lạnh sẽ lỡ đại sự đó.

Trên đồng hoang bát ngát, gió rít rợn người, phía trước sắp đến một sơn ải, gió lùa từ trong sơn khẩu ra ngoài cuốn cho tuyết bay mù trời, chỉ cần hơi há miệng là tuyết sẽ ùa ngay vào, khiến cho Dương Lăng cứ nói một hai câu lại phải dừng lại.

Chính Đức bướng bỉnh đáp:

- Không đi! Năm nghìn binh lính chịu được cái lạnh buốt xương này, bá tánh phương bắc bao năm phải chịu cái rét cắt thịt này, chẳng lẽ chỉ có mấy ngày mà ta cũng không chịu nổi? - Nói đoạn hắn lấy tay che mặt, rồi quay sang Dương Lăng đùa giỡn: - Hơn nữa gió tuyết thổi vào mặt thế này, vừa tê lại ngứa, ta chưa từng có cảm giác này bao giờ. Khó khăn lắm mới được ra ngoài một chuyến, ta nhất định phải tự mình thể nghiệm một phen.

Dương Lăng nghe hắn nói vậy thì cười khổ không thôi, đang tính mở miệng khuyên thêm thì chợt có một thớt khoái mã từ sau phi nước đại đến. Kỵ mã thúc ngựa chạy đến gần mới ghìm cương dừng lại, thở hổn hển kêu to:

- Khải bẩm đại nhân! Đằng sau... đằng sau có mấy chục thớt khoái mã đuổi theo. Tuân theo quân dụ của tướng quân, chưa có mệnh lệnh, bất cứ ai cũng không được tự ý gia nhập vào trong quân. Những người đó bị ngăn ở bên ngoài, liền ra lệnh cho thuộc hạ lập tức phi báo cho tướng quân hay. Xin tướng quân hãy lập tức đi ra phía sau gặp bọn họ!

Dương Lăng sửng sốt hỏi:

- Ai đuổi theo?

Khuôn mặt binh sĩ đó lộ vẻ hết sức kỳ quái, hắn ngượng ngập đáp:

- Chuyện đó... Vị đại nhân kêu thuộc hạ báo tin nói rằng, phía sau là ba vị đại học sĩ Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa. Những người còn lại... hẳn là tùy tùng của ba vị.

Dương Lăng nghe vậy liền đưa mắt nhìn sang Chính Đức, ánh mắt cả hai đều lộ vẻ thất kinh. Như một đứa trẻ trốn học bị thầy giáo bắt quả tang tại trận, khuôn mặt Chính Đức hiện rõ nét sợ hãi. Hắn bối rối nhìn Dương Lăng cầu cứu:

- Làm sao đây? Phải làm sao đây? Ta... ta phải trốn đâu bây giờ?

"Chẳng phải đã dự tính đại quân đến Tuyên Phủ rồi mới công bố mật chỉ Hoàng đế xuất kinh cho Nội các và Lục Bộ Cửu Khanh sao? Sao đã bị phát hiện sớm như vậy, đuổi kịp tới nơi rồi?" Dương Lăng thoáng nhíu mày trầm tư, rồi hạ thấp giọng hỏi Chính Đức:

- Có phải là Hoàng thượng đã sợ?

Chính Đức nghe vậy liền ưỡn ngực, liếc nhìn tay kỵ mã, rồi cũng thấp giọng nói với Dương Lăng:

- Sợ cái gì? Ta sợ chẳng qua là biết mấy vị đó mà mở miệng thì cho dù ta có làm thế nào cũng sẽ không cãi lại bọn họ. Bọn họ đã đuổi đến sát ngay sau mông rồi, ta có thể làm gì đây? Nhưng mà... ta nhất định phải đi Đại Đồng, cho dù bọn họ ngăn cản ta thế nào đi nữa, trẫm nhất định phải đi! ..., Khanh hãy giúp trẫm nghĩ cách nhé!

Dương Lăng cười lớn đáp:

- Nếu đã như vậy, việc này xin cứ giao cho thần.

Y quay đầu ngựa, phi ngược về phía hậu quân. Hai mươi thị vệ tùy thân và Trung quân quan đuổi sát theo sau. Ánh mắt Dương Lăng quét nhanh hai bên, đột nhiên y phát hiện trong đội ngũ có một binh sĩ đang cưỡi một thớt ngựa béo màu vàng. Da hắn đen nhẻm, mắt đậu xanh, mũi củ tỏi, râu ria xồm xoàm kéo dài từ dưới cằm theo hai má lên tới tận đầu, trông như một con nhím. Nếu thanh thiết côn đen thui dài tám thước trong tay hắn đổi thành thanh bát xà mâu dài cả trượng, thì hắn sẽ y hệt Trương Phi tái thế.

Trông thấy người này có vẻ quen qu, y lục nhanh lại ký ức liền nhớ ra rằng đây chính là gã lính to con ngồi sóng vai với Chính Đức gặm xương bên đống lửa đêm qua. Mắt Dương Lăng liền sáng rỡ: chính là hắn! Dương Lăng quay đầu ngựa, chiến mã hí vang tràng dài, y dừng lại trước mặt người đó, quát hỏi:

- Ngươi tên là gì?

"Trương Phi" giật nảy mình. Y là binh sĩ do Dương Lăng đích thân chọn lựa, tuy Dương Lăng không nhận ra hắn, nhưng hắn lại biết Dương Lăng. Tuy tính tình thô lỗ nhưng trước mặt Dương Lăng hắn nào dám làm càn, "Trương Phi" vội ghìm cương ngựa, cung cung kính kính đáp:

- Hồi bẩm đại soái! Thuộc hạ là Lưu Đại Bổng Chùy(*), hiệu úy của Thiết Côn doanh!

(*: Đại bổng chùy nghĩa là cây chày lớn)

Dương Lăng đực mặt ra, lấy làm lạ bèn hỏi:

- Đó là cái tên gì vậy? Chẳng lẽ ngươi không có cả một cái tên nghiêm chỉnh sao?

Khuôn mặt đen đúa của "Trương Phi" thoáng đỏ bừng, hắn ngại ngùng bẩm:

- Đại nhân! Chính cha mẹ của tiểu nhân đặt cái tên này, nói rằng tiểu nhân sinh ra vừa đen lại vừa cứng cáp, giống y như một cây chày sắt nên mới gọi là Lưu Bổng Chùy.

Dương Lăng thấy hắn hào sảng, ngây ngô chất phác thì rất vừa lòng. Y cười hắc hắc, bảo:

- Bản quan nhận thánh dụ đi đến Đại Đồng tuần sát chiến sự. Ở hậu phương có mấy vị quan văn trong kinh sư đuổi theo, định sẽ dùng trăm phương nghìn kế khuyên bản quan trở về. Bản quan lệnh cho ngươi cầm cây Thượng Phương Bảo Kiếm, dẫn theo hai mươi thân binh của bản quan đến hậu phương ngăn bọn họ lại, chờ đại quân qua khỏi Cư Dung quan rồi ngươi mới được trở về. Làm xong việc này, ngươi sẽ là thân binh của bản quan, thế nào?

Nghe vậy Lưu Đại Bổng Chùy mừng rơn, lập tức vui sướng chắp tay thưa:

- Thuộc hạ tuân lệnh!

Dương Lăng cởi thanh bảo kiếm được vua ban thưởng ra trao cho hắn, dặn:

- Đám quan lớn đó đều là kẻ đọc sách, nói chuyện ba hoa xích thố, miệng lưỡi trơn tru. Mặc kệ bọn họ nói cái gì, ngươi chỉ cần nói với bọn họ rằng: "Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại kinh xử lý công việc, chớ có nhớ mong!".

Lưu Đại Bổng Chùy cắm bảo kiếm vào dây đai lưng, vắt ngang thanh thiết côn dài tám thước lên trên yên ngựa, ôm quyền bẩm:

- Thuộc hạ tuân lệnh! Mặc kệ bọn họ đánh... nói lời gì, thuộc hạ quyết không để bọn họ tiến được nửa bước!

Lưu Đại Bổng Chùy cầm cây thiết côn đen thủi lên, không nói thêm tiếng nào, lập tức dẫn hai mươi tay thân binh 'đánh' về phía hậu quân.

Dương Lăng cười hắc hắc: "Để cái đám tú tài đó đi mà nói lý lẽ với ông lính này."

Rồi y quay đầu lấy hơi quát lớn:

- Trung quân quan! Hạ lệnh toàn quân tăng tốc tiến về phía trước! Cho nghìn quân thám mã đi đến Cư Dung Quan kêu cửa trước, qua khỏi ải liền thẳng tiến Tuyên Hóa, không được chậm trễ!

- Tuân lệnh!

Trung quân quan hô lớn, cây cờ nhỏ trong tay phất mấy cái, cờ xí trong tay quan hiệu lệnh chung quanh liền không ngừng biến đổi. Năm nghìn thiết kỵ chợt như hồng thủy tràn đê, xe lộc cộc, ngựa rền vang, chạy băng băng về phía Cư Dung Quan như nước lũ chảy xiết.

Thực sự Tiêu Phương đã rất tận tâm và trung thành, lão tận lực muốn giúp hoàng đế Chính Đức và Dương Lăng che giấu chuyện này, và nguyên cả ngày hôm qua lão đã thực sự kiếm cớ che giấu được. Ai ngờ đến tối, khi ba vị đại học sĩ sắp xuất cung, nội cung lại cho thái giám của cung Nhân Thọ đến điện Văn Hoa hỏi thăm rằng vì sao Hoàng thượng vẫn chưa đến hậu cung, rằng Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu muốn mời Hoàng thượng đến ngắm đèn lồng, vân vân.

Đến lúc đó thì bị lộ tẩy. Bình thường hai vị Thái hậu rất hiếm khi chủ động tìm hoàng đế Chính Đức, song bởi đang dịp năm mới, hoàng thân quốc thích kéo vào đầy cung thăm viếng. Nhân lúc cao hứng, Thái Hoàng Thái hậu và Hoàng Thái hậu mới nhớ rằng Chính Đức rất ưa náo nhiệt, bèn sai người đi tìm.

Hoảng sợ đến hồn phi phách tán, Lý Đông Dương bèn tìm đến Dương Đình Hòa, hai người cùng tìm đến điện Văn Hoa, đầu tiên là động khẩu, kế đó liền động tay động chân. Thái giám lẫn thị vệ nghe ồn ào kéo đến, trông thấy ba vị đại học sĩ đang tiến hành "thi đấu quyền anh" mừng năm mới, bọn họ không biết phải khuyên can ai thế là đành đứng ngây ra đó cả.

Lý Đông Dương và Dương Đình Hòa không biết rốt cuộc Hoàng đế đã xảy ra chuyện gì, thực sự muốn phát điên lên. Ba đại học sĩ vứt sạch sự nho nhã: Tiêu Phương ăn phải một đấm của Dương Đình Hòa, râu thì bị Lý Đông Dương bứt đi mấy cọng; một cước của lão cũng khiến Lý Đông Dương suýt nữa bỏ mạng.

Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng Thái hậu, Thái hậu, và đám công chúa, hoàng phi hay tin lập tức đều chạy lại. Tiêu Phương thấy không giấu giếm được nữa đành phải thưa thật; lại bảo rằng Hoàng đế đã hạ mật chỉ nên lão cũng không thể không tuân chỉ mà hành sự. Tam cung cả kinh, bọn họ cũng biết phái người tầm thường đi thì sẽ hoàn toàn không quản được Chính Đức, thế là bèn xua luôn cả ba đại học sĩ ra khỏi Bắc Kinh, đuổi gấp rút một ngày một đêm mới bắt kịp.

Lưu Đại Bổng Chùy dẫn hai mươi tay thiết vệ oai phong lẫm liệt xông đến phía cuối đoàn quân. Thiết kỵ sắp thành một hàng, hai mươi cây thương bạc chỉa xéo lên trời, Lưu Đại Bổng Chùy hông giắt bảo kiếm, tay cầm thiết côn, mặt mày dữ tợn.

Hắn từng nghe kể về Thượng Phương Bảo Kiếm trong lời kịch, nghe nói có vật ấy thì gặp chức quan nào mình cũng sẽ đều lớn hơn một cấp, thực oách quá đi. Hơn nữa cấp trên của hắn đã được trời định sẵn là võ tướng, hắn lại càng xem thường đám mọt sách này.

Lý Đông Dương thấy một đám thị vệ kéo đến, còn Chính Đức và Dương Lăng thì chẳng một ai lộ diện, không khỏi thầm nổi giận trong lòng.

Hoàng đế bí mật xuất kinh, hiện tại còn chưa khuyên được người trở về, lão cũng không dám tùy ý nói toạc ra, đành phải nén giận hô lớn:

- Dương Lăng, Dương tướng quân đang ở đâu? Bảo hắn ra gặp bản quan, bản quan có đôi lời muốn...

Lão chưa kịp dứt lời, Lưu Đại Bổng Chủy đã vung cây thiết côn lên trời một cách đắc thắng. Hắn rút xoạt thanh bảo kiếm từ trên đai lưng ra, giơ cao lên trời, quát một tiếng như sấm nổ, khiến ba đại học sĩ run cầm cập, thiếu chút nữa thì ngã khỏi ngựa.

Lưu Đại Bổng Chùy cố trợn thật to đôi mắt bé như hai hạt đậu xanh, cao giọng quát:

- Tuân thánh dụ, tuần biên kết thúc xong, tự nhiên rồng về biển lớn, gió êm biển lặng. Xin các vị đại nhân hãy yên tâm mà ở lại trong kinh xử lí công việc, chớ có nhớ mong!

Chú thích:

nguyên văn "Quan phổ nhi" (官谱儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 187: Quân đến Đại Đồng

Dương Đình Hòa hơi ngẩn người, rồi lão lập tức đùng đùng nổi giận, giục ngựa lên trước quát lớn:

- Lớn mật! Có biết trước mặt ngươi là ai không?

Đừng thấy ba người này xuất kinh ban đêm, bộ dạng tả tơi khốn đốn mà tưởng có thể coi nhẹ. Chỉ nhìn trang phục và khí thế của bọn họ, Lưu Đại Bổng Chùy cũng cảm thấy cả ba đều là những vị quan lớn khó dây vào. Nghe đối phương quát xong, tròng mắt gã thoáng xoay chuyển, hỏi lại:

- Các vị là ai?

Dương Đình Hòa thấy đại quân đã tăng tốc tiến đi mà gã lính khốn kiếp trước mặt này lại đưa hai mươi thị vệ dàn hàng chữ nhất chặn kín cả đường đi nên không khỏi lo lắng vô cùng. Lão liền nghiêm giọng bảo:

- Ba người trước mặt ngươi là tam đại học sĩ của Nội Các từ kinh sư tới, có việc cực kỳ quan trọng cần gặp Dương tướng quân. Mau mau tránh đường! Kẻo làm lỡ quân cơ ắt ta sẽ chém cái đầu của ngươi xuống.

Vừa nghe lai lịch của đối phương ghê gớm như vậy, khí thế của Lưu Đại Bổng Chùy cũng không khỏi kém hẳn đi. Nhưng gã lại nghĩ Dương đại soái đã trọng dụng một tên tiểu tốt như mình như vậy, nếu mình cứ để mặc bọn họ đi qua như thế này, một là sẽ phụ lòng tin tưởng của đại soái, hai là sẽ bị các chiến hữu chê cười. Thế là gã bèn lấy hết can đảm trả lời:

- Vâng lệnh đại soái, mời ba vị đại nhân mau mau về kinh! Tiểu nhân có quân lệnh trên người, không dám làm trái!

Không ngờ chỉ một viên hiệu úy cỏn con mà cũng dám cãi lại mình, Dương Đình Hòa giận dữ không kềm được nên chỉa roi ngựa về phía Lưu Đại Bổng Chùy, tức giận quát lớn:

- Ngươi... Ngươi lớn mật lắm! Ngươi nghĩ trên cổ ngươi có mấy cái đầu?

Lúc này Lưu Đại Bổng Chùy cũng đã quyết liều một phen, gã bèn hếch mũi lên trời nghênh ngang đáp:

- Quân lệnh như núi! Dù là ông Trời cũng đừng hòng qua chỗ này được.

Tiêu Phương không ngờ Dương Lăng lại phái một tên lính chẳng hiểu biết gì cản đường bọn họ, dù Dương Đình Hòa đầy bụng kinh văn cũng chẳng thể giải thích được gì với cái gã võ biền không thông lý lẽ này, quan uy thì lại càng chẳng dùng được. Thấy Dương Đình Hòa gặp cảnh như vậy, Tiêu Phương cũng thầm khoái chí trong lòng.

Lý Đông Dương đưa tay ra ngăn Dương Đình Hòa lúc này đang đùng đùng nổi giận nóng nảy vung roi lia lịa, lão vuốt râu cười nói với Lưu Đại Bổng Chùy:

- Vị hiệu úy này! Người không biết không có tội. Ngươi là sỹ tốt trong quân, chắc không biết ba người bọn ta đồng thời xuất kinh là chuyện quan trọng đến cỡ nào.

Ngươi hết lòng với nhiệm vụ, điều ấy hết sức đáng khen. Nhưng chuyện này có liên quan đến giang sơn xã tắc và muôn vạn dân chúng Đại Minh, bản quan khuyên ngươi mau mau tránh đường để bọn ta đi qua, bằng không ít nhất cũng nên chuyển lời của ta cho Dương tướng quân, xin y thay đổi suy nghĩ. Còn nếu như để lỡ việc của bọn ta, một hiệu úy nho nhỏ như ngươi không gánh vác nổi đâu. Ngươi phải biết là dù đương kim thánh thượng ở đây, một khi nghe nói có ba người bọn ta cùng tới ắt cũng biết là có chuyện động trời cần bẩm báo, ngàn vạn lần không thể chậm trễ chút nào.

Lưu Đại Bổng Chùy nghe xong không khỏi cảm thấy tức cười. Thấy vị lão tiên sinh này nói năng văn chương như vậy, bất giác gã nhớ đến một câu thoại trong vở kịch nào đó bèn ngẩng cao đầu, xổ luôn một tràng:

- Tướng ở ngoài biên cương, có lúc không cần theo lệnh vua!

Dương Đình Hòa giận đến bật cười, nói:

- Lý đại nhân! Gã tiểu tốt này thô bỉ dốt nát, không thông thời thế, nói chuyện với gã thực chẳng khác gì đàn gảy tai trâu. Người đâu, xông cả lên cho bản quan! Ta phải xem thử một tên hiệu úy cỏn con như hắn dám làm gì bọn ta nào!

Dương Đình Hòa vừa ra lệnh, lập tức đám thủ hạ tùy tùng giục ngựa xông lên. Còn Tiêu Phương thì lại quay đầu ngựa tránh sang bên cạnh, ngầm nháy mắt ra hiệu cho các thị vệ thủ hạ của mình lùi về phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy nóng ruột, vội giơ Thượng Phương bảo kiếm lên cao, lớn tiếng quát:

- Thượng Phương bảo kiếm ở đây có thể tiền trảm hậu tấu! Xem thử ai dám tiến lên?!

Thấy đám tùy tùng bắt đầu do dự, Dương Đình Hòa bèn nghiêm giọng quát lớn:

- Chuyện này liên quan đến vận mệnh quốc gia! Đừng nói chỉ là một thanh kiếm cỏn con, dù là đương kim thánh thượng ở đây cũng vậy, có gì mà không dám xông lên chứ? Mau xông lên hết cho ta!

Lưu Đại Bổng Chùy thấy đám thị vệ tùy tùng này định thúc ngựa xông tới thật, gã cũng không dám thật sự vung kiếm chém người. May quá, đột nhiên cái khó ló cái khôn, gã bèn cắm bảo kiếm vào ngang hông, cầm cây côn sắt đen thui dài tám thước của mình lên, "vút" một tiếng đánh trúng ngay vào đùi ngựa của gã thị vệ đi đầu. Con ngựa hí lên một tiếng thảm thiết, ngã gục xuống đất. Gã thị vệ đang cưỡi ngựa cũng ngã lăn quay, ngăn cản đường đi của những người ở phía sau.

Lưu Đại Bổng Chùy cười lạnh một tiếng, quát lớn:

- Đánh người phải đánh ngựa trước, đánh gãy hết đùi ngựa của bọn chúng cho ta! Để ta xem thử hai cái chân của bọn chúng có chạy nhanh hơn bốn cái chân được không?!

Hai mươi viên thị vệ nghe vậy bèn vung trường thương chuyên nhằm vào chân ngựa mà phang. Thị vệ của ba vị đại học sỹ đều là những binh lính bình thường, lúc vội vã rời kinh chỉ kịp mang theo thanh đao, quần áo trên người cũng mỏng manh, cả bọn không kịp mặc áo da dùng khi ra ngoài nên chân tay đều lạnh cóng, hành động không linh hoạt. Hơn nữa vốn kỵ thuật của bọn chúng cũng thua kém hai mươi viên thị vệ kia rồi nên làm sao có thể điểu khiển ngựa né tránh được?

Cán thương không so được với côn sắt nên không thể đánh gãy chân ngựa nhưng cũng khiến cho đám ngựa đau đớn vô cùng. Sau khi nhảy loạn một hồi bọn chúng liền không để ý đến sự điều khiển của chủ nhân nữa mà quay đầu chạy như điên về phía sau. Qua khỏi mấy chục trượng các thị vệ mới ghìm cương lại được, nhưng bất luận bọn họ hò hét thúc giục thế nào, bọn ngựa cũng không dám quay về phía trước nữa.

Hai bên đã trở mặt với nhau rồi, thói quen lỗ mãng của Lưu Đại Bổng Chùy cũng lập tức phát tác, thấy Dương Đình Hòa đích thân giục ngựa xông tới gã liền vung côn đuổi ngựa đi. Sau khi náo loạn một hồi, ngựa của ba vị đại học sỹ và mấy chục viên tùy tùng đều bị đánh cho không gãy cũng bị thương, khó thể đi tiếp được. Lưu Đại Bổng Chùy quay đầu lại thấy đại quân đã đi xa vào trong rặng núi, chỉ còn thấy một mảng cờ xí phất phơ, gã không kìm được cười lên ha hả, dẫn theo hai mươi viên thị vệ thúc ngựa bỏ đi.

Dù lòng dạ rộng rãi nhưng Lý Đông Dương cũng bị đám lính thô lỗ này khiến cho tức giận đến run người. Ông đứng trên mặt đất, tay dắt con ngựa chân thấp chân cao đang không ngừng rên rỉ đau đớn của mình, nhìn về hướng đại quân đang dần đi xa, hồi lâu vẫn chẳng thể nói được lời gì.

* * *

Tham tướng trấn thủ ải Cư Dung nhận được tin báo, từ sớm đã đội mũ mặc giáp lên cổng thành, đợi đại quân của Dương Lăng; sau khi xác nhận ấn tín khâm sai xong xuôi liền lập tức mở rộng cửa thành. Dương Lăng cũng không hề khách sáo, lập tức hạ lệnh cho đại quân đi qua.

Dương Lăng sợ Lưu Đại Bổng Chùy không ngăn nổi ba đại học sỹ nên chờ ở phía sau đoàn quân. Đến khi hai mươi mốt chiến mã phi nhanh tới nơi, hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, biết ba đại học sỹ đều không bị thương, y mừng rỡ vô cùng, lập tức dẫn theo những bộ hạ còn lại rời khỏi ải Cư Dung.

Đến khi thấy tham tướng giữ ải lại cho đóng chặt cửa thành, trái tim vốn còn thấp thỏm của Dương Lăng mới coi như yên ổn trở lại. Tham tướng giữ ải không thể nhận biết ba vị đại học sỹ, mà bọn họ ắt cũng không mang theo văn điệp thông quan do quân đội cung cấp. Như vậy cho dù có đuổi kịp đến đây thì ba vị cũng đứng hòng thuyết phục được tướng giữ ải Cư Dung mở cửa cho qua.

Đại quân đi vòng theo hướng tây nam, tiến nhanh hết cỡ, trên đường không rẽ vào tiểu huyện nào, mỗi khi nghỉ ngơi đều cắm trại tại chỗ. Hôm ấy đại quân đang đi trên cổ đạo Linh Khâu. Vùng huyện Linh Khâu này chính là nơi do Triệu Vũ Linh Vương ra lệnh khai hoang mở đất. Sau này, Hán Vũ Đế Lưu Triệt xua quân lên mặt bắc đánh Hung Nô, Tào Tháo thời Tam Quốc đóng quân mở đồn điền, Dương gia tướng thời Tống chống cự quân Liêu, tất cả đều diễn ra tại đây.

Trên đường bắc tiến, bất kể là hành quân hay ngủ nghỉ, Chính Đức đều ở chung một chỗ với sỹ tốt, đường bằng cưỡi ngựa, gặp núi leo trèo, thủy chung không chịu bước vào kiệu xe. Dù chỉ là một vị thiếu gia được nuông chiều từ tấm bé e rằng cũng không chịu được nỗi khổ sở này, huống chi là Chu Hậu Chiếu từ nhỏ đã được bao bọc hết mức.

Không ngờ hắn lại có được nghị lực như vậy, hoàn toàn khác hẳn với vẻ ham chơi biếng làm thường ngày. Không chỉ Dương Lăng, ngay đến Trương Vĩnh cũng hết sức kinh ngạc.

Đại quân đi dọc theo cổ đạo đến một ngọn núi nằm giữa những rặng núi bao quanh, đột nhiên nhìn thấy phía trước có một đội quân, nhìn thoáng qua e phải có tới hơn ba ngàn người.

Tuy nơi này cách huyện Linh Khâu chưa tới mười dặm, nhưng giữa nơi núi non thế này lại đột nhiên xuất hiện một đội quân, mà nhìn lều trại thì dường như họở đây được một thời gian rồi nên ai cũng nghi hoặc. Dương Lăng không dám sơ xuất, một mặt hạ lệnh cho đại quân dừng lại nghỉ ngơi, tăng cường phòng bị, một mặt sai tùy tùng đi dò hỏi.

Chẳng mấy chốc, viên tùy tùng dẫn theo một vị tướng quân vội vã đi vào trong lều lớn ở trung quân, Chính Đức đóng giả làm thị vệ đứng sau lưng Dương Lăng thầm quan sát. Vị tướng quân nọ chừng hơn bốn mươi tuổi, dáng vẻ cao lớn quắc thước, từ xa nhìn thấy Dương Lăng đã tươi cười cung tay thi lễ:

- Hạ quan là Tả vệ chỉ huy sứ Đại Đồng Điêu Hóa Thần, bộ hạ của Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đại nhân, bái kiến Dương đại nhân! Dương đại nhân đi đường vất vả rồi.

Dương Lăng thầm ngạc nhiên, hiện giờ chiến sự ở tiền phương đang căng thẳng, Hồ Toản phái ba nghìn quân đóng ở đây là để làm gì chứ?

Hai bên nói chuyện đôi câu, Dương Lăng bèn mời hắn ngồi xuống, hỏi:

- Điêu chỉ huy, đây là nơi nào vậy? Tiền phương đang giao chiến với Thát Đát, là lúc cần dùng người, tại sao lại cho đóng đại quân ở đây? Có việc gì quan trọng hay sao thế?

Việc cơ mật quân sự thì dù là đại thần trong triều cũng không tiện hỏi, nhưng Dương Lăng ngoài việc đến ủy lạo quân đội còn kiêm cả tuần tra, có quyền quản lý toàn bộ cuộc chiến ở tiền phương. Lúc cần y có thể dùng Kim phê lệnh tiễn và Khâm sai kim ấn để điều động đại quân, do đó y hỏi câu này cũng không có gì là quá phận.

Điêu Hóa Thần là thân tín của Hồ Toản, việc kinh sư phái Đề đốc Nội xưởng và Kinh doanh đến tuần tra vùng biên cảnh đã được truyền tới qua đường dịch trạm rồi nên hắn cũng biết nội tình. Tất nhiên hắn không dám nói dối, vội vàng đáp:

- Đại nhân có điều không biết! Từ nơi này đi đến Đại Đồng, giữa vùng núi non có rất nhiều cửa ải, duy có men theo cổ đạo này là không có cửa ải hiểm trở nào.

Thát Đát đã bị Dương tổng chế kìm chân, muốn rút cũng không rút được, nay quân lương cạn hết lại không thu được lợi ích gì. Không biết gian tế Thát Đát làm thế nào mà lần ra được con đường này, bọn chúng phái hơn ngàn người ngựa men theo con đường nhỏ trong núi lách qua các cửa ải để tập kích Linh Khâu, cướp đi một lượng lớn tiền tài lương thảo. Hồ tuần phủ hay tin liền sợ giặc Thát nếm được trái ngọt sẽ còn đến nữa, do đó lệnh cho hạ quan đóng quân tại đây.

Tới lúc này Dương Lăng mới biết nguyên nhân. Lại nghĩ đến tình hình vừa rồi, nơi này là một khe núi giữa vùng núi non, nếu muốn một đội ngũ hơn ngàn người đi xuyên qua rặng núi thì cũng chỉ có khe núi này là không có phòng bị nên có thể dễ dàng vượt qua được. Thật là làm khó cho đám gian tế Thát Đát kia, không biết đã phải hao phí bao nhiêu công sức mới tìm ra được con đường này cho quân đội cướp bóc.

Đừng coi nhẹ tác dụng của một con đường trong chiến tranh. Nếu quân Thát Đát lợi dụng con đường bí mật này không ngừng đi vòng đến phía sau đại quân cướp bóc lương thực, cuộc chiến cứ kéo dài tiếp sẽ khó mà dự liệu được việc thắng bại. Ngăn con đường này lại, nhuệ khí quân địch ắt sẽ giảm mạnh, ngay đến đám tướng lĩnh Thát Đát cũng sẽ mất dũng khí tiếp tục chiến đấu. Chẳng trách lúc tháng chạp giữa mùa đông này mà còn có ba nghìn người ngựa đóng ở đây, vất vả canh phòng trên ngọn núi này.

Dương Lăng gật đầu:

- Thì ra là vậy! Đại quân của ta đêm nay cũng đóng lại đây thôi, ngày mai sẽ khởi hành tiếp tục đến Đại Đồng. Đúng rồi, nơi này gọi là gì nhỉ?

Điêu Hóa Thần đáp:

- Nơi này thời xưa gọi là Bình Hình Trại, đến thời Tống, Nguyên thì gọi là Bình Hình Trấn. Bởi vì trên ngọn núi này có một khoảng đất rộng hơn chín trăm trượng vuông, trời sinh đã bằng phẳng vuông vức, do đó sau khi Đại Minh ta lập quốc, nó được đổi gọi là Bình Hình Lĩnh (Chữ "bình" ở đây nghĩa là bằng phẳng, khác với chữ "bình" trước đó là cái bình, cái lọ - ND).

Hai bên tán gẫu một phen, rồi Dương Lăng đưa Điêu Hóa Thần ra ngoài lều, đứng trên đỉnh ngọn núi đưa mắt nhìn về hướng xa. Lúc này mặt trời vừa lặn xuống sau dãy núi, chỉ còn lại chút ánh tà dương mờ nhạt, lớp tuyết trùng trùng điệp điệp được phủ lên bởi một tầng ánh sáng hồng nhạt.

Chính Đức đi đến bên cạnh Dương Lăng, đưa tay che bớt ánh sáng, nheo mắt nhìn về hướng xa một hồi, rồi nói:

- Ừm, giữa rặng núi này quả nhiên chỉ có hẻm núi này là đại quân có thể đi qua. Nhìn từ trên đỉnh núi xuống, huyện thành Linh Khâu như ở gần ngay trước mắt, nơi đó thành nhỏ tường thấp, không có chỗ nào hiểm yếu để phòng thủ, thực là nguy hiểm.

Chỉ là đóng quân lâu dài tại nơi này thì không khỏi vất vả quá. Trương Vĩnh, ngươi ghi nhớ lấy! Ngay khi về kinh hãy kêu bộ Binh xây một cửa ải trên Bình Hình Lĩnh này để cản đường quân địch, rồi liệt nó vào danh sách các cửa ải trọng yếu chốn biên cương, lấy tên là ải Bình Hình.

Trương Vĩnh vâng dạ liên hồi. Dương Lăng nghe đến đây thì không khỏi lấy làm ngạc nhiên liếc nhìn Chính Đức, nghĩ bụng: "Bình Hình Lĩnh, ải Bình Hình, vừa rồi sao mình không nghĩ ra nhỉ, thì ra... ải Bình Hình nổi tiếng lại là do chính Chính Đức hạ chỉ cho xây dựng."

Chính Đức thấy ánh mắt y có điều khác lạ, không kìm được cười hỏi:

- Sao Dương khanh lại nhìn trẫm như thế? Trẫm nói có gì không đúng sao?

Dương Lăng vội vàng cười đáp:

- Hoàng thượng nói đúng lắm! Xây dựng một cửa ải ở chỗ hiểm yếu này quả thực có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn giặc Thát. Có điều phòng ngự bị động thì không có cửa ải nào mà không bị phá, chúng ta còn cần phải...

Chính Đức cả cười, cướp lời:

- Chúng ta còn cần phải phú quốc cường binh, chủ động xuất kích, tiêu diệt giặc mạnh ở ngay bên ngoài biên ải, phải vậy chăng?

Nói rồi vua tôi đưa mắt nhìn nhau, không kìm được cùng vỗ tay cười lớn.

***

Đại quân cuối cùng cũng đã tới Đại Đồng. Tổng chế Tam biên Dương Nhất Thanh điều quân đóng tại các cửa ải hiểm yếu trên Trường Thành, trước mắt ông ta đang ở Trấn Khương Bảo. Nơi đó vốn có chợ chuyên buôn bán ngựa giao dịch với quan ngoại, được xây dựng ngay sát mặt ngoài của Trường Thành.

Để tiện cho việc chỉ huy vùng lân cận nên Dương Nhất Thanh cho lập quân doanh tại đây, Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản đích thân áp tải lương thảo đến Trấn Khương Bảo, hiện đang cưỡi ngựa vội vã trở về. Hay tin kéo tới nghênh tiếp đón đại quân của Dương Lăng vào thành là quan viên các cấp ở nha môn Tuần phủ. Trên đường hành quân, bọn Dương Lăng thấy tòa thành lớn vốn phồn hoa này đã trở nên tiêu điều hơn không ít, quan binh trên đường còn nhiều hơn dân chúng.

Các quan viên nghênh đón khâm sai đến dịch quán. Dịch quán ở nơi này so với dịch quán Xương Bình nơi Dương Lăng từng ngụ lại tất nhiên là hoàn toàn khác hẳn. Khu nhà hào hoa nằm ở lớp thứ ba của dịch quán dành riêng để nghênh tiếp đại thần, được bố trí cực kỳ xa hoa. Dương Lăng vào ở trong dịch quán, phía ngoài dịch quán thì để cho hai trăm thân binh của bản thân và ba trăm thị vệ đại nội cư trú, các quan binh còn lại thì được sắp xếp đến học cung (trường học thời xưa - ND) hoặc là cho cắm trại ở thao trường.

Bận rộn một hồi mọi việc mới xong xuôi, Dương Lăng liền tiễn các vị đại nhân ra đi. Y trở về dịch trạm, nghênh đón Chính Đức vào trong thu xếp cho hắn ở phòng của mình, rồi cười nói:

- Hoàng thượng! Trên đường ngài cũng đã phải chịu vất vả rồi, nay rốt cuộc cũng có nơi thoải mái hơn một chút. Ngài cứ nên ở lại đây mà nghỉ ngơi dưỡng sức đi, đợi sau khi thần thông báo cho Hoa Đáng, tất cả mọi việc được an bài ổn thỏa rồi ngài sẽ lên núi Bạch Đăng đàm phán với y là xong.

Chính Đức gật gật đầu, rồi lại hỏi:

- Dương Nhất Thanh đang ở Trấn Khương Bảo, lúc nào mới có thể trở về? Trẫm muốn tìm hiểu một chút về tình hình chiến sự cụ thể.

Dương Lăng nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi đáp:

- Bá Nhan nóng lòng thoát thân, nhưng lần này hắn trộm gà không thành còn mất nắm gạo, các bộ lạc tổn thất nặng nề. Vốn nội bộ Thát Đát đã không ổn định rồi, bây giờ chưa chiếm được chút lợi lộc nào ắt hẳn hắn chẳng cam tâm rút về. Nay hắn đang cùng Dương Nhất Thanh có công có thủ, chiến sự kịch liệt, thần nghĩ đừng nên thông báo cho Dương Nhất Thanh biết việc Hoàng thượng đến đây thì hơn. Để thần đến Trấn Khương Bảo thăm y là được.

Chính Đức cả mừng:

- Hay lắm! Trẫm đang muốn đến quan ải xem cảnh chém giết ngoài chiến trận, đến lúc đó trẫm sẽ đi với khanh. Đúng rồi, Đại vương là phiên vương ở Đại Đồng, khanh đã đến đây rồi, theo lễ phải đi bái kiến. Khanh chuẩn bị lúc nào thì đi?

Dương Lăng đáp:

- Hôm nay trời đã tối, không tiện đến phủ Đại vương bái kiến, thần định ngày mai sẽ đi. Hoàng thượng cũng muốn đi sao?

Chú thích:

nguyên văn "Quan phổ nhi" (官谱儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 188: Mỗi người một suy nghĩ

Chính Đức hơi do dự:

- Năm kia Thát Đát thiếu chút nữa đánh chiếm được Đại Đồng, Đại vương liền chạy đến kinh sư khóc lóc kể lể với phụ hoàng nên từng gặp trẫm một lần. Nếu mà gặp lão...

Rồi hắn đột nhiên nhướng mày, cười nói:

- Đi thì đi! Ta là thị vệ, chẳng gặp được lão đâu! Nếu cả ngày phải ở trong này thì có khác gì lúc ở kinh sư chứ?

Hai người đang nói cười, chợt có một viên thị vệ đi tới bẩm báo:

- Bẩm đại nhân! Tuần phủ Hồ đại nhân về thành rồi, đang tiến vào trong phủ.

Viên thị vệ này cũng biết thân phận của Chính Đức, có điều Dương Lăng sớm đã dặn dò tất cả những người nhìn thấy Chính Đức đều không được lộ vẻ gì khác lạ, kẻo lại khiến người hữu tâm nảy lòng cảnh giác. Vì vậy hắn cũng không dám bái kiến Hoàng thượng, chỉ hơi liếc nhìn về phía Chính Đức.

Dương Lăng ngẩn người ra, Hồ tuần phủ đã đến tận đây rồi? Tuy phẩm cấp của lão cao hơn của mình, nhưng dù sao mình cũng có cái mác Khâm sai, hơn nữa xét về thực quyền thì lão hoàn toàn không bằng mình được, tại sao lại không thông báo trước một tiếng? Thế này thì không khỏi hơi thất lễ rồi.

Đang định đến thư phòng gặp Hồ Toản, chợt Dương Lăng nghe từ bên ngoài vang lên tiếng quát lớn:

- Nơi ở của Khâm sai, không được tùy tiện xông vào.

Kế đó lại nghe một giọng khác cũng quát to không kém:

- Cặp mắt chó của ngươi mù rồi hả? Ta là Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản. Nơi này ngoài Đại vương điện hạ ra, Hồ mỗ ta là người cao nhất, có nơi nào mà ta không xông vào được?

Hừm! Vị Tuần phủ này kiêu căng quá rồi thì phải? Dương Lăng không biết Hồ Toản làm quan như thế nào, nhưng nghe giọng điệu này của đối phương, ấn tượng đầu tiên của y chính là vị Tuần phủ này quá hống hách ngang ngược.

Dương Lăng đưa mắt liếc nhìn Chính Đức, rồi đẩy cửa bước ra bảo:

- Cho ông ta vào đây! Hồ tuần phủ, bản quan tuy phẩm cấp thấp hơn ngài, nhưng hiện là Khâm sai. Hành dinh của Khâm sai cũng là nơi mà ngài có thể xông bừa vào hay sao?

Y vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra cửa, thấy các thị vệ đại nội đang ngăn cản một viên quan văn. Lúc này bọn họ đang tách qua hai bên nên y có thể nhìn thấy rõ hình dạng của viên quan. Y thấy người này dáng vẻ nho nhã, mặt mũi trắng trẻo, tuổi tác dường như chưa tới năm mươi, cũng không giống một kẻ kiêu căng hống hách, cơn giận của Dương Lăng liền giảm đi vài phần.

Nào ngờ vị Hồ tuần phủ này vừa nhìn thấy y, khuôn mặt lại càng tỏ ra giận dữ. Hai nắm tay siết chặt, ông ta rảo bước tiến thẳng tới, không đợi chủ nhân dẫn đường mà đã nghênh ngang bước vào phòng khách ngay.

Dương Lăng cảm thấy rất khó hiểu, không biết mình đã đắc tội với ông ta ở chỗ nào. Y cố giữ bình tĩnh, khoát tay ra hiệu cho các thị vệ lui ra, rồi sau đó xoay người theo Hồ Toản đi vào phòng khách. Trong phòng chỉ có hai người Chính Đức và Trương Vĩnh. Tuy Chính Đức đang mặc trang phục hiệu úy nhưng lại đang đứng ở phía trước.

Hồ Toản thi đỗ tiến sỹ, sau được thăng làm Tả thị lang bộ Hộ, kế đó lại được điều đến Đại Đồng nhậm chức Tuần phủ. Đó đều là chuyện của thời Hoằng Trị, sau khi tân đế đăng cơ ông ta còn chưa gặp thiên tử bao giờ. Hồ Toản cẩn thận quan sát Chính Đức một hồi, do dự không dám tùy tiện bái kiến. Thấy Dương Lăng bước vào, ông ta lập tức quát hỏi:

- Thánh giá ở đâu?

Sắc mặt Dương Lăng biến đổi, y kinh hãi thốt:

- Hồ đại nhân! Ngài nói gì thế?

Hồ Toản cười lạnh, rút từ trong ống tay áo ra một bức thư, hậm hực:

- Dương tướng quân! Ngài chặn ba vị Đại học sỹ ở ải Cư Dung, bọn họ không đi qua được, nhưng tốc độ của dịch trạm lại nhanh hơn quân đội của ngài mấy lần. Lá gan ngài lớn thật, không ngờ lại dám đưa Hoàng thượng đến nơi hiểm địa này. Ta hỏi ngài, thánh giá ở đâu?

Dường như vừa ăn phải thuốc súng, Hồ Toản nổi giận bừng bừng, trợn trừng cặp mắt đỏ rực lên nhìn Dương Lăng. Chính Đức thấy vậy liền khẽ ho một tiếng, nói:

- Trẫm ở đây! Hồ ái khanh đừng chất vấn Dương Lăng nữa, chính trẫm muốn xuất kinh. Chẳng qua Dương khanh chỉ làm theo ý chỉ của trẫm mà thôi.

Hồ Toản ngoảnh đầu nhìn qua, thấy vị thái giám mặc áo mãng long bào đứng sau lưng viên hiệu úy khẽ gật gật đầu với mình, liền vội bước lên một bước sụp lạy, thưa:

- Vi thần Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản, khấu kiến Hoàng thượng.

Chính Đức cười nói:

- Ái khanh bình thân! Trẫm cải trang xuất kinh, người biết rất ít, khanh đừng nói ra ngoài. Trẫm biết ba vị Đại học sỹ đều có lòng tốt, cũng do ba vị lo lắng cho sự an toàn của trẫm. Nhưng lần này trẫm đến Đại Đồng do có chuyện quốc sự cực kỳ quan trọng, chuyện này vốn cũng không định giấu khanh và Dương Nhất Thanh, chỉ là muốn đợi một thời gian nữa mới nói mà thôi.

Hồ Toản đứng dậy, nghiêm trang đáp:

- Bất luận là chuyện lớn thế nào thì cũng nên để bọn thần chia xẻ âu lo thay Hoàng thượng, há có lý nào để thiên tử đích thân đi tới nơi hiểm địa? Hiện Đại Đồng đang lúc chiến tranh loạn lạc, không tiện ở lâu, khẩn cầu Hoàng thượng lập tức khởi giá hồi kinh!

Chính Đức thầm tức cười, vị Tuần phủ này cũng thật thú vị! Văn võ khắp triều ngay cả khi Lưu Kiện, Tạ Thiên còn tại vị, ba Đại học sỹ cũng không dám trực tiếp ra lệnh cho Hoàng thượng như thế. Hóa ra ông ta không chỉ nói năng khó chịu với vị Khâm sai Dương Lăng, mà đối với Hoàng thượng cũng vẫn dùng giọng điệu kiểu như vậy.

Chính Đức thản nhiên ngồi xuống ghế, vắt chân chữ ngũ bảo:

- Trẫm đã nói rồi. Lần này trẫm đến đây là có chuyện quốc sự cực kỳ quan trọng, chưa làm xong trẫm không muốn về kinh. Nếu Hồ ái khanh muốn biết rõ mọi chuyện có thể hỏi Dương Lăng, bằng không thì hãy về đi!

Khuôn mặt Hồ Toản trở nên đỏ bừng hệt như con gà chọi, ông trừng mắt nhìn Chính Đức:

- Chủ lo thì thần cần dốc sức, chủ nhục thì thần phải lấy cái chết báo đền. Để mặc Hoàng thượng đi vào nơi nguy hiểm, thần dù chết vạn lần cũng không chuộc hết tội. Nếu Hoàng thượng không chịu về kinh, thần sẽ chết trước mặt Hoàng thượng ngay!

Chính Đức ngẩn người, hồi lâu sau mới cười nói:

- Thế này... Thế này là cái lý gì chứ? Không phải ngươi đang lấy cái chết để uy hiếp trẫm sao? Trẫm không về kinh, cũng không cho ngươi chết, ngươi lui xuống đi!

Hồ Toản lớn tiếng đáp:

- Hôm nay thần đến đây ắt phải khuyên được Hoàng thượng về kinh. Hoàng thượng mà không đi tức là thần không làm tròn bổn phận, chỉ đành chọn cái chết mà thôi.

Vừa nói ông vừa đưa tay vào trong ngực. Chính Đức cả kinh, quát lên:

- Ngươi dám mang dao đến kiến giá?

Dương Lăng cũng lao nhanh đến chắn trước mặt Chính Đức, đưa tay nắm chặt chuôi đao của mình. Hồ Toản nói:

- Chưa được cho phép mà mang đao kiến giá là đại tội phản nghịch, thần quyết không dám. Cổ nhân mang lòng trung can gián đều húc đầu vào cột tìm cái chết...

Hồ Toản vừa nói vừa đưa mắt nhìn xung quanh, không thấy trong phòng có cây cột nào, ông ta bèn nói tiếp:

- Quân tử yêu vua không yêu tấm thân mình. Thực ra có nhiều cách chết lắm, thần đã có chuẩn bị sẵn rồi.

Vừa nói ông ta vừa móc từ trong ống tay áo ra một gói giấy, mở ra định dốc chỗ thuốc bột vào miệng. Dương Lăng cả kinh, y còn chưa kịp xông đến thì Chính Đức đã phản ứng trước rồi. Hắn lao vọt tới bên cạnh Dương Lăng, đoạt ngay lấy gói giấy trong tay Hồ Toản.

Chỗ thuốc bột rơi cả vào tay Chính Đức. Trương Vĩnh cũng không biết đó là loại độc dược gì, dính vào da liệu có hại gì hay không nên sợ hãi la ầm lên. Lập tức có mấy viên thị vệ xông vào khống chế Hồ Toản. Trương Vĩnh vội kêu người mang nước tới, trước dùng khăn bông lau sạch tay Chính Đức, sau đó rửa đi rửa lại vài lần.

Dương Lăng cau mày:

- Tuần phủ đại nhân! Hoàng thượng đích thân đi tuần tra biên cảnh cũng là vì giang sơn xã tắc. Chuyện lớn lần này không có Hoàng thượng thì ắt chẳng thành, sao ngài có thể tùy tiện lấy cái chết ra can gián như thế chứ?

Hồ Toản cả giận:

- Tấm thân tôn quý của Hoàng thượng há có thể tùy tiện đi đến nơi hiểm địa? Việc "Thổ Mộc chi biến" hãy còn sờ sờ ra đó, ngươi muốn hại Đại Minh, hại bản thân bị chém cả nhà hay sao?

Dương Lăng cũng không khỏi cả giận, lẫm liệt trả lời:

- Câu nào cũng nhắc tới năm xưa, tại sao không nói xa hơn một chút? Sao không nhắc đến Hồng Vũ hoàng đế máu nhuộm chiến bào đánh lấy giang sơn vạn dặm? Sao không nhắc đến Vĩnh Lạc hoàng đế năm lần đánh Tái Bắc, một đời chiến chinh? Từ xưa đến nay, phàm là lúc đất nước bên trong nguy nan, bên ngoài chịu nhục, có vị thiên tử tài đức nào mà chỉ trọng văn trị mà không trọng võ công?

Dương Lăng sục sôi chí khí cao giọng nói tiếp:

- Kẻ làm bầy tôi trung với vua là tấm lòng, phò trợ vua là trách nhiệm, ngài có một trái tim trung với vua, nhưng còn cần phải dốc sức phò trợ vua nữa. Ngài muốn phò tá đương kim Hoàng thượng trở thành bậc đế quân văn trị võ công, anh minh thần vũ hay là muốn đương kim Hoàng thượng được bảo vệ kỹ càng trong Tử Cấm Thành, muốn thiên tử còn trẻ không được xuất cung một bước, không hiểu nhân tình thế thái, làm vật tượng trưng trên danh nghĩa cho triều đình, làm một con rối cho vạn dân triều bái?

Những lời này của Dương Lăng không ngờ đã khiến Hồ Toản chấn động, nhất thời ông không nói được tiếng nào.

Dương Lăng thở ra một hơi, nói tiếp:

- Tuần phủ đại nhân đã biết Hoàng thượng ở đây, hãy nên hiệp trợ bản quan làm tốt việc phòng ngự Đại Đồng, ắt Hoàng thượng sẽ an toàn rất mực. Hoàng thượng đến đây là do có một chuyện cực kỳ quan trọng cần làm, hiện giờ Hồ tuần phủ có bằng lòng nghe bản quan kể lại tường tận mọi việc không?

Hồ Toản im lặng hồi lâu, cuối cùng mới cung tay hậm hực đáp:

- Xin được nghe rõ!

Giọng đã không còn cứng rắn như trước nữa.

Dương Lăng khẽ mỉm cười, khom người thưa với Chính Đức:

- Hoàng thượng hãy nghỉ ngơi đi! Thần xin tạm lui ra trao đổi với Hồ đại nhân một lát.

Chính Đức nghe vậy bèn vội xua tay bảo:

- Các khanh cứ đi đi, đi đi!

Nhìn thấy hai người đã ra khỏi cửa, Chính Đức mới ngồi phịch xuống ghế, thở phào nói với Trương Vĩnh:

- Cái gã họ Hồ này cũng đáng sợ quá đi! Không có việc gì thì ngàn vạn lần đừng để trẫm nhìn thấy hắn nữa!

Dương Lăng và Hồ Toản nói chuyện với nhau trong phòng suốt nửa canh giờ, cuối cùng Hồ Toản mới hiểu được mục đích của Chính Đức khi tới đây. Tuy là quan văn nhưng đã quen thuộc với việc quân sự ở Đại Đồng, tất nhiên Hồ Toản hiểu rằng nếu có thể lôi kéo được Đóa Nhan Tam Vệ thì không những Đại Minh bớt đi một mối nguy hiểm bên ngoài Trường Thành, mà xét về mặt lâu dài còn thu được lợi ích cực lớn.

Nếu thật sự có thể thay đổi loại chợ mậu dịch nhỏ lẻ như trước kia, cùng Đóa Nhan Tam Vệ thực hiện những cuộc giao dịch lớn về trà và ngựa thì khu vực Hà Sáo sẽ trở thành nơi cung cấp ngựa tốt cho Đại Minh. Từ đó hoàn toàn thay đổi cục diện chiến lược hiện nay mà quân đội Đại Minh đang chỉ giỏi phòng thủ không giỏi tấn công.

Có điều nghĩ đến việc Hoàng đế đích thân đi vào nơi nguy hiểm, Hồ Toản liền cảm thấy hãi hùng khiếp vía. Lão do dự:

- Đại Đồng thành cao tường dày, ngoài thành có mấy vạn đại quân của Dương tổng chế, theo suy nghĩ của bản quan, hẳn sẽ không đến mức bị Thát Đát xâm nhập. Nhưng gần đây giặc Thát thiếu thốn lương thảo nên chúng thường phái những đội quân nhỏ lẻn qua giữa những khe hở của đại quân ta mà tới hậu phương cướp bóc, hơn nữa vừa tấn công xong liền rút đi ngay, khiến người ta hết sức đau đầu. Việc này thường ngày thì cũng chẳng sao, nhưng nhất thiết không được để Hoàng thượng rời khỏi dịch quán.

Dương Lăng đáp:

- Việc này thì tất nhiên ta hiểu rõ. Ngàn vạn lần không được để Hoàng thượng tùy tiện đi vào nơi hiểm địa.

Hồ Toản lại nói:

- Đại vương điện hạ chấp chưởng Đại Đồng. Việc Hoàng thượng ở đây là việc quan hệ trọng đại, có nên thông báo với Đại vương không?

Năm xưa Chu Nguyên Chương phân đất phong vương cho các con, con trai thứ mười ba là Chu Quế được giao cho đất Đại Đồng, là một trong Cửu vương vùng biên ải. Sơn Tây có ba vị vương gia: Tấn vương ở Thái Nguyên, Đại vương ở Đại Đồng, Thẩm vương ở Lộ An.

Khác hẳn với các vị vương gia ở trung nguyên, bọn họ đều có quyền can dự vào việc chính trị và quân sự ở địa phương, chính là lên ngựa quản quân, xuống ngựa quản thần, thay Hoàng đế thống trị vùng biên ải.

Do đó đừng cho rằng nơi này có Tổng chế Tam biên, có Tuần phủ đại nhân là đầu não cao nhất về quân sự chính trị. Thực ra người thống trị và chỉ huy tối cao ở Đại Đồng chính là Đại vương; ngoài ra Đại vương và Thẩm vương còn chịu sự quản hạt của Tấn vương.

Dương Lăng thoáng ngập ngừng:

- Chuyện này tạm thời đừng nói với Đại vương thì hơn. Đại vương mà hay tin ắt sẽ trở nên bồn chồn lo âu, mà trong phủ Đại vương đông người, phức tạp. Lỡ mà để lộ tin trước khi Đóa Nhan Tam Vệ phái người đến thương nghị, tất Bá Nhan Mãnh Khả sẽ ra sức ngăn cản.

Hồ Toản suy nghĩ một lúc rồi giậm chân đáp:

- Được! Vậy bản quan xin cáo từ.

Hồ Toản nhíu chặt đôi mày, tràn đầy ưu lo cáo từ rời đi. Ngay cả nha môn Tuần phủ ông cũng không về mà ngay lập tức chạy thẳng lên tường thành phái thêm người tăng cường phòng ngự.

* * *

Cửa hàng da họ Hàn là một cửa hàng buôn bán da vừa thành lập không lâu ở Đại Đồng, nhưng chỉ sau nửa năm đã trở thành một trong những số ít cửa hàng buôn bán da lớn ở nơi đây.

Từ khi đoạn tuyệt việc giao dịch ngựa với Thát Đát, đặc sản của hai vùng Nam Bắc đều phải dựa vào vận chuyển thủ công để buôn bán, gần như là một nửa buôn lậu, một nửa hợp pháp. Do đó lượng hàng hiển nhiên khó có thể cung ứng cho những nhà buôn có nhu cầu lớn ở các nơi.

Mà Hàn Lâm lại có thể đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người, bất kể là hàng da chất lượng loại nào, muốn có bao nhiêu thì cửa hàng da họ Hàn đều không hề do dự. Hơn nữa chủ tiệm Hàn Lâm là người hào sảng, mua bán công bằng, rất có tác phong của người trên chốn giang hồ, do đó việc làm ăn càng ngày càng phát đạt. Phần lớn những thương nhân buôn bán da miền Nam khi lên phương Bắc buôn bán đều chọn giao dịch với y.

Cửa hàng của họ Hàn nằm trên con đường Đông Đại Nhai phồn hoa nhất Đại Đồng, cách phủ Đại vương không xa, bên trái là một cửa hàng xe ngựa, bên phải là khách điếm kiêm tửu lâu tên "Trạng Nguyên lâu" cực kỳ hào hoa.

Bởi vì chiến tranh và tuyết lớn thường xuất hiện vào mùa đông, do đó theo quy luật của các cửa hàng da ở đây, vừa đến mùa đông thì tất cả liền lập tức dừng làm ăn. Tuy nhà họ Hàn vẫn có một số ít khách hàng tìm đến, nhưng phần lớn nhân công đã trở về nhà tránh rét, trong cửa hàng vắng vẻ hiu quạnh vô cùng.

Một người lùn thấp mặc áo da dê, đi đôi ủng da chống trơn trượt bước lộp cộp lên lầu, đẩy cửa bước vào rồi tiện tay lột chiếc mũ da dê giữ ấm che kín cả mũi và miệng xuống, để lộ ra một khuôn mặt tròn xoe đỏ bừng. Đây là một thiếu niên mày rậm mắt to trông khỏe mạnh kháu khỉnh.

Em cầm chiếc bình trà lớn để trên bàn lên tu ừng ực một ngụm, sau đó mới lau miệng hào hứng kể:

- Cha! Con nhìn thấy anh rể rồi, hiện giờ anh ấy đã vào ở trong dịch quán.

Trên lò than đặt một chiếc nồi đất, những miếng thịt dê tươi ngon đã được thêm gia vị đang sôi sùng sục không ngừng, hương thơm tỏa ra khắp phía. Trên bàn còn bày một số món ăn để nhắm rượu như lá sen khô, nhân hạch đào.

(té ra lá sen khô có thể nhắm rượu!!)

Một người đàn ông chừng hơn bốn mươi tuổi, thân hình tráng kiện, ngũ quan thô kệch bỏ chiếc hồ lô rượu màu nâu vàng xuống, trừng mắt rầy:

- Thằng nhóc con, ta còn cần ngươi nói sao? Chúng ta cắm rễ ở đây quyết không được để người ta biết là có quan hệ với anh rể của ngươi, ngươi không để lộ tẩy gì đấy chứ?

Chú nhóc kia tất nhiên chính là Hàn Mãn Thương, em cười hề hề, đắc ý đáp:

- Làm gì có chứ cha? Con nhìn thấy anh rể rồi bèn đi theo đội quân của anh ấy một đoạn, nhưng anh ấy không nhìn thấy con. Cha! Cha nói xem lúc nào thì anh rể sẽ đến thăm chúng ta? Con thật nhớ anh ấy quá, lại càng nhớ tỷ tỷ. Hì hì! Tỷ tỷ sắp sinh em bé rồi, con sắp được làm cậu rồi, nghĩ thật là vui.

Ngoài miệng thì mắng con, nhưng đôi mày Hàn Lâm lại giãn hẳn ra, hiển nhiên ông cũng rất vui vẻ. Ông ta ồ một tiếng, đáp:

- Vị công tử Ngũ Hán Siêu do anh rể con phái tới mãi đến hôm kia mới rời thành. Bên ngoài đang đánh trận, y phải đi theo đường nhỏ, tuy rằng có người chúng ta phái đi dẫn đường, nhưng e là lúc này vẫn chưa đến được nơi cần đến đâu. Chắc anh rể ngươi còn phải ở lại đây một thời gian nữa.

Ông ta khẽ giơ ngón tay cái lên:

- Lăng nhi đi theo vị đó đến đây, đó là chuyện lớn bằng trời e là y không thể lập tức đến gặp chúng ta. Con đừng nôn nóng, cứ kêu đám người làm đi nghe ngóng tin tức, chú ý tất cả động tĩnh của các hạng người trong thành, đừng làm hỏng chuyện lớn của anh rể con.

Hàn Mãn Thương thất vọng ngồi phịch xuống một chiếc ghế dài, chụp lấy hồ lô rượu của cha nhấp một ngụm rượu nhỏ. Bé lại vội vã cầm đũa gắp một miếng thịt dê nóng hổi từ trong nồi lên, khẽ thổi mấy hơi rồi bỏ vào miệng rồi đáp:

- Dạ, chuyện này cha không cần quá lo lắng đâu! Trong thành mà có người lạ nào ra vào ắt là không thể giấu được cặp mắt của đám người làm đó. Có ai lại nảy lòng cảnh giác với những thằng nhóc chạy loạn xạ khắp thành đó chứ?

- Đúng rồi! - Hàn Mãn Thương nằm bò xuống bàn, vừa đung đưa chân vừa nói tiếp - Mấy tay thương nhân ở Trạng Nguyên lâu cha đã điều tra rõ chưa? Người chạy đến đây làm ăn vào khoảng thời gian này không nhiều, vậy mà ông chủ của bọn họ còn ở phía sau!? Họ đã ở liền một mạch tới bảy tám ngày rồi, đúng là lạ thật!

Hàn Lâm lắc đầu đáp:

- Còn chưa điều tra được gì cả. Có lẽ đó là những thương nhân mới vào nghề, không hiểu thời vụ với tình hình ở nơi này. Bà chủ và những người hầu đó đều ở trong khách điếm cả ngày, không giống như là người có mưu đồ gì.

Trong thời chiến tranh loạn lạc này, phải mang theo một lượng lớn tiền bạc và hàng hóa xông pha nam bắc nên có đám người hầu tinh thông võ nghệ cũng là việc bình thường. Hơn nữa quan sát giấy thông hành và hộ tịch của bọn họ đều không thấy có gì đáng nghi, nhưng để đề phòng tình huống bất ngờ, ta vẫn kêu tiểu nhị ở khách điếm chú ý đến bọn họ hơn.

* * *

Trạng Nguyên lâu là khách điếm lớn nhất Đại Đồng, đã có lịch sử hơn trăm năm. Vương phi của Chu Quế, Đại vương đời đầu tiên, là thứ nữ của danh tướng Từ Đạt. Bà này khá có phong thái như phụ thân, tuy tướng mạo bình thường nhưng lại một thân võ nghệ. Khi được gả vào phủ Đại vương, bà dẫn theo một nha đầu tùy thân họ Tống cũng tinh thông võ nghệ. Về sau, cô tỳ nữ này rời vương phủ gả cho người khác, rồi thành lập nên Trạng Nguyên lâu ở đây.

Có mối quan hệ này với phủ Đại vương, tửu lâu càng ngày càng mở rộng, dần dần phát triển thành một tổ hợp quán rượu, khách điếm, sòng bạc, kỹ viện. Trạng Nguyên lâu chiếm diện tích rất lớn, tuy làm ăn rất nhiều ngành, nhưng mỗi loại đều có khu vực riêng. Ngay đến khách điếm cũng phân ra làm ba tòa lầu có cấp bậc cao, trung, hạ khác nhau, do đó các hạng tam giáo cửu lưu đều muốn ở trọ tại đó. Rồng rắn hỗn tạp, đây là nơi dễ nghe ngóng tin tức nhất.

Tuy Đại Đồng là nơi chiến loạn nhưng đồng thời cũng là nơi dễ phát tài nhất. Qua hơn trăm năm, các đời chủ nhân của tửu lâu này kiếm được rất nhiều tiền của. Năm kia, thiếu chút nữa thì giặc Thát đánh được vào thành khiến cho chủ nhân tửu lâu vô cùng sợ hãi không muốn tiếp tục ở lại đây. Nhưng số người có thể bỏ ra một khoản tiền lớn mua lại Trạng Nguyên lâu quả thực không nhiều, do đó họ đành phải một mực kéo dài việc làm ăn mãi. Khi thế lực của Nội xưởng mở rộng đến đây, bọn họ liền ngấm ngầm mua lại Trạng Nguyên lâu, bề ngoài vẫn tuyên bố đây là việc làm ăn của nhà họ Tống, nhưng bên trong thực ra là do Hàn Lâm chưởng quản.

Cập Đệ lâu là khách điếm hạng trung của Trạng Nguyên lâu, cũng phù hợp với thân phận của vị thương nhân buôn da đó. Hiện giờ mới chỉ có phu nhân và vài người làm của vị thương nhân chưa thấy mặt đã đến đây ở trọ. Bọn họ thuê ba gian phòng khách liền nhau ở chỗ rẽ ở tầng hai, căn phòng ở giữa để cho phu nhân, hai căn phòng hai bên dành cho người hầu.

Vị phu nhân này đi lại hùng hùng hổ hổ, hành sự nói năng rất giống đàn ông, cực kỳ thô lỗ. Tuy có thân hình quyến rũ động lòng người, nhưng trên khuôn mặt bà ta lại đầy tàn nhang, hơn thế nữa còn thích trang điểm lòe loẹt. Bà ta vẽ hai hàng lông mày mỏng dính, nhưng dưới mũi thì lại là cái miệng to như chậu máu. Ngay đến mấy người làm thuê biết nhiều hiểu rộng của khách điếm cũng chẳng muốn nhìn lâu.

Khi tới thuê phòng ở trọ, bọn họ đã báo vì có việc nên ông chủ đến chậm, phu nhân không quyết định mọi việc được nên ở lại đây chờ ông đến, đã ở suốt bảy, tám ngày rồi. Vừa rồi vị thương nhân buôn da đó mới dẫn theo một vị tiên sinh tính toán sổ sách và sáu người làm thuê đến khách điếm. Người làm của khách điếm đã được Hàn Lâm dặn dò từ trước, vừa sai người lén đi thông báo cho Hàn Lâm vừa bưng một chậu nước đưa lên lầu.

Trong phòng, Dương Hổ vòng tay ôm chặt ái thê, mãi một hồi lâu sau mới buông ra, kích động:

- Thật là lo đến chết ta mất! Hôm đó không ngờ lại trúng phải mai phục của tên cẩu quan Dương Lăng, ngay đến chỗ giấu ngựa cũng đã bị mai phục sẵn, ta liền biết ngay là không hay. Sợ y đã sớm tra rõ gốc gác của ta với nàng, ắt căn nhà lớn trong kinh cũng có phục binh nên ta chỉ đành dẫn theo mấy huynh đệ bị thương bỏ trốn.

Sau đó ta phái người vào kinh nghe ngóng tin tức của nàng, lại nghe nói nàng đã bắt được Dương Lăng, dùng hắn làm con tin để trốn ra ngoài thành, tới lúc ấy ta mới yên tâm. Nàng không trở về đại trại tránh mặt một thời gian, còn giả trang thành bộ dạng quái quỷ này rồi chạy đến Đại Đồng làm gì? Huynh đệ đưa thư cũng không nói rõ.

Khi mới nhìn thấy trượng phu, Thôi Oanh Nhi cũng hết sức xúc động, nhưng lúc này đã dần bình tĩnh trở lại. Nghĩ đến việc trượng phu hám lợi khiến đầu óc lú lẫn, không nghe theo lời khuyên của mình mà lại theo lời xúi bẩy của Lưu lão đạo tiến đánh Cao Lão Trang, khiến tổn thất hai trăm huynh đệ thân tín; nàng không kìm được trừng mắt nhìn hắn một cái, sắc mặt cũng lạnh hẳn đi.

Nàng ngoảnh đầu qua nhìn thấy ông lão ăn mặc theo lối người hầu ở bên cạnh đang cười híp mắt nhìn mình, vội bước tới thấp giọng thưa:

- Ngũ thúc!

Đại trại mà Dương Hổ vừa nhắc tới chính là trại của nhà họ Thôi. Phụ thân của Thôi Oanh Nhi cùng một đám huynh đệ năm xưa tung hoành chốn núi rừng, là một nhân vật cực kỳ hiển hách trong giới lục lâm phương Bắc. Đến khi về già không muốn tiếp tục phiêu bạt nữa, lại chỉ có một mụn con gái, lão liền giao cho thủ hạ thân tín nắm lấy mười mấy tòa sơn trại tự lập môn hộ. Còn bản thân lão và một đám huynh đệ lui về ẩn cư tại Bàn Long lĩnh trong rừng sâu, sinh sống dựa vào của cải tích lũy được trong thời trẻ và việc tự trồng trọt cây thuốc, lương thực trong núi để dưỡng già.

Ngũ thúc mà Thôi Oanh Nhi vừa chào hỏi là người của đại trại nhà họ Thôi, hơn nữa còn là huynh đệ kết nghĩa với Thôi lão đại, tinh thông Ưng trảo công. Lão đã trông nom Thôi Oanh Nhi từ nhỏ đến lớn, coi như là người ruột thịt.

Lão khẽ vỗ vai Thôi Oanh Nhi, cười nói:

- Đừng đau lòng! Ngũ thúc đã nghe kể cả rồi, cháu có thể gây nên việc kinh thiên động địa như thế là giỏi lắm! Tất cả các thúc thúc bá bá ở sơn trại đều đã biết hết cả rồi, tất cả đều cảm thấy vinh dự lây.

Dương Hổ bị Thôi Oanh Nhi mỉa mai quen rồi nên cũng không cảm thấy tức giận, gã vẫn nôn nóng:

- Nương tử! Nàng đã trốn được khỏi kinh thành, tại sao không tiện tay giết luôn tên Dương Lăng đó mà còn thả cho y quay về. Ta nghe chuyện cảm thấy rất khó hiểu, việc gì phải nói đạo nghĩa với đám quan binh đó chứ?

Thôi Oanh Nhi lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, không đáp mà hỏi ngược lại:

- Ta gọi chàng đến Đại Đồng, chàng lại tìm cả ngũ thúc đến làm gì? Người của sơn trại nhà họ Thôi đã lui khỏi giang hồ, gân cốt không còn được như hồi trẻ, ngũ thúc tuổi tác đã cao, chàng còn muốn để thúc ấy phải cùng bôn ba nữa hay sao?

Dương Hổ cứng họng, ngũ thúc vội cười giàn hòa:

- Xem hai đứa các cháu kìa, vừa gặp mặt đã cãi nhau rồi! Chuyện này không trách Dương Hổ được! Các cháu gây náo loạn ở kinh sư như thế, quan binh vùng Bá Châu liền trở nên điên cuồng hơn, rất nhiều sơn trại đã bị nhổ bật cả gốc rễ. Nếu không phải đại trại của chúng ta ở sâu trong rừng, e rằng cũng khó tránh khỏi bị ảnh hưởng.

Cháu Hổ thoáng cái đã tổn thất hai trăm trợ thủ đắc lực nhất, còn phải di chuyển sơn trại, chỗ nào cũng cần dùng người, nghe cháu truyền tin kêu y nhanh đến Đại Đồng, y không thể tìm được trợ thủ đắc lực nữa. Hoắc lão đại thương con rể, lại lo cháu sẽ xảy ra chuyện gì, ta bèn xung phong đi theo...

Lão nói đến đây, đột nhiên bước nhanh đến bên cửa mở toát cánh cửa ra. Gã tiểu nhị vừa rón ra rón rén bước đến ngoài cửa sợ đến giật nảy mình, chậu nước trên tay thiếu chút nữa thì đổ cả ra đất. Gã vội cười nịnh:

- Á! Lão gia tử mở cửa thế này thực khiến tiểu nhân sợ quá. Ông chủ đến rồi, ngài đi đường vất vả nên tiểu nhân đưa nước đến đây.

Bên trong chợt có một giọng nữ chói tai vang lên:

- Chớ có làm bộ hồ đồ nữa! Nói là chỉ đến muộn ba ngày, tại sao tận bảy, tám ngày mới đến? Nói mau, chàng bị con hồ ly tinh nào mê hoặc rồi? Còn cả ngươi nữa, đừng có giấu giếm giúp y, nếu để lão nương biết ngươi lừa lão nương, chốc nữa ta sẽ đánh gãy cái cẳng chó của ngươi!

Thoáng liếc mắt nhìn vào bên trong, tiểu nhị thấy vị phu nhân mặc áo bông màu đỏ trông rất thô lỗ đó đang một tay xách tai vị đại hán thân cao bảy thước kia, một tay chỉ về phía một gã người làm đang cười nịnh không ngừng vâng vâng dạ dạ ở trước mặt. Cái miệng to như chậu máu của bà ta đang giận dữ mắng mỏ không ngừng.

Ngũ thúc cải trang thành vị tiên sinh trông nom sổ sách ho khan hai tiếng, nháy mắt ra hiệu với tên tiểu nhị, bảo:

- Khi cần nước thì tự nhiên chúng ta sẽ gọi ngươi, hãy đi xuống trước đi! Lão gia và phu nhân đang bàn chuyện làm ăn.

Gã tiểu nhị cố nhịn cười, vội vâng một tiếng rồi hấp tấp bưng chậu nước rời đi. Ngũ thúc đợi gã đi khuất qua chỗ rẽ mới khép cửa phòng lại, ghé sát tai vào cửa nghe ngóng thêm một lúc rồi mới đưa tay ra hiệu cho Dương Hổ và Hồng Nương Tử, thấp giọng bảo:

- Trong khách điếm đông người, phức tạp. Đi! Vào phòng trong nói chuyện, hai người các ngươi canh gác bên ngoài!

Hồ Đại Chùy và Hắc Diêu Tử gật gật đầu, đi đến đứng cạnh cửa với vẻ đầy cảnh giác; Dương Hổ, Thôi Oanh Nhi và đám người ngũ thúc đều đi vào phòng trong. Hồng Nương Tử bắt đầu kể lại việc Lưu lão đạo và Thúy Nhi là người của Di Lặc giáo, cố tình xúi bẩy Dương Hổ vào kinh ám sát Hoàng đế, sau đó lại nghe nói Hoàng đế muốn đến Đại Đồng tuần tra, vì sợ đả thảo kinh xà nên lại bán đứng nàng.

Hai tin tức này chẳng khác gì tiếng sấm nổ giữa trời quang. Dương Hổ trợn mắt há mồm, ngẩn người suốt một hồi lâu mới hầm hầm đứng dậy, nghiến răng nghiến lợi đau đớn tột cùng:

- Di Lặc giáo! Di Lặc giáo! Đám trời đánh này, ta không ngờ lại bị bọn chúng lợi dụng! Ôi! Hai trăm huynh đệ tốt cùng vào sinh ra tử với ta!

Hắn đấm mạnh một cái vào cây cột trong phòng, sắc mặt tái xanh, da thịt trên mặt co giật liên hồi.

Mấy vị huynh đệ vừa từ sơn trại tới đây đến lúc này mới biết rõ nội tình, cũng đều căm hận nghiến răng ken két. Căn phòng nhất thời trở nên tĩnh lặng, mãi một lâu sau, một vị huynh đệ đột nhiên biến sắc thốt lên:

- Lưu tiên... Lưu lão đạo đó là người của Di Lặc giáo ư? Chó chết thật! Vậy... Vậy lão nói Hổ ca là Tử Vi chuyển thế, có tướng đế vương gì gì đó cũng đều là những lời giả dối hay sao?

Mấy người bên cạnh nghe thế đều biến sắc, đưa mắt nhìn nhau hồi lâu. Dương Hổ thầm kinh sợ trong lòng, tới lúc này gã mới nghĩ đến tính nghiêm trọng của vấn đề. Người vô tâm nói ra điều yếu hại này tên là Phùng Phúc Chí, cũng là một huynh đệ tốt một lòng một dạ đi theo Dương Hổ. Thấy sắc mặt mọi người khó coi như thế hắn không khỏi ngượng ngập vô cùng, không nói ra được lời nào nữa.

Dương Hổ hơi tức giận nhưng không tiện phát tác; rốt cuộc vẫn là ngũ thúc già đời thành tinh, lão vội nói:

- Giang sơn đều là do con người đánh chiếm được cả, có ai nghe nói Hoàng đế được vận mệnh định sẵn thì không cần phải tự mình đi đánh thiên hạ mà có thể ngồi hưởng giang sơn đâu? Trừ phi đó là Thái tử của Hoàng đế đương vị.

Cả Tống Thái Tổ, Chu Hồng Võ đều cùng các vị hảo huynh đệ của mình kề vai sát cánh đánh lấy giang sơn vạn dặm; cái gì mà sớm có tướng đế vương, chẳng phải là việc thành rồi mới có kẻ bịa đặt ra hay sao? Chúng ta đều là hạng cường đạo mã tặc, sớm đã giắt cái đầu bên thắt lưng quần rồi, chẳng ai là hạng đớn hèn. Liều một phen vị tất đã không thể chiếm được giang sơn!

Được rồi, chúng ta cứ nên thương nghị kỹ càng trước đã. Vừa nãy Oanh Nhi đã nói rồi, Di Lặc giáo cũng muốn tạo phản, có câu loạn thế xuất anh hùng, phải xem ai mới là kẻ mạnh. Nay không phải Dương Lăng đã dẫn quân vào thành rồi sao? Theo lời Oanh Nhi, gã Hoàng đế Chính Đức đó hẳn cũng ở trong quân rồi. Chúng ta cứ nên nghĩ xem làm sao mới có thể báo thù cho các huynh đệ đã chết, nghĩ xem làm thế nào mới có thể giết được Chính Đức trước đã!

Dương Hổ thầm cảm kích trong lòng, vội vàng tiếp lời:

- Ngũ thúc nói đúng lắm! Xem ra Di Lặc giáo cũng đã tới đây rồi, chúng ta nên chú ý tới những hoạt động của Dương Lăng hơn nữa. Di Lặc giáo có thể xuađấu hổ, hảo hán lục lâm chúng ta há lại không hiểu trò này hay sao? Hiếm khi Hoàng đế ra khỏi kinh thành, chúng ta nên nhân lúc biến loạn mà thủ lợi, tìm cơ hội giết chết hắn!

Hồng Nương Tử phản đối:

- Ta không đồng ý. Trên đường tới Đại Đồng nạn dân nhiều vô số, ta đã nghĩ kỹ rồi. Di Lặc giáo nấp ở chỗ tối, còn chúng ta đang ở ngoài sáng, quan binh đang bao vây tiêu diệt sơn trại chúng ta. Nếu Hoàng đế xảy ra chuyện gì ở đây, món nợ này ắt sẽ bị tính lên đầu chúng ta. Đến lúc đó cho dù là triều đình dốc hết binh lực cả nước đi đối phó với chúng ta, quyết tâm trảm thảo trừ căn thì hãy còn là nhẹ.

Nàng liếc nhìn mọi người lúc này đã biến sắc, nói tiếp:

- Hơn nữa... Giặc Thát đang đại chiến ngoài quan ải, chúng ta khởi sự là vì thay trời hành đạo, nếu lúc này Hoàng đế mất mạng, giặc Thát nhân loạn xâm nhập vào quan ải thì phải làm sao? Dân nghèo Bá Châu chúng ta sẽ là người gặp nạn đầu tiên, hơn nữa...

Cặp mắt nàng trở nên mông lung, hồi lâu sau mới rầu rĩ nói tiếp:

- Chúng ta có thể thật sự đánh chiếm được thiên hạ sao? Nếu chiếm được, chúng ta có thể trị vì thiên hạ sao? Chúng ta vốn cho rằng chỉ cần cướp của nhà giàu, không ép dân nộp thuế, không ép dân nuôi ngựa là được, nhưng đó là vì chúng ta là người ngoài cuộc, không đi chợ chẳng biết gạo, dầu, mắm, muối đắt tiền. Nếu thật sự đánh được thiên hạ rồi, liệu có thể không làm như vậy được không?

Mọi người đều kinh ngạc nhìn nàng, không hiểu tại sao nàng lại nói đến luận điểm này. Dương Hổ hậm hực lên tiếng:

- Nếu theo lời nàng nói, hai trăm huynh đệ của ta phải chết một cách vô ích sao? Mối thù này chẳng lẽ không báo nữa sao?

Hồng Nương Tử cắn chặt bờ môi, thấp giọng:

- Chúng ta đi giết người ta, chẳng lẽ lại bảo người ta vươn cổ ta cho chúng ta chém sao? Chúng ta cảm thấy cướp của nhà giàu chia cho nhà nghèo là thay trời hành đạo, nhưng quan phủ bắt giặc há lại không phải là đúng lẽ hay sao? Mà huống chi, y cũng chỉ vì tự bảo vệ bản thân mà thôi.

Oan có đầu, nợ có chủ! Nếu không phải Lưu lão đạo nói dóc cái gì mà thiên tượng sinh biến, đế tinh sắp tàn, chúng ta cũng sẽ không dẫn người lên kinh. Ta hận! Hận mình đã để cho Di Lặc giáo lợi dụng. Nhưng Di Lặc giáo ẩn trong bóng tối, tổng đàn ở đâu chúng ta không biết, giáo chủ ở đâu chúng ta không biết, muốn báo thù cũng chẳng biết bắt đầu từ đâu.

Nàng thoáng quắc mắt, gằn giọng:

- Chúng ta chỉ có mấy người thế này, có thể giết được Hoàng đế giữa thiên quân vạn mã sao? Huống chi Di Lặc giáo cũng muốn giết Hoàng đế. Bọn chúng căn cơ thâm sâu nên ắt đã sớm có chuẩn bị, Hoàng đế vừa chết, bọn chúng nhất định đã có kế hoạch chu toàn để mưu đoạt thiên hạ rồi.

Thế lực của chúng ta bị quan phủ đánh phá, tổn thất quá lớn, rất khó tranh hùng với bọn chúng. Nếu chúng ta giết chết Hoàng đế há chẳng phải là giúp đỡ cho bọn chúng hay sao? Di Lặc giáo và chúng ta có mối thù sâu như biển, bọn chúng muốn làm gì, ta quyết không để chúng thành công. Ta muốn đợi khi Di Lặc giáo ra tay sẽ ngầm động chân động tay một chút, chứng thực chuyện này là do Di Lặc giáo làm, dẫn ngọn lửa này lên đầu Di Lặc giáo.

Dương Hổ vừa giận dữ vừa buồn bực. Hắn cho rằng cái đám yêu đạo suốt ngày giả thần giả quỷ mê hoặc ngu dân kia thì có gì là ghê gớm. Mã tặc ở Bá Châu đi qua nơi nào, ngay đến quan binh vệ sở cũng đều nghe gió mà sợ hãi, huống chi là một đám dân chúng chỉ biết cầm cuốc cầm cày, dựa vào bọn họ mà có thể giành được thiên hạ hay sao?

Trong lòng hắn luôn cho rằng triều đình hiện nay mới là chướng ngại vật lớn nhất ngăn cản mình hoàn thành đại sự. Giết chết Hoàng đế, triều đình Đại Minh ắt sẽ như rắn mất đầu, phiên vương có dã tâm ở các nơi nhất định sẽ nổi lên tranh đoạt, cho dù Di Lặc giáo có thừa cơ khởi sự, hắn vẫn cảm thấy mình chiếm nhiều phần thắng hơn.

Hiện nay thê tử lại nói ra những lời nhụt chí như vậy ở trước mặt tâm phúc của mình, còn muốn bảo vệ Hoàng đế, mượn sức của quan binh để đối phó với Di Lặc giáo, đúng là thiển cận hết sức! Phụ nữ mà căm hận một người nào, chẳng lẽ đều trở nên bất chấp lý lẽ như vậy hay sao?

Dương Hổ không kìm được, gắt gỏng:

- Đúng là kiến thức đàn bà! Bị bọn chúng lợi dụng thì sao chứ? Cho dù không có chúng, sớm muộn chúng ta cũng phải đối phó với triều đình. Nay bọn chúng đang có ý đồ ám sát Chính Đức, vừa hay chúng ta có thể thừa nước đục thả câu. Đây là cơ hội ngàn năm có một, sao lại có thể bỏ lỡ?

Hồng Nương Tử đứng dậy giận dữ đáp:

- Kiến thức đàn bà thì sao nào? Ngươi có kiến thức sao lại bị người ta lợi dụng? Ngươi đã đọc được mấy quyển sách rồi? Ta cảm thấy dự định ban đầu của chúng ta thực quá nông cạn. Đánh đánh giết giết chúng ta còn làm được, nhưng những đạo lý lớn đó ta không hiểu, chẳng lẽ ngươi hiểu được sao?

Dương Hổ cũng đã nổi giận, lập tức phản bác:

- Cái lý lẽ gì như thế chứ? Sao lại đột nhiên nói đến chuyện đọc sách rồi? Chẳng lẽ những đạo lý lớn này của nàng là gã thày đồ dạy học nào nói cho nàng biết hay sao?

- Ta... - Hồng Nương Tử nhất thời cứng họng, hậm hực giậm chân, - Thứ khác ta không biết. Ta chỉ biết Di Lặc giáo là kẻ thù của chúng ta, bọn chúng muốn giết Hoàng đế, ta muốn lợi dụng Hoàng đế để giết bọn chúng. Ta chỉ biết nếu ngươi thừa cơ ra tay, các huynh đệ trên sơn trại, còn cả cha mẹ vợ con của bọn họ nữa, toàn bộ đều sẽ vì ngươi mà không còn chỗ nương thân. Ngược lại bọn Di Lặc giáo sẽ được lợi vô cùng, ta không nuốt cái cục tức này xuống được.

Ngũ thúc thấy hai người lại sắp cãi nhau, vội vã can:

- Hôm nay Dương Lăng vừa tới Đại Đồng, chắc sẽ không rời đi ngay. Bất kể chúng ta có động thủ hay không thì cũng đều không gấp, đợi sau khi chúng ta thăm dò rõ nội tình của bọn chúng rồi hãy bàn bạc tiếp cũng không muộn. Hai vợ chồng các cháu trải qua cửu tử nhất sinh, vừa mới gặp mặt nhau, đừng nên làm tổn thương tình cảm thêm nữa!

Nói xong lão bèn khẽ nhếch mép ra hiệu cho Dương Hổ, nói tiếp:

- Chúng ta đi vội đến đây, còn chưa được ăn no. Đi nào, chúng ta mau tắm rửa một chút rồi đi ăn vài miếng, uống vài chén cái đã!

Hồng Nương Tử hừ mạnh một tiếng, xoay người ngồi phịch xuống giường, giận dỗi ngoảnh đầu đi hướng khác không nói gì.

Dương Hổ bị ngũ thúc kéo ra ngoài, mấy huynh đệ khác thấy tình hình không hay, liền cũng đi theo sau. Phùng Phúc Chí thấp giọng nói với một huynh đệ bên cạnh:

- Ta thấy lời của đại tẩu có lý lắm, hơn nữa... sơn môn đã bị hủy rồi, có một số sơn trại đã bắt đầu hoài nghi việc đại ca là chân mệnh thiên tử, nếu Lưu lão đạo là người của Di Lặc...

- Suỵt...

Một người khác nhận biết vợ chồng Dương Hổ đều đang kìm nén một bụng đầy lửa giận, nên vội vàng giựt vạt áo gã, Phùng Phúc Chí lập tức ngậm miệng. Có điều tai Dương Lăng rất thính nên hắn đã nghe rõ những lời của hai người bọn họ. Đang trong cơn tức giận nên vừa nghe thấy những lời xúi quẩy này hắn liền chỉ hận không thể quay lại tát cho gã Phùng Phúc Chí kia một cái.

Dương Hổ cố nén giận đi về phía trước. Ngẫm nghĩ đến lời của Phùng Phúc Chí, bất giác hắn thầm kinh hoảng. Huynh đệ trên sơn trại của mình tất nhiên không có gì để nói, nhất định đáng tin, nhưng hai năm nay chiêu binh mãi mã, thế lực khuếch trương rất nhanh. Các sơn trại mình thu phục được có một phần là sợ hãi trước vũ lực của mình, một phần là vì tin lời đồn mình là chân mệnh thiên tử, nếu tin tức này mà lộ ra ngoài...

Nếu ngầm dặn dò mấy huynh đệ giấu giếm chuyện này đi, vậy chẳng rõ ràng là mình đang lừa gạt người khác, mà ngay đến cả mình cũng hoài nghi mệnh tướng của mình ư? Giới lục lâm có ai không biết Dương Hổ là một trang hào kiệt quang minh lỗi lạc, những lời này phải nói với bọn họ thế nào đây chứ?

Dương Hổ vừa đi vừa cúi đầu thầm nghĩ cách giải quyết chuyện này. Đột nhiên, một ý nghĩ tà ác lướt qua trong đầu hắn, khiến bản thân hắn cũng phải thầm kinh sợ. Hắn vội vã ngẩng đầu lên, hoàn toàn không dám suy nghĩ tiếp nữa.

* * *

Vừa sáng sớm Dương Lăng và Trương Vĩnh đã dẫn theo hai trăm tùy tùng đến phủ Đại vương bái kiến. Chính Đức trà trộn trong đám thị vệ nên ung dung đắc chí vô cùng. Trước đây đi đâu hắn cũng là nhân vật chính, mỗi hành vi cử chỉ đều phải chú ý đến phong thái của bậc đế vương, nay thì hoàn toàn không bị câu thúc gì. Nhìn những căn nhà thấp bé bên đường, nhìn những sỹ tốt nhàn tản đi qua, nhìn những tiểu thương nhân dịp năm mới gánh hàng, đẩy xe rao bán trên đường, Chính Đức cảm thấy hết sức mới mẻ.

Dù đường đường là bậc cửu ngũ chí tôn, chủ nhân của thiên hạ, nhưng ở lẫn trong đám thị vệ này, Chính Đức cũng chẳng khác gì một thị vệ bình thường cả. Nhìn từ bên ngoài, liếc sơ qua vị tất có ai nhận ra được hắn có gì khác thường.

Phủ Đại vương tọa lạc trên Đông Đại Nhai, tổng cộng có bốn cửa, cửa phía đông là Đông Hoa Môn, phía tây là Tây Hoa Môn, phía bắc là Hậu Tể Môn, phía nam gọi là Đoan Lễ Môn. Đoan Lễ Môn là cửa chính của vương phủ, bốn phía xung quanh đều được bao quanh bởi tường cao vững chắc khiến nó trở thành một khu vực độc lập hoàn toàn cách biệt với bên ngoài, trăm họ đều gọi nó là "Hoàng Thành".

Phía trước Đoan Lễ Môn có một bức bình phong lớn dài hơn mười trượng, cao gần ba trượng, xây bởi các loại gạch lưu li màu lam khổng tước, lục, vàng sậm, vàng, vàng nhạt. Bên trên là bức bích họa có hình chín con rồng lưu ly vô cùng đẹp mắt.

Phần bên dưới bức bích họa là sóng nước màu xanh biếc cuộn trào dữ dội, phần bên trên là mây mù màu xanh lam và mây lành màu vàng. Những con rồng lớn được ngăn cách và nối liền với nhau bởi mây mù, mây lành, sóngước, vách núi, cây cỏ; màu sắc rực rỡ, hết sức tráng lệ.

Bức bình phong chín rồng này so với bức bình phong ở Hoàng cung trong kinh thành còn lớn hơn nhiều. Hoàng tử thứ mười ba Chu Quế và Yên vương Chu Đệ đều do cùng một mẹ sinh ra, quan hệ rất tốt, thêm nữa vương phi của cả hai lại đều là con gái của Từ Đạt, do đó lại càng thân thiết hơn. Năm xưa vua Kiến Văn muốn tước quyền của các phiên vương đã chọn Đại vương để ra tay đầu tiên, đem bắt nhốt ông ta lại, khi Yên vương tạo phản thành công liền thả ông ta ra.

Về sau Đại vương phi tính cách ngổ ngáo vào kinh nhìn thấy bức bình phong trong kinh, đến khi trở về liền nhất quyết bắt Đại vương phải xây một bức bình phong lớn hơn bức ở kinh thành. Đại vương sợ vợ liền vội vàng đồng ý, kết quả là có bức bình phong chín rồng này.

Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa thiếp bái phỏng, chẳng mấy chốc tổng quản vương phủ đã dẫn theo hai tiểu thái giám từ bên trong đi ra. Dương Lăng và Trương Vĩnh vội vàng xuống ngựa, tổng quản vương phủ mặt mày niềm nở cười nói:

- Vương gia nghe nói hai vị Khâm sai đại nhân đến đây nên hết sức mừng rỡ, lệnh cho nô tì ra ngoài nghênh đón. Hai vị đại nhân, xin mời!

Dương Lăng và Trương Vĩnh vội mỉm cười đáp lời, mỗi người dẫn theo tám thị vệ theo sau viên tổng quản đi vào Đại vương phủ. Bọn họ đi qua Thừa Vận Môn, Thừa Vận Điện, Sùng Tín Môn, Tồn Tâm Điện, lại rẽ về phía tây thì tới Ngân An Điện, đây là điện chính của phủ Đại vương.

Trên mặt đất, những viên gạch xanh mài nước đều rất vuông vức chỉnh tề, bằng phẳng hệt như mặt gương. Đại vương mặc áo mãng long bào tươi cười bước ra đón, lão đã hơn năm mươi tuổi, mặt trắng ít râu, dáng người béo lùn, thoạt nhìn có vẻ rất ôn hòa nhã nhặn.

Tuy rằng hai người là Khâm sai, nhưng Đại vương thuộc dòng hoàng tộc, vốn lão chẳng cần khách sáo như vậy. Có điều hai người này lại là đại thần hiện đang được Hoàng thượng tin tưởng nhất, Đại vương đời này là người đằm tính, lão không muốn chọc giận bọn họ.

Đại Đồng tuy trở nên tiêu điều hơn bình thường rất nhiều vì mùa đông và chiến tranh, nhưng cảnh tượng trong phủ Đại vương lại hoàn toàn khác. Từng điện, từng sảnh, từng viên gạch, từng cây cột, từng cành hoa, từng ngọn cỏ đều có sự độc đáo riêng. Ngân An Điện được sơn màu đỏ và quét vôi màu trắng, rường cột chạm trổ, thực là vàng son lộng lẫy, hào hoa tôn quý đến cực điểm.

Hai người là Khâm sai nên trước tiên vương gia dùng lễ thần tử khấu bái để vấn an Hoàng thượng, hai người hiên ngang đứng nhận lễ thay Chính Đức, sau đó lại khấu bái Đại vương. Hai bên khách sáo chào hỏi nhau một phen rồi mới lần lượt ngồi xuống.

Hàn huyên hồi lâu, Đại vương hỏi:

- Hoàng thượng phái hai vị đại nhân đến Đại Đồng úy lạo quân đội và tuần tra việc chiến sự ở biên quan, không biết lúc nào thì hai vị gọi Dương Nhất Thanh về thành?

Dương Lăng khom người đáp:

- Bẩm vương gia! Hạ quan nghe nói chiến sự ở tiền phương đang vào hồi cam go, Dương tổng chế thân là chủ soái, không thể tùy tiện rời khỏi chiến trường. Do đó, hạ quan định ngày mai sẽ cùng Trương công công cùng đến bảo Trấn Khương thăm Dương đại nhân, đồng thời thị sát việc phòng ngự ở đó.

Đại vương khẽ cười hà hà, cặp mắt nheo lại thành một đường thẳng, không ngừng gật đầu bảo:

- Rất tốt, rất tốt! Năm nay giặc Thát tập hợp quân lực hùng hậu, bản vương quả thực lo lắng vô cùng, may mà Hoàng thượng phái tới đây một viên tướng tài như Dương Nhất Thanh, đánh trận rất giỏi, cần khen thưởng thật hậu mới được.

Lão nâng chén trà lên, khẽ nhấp một ngụm rồi mỉm cười nói tiếp:

- Tuy gặp lúc chiến tranh, nhưng bản vương muốn nạp trắc phi, Hoàng thượng cũng đã đồng ý rồi, chuyện này không thể chậm trễ thêm. Năm ngày sau bản vương sẽ nạp trắc phi, đến lúc đó hai vị Khâm sai đại nhân nhất định phải đến vương phủ uống chén rượu mừng đấy nhé!

Nếu vương gia nạp một người thiếp bình thường thì không cần bẩm rõ với Hoàng đế. Nhưng trắc phi cũng là vương phi, nhất định ông ta phải xin Hoàng thượng ban thánh chỉ xuống, cho ghi vào tộc phổ của hoàng thất mới được. Vị vương gia này tuổi đã trạc ngũ tuần, vậy mà vẫn bỏ công làm lớn chuyện như vậy để nạp một vị có danh phận phi tử qua cửa, xem ra là rất yêu mến vị cô nương đó.

Vừa thấy Đại vương bưng chén trà lên, Dương Lăng và Trương Vĩnh đều đã đứng dậy, nghe xong lời mời liền không khỏi đưa mắt nhìn nhau cười khẽ, nhất tề khom người thưa:

- Thì ra vương gia còn có chuyện vui như vậy. Chúc mừng! Chúc mừng! Năm ngày sau hạ quan nhất định sẽ đến tham gia. Vương gia bận rộn sự vụ, bọn hạ quan không dám làm phiền thêm, xin được cáo từ!

Chú thích:

nguyên văn "Quan phổ nhi" (官谱儿), "phổ nhi" nghĩa là tiêu chuẩn hoặc quy củ, trỏ những nghi lễ rườm rà chốn quan trường, nay thường dùng để châm biếm các buổi họp, lễ rườm rà và tốn kém của quan chức Trung Quốc.

chỉ nam sủng vị thành niên, đối tượng tình dục cho những kẻ thích trẻ em nam (vừa ấu dâm vừa đồng tính luyến ái).

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 189: Vua lên biên ải

Đội nghi trượng của Khâm sai chậm rãi đi về phía dịch quán, dân chúng trong thành đã quen với các đội quân lớn nên chẳng để tâm lắm tới đám chỉ hơn hai trăm quan binh này, vẫn tiếp tục bận rộn cùng hưởng thụ cuộc sống của bản thân.

Yêu cầu của những người dân sống tại tầng đáy của xã hội không hề cao, chỉ cần giặc Thát tránh xa đi một chút, gió nhẹ đi một chút, ánh mặt trời ấm áp hơn một chút, đó đã là những chuyện đáng để bọn họ cảm thấy may mắn và vui mừng rồi.

Tại Đại Đồng có hơn trăm ngôi chùa chiền, am ni cô hay đạo quán, có thể thấy khắp nơi trong thành là tòa viện liền kề, am miếu san sát, hương khói vờn quanh, tiếng tụng kinh vang lên không ngớt, khiến nơi sát phạt này vẫn là một thắng địa của Phật giáo.

Theo lệ thường, khoảng đất trống phía trước các chùa chiền, đạo quán là nơi tập trung của các quầy hàng. Bởi vì Đại Đồng là con đường huyết mạch từ Mông Cổ thông đến Tấn Ký Lỗ Dự (Tên gọi tắt của 4 tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông và Hà Nam – ND), nên tuy hai bên chém giết không ngừng nhưng phần lớn chủng loại hàng hóa được bày bán trong chợ vẫn là da lông, thuốc men, vật dụng cho ngựa của người Mông Cổ.

Trong chợ cũng có rất nhiều người Mông Cổ nhưng không người Hán nào có thái độ thù địch với bọn họ. Hai bên ở gần nhau như thế, có rất nhiều người Mông Cổ không thể sống tiếp ở quê mình nữa đã lén chạy tới địa phận của người Hán làm nhân công lao dịch, buôn bán. Một số gia đình người Hán giàu sang còn có thêm một nhóm võ sỹ Mông Cổ vừa trung thành vừa dũng mãnh. Những người này đã nhiều năm sinh sống ở đây, tình cảm đối với người Hán còn sâu sắc hơn đối với bộ tộc mình.

Hơn nữa thời đó còn chưa có phương thức truyền tin nhanh nên căn bản gian tế chẳng có bao nhiêu tác dụng. Dù thật sự nghe ngóng được tin tức tình báo nào đó thì đợi đến khi gửi được về đến nơi thì cũng sớm đã mất đi tác dụng rồi, còn kém xa một trinh sát được phái đi trên chiến trường. Do đó nha môn Tuần phủ cũng không trông chừng bọn họ quá chặt, chỉ cần có người bảo lãnh, trên người không mang theo vũ khí thì quyền tự do nhân thân của bọn họ cũng chẳng khác gì của người Hán cả.

Phía trước một ngôi chùa đang có một gánh hát đang biểu diễn, tại ngã tư phía trước lại có một đội xe ngựa rất dài đang vận chuyển lương thảo. Hoàng đế Chính Đức đang ở trong quân, Dương Lăng không dám đi thẳng tới sợ trong lúc hỗn loạn có kẻ thừa cơ hành thích Hoàng đế, nên y bèn hạ lệnh cho toàn quân dừng lại nghỉ ngơi tại chỗ.

Thời đó hí khúc đã dần hình thành phong cách riêng biệt của từng vùng, nhưng loại gánh hát nhỏ ở địa phương thế này tất nhiên chỉ hát mấy bài dân ca vùng quê, hơn nữa phần lớn còn chứa những lời thô tục.

Năm Hồng Vũ thứ 22, Chu Nguyên Chương từng đích thân hạ lệnh phàm tướng sỹ nào trong quân mà học những lời hát dâm ô sẽ bị cắt lưỡi; đáng tiếc có một số chuyện dù là Hoàng đế hạ lệnh cũng vô dụng. Những năm trở lại đây, nếp sống dân gian ngược lại còn càng ngày càng cởi mở hơn. Chính Đức ngồi trên lưng ngựa, cùng một đám thị vệ ngoảnh đầu nhìn về phía gánh hát, xem với vẻ rất hứng thú.

Câu chuyện kể về một vị Tiết độ sứ thời Đường, trong tay có tới mấy chục vạn quân, nhưng lại sợ vợ như sợ cọp, ngay một người thiếp cũng không dám nạp. Về sau khó khăn lắm ông ta mới dụ dỗ được một tiểu nha hoàn xinh đẹp, nhưng vì quá sợ vợ nên mãi chẳng dám bước nốt bước cuối cùng. Vị đại tướng quân oai phong lẫm liệt đó đang đứng trên đài mặt mày sầu khổ hát:

- Gió nhẹ mây trong trời gần sáng, bà xã phạt ta quỳ trước giường. Hàng xóm đâu tỏ tường nổi khổ, còn tưởng (ta) thanh nhàn hóa ẩm ương.

Chính Đức và đám thị vệ đều ôm bụng cười vang, vô cùng vui vẻ. Gánh hát diễn tiếp đến đoạn Tiết độ sứ hẹn hò với tiểu nha hoàn ở hậu hoa viên, vừa gặp mặt liền vội vã nhào tới ôm ấp hôn hít cô nàng, rồi lại hát:

- Nha hoàn xinh đẹp, muốn giết ta ư, sao mãi lúc này nàng mới tới, mừng lắm thay, quần áo y nguyên ngồi ôm ấp, toàn thân trên dưới nàng đều thật đẹp, dù không thể chung giường ân ái, ta sờ chút thôi cũng đỡ thèm.

Khi hát đôi tay gã diễn viên còn không ngừng lên lên xuống xuống, bộ dạng hạ lưu vô cùng.

Người dân dưới đài lớn tiếng khen hay, có vài người lấy ít tiền đồng vứt lên trên đài. Gã diễn viên đóng vai tên lính quèn canh gác vội vàng cúi người xuống, đồng thời còn nháy mắt với người xem dưới đài, độc thoại rằng:

- Tiểu nha hoàn chỉ được mẽ xinh đẹp, hơn mười lăm tuổi rồi còn chưa từng lên đỉnh; phải biết là lão gia nhà ta sợ vợ, nếu không còn tưởng là thạch nữ(*) ở hậu hoa viên. Hê hê hê, xấu hổ thay, chẳng biết thiếu nữ hoài xuân làm sao chịu được cơn ngứa ngáy này!

(*): Phụ nữ bị dị tật bẫm sinh, có dị vật che chắn âm hộ;

Dưới đài lập tức vang lên vô số những tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa, lại càng có nhiều tiền đồng được vứt lên đài hơn. Những người dân vùng biên ải cả ngày phải lăn lộn giữa sự sống và cái chết này quả biết hưởng thụ cuộc sống hơn người Trung Nguyên.

Nghe thấy những lời dâm dật đó, Trương Vĩnh cảm thấy hơi không ổn bèn ngoảnh đầu nhìn qua Chính Đức, thấy hắn đang nghe một cách say mê, nếu không phải còn nhớ mình đang ở trong hàng ngũ, e cũng sớm đã lao đến dưới đài cùng đám thảo dân kia hò hét không ngừng rồi. Lão hơi khó xử, nói với Dương Lăng:

- Đại nhân! Những lời hát này thực tục tĩu quá, để Hoàng thượng nghe thấy rất không ổn! Ngài xem... có nên kêu người đuổi bọn họ đi không?

Dương Lăng ngoảnh đầu nhìn lại, y thấy Chính Đức đang mặt mày hớn hở, không ngờ nghe đến chỗ thích chí còn quên cả địa vị mà đưa tay vỗ vai gã thị vệ bên cạnh, tiếng cười vang lên không dứt. Trong lòng y đột nhiên cũng cảm thấy vui vẻ, đưa mắt nhìn Chính Đức với vẻ cưng chiều, rồi ngoảnh đầu lại mỉm cười:

- Thôi, mấy điệu hát này tuy đúng thực là bất nhã, nhưng cũng chưa đến mức dạy hư được người ta đâu.

Y thầm nghĩ: "Nhớ khi xưa mình còn xem av đạt đến cảnh giới tối cao, không gì là không tỏ tường, vậy mà bây giờ cũng có bị dạy hư gì đâu. Những kẻ phạm tội đó có người là nông dân chẳng hiểu gì về đồ điện tử hay máy móc, có kẻ là con ông cháu cha tiền chất đầy nhà; đây hoàn toàn là vấn đề nhân phẩm mà thôi!

Cái gì mà xem phim heo nên bị biến chất, chẳng qua là mấy kẻ bị bắt lại kiếm cớ nói càn mà thôi. Ngay đến mấy câu hát hơi phóng đãng này mà cũng không nghe được thì tiểu Hoàng đế làm sao chịu nổi sự chinh phạt của ba ngàn giai lệ chốn Hậu cung chứ?"

Trương Vĩnh nghe y nói như vậy bèn không nói gì thêm. Vì trích đoạn kịch này chuyên diễn cho người đi dường xem nên không hề dài, chẳng mấy chốc đã diễn đến đoạn thủ hạ của viên Tiết độ sứ đó hiến kế cho ôn ta giương cờ làm phản lại bà xã, rồi lấy tiểu mỹ nhân kia về làm vợ. Đại tướng quân toàn thân giáp trụ, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao, sát khí đằng đằng đi vào phòng trong, phía sau có bốn gã tiểu tốt vào vai thiên quân vạn mã.

Bà vợ xấu xí của Tiết độ sứ ở trên giường tỉnh giấc, nhìn thấy bộ dạng đó của trượng phu thì trừng mắt lên hỏi:

- Kêu chém kêu giết cái gì, ông muốn giết ai?

Viên Tiết độ sứ lập tức rùng mình, rồi quỳ ngay xuống trước giường cười nói:

- Chuyện này... Vi phu định giết gà cho nàng ăn.

Xem đến đây, Chính Đức liền cười nghiêng ngả, chảy cả nước mắt.

Đội xe ngựa chở lương thảo phía trước đã đi hết, đội quân của Dương Lăng tiếp tục tiến lên, Chính Đức ngoái đầu nhìn lại phía sau vẻ không nỡ. Lúc đó, bà vợ hung hãn kia đã biết rõ ý đồ của trượng phu khi mang đao tới phòng bèn nổi giận đùng đùng. Đại tướng quân phải chạy ra khỏi phủ, nhảy lên lưng ngựa bỏ trốn, còn hiềm ngựa chạy chậm nên vội rút cờ hiệu sau lưng ra quất lấy quất để vào lưng ngựa. Bộ dạng thảm hại đó khiến Chính Đức không kìm được lại bật cười.

Thì ra cuộc sống của người dân lại thú vị như vậy, tuy vấn đề ăn mặc có hơi kém một chút, nhưng thật là nhẹ nhàng thoải mái biết bao.

Chính Đức hệt như một đứa nhóc ở vùng quê nghèo khó vừa vào thành, nhìn thấy cái gì cũng cảm thấy mới mẻ. Người ở đây nhìn thấy gã cũng không quỳ xuống, còn gã thì không cần cả ngày căng mặt ra không nói lời nào, chú ý giữ gìn sự uy nghi của thiên tử. Một cuộc sống như vậy chính là điều mà gã mong ước bấy lâu.

Chính Đức hơi thúc ngựa, đi nhanh tới bên cạnh Dương Lăng, trên mặt vẫn còn nét tươi cười, hào hứng cất tiếng:

- Dương... Dương đại soái! Cuộc sống của những người dân bình thường này thật thú vị! Tuy có hơi khổ, nhưng bọn họ vẫn có thể tìm được rất nhiều niềm vui.

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Đúng rồi, cho nên mới nói trăm họ là những người dễ đối đãi nhất. Nếu không có thiên tai khiến bọn họ chịu cảnh đói rét, khó có thể sinh tồn; nếu không có đám tham quan ô lại chèn ép bọn họ khiến bọn họ nhà tan cửa nát; thì chỉ cần có cơm ăn, có nơi ở, được đối xử đàng hoàng tử tế một chút, trăm họ ắt sẽ là những người dân tốt hết sức biết vâng lời.

Chính Đức cẩn thận ngẫm nghĩ về những lời này, trên đường trầm tư suốt một hồi lâu, sau đó mới thúc ngựa đuổi theo Dương Lăng, nở nụ cười nhẹ, trịnh trọng gật đầu nói với y:

- Ta hiểu rồi!

Đội nghi trượng đi qua cửa hàng da nhà họ Hàn. Dương Lăng ngoảnh đầu lại nhìn về phía đó một lần nữa, một thiếu niên đang đứng ở cửa nhìn thấy y liền không kìm được hé miệng cười. Bộ dạng tinh nghịch đó khiến y thầm cảm thấy ấm áp, bất giác nhớ đến người vợ yêu dấu Ấu Nương ở kinh sư.

Y thoáng gật đầu chào thật kín đáo với Hàn Mãn Thương rồi thúc chân vào bụng ngựa, tăng tốc độ lên. Cửa hàng da họ Hàn vừa là nơi y an bài để cha con Hàn Lâm kiếm sống vừa là tai mắt ngầm quan trọng nhất mà y sắp đặt ở Đại Đồng, quan hệ giữa hai bên không thể để lộ. Trước mắt bao người, y không tiện đi gặp nhạc phụ của mình.

Thêm vào đó lần này y xuất kinh với nhiệm vụ quan trọng. Trước khi đạt thành hiệp nghị với Đóa Nhan Tam Vệ, thân phận của Hoàng đế Chính Đức và mục đích thật sự của hắn khi tới đây càng để ít người biết tới thì càng tốt. Muốn đi gặp người thân, xem ra chỉ có thể đành phải đợi đến sau khi gặp đại thủ lĩnh của Hoa Đáng mới được.

***

Trong một căn phòng ở tầng hai của một ngôi tửu lầu bên đường, một gã trung niên thân hình cao lớn mặc bộ quần áo da nghiêng đầu ra ngoài cửa sổ quan sát đoàn quân Dương Lăng đi qua. Sau đó hắn quay trở lại ngồi xuống bàn, nhấp một ngụm rượu, cau mày:

- Dương Lăng vâng chỉ tuần tra vùng biên cảnh, tuy lần này đội ngũ hơi lớn hơn bình thường một chút, nhưng dù sao hắn cũng vừa bị bắt cóc ở kinh sư nên việc phòng vệ nghiêm ngặt hơn cũng chẳng có gì là khó hiểu. Thật chẳng nhìn ra là Hoàng đế đang ở đây!

Hắn nở một nụ cười khinh miệt, quắc cặp mắt sắc bén lên nhìn về phía đối diện:

- Hoàng đế của người Hán các ngươi giống như một bông hoa yếu ớt, giống như một con chim lông vàng được nuôi trong lồng, chỉ có thể nấp trong Tử Cấm Thành mà đưa hiệu lệnh. Chả được như Khả Hãn của bọn ta, đó là hùng ưng của đại mạc, anh hùng trên thảo nguyên. Thông tin Giáo chủ của các ngươi vừa báo không phải là giả đấy chứ?

Đối diện hắn là một thương gia béo tròn trắng trẻo tuổi chừng hơn năm mươi, trên người mặc một chiếc áo gấm dung tục, khuôn mặt nở một nụ cười đầy hòa khí, cứ tựa như là phật Di Lặc.

Tên thương gia nghe thế liền cười hà hà:

- Khất Khắc Nông tướng quân! Di Lặc giáo thần thông quảng đại, đệ tử của bọn ta có mặt ở khắp nơi, cho dù là tin tức của Hoàng đế cũng có thể thăm dò được. Chính Đức nhất định đang ở trong quân của Dương Lăng, tuyệt đối không giả!

Ánh mắt của kẻ được gọi là Khất Khắc Nông quắc lên nhìn chằm chằm vào gã hồi lâu, cuối cùng mới xoa tay bảo:

- Nhưng bọn hắn định gặp mặt Hoa Đáng ở đâu chứ? Lúc nào thì gặp mặt? Chúng ta rốt cuộc có cơ hội nào để lợi dụng không? Bọn ta đã không thể đợi tiếp nữa rồi.

Đại quân của Khả Hãn là những võ sỹ dũng mãnh nhất trên thảo nguyên, nhưng bọn họ không phải là thần, cũng cần có thức ăn. Hiện nay lương thảo của bọn ta đã dùng hết; không chỉ những con ngựa chết mà ngay đến những con ốm yếu hay bị thương cũng đều bị giết để ăn thịt cả rồi. Cứ tiếp tục như thế này nữa thì bọn ta chỉ có thể ăn thịt người thôi!

Gã Phật Di Lặc ngồi đối diện hoàn toàn chẳng hề quan tâm đến vẻ hung hăng của đối phương. Híp đôi mắt mọng nước lại, từ trong hai cái khe hẹp dài kia lộ ra những tia sáng rực, thân hình hơi ghé về phía trước, gã cười nhạt nói:

- Khất Khắc Nông tướng quân! Hãy nghĩ xem người các ngài muốn giết là ai? Là Hoàng đế! Hoàng đế của Đại Minh! Cơ hội này còn không đáng để các ngài đợi tiếp ư?

Hiện nay khác với thời Anh Tông ở Thổ Mộc Bảo; Anh Tông còn có anh em, Chính Đức thì không có. Chính Đức mà chết, những kẻ nắm binh quyền được hắn tin tưởng như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều sẽ vì tội xúi giục Hoàng đế tới biên cảnh mà bị xử tử hết. Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hòa thân là Đại học sỹ, nhất định sẽ vì không làm tròn bổn phận, hộ chủ bất lực mà bị bãi chức.

Người của bọn ta sẽ thừa cơ xúi giục khiến các phiên vương nổi dã tâm, triều đình nhà Minh ắt sẽ đại loạn. Đến lúc đó bản giáo thuận theo ý trời, chọn lúc ấy mà khởi binh, sẽ dễ dàng đoạt được thiên hạ. Khi đó... tất nhiên cần tới sự giúp đỡ của thiết kỵ Thát Đát. Thử nghĩ mà xem, chúng ta sẽ giúp các vị thôn tính Đóa Nhan Tam Vệ; vùng Liêu Đông cũng thuộc hết về Khả Hãn, còn cả các vùng Cam Túc, Thanh Hải mà bọn ta đã đồng ý cắt nhượng nữa, những thứ này còn không đáng để các vị đợi tiếp sao?

Gã mỉm cười dựa lưng vào chiếc ghế, ung dung nhấp một ngụm rượu, lại gắp lấy một miếng thức ăn, nheo mắt nói tiếp:

- Người Hán bọn ta có câu "nhất tướng công thành vạn cốt khô". Để cóviên danh tướng còn mất cả vạn tính mạng như thế, huống chi điều các vị muốn đạt được còn lớn hơn nhiều, kiên nhẫn chờ thêm một quãng thời gian nữa thì có sao?!

Hoàng đế Đại Minh chuẩn bị gặp thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ, loại hoạt động ngoại giao lớn như thế thì bọn chúng có muốn giấu cũng khó. Nhất định bọn ta sẽ thăm dò được những thông tin tiếp theo. Xin trở về hồi báo với Khả Hãn: bọn chúng đã tới đây rồi, thời cơ cũng không còn xa nữa.

Khất Khắc Nông nghiến răng đáp:

- Được, Du hộ pháp, ta sẽ chuyển lời về. Các ngươi hãy giúp bọn ta thăm dò rõ ràng xem xung quanh những thôn trang nào ở phía trước Đại Đồng không có phục binh, trong thôn còn có trâu ngựa lương thực không. Bọn ta... bọn ta nhất định phải phái dũng sỹ đi vòng qua đại quân nhà Minh, cướp lấy một ít lương thảo ở vùng phụ cận mới được.

Du hộ pháp vui vẻ đáp:

- Điều này thì bọn ta có thể làm được. Việc phòng ngự ở phía Liêu Đông của các vị cũng cần buông lòng hơn một chút, để các thủ lĩnh của Đóa Nhan Tam Vệ có thể bình an đến đây. Ha ha ha! Hoàng đế Đại Minh và tướng quân thân tín nhất của hắn, còn cả những thủ lĩnh bộ lạc có uy vọng nhất của Đóa Nhan Tam Vệ nữa. Khi bọn chúng đột nhiên bị giết chết thì đó chính là lúc bọn ta hô mưa gọi gió rồi.

Khất Khắc Nông nghe xong những lời đầy mê hoặc ấy, trong mắt không khỏi thoáng qua một nét hưng phấn và tham lam. Hắn uống một ngụm rượu lớn, đứng dậy nói:

- Được! Có tin tức gì hãy lập tức thông báo cho bọn ta, còn cả chuyện lương thảo cũng không thể chậm trễ! Để có thể vững chân tại đây, ngày mai bọn ta sẽ đại chiến với quân Minh một trận nữa!

Hắn túm lấy chiếc mũ da chó đội lên, hậm hực mắng:

- Tên Dương Nhất Thanh đáng chết, bọn ta lùi hắn liền cắn chặt không buông, bọn ta đánh hắn liền rút vào trong thành, làm tiêu hao lương thực của bọn ta. Vương Thủ Nhân thì lưu manh vô lại, chuyên chơi mấy trò xấu như dùng độc, đặt bẫy. Hừ! Tướng quân người Hán các ngươi chẳng kẻ nào là hảo hán hết!

***

Ngày hôm sau, Dương Lăng và Trương Vĩnh dẫn binh ra ngoài thành, đến Trấn Khương Bảo ủy lạo sỹ tốt.

Tiền phương đang có chiến tranh, Dương Lăng và Trương Vĩnh không dám để Hoàng đế mạo hiểm nên lưu lại ba trăm thị vệ đại nội canh gác dịch quán. Y biết Chính Đức hiếu động, e hắn không nhịn nổi mà lại chạy ra ngoài chơi bèn phái người đi tìm luôn gánh hát nhỏ kia đến biểu diễn, hy vọng có thể giữ chân được vị tiểu Hoàng đế này.

Đại quân bắt đầu tiến đi. Mặt đất hơi chấn động, tiếng vó ngựa vang lên như sấm rền. Dân thường và binh sỹ đang tản mạn trên đường đều cố gắng tránh qua hai bên, mấy ngàn kỵ binh ào ạt đi qua, khôi giáp sáng ngời, đao thương bóng loáng.

Dương Lăng thúc ngựa đi trên con đường lớn bằng phẳng trong thành, thân quân hộ vệ ai nấy đều anh dũng mạnh mẽ, đi sát theo ở bốn phía trước sau phải trái y và luôn giữ vững cự ly nhất định.

Đại kỳ của Khâm sai thêu hình rồng màu vàng đen, chiến kỳ màu đỏ máu, soái kỳ thêu chữ Dương màu xanh sẫm, tất cả cùng tung bay trước gió, phát ra những tiếng phần phật. Cả đội ngũ đều là khinh kỵ tinh nhuệ, đội ngũ chỉnh tề uy nghiêm, đao thương bóng loáng tỏa ra ánh sáng lạnh ghê người, nhất thời sát khí ngợp trời, thể hiện rõ vẻ dũng mãnh thiện chiến của đội ngũ này.

Tất cả sỹ tốt đều mặc giáp nhẹ. Đi đầu tiên là đội lính ném lao, mỗi người đều mang theo năm cây lao dùng khi đánh bộ, cán lao được làm bằng gỗ mềm, dài chừng hai mét, trước to sau bé, đầu được bọc sắt, trọng tâm nằm ở phía trước. Loại lao này không thể ném xa, nhưng trong phạm vi mấy chục bước ắt có thể xuyên qua cơ thể người, giáp trụ cũng khó mà khăn cản, có sức uy hiếp rất lớn với kỵ binh Mông Cổ dũng mãnh.

Dù loại lao này không thể ném xuyên qua lá chắn, nhưng khi bị ném trúng rồi thì đối phương cũng không thể sử dụng lá chắn tiếp được nữa, chỉ có thể bỏ lá chắn đi mà chiến đấu. Còn nếu ném trúng cơ thể người hay ngựa, dù có thân thể to lớn như chiến mã cũng phải gục ngã ngay, khi đó kỵ binh phía sau sẽ khó mà tăng tốc tiếp cận quân mình, ngăn cản được ưu thế của kỵ binh.

Tiếp sau đó là đội súng ống, còn đội cung nỏ thì được xếp cuối cùng ở phía sau đội lính mang đao thuẫn và lính cầm côn sắt. Toàn bộ đội cung nỏ đều sử dụng những chiếc nỏ rất cứng, phải dùng chân mới có thể trương dây, có thể bắn tên xa tới năm sáu trăm mét, tên xuyên thủng giáp trụ là chuyện dễ như trở bàn tay.

Vốn kỵ binh sử dụng loại nỏ cứng này không thích hợp, nhưng Dương Lăng dẫn binh xuất kinh thì tác dụng chủ yếu của đội quân là phòng thủ, do đó y đã sắp xếp thêm tám trăm người sử dụng nỏ cứng bắn tầm xa. Thử nghĩ mà xem, khi khinh kỵ của đối phương đang ào ào xông tới, bầu trời phía trên đỉnh đầu bọn chúng đột nhiên xuất hiện một loạt tên dày đặc, rồi mấy trăm người ngựa bị bắn xuyên cơ thể gục ngã xuống đất, ngay sau đó lại là từng hàng từng hàng lao được ném tới.

Kế sau đó là loạt đạn đầy trời, rồi côn sắt và đoản đao cùng phát ra như mưa, trong thời gian ngắn đủ khiến cho bất kỳ đội tiên phong dũng mãnh nào của đối thủ cũng phải tan vỡ. Đợi khi đội ngũ chính của đối phương kịp xông tới thì đám khinh kỵ bọn họ đã quay đầu bỏ chạy xa rồi.

Trong hành dinh Khâm sai, Chính Đức cười híp mắt ngồi trên một chiếc ghế lớn bọc vải nhung, trước ngực ôm một đống lớn đồ ăn vặt, dáng vẻ rất khoan khoái, chẳng khác gì một đứa bé ngoan được dỗ dành nên hết sức vui vẻ. Để giữ bí mật thân phận của gã, người của gánh hát không được báo cho biết họ đang diễn cho ai xem, cũng không nhìn thấy Chính Đức. Trong sảnh treo rèm, hắn ngồi ngay sau bức rèm nên có thể nhìn rõ mọi thứ bên ngoài, nhưng đứng bên ngoài thì lại không thể nhìn rõ người bên trong.

Trên đài vừa mới bắt đầu biểu diễn, Chính Đức liền cười hà hà một tiếng, nhảy xuống bảo gã thị vệ bên cạnh:

- Ban thưởng cho bọn họ ra sức hát tiếp, sau khi trở về sẽ còn có trọng thưởng. Chúng ta đi thôi!

Viên thị vệ đại nội hơi ngẩn người, vội thấp giọng hỏi:

- Hoàng thượng! Chúng ta đi đâu?

Chính Đức trừng mắt nhìn gã, cười mắng:

- Đồ ngốc! Dương thị độc và Trương Vĩnh đi đâu thì trẫm tất nhiên cũng phải tới đó. Ở kinh thành thì không có cách nào cựa quậy được, nhưng đến đây rồi mà trẫm còn không thể tận mắt xem đại quân tác chiến, há lại chẳng nuối tiếc ư?

Sắc mặt viên thị vệ biến đổi hẳn, gã kinh hãi thưa:

- Hoàng thượng! Dương đại nhân đã dặn đi dặn lại xin Hoàng thượng ngàn vạn lần đừng rời khỏi dịch quán. Đang lúc có chiến tranh với giặc Thát ngoài biên cảnh, sự an toàn của Hoàng thượng quan trọng vô cùng, không thể đi được!

Chính Đức bất mãn:

- Lời của Dương Lăng thì ngươi nghe, lời của trẫm ngươi không nghe sao? Muốn kháng chỉ chắc? Hừ! Cứ nói là muốn phò tá trẫm làm một thiên tử anh minh; trông cái trò này, Dương khanh cũng muốn dỗ dành trẫm như dỗ dành trẻ con chắc, tức quá!

Thị vệ đã quen nghe mệnh lệnh của Hoàng đế, hai vị Khâm sai lại không ở đây, gã nào dám khảng chỉ nhưng vẫn thấp giọng van vỉ:

- Hoàng thượng! Sự an nguy của người quan trọng vô cùng, nếu người bị tổn thương gì thì dù róc xương lóc thịt bọn thuộc hạ cũng không bù đắp được.

Chính Đức đắc ý đáp:

- Ngươi không đoán được là trẫm muốn đi theo, Dương khanh cũng không đoán được là trẫm muốn đi theo. Ngươi tưởng trên đời này thật sự có thần tiên đoán được suy nghĩ nhất thời của trẫm hay sao chứ? Huống chi trong thành Đại Đồng có rất nhiều binh mã, một hiệu úy nhỏ nhoi như trẫm đi lại giữa thiên quân vạn mã, trên đầu lại không hề che lọng vàng, ai nhận ra ta được?

Hơn nữa ra khỏi Đại Đồng còn có Trường Thành, kế đó là hơn hai mươi công sự đóng quân như Hồng Tứ bảo, Trấn Xuyên bảo, Đắc Thắng bảo và hơn trăm phong hỏa đài. Trong thành thì có hơn mười vạn quân, giặc Thát vẫn còn ở ngoài Trường Thành, trẫm lại sợ đến nỗi không dám ra khỏi cửa ư? Bớt lằng nhằng, đi thôi!

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 190: Cuộc chiến tại Trấn Khương qua

Thành Đại Đồng cao lớn và hùng vĩ, kiên cố và hiểm trở, được trang bị đủ các loại công cụ thủ thành, có thể nói là điển hình cho sự "sống trong yên ổn nghĩ ngày gian nguy" của Đại Minh. Đương nhiên, tính an toàn của nó còn cần phải chờ được thảo luận.

Toàn bộ tường thành Đại Đồng đều được xây trên cơ sở sử dụng đá thanh(*), đá phiến, đá khối và cột đá rồi trét "vữa" gắn kết; bên ngoài lại đắp thêm gạch xanh, loại gạch trung bình một viên nặng 35 cân (khoảng 18 kg). Như vậy, chúng ta có thể thấy được tường thành được xây dựng kiên cố và gian khổ đến chừng nào. (*: loại đá hình chữ nhật dẹp và dài)

Dương Lăng đến dưới chân thành ngửa mặt nhìn lên, không khỏi tán thán: "Hùng vĩ, quả là hùng vĩ! Tường thành hùng vĩ như vậy thực khiến người ta nhìn thấy liền mất hết tinh thần để đánh chiếm! Thật không biết trước đây giặc Thát làm thế nào mà suýt nữa thì đánh chiếm được toà thành lớn như thế này, hại khiến Đại vương phải chạy như bay về kinh thành khóc lóc, kể khổ với vua Hoằng Trị nữa."

Tường chính của thành Đại Đồng cao ba trượng, trên tường chính còn có tường chắn mái, trên tường chắn mái xây thêm tường gạch, lỗ châu mai trong tường gạch là nơi quan sát và là chỗ bắn cung nỏ của tướng sĩ thủ thành. Trên tường thành xây thêm lầu thành, chòi gác, vọng lâu, đứng cách nhau. Mi lầu xây kiểu "cửu tích hiết sơn"(*), bên ngoài có cột mái hiên vây quanh, nhìn thẳng xuống đường cái.

(*: xem hình http://a2.att.hudong.com/34/52/01300...8527826145.jpg)

Những công trình kiến trúc cao thấp chập chùng trên tường thành dựng nên một phòng tuyến đa tầng: quân sĩ có thể quan sát, ẩn náu, di chuyển, bắn tên, tiếp ứng, khống chế từ trên cao; nó cũng cung cấp cao điểm cho tướng lĩnh chỉ huy, điều phối binh sĩ từ trên cao.

Hôm qua Dương Lăng đã phái người thông báo cho vị tuần phủ Đại Đồng là vị quan văn Hồ Toản mà động một tí là đòi sống đòi chết ấy, vì vậy tướng thủ thành trông thấy đại quân của khâm sai đến thì liền vội cho mở rộng cổng thành, thả cầu treo xuống. Đội quân thiết kỵ ào ào chạy ra; Dương Lăng đi giữa đoàn Hỏa Súng doanh.

Tiền quân và trung quân đã ra khỏi cổng thành, hậu quân đang ùn ùn kéo đến. Dương Lăng ghìm ngựa tránh sang một bên, ngoái đầu nhìn vọng lại về phía tường thành nguy nga và đồ sộ. Bên ngoài dãy tường thành hình răng cưa đặc thù đó, y còn trông thấy bốn vọng quân đài đứng lẻ loi và cô độc. Chúng không có lối đi hay thang leo lên, chỉ có thể bắc ván gỗ giữa nóc đài với tường thành để đi lại; có thể dùng để công kích từ sau lưng quân giặc, phối hợp tác chiến và quan sát địch tình. Dương Lăng không khỏi tặc lưỡi cảm thán: "Tường đồng vách sắt có lẽ cũng chỉ thế này mà thôi".

Trong thành, ba trăm đại nội thị vệ đeo phác đao chuôi dài bọc thép và trường cung lợi tiễn đang phóng băng băng về phía cổng thành.

Từ thời Tống đến nay, binh chủng trong quân đội đều được phân định rạch ròi, không giống như quân đội thời Đường: bất kể là trường thương thủ hay đoản đao thủ, ai nấy đều đeo cung tên, bắn xa đánh gần đều được. Còn những binh sĩ mà Dương Lăng chọn ra, cưỡi trên lưng ngựa, đi dưới đất bằng, bắn xa hay đánh gần đều có thể tác chiến, cho nên mỗi người đều mang một cây cung cứng. Những tay đại nội thị vệ này không những võ nghệ tinh thông mà thuật cưỡi ngựa bắn cung càng không phải nói, cho nên bọn họ không chỉ đeo cung trên lưng, mà còn là loại tam thạch cung; đó là một loại cung khá cứng, tên loại cung này có nghĩa là cần phải dùng lực ba thạch (mỗi thạch # 60kg) mới kéo nổi.

Ở phía sau đại quân của Dương Lăng, mấy chục cỗ xe chở những vật phẩm được vận chuyển từ kinh sư và mua ở bản địa để khao thưởng ba quân nối nhau liên miên không ngớt, tốc độ cũng chậm, cho nên lúc này mới vừa ra khỏi cổng thành.

Tì tướng thủ thành còn chưa hạ lệnh đóng cổng thành thì chợt thấy lại có một đội kỵ binh giáp trụ sáng ngời xuất hiện. Trong đội kỵ binh đó có người quát lớn:

- Khoan đóng cổng thành, hậu quân chưa ra hết!

Không để vị tì tướng kịp truy hỏi, ba trăm thiết kỵ cùng hò hét xông qua, tiếng vó ngựa giẫm lên cầu treo vang rền. Ba trăm thị vệ này và những quan binh ở cuối đoàn đều đồng hành cùng nhau đến Đại Đồng, cho nên đã rất quen mặt nhau. Những tay ngạnh nỏ thủ xếp hàng ở cuối không biết chuyện Hoàng đế đang ở trong quân đội, càng không biết Dương Lăng ra lệnh cho ba trăm thiết kỵ đó ở lại, nay trông thấy bọn họ đuổi theo còn tưởng là đại soái thu xếp riêng cho bọn họ áp trận tại hậu doanh, cho nên cũng không hề dị nghị gì.

Tì tướng thủ thành thấy cả bọn ăn mặc và trang bị tương đồng, sĩ tốt hai bên lại quen biết nhau thì không hỏi thêm gì nữa. Đợi kỵ binh xông hết ra khỏi thành hắn mới cho kéo cầu treo lên, cánh cổng thành nặng trình trịch được đóng lại.

Dương Lăng hoàn toàn không hề hay biết hậu quân lại âm thầm có thêm hơn ba trăm tinh binh; giữ tin tức bí mật quá đôi khi cuối cùng lại trở thành sơ xuất lớn. Đại quân tiến về phía trước, hơn một canh giờ sau thì đến phụ cận của Trấn Khương bảo (*). (*: những thành trấn hoặc thôn làng có tường đất bao quanh thời xưa đều được gọi là "bảo")

Thám mã tiền quân đưa tin về, báo rằng Bá Nhan Khã Hãn của Thát Đát đang dẫn thiết kỵ chiến đấu với đại quân của Dương tổng chế bên ngoài quan ải. Dương tổng chế hiện không rỗi để trở về, xin đại quân của khâm sai hãy lên trên ải trước để quan sát chiến trận.

Dương Lăng nghe xong liền phấn chấn tinh thần, lập tức hạ lện tăng tốc tiến lên. Trấn Khương bảo cũng là một quan ải được xây dựa vào núi, chung quanh là trường thành uốn lượn như rồng, cứ cách quan ải hơn hai dặm đường lại có một con đường rẽ dành cho quân tăng viện chạy thẳng lên phong hỏa đài trên núi.

Còn chưa kéo đến Trấn Khương quan mọi người đã nghe thấy tiếng chém giết vang trời ngoài núi. Ngay bên hông lại xuất hiện một con đường rẽ đi lên phía phong hỏa đài. Đài này được xây trên mỏm núi hiểm trở, dễ thủ khó công, cho nên giặc Thát không công kích nó, nhưng từ nơi này đã có thể nghe thấy tiếng chém giết đinh tai.

Dương Lăng lập tức xuống ngựa, hạ lệnh cho đại quân ở nguyên vị trí chờ lệnh, còn mình tự dẫn hai trăm thị vệ lên ải. Lên đến phong hoả đài, một bả tổng chỉ huy lật đật chạy đến ra mắt khâm sai. Dương Lăng vội vàng hỏi:

- Tình hình chiến sự thế nào?

Vị bả tổng này cũng đã đánh đến chán chê. Mặc dù rất kính sợ khâm sai và bên tai là tiếng chém giết rền trời nhưng khi nhắc đến chiến sự, gã vẫn điềm nhiên như không:

- Khâm sai đại nhân! Xin ngài chớ bận tâm, cứ cách hai ngày giặc Thát sẽ lại đến đánh một trận. Sấm to mưa rào cỏn con thôi, bọn chúng không công vào được đâu.

Lúc này Dương Lăng và Trương Vĩnh mới yên tâm, bèn vội vàng chạy đến lỗ châu mai nhòm xuống. Lúc này mặt trời lên cao, ánh nắng rọi thẳng xuống mặt đất, tuyết phủ trắng xoá cả dãy núi, soi rõ hẻm núi lớn bằng phẳng trước ải Trấn Khương, từ trên mỏm núi này nhìn xuống có thể thấy rõ hết mọi thứ.

Giữa núi cao hẻm thẳm vang vọng những tiếng thét gào liên miên không dứt, Dương Lăng và Trương Vĩnh không khỏi khiếp sợ sững sờ bởi khung cảnh trước mắt. Không chỉ bọn họ, mà thậm chí là trong hai trăm chiến sĩ thân quân vốn dũng mãnh không sợ chết có những quan binh chưa từng tham gia chiến trận nơi biên ải cùng với Chính Đức lén dắt theo hai mươi thân binh lên núi nằm ghé mắt vào lỗ châu mai đều tròn mắt líu lưỡi.

Đây chỉ mới là trận chiến sấm to mưa rào cỏn con sao?

Trường thành được xây dọc theo dãy núi quanh co uốn khúc, trước ngọn núi hiểm trở này còn có một hòn núi nhỏ khác, dưới nữa là một khe núi vắt ngang, xa hai dặm về phía trước chính là Trấn Khương quan. Trường thành nơi này hơi vòng nhô ra ngoài, cho nên ở đây có thể quan sát rõ mọi thứ trước quan ải.

Tiếng la hét, tiếng binh khí chạm nhau và tiếng ngựa hoà trộn thành một âm thanh vang trời vọng đất bất tận, âm thanh của từng đợt sóng người và binh khí va chạm lọt rõ vào màng nhĩ, mọi thứ như đang diễn ra ở ngay trước mắt. Do thế núi đặc thù, trên này lăn đá xuống cũng không thể nào đập trúng giặc Thát nên quân Minh trên phong hỏa đài chỉ có thể trơ mắt nhìn bọn chúng ồ ạt xông đến cổng thành ở bên phải của mình.

Hàng nghìn hàng vạn nào người nào ngựa, lúc nha lúc nhúc, lớp trước ngã xuống lớp sau tràn lên công kích quan ải, thi thoảng những tia sáng sắc lạnh của binh khí lại lọt vào tầm mắt. Dương Lăng nín thở, chăm chú quan sát mọi thứ, lặng im thật lâu không nói lời nào. Thậm chí Trương Vĩnh lâu nay quen thói khom lưng, miệng cười siểm nịnh giờ đây vẻ mặt cũng trở nên trang trọng.

Chính Đức siết chặt hai nắm tay, tim như muốn nhảy khỏi lồng ngực, thì thầm:

- Đây là chiến tranh sao?

Lâu nay, những câu chữ trong sách binh thư đã dần hình thành trong lòng Chính Đức tâm lý cho rằng chỉ huy thiên quân vạn mã là cực kỳ oai phong, cực kỳ huy hoàng. Nay trước cuộc chiến tàn khốc trước mắt, tâm lý đơn giản này bị rúng động dữ dội. Đó là sự huy hoàng được tô điểm bởi máu tươi và tính mạng, tàn khốc biết dường nào: mấy vạn nhân mã đang chém giết nhau trong hẻm núi và giữa băng tuyết hoang vu ngoài quan ải.

Trên thế giới này, chỉ có loài người là bậc tinh anh trên hết muôn loài mới có năng lực huy động bấy nhiêu sinh mạng, mới có năng lực hủy diệt bấy nhiêu con người. Vậy loài người đáng tự hào hay là đáng thương?

Dưới ải tiếng la hét chém giết inh ỏi, kỵ binh đông nghìn nghịt tung vó rong ruổi, sử dụng thuật bắn tên trác tuyệt không ngừng bắn lên đầu thành, yểm trợ cho đội bắc thang và chiến xa công thành tiến về phía trước.

Trên thành dưới đất, cờ quạt vờn bay, quân Thát Đát dùng đủ loại vũ khí công thành: máy bắn đá, xe bắn nỏ,... bắn lên đầu thành những tảng đá, những quả cầu lửa khổng lồ. Chúng đập vào tường thành phát ra những tiếng nổ đinh tai.

Trên thành cũng cho dưới thành 'biết tay': xa thì bắn đá, bắn tên bằng nỏ cứng, bắn hoả pháo, gần thì lăn cây, ném đá. Nhìn từ xa, liên tục có người leo lên được một nửa bức tường thành thì la hét ngã xuống dưới chân thành, biến thành đống thi thể máu thịt bầy hầy. Tản mác khắp nơi là những chiếc thang mây bị phá gãy và xe công thành bị bốc cháy.

Trên quan ải, bọn sĩ tốt đang không ngừng chạy đi chạy lại hoặc vận chuyển khí giới, hoặc bắn tên rồi di chuyển, hoặc hoặc cầm móc câu đẩy ngã thang mây, không ngừng ném cây gỗ và quăng đá tảng. Dưới sự công thủ với hỏa lực dày đặc như vậy, vẫn có từng tốp giặc Thát hung hãn không sợ chết trèo lên đầu thành, nhưng chỉ sau một đợt phản công thì chúng biến thành một đống thịt vụn.

Một chiếc xe công thành to lớn và bền chắc được mấy chục tên sĩ tốt đẩy đến cổng thành. Đầu xe nhô ra một cây cọc nhọn hoắc, dài hơi một trượng, nện vào cánh cổng thành rắn chắn. Trên xe trang bị mái che hình quạt, đá và tên bắn trúng đều không thể tổn thương giặc Thát bên dưới.

Từng cú nện khiến tim Dương Lăng cũng nảy lên theo. Lúc này trên đầu thành ném xuống từng chiếc vại gốm, đập vào nóc xe (công thành) vỡ tan từng mảnh, liền đó một cây đuốc được ném xuống, một tiếng nổ đinh tai phát ra, cả chiếc xe bùng cháy. Do mấy tên giặc Thát đều mặc áo lông thú dày cộm, bị dầu bắn trúng, trong chớp mắt bọn chúng đều biến thành những 'cây đuốc sống', vừa la hét vừa lăn lộn trên mặt đất để dập lửa. Dương Lăng đứng trên tường thành nhìn thấy cảnh đó mà chấn động trong lòng.

Ngay vào lúc này, một cánh quân khác bất ngờ tấn công quân Thát Đát đang hùng hổ công thành.

Nơi đây núi non nhấp nhô chập chùng, trong dãy núi có hai hẻm núi thông đến Trấn Khương quan, một rất rộng và thoáng, rộng ba mươi trượng có đủ, chính là con đường giặc Thát tấn công quan ải. Con đường còn lại chỉ rộng hơn chục trượng, ngoằn ngoèo, dẫn sâu vào trong dãy núi, thông với Trường Thành nhấp nhô trên núi xa; đây hẳn là con đường bên ngoài duy nhất thông với một cửa ải khác.

Trong ải vốn có thể điều quân đi thẳng trên Trường Thành, không cần phải đi qua sơn cốc phủ tuyết trắng xoá. Nhưng lúc này nơi đó lại xuất hiện một cánh quân lớn đang di chuyển cấp tốc, đồng thời nhanh chóng hình thành trận hình công kích dạng góc nhọn.

Là cờ xí của quân Minh! Cánh quân này đa phần là bộ binh, đằng trước chỉ có mấy tay kị sĩ. Đối mặt với dũng sĩ Thát Đát ai nấy đều cưỡi ngựa tác chiến, ý định của bọn họ hiển nhiên là quấy nhiễu quân địch. Trong trận, một viên chiến tướng, quân đánh trống, quân kèn lệnh, quân cồng chiên, và quân cờ lệnh đều đứng đầu hàng ngũ, sau lưng là một cây soái kỳ, trên viết một chữ "Vương".

Bả tổng canh giữ phong hỏa đài mừng rỡ reo lên:

- Vương phó tướng từ Thanh Ngưu lĩnh đến chi viện rồi!

Dương Lăng nghe vậy thì máy động trong lòng, vội hỏi:

- Có phải là vị Vương phó tướng nọ?

Bả tổng đáp:

- Đại nhân, chính là phó tướng Vương Thủ Nhân dưới trướng Dương tổng chế, phòng thủ Thanh Ngưu quan, cách nơi này không quá ba dặm đường núi.

Dương Lăng khẽ ồ, liền vội vịn lỗ châu mai đưa mắt nhìn xuống phía dưới lá cờ chữ Vương. Y thấy rõ một vị tướng quân mặc giáp, khoác áo choàng xanh, điềm tĩnh ghìm ngựa đứng ở trong đội quân, từ xa nhìn không rõ tướng mạo.

Đao thương san sát, chiến sĩ mặc giáp cung kính trang nghiêm. Nhóm cung tiễn thủ được yểm trợ bởi những tấm thuẫn lớn, lắp từng mũi tên dài lên trường cung, mũi tên chìa ra khe hở của những tấm thuẫn như một hàng nanh sói.

Phát hiện có quân Minh tập kích từ sườn bên, đám giặc Thát la hét quay đầu ngựa xông về phía bọn họ đồng thời rút cung lắp tên ra bắn.

Vị tướng quân cưỡi ngựa vẫn bình tĩnh đứng dưới soái kỳ. Loạt tên đầu tiên bay tới cắm bộp bộp lên những tấm thuẫn cao tới đầu người. Toán quân Minh này không có nhiều kỵ binh, bọn họ nấp dưới những tấm thuẫn cao như vậy thì rất khó bị trúng tên tập kích, nhưng nếu để cho kỵ binh kẻ thù tiếp cận thì gần như sẽ trở thành một cuộc chiến nghiêng hẳn về phía địch.

Kỵ binh giặc Thát phi rất đến nhanh. Khi hàng kỵ sĩ đầu tiên cách quân Minh chưa đến hai tầm tên bay, vị tướng quân đột nhiên vung mạnh cánh tay, dường như quát khẽ một tiếng. Một trận mưa tên dày đặc như đàn châu chấu bay trùm tới, tên bắn mạnh, ngựa phi nhanh, hai bên tranh hơn đua kém. Khi kỵ binh phi đến một tầm tên bay thì vừa lúc đón lấy trận mưa tên đầu tiên, nhất thời người la ngựa hí, kỵ binh khiếm khuyết trang bị bảo hộ tốt liền giống như vướng phải dây giăng cản ngựa, lập tức ngã rạp một mảng lớn.

Lúc này, đợt mưa tên thứ hai lại ập đến...

Trong hẻm núi chỉ có năm nghìn quân Minh, quân Thát Đát công kích Trấn Khương bảo lại có ít nhất ba vạn người. Mặc dù đội binh này tạm thời chiếm chút thượng phong, nhưng một khi giặc Thát tiến đến gần, bọn họ sẽ bị đồ sát dễ dàng. Dương Lăng không hề phát hiện trong quân có đội trường thương binh cầm trường thương to và dài mấy mét, vả lại khi nãy bọn họ vội vã chạy tới nên hiển nhiên không thể nào bố trí kịp cọc chống ngựa, hố bẫy ngựa lẫn dây cản ngựa.

Từ trên dãy núi nhìn xuống, y thấy một màu trắng mênh mông, gió thổi lồng lộng mãnh liệt. Khe sâu, đồi núi, đồng hoang đều đóng một lớp tuyết, vẫn là cảnh "non uốn phau phau, đồng vươn bàng bạc"(*) khiến lòng người thanh thản mông mênh, thế nhưng trong sơn cốc lại là tiếng ngựa hí người la, chém giết rung trời. (*: trích từ bài Thấm viên xuân tuyết của Mao Trạch Đông, Nam Long dịch)

Một tay thủ lĩnh của Thát Đát chĩa xéo trường thường, chiến mã dưới hông lướt đi băng băng như chớp, một người một ngựa dẫn đầu đội quân Mông xông thẳng vào phía quân Minh. Trường thương trong tay hắn xoay như gió lốc, gạt bay mọi lợi tiễn bắn đến. Quân Thát phía sau tựa như cuồng phong cuốn phăng mọi thứ, như lửa cháy lan khắp cánh đồng. Vó ngựa gầm vang, mặt đất rung chuyển, kỵ sĩ xung phong hò hét dọa người, thanh thế vô cùng đáng sợ.

Thế trận của giặc Thát công thành đã loạn, càng ngày càng bắt đầu có nhiều sĩ tốt tràn về phía miệng hẻm núi chật hẹp. Đội cung tiễn thủ của quân Minh lùi lại, "đoàng! đoàng! đoàng!", một trận khói mịt mù bao trùm cả miệng hẻm núi. Lính mang thuẫn rẽ ra, tiếng hỏa súng vang lên rợp trời, từng khẩu pháo liên châu lớn bắn ra từng loạt đạn lửa chi chít, tạo thành một đợt sóng công kích dày đặc.

Giặc Thát lại ngã rạp một mảng. Khói súng còn chưa tan hết, mọi người đã thấy mấy nghìn nhân mã trong hẻm núi đượctướng quân cưỡi ngựa dẫn chạy vào sâu trong khe núi. Quân Thát Đát giận đến phát điên thúc ngựa điên cuồng đuổi theo. Bọn chúng vừa phóng ngựa vào đến sơn khẩu, đã thấy đám quân Minh trước mặt đang "hoảng loạn" chạy trối chết vụt cái đã đều nằm rạp xuống đất.

"Ầm ầm ầm!!!", tiếng đại pháo điếc tai nổ vang, hai mươi khẩu pháo tướng quân to bằng miệng bát, mỗi khẩu bắn ra cả trăm hạt bi sắt. Loại tấn công tầm ngắn này hết sức đáng sợ: mưa đạn che phủ khắp trời, gần bốn trăm tên giặc Thát tiên phong, bao gồm cả tay tướng quân cầm thương cực kỳ kiêu dũng nọ đều biến mất hoàn toàn sau khi loạt đạn pháo quét qua. Chỉ còn mấy thớt chiến mã thân thể đẫm máu chưa chết hẳn đang rên rĩ giãy giụa trên chiến trường rải đầy thi thể.

Trên ải Trấn Khương, tiếng trống trận vang rền, cửa quan ải được mở ra, xe công thành vẫn chưa cháy hết bị đẩy sang một bên, kỵ binh xuất hiện như hồng thủy vỡ đê. Kỵ binh giáp nhẹ bắn ra một loạt mưa tên, mỗi người cứ bắn ba phát tên lại cưỡi chậm lại, tránh sang một bên. Kỵ binh giáp nặng theo sau, đánh thốc tới, nhất tề va chạm với thiết kỵ của giặc Thát.

Từ trên quan ải nhìn xuống, hai đoàn quân như hai làn sóng lớn ập vào nhau trong nháy mắt, thoáng khựng lại, sau đó là người ngã ngựa đổ, máu thịt tung toé, thỉnh thoảng có người bị chém, đâm, máu thịt vương vãi khắp chiến trường. Mỗi một người đều liều mình tiêu diệt một sinh mạng khác; vừa rồi còn mặc sống quên chết đồ sát kẻ khác, lúc này có thể đã là đống thịt nát dưới chân ngựa.

************************************************** ************************************

Lều soái của vua Khả Hãn đủ chứa năm sáu mươi ngồi xếp bằng, nhưng lúc này bên trong lại chỉ có bảy tám người, nhưng bảy tám người này chính là những chúa tể tối cao của cả đại mạc và thảo nguyên. Trên tấm thảm lông lạc đà dày cộm trong góc lều lớn đặt tám chậu than cháy hừng hực, nhưng ở chính giữa lều chỗ mọi người ngồi lại hơi u ám.

Hai con mắt của Bá Nhan Khả Hãn đỏ hằn như máu vì phẫn nộ. Hắn ngồi ở vị trí chủ trì, hai tay chống gối, đầu đội mũ da hươu, người mặc áo da lộn, trợn mắt quát đám người trước mặt:

- Đừng nói thêm nữa, dũng sĩ của chúng ta đến chỗ của người Hán săn bắn, đã uống cạn rượu mạnh trong nhà, ăn sạch dê bò trong nhà. Nay chưa đánh cướp được con mồi nào mà cứ rút lui như vậy thì biết ăn nói thế nào với người trong bộ tộc chúng ta đây?

Bá Nhan Khả Hãn quét cặp mắt hùm, đám người ngồi trước mặt hắn đều khẽ cúi đầu, không dám đối mặt, chỉ có một viên tướng vạm vỡ tuổi trạc tứ tuầnnét mặt phong sương, mắt ưng lẫm liệt khoanh gối ngồi bất động thờ ơ không nói gì.

Bá Nhan Khả Hãn tuổi hơn ba mươi, đương là độ trẻ trung khỏe mạnh. Hắn khó chịu duỗi thân hình khôi ngô vạm vỡ của mình, bất mãn liếc người đàn ông ngồi chống gối không tỏ vẻ gì, hỏi:

- Nhân mã quân Minh và chúng ta ngang nhau, bọn chúng phải chia quân trấn giữ, chúng ta lại chỉ tấn công một điểm của chúng. Tuy bọn chúng có quan ải hiểm yếu để phòng thủ nhưng nhân mã công thành của chúng ta lại đông hơn, địa điểm và thời gian công thành lại do chúng ta chọn. Thế mà hiện tại đánh nhau đã mấy chục trận lớn nhỏ mà chúng ta vẫn không hề chiếm được một chút lợi thế là thế nào?

Người đàn ông mắt ưng trông cao ngạo kiên cường nọ miễn cưỡng quay đầu lại. Bá Nhan quét cặp mắt hùm, lạnh lùng hỏi:

- Hỏa Sư, ngươi có nhận định gì?

Người đàn ông mắc ưng thờ ơ đáp:

- Đại Hãn! Người của chúng ta thiếu ăn thiếu mặc, ngay cả chiến mã cũng không còn sức lực thì làm sao có thể phát huy sức chiến đấu của bọn họ đây?

Một gã nãy giờ cúi đầu lặng thinh lập tức ngẩng đầu cười khẩy nói:

- Quân Minh giao chiến với chúng ta, các nhóm bộ lạc đều tổn thất nặng nề, chỉ có nhân mã của ngươi không hề bị tổn thất gì. Hình như quân Minh sợ cái tên 'Hỏa Sư vũ dũng' của ngươi, ai nấy đều tránh không dám đánh nhau với ngươi cả. Hỏa Sư là người anh hùng ân oán phân minh, nhận giò đương nhiên phải thò lại chai rượu rồi.

Hỏa Sư tím mặt quát:

- Mông Lực Khắc! Ngươi nói vậy là ý gì? Lúc chiến đấu với quân Minh, nhóm bộ lạc của ta chưa từng đứng sau kẻ nào, đã bao giờ có lòng riêng?

Bá Nhan trừng mắt lườm hắn một hồi, rồi bật cười thật lớn, quát:

- Mông Lực Khắc đừng nói bậy! Hỏa Sư là anh hùng thảo nguyên chúng ta, là đại tướng bản Hãn tin yêu nhất, sao có thể mang lòng riêng mà thỏa hiệp với quân Minh để bảo vệ thực lực của mình cơ chứ?

Gã thủ lĩnh có tên Mông Lực Khắc nọ chỉ cười khẩy mấy tiếng rồi không nói gì nữa. Khuôn mặt Hỏa Sư tái lại. Ngay vào lúc này, một gã mặc áo da thú vén lều rảo bước tiến vào. Bá Nhan trông thấy người đó không khỏi mừng rỡ hỏi:

- Khất Khắc Nông! Ngươi về rồi à, có phải đã gặp được người của bọn họ?

Khất Khắc Nông nhìn quanh lều một lượt, thấy mọi người đều là nhân vật đầu não của các nhóm bộ lạc Thát Đát, bèn yên tâm thưa:

- Dạ! Đại Hãn, tôi đã gặp hộ pháp của bọn họ.

Đoạn gã bước lên khom người thi lễ, sau đó thuật lại tin tức do Du hộ pháp của Di Lặc giáo thông báo cho mọi người. Mọi người có mặt nghe xong liền chấn động tinh thần. Bá Nhan hít một hơi thật sâu, rồi đứng bật dậy, nghiêm nghị lạnh lùng:

- Bất luận thế nào, chúng ta phải tiếp tục kiên trì. Mục tiêu hiện tại của chúng ta là Chính Đức chứ không phải cố tranh đoạt thắng bại như trước nữa!

- Thiên tử người Hán chỉ giống như một con gà con, trông thấy bóng dáng hùng ưng bay liệng liền sẽ sợ đến phát run, trốn vào lòng gà mẹ. - Bá Nhan ngửa mặt lên trời cười lớn một tràng dài đoạn vung tay - Ra lệnh cho đại quân rút lui, tạo hiện trường giả là đại quân ta muốn từng bước rút khỏi chiến trường trở về thảo nguyên. Hoa Đáng không phải là ngốc, hắn sẽ không chui vào trong túi triều đình nhà Minh. Chúng ta phải chừa cho hắn một địa phương an toàn để gặp mặt triều đình nhà Minh bàn chuyện kết liên. Bỏ Trấn Khương bảo, đưa quân về hướng Bình Thuận, Hồ Quan.

Mỉm cười nói xong, hắn quay sang bảo Hỏa Sư:

- Hỏa Sư, người nhóm bộ lạc của ngươi sẽ đoạn hậu. Một mặt ngăn cản quân Minh truy kích, một mặt chờ Di Lặc giáo đưa tin đến xong sẽ phái một tốp tinh binh cướp bóc lương thảo, kiềm chân khiến quân Minh phải đóng giữ ở nơi này, tránh phải lưỡng bề thọ địch!

Hỏa Sư cười khẩy trong bụng. Bá Nhan nói đường hoàng như vậy nhưng rõ ràng là đã không còn tín nhiệm mình lắm. Chỉ có điều xem ra hắn ta chỉ nghi ngờ mình vì bảo tồn thực lực nên đã có thỏa thuận ngầm với quân Minh, chứ không nghi ngờ mình đã nương nhờ vào triều đình nhà Minh. Cho nên hắn ta mới giữ mình lại đơn độc chiến đấu với quân chủ lực của nhà Minh, bức mình phải đánh một trận với quân Minh, bằng không thì đã không giữ mình lại phía sau để đoạn hậu.

Vả lại Hỏa Sư cũng không nguyện chạy đi làm tiên phong cho Bá Nhan đánh trận chiến ngu ngốc và hèn nhát này nên bèn vừa cung tay vâng lệnh, vừa âm thầm tính toán làm thế nào tránh quyết chiến cùng quân Minh, chỉ thừa cơ cướp đoạt chút lương thảo lắp đầy bụng binh sĩ của mình thôi.

Bá Nhan lại nói:

- Ra lệnh cho nhân mã công kích quan ải lập tức rút lui, cứ để quân Minh đắc ý thêm mấy ngày nữa đi.

Thủ lĩnh các nhóm bộ lạc khác nghe thấy mình có thể tránh được hai ôn thần Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân khiến người ta nhức đầu đó, kéo nhau đến những huyện chưa bị đánh cướp để kiếm bữa cơm no thì cũng rạng rỡ mặt mày, vội vã đứng dậy tuân lệnh thi hành.

Đợi mọi người cáo từ ra hết, nụ cười trên mặt Bá Nhan mới dần dần tắt. Hắn thả người ngồi xuống chiếc ghế lớn lợp nhung, thở dài mệt mỏi. Màn trướng bỗng vén lên, một thiếu nữ yểu điệu vận áo quần màu trắng lặng lẽ bước vào. Trong lều hơi âm u, cô nàng rón rén đi đến trước hai ngọn đèn mỡ bò treo thòng phía trước vương tọa, rút bên hông ra một cây loan đao nhỏ khơi nhẹ hoa đèn.

Ngọn lửa cháy cao hơn, trong lều sáng sủa hơn rất nhiều. Phần lớn người Mông Cổ có vóc dáng cao to vạm vỡ, nhưng thân thể yêu kiều của cô nàng lại rất là thon thả lả lướt. Ngọn đèn sáng tỏ soi rõ khuôn mặt cô nàng; chiếc cằm trơn nhẵn mịn màng đón lấy ánh đèn, gò má cong cong bên sáng ngời bên u ám phác họa nên một vẻ thanh tú cùng mỹ lệ bất phàm.

Hai gã thị vệ đứng bên Bá Nhan vội chắp tay trước ngực, cung kính thưa:

- Sát Tất Khả Đôn!

Trong tiếng Mông Cổ, "Sát Tất Khả Đôn" để chỉ Hoàng hậu, chỉ có chánh phi của Đại hãn hoặc Vương gia mới có thể xưng là Sát Tất Khả Đôn. Người đời đều biết lúc bảy tuổi Bá Nhan đã cưới bà thím họ hàng xa là Mãn Đô Hải Tư Cầm làm vợ, nhờ bà phò tá và lời hiệu triệu với thân phận hậu duệ trực hệ của gia tộc cao quí Thánh Cát Tư Hãn mới trở thành vua của thảo nguyên.

Thế nhưng người thiếu nữ thanh tú trước mặt lại trông chưa tới đôi mươi, tuyệt không thể là hoàng hậu Mãn Đô tuổi phải tới lục tuần. Sự thật thì sau khi Bá Nhan thành niên, Mãn Đô Hải Tư Cầm đã dần biến mất khỏi tầm mắt của mọi người, và người ta cũng rất tránh nhắc đến nơi ở của bà.

- Các ngươi lui xuống đi!

Bá Nhan vung tay cho hai gã người hầu lui xuống, rồi âu yếm nói với người thiếu nữ:

- Tái Lý Mộc Trác Nhĩ của ta, đến đây cho ta ôm nào.

Thiếu nữ áo trắng cười ngọt ngào, bước nhẹ nhàng đến bên hắn, được hắn ôm lấy liền nhảy lên ngồi trên đùi phải của hắn. Vị Hoàng hậu trẻ tuổi mỉm cười nói:

- Đại Hãn của thiếp, chiến sự không thuận lợi thì chúng ta rút về thảo nguyên là xong, cớ chi phiền não vậy? Chẳng phải là người Hán đã bị chàng dọa sợ đến nỗi không dám ló ra khỏi ải sao?

Bá Nhan cười ha hả, ôm ấy tấm eo thon của cô nàng:

- Trác Nhĩ à, xưa nay ta chưa hề lo lắng về triều đình nhà Minh, mà là lo về những bộ lạc dưới quyền ta. Lúc đánh thắng, cướp được dê bò và nô lệ về thì ai nấy đều nói cười rạng rỡ; nếu thua trận, mọi tù trưởng đều tính toán lợi ích cho riêng mình, kẻ có dị tâm nào chỉ một mình Hỏa Sư?

Tái Lý Mộc Trác Nhĩ dịu dàng vòng tay ôm lấy cổ, hôn lên khuôn mặt săn chắc của hắn, khẽ cười nói:

- Đừng lo lắng, đại vương của thiếp! Dưới sự trông coi của con hùng ưng như ngài, còn có ai dám nảy lòng bất tuân chứ?

Bá Nhan cười to, luồn một bàn tay to tướng vào trong người cô nàng, bóp lấy bầu vú mềm mại mà đầy đặn, kề tai nói nhỏ:

- Nói rất phải, cho nên... mặc kệ hiện tại phải tổn thất bao nhiêu nhân mã, mặc cho cái đám hèn hạ đó bàn tán sau lưng, ta sẽ làm theo chủ định của ta.

Bị hắn sờ nắn đùa bỡn, vị hoàng hậu trẻ tuổi nằm trong lòng hắn giảy nảy như cá mắc cạn, thở dốc không nói được gì. Hai người lăn từ trên ghế xuống thảm nhung, đai lưng được cởi ra, từng tấm y phục bị vất trên mặt đất; rất nhanh, một thân thể cường tráng màu đồng trùm lên một tấm thân trắng trẻo và mềm mại...

Hơi thở nóng hừng hực của Bá Nhan phà lên bộ ngực cao vút và căng tròn của cô nàng. Hắn cúi đầu nhìn đôi gò tuyết lê đầy đặn mịn màng, thấp giọng nói:

- Giết xong Chính Đức, đoạt được Liêu Đông, Cam Túc và Thanh Hải, kế đó sẽ đoạt cả thiên hạ, xây dựng lại Đại Đô! Hoàng hậu của ta, nàng sẽ theo ta đánh thẳng đến thắng lợi!

Ưm một tiếng, cặp đùi săn mẩy và mềm mại liền kẹp lấy hông hắn. Bá Nhan hừm khẽ rồi mạnh mẽ "đánh" vào...

************************************************** ***********************************

Trên tường thành, Dương Nhất Thanh mỉm cười sánh vai bước đi cùng Dương Lăng và Trương Vĩnh, quan binh đứng nghiêm trên quan ải Trường Thành, trải dài không thấy điểm cuối. Khói súng vẫn chưa tan, mùi máu tanh vẫn còn rất nồng, nhưng nhuệ khí binh sĩ dâng cao. Đối với bọn họ, có thể thắng trận, có thể sống sót trở về chính là điều hạnh phúc nhất.

Dương Lăng nói với Dương Nhất Thanh:

- Dương tổng chế! Nghe báo đại quân thắng trận, Hoàng thượng rất ư vui mừng thanh thản. Trước tiên ngài hạ thánh chỉ phong Dương đại nhân làm Tổng chế tam biên, sau lại ra lệnh cho bản quân đích thân vận tải một ít vật phẩm để ủy lạo quân sĩ. Mọi thứ như gạo mì, thịt rau, trái cây, cá trứng, chăn mền quần áo; các loại thuốc men phòng chống và chữa trị các loại bệnh sương lạnh, ôn dịch, đau bụng thổ tả; dầu mỡ, bao tay, than củi để chống rét sưởi ấm đều có. Chúng tôi đều đã đưa mỗi thứ một ít đến, hiện đang để dưới ải, vẫn xin đại nhân phái người kiểm nhận.

Trương Vĩnh cũng cười bảo:

- Còn có ngân lượng ban thưởng cho ba quân, bạc và một ít nhu yếu trợ cấp cho sĩ tốt thương tật. Cũng xin đại nhân mau chóng liệt kê danh sách, bảo quan thư ký thẩm tra rồi báo lên. Hoàng thượng rất hài lòng với lần đại thắng này và chiến sách tiêu hao quân Thát Đát, khiến chúng không trộm được gà còn mất gạo của đại nhân. Đúng rồi, sao không thấy Miêu công công đâu?

Trương Vĩnh thích cầm quân, Miêu Quỳ cũng mê đánh trận, hai người này một người nắm Ngự Mã giám, một kẻ giữ Binh Doanh, tính tình cũng khá hợp nhau. Tuy Miêu Quỳ lần đầu đốc chiến gặp xui nên phải đoái công chuộc tội, song vẫn đảm nhiệm chức giám quân của ba quân, theo lý thì lão nên có mặt trên quan ải mới phải.

Không ngờ Dương Nhất Thanh nghe hỏi lại hơi sững người rồi mới đáp:

- Bản quan đã cho trạm dịch quân đội đưa tin về kinh. Với tốc độ của bọn họ, hẳn là Hoàng thượng nhận được từ lâu rồi chứ, chẳng lẽ Hoàng thượng chưa thông báo cho hai vị khâm sai sao?

Trương Vĩnh và Dương Lăng trố mắt nhìn nhau. Dương Lăng lắc đầu bảo:

- Việc đó... hẳn là trên đường bị trì hoãn, chúng tôi chưa từng nhận được công báo trong kinh.

Đáp xong, y hơi chột dạ. Hoàng đế đang ở trong quân, tấu chương được đưa vào kinh cũng chỉ có ba đại học sĩ mới được xem. Chính Đức lại bí mật lẻn đi, để tránh tiết lộ tin tức, e rằng trừ phi là chuyện vô cùng khẩn cấp, ba đại học sĩ cũng không dám phái người đưa tấu chương đến trình lên Hoàng đế.

Dương Nhất Thanh nói:

- Ồ! Miêu công công cùng với Tổng binh Hứa Thái đã..., - nói đến đây hắn chợt ngưng lại, thấp giọng - Đợi vào trong quan lầu hẵng nói. Quân vụ mà Miêu công công và Hứa Thái chấp hành hết sức cơ mật, không nên để quá nhiều người biết.

Dương Lăng hiểu ý gật đầu. Trông thấy dưới cửa ải sĩ tốt vẫn đang bận bịu dìu đỡ thương binh và dọn dẹp chiến trường, Dương Lăng lại nói:

- Dương tổng chế! Mục đích chia rẽ Bá Nhan và Hỏa Sư và tiêu hao lương thảo của bọn chúng đã đạt được, sắp đến đây hẳn sẽ tăng cường thế tiến công, đánh đuổi chúng về. Áng chừng một hai tháng nữa là xuân ấm tuyết tan, trăm họ cũng phải cấy cày, không thể kéo dài tiêu hao chiến với chúng ở đây.

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Dương khâm sai nói rất đúng! Bản quan cũng đang lo nghĩ chuyện này, có điều tạm thời vẫn phải kìm chân bọn chúng thêm mấy ngày. Về phần nguyên nhân, ha ha, nó cũng có liên hệ với chuyện ban nãy. Bản quan thấy mấy ngày nữa hẳn là sẽ có tin tức trở về rồi, kéo dài thêm nữa thì bản quan cũng chịu không nổi đâu.

Mấy trăm vạn nhân khẩu ở vùng biên giới, còn hơn mười vạn đại quân; lương thảo chiến mã sử dụng càng lớn hơn nữa. Thảng như chiến sự kéo dài, nếu không có đồn điền quân binh mà chỉ dựa vào quân nhu lương thảo của triều đình, e rằng triều đình sẽ gánh không nổi, quân dân cũng sẽ bị đói. Đó là chuyện lớn!

Dương Nhất Thanh thân là Tam quan tổng chế, không chỉ phụ trách chiến sự, mà còn phải phụ trách công việc có liên quan đến quân chính, đồn điền. Mỗi năm đồn điền quân binh có thể giải quyết được một số lượng khẩu phần khá lớn, tầm quan trọng của nó không kém gì tác chiến.

Dương Nhất Thanh nói đến đây thì không nén được thở dài. Hắn là Tam quan tổng chế, binh mã dưới tay là do binh lính từ các trấn Đại Đồng, Thái Nguyên và Tuyên Phủ tập hợp mà thành, những kiêu binh mãnh tướng lâu năm trấn thủ biên thùy nào có dễ nghe lời.

Mấy năm trước Tổng binh Đại Đồng ngược đãi sĩ tốt, đám quân binh đánh trận không sợ chết này nào biết kính sợ quyền uy là gì, bèn nổi loạn làm thịt luôn gã Tổng binh, gây loạn một hồi. Triều đình muốn bắt kẻ đầu têu gây rối nhưng cũng không thể lần ra.

Tuy Dương Nhất Thanh xuất thân từ quan văn nhưng đã gia nhập quân đội từ lâu nên biết rõ quân đội là một tổ chức tương đối độc lập. Trong quân đội coi trọng nhất là uy danh, lai lịch, địa vị, hoặc là chiến công to lớn, hoặc là sự từng trải đủ lâu; nói chung là phải trấn áp được tình hình, bằng không sẽ rất khó điều khiển quân đội hay bố trí công thủ theo ý muốn.

Dẫn lính, cầm binh, điều khiển, tác chiến đều chú trọng đến quan hệ, tín nhiệm và ủng hộ của tướng sĩ, nếu chỉ dùng hình phạt nghiêm khắc sẽ không thể trấn áp được đám người lăn lộn trong đống xác chết này. Nếu không có cơm ăn, đó thực sẽ là chuyện lớn.

Cuộc chiến lần này đã kéo dài quá lâu. Tuy rằng Bá Nhan bị tổn thương lớn hơn, nhưng chẳng lẽ tiền bạc và lương thực mà Đại Minh đã tiêu hao mất lại không phải là vấn đề lớn?

Dương Nhất Thanh khẽ thở dài, nói tiếp:

- Nơi đây núi nhiều đất ít, ruộng đất cằn cỗi, nếu gặp thêm nạn hạn hán hay nạn châu chấu, thu hoạch mùa màng sẽ giảm súc nghiêm trọng. Tam quan có đông quân dân, nhiều chiến mã súc vật như vậy, một khi thiếu lương thực thì lòng quân lẫn lòng dân đều sẽ không yên. Bản quan đang cân nhắc sang xuân mất mùa sẽ cho quan binh bổ núi khai khẩn thêm ít ruộng núi. Có điều là... chút muối bỏ bể, có còn hơn không mà thôi.

Chợt máy động trong lòng, Dương Lăng liền mừng rỡ nói:

- Nếu như những mảnh đất cằn cỗi này khó xơi như gân gà, không ảnh hưởng mấy đến việc chuẩn bị lương thực thì bản quan có vài giống cây trồng cho sản lượng rất cao, không biết Dương tổng chế có bằng lòng cho trồng thử không? Trước hết sẽ cho trồng thử trong quân điền, năm sau nếu được mùa, sẽ tặng giống ấy cho trăm họ, tam quan cũng có thể trở thành kho lương của Tây Bắc vậy.

Dương Nhất Thanh ra vẻ xúc động, vội hỏi:

- Có giống cây trồng như thế ư?

Dương Lăng gật đầu đáp:

- Phải! Bản khâm sai có thể đảm bảo mấy giống cây trồng khoai lang, khoai tây, ngô từ Tây dương mà bản quan tiến cử. Hiện tại lúa mạch trồng trên một mẫu đất cằn đất cỗi, cho dù ông trời nể mặt giúp cho mưa thuận gió hoà thì cố lắm cũng chỉ có sản lượng từ ba đến năm trăm cân là cùng, còn loại khoai lang này có thể đạt đến ba nghìn cân trở lên. Tuy chỉ là ít lương thực phụ, nhưng là thứ cây trồng rất tốt để lót dạ lót dày, lại không tranh ruộng tốt với lúa mì lúa mạch. Dương tổng chế thấy thế nào?

Dương Nhất Thanh nghe xong thì kinh ngạc vô cùng, vội đáp:

- Một mẫu cho ba nghìn cân? Thực không dám nghĩ, thực không dám mơ! Ở cái địa phương này, nếu không tranh ruộng tốt, không phải để ý sắc mặt ông trời, một mẫu cho được nghìn cân đã đủ khiến bản quan cảm ơn trời đất rồi. Còn về phần lương thực phụ, bà mẹ nó chứ, người đói còn gặm cả rễ cây, ai còn đi so đo mấy thứ đó?

Dương Lăng nghe vị danh tướng có xuất thân tiến sĩ này thốt ra một câu thô tục như vậy thì không khỏi bật cười. Lúc này ba người đã đi đến cạnh thành lầu phía trên cửa quan của bảo Trấn Khương, Dương Nhất Thanh dừng bước cười nói:

- Nơi đây rất đơn sơ nhưng dẫu sao cũng có thể che chắn gió tuyết. Xin mời hai vị khâm sai vào!

Dương Lăng cười nói:

- Tổng chế đại nhân khách sáo rồi.

Đoạn y quay đầu lại ra lệnh cho hai trăm thân quân thị vệ:

- Các ngươi không cần phải chờ ở đây, cứ xuống quan ải giúp đỡ quân thủ vệ mang gạo mì thịt để ăn... ăn... ăn...

Lúc y xoay lại, một bóng người đứng sau đám đông chợt vội vã nấp vào sau lưng mấy tay thị vệ. Có điều người này y quá quen thuộc đi, nên y chỉ mới liếc sơ qua liền khiếp đảm đến trợn tròn hai mắt, thiếu chút nữa thì lòi cả tròng.

Vẻ kỳ lạ của Dương Lăng khiến toàn bộ sĩ tốt đều quay đầu lại nhìn, trên cổng thành nhất thời lặng ngắt như tờ. Tay "tiểu hiệu úy" đó đứng nấp sau lưng một thị vệ cao to một chốc, rồi lại rì rì lấp ló đi ra.

Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh vừa trông thấy, sắc mặt cũng lập tức trắng bệch. Ba người cùng trố mắt nhìn hắn, nhất thời không dám tin vào mắt mình. Theo ánh mắt của ba vị đại nhân, đám thị vệ liền dạt sang hai bên, dẹp đường cho viên tiểu hiệu úy khôi ngô tuấn tú nọ.

Tuy Chính Đức đi đến đâu là vạn cặp mắt đều dồn về phía đó, nhưng chưa từng có nhiều người dám trợn tròn mắt nhìn hắn chằm chằm như vậy, khiến hắn cũng cảm thấy không thoải mái.

Chính Đức ngại ngùng cười vẻ xấu hổ với ba người, rồi chậm rãi bước tới, lúng ta lúng túng như một đại cô nương, tướng đi hệt như một con búp bê rối.

(

Chú thích:

1) còn được gọi là "khống quân đài", dùng để quan sát, bắn ngang, phối hợp tác chiến, đề phòng quân giặc xuất hiện nơi điểm mù, lại có thể quan sát sự biến hoá của địch tình mà mau chóng áp dụng lấy biện pháp ứng biến phù hợp. Xem hình (http://img.niwota.com/album/images/2...5/56851318.jpg)

nguyên văn là "minh", trỏ nhóm các bộ lạc Mông Cổ gộp lại thành một liên minh, tạm dịch chung là "nhóm bộ lạc".

lầu quan sát trên thành

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 191: Thư nhà

Trong đám thân quân thị vệ của Dương Lăng cũng chỉ có vài người biết được thân thế thực sự của Chính Đức, cho nên đa số thân quân trông thấy đại nhân nhìn chăm chăm một vị tiểu hiệu thì đều rất kinh ngạc.

Nhìn vị tiểu hiệu úy tuấn tú trẻ măng đó, rồi lại trộm nhìn ánh mắt chằm chằm của đại nhân, Lưu Đại Bổng Chùy, vừa mới trở thành thân quân thị vệ của Dương Lăng, liền bừng tỉnh ngộ.

Vào thời Minh, "nam phong(*)" rất được ưa chuộng, được xem là tục phong lưu thời thượng, không ai bài xích hoặc khinh thường. Song song với việc bầu bạn cùng mỹ nữ, phần lớn vua chúa công khanh và danh sĩ tài tử đều có nam sủng tuấn tú và dịu dàng kề cận, bình thường thì mang theo làm thư đồng, đến tối thì trở thành bạn nô giỡn trên giường. (*: đồng tính nam)

Thời đó, quan hệ tình dục giữa hai người đồng giới được gọi là "ngoại giao(*)", giữa đàn ông và đàn bà thì gọi là "nội giao". "Ngoại giao" chẳng những được đạo đức, pháp luật, phong tục và tập quán đương thời thừa nhận mà những ái nhi (luyến đồng) được sủng ái còn được hưởng quyền lợi như là thị thiếp: bình thường thì được trợ cấp tiền bạc, đến khi hơi lớn tuổi cần phải rời chủ nhân đi cưới vợ thì sẽ còn được chủ nhân tặng thêm cho một món tiền. (*: "giao" ở đây là giao phối)

Sớm đã nghe nói đến phong tục của thượng tầng xã hội này, Lưu Đại Bổng Chùy trông thấy Dương đại soái và viên tiểu hiệu úy da dẻ mịn màng như đại cô nương nọ mờ mờ ám ám, hơn nữa, lúc này tướng đi của Chính Đức lại hơi ngượng nghịu khiến hắn càng nhìn càng sởn gai ốc. Xem ra gã tiểu hiệu úy tuấn tú này ắt hẳn là nam sủng của đại soái rồi!

Xoa xoa bộ râu quai nón của mình, Lưu Đại Bổng Chùy không khỏi thầm cảm thấy may mắn. May mà được mẹ già đẻ ra mình mặt xấu tướng thô, bằng không một đại nam nhân như mình mà bị đại soái nhìn trúng thì sẽ chướng biết dường nào?

Dương Lăng không hề hay biết vị thuộc hạ khù khờ ngốc nghếch mới tuyển của y lại còn có sức liên tưởng phong phú đến như vậy. Y cũng mặc đám thị vệ không rõ nội tình đang suy nghĩ những gì, đợi Chính Đức đi đến bên cạnh liền lập tức nắm lấy tay hắn kéo vào trong thành lầu. Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau rồi cũng vội vã bước theo vào.

Đám Tham tướng, Phó tướng, Tì tướng bởi chức quan còn thấp nên chưa từng tận mắt nhìn thấy thiên nhan, mà cho dù mở rộng đầu óc ra gấp đôi thì bọn họ cũng không thể tưởng tượng được chàng trai trẻ mặt mày trắng trẻo này lại chính là thiên tử Đại Minh, là đương kim hoàng đế. Mặc dù bọn họ ai nấy đều nghi vấn đầy bụng, nhưng vốn từ một tiểu tốt lăn lộn đến chức vị ngày hôm nay nên cả bọn vẫn còn có đủ định lực, tất cả bèn giả tảng như chẳng có gì lạ thường, cùng thản nhiên bước theo vào.

Nhìn từ ngoài vọng lâu trông rất đơn giản, bên trong cũng chia ra làm ba gian là ngoài, giữa, và trong. Gian ngoài là nơi tiếp khách và chỉ huy chiến đấu hằng ngày. Gian giữa tương đối trống trải, ngoại trừ một tấm bản đồ lớn treo trên tường và một tấm sa bàn lớn đặt chính giữa phòng thì không còn thứ gì khác. Đây là nơi mà Tổng chế Tam quan Dương Nhất Thanh cùng các tướng bàn bạc quân vụ và hoạch định sách lược. Gian trong là thư phòng và phòng ngủ của Dương Tổng chế. Dương Lăng kéo hoàng đế Chính Đức bước băng băng vào thẳng gian trong, Dương Nhất Thanh và Trương Vĩnh cũng quýnh quáng chạy theo vào.

Các tướng vừa mới bước theo vào thành lầu thì Dương Nhất Thanh lại vụt ló đầu từ sảnh giữa, quát:

- Các tướng lĩnh đợi ở đây! Bản tướng có việc quan trọng phải thương nghị với hai vị khâm sai.

Nói đoạn hắn kéo tấm rèm nỉ dày cộp che lại, rồi đóng sập thêm cửa trong.

Mặc kệ chúng tướng bên ngoài trố mắt kinh ngạc, đằng sau cánh cửa Dương Nhất Thanh lật đật chạy thẳng vào gian trong, quỳ xuống trước mặt Chính Đức, nén giọng thưa:

- Thần Dương Nhất Thanh khấu kiến Hoàng thượng!

Chính Đức liếc sang Dương Lăng, thấy y mặt chảy xệ, không nói tiếng nào thì không khỏi bật cười hì hì. Hắn tuy nông nổi, song không phải là hôn quân không biết phải trái, đương nhiên hiểu rõ sự quan tâm và lo lắng của Dương Lăng đối với hắn, cho nên sắc mặt hắn không hề có vẻ bất cần.

Hắn ngồi lên chiếc ghế dựa mà Dương Nhất Thanh thường ngồi, cười bảo:

- Đứng dậy đi! Ở đây không cần phải đa lễ.

Dương Nhất Thanh vừa vội vã đứng dậy liền mở miệng hỏi ngay:

- Hoàng thượng! Sao ngài... sao ngài lại đến đây?

Mặt Trương Vĩnh cũng trắng bệch, giọng run rẩy:

- Phải đó Hoàng thượng! Ngài thực dọa chết nô tài rồi! Khi nãy bên ngoài còn có thiên quân vạn mã, may mà giặc Thát không mạnh bằng quân Nguyên năm đó, trong tay không có trọng pháo để dùng, nếu không ngộ nhỡ... ngộ nhỡ..., - lão nói đến đây thì không khỏi rùng cả mình.

Chính Đức cười nói:

- Lại nữa rồi! Trẫm biết, thân trẫm gắn liền với thiên hạ nên phải vì thiên hạ mà yêu tiếc lấy thân, thế nhưng già quá sẽ hóa non, mọi việc không thể lo quá nhiều. Đại Hãn của giặc Thát có thể đích thân lên ngựa chinh chiến sa trường, chẳng lẽ ngay cả dũng khí lên lầu trên tường thành xem giặc liệu trận mà trẫm cũng không có? Khanh muốn trẫm làm Hoàng đế thế nào?

Lời hắn tuy nói đùa, nhưng ý oán trách trong lời rất nặng, Trương Vĩnh nghe xong lập tức nín bặt, không dám nói thêm điều gì. Dương Lăng thấy vậy lại định dâng lời, Chính Đức trông thấy biết ý bèn nhảy tót dậy, sải bước đến sảnh giữa ngắm nghía tấm sa bàn lớn có sông ngòi đồi núi, sa mạc thảo nguyên.

Dương Lăng không biết phải làm thế nào, đành đi theo sang bên ấy. Dương Nhất Thanh vội vã bước theo y, thấp giọng hỏi dồn:

- Ôi trời ơi! Sao Hoàng thượng lại theo đến đây vậy? Hoàng thượng đến Đại Đồng làm gì? Dương đại nhân ơi, ngài hãy làm ơn mời Hoàng thượng mau trở về kinh sư đi. Mới vừa nhìn thấy Hoàng thượng mà tôi đã cóng hết cả chân tay, sợ đến muốn ngất rồi. Hoàng thượng mà ở đây, tôi thực sẽ không biết đánh trận như thế nào nữa đâu!

Dương Lăng cười khổ sở, nhất thời cũng không biết phải bắt đầu giải thích từ đâu. Chính Đức chắp tay đứng trước sa bàn, chăm chú quan sát một hồi, vui sướng khen:

- Tốt, địa hình, địa thế, địa mạo thật chi tiết! Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng.

Nói đến quan ải thành trấn của Đại Minh thì ai nấy đều rõ như lòng bàn tay.

Thế nhưng đối với kẻ giặc lâu năm như là Thát Đát, chúng ta lại chỉ biết rằng bọn chúng chia làm sáu nhóm bộ lạc và địa hình đại khái của chúng, mà nói một cách cụ thể, cũng không ngoài một mảng sa mạc và thảo nguyên rộng lớn. Trong khi đó tấm sa bàn này lại thể hiện rõ cả sông ngòi, nếu giao phong cùng Thát Đát trên thảo nguyên, chỉ riêng tấm bản đồ này đã đáng giá mười vạn đại quân rồi. Dương khanh nghĩ sao?

Tính cách ham chơi và bốc đồng của Chính Đức che mắt rất nhiều người, đến nỗi rất nhiều bậc túc nho thầm đau xót vì thiên tử bất tài vô năng mà không ai thèm để ý đến trình độ về Phật học, âm nhạc và binh pháp của vị tiểu hoàng đế mới chỉ mười sáu tuổi này. Tuy rằng về mặt binh pháp hắn chỉ mới ở mức dụng binh trên giấy, nhưng không có nghĩa là hắn không có kiến thức tương ứng. Một tấm bản đồ tác chiến chi tiết, đặc biệt là tấm bản đồ đó lại ghi chú những khu vực, đồng núi, sông ngòi, thảo nguyên và ao đầm xa lạ một cách tỉ mỉ đến như vậy, tác dụng của nó nào chỉ mười vạn quân.

Không kịp trả lời Dương Nhất Thanh, Dương Lăng bèn vội gật đầu cười đáp:

- Lời của Hoàng thượng rất phải. Quan ải có kiên cố, Trường Thành có hùng vĩ và hiểm trở đến đâu, nếu chỉ biết thụ động chờ người Thát Đát lấn hiếp đến cửa, thì cũng có ngày sẽ bị công phá. Trường Thành được xây từ đời Tần, tuy rằng không phải không có tác dụng, nhưng dẫu cho triều này nối tiếp triều kia, chuyện man tộc xâm phạm trung thổ vẫn xảy ra liên miên. Chỉ khi nắm rõ nội tình của chúng, có một ngày lấy công thay thủ, tiêu diệt hoàn toàn con hổ dữ nằm ở đầu giường này thì mới là lẽ phải.

Chính Đức vỗ tay khen:

- Chính hợp ý trẫm! Dương tổng chế, tấm bản đồ này là do trinh sát của khanh vẽ à? Đáng được trọng thưởng!

Dương Nhất Thanh liếc sang Dương Lăng rồi đáp:

- Hồi bẩm Hoàng thượng, đó là... bản đồ do mật thám Nội xưởng dùng việc buôn bán đồ da, trà và ngựa làm vỏ bọc, đi khắp đại mạc vẽ ra, rồi giấu dưới yên ngựa mang về. Dương xưởng đốc trình bản đồ lên cho Bộ Binh, Lưu thượng thư sai biên quan chế tạo ra đấy ạ.

- Ồ? - Chính Đức có phần bất ngờ, hắn vui sướng nói với Dương Lăng: - Nhìn không ra! Thật là nhìn không ra! Trẫm còn tưởng Nội xưởng chỉ biết kiếm bạc cho trẫm thôi chứ. Ừm, làm rất tốt, so với mật thám Cẩm Y vệ thực mạnh hơn gấp trăm lần.

Dương Lăng mang máng nhớ đến chuyện này. Khi Ngô Kiệt trình giao tấm bản đồ cho y. lão cũng cao hứng một hồi, nhưng khi ấy công tác nghiên cứu chế tạo hỏa súng của Nội xưởng vừa được mốt số kết quả khả quan cho nên y đặt toàn bộ sự chú ý lên phương diện đó. Vả lại tạm thời Đại Minh cũng không thể đi đánh Thát Đát cho nên y bèn căn dặn Ngô Kiệt lưu giữ một bản, sao chép cho Bộ Binh một bản, không ngờ Lưu Đại Hạ đã đưa đến biên quan.

Y nhìn kỹ tấm bản đồ. Các quan ải dọc tuyến quân Minh đều được đánh dấu rõ ràng, nhưng ba phần tư hình ảnh trên tấm sa bàn là đại mạc thảo nguyên. Thiết nghĩ, hiện tại quân Minh là thủ, Thát Đát là công, hành tung của đại quân chẳng qua chỉ trong vòng trăm dặm, đặt một tấm bản đồ sa bàn của Thát Đát trong căn phòng Dương Nhất Thanh nghiên cứu chiến sự hằng ngày để làm gì?

Nghĩ đến đây, Dương Lăng bỗng máy động trong lòng, trong đầu thoáng hiện lên một ý nghĩ. Lúc này Dương Nhất Thanh đã trả lời xong câu hỏi của Chính Đức, hắn tiếp tục khổ sở khuyên nhủ:

- Hoàng thượng! Mọi việc lớn trong thiên hạ đều cần có ngài quyết định! Một khi tin tức không có ngài tọa trấn kinh sư lan truyền ra ngoài, lòng dân ắt sẽ không yên. Thần nghĩ Hoàng thượng nên sớm hồi kinh mới phải ạ!

Chính Đức xua tay đáp:

- Không vội không vội! Trẫm đến đây cũng vì có đại sự phải làm. Việc ấy mà thành sẽ đáng giá như được năm mươi vạn quân vậy. Ha ha! Chốc nữa hãy bảo Dương khanh nói rõ cho khanh nghe. À đúng rồi, vừa nãy khanh bảo Miêu Quỳ đã đi làm việc gì?

Vừa nhắc đến việc này, sắc mặt Dương Nhất Thanh liền trở lên ngưng trọng, hắn bước lên thưa:

- Hoàng thượng! Bởi cần thực hiện gấp trước khi Bá Nhan Mãnh Khả lui binh, thời gian khẩn cấp, tấu chương đưa lên kinh thành lại cần đại thần các bộ thảo luận và thông qua, đi hết một vòng sẽ mất phải hơn nửa tháng, vuột mất thời cơ. Do đó thần đã lệnh cho đại quân xuất chinh.

Hoàng thượng đã âm thầm đến Đại Đồng, vậy ắt chưa nhận được tấu chương của thần, thần đành bẩm tấu với Hoàng thượng một lần nữa vậy.

Rồi hắn liếm môi, chỉ vào sa bàn diễn giải:

- Năm nay Thát Đát gặp phải tuyết to, cộng thêm Bá Nhan Mãnh Khả mang lòng báo thù cho con, cho nên hắn đã tập hợp các bộ lạc xâm phạm Trung Nguyên. Bảy vạn thiết kỵ đã là toàn bộ số tinh binh trên thảo nguyên.

Khi xưa tác chiến, đánh bại quân giặc xâm phạm, đuổi nó ra khỏi quan ngoại đã là đại thắng, nhưng thần nghĩ rằng, ta ở biên quan giết một vạn quân giặc sẽ không khiến lòng quân lòng dân của chúng bị đả kích bằng xâm nhập vào ngay bản thổ, ở ngay trong nhà chúng mà giết một trăm. Khi xưa chúng ta không nắm rõ tình hình lẫn địa thế của chúng ra sao, mạo muội xuất binh chẳng khác nào kẻ lòa dắt ngựa mù, nhưng nay thì không như vậy nữa.

Dương Nhất Thanh nhìn Dương Lăng với ý khen ngợi, rồi nói tiếp:

- Nội xưởng của Dương đại nhân hoạt động ở quan ngoại rất hiệu quả, thông tin tình báo đưa đến ùn ùn, vi thần nắm chắc mọi việc trong lòng mới dám to gan vạch ra kế này.

- Hoàng thượng ngài xem!

Dương Nhất Thanh vừa nói vừa trỏ vào bản đồ thảo nguyên nhấp nhô trập trùng. Chính Đức, Dương Lăng và Trương Vĩnh cùng nhìn chăm chú vào chỗ hắn trỏ:

- Chỗ này là nhóm bộ lạc Tích Lâm Quách Lặc, nhóm Sát Cáp Nhĩ Bộ, chỗ này là nhóm bộ lạc Y Lặc Hô Lý, nhóm Nhĩ Nhã Phạm, nhóm Ngạch Nhĩ Hoàn Nạp và nhóm Triết Lý Mộc, chỗ cắm cây cờ xanh này là nhóm bộ lạc Chiêu Ô Đạt.

Dương Nhất Thanh đắc ý nói tiếp:

- Phái một đội quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng giặc vốn là điều đại kỵ trong binh pháp. Nhưng theo tình báo mà chúng ta nhận được, lần này Thát Đát dốc toàn bộ tinh binh ra chiến trường, hậu phương cực kỳ trống trải, người còn lại của mọi nhóm bộ lạc đều là người già phụ nữ và trẻ con, số binh sĩ ở lại trấn giữ có khả năng chiến đấu ít ỏi vô cùng.

Người Thát Đát lấy du mục làm lẻ sống, không có thành trì. Trước đây, cho dù chúng ta biết doanh trại bọn chúng trống rỗng cũng không cách nào tìm được vị trí của chúng trên đại mạc thảo nguyên rộng mênh mông, nhưng hiện tại đã có tình báo chính xác. Ta lại dựa vào bản đồ chi tiết, trước hết định rõ một con đường rút lui rồi thu xếp đại quân tiếp ứng khi cần. Cái kế hoạch một vốn bốn lời đầy rẫy nguy cơ này đáng để mạo hiểm.

Trương Vĩnh rùng mình, kích động hỏi:

- Dương tổng chế phái một cánh quân đơn độc xâm nhập vào sau lưng quân địch để tác chiến?

Dương Nhất Thanh gật đầu đáp:

- Đúng vậy! Đó là một đạo khinh kỵ gồm năm nghìn người, hoàn toàn là quân tiên phong lấy phá hoại làm mục đích mà không lấy chém giết làm nhiệm vụ. Đạo quân đơn độc này không nhận được chi viện và cung ứng từ quân nhà cho nên nhất định phải cướp đoạt lương thảo và cấp dưỡng từ các bộc lạc của người Thát Đát, dùng chiến tranh nuôi chiến tranh.

Người Thát Đát kiêu dũng thiện chiến, nhưng những bộ lạc sâu tận trong thảo nguyên ở hậu phương của bọn chúng lại không hề có sức chiến đấu. Mệnh lệnh của bản quan là giảm thiểu việc tàn sát những người già phụ nữ và trẻ con đến mức thấp nhất, sự sống sót của bọn họ chính là đồng minh của chúng ta và là gánh nặng của Bá Nhan Mãnh Khả. Nhưng phải cố hết sức phá hủy mọi thứ.

Mỗi khi đến tháng chín tháng mười, giặc Thát lại bắt đầu cắt cỏ phơi khô và tích trữ một lượng lớn cỏ khô chất cao như núi, đến đông sẽ lấy cỏ khô để nuôi bò nuôi dê, lấy dê bò nuôi người. Mệnh lệnh của bản quan là: ăn hết dê bò của chúng, đốt sạch cổ khô của chúng, giống như một đàn châu chấu quét ngang thảo nguyên của bọn chúng vậy.

Điều này nhằm đẩy các nhóm bộc lạc này vào tình thế phải đến nhóm bộ lạc khác cướp bóc; để bọn chúng có giàu có nghèo, có người sống có kẻ chết đói. Dân tộc du mục coi cướp bóc là chuyện thiên kinh địa nghĩa, tin rằng khi Bá Nhan Mãnh Khả trở về thảo nguyên, trừ phi hắn có thể cung cấp đủ lương thực cứu tế nạn dân các bộ lạc, bằng không nội bộ bọn chúng sẽ nổi lửa chiến tranh bốn bề. Cho dù là hắn cũng không thể đàn áp nổi!

Dương Lăng nghe xong bèn liếc nhìn vị nho tướng này. Khuôn mặt đen đúa và gầy còm của Dương Nhất Thanh chứa đầy sát khí, dưới ngọn đèn mỡ bò mặt lão trông có phần nanh ác. Dương Lăng không khỏi thầm khen: "Hay cho một gã bại hoại trong vẻ nho nhã, một gã lưu manh trong lốt tướng tài!"

Chính Đức thoáng ngẩn người một lúc rồi đột nhiên hít sâu vào một hơi, hỏi:

- Chiến sách này là do khanh quyết định?

Dương Nhất Thanh không biết tâm ý của Hoàng thượng thế nào. Dứt khoát chiến pháp này sẽ giúp giảm nhẹ áp lực cho quân Minh rất nhiều: cho dù quân Minh không chủ động công kích Thát Đát, nhưng chỉ cần bọn họ nghiêm cẩn chống giữ, không để quân Thát Đát chiếm lợi thế thì vẫn có thể ngồi nhìn Thát Đạt bị nội loạn, ít nhất cũng có thể đảm bảo cho dân chúng vùng biên ải sống yên ổn được ba năm. Nhưng suy cho cùng, chiến lược này khó tránh có phần quá vô lại, động đến hòa khí của đất trời; cho nên Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám nói rõ chiến sách này do ai nghĩ ra.

Lúc này hắn trộm liếc thấy sắc mặt của Hoàng thượng bình tĩnh, không giống như tức giận. Với cá tính dễ kích động của tiểu Hoàng đế, nếu thật có điều gì bất mãn thì e rằng đã sớm biểu hiện ra bên ngoài rồi. Suy luậnnhư vậy nên hắn mới có can đảm thưa:

- Hồi bẩm Hoàng thượng! Đây là biện pháp do phó tướng Vương Thủ Nhân của thần sau khi nhận được tình báo chi tiết của Nội Xưởng đã nghĩ ra.

Thần cùng các tướng lĩnh trong quân lại cùng nghiên cứu kỹ lưỡng, cố sức hoàn thiện rồi mới cho thi hành. Vì để được ổn thỏa nên đòi hỏi toàn bộ thời gian hành động của bọn họ chỉ có hai mươi ngày, nhắm đến khi thư cầu viện đến tay Bá Nhan, đại quân Mông Cổ rút về cứu viện thì bọn họ đã theo con đường đã dự định sẵn mà trở về an toàn rồi.

Dương Lăng cười hắc hắc khen:

- Hay cho một kế sách hiểm độc, phản khách vi chủ, qua cầu rút ván!

Y là bầy tôi được Chính Đức yêu mến nhất, thấy y mở miệng khen Dương Nhất Thanh càng thêm vững tin, vội cười nói:

- Kế này có hay chăng nữa cũng là nhờ có tin tình báo chuẩn xác và tỉ mỉ của đại nhân. Bằng không năm nghìn nhân mã này sẽ như lấy bánh bao đi đánh chó, lạc vào trong đồng tuyết mịt mù, e là chưa tìm được bộ lạc nào thì đã chết đói, chết cóng ở đó rồi.

Chính Đức ngơ ngẩn một hồi, rồi chợt khẽ thở dài, lắc đầu nhè nhẹ. Dương Nhất Thanh hơi rét trong bụng, lúng túng thưa:

- Thần cũng biết kế này ác độc, tổn hại đến lẽ thuận hòa của thiên triều thượng quốc...

Hắn chưa nói xong, Chính Đức đã thở dài:

- Đáng tiếc! Chỉ tiếc là bảy vạn đại quân Thát Đát vẫn đang ngông nghênh trước quan ải, bằng không phải bắt hết đám vương tử, công chúa quý tộc Mông Cổ về làm thái giám và cung nữ.

Dương Nhất Thanh sững sờ nhìn vị thiên tử của Đại Minh còn vô sỉ hơn hắn đang lẩm bẩm, không biết phải nói gì. Vốn hắn định nịnh hót Hoàng thượng vài câu, nhưng khen ngợi Hoàng đế anh quân nhân đức như Tam Hoàng Ngũ Đế hình như không thích hợp cho lắm.

Trong lúc Hoàng đế Chính Đức luôn ôm mộng làm cường đạo còn đang lắc đầu "nuối tiếc", Dương Lăng đã nhịn cười hỏi:

- Dương tổng chế! Lúc này đại quân đã xuất phát được mấy ngày rồi? Người nào dẫn quân?

- Hả? À ờm....,

Dương Nhất Thanh đang mãi lo tiểu hoàng đế chưa từng trải qua sự tàn khốc của chiến tranh, được các vị đại nho một bụng Kinh thư bắt học theo sách thánh hiền sẽ không đồng ý với mưu kế này, nghe Dương Lăng hỏi mới sực tỉnh.

Hắn vội đáp:

- Đã đi được chín ngày. Vốn Vương phó tướng định đích thân cầm quân nhưng Miêu công công tự thẹn đốc quân không tốt đã phụ thánh ý, nên khăng khăng đòi đích thân chỉ huy, chỉ mong đoái công chuộc tội. Vì vậy bản quan đã phái tham tướng Hứa Thái cùng ông ấy dẫn năm nghìn tinh binh xuất phát.

Dương Lăng thoáng ngớ ra, liền đó minh bạch dụng ý của Miêu Qùy. Miêu Quỳ không bằng được mấy người Lưu Cẩn và Trương Vĩnh theo chăm nom thái tử gia từ nhỏ đến lớn, đôi bên rất yêu quí nhau. Mà Hoàng đế Chính Đức lại không phải là một vị vua vô cảm, hắn rất coi trọng tình cảm cá nhân, cho nên trừ phi phạm phải tội đại nghịch bất đạo, bằng không Chính Đức quyết sẽ không lạnh nhạt với bọn họ.

Song Miêu Quỳ thì khác, lão là bầy tôi được tiên đế tin yêu, lại không có tình nghĩa riêng gì với Chính Đức. Trong đám bát hổ, những kẻ chưa "mò vớt" được chức lớn gì như đám Khâu Tụ và Ngụy Bân vẫn luôn thèm rỏ dãi cái chức Đề đốc Tây Xưởng của lão. Lần này xuất binh chỉ huy không tốt, sau khi trở về nếu đám người đó hơi dâng lời gièm tấu, chẳng những lão không vớt được chút chiến công nào mà ngay cả quyền lực vừa có được cũng sẽ bị mất, cho nên lão mới bất chấp mạo hiểm mà theo quân xuất chinh.

Vốn cướp biển Tây Ban Nha ban đầu cũng là một đám Bá tước, tướng quân thất bại trong tranh chấp nội bộ, mạo hiểm chạy ra biển mưu cầu lối thoát mới. Bọn chúng cũng có dã tâm giống như Miêu Quỳ vậy, tuy cách thức khác nhau song mục đích thì giống hệt: nhằm vơ vét quyền lực. Hiện tại lão cũng vậy, nhoáng cái đã "lắc mình hoá thân" thành mã tặc thảo nguyên.

- Hứa Thái?

Chính Đức thoáng nghĩ ngợi rồi cười nói:

- Có phải là Hứa Thái đã đổ Võ trạng nguyên năm Hoằng Trị thứ mười bảy? Lúc võ cử trẫm còn là thái tử, khi ấy từng cải trang đến khoa trường để xem các bên tranh tài. Người này giỏi võ vô cùng, cũng cực kỳ tinh thông binh thư chiến sách. Dương Tổng chế dụng tướng rất thỏa, nếu hắn có thể đại thắng trở về, trẫm sẽ tấn phong hắn làm Tổng binh!

*****

Sau khi được Dương Lăng thuật lại chuyện mật nghị cùng Đoá Nhan Tam Vệ, Dương Nhất Thanh suy xét mấy lượt rồi cũng không khuyên Hoàng đế hồi kinh nữa. Nhưng sau khi phái thêm năm nghìn binh mã hộ tống và đích thân đưa đám người Dương Lăng về lại Đại Đồng, hắn lập tức phóng ngựa trở về bản doanh, triệu gấp Vương Thủ Nhân vừa trở về Thanh Ngưu quan đến họp gấp. Cả hai cùng thương nghị quyết định cải biến chiến lược, điều trọng binh trấn giữ các quan ải bên ngoài Đại Đồng; chiến công có lớn chừng nào cũng không bằng bảo vệ Hoàng đế được chu toàn.

Nghe tin Bá Nhan Khả Hãn dời trọng binh về vùng Bình Thuận, Hồ Quan, Vương Thủ Nhân lo ngại bọn chúng sẽ thừa dịp thoát ly khỏi chiến trường chính, trở về thảo nguyên Mông Cổ. Hiện tại đại quân của Miêu Quỳ và Hứa Thai đang di chuyển giữa các bộ lạc của Thát Đát, ngộ nhỡ không kịp rút về thì toàn quân sẽ bị tiêu diệt ở thảo nguyên, thế là hắn bèn tỏ lộ nỗi lo lắng của mình với Dương Nhất Thanh.

Dương Nhất Thanh liền lập tức bác đi mà không thèm nghĩ ngợi gì. Trước khi xảy ra buổi gặp gỡ kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ thì tin tức Hoàng đế đang ở trong quân càng ít người biết đến chừng thì càng hay chừng nấy. Tuy biết Vương Thủ Nhân tuyệt đối là người đáng tin cậy và còn là tâm phúc của chính mình, song Dương Nhất Thanh vẫn chưa dám tiết lộ sự thật với hắn. Điều này khiến Vương Thủ Nhân cảm thấy hết sức nghi hoặc với chiến lược của Dương Nhất Thanh.

Có điều hắn không chỉ khâm phục Dương Nhất Thanh mà còn thật lòng kính trọng vị thượng quan này. Sau một lúc trầm tư, hắn liền đề xuất cho phép mình dẫn một đội quân bám theo đại quân của Bá Nhan Khả Hãn. Nếu quả Bá Nhan giương đông kích tây để thừa dịp thoái lui, hắn sẽ bám lằng nhằng, trì hoãn hành trình của bọn chúng nhằm tranh thủ thời gian cho Hứa Thái và Miêu Quỳ.

Sau thoáng cân nhắc, Dương Nhất Thanh bèn gật đầu chấp thuận, hạ lệnh cho tham tướng Đại Đồng là Lư Cương và du kích tướng quân Phạm Hữu Thời dồn binh với đội quân của Vương Thủ Nhân, tổng cộng là một vạn tám nghìn người, gấp rút chi viện cho Bình Thuận, Hồ Quan.

Được thoả tâm nguyện, trở về đến dịch quán Đại Đồng xong Chính Đức an phận hơn rất nhiều. Trải qua chuyện này Dương Lăng cũng không dám lơ là nữa, cả ngày ở trong dịch quán cùng hắn, chờ Ngũ Hán Siêu đem tin từ quan ngoại trở về.

Sợ tiểu Chính Đức ở trong dịch quán buồn chán, y bao gánh hát nọ diễn suốt ba ngày. Gánh hát dân gian này vốn cũng có chút tiếng tăm ở đây, không những chỉ biết diễn hí khúc mà còn biết chút tạp kỹ và xiếc thú. Nghe đâu vào ngày Đại vương nạp trắc phi, ông mở tiệc lớn mời khách, khắp vương phủ chỗ nào cũng là sênh ca, có chín gánh hát lớn nhỏ cùng được mời đến hát hò biểu diễn tại phủ thì gánh hát này cũng nằm trong số đó. Chẳng qua là bọn họ chỉ có thể biểu diễn ở gian lạc viện thứ hai của vương phủ, không có tư cách vào sâu trong đại viện mà thôi.

Vở mà bọn họ diễn hôm nay là câu chuyện về Dương gia tướng. Năm xưa Dương gia tướng kháng Liêu đã để lại nơi đây rất nhiều truyền thuyết. Trăm họ không ngừng chế biến cho phong phú hơn, thay đổi và hư tấu nên thành rất nhiều câu chuyện thú vị. Màn đầu tiên là Xà lão thái quân dẫn đám nữ tướng Dương môn xuất chinh, ngay trước trận lại có một viên tiểu tướng đến nhận tổ quy tông, xưng là con của thất nương(*) Đỗ Kim Nga. (*cô bảy)

Năm xưa Đỗ Kim Nga cùng Dương Thất Lang chỉ làm vợ chồng có một đêm, chưa hề báo là có con, nhất thời khiến cho chị em bạn dâu trong nhà nghi ngờ. Viên tiểu tướng nọ đứng dưới quan ải rút ra bức huyết thư mẫu thân để lại trong tã lót, Đỗ Kim Nga mới nhớ lại chuyện xưa.

Năm đó quả thực bà từng mang thai, trên đường tìm Dương gia thì gặp phải phiên binh. Lúc giao chiến bị động thai, bà phải sinh con trong đám sậy rồi để nó ở đó, nén đau lên ngựa đánh tiếp. Sau khi đánh lui phiên binh quay lại thì không thấy con đâu nữa, bà ngỡ rằng con bị sói tha đi mất, bèn khóc to một hồi rồi bỏ đi. Bởi chuyện quá đau lòng nên bà cũng chưa từng báo với Lão thái quân.

Thời đó gánh hát toàn là đàn ông cải trang thành nữ. Sở dĩ "nam phong" thịnh hành thì do một là bắt nguồn bởi đi thuyền trên biển không cho phép chở phụ nữ, cho nên đất Mân Giang thịnh hành "nam phong" nhất, còn hai là bởi sắm vai thanh y hoa đán trong gánh hát đều là đàn ông. Ai nấy đều diễn rất duyên, từng động tác đều phong lưu hết mực: má đỏ môi hồng, tôn lên cặp mắt hoa đào biết thu hồn hớp phách; chả trách có rất nhiều đàn ông đâm quàng vào đấy.

Trên sân khấu con hát sắm vai Đỗ Kim Nga vận phượng bào lớn màu đỏ, dáng người dịu dàng như cành liễu, diễn hát rất duyên, lúc Đỗ Kim Nga liếc mắt xuống dưới sân khấu liền khiến đám thị vệ bên ngoài la hét um lên. Hai ngày nay xem hí kịch, động một tí Chính Đức lại cầm đầu bọn họ hò hét om sòm làm bọn lính của y bị hỏng hết; đám đại nội thị vệ này hoàn toàn không còn vẻ cẩn trọng nghiêm túc như lúc ở trong cung nữa.

Dương Lăng ngồi hầu gần Chính Đức, bị cặp mắt lẳng đó liếc sang, trong lòng liền nổi sóng, không nhịn được thầm nghĩ: "Hình dáng diễn viên chuyên nghiệp này đúng là đặc biệt à, cặp mắt lẳng đó diễn thật tự nhiên, còn tự nhiên hơn bất cứ đại mỹ nhân chuyển giới nào khác nữa. Nếu đang ở thời hiện đại, nhất định sẽ là một đại minh tinh đây!"

Trên sân khấu vẫn tiếp tục diễn! Chàng kép sắm vai Đỗ Kim Nga đang cầm bức huyết thư nức nở vừa khóc kể vừa nhớ lại mối tình xưa, giọng hát trong trẻo êm tai, trên dưới sân khấu đều nghe rõ mồn một; xem ra đúng là đã được luyện giọng hát.

Con hát sắm vai Lão thái quân run rẩy bước lên sân khấu, thở dài rồi độc thoại:

- Bà già ta tưởng rằng cả nhà họ Dương đều là quả phụ, nam nhân không có lấy một người. Ha ha, thực tốt quá! Té ra trời già vẫn chưa vứt bỏ đám con dâu của bà già này.

Một tràng cười lại nổ ra dưới sân khấu, Chính Đức ngoái đầu cười hỏi Dương Lăng:

- Dương khanh! Nghe nói khanh là con cháu Dương gia tướng, không biết tổ tiên thuộc chi nào nhỉ. Chẳng lẽ chính là vị tiểu tướng bị bỏ rơi này?

Tuy Dương Lăng không biết gia phả nhà mình là thật hay giả, nhưng y lại biết nhân khẩu họ Dương rất vượng, con cháu đầy đàn, chưa từng có chuyện có một đám quả phụ mà hiếm nam đinh như trong hí kịch diễn. Nghe Chính Đức trêu, y không khỏi cười gượng, cũng không biết nên giải thích thế nào.

Trên sân khấu đang diễn đến màn nhận tổ quy tông. Dương Lăng ngồi sau rèm nửa bước hầu Chính Đức xem kịch. Sau lưng chợt có một phiên tử hộ vệ lặng lẽ bước vào, khẽ ra hiệu với Dương Lăng.

Dương Lăng hiểu ý, vội đứng dậy nói nhỏ với Chính Đức mấy câu rồi bước ra ngoài. Đi đến dưới hành lang sảnh, y liền hỏi viên phiên tử:

- Thế nào, có phải đã có tin tức từ quan ngoại rồi không?

Viên phiên tử thấp giọng thưa:

- Đại nhân! Không phải có tin từ quan ngoại mà là có một bức thư nhà do khoái dịch đưa đến cho ngài ạ.

Dương Lăng nghe xong thì trong lòng không khỏi run lên, "Trong nhà đã xảy ra chuyện gì? Ấu Nương đang có thai, chẳng lẽ là...?" Nghĩ đến đây, tim y không khỏi đập dồn dập.

Hàn Ấu Nương sống nội tâm và kín đáo. Vô luận nhớ nhung y thế nào đi chăng nữa, cô nàng thà đợi y trở về, sẽ vào khuê phòng tham lam ôm chặt lấy y trò chuyện suốt đêm; chứ lúc y còn ở bên ngoài, Hàn Ấu Nương quá ngượng ngùng để có thể viết một bức thư thổ lộ tình cảm. Nếu nàng viết thư thì hẳn trong nhà đã xảy ra chuyện lớn.

Dương Lăng vội vã xé bì thư, rút phong thư ra. Y lại thấy trong thư còn kẹp một phong thư khác được niêm kín, bên trên cũng ghi là "Dương Lăng thân khải (tự mở)". Y lấy làm lạ bèn giở thư ra xem trước, thấy nét chữ đúng là bút tích của Ấu Nương. Trong thư chỉ nói trong nhà mọi việc đều ổn, lại chúc y ở bên ngoài nhớ chú ý ăn uống mặc ấm, vùng biên tái chiến sự đang căng thẳng, ra vào y nhớ phải chú ý thị vệ này nọ. Suốt thư đều chỉ nhắc đến những việc bình thường, trong thư không hề có ý gì là làm nũng.

Cuối thư nàng mới nói rằng nhận được một bức thư mật của Mã Liên Nhi ở Kim Lăng nhờ phiên tử Nội xưởng mang hộ về. Bởi thư ghi "Dương Lăng thân khải" cho nên Ấu Nương không dám tự tiện chạm vào, vì vậy sai người chuyển giao ngay cho y, chỗ này thì đúng là có vẻ hơi hờn dỗi và ghen tị.

Dương Lăng cảm thấy ấm lòng, khoé môi không khỏi hé ra một nụ cười.

Y trầm ngâm suy nghĩ, dựa vào lộ trình bức thư này được đưa đến mà tính toán thì lúc Mã Liên Nhi nhờ người đưa thư hẳn là Thành Khởi Vận chưa tới Kim Lăng. Mã Liên Nhi chưa nhận được lễ vật Thành Khởi Vận đưa đến mà đã gửi một bức thư đi trước, có phải bởi vì nhớ mình không?

Trong lòng Dương Lăng thoáng xao động, bất chợt y lại nhớ đến một màn xuân sắc vô biên dưới tán phong lá đỏ. Trên phong thư như hãy còn vương mùi thơm nhàn nhạt trên người Liên Nhi, cũng có lẽ là ảo giác?.... Đúng là tiểu yêu tinh nhu mì quyến rũ chết người không đền mạng à.

Mở tiếp phong thư thứ hai, y cẩn thận giở tờ giấy ra, một hàng chữ liền đập ngay vào mắt: "Phu quân đại nhân ở trên cao, Liên Nhi xin vái người trăm lạy."

Dương Lăng vừa xem thấy thì bật cười to, cô bé đã chính thức gả thân cho mình này thật đúng là đặc biệt. Liên Nhi như thớt ngựa hoang cao ngạo bất thuần nay cũng ngoan ngoãn nhũn nhặn hơn rồi đây, cũng đã hiểu lễ nghi, biết kính trọng mình ba phần rồi.

Nhưng khi xem xuống tiếp, nụ cười của Dương Lăng liền đông cứng lại: "Dương Lăng, huynh thực là lợi hại! Thực oai phong! Thực giỏi quá! Huynh sắp chóng có một tiểu Liên Nhi hoặc tiểu Dương Lăng hoành không xuất thế gọi huynh là cha rồi. Huynh có vui không hả đại nhân của muội? Liên Nhi thực muốn đợi thêm hai năm nữa mới đi gặp phu quân của mình, nhưng mà ý trời như vậy, chồng sẽ trả lời thế nào đây?

Đại nhân hãy nghĩ ra diệu kế mà đón lấy thiếp thân, hoặc là lệnh cho thiếp thân uống thuốc giết chết hậu nhân của họ Dương đi, Liên Nhi sẽ nghe theo an bài của phu quân hết. Đúng rồi, Quan Quan công tử mê Liên Nhi. Mê lắm lắm đó, thực là ghét quá.

Tái bút: Hình như có người nào đó mắc bịnh kín trên người mới mang theo người đẹp thần y xuống Giang Nam thì phải. Vụ án này cho gác lại chờ xử sau."

Chuyện lớn kinh thiên, song ngữ khí lại thờ ơ như không; dí dỏm, đắc chí, lại thêm mấy phần hài hước. Dương Lăng đứng đờ tại chỗ, tai nghe ở phòng bên kia con hát đang nức nở nghẹn ngào: "Đứa con... tội nghiệp của mẹ, lần biệt ly đó... mười mấy năm rồi, mẹ giữ kín trong lòng, không biết lệ tuôn đẫm áo đã bao đêm..."

Chú thích:

Tam Hoàng gồm Thiên Hoàng, Địa Hoàng và Nhân Hoàng; Ngũ Đế có Hoàng Đế, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Nghiêu và Đế Thuấn. Xem thêm tại http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_Hoàng

"thanh y" trỏ vai đào; "hoa đán" trỏ vai nữ có tính cách hoạt bát hoặc phóng đãng, đanh đá

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 192: Đại vương nạp phi

Dương Lăng vừa đọc thư vừa nghe tiếng diễn viên vọng đến từ sân khấu, lòng y rối bời, chốc thì hoan hỉ, chốc lại lo âu. Mã Liên Nhi cư tang chưa đủ ba năm, nếu lúc này mà rước nàng về nhà sẽ không hợp với lễ tục, không tránh khỏi bị người ta chỉ trích.

Không biết giữ lễ tục thực chẳng phải chuyện nhỏ, đủ để trở thành công cụ nguy hiểm trong tay những kẻ hữu tâm, cho dù được Hoàng đế che chở nên không vì vậy mà bị bãi quan, song lúc nào cũng sẽ bị người ta lấy nhược điểm đó ra công kích, vô luận làm gì cũng sẽ khó tránh bị cản trở tay chân.

Còn nếu để mặc Liên Nhi sống một mình ở Giang Nam, tìm cớ giấu nàng ấy rồi lén sinh con thực không khó, có điều làm như vậy khó tránh quá bạc đãi nàng ấy. Phải sống một cuộc sống lén lút, mai danh ẩn tánh thêm hai năm nữa nhất định sẽ tạo thành tổn thương sâu sắc cho Liên Nhi.

Lòng rối như tơ vò, lúc thì Dương Lăng muốn bất chấp tất cả mà phái người đến Giang Nam đón Liên Nhi về phủ ngay lập tức, lúc thì lại nghĩ đến nay mình muốn lợi dụng quyền thế và địa vị của bản thân để làm một số chuyện cho Đại Minh, cho trăm họ, chứ không còn như lúc trước mà muốn làm gì thì làm không phải lo nghĩ gì.

Trầm ngâm một hồi lâu y mới sực nhớ hiện tại Liên Nhi mang thai chưa được ba tháng, đến khi bụng to dần không thể che giấu được nữa thì ít nhất cũng phải hơn hai tháng nữa, lúc đó mình đã trở về kinh thành. Chuyện này quả thực cần phải bàn tính kỹ lưỡng, không nên vội đưa ra quyết định ngay.

Y gọi viên phiên tử cùng vào trong thư phòng rồi vội vàng viết liền ba bức thư. Bức đầu viết cho Ấu Nương, trong thư không hề giấu giếm chuyện của Liên Nhi, căn dặn Ấu Nương thông qua Nội xưởng gửi cho nàng ấy một số bạc và vật phẩm bồi bổ. Bức khác y viết cho Mã Liên Nhi, nói với nàng rằng hiện tại mình đang bận tuần tra biên tái, khi trở về kinh thành nhất định sẽ mau chóng giải quyết ổn thoả chuyện nàng đi hay ở, nàng cứ yên tâm đợi ở Giang Nam, chăm sóc bản thân cho tốt.

Bức thứ ba y lại viết cho Thành Khởi Vận. Hiện tại nàng ta là đầu lĩnh tối cao của Nội xưởng tại Kim Lăng còn Liên Nhi đang sống một thân một mình trong nhà bá phụ, nếu không thu xếp thủ hạ đắc lực để săn sóc nàng chu đáo, y thực không yên tâm.

Dương Lăng niêm thêm xi đóng lên ba bức thư, căn dặn viên phiên tử cấp tốc giao cho dịch trạm quân sự chuyển về kinh thành. Vừa đưa mắt nhìn viên phiên tử bước ra khỏi cửa, y vừa thừ người nghĩ ngợi, rồi chợt bật cười thành tiếng:

Vốn dĩ chỉ lo không có con, giờ thì tốt quá rồi. Ấu Nương và Liên Nhi như thể đang thi nhau đẻ vậy. Ấu Nương thì đúng rồi, mình siêng năng "cày cấy" một tháng hơn, dẫu sao cũng phải trúng một lần. Nhưng còn Liên Nhi, "một tên trúng đích" hình như hơi quá may mắn rồi thì phải? Chẳng lẽ mình thật sự mang gien tốt của Dương gia tướng?

Chính Đức ban thưởng rất hậu hĩnh, trang phục biểu diễn và trống chiên chất đầy hết mấy chiếc hòm to, người của gánh hát cứ ngỡ là của khâm sai Dương đại nhân thưởng cho. Mấy ngày nay diễn hát trong dịch quán, thu nhập của bọn họ so với lúc dựng rạp ca hát ở đầu phố cao hơn không chỉ hai lần. Sau khi trở về mỗi người đều kiếm thêm được vài nén bạc, cho nên ai nấy cao hứng vô cùng.

Gánh hát thuê một cỗ xe ngựa lớn chở trang phục và đạo cụ về cổng chùa Phổ Độ nơi bọn họ đã thuê một dãy nhà trệt để trọ. Chủ gánh hát tên là Bình Đại Đầu ngồi xổm trên một chiếc cối xay đá, mặt mày hớn hở nói với mọi người:

- Mấy ngày nay đã cực khổ cho mọi người rồi! Ngày mai nghỉ hát một ngày, mọi người nghỉ ngơi cho khoẻ. Nhưng mà đừng quên luyện công đấy! Ngày kia biểu diễn tại phủ của Đại vương gia sẽ phải kéo dài đến tận năm ngày lận đó.

Đoạn lão cười tủm tỉm nói tiếp:

- Ai cũng bảo chúng ta là một gánh hát cỏn con. Đúng thật, nếu không phải do Đại Đồng đang lúc chiến tranh, khó mời được những đào kép danh tiếng thì phủ vương gia đời nào có chỗ cho gánh hát chúng ta đứng? Luận tài nghệ chúng ta thua kém bọn đào kép có tiếng sao? Chẳng qua chúng ta không có cơ duyên thôi. Lần này chúng ta đã hát ở phủ Dương đại nhân ba ngày, sau đó lại trở về từ phủ của Đại vương gia, thanh danh của gánh hát chúng ta sẽ tăng cao ngay thôi.

Trước đây khung cảnh lớn nhất mà chúng ta được gặp qua là hậu hoa viên của Huyện thái gia, nay chúng ta đã được gặp khâm sai giống như gặp thiên tử đích thân giá lâm; mấy ngày nữa cao quý như con rồng cháu phượng chúng ta cũng sẽ được gặp, cho nên mọi người hãy phấn chấn lên cho ta đi! Vương gia ban thưởng sẽ còn nhiều hơn khâm sai lão gia nữa đó.

Nghe thế, một người con gái trong đám người đang đứng chung quanh chợt chớp mắt, cặp mắt nhạy bén có thần liếc lão một cái thật sâu, đoạn chen người ra tới trước mặt lão, ôm quyền hỏi:

- Phải chăng ngài đây là chủ gánh hát?

Bình Đại Đầu hơi sững người đoạn quan sát cô ta một lượt: tuy người con gái trước mặt lão mặc áo quần giản dị bằng vải thô, nhưng với nhãn lực của mình, Bình Đại Đầu lại nhìn ra ẩn giấu dưới lớp áo quần thùng thình sơ sài này là một dáng người cực kỳ yểu điệu, dung mạo ngũ quan của cô nàng cũng quyến rũ vô cùng, đáng tiếc là trên làn da trắng mịn lấm chấm những vết rỗ làm hỏng vẻ đẹp của nàng ta.

Bình Đại Đầu nhảy xuống đất đánh xoạt, thân hình thấp tè của lão cao chưa đến vai cô gái nọ, rồi lão cũng chắp tay theo nghi lễ giang hồ đáp:

- Không dám! Tiểu lão nhi chỉ là người dẫn một đám nghèo khó đi kiếm miếng ăn mà thôi. Cô nương là?

Cô gái nọ hơi mỉm cười, đáp lời hết sự tự nhiên:

- Tiểu nữ chỉ là một tiểu thương đơn lẻ mới xông pha giang hồ mãi võ. Nay kiếm chút cơm ăn không dễ, thấy đại gia đây mặt mày phúc hậu, có thể chèo chống gánh hát lớn như vậy, ắt phải là người có nghĩa khí, có tài cáng đáng, nên tính gia nhập vào gánh hát của ngài. Không biết đại gia thấy thế nào?

Bình Đại Đầu cười nói:

- Nào có! Nào có! Chẳng qua gánh hát này của lão diễn hí khúc là chính, mà nữ nhân thì không thể bước lên sân khấu, tuy rằng có tạp kỹ và xiếc thú, bất quá là phần dạo trong lúc rỗi để đàn ông giải sầu thôi. Cô nương biết làm những gì?

Cô gái nọ cười lớn đáp:

- Cưỡi ngựa, bắn tên, đánh võ, món nào tiểu nữ cũng tinh thông.

Bình Đại Đầu lắc đầu:

- Không được, không được rồi! Gánh hát này của chúng ta không nuôi nổi ngựa, hơn nữa hiện đã có mối làm ăn ở phủ khâm sai và phủ vương gia, sau này thanh danh tăng vọt, những nơi đi đến nhất định sẽ đều là nhà cao cửa rộng. Mấy trò phóng ngựa bắn tên, vung đao múa thương sẽ không mang được vào nhà người ta đâu.

Cô gái nọ liền đảo mắt, cười nói:

- Đi trên dây thừng, nhào lộn trên sào cao, mấy trò mua vui cho người ta đó tiểu nữ cũng biết.

Bình Đại Đầu lại lắc đầu, chợt một giọng nói trong trẻo chen vào:

- Mấy trò này khách giang hồ mãi võ có ai mà không biết? Thấy một người phụ nữ như cô đi lại một mình trên giang hồ cũng không dễ, vậy cô hãy biểu diễn nhào lộn thử xem! Nếu làm tốt, ta sẽ làm chủ mà thu nhận cô.

Người này vẫn đang mặc đồ diễn rườm rà, ống lụa như mây, mày ngài má hồng, mắt hạnh long lanh, chính là Trình Tiểu Vân, diễn viên chính của gánh hát Bình gia. Tuy hắn là nam nhân nhưng đã quen sắm vai nữ, không chỉ nói chuyện dịu dàng mềm mỏng mà cử chỉ hình dáng cũng khá là thanh tú.

Trước mặt hắn, tuy là chủ gánh hát song Bình Đại Đầu cũng phải nể mặt mấy phần, bèn vội cười phụ họa:

- Đúng rồi! Vậy cô hãy thử tài nghệ chút xem.

Đám nhạc công chuyên gõ chiêng, đánh trống, thổi sáo, khảy đàn nghe vậy đều hỉ hả kéo sang, quây lại thành một vòng tròn. Cô gái nọ mỉm cười gật đầu đồng ý:

- Vậy đa tạ chủ gánh và vị lão bản này, tiểu nữ tử sẽ lộ dốt đây.

Cô nàng thoải mái bước đến chính giữa sân, ôm quyền bước một bước tuồng, rồi chợt đứng sững lại hít sâu một hơi, liền sau đó búng người nhào lộn. Màn nhào lộn của cô không có gì là đặc sắc: lấy tay chống đất, hai chân liên tục đá ra sau, tuy thân thủ hết sức gọn gàng, song cũng chẳng có chỗ nào là kỳ diệu. Bình Đại Đầu và Trình lão bản không khỏi lộ vẻ thất vọng.

Không ngờ sau khi búng người nhào lộn mấy vòng, cô gái nọ đột nhiên tăng tốc lộn vòng vừa nhanh vừa dứt khoát, như thể biến thành một bánh xe tròn xoay tít; động tác mềm mại liên miên trông mỹ cảm cực kỳ; eo thon mềm mại mà có lực. Cặp mắt Bình Đại Đầu không khỏi sáng rực, bên cạnh đã có người thốt lên khen giỏi.

Xoay người trên không, lộn một vòng trên không rồi tiếp đất, búng người ưỡn thân vút lên cao rồi tiếp đất nhẹ nhàng,..., đủ loại động tác khó không ngừng được thể hiện, liên miên không dứt, không thấy lúc nào ngừng nghỉ. Giữa những tràng khen ngợi của đám đông, Bình Đại Đầu cười lớn bảo:

- Đủ rồi! Đủ rồi! Không cần nhào lộn nữa. Thu dọn một chút rồi ăn cơm cùng mọi người đi. Bắt đầu từ hôm nay, cô sẽ là người của gánh hát Bình gia.

Cô gái nọ lộn trên không thêm hai vòng nữa, rồi mỉm cười tiếp đất, mặt không đỏ, hơi vẫn đều. Nàng tai bụi trên tay rồi chắp tay nói:

- Đa tạ chủ gánh!

Trình Tiểu Vân mỉm cười chào hỏi:

- Tại hạ tên là Trình Tiểu Vân, tỷ tỷ tên là gì?

Ánh mắt cô gái thoáng loé lên, nàng ta mỉm cười đáp:

- Ta tên Liễu Oanh Nhi, sau này vẫn mong Trình lão bản chiếu cố nhiều hơn.

Trình Tiểu Vân nhoẻn miệng cười nói:

- Ừm, Liễu Oanh Nhi, tên rất đẹp! Oanh oanh yến yến xuân xuân, hoa hoa liễu liễu chân chân, sự sự phong phong vận vận. Kiều kiều nộn nộn, đình đình đương đương nhân nhân. Với tư thái và dáng điệu như vậy, nếu tỷ tỷ lại mặc đồ diễn vào, vẽ mặt bôi son lên, trông sẽ rất đẹp đấy!

Hồng Nương Tử hoá thân thành Liễu Oanh Nhi nghe hiểu được là hắn đang khen tên mình hay, song lại không biết nó có nghĩa gì cho nên chỉ cười gượng gạo, không dám đáp lời.

Đám Dương Hổ vốn là đại đạo lục lâm. Bình thường nếu muốn bắt cóc kẻ nhà giàu thì cùng lắm là phái vài người đi dò xét tình hình, nắm rõ gia cảnh, thế lực và kết cục bố trí trong nhà con "dê béo", rồi mới thừa lúc đêm tối đến nhà bắt người. Bọn chúng chưa từng kiên nhẫn xây dựng và bố trí cơ sở thám tử lâu dài, nay muốn đối phó với Hoàng đế Đại Minh song hai mắt lại như mù, muốn biết hắn ở đâu nhưng lại không cách nào dò hỏi.

Hồng Nương Tử thấy trượng phu bị lợi che mờ mắt, biết rõ bị Di Lặc giáo lợi dụng song vẫn u mê không chịu từ bỏ giấc mơ làm Hoàng đế, nên nàng không dằn được lửa giận trong lòng. Nhiều lần khuyên nhủ không kết quả, nàng bèn thổ lộ nỗi khổ với Ngũ thúc, song không ngờ Ngũ thúc lại đáp lại một thôi một hồi khiến lòng nàng hoàn toàn nguội lạnh.

Cho dù nói thế nào thì cuối cùng nàng vẫn là một người phụ nữ, trong mắt một thủ lĩnh thổ phỉ cực kỳ trọng nam khinh nữ như Thôi lão đại, đứa con rể Dương Hổ còn quan trọng hơn con gái mình nhiều. Thấy mấy năm nay Dương Hổ chiêu binh mãi mã khá giỏi, nhiệt huyết trong lòng Thôi lão đại cũng dâng trào. Lão lại bắt đầu trông mong con rể mình có thể đánh chiếm lấy giang sơn, một nhà họ Thôi cũng có thể được phong vương phong hầu.

Cho nên lần này mười mấy sơn trại bị tiễu trừ, thế lực Dương Hổ bị tổn thương lớn, huynh đệ những sơn trại cũ đã bắt đầu nảy lòng nghi ngờ về lời lan truyền "chân mệnh thiên tử" của hắn, mấy người tâm phúc của Thôi lão đại như Ngũ thúc đã thầm bàn riêng với lão về chuyện này. Thôi lão đại ngầm gợi ý rằng, vô luận lời đồn này là thật hay giả cũng phải dốc sức phò trợ con rể, thay vì làm sơn tặc đời đời kiếp kiếp chi bằng đánh một trận nhằm kiếm chút tước vương hầu công khanh mà hưởng.

Sau khi nghe Dương Hổ kể chuyện, Thôi lão đại biết được vì chuyện tập kích phủ Uy Vũ Bá mà con gái và con rể mình hục hặc với nhau. Do đó lần này lão chủ động sai người của mình đến giúp Dương Hổ, một mặt là để biểu lộ thái độ của chính mình; mặt khác cũng bởi e ngại con mình sẽ phác tác cơn giận đại tiểu thư mà làm khó Dương Hổ, nên mới phái cả Ngũ thúc đến để áp chế nàng.

Nghe biết thái độ của cha như vậy, Hồng Nương Tử không khỏi thất vọng vô cùng. Chỉ có điều tuy có vị trưởng bối là Ngũ thúc này áp chế nên nàng không thể gây lộn với Dương Hổ nhưng Hồng Nương Tử tính tình cứng cỏi, trong lòng đã có chủ ý rồi thì cho dù là Thôi lão đại cũng đừng hòng thay đổi. Nghe xong lời giải thích của Ngũ thúc, nàng không nổi nóng gây gổ tại chỗ mà chỉ quay về thu thập hành trang rồi lặng lẽ bỏ đi.

Nàng biết đám người Dương Hổ không có kế sách nào khác, bọn họ muốn tìm được Chính Đức thì chỉ có cách theo dõi Dương Lăng cho nên nàng cũng cải trang rồi chú ý mọi động tĩnh trong dịch quán. Gánh hát này mỗi ngày đều đến hành dinh quan khâm sai diễn hí khúc, nàng đã sớm lần tra tỏ tường. Trong suy nghĩ của nàng, Đại vương là vương thúc của Hoàng đế Chính Đức, ngày lão nạp phi nếu như Chính Đức còn ở Đại Đồng, thì chín phần mười hắn sẽ phải đến chúc mừng.

Vậy Di Lặc giáo và cả đám người Dương Hổ rất có thể sẽ hạ thủ vào lúc này. Nàng phải ngăn cản Dương Hổ bị kẻ khác lợi dụng, phá hỏng kế hoạch của Di Lặc giáo. Như thế nàng cũng phải nghĩ cách trà trộn để vào phủ, do vậy nàng mới cải trang làm người giang hồ mãi võ, trở thành một thành viên trong gánh hát Bình gia.

Ngày hai mươi hai tháng giêng, Đại vương nạp trắc phi.

Hay tin đại quân Bá Nhan đã dời sang vùng Bình Thuận, Hồ Quan, dân chúng Đại Đồng thở phào nhẹ nhõm. Từ nay, đêm ngủ không phải ăn mặc chỉnh tề, đặt sẵn túi hành trang bên gối để bất cứ lúc nào cũng có thể chuẩn bị trốn chạy. Trong phủ Đại vương tràn ngập một bầu không khí vui mừng, giăng đèn đón khách.

Từng chiếc kiệu xe, từng thớt tuấn mã chở quan văn tướng võ vùng Tuyên Phủ, Đại Đồng kéo đến phủ Đại vương gia để chúc mừng. Do Hoàng đế đang ở Đại Đồng nên Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh hết sức coi trọng việc phòng ngự biên quân. Vốn dĩ hắn đã đưa thư và lễ vật chúc mừng đến phủ Đại vương, tỏ ý rằng vì vướng bận việc quân nên không thể đích thân đến dự, điều này đã khiến cho lão Đại vương không vui trong lòng. Không ngờ hôm nay hắn bỗng nhiên đổi ý, vội vội vàng vàng dẫn theo ba trăm thân quân chạy đến phủ Đại vương chúc mừng.

Chung quanh phủ Đại vương vẫn đầy giáp sĩ kề vai san sát, song trong vương phủ lại ắp tiếng sênh ca, Hồng Nương Tử cũng theo gánh hát mới gia nhập mà tiến vào trong. Song nằm ngoài dự liệu của nàng chính là vương phủ rộng lớn hơn nhiều so với những gì mà nàng tưởng tượng, hơn nữa vương phủ cho gánh hát của nàng diễn ở hậu điện. Gánh hát lớn được vời tới thì diễn ở trung điện, tám gánh hát có quy mô như của nàng chỉ có thể dựng rạp biểu diễn trong sân khu ngoại điện quanh phủ, căn bản không thể tiếp xúc với khu vực trung tâm.

Cả phủ Đại vương lọt trong tiếng nói cười, tiếng chúc mừng rộn rã, những chỗ yên tĩnh hơn chỉ có Ngân An điện, Xã Tắc đàn, Phong Vân Lôi Vũ Sơn Xuyên đàn, Hoàng miếu, từ đường và Tích Thiện tự. Điển Thiện sở cung cấp rượu ngon và đồ ăn, Đại Phủ điếm tiếp đãi tân khách, đăng ký tiếp nhận lễ vật, còn những vị khách quan trọng sẽ do tổng quản vương phủ đích thân đón vào.

Chỗ gánh hát của Hồng Nương Tử biểu diễn nằm bên trong Đoan Lễ môn và phía ngoài Thừa Vận môn, đại thần các bộ ra vào đều không thoát khỏi mắt nàng. Trong sân, các rạp diễn đã sớm được dựng xong, trên sân khấu rèm giăng, màn hoa và đèn treo đã đâu vào đấy. Theo quy củ thì vở diễn đầu tiên khi diễn tại tư gia đều sẽ là "Thiên quan tứ phước" (lễ quan trời ban phước bốn phương).

Một lòng mong muốn biến gánh hát Bình gia thành gánh hát nổi tiếng nhất Đại Đồng, đợi khi biên cảnh bình định xong còn phải nêu chiêu bài đã từng được mời đến hành dinh của khâm sai và vương phủ Đại vương để được lưu diễn khắp cửu biên, Bình Đại Đầu đương nhiên cũng phải tuân theo quy củ này. Tuy rằng gánh hát của lão không chính quy lắm, vở này cũng chưa được học đầy đủ, nhưng cũng may xem kịch trong sân đều là thị vệ, thư đồng và gia bộc hạ nhân của đám quan văn tướng võ đến mừng lễ cưới, cho nên khi biểu diễn cũng không bị bọn họ soi mói gì.

Nhất là sau khi vở "Thiên quan tứ phước" được diễn xong, các vở hí kịch hơi "mặn" mà lại không phạm vào những điều kiêng kị của vương phủ như là "Lữ động tân tam hí bạch mẫu đơn", "Trương thiên sư đại họa phù" được trình diễn, thì càng được đám người hầu và gia tướng đó mê thích.

- Khâm sai phụng chỉ tuần biên kiêm Thống lĩnh thân quân thị vệ của Hoàng thượng kiêm Đại đô đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương đại nhân và Đốc quân Kinh doanh Trương công công đến!

Vừa mới biểu diễn giữa giờ nghỉ xong, nghe tiếng xướng sang sảng của quan xướng lễ, Hồng Nương Tử thoắt ngẩng đầu nhìn lại. Nàng thấy một vị thư sinh mặt như thoa ngọc mỉm cười bước vào. Y mặc một bộ áo dài lông chồn sang trọng, ngoài khoác áo choàng lớn lợp Cô nhung, thân hình cao thon, nổi bật vô cùng.

Mười hai viên hiệu úy trẻ tuổi anh tuấn dằn đao theo sát sau lưng y. Vị Trương công công Trương Vĩnh đi cạnh tuy mặc mãng bào chỉ vàng màu xanh da trời, song lưng vai hơi còng, bước chân lại nhanh, trông thực giống nô tài thân cận một vị công tử con vua cháu chúa.

Hồng Nương Tử thoáng nhếch môi, lộ ra một nụ cười nhàn nhạt. Hôm nay đến chúc mừng, vị tướng quân này lại không mặc quân trang, y phục nho nhã xứng với khuôn mặt thanh tú của y, áo choàng rộng bay, trên chiếc đai gấm ngũ sắc quấn hông cài một miếng ngọc bích đang đong đưa khe khẽ. Cái khí phái ấy... nếu hôm nay nàng đến nhằm bắt một con dê béo mang về thì chỉ cần nhìn vào dáng vẻ ấy, đương nhiên "con dê béo" chỉ có thể là y.

Được tổng quản vương phủ đưa vào, Dương Lăng và Trương Vĩnh đi qua khỏi cổng Thừa Vận, vừa đến cổng Sùng Tín, bước chân Dương Lăng hơi khựng lại, y ngoái đầu liếc về phía sau. Khi ánh mắt y chạm ánh mắt viên tiểu hiệu đứng giữa mười hai viên thị vệ của y, viên tiểu hiệu đó liền nở một nụ cười tinh nghịch. Dương Lăng kín đáo gật nhẹ đầu với hắn, rồi tiếp tục cùng Trương Vĩnh sóng vai đi vào.

Thị vệ của khâm sai cũng không được phép bước vào nội điện của vương phủ, sẽ có chấp dịch (người hầu, cấp cao hơn đầy tớ bình thương) dẫn bọn họ sang điện bên kế cổng Sùng Tín. Nơi đây bày dọc các mâm tiệc lưu thủy, rất đông người hầu của các tướng quân và quan văn đang ăn ham uống tục.

Bởi Đại Đồng là nơi trú quân trấn giữ biên thùy, cho nên ngay cả vương phủ cũng không chỉ chú trọng về vẻ nguy nga tráng lệ mà kiến trúc lẫn sân tường cũng đều được xây cao lớn và kiên cố. Trên bốn góc tường cao của vương phủ đều có thành lũy và thị vệ đồn trú. Có điều khi bước vào trong "yến tử cư" (tổ chim én), hoa viên vương phủ chốn phương bắc này vẫn có giả sơn uốn lượn quanh co, hành lang khúc khuỷu mái uốn cong cong; tuy nhỏ nhưng vẫn có đủ.

Men theo lối nhỏ quanh co xuyên qua "Yến tử cư", vừa bước vào điện Cẩn Đức tổng quản vương phủ liền khom người cười nói:

- Hai vị đại nhân! Lễ nạp phi của vương gia vẫn chưa cử hành, mời hai vị đến điện bên nghỉ ngơi trước. Đến giờ lành, cha gia sẽ dẫn đại nhân đến điện Ngân An tuyên đọc chiếu thư của Hoàng thượng, thỉnh mời vương gia và vương phi làm lễ.

Dương Lăng và Trương Vĩnh mỉm cười gật đầu, rồi xoay người đi vòng sang tòa điện ở chái bên. Trước cửa điện có hai tiểu thái giám đang đứng, thấy bọn họ đi tới bèn vội vén rèm nỉ nhung lạc đà lên. Hai người vừa bước vào liền sững người.

Ánh sáng trong điện hơi u ám, vừa bước vào liền lập tức cảm thấy không thoải mái. Khi khôi phục thị lực lại bình thường, hai ngườimới phát hiện trong điện đang có mấy vị đại nhân đang đứng: tuần phủ Hồ Toản của Đại Đồng, tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh, một vị quan văn đứng bên cạnh vận bổ phục(*) giống tuần phủ Hồ Toản; nhất thời y không nhớ Đại Đồng còn có vị quan văn nào có cùng phẩm hàm là tòng nhị phẩm như lão ấy. (*: xem lại chú thích chương 27)

Trong điện, phía bên trái là bộ bàn nhỏ uống trà và ghế dựa hình mũ quan, bên phải là một chiếc giường sưởi, trên giường đặt một chiếc bàn chân thấp. Chính diện ở trước điện là một bức bình phong, lúc này phía sau bình phong cũng có hai người chợt bước ra, một người vận hoàng bào hình mãng long, dáng người to béo, chính là chú rể Đại vương gia, trên khuôn mặt núc ních chứa đựng vẻ trang nghiêm hiếm thấy.

Vị đại nhân bên cạnh khoảng tứ tuần, dưới cằm lưa thưa mấy cọng râu, khuôn mặt gầy guộc, hai mắt sáng quắc như sao, thân vận một bộ bổ phục hình tiên hạc, không ngờ chính là đại học sĩ được gia phong nhất phẩm đương triều - Dương Đình Hoà.

Vừa trông thấy vậy, Dương Lăng và Trương Vĩnh liền nghĩ bụng: "Hỏng bét! Bữa yến tiệc mừng cưới hôm nay sắp biến thành Hồng Môn Yến rồi. Dương Đình Hoà mà đến, thể nào cũng sẽ có màn kiếm sương đao gió khóc lóc can gián hoàng thượng hồi cung đây."

Hai người đưa mắt nhìn nhau, trong mắt đều có ý nói với đối phương: "Huynh đệ, ông (cậu) lên trước đi!"

*****

Chính Đức đang ngồi trên một chiếc băng ghế dài, tiện mồm ăn vài món. Hắn cảm thấy cải trang làm hiệu úy tuy cũng thú vị, nhưng trong vương phủ này có quá nhiều phép tắc, còn lâu mới bằng tự do xem kịch ở đầu phố. Hắn ngồi rảnh rỗi một hồi, nghe thấy bên ngoài không ngừng có tiếng reo hò, tiếng hát du dương trầm bổng như hớp hồn, nhịn không được bèn đứng dậy bước ra ngoài.

Mười một tay thị vệ kia đều là cao thủ nhất đẳng của đại nội, danh nghĩa là thị vệ của khâm sai nhưng kỳ thực chức trách chính là bảo vệ Hoàng đế. Vừa thấy hắn đứng dậy, đám người đó cũng đều lập tức kín đáo đứng dậy theo, lặng lẽ xúm lại quây lấy hắn.

Một viên thủ lĩnh thị vệ nhỏ giọng hỏi:

- Hoàng thượng, ngài muốn i đâu vậy, có phải là đi ngoài không?

Chính Đức trợn to mắt, nén giọng mắng:

- Đi ra ngoài(*)! Ra khỏi cung rồi mà vẫn không được tự do, đi đến đâu cũng thấy mặt các ngươi hết. Nơi này là phủ Đại vương, còn có thể có giặc cướp hay sao? Đi cách xa ra một chút đi, đừng làm phiền trẫm, trẫm đi xem náo nhiệt một chút.

(*: nguyên văn là "xuất cung". Thị vệ hỏi Chính Đức có phải là muốn đi đại tiện, Chính Đức bảo là y muốn rời khỏi chỗ này (cung điện của Đại vương))

Dứt lời hắn bèn hừ một tiếng rồi đi vào mảnh sân đằng sau cổng Đoan Lễ.

Trình Tiểu Vân đang cất giọng ngâm nga trên sân khấu. Hắn mặc một bộ đồ trắng, trên mái tóc mềm đen như tơ mực cài một đoá hoa mẫu đơn tươi thắm; tay áo như mây, điệu múa nhẹ nhàng, mĩ miều hệt như một đoá mẫu đơn sống động.

Chính Đức đi đến dưới sân khấu, bên ngoài người đông như kiến, hai tay thị vệ đã tranh bước lên trước, thấy đông người nên âm thầm chặn không cho hắn đi qua. Chính Đức đang không biết làm thế nào, chợt thấy một cô gái vận đồ đoản đả (đồ chẽn của diễn viên võ) màu đỏ, thắt đáy lưng ong, một chân đạp lên chiếc ghế thấp, đang buộc chặt xà cạp lại thành nhiều vòng, bèn mỉm cười đi tới hỏi:

- Vị tỷ tỷ này, có phải tỷ biểu diễn võ công không?

Thôi Oanh Nhi ngẩng đầu lên. Chính Đức thầm tiếc rẻ, cô nương có vóc dáng đẹp mê người như vậy lại bị mặt rỗ. Khi thoa phấn lên sân khấu, mặt ngọc trông rất mịn màng óng ánh thì còn không thấy gì, song nhìn gần như vậy thực thấy kém quá đỗi.

Thấy hắn là hiệu úy quân đội, tuổi trông không quá mười lăm mười sáu, trên mép môi còn lún phún lông măng nhưng mặt mày ngũ quan trông mười phần anh tuấn, nói chuyện cũng khách khí thân thiện, không có vẻ bất lương giả dối như những tên lính bình thường nên Thôi Oanh Nhi tăng thêm mấy phần hảo cảm. Nàng quấn chặt xà cạp, đưa tay vén tóc mai, rồi cười duyên dáng đáp:

- Trong vương phủ, tỷ tỷ biểu diễn võ công cho ai coi đây? Chẳng qua chỉ là mấy trò tạp kỹ đi dây, leo sào, nhào lộn mà thôi.

Ánh mắt Chính Đức sáng rỡ, hắn hào hứng:

- Tạp kỹ hả? Vậy càng đáng xem hơn võ công rồi! Lúc nào thì tỷ tỷ sẽ biểu diễn tiếp vậy, tiểu đệ sẽ vỗ tay hò hét cổ vũ cho tỷ.

Cảm thấy khá thú vị, Hồng Nương Tử không nhịn được cười khúc khích đáp:

- Tiểu huynh đệ, đệ thực vui tính đó! Vương phủ thưởng bạc có quy tắc cả, đệ có hét đến khản cổ cũng vẫn không tăng thêm tiền thưởng được đâu.

Chính Đức đáp bằng giọng không phục:

- Như vậy hả? Vậy để Dương... để khâm sai Dương đại nhân nhà đệ thưởng cho tỷ là được rồi. Đệ là thân binh của Dương đại nhân, nếu như tỷ diễn hay, đệ sẽ nói với đại nhân, người nhất định sẽ mời tỷ qua phủ biểu diễn và ban thưởng hậu hĩnh đó.

Hồng Nương Tử bị kiểu nói trẻ con của hắn chọc cho cười khanh khách, nàng ráng nhịn cười vái chào hắn, rồi bảo:

- Vậy tiểu nữ tử cảm tạ quan gia trước! Nếu thực được Dương đại nhân ban thưởng, tiểu nữ tử nhất định sẽ chia cho quan gia một nửa.

Chính Đức khoát tay ra vẻ hết sức trượng nghĩa:

- Không cần khách khí! Không cần khách khí! Tiểu đệ theo đại nhân ăn uống, không phải lao tâm lo lắng không có tiền tiêu.

Trên sân khấu vang lên tiếng chiêng "chập cheng", Trình Tiểu Vân lướt ra khỏi sân khấu như một đám mây, Lữ Đồng Tân (một trong Bát Tiên) và yêu đạo Hoàng chân nhân bước lên sân khấu trong tiếng chiêng trống vang rền. Nhận được sự reo hò của khán giả, Trình Tiểu Vân hiển nhiên cũng có vài phần đắc ý. Hai má đỏ bừng, hắn nhấc váy bước xuống vũ đài tiến đến chiếc lều dùng để hóa trang và thay y phục được bắc phía sau sân khấu. Trình Tiểu Vân cất giọng gọi Hồng Nương Tử:

- Liễu đại tỷ, giúp tôi thay y phục với.

Thôi Oanh Nhi ừ một tiếng, rồi quay lại cười tươi tắn nói với Chính Đức:

- Tiểu huynh đệ, tỷ tỷ phải đi làm việc đây! Chốc nữa màn hát này xong, tỷ tỷ sẽ lên sân khấu biểu diễn nhào lộn, đệ nhớ đến xem nhé.

Chính Đức liền gật đầu đồng ý. Thấy người con gái áo đỏ này lách người tiến vào trong lều, hắn bèn nhìn đông ngó tây một lát, rồi xoay người đi về phía gian điện ở cánh phải cổng Thừa Vận. Đám đại nội thị vệ hầu hạ trong cung nhiều năm, không dám làm trái thánh ý cho nên không dám đi sát hắn quá, chỉ đồng loạt đi theo sang phía bên phải.

Một thị nữ vận cung trang dáng cao gầy, vẻ mặt cao ngạo, được hai thị nữ khác theo kèm đang vừa bước ra khỏi cổng Thừa Vận. Vốn Chính Đức tính nôn nóng, lại bởi dòng người trên đường nườm nượp, hắn lo tránh trái né phải để vòng qua đám người đi vào trong cổng nên vô ý giẫm phải vạt váy sau của cô thị nữ nọ.

Thị nữ đó la lên "ui da" một tiếng, liền vội nhấc váy lên, đỏ mặt quay lại. Thấy chẳng qua chỉ là một tiểu hiệu uý cỏn con, ả liền quắc mắt trừng hắn, mắng nhiếc:

- Mù cái mắt chó nhà ngươi rồi à? Đi đường trong vương phủ mà cũng không mang theo mắt sao?

Chính Đức bị người ta mắng té tát như thế song lại không hề nổi giận, chỉ cảm thấy cô ả lúc bước ra thì ngửa mặt ưỡn ngực, dáng vẻ cao ngạo, hiện tại lại lúng ta lúng túng không thôi thì thấy rất thú vị. Hắn bèn nén cười chắp tay thi lễ xin lỗi:

- Mong cô nương thứ lỗi! Là kẻ hèn lỗ mãng rồi, thực có lỗi quá.

Thị nữ giũ giũ váy, thấy vạt sau bị in một dấu chân thật to thì càng thêm nổi giận. Căm hận lườm Chính Đức, ả phỉ phui:

- Ta khinh, còn bày đặt kẻ hèn! Ngươi tưởng ngươi là công tử hay thiếu gia vậy? Chỉ là một tên lính, còn bày đặt kẻ hèn, đồ ngựa không biết mặt mình dài! Ngươi mà cũng là người có danh phận, có sự nghiệp sao? Hừ!

Dứt lời ả quay ngoắt đầu đi như một con công kiêu ngạo rồi lại nghênh ngang bước đi.

Bị ả mắng cho không nói được tiếng nào, hoàng đế Chính Đức chỉ biết rờ mũi cười khổ. Mấy tay thị vệ chạy qua thấy Hoàng thượng bị một thị nữ của vương phủ mắng mỏ, chế giễu cho một trận thì đều không nhịn được cười trộm.

Một giọng nói dịu dàng mang theo nụ cười của một thiếu nữ từ bên cạnh cất lên:

- Đừng trách tỷ ấy! Vũ tỷ tỷ là thị nữ được yêu mến bên người Vương phi nương nương, ngay cả đại tổng quản cũng phải nhường tỷ ấy ba phần đó. Tuổi ngươi nhỏ như vậy, lại đã làm đến thân binh của đại tướng quân, tương lai nhất định sẽ có sự nghiệp. Anh hùng không sợ xuất thân kém, đợi khi ngươi làm tổng binh Đại Đồng rồi, khi ấy lại đến bái kiến vương gia, Vũ Nhi tỷ tỷ nhất định sẽ nhìn ngươi với con mắt khác đó.

Đừng nói là tổng binh Đại Đồng, cho dù là làm đại nguyên soái nắm binh mã cả nước, Chính Đức vẫn không để vào mắt. Có điều người con gái này hiểu ý người ta như vậy, hơn nữa lại không hề quan tâm đến xuất thân của hắn, khiến nghe được lời này hắn cảm thấy ấm áp trong lòng. Đây đúng là người con gái đầu tiên không biết hắn là đương kim Hoàng đế mà lại xem trọng hắn như thế.

Chính Đức xoay người lại, định cất tiếng cảm ơn người con gái đó, nhưng mới vừa đưa mắt nhìn liền như thể ba hồn bảy vía của hắn đều bay mất sạch, cả người như được nặn bằng đất sét cứ đứng đực ra đó, cứng mồm cứng lưỡi không thốt được tiếng nào.

Người con gái trước mắt hắn không hề ăn vận giống như thị nữ trong vương phủ. Nàng mặc một chiếc áo chẽn da chồn lợp nhung màu xanh, trong mặc áo đơn màu xanh nhạt, trên chiếc eo thon thắt chiếc váy hồng màu xanh nhạt sáu mảnh phơi phới như nước sông Tương. Cho dù là tiểu thư khuê các, song lại xinh đến nỗi da trắng thịt thơm, hữu tình quyến rũ như nàng vẫn là rất hiếm. Vóc người thon thả lung linh, khuôn mặt sáng ngời rực rỡ, trên khóe môi cười mỉm yêu kiều chấm một nốt ruồi mỹ nhân. Nàng đang ôm trong lòng một con chim anh vũ lớn, lông đuôi sặc sỡ.

Thấy Chính Đức mấp máy cả buổi vẫn không ra tiếng, người thiếu nữ xinh đẹp trạc mười bốn mười lăm đó ngạc nhiên nhìn xuống người mình một lượt rồi cười hì hì, nghiêng đầu nói với hắn bằng giọng dí dỏm:

- Thế nào? Có phải là ta rất xinh đẹp không?

Chú thích:

Người con gái đang độ xuân sắc, lả lướt diễm lệ như liễu như hoa, từng lời nói từng cử chỉ đều vô cùng thùy mị, mà thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp như vậy, thì ở chỗ nào cũng đẹp.

mâm tiệc bày sẵn, ai đến lúc nào thì ăn lúc đó, ăn xong rồi đi, người hầu lại dọn lên tiếp cho đợt khách mới; bởi hình tượng như nước chảy nên xưa có tên này.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 193: Tri âm khó gặp

Cô nương đó vuốt ve bộ lông con chim anh vũ, thấy viên lính cứ đứng ỳ ra đó ngẩn ngơ nhìn mình chằm chằm thì không khỏi bật cười khúc khích, rồi bảo:

- Một chốc nữa sẽ rước Trắc vương phi vào phủ rồi, ngươi đừng có chạy lung tung đó! Nếu lại giẫm phải váy của vương phi thì sẽ không chỉ bị mắng một trận rồi thôi đâu.

Dứt lời, nàng nhoẻn miệng cười duyên dáng rồi xoay người đi về phía các tòa đình viện ở chái tây. Kiến trúc trong vương phủ nguy nga và lộng lẫy, hào hoa và tráng lệ; hành lang nối liền phòng ốc, nhà cửa đan xen; phía trước là nhà chính, phía sau là phòng ngủ, cung điện sâu hút bên trong. Các tòa đình viện ở chái tây này gồm cả thảy mười tòa nhà, là nơi ở của đám người hầu và tạp dịch, cho nên không có ai canh gác.

Chính Đức vừa giơ tay lên kêu "này" thì người thiếu nữ xinh đẹp đã bước qua khỏi cánh cửa cao cao, hắn bèn vội rảo bước đuổi theo. Thị vệ xung quanh đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ bụng rằng Hoàng thượng đã chấm người con gái xinh xắn này rồi, thế là nhất thời trở nên khó xử. Hoàng thượng theo đuổi con gái nhà người, bọn họ làm sao dám đuổi theo quá sát, nhưng dẫu gì thì nơi này cũng không phải là hoàng cung đại nội, ngộ nhỡ Hoàng thượng gặp phải chuyện gì thì biết làm thế nào?

Thế là mấy viên thị vệ chỉ đành cắn răng bám theo cách một khoảng. May mà khu vực này là chỗ ở của đám tôi tớ nên cũng không được trông giữ nghiêm ngặt lắm, vả lại hôm nay có nhiều gia bộc và thân binh của các vị tướng quân và đại nhân mới đến vương phủ lần đầu, chỗ nào cũng cảm thấy mới lạ nên thỉnh thoảng cũng có người chạy sang chỗ chái điện bên này ngắm nghía. Thêm nữa bởi hôm nay là ngày vương gia nạp phi, nô bộc đều ở bên ngoài đón khách nên chốn này cũng không có mấy người, vì vậy bọn họ có thể vào trong sân của khu nhà ngang một cách thuận lợi.

Chính Đức vội vã đuổi theo, hắn thấy người thiếu nữ bước khoan thai nhẹ nhàng đến trước một căn phòng, vừa lúc có một bà lão đi ra ngoài lấy mấy bó rau phơi ngoài khung cửa. Người thiếu nữ đó liền cất giọng thưa:

- Mẹ, con đã về.

Bà lão có vẻ mặt hiền hậu ngẩng đầu lên, trông thấy con mình liền lập tức nở một nụ cười vui vẻ, bảo:

- Lương Nữ đó à, nương nương lại thưởng cho chim anh vũ à? Mau đem nó vào phòng sưởi đi, đừng để nó bị lạnh. Mẹ làm một ít thịt heo hầm rau khô, chốc nữa nhớ gọi cha con về ăn nhé.

Người thiếu nữ dạ một tiếng giòn tan, đoạn rẽ sang một căn hầm sưởi nhỏ bé ở bên cạnh, mở cửa bước vào. Bà lão cũng mang mớ rau khô trở về phòng. Chính Đức thoáng ngừng bước: "Lương Nữ? Mẹ? Nàng ấy... nàng ấy không phải là Đường Nhất Tiên sao?"

Chính Đức cố nhớ kỹ lại. Tuy bình thường khi nhớ về vị cô nương này trong đầu hắn chỉ thấy một bóng hình xinh đẹp mờ ảo mang theo một chút ấm áp và hương thơm nhàn nhạt, nhưng khi vừa trông thấy nàng, Chính Đức lại nhớ rõ hình dáng của nàng ngay: tuổi tác, vóc người, giọng nói, còn cả nốt ruồi duyên trên mép môi nàng. Trên đời có sự trùng hợp đến vậy ư?

Chính Đức lại cất chân đuổi theo rồi cũng chui vào trong phòng sưởi. Đám thị vệ đưa mắt nhìn nhau, không nói mà ngầm hẹn tản ra, đứng vây lấy căn phòng sưởi đó lại. Bước vào căn phòng sưởi,người thiếu nữ nhón chân mở một cái lồng tre thả con chim anh vũ vào rồi cài chốt đóng lại. Nghe thấy tiếng cửa cót két, nàng vội quay đầu nhìn lại, ngạc nhiên hỏi:

- Là ngươi? Ngươi đuổi theo ta làm gì?

Hơi thở của Chính Đức có phần gấp gáp. Hắn định thần lại, đỏ mặt nói:

- Đường cô nương, cô có thể không nhớ ra ta, nhưng chắc cô phải nhớ Dương Lăng chứ? Y vẫn luôn phái người tìm cô suốt, sao cô lại đổi tên họ và vào phủ Đại vương vậy?

Người thiếu nữ vận bộ đồ trắng trang nhã, càng làm nổi bật vẻ xinh đẹp hữu tình. Nàng nghiêng người dựa cạnh một dãy lồng trúc, lấy tay vén tóc mai, hơi đảo mắt, mỉm cười:

- Dương Lăng? Ngươi nói đề đốc Dương Lăng của Nội xưởng hả? Ta biết chứ, con hát đạo tình khắp Đại Đồng đều biên các câu chuyện của y thành từ khúc để hát, đương nhiên là ta từng nghe qua. Y tìm ta...

Nói đến đây, khuôn mặt xinh xắn đột nhiên biến sắc, nàng bước vội đến trước mặt hắn hỏi dồn:

- Ngươi nhận ra ta? Ngươi biết ta tên gì sao? Ngươi hãy mau nói cho ta biết đi. Ta là ai? Dương đại tướng quân tìm ta để làm gì?

Chính Đức ngơ ngác hỏi lại:

- Cô... cô không biết tên mình sao?

Người thiếu nữ nguýt một cái dài thượt rồi sốt sắng đáp:

- Ta mà biết thì còn hỏi ngươi à? Ta được vương phi nương nương cứu về, nương nương nói lúc tìm thấy ta thì ta đang nằm ven bờ sông, mặt mày đầy máu, sau khi tỉnh lại thì không nhớ gì cả. Ta cũng không biết mình là ai, không biết trong nhà có còn cha mẹ anh em gì không. Ngươi bảo... ngươi bảo ta họ Đường hả?

Nói đến khúc sau, giọng nàng đã trở nên run run. Mặc dù vợ chồng Lưu Lương đối xử với nàng như con ruột, song muốn tìm lại người thân máu mủ của mình là bản tính con người. Ai cũng nói nàng có lai lịch không rõ ràng, nay có cơ hội biết được xuất thân của mình thì sao tâm tình nàng không kích động và hưng phấn cơ chứ?!

Chính Đức lẩm bẩm: "Chứng mất hồn?" Hắn bỗng vỡ lẽ. Ngày đó khi Dương Lăng bẩm báo với hắn từng kể rằng trên vách núi phát hiện thấy một chiếc chuôi đao và và một tảng đá dính máu, bên trên còn bệt tóc và máu tươi. Ắt hẳn là do Đường Nhất Tiên bị đập mạnh vào đầu, lại rơi xuống nước nên mới mắc phải chứng bệnh mất hồn.

Biết người con gái trước mặt này đúng thật là Đường Nhất Tiên, Chính Đức mừng rỡ như điên. Hắn liền nắm lấy cổ tay Đường Nhất Tiên nói nhanh:

- Vậy thì đúng rồi! Quả nhiên cô là Đường Nhất Tiên. Cô chính là Đường Nhất Tiên, cô là... là...

Nói đến đây hắn chợt nghẹn lời. Hiện hắn đã không còn ngây ngô như khi còn làm thái tử, cũng biết phụ nữ chốn thanh lâu có thân phận rất thấp hèn, nếu hắn nói thật chỉ sợ sẽ khiến Đường Nhất Tiên xấu hổ và nhục nhã. Hắn ấp a ấp úng một lúc rồi buột miệng nói bừa:

- Cô là em... em gái của Dương Lăng Dương đại tướng quân.

Cái miệng chúm chím anh đào của Đường Nhất Tiên há ra tròn vo, cặp mắt sáng như sao trời ngây ra, nàng chăm chú nhìn Chính Đức thật lâu, vẻ vui mừng trong mắt bỗng dần biến mất. Nàng giật mạnh tay ra khỏi tay Chính Đức, lui về sau mấy bước, thuận tay quơ lấy một cây móc tre dùng để treo lồng chim rồi cảnh giác trừng mắt với Chính Đức, giận dữ bảo:

- Ngươi nói mấy lời ngon ngọt đó để làm gì? Tính gạt ta hả?

- Hả! Tôi gạt cô? - Chính Đức có phần hốt hoảng, - Chẳng lẽ tôi lại không có thiên phú nói dối đến như vậy sao?

Đường Nhất Tiên cười khẩy, mũi ngọc hếch lên, đắc ý như thể đã phát hiện được quỷ kế của hắn:

- Dương đại nhân họ Dương, vừa rồi ngươi lại bảo ta họ Đường, vậy còn không phải là buột miệng nói liều sao? Đồ lừa đảo, thấy sắc nổi lòng!

Đường Nhất Tiên vừa nói vừa tức giận vung mạnh cây gậy, "vù" một tiếng, cây móc tre quất trúng bắp đùi Chính Đức. Hắn la lên "ui da" rồi ôm chân nhảy lò cò tại chỗ. Đường Nhất Tiên thấy vậy thì không nhịn được bật cười phì. Dứt tiếng cười, nàng liền đanh mặt quát khẽ:

- Tiểu tử thúi, mau cút ra ngoài đi! Xui cho ngươi nghĩ ra cái cách láo khoét như vậy để gạt bản cô nương. Có điều... Đường Nhất Tiên... ừm, cái tên ngươi buột miệng nói liều lại nghe hay hơn Lưu Lương Nữ một chút. Hi hi!

Nghe thấy tiếng la oai oái của Hoàng thượng, hai gã thị vệ đang đứng sát ngoài cửa liền như mèo hoang bị giẫm phải đuôi, họ vội giật bung cả cánh cửa, cùng chen nhau xông vào, hốt hoảng gọi:

- Hoàng... Hoàng hiệu úy, đã xảy ra chuyện gì vậy?

Chính Đức thẹn quá hóa giận, liền quát lên:

- Cút ra ngoài cho ta, không phải chuyện của các ngươi!

Hai viên thị vệ trông thấy tình hình liền biết Hoàng thượng tán gái không thành, đích thực là một chuyện cực kỳ mất mặt của vị nam nhân đứng đầu thiên hạ. Hai tay cao thủ nhất lưu võ công cao cường ngay cả rắm cũng không dám đánh liền lập tức chui trở ra ngoài, tiện tay xách cánh cửa ra luôn.

Đường Nhất Tiên tặc lưỡi khinh thường:

- Ơ này! Hoá ra ngươi nhỏ như vậy mà đã là quan hiệu úy à! Nhưng mà nơi đây là phủ Đại vương, không cho phép người làm càn, bản cô nương mà la lên là tiểu tử thúi nhà ngươi sẽ bị tống vào đại lao đó. Đi ra mau lên!

Chính Đức khổ sở trần tình:

- Đường cô nương, tôi không có gạt cô đâu! Cô là... cô là biểu muội của Dương đại nhân, đương nhiên không cùng họ với y rồi.

- Hả?

Đường Nhất Tiên nhìn y chằm chằm, bán tín bán nghi, một lúc sau mới từ từ hạ cây gậy tre xuống, ấp úng:

- Ngươi... ngươi nói có thật không? Ta... ta là biểu muội của Đề đốc Nội xưởng Dương Lăng Dương tướng quân ư?

Chính Đức gật đầu lia lịa:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Cô thử nghĩ xem, đây là vương phủ, tôi sao dám nói càn? Cho dù tôi gạt cô đi nữa thì chốc nữa Dương đại nhân đi ra gặp cô, y cũng sẽ không giúp tôi gạt cô, đúng không?

Đường Nhất Tiên ngây người tại chỗ, hai mắt nhìn vào khoảng không, cũng không biết miệng nàng đang lẩm bẩm cái gì. Một lúc lâu sau nàng mới vứt cây gậy tre đi rồi reo lên:

- Mau, ngươi mau đưa ta đi gặp biểu ca! Hoá ra ta có biểu ca là đại tướng quân oai phong như vậy.

Đường Nhất Tiên vui sướng định chạy ra cửa, Chính Đức giật mình đánh thót. Nếu bây giờ đưa nàng đi gặp Dương Lăng, đảm bảo sẽ bị lộ ngay. Tuy rằng với quyền lực Hoàng đế của mình, không người con gái nào hắn muốn mà không thể triệu được vào cung. Nhưng hắn lại không muốn gây nên chuyện khiến Đường Nhất Tiên không vui. Huống chi hắn thà mong Đường Nhất Tiên cứ lớn giọng nói chuyện v۩ hắn, chứ không mong nàng khép na khép nép như những người con gái khác.

Chính Đức vội tìm lời ngăn cản:

- Hiện tại hẳn là Dương đại nhân đang tham gia lễ nạp phi của Đại vương trên điện Ngân An, lúc này mà đi đến trước mặt vương gia sẽ thất lễ, Dương tướng quân cũng sẽ bị trách phạt. Tôi là thân binh của y, có dịp tôi sẽ đích thân đi gặp y. Các người li tán đã lâu như vậy, có lâu thêm một chút cũng đâu sao!

Trong lòng dạt dào niềm vui sướng, Đường Nhất Tiên gật đầu nhoẻn miệng cười tán thành:

- Ừm ừm! Ngươi nói cũng đúng. Đúng rồi, Hoàng... hiệu uý, cha mẹ ta đâu? Các vị đang làm gì? Nghe nói biểu ca là người Tuyên Phủ, ban sơ gia cảnh bần hàn, vậy cha mẹ ta chắc cũng là người dân bình thường hả?

- À... chuyện đó,... Mấy năm vừa rồi chiến loạn liên miên, lệnh tôn và lệnh đường sớm đã... Họ Đường hiện chỉ còn mỗi mình cô thôi, là... là Dương đại nhân nuôi dưỡng cô.

Chính Đức vừa trả lời vừa lén quệt mồ hôi trên trán.

- Ồ...!

Đường Nhất Tiên cảm thấy hơi mất mát, có điều trong ký ức của nàng không hề có chút ấn tượng gì về cha mẹ, cho nên cũng không thể nói là đau lòng.

- Ta lớn lên trong nhà của biểu ca sao? Đúng rồi, tại sao ta lại bị thương vậy. Ngươi là thân binh của biểu ca, ngươi có biết không?

- Khụ khụ! Chuyện này... nói ra thì dài lắm...

Chính Đức kể đến độ nước bọt văng tứ tung, bịa chuyện càng lúc càng quá đà. Hắn chợt cảm thấy hoá ra mình cũng có thiên phú tán hươu tán vượn đến thế.

*****

Vui sướng lâng lâng một lúc thật lâu, Đường Nhất Tiên chợt lưu luyến nói:

- Than ôi! Gặp biểu ca rồi, ta sẽ phải theo huynh ấy trở về kinh sư. Cha mẹ đối đãi với ta tốt như vậy...

Trông thấy vẻ mất mát của nàng, Chính Đức chợt mềm lòng liền vội dỗ dành:

- Dương đại nhân cũng đối xử với cô rất tốt! Chỉ cần cô nói một tiếng, nhất định y sẽ cho phép cô mang vợ chồng Lưu thị về kinh ngay.

- Thật không? - Đường Nhất Tiên mừng rỡ, - Vậy tốt quá rồi, cha và mẹ đối đãi với ta như con ruột của mình, ta thật không nỡ xa rời các vị. Chao ôi, có điều mấy con chim này đã bầu bạn với ta lâu như vậy, bọn chúng đều là bảo bối yêu của nương nương, sau này ta đi rồi sẽ không gặp lại chúng nữa.

Đường Nhất Tiên buồn bã ngước nhìn những chiếc lồng chim muôn hình muôn vẻ; từng con chim đang nhảy nhót líu lo ríu rít trong lồng.

Chính Đức say mê nhìn nàng đi đến bên từng chiếc lồng chim đang treo, chốc chốc lại chúm môi lại huýt sáo. Tiếng huýt sáo phát ra nghe êm tai hệt như tiếng chim hót, khiến đám chim nhảy chồm về phía trước vui hót không ngừng. Hai má nàng đỏ bừng; má đào da ngọc, cặp mắt lanh lợi, quyến rũ không nói nên lời.

- Nè, Hoàng hiệu úy! Giúp ta mang nước lại đây.

Như nhận được chiếu chỉ, Chính Đức liền vội xắn tay áo chạy đến góc tường xách một thùng nước to vui sướng mang lại cho Đường Nhất Tiên.

Đường Nhất Tiên ngoái đầu lại nhìn, thấy vậy thì bật phì cười, mắng:

- Ngươi thật là ngốc! Thật không biết sợi thần kinh nào của biểu ca bị bất thường nữa mà lại để cái tên ngốc nhà ngươi làm thị vệ. Mấy con chim này cộng lại cũng uống không hết một gầu nước, sao ngươi xách cả thùng qua đây làm gì?

Chính Đức cười ngây ngô mấy tiếng, chỉ cảm thấy người con gái này khi cáu gắt cũng có vẻ phong tình khác lạ, thế là hắn càng cảm thấy yêu thương hơn. Trong vườn thượng uyển của hoàng cung, hắn suốt ngày sinh sống trong ổ của đám nữ nhân, ngay cả lúc đi ngoài cũng có cung nữ xinh đẹp hầu hạ. Hắn lớn đến chừng này, ngoại trừ thái giám thì gặp nữ nhân là nhiều nhất; thái giám và nữ nhân vây quanh hắn thường xuyên như việc mặc quần áo mỗi ngày vậy. Hắn cũng đã quen đối xử với đám người đấy như một vật trang trí rồi.

Nhưng Đường Nhất Tiên lại tạo cho hắn một cảm giác hoàn toàn khác biệt. Ở trước mặt nàng hắn không cần phải giả đò ra vẻ cao quí, cả người thoải mái thong dong. Trong thâm cung đại viện, bề ngoài thì hắn luôn vui đùa không nghỉ, song khi tuổi tác lớn dần, hắn cũng thường xuyên cảm thấy rất ức chế và cô đơn.

Mỗi khi trên trời có chim ưng hay hồng nhạn bay qua, hắn liền bó tay vào tay áo mà ngữa đầu ngước nhìn bầu trời, ánh mắt dõi theo thật xa. Hắn vừa nhìn vừa hâm mộ, mãi đến khi không thấy bóng dáng con chim ấy đâu nữa. Mặt trời lặn trên sông dài, cuối thu giữa đại mạc,... thật là thong dong biết bao,... còn trong tòa nhà to lớn, quanh co và hùng vĩ ấy, khắp chỗ đều là những cấm kị và lễ nghi; Hoàng đế còn không bằng cả một con chim tự do.

Đường Nhất Tiên trông bộ dạng lóng ngóng tay chân của hắn thì cười bảo:

- Xem ngươi kìa, sao giống như thường ngày không phải làm gì hết vậy?

Chính Đức liền đáp:

- Đúng đó! Từ nhỏ tôi ở trong một căn nhà lớn ơi là lớn, chỗ đó không cho đi lại, suốt ngày bị nhốt bên trong, quy củ nhiều ơi là nhiều. Mãi đến khi gặp được Dương... đại nhân, tôi mới được ra ngoài mở mang kiến thức.

- Ồ? Nghe ra vẻ ngươi còn là con cháu thế gia vọng tộc à?

Đường Nhất Tiên khẽ nhíu đôi mày thanh tú, đưa tay vin đầu như có điều suy nghĩ

- Ta nhớ... nhớ lúc nhỏ cũng ở trong một căn nhà lớn. Cả ngày ở đó cũng không được đi đâu, hàng ngày đều bị nhốt ở trong đó, chỉ có thể ngẩng đầu ngước lên nhìn một mảnh trời, bị nhốt đến mụ mị cả người. Lạ thật, sao ta lại có cảm giác này nhỉ?

Cặp con mắt Chính Đức sáng ngời:

- Vậy sao? Hoá ra cô và tôi đều thê thảm như nhau. Nhưng mà tôi thực sự đáng thương hơn cô nhiều! Chẳng những bọn họ không cho tôi ra ngoài, mỗi ngày còn bắt tôi học này học nọ, mặc kệ tôi thích hay không, luôn ép tôi phải học...

Đường Nhất Tiên chợt vỗ tay la lên:

- Ta nhớ ra rồi! Ta cũng vậy đó, thứ gì cũng phải học, ăn thế như nào, mặc ra làm sao, đi đứng phải thế nào, hệt như con rối vải mặc cho người ta đưa đẩy vậy. Còn phải học nào là cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, rất là chán, ta lại không được đi thi Trạng Nguyên... Ui da, lại nhức đầu rồi. Ta chỉ có thể nhớ bấy nhiêu.

Chính Đức hào hứng nói theo:

- Đúng đó, tôi cũng vậy! Tôi thì lại không muốn thi Trạng Nguyên, học nhiều như vậy để làm gì, nhức đầu lắm!

Hắn càng nói chuyện càng thấy ăn ý, cảm thấy tri âm trong thiên hạ chỉ có Nhất Tiên cô nương mà thôi. Đoạn hắn ngẫm nghĩ, thấy nỗi khổ của một người đường đường làm vua như mình thế mà lại giống nỗi đau của một người kỹ nữ được thanh lâu bồi dưỡng để lấy sắc mua vui đến thế, thì lại cảm thấy dở khóc dở cười.

Đường Nhất Tiên nghe xong thì bật cười, liếc nhìn hắn mỉm cười bảo:

- Này tên lười! Ta là nữ nhân mà, đương nhiên không cần thi Trạng Nguyên. Ngươi là nam nhân, đáng ra nên đọc sách cho tốt. Thấy chưa, không lo đọc sách cho tốt, giờ chỉ có thể làm thị vệ mà thôi.

Chính Đức cười khan hai tiếng rồi rờ mũi nói:

- Như vậy càng tốt, tự do tự tại. Làm trạng nguyên có gì hay chứ? Nhiều quy củ, lắm lễ nghi. Chậc, cô không biết đâu, cả ngày phải nói những lời giả dối với rất nhiều người, nghĩ một đằng nói một nẻo, giả vờ giả vịt, cho dù trong lòng không vui cũng phải ngoác miệng mà cười...

Đường Nhất Tiên kinh ngạc:

- Thật đó! Ngươi nói như vậy ta mới nhớ, hình như ta cũng vậy...

Vừa nói đến đây, nàng chợt biến sắc hỏi:

- Tại sao lại có những chuyện này? Có phải là biểu ca của ta đối xử với ta không tốt?

Chính Đức liền vội đáp:

- Không đâu, không đâu! Dương đại nhân rất yêu thương cô, những chuyện đó nhất định là xảy ra khi cô còn rất nhỏ, lúc cô còn ở trong nhà mình rồi.

Đường Nhất Tiên nghiêng đầu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu hài lòng:

- Ừm! Có lý, hình như là chuyện lúc ta còn rất nhỏ. Đúng rồi, ngươi nói cho ta biết trước biểu ca ta bao nhiêu tuổi, diện mạo thế nào đi. Hình như ta có một ít ấn tượng về anh ấy.

- Dương đại nhân ấy à?

Chính Đức ưỡn ngực, vuốt lại vạt áo, nghiêm mặt nói:

- Y năm nay mới tròn hai mươi, anh tuấn bất phàm, phong lưu lịch lãm, khí vũ hiên ngang, phong lưu phóng khoáng,... Đại để cô thấy bộ dáng tôi thế nào thì đại khái có thể tưởng tượng được bảy tám phần rồi đó. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực bên cạnh Hoàng thượng, mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng...

*****

Vào lúc này, vị Dương Lăng Dương đại khâm sai "mưu sâu kế rộng, cơ mưu nhanh nhạy, gặp loạn không hoảng, rất có phong độ đại tướng" trong miệng Chính Đức đang bị Dương Đình Hoà, Hồ Toản và vị tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ mà ban đầu y không nhận biết xô đẩy đánh đập mắng chửi trong điện Cẩn Đức, bộ dạng nhếch nhác khôn thôi. Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đứng một bên, mặt mày khó xử, cũng không biết nên khuyên ai cho phải.

Trương Vĩnh cũng biết võ, trong lúc hỗn loạn không biết bị ai đạp cho một phát nên lão định xông lên báo thù nhưng bị Đại vương gia quát bảo dừng lại, nên đành nhặt chiếc đai ngọc bị giật đứt từ dưới đất lên rồi căm tức đứng sang một bên.

Dương Lăng trẻ trung khoẻ mạnh, cộng thêm mấy ngày qua theo Ngũ Hán Siêu luyện tập võ công, được danh sư chỉ điểm cho nên y cũng biết chút kỹ xảo quyền cước thông thường. Nếu thực sự động thủ thì ba vị quan văn này cũng không phải đối thủ của y, nhưng mà người trẻ nhất trong ba vị này cũng đã bốn lăm bốn sáu tuổi rồi, sao y dám ra tay?!

Lần trước Dương Đình Hoà bị cái gã Lưu Đại Bổng Chùy của y lỗ mãng đánh gãy chân ngựa, đành đưa hai vị "thầy đồ" lo lắng ủ rũ trở về kinh thành. Lão lại bị ba vị đại mẫu nghi thiên hạ già lớn trẻ trách mắng cho một chập, thế là bèn vác một bụng tức khí đến bộ Binh, lấy giấy thông quan cho phép vượt quan ải, tiện đường qua Tuyên Phủ lại mang theo cả vị tiến sĩ đồng khoa là tuần phủ Tuyên Phủ Uông Dĩ Hiếu đi cùng.

Trước tiên lão bí mật gặp mặt Đại vương, nói rõ ngọn ngành việc Hoàng đế bí mật đến Đại Đồng, định tập hợp sức mạnh của chúng quan để đàn áp thói kiêu ngạo của Dương Lăng. Chính Đức đến được Đại Đồng đều là do Dương Lăng xúi bẩy, nếu như y cũng thay đổi ý kiến, chịu khuyên nhủ Hoàng đế hồi kinh thì Dương Đình Hoà cũng sẽ chẳng thèm so đo mối hiềm khích đánh gãy chân ngựa với y nữa.

Ai dè sau khi Dương Đình Hoà trần tình, thuyết phục hết nước hết cái mục đích đến đây của mình rồi, Trương Vĩnh lại bước lên. Trước tiên, lão phán một câu "Hoàng thượng có chỉ, nô tài không dám không theo", sau lại một câu "dưới khắp gầm trời không chỗ nào không phải là đất của nhà vua", rằng Hoàng thượng tuần tra xem xét giang sơn cũng là việc thiên kinh địa nghĩa, vừa nói vừa cười toe toét, đùn đẩy hết mọi thứ sang cho Hoàng thượng, hoàn toàn không hề nhượng bộ.

Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ nghe xong thì nổi giận đùng đùng. Lão không ở trong kinh thành, Trương Vĩnh lại mới nhậm chức đề đốc Kinh doanh mới được mấy tháng, tính tình lại không hống hách như Lưu Cẩn, nói một cách tương đối thì lão ta khá là khiêm nhường, cho nên Uông Dĩ Hiếu không biết sự lợi hại của lão. Thế là Uông tuần phủ bèn xông lên phía trước mắng cho một câu:

- Bề tôi chúng tao trực ngôn khuyên can báo quốc, cái tên hoạn mày nhiều chuyện cái gì?

Dứt lời liền cho mặt Trương Vĩnh ăn một quả đấm già.

Trương Vĩnh nào chịu bỏ qua, thế là hai người tức thì túm lấy nhau mà đấm đá. Dương Lăng vốn định nhẫn nhịn để đặng yên thân, tính bước lên khuyên giải cùng đám người Dương Đình Hoà, nào ngờ hai bên đều ôm đầy bụng lửa giận, chưa nói được mấy câu thì cũng đã lao vào tham chiến.

Đại vương giận đến run rẩy chòm râu, mắt trợn trừng. Lão sớm nghe kể quan viên kinh sư được Hoằng Trị lão gia tử nuông chiều đến độ hồ đồ, hở một tí lại xúm vào diễn vai võ phụ(*) trên triều đình, Lý Đông Dường còn từng giật lấy kim qua của võ sĩ mà rượt đánh Thọ Ninh Hầu trên kim điện. Chuyện này truyền đến kẻ sĩ trong dân gian lại được đám người đọc sách xem đó là giai thoại đáng được ca tụng mà cổ vũ cho cái tập tục đó. Nay xem ra quả nhiên là đúng thật. (*: vai quần chúng đánh nhau trong kịch)

Đại vương quát to:

- Lẽ nào lại vô lý như thế? Tất cả hãy dừng tay lại cho bản vương! Các ngươi đều là quan lớn nhất phẩm nhị phẩm của triều đình, nay ra tay đánh nhau ở đây thì còn ra thể thống gì nữa?

Tuần phủ Uông Dĩ Hiếu của Tuyên Phủ chắp tay thưa với Đại vương:

- Vương gia! Hoàng thượng mới kế vị ngôi vua, chưa con nối dõi, thân quý nghìn vàng sao có thể xem nhẹ mà dấn thân vào nơi nguy hiểm? Trước kia cho dù thiên tử ở tại cấm cung, bốn phía cũng vẫn được canh gác cẩn mật. Dương Lăng luôn miệng vì xã tắc giang sơn, song lại coi Hoàng thượng như quân cờ của hắn, dẫn bừa đến vùng đất đao thương này. Ngộ nhỡ xảy ra bất trắc gì, cái họa người đánh chùy ở bãi Bác Lãng hãy còn đó, hạ quan sao có thể không lo như có lửa đốt trong lòng?

Hôm đó Hồ Toản ở thế bị Hoàng đế và Dương Lăng ép buộc nên không thể không ngầm bằng lòng cho vua đến Đại Đồng, nhưng trong lòng vẫn hết mực phản đối chuyện này. Nay có chỗ dựa lớn là Dương Đình Hoà nên đương nhiên lão cũng muốn khuyên nhủ Hoàng thượng sớm ngày hồi kinh.

Lão giũ giũ chiếc quan bào nhăn dúm dó, cũng không thèm nhặt chiếc cánh chuồn bị vặt đứt vứt lăn lốc trên mặt đất, chỉ đội chiếc mũ một cánh mà thưa với Đại vương:

- Vẫn mong vương gia làm chủ chuyện này. Hoàng thượng là thiên hạ chí tôn, đáng nên chuộng chánh học, thạo ngôn lộ, giữ danh hiệu, cai vui chơi, bỏ tiểu nhân, tường kẻ nghịch; làm cả sáu điều thì mới có thể ngăn họa, mới có thể dẹp loạn vậy. Thay vì dấn thân tôn quý vào chốn hiểm nguy, chi bằng chuộng tích đức, dưỡng nhân tâm, thì mới rũ tay không làm mà vẫn yên trị.

Ở đây Đại vương có thân phận cao nhất, nhưng bởi thế lão nói chuyện càng phải kiêng dè nhất, không thể ăn ngay nói thẳng như mấy ngoại thần này. Lão là người trong hoàng tộc, nếu can thiệp vào quá sâu sẽ khó tránh bị Hoàng đế kiêng kị, song nếu bỏ mặc bàng quang, lỡ mà thật sự Hoàng thượng xảy ra chuyện gì trên đất của lão thì khi đó lão có muốn khóc cũng sẽ không kịp nữa.

Đại vương bèn ho khan mấy tiếng, vừa định trù liệu chút lời mềm mỏng để khuyên nhủ hai vị khâm sai, thì Dương Lăng đã cười khẩy nói:

- Dưỡng nhân tâm? Dưỡng nhân tâm như thế nào? Cái kiểu dưỡng nhân tâm giống như Lưu A Đẩu vui quên nước Thục đấy ư? Hay là dưỡng nhân tâm như Lý Hậu Chủ vui vầy với trăng hoa gió tuyết? Hai kẻ nhu nhược đó dưỡng nhân tâm đến mất cả nước đó!

Giặc mạnh ở ngay sát bên người, thiên tử không biết việc quân, không thạo việc võ, liệu có được không? Hoàng đế giặc Thát thì ở ngoài Trường Thành cưỡi ngựa bắn tên, dẫn đại quân tác chiến, thiên tử chúng ta hiện còn ở trong thành Đại Đồng mà các người đã run rẩy sợ hãi, đó là trung ái hay là chiều hỏng?

Uông Dĩ Hiếu cố cưỡng từ đoạt lý:

- Đại Minh ta quốc thái dân an, ca múa thanh bình, một đám rợ Hồ không biết nông canh ngẫu nhiên vượt qua biên cảnh mà là họa tâm phúc cái gì? Nó chỉ là mụn ghẻ, hà tất vì mong kết đồng minh mà Hoàng thượng phải hạ thấp thân phận đi đến biên thùy!

Lời này nói ra khiến Hồ Toản và Dương Đình Hoà không khỏi thoáng nóng mặt, cảm thấy có phần thẹn với lòng. Dương Lăng nghe xong thì cười lớn hai tiếng, đáp trả:

- Mụn ghẻ? Nói chi xa, chỉ nói mấy năm gần đây, năm Hoằng Trị thứ bảy, Thát Đát quấy nhiễu Tuyên Phủ, vây Xích thành, sát hại hàng trăm bá tánh, toàn bộ dân chúng trấn Phụng Nghĩa đều bị giết sạch.

Năm Hoằng Trị thứ tám, Thát Đát tập kích Ứng châu, cướp đi hơn ba trăm đinh tráng.

Năm Hoằng Trị thứ chín, chúng tấn công Kế châu, thiêu hủy hết hoa màu và rừng cây ngoài thành, phụ nữ bị bắt có đến chín trăm.

Năm thứ mười, chúng xâm lược Túc châu, Cam châu, lừa ngựa bò dê bị cướp có mấy nghìn, hơn năm trăm đinh tráng và phụ nữ bị bắt, người già trẻ nhỏ bị giết có gần ba nghìn, thây chất đầy đồng, nước xanh hoá đỏ. Cùng năm đó, chúng cướp Úy châu, thiêu rụi hơn nghìn thôn làng, nạn dân vô số.

Năm thứ mười hai...

Năm thứ mười ba...

Mặt Uông Dĩ Hiếu trắng bệch, mồ hôi túa ra đầm đìa. Thát Đát xâm lược biên cương là chuyện năm nào cũng có, hơn nữa năm sau luôn hung hãn hơn năm trước. Bò ngựa và phụ nữ bị chúng bắt đi cũng mỗi năm một nhiều hơn, quan binh bị giết hại cũng từ mấy trăm lên đến hàng nghìn, hàng vạn. Rõ ràng thế lực Thát Đát càng lúc càng lớn, thế mà lại trợn mắt nói mò, hồ đồ nói rằng bọn chúng bất quá chỉ là mụn ghẻ, sao mà chính mình lại cứ nhai nhải mãi như thế?

Trong lúc đó Dương Lăng vẫn chưa tha:

- Năm thứ mười bảy, Thát Đát tấn công Vạn Toàn vệ, Bạch Dương khẩu, Ninh Vũ quan và Hoa Mã trì, quân sĩ chết hơn mấy nghìn. Giặc Thát lại tập kích Tuyên Phủ, Đại Đồng, quân tiên phong vào đến sát kinh đô và vùng lân cận, giết hại và cướp mất vô số dân chúng và bò dê. Mà năm nay, chúng lại xua bảy vạn quân thiết kỵ, ồ ạt kéo sang xâm lược. Uông tuần phủ, những chuyện mà ông nhìn như không thấy này, chẳng lẽ không phải hại nước hại dân?

Dương Nhất Thanh thấy sắc mặt đám người Hồ Toản tím tái, bèn thở dài một hơi, mở lời hoà giải:

- Dương đại nhân! Ý của các vị đại học sĩ đây là Hoàng thượng là chủ của tông miếu xã tắc, nên coi nhẹ việc chinh phạt, mà xem trọng xã tắc. Ngự giá thân chinh là chuyện rất không ổn thỏa.

Dương Lăng biết vị Dương tổng chế này trong lòng tán thành việc Hoàng đế ra mặt kết minh với Đoá Nhan Tam Vệ cùng phân hoá và làm tan rã thế lực Thát Đát. Hơn nữa hắn cũng thấy được lợi ích về lâu dài trong đó.

Nhất là Dương Nhất Thanh đã dùng một kế cực kỳ hiểm độc, phái một cánh quân đơn độc theo kế sách "gậy ông đập lưng ông" lẻn vào đất giặc. Giặc Thát không có thành cao tường vững để thủ, không có trăm vạn sĩ tốt để cậy nhờ, một khi bị người khác xâm nhập vào ngôi nhà không được phòng vệ, thiệt hại của chúng sẽ hơn xa dân chúng Đại Minh.

Hắn kìm chân Bá Nhan ở biên quan, tiêu hao lương thảo và binh mã bọn chúng, lại dựa theo kế sách của mình mà phân hoá quan hệ giữa Bá Nhan và Hỏa Sư. Chính quyền người Thát Đát như tuyết lạnh thêm sương, trải qua một cuộc chiến này nhất định sẽ đại thương nguyên khí. Lúc này việc kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ sẽ càng tỏ rõ tầm quan trọng của nó: có sự khống chế và phối hợp của bọn họ, Thát Đát sẽ suy yếu dần mà không có cơ hội và thời gian để khôi phục nguyên khí. Tầm quan trọng sâu xa của nó quả thực hấp dẫn vô cùng, vì vậy rất đáng để mạo hiểm.

Từ điểm này có thể suy ra Dương Nhất Thanh đang đứng về phía y. Có điều hắn là người thuộc phe Lý Đông Dương, mà lúc này Dương Đình Hoà đang đại diện cho ba đại học sĩ đến khuyên bảo Hoàng đế hồi kinh, cho nên hắn không tiện công khai đứng ra bày tỏ thái độ cá nhân mà thôi.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng dịu giọng lại, như thể nói chuyện với Dương Nhất Thanh nhưng thật ra là nói với đám người Dương Đình Hoà:

- Vương gia, các vị đại nhân! Vừa rồi hạ quan đã nói rõ tầm quan trọng của việc Hoàng thượng đến đây. Hoàng thượng năm nay mười sáu, có trải luyện nhiều một chút mới có thể trở thành minh quân thiên cổ.

Phàm là minh quân, có ai mà sợ chiến sự? Hán Cao Tổ ngự giá thân chinh dẹp loạn Trần Hi, Anh Bố. Đường Thái Tông ngự giá thân chinh chế ngự Cao Ly. Hồng Vũ của bản triều bắt Trương Sĩ Thành, diệt Trần Hữu Lượng, có lần nào mà không ngự giá thân chinh? Càng không nói đến việc Vĩnh Nhạc Hoàng đế tự mình năm lần chinh phạt đại mạc phương bắc.

Giờ đây thiên tử tự đến biên ải chỉ là để bày tỏ thành ý với Đoá Nhan Tam Vệ. Nếu không làm vậy, đừng nói gì đến hùng tài đại lược; nếu quan binh chỉ rút cổ sau Trường Thành mà lấy đó là sự quang vinh, Hoàng thượng trốn chui ở Tử Cấm Thành lại coi đó là lẽ phải, thì sao xứng danh minh chủ muôn đời?

Y chậm rãi thở ra một hơi, thành khẩn nói tiếp:

- Vương gia và các vị đại nhân lo cho an nguy của Hoàng thượng, hạ quan sáng tỏ trong lòng. Đợi khi nhận được thư hồi âm của Hoa Đáng rồi, tại hạ nhất định sẽ đích thân đến Bạch Đăng sơn dò thám địa hình, bày quân ổn thoả, đảm bảo cho sự an toàn của Hoàng thượng. Mong các vị đại nhân hãy giúp Hoàng thượng hoàn thành một mảnh hùng tâm này.

Dứt lời Dương Lăng vái Đại vương và mấy người Dương Đình Hoà một vái thật dài. Mấy vị này nghe xong thì đưa mắt nhìn nhau. Dương Nhất Thanh và Hồ Toản thì hơi động lòng, Dương Đình Hoà lộ thần sắc do dự, Đại vương lại có vẻ trầm tư, chỉ riêng Uông Dĩ Hiếu vẫn trợn trừng đôi mắt dữ.

Nếu kết minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ mà Hoàng đế dẫn theo mười vạn đại quân, tiền hô hậu ủng, cuồn cuộn ngút trời, cách Đại Đồng chỉ hơn mười dặm, thì đương nhiên bọn họ sẽ không thèm sợ quân Thát Đát đến tập kích. Khó là khó ở chỗ các tướng giữ biên ải đã nhiều lần thất tín với Đoá Nhan Tam Vệ lắm rồi, tín nghĩa và danh dự của Đại Minh hầu như chẳng còn sót lại chút gì trong mắt Bá Nhan Tam Vệ. Nếu tụ tập đại quân, Hoa Đáng và thủ lĩnh các bộ lạc dám đến gặp hắn sao?

Còn muốn Đoá Nhan Tam Vệ cũng mang theo vài vạn nhân mã? Một là bọn họ không có nhiều tinh binh đến như vậy, hai là dọc đường ắt sẽ khó giấu được tai mắt của Thát Đát; cho nên binh sĩ mang theo tuyệt không thể quá nhiều. Năm nghìn quan binh mà quân Minh có thể điều động lên núi đã là cực hạn để Đoá Nhan Tam Vệ không nảy lòng e dè mà bỏ kết minh.

Nhưng năm nghìn quan binh thì chẳng chống chọi nổi được bao lâu với đại quân Thát Đát. Chẳng trách bọn họ lo lắng như vậy.

Trong điện yên tĩnh đến độ có thể nghe rõ tiếng kim rơi. Dương Đình Hoà trầm ngâm hồi lâu, đột nhiên trợn trừng mắt quát:

- Dương Lăng! Nếu Hoàng thượng xảy ra chút ít bất trắc gì thì ngươi đừng trách bản quan không nể tình riêng mà xin ý chỉ diệt cửu tộc ngươi đó!

Lời lẽ nghiêm khắc, song ý tứ trong đó đã chính thức đồng ý với chuyến đi Đại Đồng của Hoàng đế. Dương Lăng nghe xong nhẹ nhõm cả người, trên mặt không khỏi lộ nét vui mừng. Đúng vào lúc này, bên ngoài chợt có một tiếng gọi vào nho nhỏ:

- Vương gia, giờ lành làm lễ đã đến, mời ngài đến điện Ngân An làm lễ.

Chú thích:

hình thức diễn xuất lấy hát làm chính, đệm bằng trống và phách, chuyên diễn các tích của đạo giáo

xem tích Trương Lương và người lực sĩ cầm chùy hành thích Tần Thủy Hoàng ở bãi cát Bác Lãng.

học thuyết được cho là phù hợp với "chánh đạo". Vào thời Tây Hán, Hán Vũ đế đã ra lệnh dẹp bỏ học thuật của nhiều nhà, tôn sùng mỗi học thuật Nho gia (bãi truất bách gia, độc tôn nho thuật), từ đó coi Nho học là chánh học.

lắng nghe lời phê bình và kiến nghị

Hán Thục sau khi bị diệt vong, hậu chủ là Lưu Thiện bị giam lỏng trong kinh thành Lạc Dương của Ngụy. Một hôm, Tư Mã Chiêu dò hỏi ông ta có nhớ Tây Thục không, Lưu Thiện đáp rằng:"Ở đây vui lắm, không nhớ gì Thục nữa".

Lý hậu chủ Lý Dực người nhân hậu và khá nhu nhược. Ông thường bị anh Lý Hoằng Ký đố kỵ truy sát, phải trốn chạy nhiều lần, do đó ông tỏ ra không quan tâm đến chính trị, không muốn tranh chấp. Hằng ngày, Tòng Gia dành phần lớn thời gian ngao du sơn thủy và hoạt động nghệ thuật.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 194: Hoa đáng đến rồi

Trên điện Ngân An, các vị đại nhân rành nhìn sắc diện phát hiện thấy vẻ mặt của hai vị khâm sai, hai vị tuần phủ và cả Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang đứng hàng đầu rất xấu, ngay cả Đại vương thiên tuế trông thấy vị tân nương mười sáu mười bảy thướt tha cũng dường như không cao hứng lắm. Mấy quan lớn địa phương này không biết chuyện gì đã xảy ra, ai nấy đều cẩn thận không dám to tiếng nói cười.

Vương gia nạp phi khác hẳn người thường cưới vợ, nghi thức lại gần giống như là quan viên nhậm chức vậy. Đầu tiên tổng quản thái giám tuyên đọc thánh chỉ của Hoàng thượng, tờ thánh chỉ này là do Dương Đình Hoà thảo ra, Chính Đức chỉ việc đóng kim ấn lên mà thôi. Có điều vị đại học sĩ làm văn hộ người khác này lại không lộ diện. Mặc dù lão không giấu giếm việc mình đến Đại Đồng, nhưng kẻ biết tin cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay, vì lẽ đó nên lão tránh mặt ở hậu điện.

Hoàng thượng cũng đã đến Đại Đồng, trừ phi ngài tự nguyện trở về, bằng không sẽ không thể trói gô ngài lôi về được. Dương Lăng không chịu phối hợp nên lão cũng không còn cách nào khác đành ngồi trong hậu điện khổ sở suy nghĩ mãi. Dương Đình Hoà vẫn chưa nghĩ ra được phương cách gì thì đã nghe trên điện Ngân An tấu lên tiếng nhạc cung đình hân hoan, lão chỉ biết lắc đầu cười khổ.

Cử xong đại lễ nạp phi rườm rà, bái lạy Vương gia và Vương phi xong, được sự gợi ý của vương gia, tân nương chậm rãi đi đến, tay ôm tước ngọc(*), kính rượu hai vị khâm sai. Tuy đối với vương gia, phẩm hàm của bọn họ không tính là cao nhưng họ đã cầm thẻ bài phụng chỉ tuần biên thì vương gia cũng không thể thất lễ trước mặt hai người này. Cũng không phải là Đại vương kính trọng bọn họ, mà là cung kính Hoàng đế sau lưng bọn họ mà thôi. (*: chén uống rượu ba chân bằng ngọc)

Trắc vương phi tên là Trác Đình, dáng người thon gầy, vận áo dài đỏ, khăn quàng vai, đầu đội mũ phượng, rèm châu đong đưa trước khuôn mặt xinh xắn nhưng lại không đeo khăn trùm mặt. Dáng người cô nàng mềm mại lả lướt, tuổi tuy chỉ mười sáu mười bảy song lại chất chứa muôn vẻ phong tình, có đủ ý vị, trông thanh nhã thoát tục, tự nhiên trang nhã, dịu dàng thanh tú, rất khác với con gái trong đất liền. Khó trách Đại vương lại ưu ái cô nàng như vậy, đã bỏ công xin chỉ ban cho nàng ta danh phận trắc phi.

Trắc vương phi kính rượu khâm sai xong, lại nhận rượu kính của quan viên văn võ, rồi dìu vương phi nương nương trở về hậu điện. Tiệc rượu được bày ra, các quan viên bắt đầu ăn uống linh đình, lúc này không khí mới trở nên sôi nổi.

Hai vị tuần phủ Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu nâng chén kính rượu Đại ương gia, xong lại sánh vai đến bàn của Dương Nhất Thanh, Dương Lăng và Trương Vĩnh, tươi cười nói:

- Chưa hết tháng giêng mà hai vị khâm sai đại nhân đã phải đi xa đến Đại Đồng thay vua tuần thú, tuy vất vả nhưng công lao to lớn. Dương tổng chế đích thân ra trận, dụng binh như thần, khiến cho đầu lĩnh quân giặc là Bá Nhan liên tiếp thất bại. Trăm họ Tuyên Phủ Đại Đồng có thể được bình yên đều nhờ các tướng sĩ quên mình phục vụ. Quan viên địa phương chúng ta đáng nên kính các vị đại nhân một chén, tỏ chút lòng ngưỡng mộ vậy, nhé? Ha ha ha...

Các quan viên nghe vậy liền đồng loạt nâng chén ủng hộ:

- Đúng thế! Đúng thế! Chúng tôi kính hai vị khâm sai, kính Dương tổng chế, mời ba vị đại nhân uống cạn chén này.

Dương Nhất Thanh mặt mày rạng rỡ cười đáp:

- Nào dám nào dám! Nói đến việc Dương mỗ phụng mệnh trấn thủ tam quan thì từ nay về sau cũng sẽ là tướng thủ Đại Đồng, là thuộc hạ của Đại vương thiên tuế, đáng nên cùng các vị đại nhân kính hai vị khâm sai, chúc Hoàng thượng chúng ta thiên thu vạn tuế, vận nước thiên hạ Đại Minh được hưng thịnh.

Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đều mỉm cười, như thể hoàn toàn không có can hệ gì với mấy kẻ hồi nãy xúm lại đánh Dương Lăng và Trương Vĩnh ở hậu điện vậy. Dương Lăng và Trương Vĩnh đưa mắt nhìn nhau cười khổ một tiếng, liền cũng vội trương bộ mặt cười vờ vịt, nâng chén đáp lại.

Quan viên văn võ kính rượu vương gia xong thì phải kính rượu hai vị khâm sai và ba vị văn võ biên quan có phẩm hàm cao nhất. Loại thù tạc quan trường này tuy nhàm chán, nhưng là chuyện nể mặt nể mũi, vì vậy hai người Dương Lăng cũng chỉ có thể tươi cười mà bồi tiếp.

Qua ba tuần rượu, một vị thái giám vương phủ lặng lẽ đi vào ghé tai nói mấy câu với Đại vương. Đại vương gật đầu, tên thái giám đó liền đi về phía Dương Lăng, ghé tai nói nhỏ:

- Khâm sai đại nhân, thống lĩnh thị vệ của ngài có chuyện quan trọng muốn bẩm.

Dương Lăng hơi ngẩn người. Tuy đội nghi trượng thị vệ y mang theo gồm ba trăm người, song được vào vương phủ lại chỉ có mười hai, ở đâu ra thống lĩnh thị vệ? Nếu có thể ra lệnh cho đám đại nội thị vệ này như thế thì cũng chỉ có thể chính là hoàng đế Chính Đức mà thôi. Y bèn đứng dậy cáo lỗi với vương gia rồi vội vã bước ra ngoài.

Đám người Đại vương tuy biết Chính Đức đang ở trong quân, nhưng có nghĩ tét đầu cũng không tưởng tượng ra Chính Đức đường đường là thiên tử sẽ lại cải trang thành thị vệ theo hầu Dương Lăng đi dự tiệc, hơn nữa còn ở một mình chung với đám hạ nhân, tạp dịch, gia bộc và thân binh ở ngoại điện nữa.

Cho dù là Hồ Toản từng tận mắt gặp Chính Đức vận trang phục thị vệ thì cũng chỉ nghĩ đó là trang phục nhằm che tai mắt trên đường. Lão không tin hoàng đế Chính Đức là con rồng cháu phượng hậu duệ của thiên hoàng sẽ cứ mặc đồ sĩ tốt thấp hèn mãi, càng không ngờ Dương Lăng dám đại nghịch bất đạo đẩy Hoàng thượng xuống địa vị thấp như vậy, cho nên mấy người bọn họ không chút nghi ngờ.

Dương Lăng đi cùng tên thái giám đó ra khỏi điện Ngân An, qua hàng loạt cánh cổng cùng hàng hàng lớp lớp căn nhà mới đến ngoài cổng Thừa Vận. Quả nhiên y trông thấy Chính Đức đang cùng hai tay thị vệ đứng trước cổng, hai mắt sáng ngời, mặt mày đỏ au, chừng như đã uống rất nhiều rượu.

Dương Lăng mỉm cười khách sáo với viên thái giám nọ, nói khéo:

- Đã làm phiền công công rồi! Còn xin công công đợi tạm ở chỗ này, bản quan ra ngoài một chốc.

Dương Lăng ra khỏi cổng điện, vòng ra sau cây cột cạnh cổng. Chính Đức liền nắm lấy tay y lắc lấy lắc để, giọng run rẩy vì hào hứng:

- Dương thị độc, trẫm không mơ, trẫm đã gặp được nàng ấy rồi. Ha ha ha, trẫm thật vui.

Dương Lăng thấy mặt hắn đỏ au lại nói chuyện không đầu không đuôi, liền vội đảo mắt nhìn quanh, thấy không ai chú ý mới ngạc nhiên hỏi:

- Hoàng thượng đã uống say rồi à? Ngài đã gặp được ai mà vui như vậy?

Chính Đức mặt mày hớn hở, cười toe toét nói:

- Đường Nhất Tiên! Trẫm đã gặp lại Đường Nhất Tiên! Nàng ấy đang ở trong vương phủ. "Vào cửa vương hầu sâu tựa biển", khó trách thám tử của khanh tìm khắp nơi đều không thấy nàng ấy.

Dương Lăng thoáng sững người, rồi cũng thoắt trở nên phấn chấn, giọng run rẩy:

- Đường Nhất Tiên? Cô ấy chưa chết sao? Cô ấy còn sống?

Dương Lăng nắm chặt tay Chính Đức, chợt nhắm mắt ngửa mặt lên trời, sau một hồi mới thở ra một hơi thật dài, giọng kích động:

- Cảm ơn trời đất! Cô ấy bình yên vô sự thì tốt rồi. Cô ấy đang ở đâu?

Dương Lăng vừa nói vừa đưa mắt tìm quanh. Ngày đó quen biết với Tô Tam, Đường Nhất Tiên và Tuyết Lý Mai ở Thì Hoa quán, chính nhờ vào mối quan hệ của Đường Nhất Tiên mà Mã Vĩnh Thành mới đem bạc tới để y chuộc thân cho ba vị cô nương, nhờ vậy mà Tô Tam và Tuyết Lý Mai mới trở thành ái thiếp nghĩa nặng tình thâm với y.

Mà vị tiểu cô nương Đường Nhất Tiên vì giúp y bảo vệ cuốn sổ làm bằng chứng phạm tội của Bào tham tướng lại bị người ta đánh ngã xuống vách núi, sống chết không rõ, khiến y vẫn cảm thấy hổ thẹn khôn thôi.

Đường Nhất Tiên chịu cảnh tai bay vạ gió đều do y mà ra. Trong khi ân nhân thật sự cứu vớt Đường Nhất Tiên ra khỏi chốn trăng hoa ấy lại là Chính Đức, còn bản thân y chưa hề bỏ ra công sức hay ơn huệ gì; ngược lại còn nhờ nàng hy sinh tính mạng mới bảo vệ được cuốn sổ ấy, nhờ có chứng cứ hùng hồn đó mà y đã lật đổ được Bào tham tướng, nhờ vào quan hệ của nàng ấy mà y mới có cơ duyên cưới được hai người con gái tư dung xinh đẹp, tính tình dễ thương là Tô Tam và Tuyết Lý Mai. Vì vậy mỗi lần nhớ tới cảnh ngộ bất hạnh của nàng, trong lòng Dương Lăng đều nặng như đeo đá, giờ nghe nói nàng không có chuyện gì, có thể tưởng tượng là y vui sướng lẫn kinh ngạc biết dường nào.

Chính Đức vội lo lắng bảo:

- Nói nhỏ chút đi! Nàng ấy đi gặp cha mẹ nuôi của mình rồi, chốc nữa dự xong tiệc khanh hãy đón nàng ấy về như thế nào? Nhưng mà... nàng ấy đã mắc phải chứng mất hồn rồi, có lẽ do lúc ngã từ trên vách núi xuống bị va đập, đã hoàn toàn quên hết những chuyện trước kia rồi.

Dương Lăng nghe vậy thì ngẩn người ra, cảm thấy hơi buồn. Y ngơ ngác hỏi:

- Mất... hồn? Mất trí nhớ sao? Sao lại như vậy được? Không còn nhớ bất cứ thứ gì ư? Vậy thần sẽ dẫn cô ấy về thế nào đây, mà cô ấy chịu tin lời Hoàng thượng à?

Chính Đức vò đầu cười gượng đáp:

- Việc đó... nàng ấy không tin trẫm lắm, còn nghĩ rằng trẫm là tên bịp. Đùi trẫm bị ăn một gậy chắc là bầm cả rồi.

Có điều nàng ấy không tin lời của một hiệu úy cỏn con như trẫm song lại không có lý do gì mà không tin lời của kẻ đường đường là Dương đại tướng quân, cho nên trẫm mới nói với nàng ấy rằng nàng là biểu muội của khanh, cha mẹ mất cả, từ nhỏ đã ở cùng với khanh. Chốc nữa gặp nàng ấy khanh vạn lần chớ nói toạc ra đấy. Đường cô nương đã quên những chuyện trước đây, trẫm... không muốn để nàng biết những quá khứ không vui đó.

Nói đến đoạn cuối sắc mặt Chính Đức trở nên hết sức chân thành, hết sức nghiêm túc, trong mắt có thứ gì đó sáng long lanh. Dương Lăng khẽ gật đầu rồi chợt vỗ nhẹ vai Chính Đức, tuy y không nói gì song khoé môi lại nở một nụ cười thấu hiểu.

Trên mái hiên nhà, gió thổi tuyết rơi, tuyết vẩy lên cổ nghe lành lạnh, hai người bọn họ lại cảm thấy ấm áp trong lòng. Nếu đám quan văn trong triều trông thấy cử chỉ kích động gần như vượt quá khuôn phép của Dương Lăng, chắc chắn sẽ khó tránh lại giống như lần trước Vương Quỳnh trông thấy Dương Lăng ngồi cùng với vua mà nổi cơn thịnh nộ. Nhưng Chính Đức lại chẳng hề để ý đến chuyện này, hắn đọc hiểu được vẻ tán thành và cảm kích trong mắt Dương Lăng, trong lòng không khỏi cảm thấy vui vẻ và sảng khoái vô cùng.

*****

- Biểu... biểu ca!

Đột nhiên có thêm một biểu ca vừa xa lạ vừa anh tuấn, Đường Nhất Tiên gọi mà vẫn có chút chưa quen, nên ngượng ngùng cùng bẽn lẽn, gò má cũng hơi ửng hồng.

- Sao? - Dương Lăng gò ngựa chậm lại, ngoái đầu nhìn Đường Nhất Tiên đang ngồi trong kiệu xe, mỉm cười dịu dàng - Có chuyện gì?

- Biểu ca, nhà chúng ta có lớn không? Biểu tẩu... có thích muội vào ở hay không?

Đường Nhất Tiên nhíu đôi mày xinh xắn lo lắng hỏi.

Dương Lăng cảm thấy buồn cười, song thấy Chính Đức đang đi cạnh y mỉm cười đưa mắt âu yếm nhìn Đường Nhất Tiên, y bèn đáp:

- Yên tâm đi! Biểu tẩu của muội rất tốt, hơn nữa... trước khi xảy ra chuyện cũng đã rất hoà thuận với muội rồi. Chừng gặp lại muội, không biết ba vị biểu tẩu của muội sẽ vui biết chừng nào đây?

- Oa! Ba vị biểu tẩu cơ à? - Đường Nhất Tiên giật mình lè lưỡi, cười dí dỏm - Biểu ca thật là lợi hại, ba vị chị dâu nhất định đều là đại mỹ nhân trong kinh sư phải không? Muội không nhớ nổi biểu ca, cũng không nhớ được các chị ấy, kinh sư có hình dáng thế nào muội cũng chẳng có ấn tượng gì cả.

Nàng tựa cằm vào cửa sổ xe ngẩn ngơ đưa mắt nhìn người đi đường trên phố, chợt hỏi:

- Biểu ca, cha mẹ ở đời ở kiếp tại nơi này, không nỡ rời xa thân bằng lão hữu, không muốn dọn đến kinh thành. Mấy ngày này... muội vẫn muốn thường xuyên đến thăm hai vị, có được không?

Chính Đức thấy nàng rụt rè xin ý kiến Dương Lăng, trong lòng rất đỗi lấy làm thương xót, liền thúc ngựa đến gần xe ngựa, vỗ ngực cao giọng cam đoan:

- Tiên Nhi cô nương, cô không cần lo lắng! Cô muốn về vương phủ, chỉ cần báo một tiếng, ta... thuộc hạ bảo hộ cô trở về là xong!

Đường Nhất Tiên lườm hắn, mắng:

- Không nói thì cũng không ai bảo ngươi câm đâu, chẳng biết cái gì cả! Nếu ta mà là biểu ca thì sẽ chẳng bao giờ cho ngươi làm thân binh, lo biết điều mà đi quét sân giữ cổng cho ta đi! Vương phủ là chỗ ngươi muốn vào thì vào à? Cho dù biểu ca là khâm sai cũng phải xin phép vương gia mới được, người ta lo là sẽ mang đến phiền phức cho biểu ca thôi.

Bị Đường Nhất Tiên mắng cho một trận trước mặt người khác, xương cốt Chính Đức tức thì nhẹ tênh, mặt mày hớn ha hớn hở như thể rất có tiềm chất khổ dâm!

Thấy Hoàng đế lão gia hứng chịu sỉ vả một cách sung sướng như vậy, bọn đại nội thị vệ liền tự giác vứt bỏ sứ mạng "bảo vệ an nguy cho Hoàng thượng, che chở tôn nghiêm của Thiên tử" sang một bên, rồi cứ thực hiện theo đúng nguyên tắc "không nhìn điều sai, không nghe lời tầm bậy", ai nấy cắm đầu đi nhanh, vờ như không thấy.

*****

Đường Nhất Tiên được thu xếp trọ ở nhà trên (phòng thượng hạng) của dịch quán. Thu xếp thoả đáng cho nàng xong, Dương Lăng lại chạy về thư phòng soạn một bức thư sai người đưa về kinh thành, một là để báo sớm cho bọn Ngọc Nhi cái tin mừng này, hai là để các cô chuẩn bị trước, tiện bề đón tiếp tiểu biểu muội về kinh.

Dương Đình Hoà bí mật đến gặp Chính Đức. Lão là thầy coi việc giảng sách cho Hoàng thượng nên vẫn được Chính Đức kính trọng vài phần. Hay tin lão đến, sợ rằng sẽ bị lão khuyên bảo mình trở về kinh thành, hắn bèn vội lôi hai ông thần giữ cửa của mình là Dương Lăng và Trương Vĩnh đứng sau lưng để thêm phần can đảm, rồi mới cho vời Dương Đình Hoà vào.

Dương Đình Hoa quen quan sát thời cơ, cân nhắc tình thế, tuy dám ra tay đánh đập Dương Lăng và Trương Vĩnh vì tội xúi giục Hoàng đế rời kinh, nhưng khi đối diện với Hoàng đế thì lão lại ẩn nhẫn và bền chí hơn Lý Đông Dương vài phần. Khi đến trước cửa thư phòng, nhìn thấy trận thế được bày sẵn ở bên trong lão liền biết rõ quyết tâm của Hoàng đế, thế là lão không nói những câu chữ đã chuẩn bị sẵn nữa, tránh rước vạ vào thân.

Dương Đình Hoa thuật lại một ượt tình hình sau khi Chính Đức rời kinh: trong cung đã phong tỏa tin tức nghiêm ngặt, mọi thái giám và cung nữ biết chuyện đều nhận được nghiêm lệnh ai dám đồn xằng chuyện Hoàng đế cải trang xuất kinh sẽ lập tức bị xử tội chết, cho nên tin tức vẫn chưa bị loan truyền ra ngoài. Ngoại trừ Lục Bộ Cửu Khanh và tam đại học sĩ, văn võ cả triều đều nghĩ rằng Hoàng đế đã mắc bệnh, không thể lâm triều.

Thế nhưng Hoàng đế không lâm triều xử lí chính vụ liên tiếp mười mấy ngày thì nào phải là chuyện đùa. Hoàng đế là vua một nước, thể chế triều đình không phải là chuyện giỡn chơi, mấy ý tưởng hoang đường như tìm người giả mạo hoặc nói dối rằng tấu chương Đại học sĩ phê duyệt là của Hoàng đế phê duyệt đều không thể dùng được.

Cho nên trong mắt bá quan, chắc chắn Hoàng đế đã mắc bệnh nặng đến nỗi không thể phê duyệt tấu chương; chỉ cần suy đoán bệnh tình Hoàng đế nghiêm trọng thế nào cũng đã đủ khiến lòng người hoảng sợ, dù là ba đại học sĩ cũng không cách nào ứng phó nổi việc ấy. Lúc tường thuật việc này với Chính Đức, Dương Đình Hoà không khỏi lộ vẻ khổ sở.

Chính Đức nhíu mày suy nghĩ một chút rồi phán:

- Nếu đã như vậy, khanh hãy chọn những tấu chương quan trọng nhất, hằng ngày đưa khoái mã chuyển đến cho trẫm, trẫm xem và phê duyệt xong sẽ lại chuyển về kinh. Về đối ngoại thì cứ bảo trẫm đang khỏi dần, có điều vẫn chưa thể ra nắng gió nên chưa thể lâm triều, thiết nghĩ có thể ổn định lòng dân một chút vậy.

Dương Đình Hoà thở dài bảo:

- Kế này... cũng chỉ đành vậy!

Lão buồn lòng lo lắng đứng dậy tâu tiếp:

- Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và Hoàng hậu nương nương rất mong nhớ Hoàng thượng, Lục Bộ Cửu Khanh cũng đang ngóng tin ngài! Nếu như Hoàng thượng đã quyết chí ở lại Đại Đồng, thần cũng không dám trì hoãn thêm nữa, xin phép trở về kinh sư báo tin ngay vậy.

Thi lễ với Chính Đức xong, lão lại liếc sang Dương Lăng, nghiêm nghị bảo:

- Dương đại nhân! An nguy của Hoàng thượng và an nguy của Đại Minh đều giao cho ngài đó, mong đại nhân vạn lần để ý cẩn thận, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng chu toàn.

Dương Lăng trịnh trọng đáp:

- Đại nhân yên tâm, hạ quan biết cân nhắc nặng nhẹ, tuyệt sẽ không lơ là.

Dương Đình Hoà gật đầu, lại thở một tiếng rõ dài rồi mới chán nản lui ra.

Lại qua hai ngày, hằng ngày khi Chính Đức không có việc gì làm thì lại chạy đến cửa phòng Đường đại tiểu thư làm thân binh, cùng nàng đánh quay trong sân, lại rủ thêm hai đứa nha hoàn chuyên hầu hạ tiểu mỹ nhân họ Đường cùng chơi mã điếu, vừa giúp Đường Nhất Tiên giải sầu vừa thỏa tâm nguyện mình.

Mã điếu đã tồn tại từ lâu, nghe nói từ thời Hán-Đường đã có, từ triều đình đến dân chúng, bất luận vương hầu công khanh, danh sĩ tài tử, thục nữ nổi danh hay con buôn bình dân đều rất thích trò này, thậm chí nhiều tăng ni cũng rất thích chơi.

Mã điếu giống như mạt chược thời hiện đại, lúc rảnh rỗi Thái hoàng thái hậu, Thái hậu và đám phi tần cũng rất thích chơi trò này, thi thoảng Chính Đức cũng chơi cùng. Hắn vốn thông minh nên chỉ cần học một chút là hiểu rõ.

Đường Nhất Tiên và hai nha hoàn nọ nào phải đối thủ của hắn, dần dần số bạc tiêu vặt mà Dương Lăng đưa cho Đường Nhất Tiên và số trang sức rẻ tiền của hai tiểu nha hoàn đó đều bị hắn ăn hết một đống. Chính Đức vui khôn kể xiết, cất giữ cái đống phế phẩm đó như của báu, mặc kệ hai tiểu nha hoàn đó đá mắt nheo mày thế nào, vị "lính ca ca" anh tuấn cũng không trả lại cho bọn họ.

Thân phận của hắn là thị vệ của Dương Lăng, song Đường Nhất Tiên không phải là loại người mê luyến quyền quý, không vì hắn có thân phận thấp hèn mà không thèm kết giao. Mặc dù nàng vẫn mắng nhiếc hắn như cũ nhưng ngữ khí đa phần lại khá thân thiết.

*****

Chiều hôm đó, một kỵ mã vội vã phi ngựa từ xa đến dịch quán, đến trước cổng thì nhảy xuống ngựa. Bình thường dịch quán chỉ có hai tay dịch tốt canh gác, nay bề ngoài thì có hai vị khâm sai, nhưng thực sự lại có thêm một Hoàng thượng, cho nên đám dịch tốt canh phòng đã được thay bởi đám thân quân của Dương Lăng, cả dịch quán được bảo vệ kín như bưng, hệt như một doanh trại vậy.

Người nọ đi đến trước cổng, rút trong người ra tấm ngân bài chứng minh thân phận Nội xưởng. Phiên tử gác cổng kiểm tra cẩn thận xong liền có một phiên tử khác dẫn hắn đi vào trong sân. Trên một quán rượu nhỏ treo một lá cờ cũ rách nằm đối diện với dịch quán, một vị tửu khách vụt ngẩng đầu khi thấy ngựa phóng đến trước cổng dịch quán, ánh mắt sắc bén lướt nhìn về phía kẻ mới đến.

Vị tửu khách này vận áo da chó ngắn, quần ấm ống suông, đầu đội một chiếc mũ lông sói màu nâu, dưới vành mũ rậm là một đôi mày kiếm toát lên vẻ khí khái hào hùng, không ngờ lại là một chàng trai vô cùng tuấn tú.

Lúc vào cổng dịch quán người cưỡi ngựa nọ thoáng nhìn quanh, người tửu khách thấy được một bên mặt của hắn thì không khỏi hơi giật mình, thầm nghĩ: "Ngũ Hán Siêu? Hừ, 'học được một thân văn võ, bán mạng cho bậc đế vương,' quả nhiên hắn đã nương nhờ Dương Lăng. Với võ công của hắn đáng ra phải là thị vệ cận thân cho Dương Lăng mới phải, nhưng trông bước chân ngựa mệt mỏi như vậy, hẳn là hắn vừa mới vượt đường dài tới đây. Dương Lăng không giữ hắn bên người, y đã phái hắn đi làm gì?"

"Chàng trai tuấn tú" nọ trầm tư một chốc, trong lòng mang máng cảm thấy dường như Dương Lăng sắp có hành động gì đó, trong mắt không khỏi loé lên vẻ hào hứng, ngay sau đó lại biến thành vẻ mù mờ.

"Hắn" đưa mắt nhìn quanh, cặt mắt trong veo lướt qua tốp người đang tụm năm tụm ba trên phố: "Nếu Di Lặc giáo tìm cách ra tay với Hoàng đế, nhất định sẽ giám sát dịch quán nghiêm ngặt. Nhưng bọn chúng đang ở đâu?

Còn tên khốn Dương Hổ đó nữa! Từ ngày mình bực tức bỏ đi, cũng không biết hắn và Ngũ thúc đã đi đâu rồi, chỉ mong bọn họ lạ nước lạ cái mà đừng lỗ mãng định ra tay với Dương Lăng. Nhìn tình hình dịch quán như vậy, bên trong hẳn có trọng binh bảo vệ, nguy cơ trùng trùng. Dương Lăng đi đâu một tí là có vài trăm cao thủ bảo vệ, muốn động thủ với y thì khác nào đưa dê vào miệng cọp?"

"Chậc!" "Chàng trai anh tuấn" khẽ thở dài, hàng mày hơi nhíu lại, thực có phần duyên dáng như con gái.

* * *

- Được! Rốt cuộc cũng đã đến rồi, Hoàng thượng nghe tin nhất định cũng sẽ rất vui!

Dương Lăng phấn khởi nói. Thấy Ngũ Hán Siêu mặt đầy vẻ phong sương, y liền bảo:

- Mau đi rửa ráy, ăn uống một tí rồi nghỉ ngơi đi! Tối nay bản quan sẽ lại bàn kỹ với ngươi.

Vốn Đoá Nhan Tam Vệ yêu cầu kết minh cùng Hoàng đế triều đình nhà Minh với một thái độ có cũng được không có cũng chẳng sao, do bọn họ cũng cho rằng Hoàng đế Đại Minh sẽ không hạ thấp dịa vị mà chạy tới gặp mặt bọn họ.

Bọn họ biết triều đình người Hán coi trọng nhất là mặt mũi và thích tiếm lợi kẻ khác, nhưng triều đình nhà Minh lại thà giữ thanh danh chứ không cần ích lợi, ngay cả khi thông thương với nước khác cũng đều đòi đối phương phải dùng phương thức triều cống của nước lệ thuộc mà tiến hành. Hoàng đế Đại Minh sẽ vì một thế lực còn chưa đáng được gọi là "quốc gia" như Đoá Nhan Tam Vệ mà từ bỏ tư thế cao ngạo của hắn ư?

Ai ngờ vị thiên tử của nước lớn phương đông này lại đến thật, khiến Hoa Đáng và các thủ lĩnh bộ lạc vừa thấy bất ngờ lại vừa mừng vừa lo. Hoa Đáng lập tức tuyển chọn bốn nghìn thiết kỵ, đi tối ngủ ngày, bí mật xuất phát tiến về phía Đại Đồng.

Trương Vĩnh nhìn theo Ngũ Hán Siêu lui ra ngoài, chợt cũng trở nên lo lắng. Lão nói với Dương Lăng:

- Dương đại nhân! Hoa Đáng đã đến thật rồi, nếu Bá Nhan mà biết tin ắt sẽ gây bất lợi cho Hoàng thượng. Chúng ta... chúng ta thật sự phải gặp mặt bọn chúng sao?

Dương Lăng cũng hơi lo, nhưng nếu y để lộ ra sự do dự và lo lắng há chẳng khiến kẻ khác càng thêm sợ hãi? Thế là y bèn đè nén sự hồi hộp lo âu trong lòng lại rồi gật đầu đáp:

- Phải gặp! Phóng lao phải theo lao thôi! Nếu lúc này mà lùi bước, chẳng những chúng ta sẽ bị người Mông Cổ chê cười mà nghìn đời sau cả ông, tôi lẫn Hoàng đế đều sẽ trở thành người bị người ta nhạo báng đó!

Đoạn y đứng dậy, tản bộ trong phòng mấy bước, rồi nói:

- Hoa Đáng chỉ mang theo bốn nghìn nhân mã. Số lượng người này nếu nói ít thì không ít, nhưng một khi tản vào trong đại mạc thảo nguyên sẽ như muối bỏ biển, không thấy bóng dáng đâu nữa. Huống hồ thám mã của Bá Nhan chỉ để ý đến hướng đi của quân đội Đại Minh ta, không lý do gì mà bố trí thám mã ở tại hậu phương của mình, vì vậy chưa hẳn là sẽ phát hiện.

Dương Lăng bước tới bàn, cầm lấy ấm trà rót cho Trương Vĩnh và chính mình mỗi người một chén trà nóng, rồi nói tiếp:

- Đoá Nhan Tam Vệ cũng thường đến biên giới cướp bóc, cho dù Bá Nhan có biết tin bọn chúng di chuyển về biên giới cũng sẽ tưởng rằng bọn chúng thừa dịp mà đánh cướp. Người Thát Đát không thể biết được tin tức Hoàng đế rời kinh sư đi đến Đại Đồng đâu.

Nói đến đây Dương Lăng chợt nhớ đến lời mà người con gái cưỡi ngựa có bóng hình xinh đẹp rực đỏ như lửa trong gió tuyết đã nói với y. Y thầm nghĩ: "Quái lạ, đến đây lâu như vậy sao vẫn chưa thấy Di Lặc giáo có động tĩnh gì? Là Hồng Nương Tử gạt mình, hay là Di Lặc giáo không biết Hoàng đế đến Đại Đồng, hay là đã biết nhưng chưa có cơ hội ra tay?"

Hiện tại vẫn chưa đến lúc Di Lặc giáo công khai tạo phản, nhất là Đại Đồng hiện giống như một doanh trại quân đội, ngoài thành là lính, trong thành cũng là lính. Cho dù Di Lặc giáo có vọng tưởng giết Hoàng đế cũng sẽ không có cơ hội động thủ ngay tại chốn này.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng vứt bỏ mối uy hiếp không thể nào xảy ra giữa thiên quân vạn mã sang một bên rồi tiếp tục lo nghĩ về chiều hướng của Bá Nhan Khả Hãn. Hiện tại đại quân của hắn đang tấn công và cướp bóc vùng Hồ Quan, Bình Thuận, xem ra không hề hay biết gì về tin tức Hoàng đế đang ở Đại Đồng. Nhưng ngộ nhỡ có gian trá, đội thiết kỵ có thể phi về trong một ngày của hắn quả thực sẽ là uy hiếp lớn nhất.

Nghĩ vậy, Dương Lăng vỗ nhẹ tay, một tay phiên tử lặng lẽ bước vào. Dương Lăng nói:

- Đi, báo cho người của Nội xưởng tại bản địa tăng cường thu thập mọi tin tức, chú ý đến tất cả những kẻ khả nghi, khi có tin tức phải lập tức bẩm báo!

Phiên tử nọ dạ một tiếng rồi xoay người đi ra. Dương Lăng quay trở lại bàn, lấy giấy và nghiên mực ra, nói:

- Đại quân của Dương Nhất Thanh đóng gần trong gang tất, không cần vội báo tin cho y, đợi Hoa Đáng đến gần kề mới lại sẽ bảo Dương Nhất Thanh điều động quân đội. Bây giờ tôi sẽ soạn một bức mật thư, đóng kim ấn khâm sai, lệnh cho chỉ huy sứ Thái Nguyên đưa quân đến Đại Đồng làm quân dự bị. Sáng sớm ngày mai tôi sẽ đích thân mang người cải trang lên núi Bạch Đăng khảo sát địa hình, chuẩn bị trước.

Trương Vĩnh lo lắng hỏi:

- Cải trang? Đại nhân mang theo ít người rất có thể gặp phải nguy hiểm, hay là mang theo hai nghìn thiết kỵ vậy.

Dương Lăng lắc đầu cười bảo:

- Người biết địa điểm kết minh ít thôi. Nếu mang đại quân mấy nghìn người chạy lên Bạch Đăng sơn dạo xem phong cảnh, vậy chẳng phải nói cho kẻ khác biết khâm sai đến đây là có dụng ý sao? Yên tâm, nơi đó xưa nay yên tĩnh, lại ở gần thành, quân chủ lực của giặc Thát lại đã đi đến Bình Thuận. Việc tôi lên núi Bạch Đăng chỉ có tôi và ông biết, ai mà chờ sẵn ở đó chứ? Được vậy chẳng phải là thần tiên sống rồi à?

Ăn uống no nê trên lầu Bách Mị các xong, thương nhân buôn đồ ngọc Bao lục gia vừa xiêu vẹo bước xuống thang gác, vừa tươi cười ngâm nga một điệu hát dân gian. Hắn mới vừa bàn xong một vụ mua bán nữa, trong thời buổi binh mã loạn lạc thế này, làm được việc đó thực không dễ chút nào.

Gã xa phu người Mông Cổ kiêm bảo tiêu có dáng người khôi ngô, mặt mày chất phác tên A Man tận lực dìu một bên, giúp hắn khỏi va đụng với những tửu khách khác.

Ra đến hành lang ngoài cửa, tiểu nhị trông coi chuồng ngựa vội dắt xe ngựa của Bao lão gia lại. A Man cầm lấy dây cương, một tờ giấy được vo tròn cũng được bí mật chuyển vào trong tay gã. A Man thản nhiên dìu Bao lão gia lên xe, rèm xe vừa được buông xuống, xe ngựa liền phóng băng băng trên con phố lớn.

A Man lặng lẽ đặt mảnh giấy nhỏ lên đùi, giở ra xem. Bên trên chỉ có một hàng chữ nhỏ: " Lý Gia tập (*) dưới Bạch Đăng sơn có thóc gạo". Vẻ mặt thờ ơ, A Man vung roi quát: "Giá!", rồi vo tròn mảnh giấy, bỏ vào miệng, nhai kỹ nuốt đi.

(*) tập 集 ở đây là thôn trang không lớn lắm, nhưng buôn bán sầm uất, có tổ chức chợ phiên định kỳ.

Chú thích:

Trích từ lời đáp của Khổng Tử khi Nhan Uyên hỏi về đức nhân: PHI LỄ VẬT THỊ. PHI LỄ VẬT THÍNH. PHI LỄ VẬT NGÔN. PHI LỄ VẬT ĐỘNG. Nghĩa là: Cái gì không hợp lễ thì đừng nhìn, đừng nghe, đừng nói, đừng hành động.

Nguyên văn "Hanh Cáp nhị tướng", trỏ cặp thần giữ cửa miếu của đạo Phật; một người phun khí trắng từ mũi, một người phun khí vàng từ mồm.

"Mã" trỏ thẻ ghi số đếm thời xưa; "điếu" trỏ xâu tiền, trỏ một thể loại đánh bạc giống mạt chược thịnh hành vào thời Minh.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 195: Tình thế nan giải

Tiếng vó ngựa dồn dập, hơn hai mươi người cưỡi những thớt ngựa tráng kiện băng qua sông Ngự đến dưới chân núi Bạch Đăng. Con đường đất vàng vốn được đầm chắc đã bị tuyết tan thấm nhão, lại bị những đoàn xe quân sự xuôi ngược nghiến qua tạo nên những dải đất cứng ngoằn ngoèo vệt bánh xe, thế nhưng tuấn mã vẫn thoải mái phóng qua, lướt đi băng băng.

Những người này đều cưỡi ngựa giắt đao, áo da ống bó, đầu đội mũ trùm da hươu da chó, vung roi thúc ngựa trông rất dũng mãnh tráng kiện. Nhìn bọn họ y như những kẻ thân hào giàu có ra ngoài săn bắn, nhưng vùng Đại Đồng quanh năm gặp nạn binh đao, trăm họ lân cận cũng biết một ít về quân sự, nếu trông thấy vũ khí của những kỵ sĩ này nhất định sẽ cảm thấy hơi quái lạ.

Nỏ ngắn và bao tên treo lệch một bên yên ngựa, trông khí phách này tuyệt không phải là những kẻ đạp tuyết săn thú bình thường. Lúc gần trưa trời vừa đổ một cơn tuyết nhỏ kéo dài, quá trưa thì vừa tạnh, vẫn còn sót lại một ít bông tuyết rơi rơi, không khí se lạnh sảng khoái, thấm tận ruột gan.

Không xa ở phía trước là ngọn núi Bạch Đăng, nằm dựa vào núi Phương về hướng bắc. Năm xưa Hán Cao Tổ là Lưu Bang dẫn ba mươi hai vạn đại quân viễn chinh Hung Nô, sau một trận đại thắng đã khinh địch liều lĩnh tiến bừa, bị bốn mươi vạn đại quân Hung Nô vây khốn trên Bạch Đăng sơn suốt bảy ngày bảy đêm, sau phải dùng diệu kế mới có thể thoát thân. Ngọn núi nhỏ bé này cũng nhờ đó mà vang danh thiên hạ.

Trời rét đậm giữa tiết trọng đông, hiếm có ai nhàn rỗi lên núi nên vừa đến lân cận vùng núi đã không còn thấy dấu vết con người. Hơn hai mươi kỵ sĩ ruổi ngựa lên đồi, phóng mắt nhìn ra xa, trên cánh đồng tuyết nhấp nhô như sóng gợn nằm trơ trọi một ngọn núi nhỏ, cao không quá trăm trượng, cũng không tính là quá cao, thế núi thoai thoải. Lúc đầu nghe nói là "núi", Dương Lăng còn tưởng nó cao lớn hiểm trở thế nào, giờ trông thấy ngọn núi đồi và vùng đất khá bằng phẳng chung quanh, y mới cảm thấy yên tâm.

Ngọn núi này là một ngọn núi đồi đất vàng, căn bản không có chỗ nào hiểm trở để phòng thủ. Đương nhiên nếu trên núi bố trí trọng binh, chiếm lấy địa thế trên cao, thì với năm nghìn binh mã trở lên cũng đủ để chống lại sự công kích của mấy vạn đại quân. Từ nơi này đến Đại Đồng chỉ khoảng chục dặm, nếu thật sự gặp nguy hiểm, chỉ cần kiên trì chống đở nửa ngày là đủ để quân Minh kéo tới tiếp cứu.

Quanh núi là một mảng đồng hoang bát ngát. Nếu quân Minh bố trí sẵn phục binh, Đoá Nhan Tam Vệ đến kết minh cũng sẽ có thể phát hiện từ xa mà kịp thời xa chạy cao bay. Quả thật đây là chốn rất thích hợp để làm nơi đàm phán.

Tuy ngọn Bạch Đăng không cao nhưng chung quanh lại rộng rãi, chu vi chừng mấy dặm. Dương Lăng dẫn hơn hai mươi thân binh lên núi, ngước mắt nhìn xa, phía bắc chính là núi Phương trập trùng, cách chừng hai dặm là một thôn trang xem chừng cũng không nhỏ.

Dương Lăng ngồi thẳng trên lưng ngựa, quay đầu lại hơi nheo mắt nhìn về phía con đường trắng xoá đến nhức mắt, trông thấy từ đằng xa có mấy bóng đen đang đến gần. Với tốc độ đó, ắt hẳn bọn họđang cưỡi khoái mã.

Dương Lăng thả lỏng cương ngựa, cười sảng khoái:

- Quả nhiên không giấu được mắt kẻ hữu tâm.

Ngũ Hán Siêu đưa cương ngựa lên đẩy vành nón, hơi căng thẳng:

- Đại nhân! Phục binh của chúng ta đang ở Lý Gia tập, cách nơi đây hai dặm. Thuộc hạ vẫn cảm thấy bất an trong lòng, chúng ta có nên đến gần bên đó một chút nữa chăng?

Tuy Ngũ Hán Siêu tài cao gan lớn nhưng chàng cũng biết trong Di Lặc giáo có mấy tay cao thủ trùm đời. Chưa nói đến giáo chủ Lý Phúc Đạt của Di Lặc giáo, nội ba người con của lão cùng vài vị thiên sư trong giáo cũng võ nghệ không kém cạnh gì chàng ta. Nếu đơn thương độc mã thì chàng tự tin dù không địch lại cũng vẫn có thể tẩu thoát, song hiện tại có Dương Lăng ở đây, chàng không dám mạo hiểm. Nhược bằng Dương Lăng lại bị kẻ địch bắt đi mất, khi ấy chẳng cần người khác nói ra nói vào, bản thân chàng cũng sẽ chỉ còn có nước tự sát tạ tội.

Dương Lăng lại không nghĩ vậy. Không phải là y lơ là, có điều hôm nay hai mươi tay thân binh bên cạnh y không phải là quân lính "chuyển ngành" thành phiên tử Nội xưởng, mà là thị vệ đại nội y mượn của Chính Đức. Thuộc hạ chân chính thuộc về y thì ngoài Ngũ Hán Siêu ra chỉ còn gã Lưu Đại Bổng Chùy do y mới thu làm thân binh thị vệ.

Võ công những người này tuy không bằng Ngũ Hán Siêu, song cũng không thua kém bao nhiêu. Nhóm truy binh đã đuổi đến gần kề, xem ra chỉ có bảy tám người cưỡi ngựa, hơn hai mươi người này của mình chẳng lẽ còn không thu thập nổi? Xem ra mình đã vẽ to chuyện khi âm thầm bố trí bốn trăm tay phục binh ở Lý Gia tập sau khi nhận được tin tức do Hàn Lâm đưa đến hôm qua rồi.

Hai mươi tay thị vệ đại nội ngồi ung dung bình tĩnh trên lưng ngựa, hơi tò mò nhìn chằm chằm vào đội nhân mã đang đến gần. Những thị vệ này đều là những trang thiếu niên anh tuấn kiêm tài lẫn đức của các môn phái, rất ít kẻ làm việc trong cung. Chỉ cần dựa vào chiêu bài đại nội thị vệ, trên giang hồ còn kẻ nào dám đắc tội với bọn họ? Cho nên ai nấy cũng đều đặt mắt ở trên trán, mấy tên yêu nhân Di Lặc giáo còn chưa đáng để lọt vào mắt bọn họ.

Lưu Đại Bổng Chùy là kẻ duy nhất trong đám thị vệ này sử dụng côn sắt. Gã râu xồm này là kẻ võ biền, tuy côn pháp quanh đi quẩn lại chỉ có mấy chiêu song lại rất hữu dụng để giết giặc trên chiến trường. Mặc dù so tài đo nghệ thì gã không bằng Ngũ Hán Siêu, nhưng một khi xông pha chém giết trên chiến trường thì vô luận là thanh thế hay số kẻ thù giết được thì Ngũ Hán Siêu đều kém xa gã.

Gã hồi hộp liếm môi, ồm ồm khuyên giải:

- Đại soái! Thuộc hạ nghĩ hay là chúng ta cứ đến Lý Gia tập đi. Mặc kệ nó là yêu đạo hay là giặc Thát, Đại Bổng Chùy tôi đều chả sợ chút nào. Nhưng mà có đại soái ở đây, nếu thật sự động thủ thuộc hạ sẽ bị bó tay bó chân lắm! Vừa phải để ý tới đại soái, vừa phải đánh yêu đạo, phiền phức lắm.

Tuy gã này nói chuyện thô lỗ, nhưng sự quan tâm lại biểu lộ rất rõ ràng, Dương Lăng nghe xong thì bất giác bật cười. Suy nghĩ một lúc, y bảo:

- Được, vậy chúng ta đi! Đến Lý Gia tập chờ bọn họ.

Lý Gia tập nằm kế Đại Đồng. Con đường truyền tin từ kinh sư đi qua đầu thôn kéo đến quan ải phương bắc, nối mọi nẻo đường nên khá là đông đúc. Thương nhân buôn lậu không dám để bò, dê, ngựa trong thành Đại Đồng mà phần lớn bọn họ sẽ nương nấu tạm ở đây, đợi mua bán xong xuôi rồi mới đồng loạt chuyển đi, cho nên đầu thôn còn mở một quán ăn lớn.

Nói là quán ăn nhưng chẳng qua chỉ là mấy gian chòi gỗ trét bùn, cung cấp nước nôi và vài món ăn đơn giản, để những người buôn bán vãng lai có chỗ nghỉ chân, lót dạ. Chung quanh quán được bao bọc bởi một hàng rào cây, không hề có cánh cửa gỗ nào cả, trông hết sức đơn sơ. Hiện đang là mùa đông, buôn bán tiêu điều, quán ăn chỉ mới mở một cánh cửa, bên trong vẫn chưa có khách.

Thấy đám đông hơn hai mươi người của Dương Lăng kéo đến, ông chủ quán không khỏi vui sướng ngất ngây, liền vội chạy ra nghênh đón, mặt cười toe toét nồng nhiệt đón tiếp:

- Chào các vị khách quan! Các vị dùng món gì vậy?

Lão lia mắt thật nhanh, nhận biết những người này không giống thương gia bình thường. Nhưng lão chỉ là ông chủ của một quán ăn nho nhỏ, là một tiểu nhân vật thấp hèn nhất, kiếm được hai văn đồng trinh đã là tốt rồi, sẽ không có ai lại hạ mình đi gây chuyện với những kẻ nghèo khổ như lão.

Lưu Đại Bổng Chùy buộc ngựa vào cột, lại nhanh nhẹn tiếp lấy cương ngựa của Dương Lăng buộc vào, rồi lớn tiếng dặn dò:

- Ông chủ! Trong quán có món gì ăn được thì cứ bưng lên là được rồi! Đồ ăn nóng càng tốt, đúng rồi, kiếm chút rượu trắng luôn.

Ông chủ vội đáp:

- Dạ! Trong quán có bánh bao không nhân, bánh nướng, còn có lợn béo vừa mới mổ đón tết nữa. Tuyệt nữa là có món thịt heo xắt vụn, các vị khách quan lại uống thêm bát canh dê, bảo đảm uống xong sẽ thấy ấm người.

Xắt vụn là cách gọi của người dân sứ Sơn Tây. Cách làm là ngâm heo hoặc dê cả vào nước, rồi lát mỏng, rắc gia vị như tiêu, gừng, tỏi, muối... vào, sau đó hầm thành một nồi. Dùng món thịt nguội này với rượu trắng, kết hợp cùng nước canh dê óng ánh, quả thực mùi vị rất không tệ.

Đám đại nội thị vệ vây quanh bảo vệ Dương Lăng đi vào chòi. Lau sậy được chất quanh chòi thành đống, bên trong kín gió nên khá ấm áp. Sáu viên thị vệ không cần căn dặn đã dằn đao chậm rãi đi loanh quanh trước cửa. Chiến mã được buộc kiểu thòng lọng ở một bên, giật một cái liền tuột ngay, có thể lên ngựa tác chiến bất cứ lúc nào.

Chủ quán bê một vại nước cốt ngâm trong một cái chậu to từ trên quầy đến; trời lạnh khiến mặt trên lớp thịt lợn xắt vụn đóng một lớp váng mỡ trắng tinh. Ôngg chủ vội vã chạy ra sau quán gọi lớn:

- Con mẹ nó Tam Nhi, mau đun lửa hâm đồ ăn đi! Tao nói thằng nhãi mày mau nhanh chân một chút đi, mặt trời đã chiếu tới đít rồi! Mau chạy đi lấy lúa mạch và trấu cám đem cho ngựa của mấy vị khách quan đây ăn đi!

Dương Lăng xát mạnh hai tay, cười nói:

- Chủ quán à, không cần phải lo cho ngựa đâu! Chúng tôi đến từ thành Đại Đồng, không xa mấy, chốc nữa còn phải chạy về. Ăn đại chút gì đó là được rồi.

Căn chòi lớn này xoay về hướng mặt trời, khi cuộn rèm lên ánh nắng sẽ chiếu thẳng vào, khiến nó ấm hơn khi che rèm lại. Dương Lăng ngồi ở bàn gần cửa, ánh nắng rọi lên thân y, bóng râm của chòi che khuất khuôn mặt nên y lại có thể nhìn thấy rõ bên ngoài.

Mặt đất sau mùa gặt phủ một lớp tuyết trắng mỏng manh, thấp thoáng lộ ra những gốc rơm rạ, sáu bảy thớt ngựa ở đằng xa dừng lại trên con đường dưới chân núi Bạch Đăng một chốc, chừng như đang do dự không biết có nên đuổi theo hay không. Dương Lăng thấy vậy không khỏi thầm cười nhạt. Đêm qua Hàn Lâm đã lặng lẽ phái người chuyển tin tức thám thính được sang chỗ y.

Do binh hoang mã loạn, thương nhân từ các nơi khác đến thành Đại Đồng không nhiều. Nhờ Hàn Lâm khổ tâm tổ chức ở Đại Đồng, mạng lưới tình báo của Nội xưởng dễ dàng nắm vững hành tung của bọn họ và truyền tin về.

Hàn Lâm biết nếu muốn giết Hoàng đế, quyết không thể chỉ vài ba nhân vật giang hồ võ công siêu đẳng mà đã có thể làm được; chỉ riêng việc theo dõi, cảnh giới, và dò la tin tức đã cần đến không ít người rồi. Vì vậy ông lại sàng lọc trong những tin tức được trình lên, chọn ra toàn bộ những nhóm dưới hai ba người, đặc biệt là những nhóm có phụ nữ và trẻ em, sau cùng chỉ còn lại mấy tốp nhân vật cực kỳ khả nghi.

Đám người Dương Hổ tự xưng là thương nhân hàng da, nhưng quản sự và gia bộc mang theo có đến bảy tám người. Năm mới bọn họ lại chạy vội chạy vàng đến thành Đại Đồng, chỉ ăn rồi ngủ, không chịu vội mua hàng rời đi, thật hết sức đáng ngờ. Thành thử ông đã phái thêm người bí mật giám sát bọn họ, đồng thời mau chóng truyền tin cho Dương Lăng.

Hiện Đại Đồng giống như binh doanh vậy, Dương Lăng cũng dự liệu nếu quả thật có thích khách thì nhân số cũng sẽ không quá nhiều. Trương Vĩnh nghe tin xong thì lập tức muốn mang người đi bắt bọn họ lại, mặc kể có phải là kẻ xấu hay không, cứ vứt vào đại lao rồi tính sau.

Đám người Đại vương, Hồ Toản và Uông Dĩ Hiếu đã ngầm ưng thuận việc Hoàng đế gặp mặt Hoa Đáng, hơn nữa cũng đã ngầm hẹn không đến bái kiến Hoàng thượng, cho nên bề ngoài bọn họ cũng vờ như không hề biết chuyện Hoàng đế đang ở Đại Đồng.

Dương Lăng lo rằng nếu Nội xưởng giương cờ gióng trống bắt người trong thành, một khi tin tức lọt vào tai đám người Hồ Toản thì bọn họ sẽ lại đổi ý, lo lắng chạy ào tới khóc lóc can ngăn Hoàng thượng. Cho nên y quyết định lấy thân làm mồi, dụ rắn ra khỏi hang.

Đằng xa, đám sáu bảy kỵ sĩ cứ đi lòng vòng mà không tiến vào thôn nọ dường như đã bàn bạc xong, bỗng giục ngựa phi thẳng tới. Bọn thị vệ ngồi trong chòi cùng đứng dậy đánh soạt, tay đã án trên chuôi đao.

Dương Lăng bình tĩnh bảo:

- Ngồi xuống! Bọn chúng có thể xông thẳng vào trong chòi hay sao? Chuẩn bị kỹ hoả tiễn và pháo hiệu, một khi có sự liền lập tức gọi người. Quan binh bắt giặc không tội gì mà đơn đả độc đấu!

Đám thị vệ lại chậm rãi ngồi xuống, song tay vẫn dằn trên chuôi đao, mắt nhìn chằm chằm ra bên ngoài.

Đám người nọ tới gần, tổng cộng bảy người ngựa. Ngoại trừ một lão già trạc ngũ tuần, còn lại đều là tráng niên tuổi chừng ba mươi, trông khoẻ như cọp, đầu quấn khăn trùm, hông giắt Nhạn Linh đao. Ánh mắt của Dương Lăng thoáng lướt trên khuôn mặt của bảy người rồi dừng lại trên mặt một gã mặt sẹo.

Người này chính là Dương Hổ. Tuy gã đã cải trang, khuôn mặt đã được thay đổi qua loa nhưng thân hình vẫn vậy. Cái khí chất ngông cuồng ngạo nghễ vẫn khiến y nổi bật giữa đám đông như hạc giữa bầy gà, nghiễm nhiên là thủ lĩnh của cả bọn.

Ánh mắt của hai người chạm vào nhau trong tích tắc, mắt Dương Lăng hơi loé lên một tia kinh ngạc. Y đã mang máng nhận ra Dương Hổ, "Không ngờ kẻ đuổi tới lại là Dương Hổ mà không phải là người của Di Lặc giáo." Việc này hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của y.

"Sao Di Lặc giáo không thấy có động tĩnh gì mà lại là Dương Hổ đuổi tới đây?

Nếu cho rằng Hồng Nương Tử gạt mình thì thực khó hiểu. Dù sao thì mình cũng đã biết tin, bất luận thật hay giả ắt sẽ đều tăng cường cảnh giác. Nếu những gì Hồng Nương Tử nói là thật, thì sao Dương Hổ còn ngu xuẩn để mặc cho Di Lặc giáo lợi dụng? Chẳng lẽ gã và Hồng Nương Tử vẫn chưa gặp nhau, vẫn chưa biết chuyện này?"

Vẻ kinh ngạc thoáng qua trên khuôn mặt Dương Lăng bị Dương Hổ lầm tưởng là do sợ hãi. Trên mặt gã loé lên vẻ khinh thường rồi quay đầu đi như không có việc gì. Gã vừa ngông nghênh bước vào chòi vừa gọi chủ quán:

- Ông chủ, xắt mười cân thịt bò, hâm một vò rượu nóng, mau dọn lên cho bọn ta!

Gọi món rồi gã sảng khoái ngồi phịch xuống bàn bên, gỡ thanh bội đao giắt hông vắt ngang lên bàn, hung hãn trừng mắt với Dương Lăng.

Chủ quán vội châm trà đưa lên bàn cho gã, thừa dịp liếc mắt nhìn đám người chung quanh. Ai nấy mặt mày hầm hầm, cộng thêm bầu không khí căng thẳng và lạnh lẽo khiến lão rét cả người, bèn lật đật lui ra sau quầy.

Dương Hổ cũng không thèm để ý đến lão, hai mắt gã vẫn nhìn Dương Lăng chằm chằm. Gã thực căm hận Dương Lăng đến tận xương tủy, hai trăm tâm phúc của gã bỏ mạng trước Cao Lão trang, mối thù này gã trút hết cả lên đầu Dương Lăng. Nay ái thê cũng vì bất đồng ý kiến mà giận dỗi bỏ đi, món nợ này gã cũng trút lên đầu Dương Lăng nốt, vì vậy gã càng coi Dương Lăng là cái gai phải nhổ.

Di Lặc giáo giao du với tầng lớp thượng tầng, biết rằng Hoàng đế cải trang không phải là chuyện đùa, nếu trọng thần bên cạnh hắn bị ám sát thì khi ấy muốn đụng đến hắn ắt sẽ khó như lên trời. Nhưng Dương Hổ - một tên mã tặc - thì lại suy luận rằng diệt trừ được vây cánh của Hoàng đế thì mới dễ xuống tay với hắn ta.

Chỉ mang theo vài người, gã ở Đại Đồng như kẻ mù dắt ngựa loà, không có kể sách gì cả, biện pháp duy nhất chính là phái người thay phiên dán mắt vào Dương Lăng, giúp y canh nhà giữ sân, âm thầm theo y tới lui giữa vương phủ và dịch quán. Sáng hôm nay nhận được tin Dương Lăng cải trang giả dạng thường dân ra ngoài thành, Dương Hổ mừng khôn kể xiết, liền lập tức dẫn người đuổi theo.

Sát khí bao trùm cả căn chòi, thớ thịt của mọi người đều trở nên căng cứng, ánh mắt âm u lạnh lẽo nhìn chằm chằm vào đối phương, đại chiến chực chờ bùng nổ. Dương Lăng nhón lấy chén trà, cẩn thận uống một hớp rồi lại nhẹ nhàng đặt xuống, chỉ sợ tiếng động lớn quá sẽ lập tức dẫn đến một hồi đại chiến.

Lão chủ quán khéo nhìn sắc mặt trông thấy tình hình không ổn, thế là không khỏi thầm kêu khổ. Lặng lẽ đẩy bàn tính ra, lão bắt đầu khe khẽ lui về phía sau, lặng lẽ đưa tay ra sau lưng rờ tấm rèm cửa.

Dương Hổ lặng lẽ quan sát một hồi, phát hiện trong và ngoài chòi chỉ có hơn hai mươi người. Sau khi ước lượng qua võ công của đám phiên tử Nội xưởng trong đêm công kích Dương phủ ngoài Cao Lão trang, gã liền có quyết định.

Hiện tại ngoại trừ gã còn có một cao thủ về Ưng Trảo công là Hoắc Ngũ Thúc, nếu muốn tập kích giết chết Dương Lăng giữa sự bảo hộ của hơn hai mươi tên thị vệ này thì phần thắng ít ra cũng có đến bảy thành. Gã đưa mắt nhìn Hoắc Ngũ Thúc ngồi đối diện, mắt hơi cụp xuống ra hiệu đã quyết định động thủ!

Lão chủ quán vừa mới vén rèm cửa, Dương Hổ đã chợt đứng bật dậy, các đại nội thị vệ ngồi chung quanh nhịn không được cũng đứng cả lên. Tiếng đao bạt khỏi vỏ xoàn xoạt nghe rợn người, đao quang loé khắp căn chòi.

Thủ hạ của Dương Hổ cũng đứng bật dậy, lật ngã một băng ghế dài xuống đất đánh "bộp". Chỉ có Hoắc Ngũ Gia vẫn ngồi trên ghế dài vững như bàn thạch, song trên mu bàn tay cầm chén trà nóng hổi của lão đã không chút cử động mà nổi vồng gân xanh.

Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu ngồi đối diện cũng không động đậy; Ngũ Hán Siêu một tay dằn lấy phối kiếm (*), một tay lặng lẽ lần vào trong chiếc túi giắt thõng dưới lưng, cầm lấy năm cây phi tiêu Kim Tiền được mài bén cạnh. Lưu Đại Bổng Chùy ngồi bên phải lại đã nhảy bật dậy, nắm chặt cây côn sắt đen thùi trong tay.

(*) một loại kiếm cổ có nguồn gốc từ Indonesia.

Xem thêm http://baike.baidu.com/view/3075016.htm

Dương Hổ liếc mắt nhìn quanh, rồi chợt ngửa mặt lên trời cười lớn. Tiếng cười liên miên của gã chưa dứt, Dương Lăng cũng chợt mỉm cười nói:

- Trước mặt hẳn là Dương Hổ Dương huynh phải không? Từ dạo chia tay nhau tại kinh sư, bấy lâu huynh vẫn khoẻ chứ?

Dương Hổ cười gằn đáp:

- Đa tạ đã quan tâm! Dương mỗ gặp nạn lớn không chết, vẫn mong được báo đáp ân đức của Dương đại nhân đây. Tiếc rằng thềm cửa nhà họ Dương quá cao, Dương mỗ chẳng dám bước vào. Giờ thì tốt rồi, đại nhân vậy mà rời xa kinh sư, thật đúng là cầu được ước thấy, ông trời có mắt đây.

Dương Lăng khẽ lắc đầu bảo:

- Vốn dĩ... chúng ta có thể làm huynh đệ tốt. Ngươi đuổi đến Đại Đồng, có phải là đã quyết tâm muốn tạo phản? Có chịu nghe ta khuyên nhủ một câu không? Lúc này buông đao, bản đốc có thể tha cho ngươi tội chết!

Dương Hổ cười hắc hắc, đang định giễu lại, chợt có tiếng vó ngựa gõ dồn, mọi người trong chòi đều vụt đưa mắt nhìn xa ra bên ngoài. Từ đằng xa có một người cưỡi khoái mã phóng như bay tiến đến. Kỵ sĩ khom lưng trên lưng ngựa, cùng ngựa tạo nên một đường thẳng tắp, nhìn từ xa trông không rõ tướng mạo, chỉ nhận ra được người đó vận một chiếc áo bào màu tro, là trang phục đàn ông, hông giắt một cây đao thép không vỏ, thi thoảng tia nắng quét ngang hắt ra những tia sáng chói mắt.

Chỉ trong chốc lát ngựa đã đến trước cửa chòi, kỵ sĩ ghìm cương, kiện mã hí một tràng dài, người nọ đứng thẳng dậy, vó ngựa đá tung cụm tuyết trước mặt. Chân ngựa còn chưa tiếp đất, kỵ sĩ đã nhẹ nhàng nhảy xuống, sải bước tiến vào trong chòi.

Hai bên đang ở thế giương cung bạt kiếm, không biết kẻ đến là địch hay ta, đều trừng mắt nhìn kẻ đó không nói tiếng nào. Người này mặt ngọc mày kiếm, mũi cao miệng nhỏ, thoạt trông khí khái tràn trề, tuy ăn vận như một chàng trai trẻ tuấn tú, nhưng Dương Lăng và Dương Hổ liếc mắt đều lập tức nhận ra cô nàng qua lớp dịch dung vô cùng đơn giản đó. Dương Hổ mừng rỡ gọi:

- Nương tử, nàng đến thật đúng lúc! Hãy liên thủ với vi phu giết chết Dương Lăng báo thù cho các huynh đệ!

Năm ngón tay của Hoắc Ngũ Gia bấu chặt lấy chén trà nóng hổi, vốn định ném về phía Dương Lăng, lúc này trông thấy nàng, lão cũng kinh ngạc lỏng tay, mừng rỡ đứng dậy gọi:

- Oanh Nhi? Cháu gái ngoan của thúc, thực khiến Ngũ thúc lo muốn chết. Mau qua đây, Dương Lăng chỉ mang theo hơn hai mươi tên thị vệ, chú cháu chúng ta liên thủ liền sẽ có thể giết y dễ như trở bàn tay!

Thôi Oanh Nhi đanh mặt đáp: ối

- Ngũ thúc, mục tiêu chính của chúng ta là Di Lặc giáo. Muốn báo thù đó thì thật là chuyện chó đi bắt nhím, biết cắn chỗ nào*. Nếu vì trăm họ, chúng ta nào có bản lĩnh cai trị giang sơn. Nếu thật sự sát hại Hoàng đế và Dương Lăng, chính là giúp cho Di Lặc giáo toại nguyện, lại khiến cho giặc Thát ngoài quan ải thừa thế xông vào. Chúng ta gánh không nổi tiếng xấu mấy đời này đâu. (*: ý nói tìm kiếm Di Lặc giáo báo thù là chuyện vô vọng)

Cặp mắt như thu thủy của nàng liếc sang Dương Lăng, rồi chắp tay vái những tay thảo khấu, nói:

- Các vị huynh đệ, trong các vị có người là nhân mã trại cũ của Thôi gia ta, có người là huynh đệ khe Phi Hổ của tướng công ta. Thôi Oanh Nhi và các vị huynh đệ cùng tiến cùng lui, đồng sinh cộng tử, đã có bao giờ là kẻ sợ chuyện? Cho dù là vị khâm sai đại nhân này...

Nàng liếc ngang đôi mắt đẹp về phía Dương Lăng, ngạo nghễ nói tiếp:

- Ta cũng tự tay bắt y về, bình yên mà thoát khỏi vòng vây trùng trùng của mười vạn đại quân. Oanh Nhi không phải là kẻ sợ chuyện. Nhưng người giang hồ chúng ta coi trọng đạo lý oan có đầu, nợ có chủ. Dương phủ là con dê béo, chúng ta là kẻ bắt cóc, có đắc thủ hay không đều phải dựa vào bản lĩnh mỗi người. Chưa từng nghe chuyện bắt cóc thất thủ rồi lại coi con dê béo là kẻ thù; đó chỉ là bởi chúng ta học nghệ chưa tinh thông mà thôi!

Nhưng nếu như chúng ta đã bị kẻ khác lừa đi bắt người, đã trúng phải kế lùa hổ trị hổ của người ta, các vị nói thù này có nên trả không? Nay rõ rành rành Di Lặc giáo muốn đối phó với Dương Lăng, sơn trại chúng ta bị quan binh nhổ mất mà chúng ta lại cứ cố chạy đến làm tốt thí cho người ta, để người ta ăn ốc còn mình phải đổ vỏ, làm chuyện ngu xuẩn như thế xem có được không?

Đoạn nàng bất mãn trừng mắt với Dương Hổ, bảo:

- Thấy các người lục tục kéo ra khỏi thành thì ta ra theo thôi, không có ý gì khác cả. Ta không đồng ý với việc giết Dương Lăng vin vào lá cờ "Thế thiên hành đạo" của sơn trại chúng ta! Lý lẽ cần nói ta đã nói hết rồi, huynh đệ nào đồng ý với ta, mời đứng sang bên này!

Những người thuộc trại cũ của Thôi gia đưa mắt nhìn nhau. Bọn họ đều là lứa cao thủ sơn tặc trẻ tuổi, trong mắt bọn họ, sức hiệu triệu của Thôi đại tiểu thư hơn xa Hoắc Ngũ Thúc đã qua thời đỉnh cao. Nghe xong những lời lẫm liệt của Thôi Oanh Nhi, bọn họ từ từ bỏ đao xuống, chần chừ bước sang bên cạnh Thôi Oanh Nhi.

Dương Hổ giận muốn rách phổi, trợn mắt mắng to:

- Thôi Oanh Nhi, cô điên rồi à? Cô là vợ ta hay là vợ tên Dương Lăng hả? Không ngờ cô lại nối giáo cho giặc! Cô không giúp ta thì thôi, còn muốn lôi kéo các huynh đệ đi, đấy là bổn phận làm vợ đó sao? Được lắm, được lắm!

Gã giận quá hóa cười:

- Xưa nay ta luôn nhịn cô, nhường cô, nhưng không sợ cô. Cô thật sự nghĩ mình là Dương Khóa Hổ ư? Trở về sơn trại ta sẽ mời tất cả các trại chủ các núi tới trước mặt nhạc trượng đại nhân hỏi cho rõ ràng. Lão dạy dỗ con gái mình thật giỏi!

Hoắc Ngũ Thúc cũng không nén được lửa giận. Tuy rằng lão yêu thương Thôi Oanh Nhi, thế nhưng con gái lấy chồng coi như nước đã đổ đi, không liên can gì đến Thôi gia nữa, đâu lại có chuyện vợ trái lời chồng, đó chẳng phải là đại nghịch bất đạo sao? Hơn nữa lúc đi lão gia tử đã có lời yêu cầu lão áp chế Thôi Oanh Nhi, không để nàng can thiệp vào đại sự của Dương Hổ.

Hoắc Ngũ Thúc nghiêm khắc quát:

- Bọn khốn chúng mày! Lúc lão gia tử phái chúng mày đi đã nói thế nào? Hết thảy đều phải nghe theo sự an bài của cô gia, giờ lại theo Oanh Nhi làm loạn sao? Dương Lăng đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, ngoại trừ hôm nay, còn có cơ hội nào tốt như vậy nữa chứ? Nghe lời ta, cùng cầm lấy vũ khí, làm thịt cái tên họ Dương nó, bằng không chắc các ngươi cũng biết sơn quy của Thôi lão đại rồi đó.

Mấy gã cao thủ thuộc sơn trại nhà họ Thôi lưỡng lự nhìn nhau, cảm thấy khó xử, nhất thời không biết nên nghe ai. Khuôn mặt xinh xắn của Thôi Oanh Nhi thoáng trắng bệch, nói:

- Ngũ thúc, Dương Hổ bị lợi danh làm mê muội tâm can, thúc còn chống lưng cho gã sao?

Hoắc Ngũ Thúc hừ một tiếng, nghiêm khắc:

- Oanh Nhi, đừng trách Ngũ Thúc nói với con điều này: con đang làm chuyện quá hồ đồ khiến người ngoài nghe thấy chê cười rồi đó. Chúng ta là kẻ lăn lộn trên sơn trại, vậy mà con lại đến giúp quan binh, sau này cha con và chồng của con biết đứng trong giới lục lâm như thế nào?

Lưu Đại Bổng Chùy nhìn thấy màn đấu đá nội bộ này mà cả mừng, nhăn nhở cười nói:

- Thực có khí phách! Đấy gọi là thấu hiểu đại nghĩa. Cái... cái cô gái Hồng Phất nữ này(*), ừm, hẳn là một cô nương không còn thú vị gì lắm rồi, nếu không một nữ nhân hiểu lý lẽ như vậy, một tên thủ lĩnh mã tặc như hắn sẽ không nói bỏ là bỏ ngay đâu. Thôi thì theo đại soái của chúng ta ăn uống thoả thuê đi!

(*: Nhắc tích Hồng Phất Nữ là nữ tì của Dương Tố, nàng nhận ra Lý Tịnh, tuy đang hàn vi, là bậc anh hùng thao lược nên đang đêm bỏ phủ Dương Tố, trốn theo Lý Tịnh)

Thôi Oanh Nhi nghe hắn nói xằng thì giận đến nóng mặt, cổ tay thoáng run lên, một chiếc thiết tật lê (đinh sắt) bay vút về phía cái miệng đang thao thao bất tuyệt của Lưu Đại Bổng Chùy. Ngũ Hán Siêu đã đề phòng sẵn, một đồng tiền liền bay tới nghênh đón, "keng" một tiếng, hai miếng sắt chạm vào nhau bắn sang một bên.

Lưu Đại Bổng Chùy giật mình hoảng hồn, mắng lớn:

- Mẹ nó! Sơn tặc đúng là sơn tặc, trở mặt còn nhanh hơn cả lật sách!

Ngũ Hán Siêu cười nhạt nói:

- Hắn là kẻ thô lỗ, Dương phu nhân hà tất phải so đo? Dương đại đương gia định bắt nạt lúc chúng ta ít người sao? Thật ngại quá, nói thật với huynh đài, chỉ dựa vào mấy người chúng ta đây, các vị chưa hẳn đã đánh lại. Vả lại, đúng như vị Ngũ thúc đây đã nói, đại nhân chúng ta đi đâu cũng có thị vệ vây quanh như mây, há chỉ có bấy nhiêu người?

Đám người Dương Hổ, Hoắc Ngũ thúc và Hồng Nương Tử thoạt tiên là sững ra, rồi lập tức sực hiểu, sắc mặt không khỏi biến xấu. Một viên cao thủ đại nội đứng trước cửa mỉm cười, thấy Ngũ Hán Siêu nháy mắt với mình, liền lập tức lật cổ tay, một viên pháo hiệu bay thẳng lên trời, tiếng nổ vang đi rất xa. Trong khoảnh khắc, mấy trăm viên phiên tử cầm đao mang cung từ các ngõ hẻm hai bên thôn ùa ra, vây chặt lấy căn chòi.

Một số tay phiên tử rút từ trong thắt lưng ra chiếc dây xích dài đen thui, tung lên mái chòi rồi tất cả cùng kéo mạnh, "rầm" một tiếng, cả căn chòi bị kéo đổ thành mấy mảnh. Cũng may trên mái chòi toàn bộ là tuyết, không hề bị đóng bụi, mọi người trong chòi đều vung binh khí đập cho mấy tấm ván gỗ mỏng tang nát vụn, trên người chỉ dính một lớp tuyết sốp.

Nhờ có cây côn sắt to dài tám thước của Lưu Đại Bổng Chùy, chỗ Dương Lăng đứng cũng không gặp gì nguy hiểm. Trong nháy mắt cả căn chòi hoàn toàn biến mất, mọi người đều hiện rõ giữa mảnh đất trống, những mũi tên bén ngót dày đặc chung quanh đã ngắm vào bọn họ.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy che chắn trước người Dương Lăng, chầm chậm lui ra ngoài, nhóm đại nội thị vệ cũng cùng vừa lui ra vừa giữ cự ly để có thể phối hợp kịp thời. Dương Lăng lùi vào giữa đám thủ hạ, cất cao giọng hô:

- Hồng Nương Tử! Chính do lời của cô vừa rồi, bản quan sẽ cho các người thêm một cơ hội. Đâm vua giết chúa, hành thích đại thần, đều là tội đại nghịch phải chết! Nhưng chỉ cần các người vứt đao đầu hàng, bản quan sẽ bảo đảm các ngươi không bị tội chết!

Hồng Nương Tử hít một hơi, liếc y bằng ánh mắt quật cường, đoạn giơ thanh bội đao trong tay lên, cao giọng đáp:

- Dương đại nhân! Ta khuyên tướng công quay đầu chỉ vì không muốn bị người ta lợi dụng mà thôi. Hảo hán lục lâm Bá Châu chúng ta không biết quỳ gối đầu hàng quan binh. Thôi Oanh Nhi cùng tướng công và các vị huynh đệ sơn trại đây đồng sinh cộng tử, vạn tiễn xuyên tim cũng sẽ không chút nhăn mặt nhíu mày. Ý tốt của đại nhân ta chỉ xin tâm lĩnh!

Dương Hổ cười lớn:

- Hay lắm, thế mới là nương tử của Dương Hổ ta chứ! Các huynh đệ, cầm lấy vũ khí, lấy ván gỗ làm khiên, chúng ta xông ra đoạt lấy ngựa rồi rút lên núi Phương!

Đám sơn tặc vội vã lật bàn và lấy mảnh ván vỡ làm những tấm khiên đơn giản, quây lại bảo vệ chung quanh. Tiếng cung kéo rít lên rợn người, cung tên trong tay đám phiên tử đã kéo căng như mảnh trăng rằm.

Ngũ Hán Siêu đưa mắt nhìn Dương Lăng, xin lệnh:

- Đại nhân?

Dương Lăng binh tĩnh nhìn Thôi Oanh Nhi, "bắn người con gái này thành con nhím?" Con tim thoáng xao động, y quát:

- Dương Hổ! Thôi Oanh Nhi! Hẳn các người có thể thấy hôm nay các người sẽ không thoát được. Cho dù các người võ nghệ cao cường như thế nào đi nữa, liệu có thể giết hết bốn trăm thiết vệ của ta không? Còn không mau buông vũ khí đầu hàng?

Đám người Dương Hổ và Thôi Oanh Nhi đều là những kẻ cướp cao ngạo bất kham, hung hãn không sợ chết, nghe y nói vậy thì chỉ cười nhạt tránh sau tấm khiên không đáp lời. Dương Lăng cắn răng, định quát lệnh bắn tên thì chợt có âm thanh rì rầm lúc trầm lúc bổng như có bầy dã thú đang kéo tới khiến Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên.

Y đưa mắt nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trên con dốc thoải trắng màu tuyết kéo dài từ sơn trang lên ngọn núi Phương xuất hiện một đội quân trông như một con dã thú khổng lồ đang chạy trên đồng hoang. Ngoài tiếng vó sắt nện xuống mặt ruộng hoang như sấm chính là tiếng la hét quái dị không ngừng của những kỵ sĩ trên lưng ngựa, thanh thế rất đáng sợ.

Tuy nhìn từ xa nên trông không rõ trang phục của bọn họ, nhưng chỉ cần nghe tiếng la hét quái dị thì Dương Lăng, quan binh và bọn mã tặc đã từng trông thấy quân đội giặc Thát liền biết đó chính là một đội quân Thát Đát không biết từ đâu chui ra, tràn đến cướp bóc xóm làng.

Quan binh giết cướp, cướp giết quan binh, ấy là cái lý bình thường như trời với đất; bọn họ là kẻ thù lâu năm không thể hoá giải. Thế nhưng cục diện quái dị hiếm gặp là: đám giặc Thát đến cướp giết thôn trang này sẽ giết quan hay là giết cướp? Bọn chúng há sẽ phân biệt hai nhóm người Hán này ư? E rằng đội quân giặc Thát này cũng vào khoảng nghìn người, nếu lúc này mà hai phe động thủ với nhau, đám giặc Thát đang phi như chớp giật sẽ đến ngay lập tức, bọn họ sẽ làm sao?

Dương Lăng và Dương Hổ, một kẻ có lòng tin giết cướp cùng một kẻ có lòng tin sẽ trốn thoát đều tròn xoe đôi mắt. Hợp tác cùng nhau chăng? Có thể sao? Hai người đưa mắt nhìn nhau, từ trong ánh mắt đối phương chỉ thấy có sự nghi ngờ, lòng hận thù và sự bất tín nhiệm.

Mặt đất run rẩy, dân chúng trong thôn đã khóc gào inh ỏi, giặc Thát tràn tới nhanh như một đàn châu chấu.

Ebook made by A Bư - BanLong.us

Chương 196: Quyết phải chém đầu

Thanh thế của giặc Thát khiến cho tất cả mọi người đều sững sờ ngay lập tức. Bọn chúng từ trên núi ùa xuống, vừa gào thét vừa tràn vào thôn xóm, những người dân kinh hoảng bỏ chạy tán loạn trên đường đều bị trường đao nương theo thế ngựa phi của bọn chúng vớt qua không phí chút sức lực nào, đầu lăn lông lốc.

Dù chỉ là một tốp lính men theo đường mòn trong núi kéo đến đánh lén, cướp bóc lương thực, giặc Thát vẫn giữ nguyên thói quen công kích đối thủ như lúc ở trên thảo nguyên. Chúng không vội xâm nhập vào nhà dân cướp bóc tài vật mà xông thẳng liền một mạch, cậy vào thanh thế hung hãn và bạo ngược để phá vỡ đội hình đối phương, hòng đập tan mọi dũng khí phản kháng của kẻ địch.

Trước đó, nhận được tin tình báo thôn trang nhỏ bé này không hề có quan binh trú đóng nên bọn chúng định tràn xuyên qua thôn rồi bọc lại để phòng ngừa thôn dân chạy trốn, như vậy chiến mã xông đến cuối thôn sẽ liền lập tức quay lại, bắt đầu cướp giết từng nhà.

Song đám giặc Thát đi đầu xông đến cổng thôn phía đối diện lại ngạc nhiên trông thấy mấy trăm quan binh đang bày trận đón sẵn ở đó, giương cung lắp tên, tên kín như rừng.

Tuy bọn chúng không kịp phân tích tại sao trong thôn lại đột nhiên xuất hiện một đội quan binh, song bộ hạ của Hỏa Sư đều là những tên lính hung hãn nhất trong các bộ lạc Mông Cổ Thát Đát, đội quân nghìn người được phái đến cướp bóc lương thực này lại càng kiêu dũng thiện chiến nên chỉ sau thoáng kinh ngạc, chúng liền ngang nhiên hò hét múa tít vũ khí xông tới.

Giặc Thát phía sau trông thấy tình huống này cũng đều vọt ngựa tiến đến, vừa phi vừa lấy cung lắp tên. Người Mông Cổ rất giỏi kỹ thuật vừa cưỡi ngựa vừa bắn cung, hết sức thành thạo việc kéo cung lắp tên trên lưng ngựa, trong nháy mắt bọn chúng đã tiến vào trạng thái sẵn sàng công kích.

Trông thấy tình hình như vậy Dương Lăng cũng không dám trì hoãn thêm. Trong thôn giấu không tới bốn trăm thớt ngựa khỏe để tránh tai mắt kẻ địch, đội quân này là lính đánh bộ, một trận mưa tên sẽ chỉ có thể ngăn chặn giặc trong chốc lát. Nếu để giặc Thát xông vào trong trận, e rằng mấy trăm người đều sẽ bỏ mạng tại chỗ.

Nơi đây gần Đại Đồng như vậy, phía trước lại có Trường Thành cách trở, giặc Thát chưa từng xuất hiện ở nơi này, thêm vào đó quân chủ lực của Bá Nhan đã chuyển hướng tấn công sang Hồ Khẩu, Bình Thuận nên Dương Lăng không hề nghĩ rằng trên núi sẽ lại đột nhiên xuất hiện một tốp giặc Thát. Thật đúng là "bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sau lưng".

Nếu giặc Thát muốn vòng qua Trường Thành để đột kích hậu phương quân Minh thì bọn chúng chỉ có nước lén lút đi xuyên qua mấy đoạn núi cao hiểm trở giữa những rặng núi non trùng điệp chưa được xây dựng Trường Thành phòng thủ. Nhưng những lối ấy khó đi vô cùng nên đại quân không thể đi qua, một ngàn người này hẳn đã là cực hạn.

Nghĩ đến đây, Dương Lăng lập tức quyết định. Y quát lớn:

- Mặc kệ là quan hay cướp, tất cả đều là người Hán. Bắt cướp là chức trách mà giết giặc là trách nhiệm thiêng liêng, món nợ giữa chúng ta sau này sẽ tính. Hôm nay chỉ giết giặc Thát! Các huynh đệ, động thủ!

Tiếng cung ngân rền, dưới mệnh lệnh của Dương Lăng bốn trăm cung tiễn thủ lập tức chuyển hướng, hàng loạt mũi tên gắn đuôi lông chim như cơn mưa rào điên cuồng ập xuống đầu đám giặc Thát đang phóng tới như bay.

Đám giặc Thát đang thúc ngựa phi nhanh kêu la đau đớn rồi ngã rạp một mảng, mấy con ngựa lùn tráng kiện Mông Cổ trên lưng còn cắm đuôi tên hí lên đau đớn, quay đầu bỏ chạy, thi thể vẫn còn móc vào bàn đạp bị chúng kéo lê trên tuyết tạo thành một dải máu dài.

Mắt thấy hơn nghìn thiết kỵ trong thôn đang ùn ùn kéo tới, trong lòng Dương Lăng lại trở nên bình tĩnh cực kỳ. Mặc dù gần như y chưa từng đích thân cầm đao xông pha chiến trường nhưng lại đã tận mắt chứng kiến nhiều trận kịch chiến. Nay mấy trăm thị vệ đều chỉ tuân theo lệnh mình, y nhất định phải bảo toàn tính mạng của các huynh đệ. Đó là trách nhiệm của y.

Dương Lăng quét mắt một lượt, nghiêm giọng quát lớn:

- Cửa thôn chật hẹp, không có lợi cho kỵ binh giặc Thát xông tới. Thị vệ đại nội lên ngựa, chận cửa thôn lại cho bản quan! Những người khác lập tức lui về hướng núi Bạch Đăng, dựa núi mà thủ!

Sau thoáng kinh ngạc, đám thị vệ đại nội đã khôi phục dũng khí, nghe lệnh lập tức vịn yên nhún người lên ngựa, vung phác đao chuôi dài phi đến cửa thôn. Bình thường Lưu Đại Bổng Chùy vẫn nói giọng kinh sư, lúc này quá kích động, gã la lớn bằng giọng Sơn Đông quê nhà:

- Mẹ nó[*], cái con bà mẹ nó, sao lại có nhiều tên giặc Thát điên từ Lục Câu Lý tràn ra như thế này?

[*: câu chửi đổng cửa miệng của người Lai Dương vùng Sơn Đông, theo http://2011.cctcct.com/travel-guide/...10/46942.html]

Nói đoạn gã liền cầm côn sắt định nhảy lên ngựa. Ngũ Hán Siêu kéo gã lại, quát:

- Ngươi làm cái gì vậy? Cho dù ngươi giết một nghìn tên giặc Thát mà đại nhân có mệnh hệ gì thì ngươi cũng sẽ không có chỗ mà khóc đâu! Bảo vệ đại nhân rút về núi Bạch Đăng ngay!

Từ dạo bị người ta xỏ mũi suýt nữa hại chết Dương Lăng, đương nhiên Ngũ Hán Siêu luôn bảo hộ sát bên Dương Lăng không dám rời xa nửa bước. Ở cửa thôn người chết ngựa ngã, đánh đến không thể tách rời, người ngựa địch ta hòa quyện lẫn nhau. Giặc Thát cậy vào khoái mã xông lên, sức mạnh thế nhanh, còn hai mươi viên thị vệ phòng thủ cửa thôn cậy vào võ nghệ cao cường, cạnh bên lại có phiên tử không ngừng bắn tên chi viện, tạm thời vẫn có thể ngăn chận giặc Thát. Nhưng đám người Dương Hổ vẫn đứng nguyên tại chỗ, vẻ mặt do dự. Ngũ Hán Siêu sợ bọn họ sẽ đột ngột ra tay đả thương người mình nên đành phải chằm chằm để ý đến bọn họ, không dám lơ là.

Trông thấy Dương Lăng vẫn điềm tĩnh như không, Hồng Nương Tử vứt tấm ván gỗ trong tay rồi đi đến trước ngựa của mình, phóng người lên ngựa, đao thép nắm chặt trong tay, cất giọng trong trẻo:

- Họ Dương kia! Chỉ mong ngươi nhớ câu nói này: "Mặc kệ là quan hay là cướp, tất cả đều là người Hán." Hôm nay bọn ta sẽ giết giặc Thát trước.

Nói rồi nàng đưa mắt ra hiệu với Dương Hổ. Dương Hổ nhìn giặc Thát đang đằng đằng sát khí ùn ùn kéo đến, lại nhìn Dương Lăng ở gần ngay trước mặt, do dự chưa quyết. Thôi Oanh Nhi tức giận quát to:

- Đương gia! Ân oán cá nhân sau này hẵng tính! Giặc Thát là kẻ thù của tất cả người Hán chúng ta, ngài còn do dự cái gì?

Nói rồi nàng nổi giận đùng đùng trừng mắt với Dương Hổ, thúc mạnh bụng ngựa, vụt xông về phía cửa thôn. Hoắc Ngũ Thúc sợ cháu gái gặp chuyện không hay, thấy vậy cũng búng người nhảy lên lưng ngựa như một con đại bàng, giật dây cương, chúm môi huýt gió một tiếng chói tai, xông về phía giặc Thát.

Dương Hổ thấy vậy thì chỉ đành giậm chân, ra lệnh:

- Lên ngựa! Giết giặc Thát!

Sáu bảy tay cướp hung hãn nghe thấy lão đại mở lời, lập tức ào ào lên ngựa, cũng xông thẳng về phía cửa thôn. Hồng Nương Tử tinh thông thuật cưỡi ngựa, chỉ cần dùng hai chân để điều khiển chúng theo ý muốn một cách dễ dàng, tiến lui thoải mái; đúng là còn thành thạo hơn đám người Mông Cổ cưỡi ngựa suốt tháng quanh năm. Thanh đao thép trong tay nàng bay lên lượn xuống, trong khoảnh khắc liền đã có ba bốn tên giặc Thát bị nàng chém rơi khỏi ngựa. Thôi Oanh Nhi thúc ngựa xông vào trận địa của giặc, chận bốn thớt chiến mã không người đó lại, rồi quay ra đằng sau kêu to:

- Quan binh nào giỏi cưỡi ngựa hãy qua đây mấy người, đoạt ngựa giết giặc Thát!

Bọn quan binh thấy một người con gái mà cũng kiêu dũng như vậy, lập tức nổi lòng háo thắng, liền có bốn tên quan binh khoác cung giắt đao, tranh nhau lên ngựa. Giặc Thát ruổi ngựa xông ào ạt đến, tiếng hò hét biến thành tiếng gầm rống. Chỉ nghe tiếng cung bật liên tiếp, tên rít chói tai, giặc Thát cũng thả tay bắn tên đáp trả, ba mũi lang nha tiễn xé gió bay tới, dễ dàng xuyên qua giáp nhẹ, cắm vào thân người.

Không biết là cung thủ nào có cánh tay khỏe mạnh siêu quần, hẳn là mới vừa sử dụng cung ba thạch, một phát tên ghim chéo dưới xương sườn một viên thị vệ đại nội mới vừa chém chết hai tên giặc Thát, đẩy hắn văng ra khỏi ngựa, kéo bay hơn một trượng mới nặng nề rơi xuống đất.

Dương Lăng thấy vậy giận muốn rách mí mắt, gầm lên:

- Bắn tên! Bắn tên! Áp chế bọn chúng!

Lại một trận mưa tên được trút xuống. Nhân mã của song phương không ngừng ngã khỏi lưng ngựa, những dũng sĩ vừa rồi còn dồi dào sinh khí trong chốc lát đã biến thành một đống bùn nhão dưới vó ngựa. Không biết tự lúc nào, hơn hai mươi phiên tử mang theo hỏa súng lợi dụng sự che chắn của nhà cửa hai bên đường đã bắt đầu nổ súng bắn về phía giặc Thát.

Đoàng đoàng đoàng, một loạt tiếng súng vang lên, khói súng tức thời bao trùm khắp cửa thôn. Kinh hoảng bởi những tiếng nổ inh tai, những con chiến mã mất chủ bỏ chạy tán loạn. Sự dũng mãnh của giặc Thát quá nửa dựa vào sức ngựa, chiến mã vừa bị hoảng loạn lập tức dẫn tới đội hình rối loạn, nhuệ khí cũng vì vậy mà bị sút giảm.

Dương Lăng hồi hộp nhìn chằm chằm về phía cửa thôn. Y phát hiện những thị vệ đại nội nọ võ nghệ tuy cao, nhưng khi chém giết lại không nhanh nhẹn và gọn ghẽ bằng đám cướp chuyên nghiệp. Chỉ cần mấy động tác bổ, chém, đỡ, đập hết sức đơn giản đi kèm với những tiếng gầm thị uy, thanh đao trong tay bọn cướp xoay vần như dải lụa, nội trong ba đao, sau tiếng binh khí va chạm leng keng song phương ắt có một người ngã ngựa.

Mà võ công những thị vệ đại nội này tập luyện đều là tránh, xoay, nhảy, chuyển, kỹ xảo công kích có thực có hư. Nếu như đơn đả độc đấu, trong số mã tặc này ngoại trừ Dương Hổ, Hồng Nương Tử và Hoắc Ngũ Gia ra, hiếm có kẻ nào có thể đấu hơn mười hiệp với bọn thị vệ đại nội, nhưng trên chiến trường giết giặc, cách đánh của bọn sơn tặc lại hung mãnh và hữu hiệu hơn.

Trông thấy vậy Dương Lăng không khỏi máy động trong lòng. "Nếu quân đội chúng ta cũng có thể luyện tập phương pháp bổ, chém đơn giản mà hiệu quả như vậy, vứt bớt những động tác màu mè không thực tế, thì không những việc huấn luyện dễ dàng hơn rất nhiều mà sức chiến đấu hiệu quả cũng sẽ được nâng cao một cách mau chóng."

Hai trăm viên phiên tử ở hậu đội đã bắt đầu lật đật rút về phía núi Bạch Đăng. Ngũ Hán Siêu vội khuyên:

- Đại nhân, hãy mau rút về núi Bạch Đăng! Ngài mà không đi, đám huynh đệ sẽ không dám rút lui đâu. Đã có người chạy vào thành báo tin rồi, chỉ cần chúng ta lên núi cố thủ chừng nửa ngày là viện quân sẽ tới rồi!

Nếu theo ý riêng của Ngũ Hán Siêu thì chàng hận không thể bắt Dương Lăng cưỡi khoái mã tự chạy về thành một mình. Song đại soái lâm trận lại quay ngựa bỏ chạy trước, bỏ mặc sĩ tốt thì sau này đừng hòng chỉ huy quân đội được nữa, Dương Lăng quyết sẽ không đồng ý. Hơn nữa quân Minh có ít kỵ binh, nếu như giặc Thát nhanh trí sẽ biết ngay y là một nhân vật quan trọng mà giục ngựa đuổi theo thì chí nguy; chi bằng lên núi đợi viện binh còn an toàn hơn một chút.

Dương Lăng gật nhẹ đầu, lên ngựa xong xuôi bèn ra lệnh cho một viên bách hộ:

- Cho bộ tốt lần lượt thoái lui, mau chóng tránh lên núi Bạch Đăng. Kỵ binh chận hậu, cốt phải giữ vững cửa thôn!

Y mới vừa nói đến đây, một cây giáo dài chừng năm thước đã rít gió bay tới, Ngũ Hán Siêu hét lên:

- Đại nhân cẩn thận!

Rồi chàng cố vung thanh kiếm trong tay chận lại. "Keng" một tiếng, kiếm và giáo cạ vào nhau tạo nên một tia lửa dài. Cây giáo bị đổi hướng cắm "phập" vào trong tuyết ngay trước ngựa Dương Lăng, sâu phải hơn một thước, đuôi giáo rung lên "vù vù". Sức lực ấy thực khiếp người.

Tuy Ngũ Hán Siêu dùng xảo kình để giảm lực, nhưng vẫn bị lực va chạm chấn cho hổ khẩu tê rần. Dương Lăng và Ngũ Hán Siêu thấy uy lực ngọn giáo mạnh mẽ như vậy đều sợ đến toát mồ hôi lạnh. Lúc này cây giáo thứ hai lại rít gió lao tới. Lưu Đại Bổng Chùy cười lớn vung cây côn sắt cứng chắc trong tay lên, "cạch" một tiếng, cây giáo nọ đã bị đập gãy làm hai.

Đằng xa, có mấy tên giặc Thát đang bảo vệ một gã cao to vạm vỡ khoác áo da thú lệch vai. Do khoảng cách xa đến mấy chục mét cộng thêm trong không trung vẫn còn khói súng chưa tan nên trông không rõ tướng mạo gã đó, nhưng Dương Lăng cảm giác hắn không phóng giáo bừa. Hắn đã phát hiện ra mình là thủ lĩnh của đội quân Minh này.

Ngũ Hán Siêu sốt ruột giục:

- Đại nhân, đi thôi! Tránh lên núi Bạch Đăng!

Chàng ta và Lưu Đại Bổng Chùy bảo vệ Dương Lăng quay đầu ngựa phóng như bay về phía núi Bạch Đăng. Đằng xa gã thủ lĩnh giặc Thát căn dặn với thủ hạ mấy câu, bọn tùy tùng bên cạnh liền quát hô to mệnh lệnh bằng tiếng Mông Cổ.

Hai đội thiết kỵ bắt đầu mau chóng chỉnh đốn đội ngũ, rồi phi vòng sang hai bên thôn trang; một số tên khác bắt đầu xông vào nhà thôn dân tháo dỡ cửa nhà và bàn trà làm khiên chắn đơn sơ nhắm tấn công quyết liệt vào cửa thôn.

Bốn trăm quan binh bộ binh đeo phác đao chuôi ngắn, chiến đấu trên bộ thì ai nấy đều là cao thủ nhất lưu, nhưng gặp phải nhóm dũng sĩ thúc ngựa xông tới như bão táp thì ắt đại bại không phải nghi ngờ, có thể chạy lên núi Bạch Đăng sớm được khắc nào thì sẽ có thêm cơ hội sống khắc nấy. Thế nên hai dặm đường tuyết mấp mô gập ghềnh đó bọn họ chạy như bị ma đuổi, khi đến dưới chân núi Bạch Sơn thì đã như nỏ mạnh hết đà, người nào người nấy đều thở phì phò như trâu.

Viên bách hộ trưởng đứng trên một tảng đá lớn, mặc dù tim cũng đập như trống làng nhưng hắn vẫn cố quát lớn:

- Lập tức lên núi, phòng thủ mọi nẻo đường! Viện quân sẽ chóng đến thôi. Nhanh lên, mau lên núi!

Đám phiên tử xốc lại tinh thần, trèo xuôi theo sườn dốc phủ tuyết lên núi. Sườn núi phía trước không dốc mấy, kiện mã phi vội cũng leo lên được, Dương Lăng phóng ngựa đến lưng chừng núi thì quay đầu nhìn lại xa xa về phía sau. Trên đồng tuyết trắng ngần, ba trăm kỵ binh đang phóng băng băng đuổi theo; hai cánh là hai đội giặc Thát đã vòng qua thôn trang để truy đuổi, quãng đường của bọn chúng trở nên xa hơn một chút, vốn hai dặm đường đã biến thành ba dặm. Phía trước bọn chúng, ở chính giữa con đường là đám thị vệ đại nội và bọn Dương Hổ đã từ bỏ phòng thủ rút lui, sau lưng là chủ lực giặc Thát đang đuổi sát không tha.

Dọc đường rút chạy Dương Hổ cảm thấy tức giận và khổ sở không thôi: "Thật là xui xẻo cái con bà mẹ nó quá đi. Sớm biết vậy thì đừng tới đây còn hơn, không chừng đã có thể mượn tay đám giặc Thát nhổ cái gai trong mắt này đi rồi.

Giờ thì hay rồi! Các huynh đệ thủ hạ tuy rằng có lúc cũng xuống núi cướp bóc dân chúng, là tử địch với quan binh, nhưng bọn họ lại căm ghét và hận thù giặc Thát hơn, càng có cảm giác bài xích dân tộc theo bản năng hơn. Gặp phải giặc Thát liền bỏ chạy mất dạng, đó là hành vi của Hổ Tử ca ngồi ghế trại chủ lục lâm phương bắc đấy ư? Huống hồ vợ mình đã xông lên, người của sơn trại Thôi gia cũ chắc chắn cũng sẽ không bỏ chạy, một mình mình có muốn trốn chạy cũng không chạy được."

Nhằm cướp bóc được nhiều, giặc Thát đều tranh thủ vận chuyển lương thảo về trước khi quan binh hay tin kéo đến, vì vậy ngựa của đám giặc tập kích Lý Gia tập này cưỡi đều là giống ngựa tốt. Do đó bọn chúng đuổi càng lúc càng sát đám người Dương Hổ, chỉ còn trong chốc lát nữa là bắt kịp.

Hai mươi viên thị vệ chỉ còn lại mười hai mười ba người, mã tặc Bá Châu cũng chết mất hai, giặc Thát dần đuổi tới, giáp công hai mặt. Đám người Dương Hổ và Hồng Nương Tử vung những cây đao dính máu chém trái bổ phải, vừa chạy vừa đánh.

Hồng Nương Tử đã đánh giết đến sôi máu, thanh mã đao trong tay hoá thành từng vòng sáng lạnh lẽo, chân thúc ngựa, đao phong rít xoay bốn bề, đánh mở một con đường máu. Qua khoé mắt nàng liếc thấy ở hai bên đường giặc Thát đang hò hét đánh thốc tới, lúc này mà rời khỏi quân Minh bỏ chạy vào đồng hoang sẽ chỉ rơi vào vòng vây trùng trùng của giặc rồi kiệt sức mà chết. Không còn sự chọn lựa nào khác, bọn họ đành phải cùng chạy lên núi Bạch Đăng.

Giặc Thát đuổi tới càng lúc càng đông. Một tên vượt lên trước mặt bọn họ, ghìm mạnh cương ngựa rồi xoay người, "vù" một tiếng, một đường sáng lạnh lẽo lướt qua không trung, trường đao bổ nhanh từ trên cao xuống như chớp giật, chém thật mạnh xuống đầu Hồng Nương Tử.

Thôi Oanh Nhi cả kinh. Ngựa đang phi rất nhanh, không kịp ghìm cương dừng lại, hơn nữa sau lưng vó ngựa như sấm, truy binh đuổi theo rất đông. Nàng liền giật cương, thúc ngựa trượt sang bên hai bước, cùng trong nháy mắt, thanh đơn đao trong tay được lật lên, quét ngang một nhát. Lưỡi đao bén ngót nương theo thân người, cắt bung chiếc áo da trước bụng gã Thát Đát vừa chém hụt một đao nọ, mũi đao nhọn hoắt đâm thủng bụng gã.

Hai ngựa lướt qua cạnh nhau trong nháy mắt, Thôi Oanh Nhi nhân mã hợp nhất, quất mạnh mặt đao vào đùi ngựa. Gã đó lảo đảo ngã từ trên ngựa xuống, đầu vừa tiếp đất, lập tức bị vó một thớt chiến mã đang phi tới không tránh kịp đạp lún vào trong tuyết, đã hoàn toàn không còn phản ứng gì.

Hồng Nương Tử giật ngựa tránh đao sang bên nên hơi thoáng khựng lại, sau lưng liền có hai thớt ngựa đuổi tới, hai ánh đao sắc lẹm và lạnh lẽo cũng bổ tới như hình với bóng. Hơn hai mươi thớt kiện mã này đang chạy một mạch về phía núi Bạch Đăng, khoảng cách giữa hai người vào tầm hai thân ngựa, cho dù là Dương Hổ và Hoắc Ngũ Thúc ở gần nhất cũng không kịp cứu viện.

Hoắc lão ngũ la lên:

- Oanh Nhi cẩn thận, phía sau!

Thôi Oanh Nhi chợt sử một chiêu "Đăng Lý Tàng Thân" linh hoạt trượt xuống bụng ngựa, hai đao nọ chém vào không khí, ba ngựa đã dàng ngang một hàng. Như một con cá, nàng dán sát thân hình vào thân ngựa, luồn xuống bụng ngựa đang phi nước đại rồi nhô lên từ phía bên kia, ngồi trở lại lên lưng ngựa đồng thời nhổm hơn nửa người ra khỏi lưng ngựa, đâm một đao vào sườn tên giặc Thát nọ.

Đến núi Bạch Đăng rồi!

Dương Lăng canh đúng thời cơ, quát hạ lệnh:

- Bắn tên!

Một loạt tên bắn cấp tập bay qua khỏi đầu đám thị vệ và Dương Hổ ở đằng trước, nhằm vào đám giặc đang Thát đuổi theo phía sau. Đám người Dương Hổ nhân cơ hội liền tăng tốc lên núi, mấy tên giặc Thát theo sau không dám đơn độc rượt theo bèn lập tức giảm tốc độ lại, trơ mắt nhìn bọn họ chạy thoát lên núi.

Xông được lên núi, đám người Dương Hổ ghì cương ngựa thở hổn hển, ngước đầu trông thấy Dương Lăng, vẻ mặt hai bên đều có phần quái dị. Mới vừa nãy còn là đối thủ sống chết với nhau, nay lại phải cùng chung kẻ địch, cùng chống giặc ngoài. Thế nhưng sánh vai tác chiến cùng mình lại là kẻ thù mà không phải là bằng hữu, tâm tình ấy thực khó mà diễn tả nên lời.

Dương Hổ và Dương Lăng bốn mắt nhìn nhau, tâm tình phức tạp vô cùng. Dương Hổ không nói gì, chỉ dẫn người phe mình lặng lẽ đi đến đứng sau lưng những cung tiễn thủ đang căng thẳng trụ vững vàng ở sơn khẩu rồi vẫn ngồi trên ngựa nhắm mắt lại điều hòa hô hấp, một hồi lâu sau mới thở ra một hơi thật dài.

Hồng Nương Tử nhìn Dương Hổ rồi lại ngó sang Dương Lăng, bất giác lộ một nụ cười khó xử nơi khoé môi.

Dương Lăng căng thẳng chăm chú quan sát dưới núi. Nhân mã quân Thát đã tập hợp lại, đứng ngay chính giữa, được vây quanh như muôn vàn tinh tú chầu trăng là gã trung niên tráng kiện khoác áo da thú lệch vai nọ. Tuy rằng bọn chúng trèo đèo lội suối đóng vai kẻ cướp, song đằng sau lại có một lá cờ giương cao.

Thông qua những tin tức tình báo mà Hàn Lâm đưa đến, Dương Lăng sớm đã thấu hiểu nhiều điều về thực lực của các nhóm bộ lạc Thát Đát và mối quan hệ giữa bọn họ. Trên lá cờ này tuy không có chữ, chỉ vẽ một biểu trưng, song y vẫn có thể nhìn ra một ít mấu chốt. Bá Nhan Khả Hãn là hậu duệ trực hệ gia tộc cao quí của Thành Cát Tư Hãn, cờ hắn lấy sói làm biểu trưng, mà lá cờ này lại vẽ một con phi ưng đỏ rực như lửa. Với sự hiểu biết của y, đây hẳn là tướng sĩ thuộc nhóm bộ lạc Hỏa Sư.

Dương Lăng không khỏi hơi biến sắc. "Đây là bộ đội tinh nhuệ nhất của Thát Đát, không phải là bộ lạc nhỏ lén đột nhập vào biên quan cướp bóc. Nếu như bọn chúng cướp xong tài vật lập tức trở về thì thôi, còn nếu tướng lĩnh đội quân này không ngốc mà lập tức hạ lệnh tấn công lên núi, binh sĩ phe mình mỗi người chỉ mang theo một ống tên thì sẽ có thể chống đỡ được bao lâu?"

Y ngoái đầu đưa mắt nhìn về phương xa, tuyết trăng mênh mông, viện binh vẫn chưa thấy bóng dáng gì. Trái tim Dương Lăng trĩu nặng, sắc mặt trở nên nghiêm trọng.

Tướng lĩnh Thát Đát dưới núi là bộ hạ của Hỏa Sư, tên Tác Lạp Địa. Một sĩ tốt vừa trình lên cho hắn một mớ cung nỏ và hỏa súng ngắn không mấy hữu dụng trên chiến trường do bọn chúng vừa thu được trong tay những quân Minh tử trận. Tác Lạp Địa nhìn những cung nỏ được chế tạo tinh xảo hơn cung nỏ biên quân hay dùng rất nhiều này, rồi lại cầm hỏa súng ngắn hiếm thấy lên ngắm nghía một lúc, khoé miệng lộ ra một nụ cười đắc ý.

Hắn ngửa mặt lên trời cười lớn:

- Ông trời phù hộ Thổ Mặc Đặc Mông rồi! Đội quân Minh này tuyệt không phải là biên quân thông thường, thủ lĩnh bọn chúng nhất định là một nhân vật quan trọng của địch. Bá Nhan Đại Hãn hiện tại đang rất bất mãn với Quách Lặc Tân kỳ(*), các bộ lạc đều hoài nghi dũng khí của kỳ chủ chúng ta, nếu như chúng ta có thể giết chết đại nhân vật này của quân Minh, uy danh của Hỏa Sư sẽ lần nữa chấn động thảo nguyên đại mạc.

(*: như huyện, tỉnh)

Tác Lạp Địa giơ bội đao lên cao, hô lớn:

- Hỡi các dũng sĩ! Trên núi có một thủ lĩnh quan trọng của quân Minh, giết được hắn sẽ vinh quang hơn cướp hằng nghìn hằng vạn dê bò. Viện quân của chúng sẽ mau chóng kéo đến. Vì sự vẻ vang và sinh tồn của bộ lạc, chúng ta hãy xông lên giết chết bọn chúng!

Tiếng hét hò như sấm, giặc Thát reo hò ầm ỹ, đại đội nhân mã dưới mệnh lệnh của Tác Lạp Địa bắt đầu liều mạng xông lên núi. Tên trút như mưa, giặc Thát cũng không ngừng bắn tên đáp trả, nhất thời trời rợp mưa tên, không ngừng có người kêu la thảm thiết rồi ngã xuống. Hai viên bách hộ quân Minh căng thẳng thúc giục sĩ tốt áp chế đợt tấn công của giặc Thát.

Nhưng chỉ có mưa tên dày đặc mới có thể ngăn cản sức tiến công của bọn chúng, mà tên trong ống dùng một mũi thì ít đi một mũi. Khi từng thi thể ngã xuống trên sườn núi, thì túi tên của quân Minh cũng đã đồng thời trống rỗng. Hai viên bách hộ quyết đoán thật nhanh, lập tức thưa với Dương Lăng:

- Đại nhân! Ty chức xin dẫn binh ngăn trở bọn chúng, ngài hãy mau xuống núi từ phía khác, tin rằng viện binh cũng sắp đến thôi.

Dứt lời hai viên bách hộ liền bạt đao khỏi vỏ, quát lớn:

- Các huynh đệ, hãy xông xuống núi! Sườn núi không lợi cho chiến đấu trên ngựa, đừng để bọn chúng tấn công lên đỉnh núi!

Vừa nói vừa chạy dẫn đầu xuống phía sườn núi.

Trên trời, một con chim ưng đầu trọc đang lượn quanh kêu lên một tiếng thê lương, trận chiến giáp lá cà đã bắt đầu...

Mục tiêu của giặc Thát là Dương Lăng. Theo phán đoán của Tác Lạp Địa, vị tướng lĩnh trẻ tuổi mà đội quân mấy trăm quan binh được trang bị vũ khí tinh xảo đang ra sức bảo vệ này nhất định là một nhân vật rất quan trọng của quân Minh, nói không chừng chính là hoàng đế nhà Minh mà Kỳ chủ từng nói tới. Nếu đúng là hắn, thì cho dù mình có cùng toàn quân bỏ mạng nơi đây mà kéo được hắn chôn cùng thì nào có hề gì?

Nhiệt huyết sôi trào, Tác Lạp Địa tổ chức một đội cảm tử trăm người, bất chấp thương vong xông qua sự ngăn trở của quân Minh, đánh thẳng về phía Dương Lăng. Bọn thị vệ đại nội cũng bạt đao xông lên trước, chiến trường lan rộng, đám người Dương Hổ cũng không thể không tham gia kiên trì chống đỡ.

Thanh bảo kiếm Ngũ Hán Siêu quen dùng đã gãy, chàng ta nhặt lấy một chiếc phác đao bảo hộ Dương Lăng vừa đánh vừa lui. Đỉnh núi lồi lõm gồ ghề, đất vàng đồi núi trộn lẫn với nham thạch bị bào mòn tạo thành nhiều hố nông lẫn hang động, khiến bọn họ không thể cưỡi ngựa, chỉ có thể rút lui từng bước một.

Càng lúc càng có nhiều thành viên đội cảm tử của giặc Thát để ý tới vai trò đặc thù của Dương Lăng nên lũ lượt kéo sang. Giặc Thát có trên nghìn người, lúc tấn công lên núi bị chết mất hơn hai trăm, nay còn khoảng tám trăm tinh binh. Quân Minh trên núi cộng lại không quá bốn trăm người, dù nhờ vào địa lợi, song vẫn bị mưa tên của đối phương bắn cho tử thương hơn trăm người. Mặc dù ai nấy đều ra sức liều mạng, song hoàn toàn không thể ngăn bọn chúng đến gần Dương Lăng được.

Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy cũng bắt đầu đại chiến với giặc Thát. Ngũ Hán Siêu sốt ruột đến toát mồ hôi trán, một đao quét ngang đón đỡ binh khí của mấy tên giặc Thát, quay đầu gầm lên:

- Đại nhân, mau rút đi! Lên ngựa mà chạy! Thuộc hạ không chiếu cố tới nổi đâu.

Đoạn chàng phi thân qua, một tay chộp Dương Lăng, tay kia cầm đao, mắt đỏ ngầu, tính cắp y xông ra khỏi vòng vây.

Có điều chàng mới vừa búng người mấy bước, mấy tên dũng sĩ Thát Đát can đảm không sợ chết đã nhào tới cản đường. Cầm cây phác đao nặng trịch bằng một tay, uy lực giảm mạnh, Ngũ Hán Siêu đành buông Dương Lăng ra, gầm lên một tiếng, hai tay cầm chắc thanh đao đánh văng mấy tên giặc Thát ra xa.

Nhác thấy chiến sự không ổn, Dương Hổ vừa chiến đấu cùng giặc Thát vừa tiến đến gần Thôi Oanh Nhi nói nhỏ:

- Tình hình không ổn. Giặc Thát đang nhắm vào tên họ Dương, chúng ta đi thôi. Mau! Nếu chậm trễ thì bất kể quan binh đắc thế hay giặc Thát thủ thắng cũng đều không phải là kết quả tốt cho chúng ta đâu.

Thôi Oanh Nhi hừ nhạt một tiếng đáp:

- Chạy đi đâu chứ? Trên đỉnh núi không cưỡi ngựa được, vừa đánh vừa lui thôi. Dương Lăng đang ở đây, quân thủ vệ Đại Đồng tất sẽ liều chết chạy lại.

Một chiêu chánh thủ đao(*) đỡ lấy cây thác thiên xoa của tên giặc Thát, nàng lại thuận thế bước lên, sử một chiêu phản thủ đao(**) chặt đứt tay gã, tung cước đá văng gã đi, đoạn quay đầu lại liếc Dương Hổ nói vội:

- Dương Lăng là khâm sai, đại diện cho Hoàng đế, đại diện cho triều đình. Hôm nay đứng trước mặt mấy trăm quan binh y đã mở miệng nói bất kể là quan hay cướp chỉ giết giặc Thát thôi thì quyết sẽ không nuốt lời. Quan binh đến thì sợ gì chứ?

(* và **: kiểu cầm vũ khí xuôi và ngược. Chánh thủ đao là cầm xuôi, mũi đao/kiếm chĩa về phía trước, thiện công; phản thủ đao là cầm ngược, mũi đao/kiếm chĩa ra sau, thiện thủ)

Dương Hổ thầm tức giận trong lòng, nhưng lúc này thật sự không phải là lúc để cãi cọ với thê tử, đành phát tiết lửa giận lên người bọn giặc Thát, khiến đao pháp càng trở nên mạnh mẽ. Trong mỗi tiếng gầm quát của hắn lại thấy đầu óc bay, chân tay cụt, thế như chẻ tre.

Thấy trượng phu mình oai phong như vậy, Thôi Oanh Nhi cũng không khỏi vui mừng mỉm cười. Nàng thoáng quay đầu trông thấy bọn Dương Lăng đang bị vây bởi hơn chục tên giặc Thát, Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy thế như cọp điên, đỡ trái hở phải, liều mình chống đỡ. Bọn thị vệ chung quanh muốn sáp lại gần nhưng bọn chúng đều đang chém giết sinh tử cùng giặc Thát, sợ rằng vừa xoay người liền sẽ bị đao bén kề cổ, chỉ nóng lòng lo lắng mà lại không thể giúp gì.

Nàng vội quát một tiếng, phi thân phóng đến, nhún người mấy cái liền đã đáp xuống cạnh Dương Lăng, vừa kéo tay y vừa gắt:

- Là một đại nam nhân mà thực là vô dụng. Theo ta đi!

Nàng túm chặt lấy Dương Lăng, xoay người chạy về phía sau. Mặt đất trên đỉnh núi nhấp nhô cao thấp, khắp nơi tuyết trắng chất dày, với địa thế như vậy, nàng căn bản không thể mang Dương Lăng phi thân, chỉ có thể lôi y chạy như điên mà thôi.

Thôi Oanh Nhi vừa vung đao đỡ đòn mấy tên giặc Thát vừa kéo y chạy nhanh hơn. Vừa vượt lên mấy bước, nàng chợt cảm thấy đống tuyết dưới chân hơi bị hẫng, thầm kêu không hay. Nàng vừa định vặn người mượn lực hông để khỏi ngã thì Dương Lăng đang bị tay nàng kéo không kịp dừng lại đã va vào người khiến nàng bị trượt chân, cả người ngã vào trong hố tuyết. Tay phải nàng đang nắm chặt Dương Lăng không kịp buông ra khiến y cũng bị lôi ngã theo nàng xuống dưới.

Chỗ này thực chất là một cái hố sâu; do tuyết rơi nhiều, mà lại nhớp dính, nên mặc dù phía dưới trống trơn, tuyết đọng bên trên vẫn dần lấp miệng hố lại, khiến người ta không thấy có chút dị trạng nào. Những lúc tuyết lớn rơi đầy trời, những giếng nước dưới lòng đất trên vùng bình nguyên cũng sẽ xuất hiện loại hiện tượng này, dân bản xứ gọi nó là "quỷ phong tỉnh" (giếng ma lấp - ND). Người đi đường không nắm rõ địa hình, khi đi đường tắt ngang qua đạp phải sẽ ngã vào mà chết đuối.

Hồng Nương Tử vốn có thể dừng lại, nhưng bị Dương Lăng va đụng nên ngã xuống, vù cái đã rơi xuống hơn hai trượng. Nàng cũng mặc không thể tóm lấy Dương Lăng nữa, trong lúc khẩn cấp vội vứt đao mà cố bám víu vào chung quanh. Vách đá nham thạch bị nước mưa xói mòn nên nàng không thể bám chắc, thân hình chỉ hơi dừng lại một chút rồi lại tiếp tục rơi xuống ngay.

Cứ như vậy, rơi rơi dừng dừng, rơi xuống phải đến sáu bảy trượng sâu, rốt cuộc nàng cũng bấu được vào một khối nham thạch nhô ra. Hồng Nương Tử vừa thở phào một hơi thì Dương Lăng cũng đã rơi tới. Vừa đụng vào người nàng, Dương Lăng không hề suy nghĩ gì liền theo bản năng ôm chặt lại, thân thể trượt từ từ xuống người Hồng Nương Tử, hai tay y liền ôm chặt lấy đùi nàng.

Thân thể Hồng Nương Tử thoáng trĩu xuống, suýt nữa tuột tay, may mà lực tay nàng khoẻ, liền vội cố sức bấu lấy mỏm nham thạch. Trong cái bóng tối như bưng lúc này nàng mới giật mình phát hiện Dương Lăng đang ôm chặt lấy hai đùi, đầu ép vào mông mình, liền vừa giận vừa ngượng vội quát bảo:

- Vô lại! Buông ta ra!

Dương Lăng sợ đến độ tim đập thình thịch, cảm thấy Thôi Oanh Nhi đang vùng vẫy hai chân, y liền vội kêu lên:

- Không buông được! Không buông được! Buông ra ta sẽ ngã chết đó!

Mặc dù đang ngượng gần chết nhưng Thôi Oanh Nhi vẫn cảm thấy mắc cười không thôi. Nàng tức giận:

- Ai thèm quan tâm ngươi chết hay không? Còn không buông tay ta sẽ đạp ngươi xuống đó. Như... như vậy còn thành ra thể thống gì?

Tuy mặc áo bông rất dày, nàng vẫn rất nhạy cảm nhận biết được bộ ngực áp phía sau hai đùi mình đang đập như đánh trống. "Xem ra bỗng nhiên bị ngã thực đã khiến vị đại nhân này sợ lắm đây, mà không phải là y có ý vô lễ". Nghĩ vậy nàng bèn mềm lòng, ngữ khí dịu lại:

- Ngươi bám vào vách đá ấy, đừng ôm ta!

Dương Lăng sợ chọc giận nàng ta, bèn định thần lại một chút, rồi một tay bấu chặt cặp đùi chắc nịch thẳng tắp của Hồng Nương Tử, một tay sờ soạng chung quanh. Trái phải và trước sau đều trống trơn, chút ánh sáng le lói trên miệng hố không đủ để soi nhìn, cũng không biết cái hang này rộng bao nhiêu. Chỗ Hồng Nương Tử bắt trúng là khối nham thạch nhô ra, vách tường nham thạch phía đối diện lại hơi lõm vào một chút. Y quào thử lại bốc phải một nắm bùn, bùn đất rơi xuống dưới hố rào rào, sợ quá lật đật rụt tay về.

Do bận bịu tìm chỗ bám, y cảm thấy tay còn lại sắp không còn đủ sức ôm Hồng Nương Tử nữa, liền vội rụt tay về ôm tiếp, uể oải bảo:

- Chung quanh không thấy thứ gì có thể nắm lấy. Cô đừng cử động, để tôi trèo lên trên rồi cùng bám lấy mỏm đá là được.

Hồng Nương Tử sững người. Nàng cảm thấy Dương Lăng quấn chặt lấy cơ thể đang treo lơ lửng của mình, hai tay cài vào nhau lần lên đến hông, người thoáng dịch lên trên, hai đùi tức thì kẹp chặt lấy chân mình, tiếp đến lại tới hai tay xích lên, cứ thế xen kẽ, vậy mà đã sắp ôm lên tới ngực mình. Hồng Nương Tử hốt hoảng gào lên:

- Ngươi làm cái gì vậy?

Lúc này hai tay Dương Lăng đã lủi tới giữa ngực và bụng nàng, nghe nàng quát, hai tay y lại trượt xuống, ôm chặt lấy eo cô nàng. Từ nhỏ đến giờ ngoại trừ trượng phu ra, nàng có bao giờ từng bị người khác thân cận đến thế đâu? Thế là nàng lập tức ngượng đỏ chín mặt mày, vừa giận vừa xấu hổ mắng y:

- Vô lại, mau dừng tay!

Dương Lăng vội ngừng mọi "hoạt động" lại. Một lúc sau, y mới ngượng ngập nói:

- Sự cấp tòng quyền, tôi... dù sao thì cứ ôm như vậy cũng không phải là cách hay.

Thôi Oanh Nhi ngượng đến quẫn trí, mắng:

- Tòng quyền cái rắm á! Thực là đồ vô dụng, Đại Minh hết thời rồi mới đẻ ra cái thứ tướng quân bất tài như ngươi!

Dương Lăng thật sự sợ chọc cho nàng ta giận mà đạp mình xuống dưới hang sâu, đành thiểu não đáp:

- Vậy... vậy tôi không động đậy gì như vầy thì chắc được chứ?

Hai người đều mặc quần áo dầy cộm, da thịt không có mấy cảm giác, nhưng ôm chặt như vậy lại khiến trong lòng Hồng Nương Tử rất khó chịu. Hiện nay hai tay nàng đang bám lấy mỏm đá, Dương Lăng thì ôm chặt eo nàng, cho dù nàng thực có bản lĩnh thông thiên đi nữa thì chuyện đạp y xuống cũng đâu phải dễ dàng gì! Nhưng nếu cứ để y ôm lấy nàng như vậy thì thực không ra thể thống gì cả! Hồng Nương Tử không còn cách nào khác đành bảo:

- Ngươi đừng cử động, để ta kéo ngươi lên!

Nói đoạn nàng hít một hơi dài, bắt đầu lần mò dò một chỗ lõm hơn để bám chặt vào khối đá. Tiếp đó nàng vươn một cánh tay ra sau lưng tóm lấy áo Dương Lăng, dặn dò:

- Buông tay để ta kéo ngươi lên! Ngươi nhích sang bên này sẽ có thể bám được vào mỏm đá.

Buông tay ra, chỉ dựa vào một tay nàng ta túm áo mình? Tim Dương Lăng lại bắt đầu đập thình thịch. Nhưng bảo y cứ ôm người ta một cách vô sỉ như vậy, y lại không thể làm được (TJ: em làm được!). Hết cách, Dương Lăng đành phải nắm lấy vạt áo nàng, quấn chặt trong tay rồi mới thả lỏng hai chân.

Hồng Nương Tử nín thở, vận sức kéo người y lên. Vừa kéo lên được nửa thước nàng liền phát hiện hai tay y đang nắm chặt vạt áo của mình, không khỏi dở khóc dở cười quay đầu lại bảo:

- Ta sẽ không ném ngươi xuống đâu, còn không b...

Lúc này nàng đã kéo Dương Lăng lên đến ngang tầm với mình, do sợ hơi thở nặng nề của mình sẽ phà vào mặt người ta nên Dương Lăng cũng đã nín thở lại. Hang tối như bưng, không nhìn thấy gì, Thôi Oanh Nhi không hề phát hiện mặt y gần kề đầu mình. Lúc này vừa quay đầu môi nàng đã vừa khéo lướt nhẹ lên má phải Dương Lăng, chạm nhẹ vào môi y.

Dương Lăng chỉ cảm thấy một vật gì mềm mại và ấm áp thoáng chạm vào môi mình rồi tách ra, trong nháy mắt liền sững người, liền biết ngay môi nàng vừa vô ý lướt qua, đây nào phải chuyện đùa! Nín thở hồi lâu nên y cũng không thể nín được nữa, hơi thở nặng nề không kiềm được mà phà lên má, lên cổ Hồng Nương Tử.

Bên ngoài tiếng chém giết đã bớt dần, cũng có thể... chỉ là ảo giác.

Trong hang yên tĩnh đến đáng sợ, trong bóng tối Dương Lăng cũng không nhìn thấy được Hồng Nương Tử đang có vẻ mặt gì. Y chỉ sợ Thôi Oanh Nhi thẹn quá hoá giận sẽ giết mình diệt khẩu, hai tay càng bám áo nàng đến chặt. Qua một lúc sau, y mới nghe tiếng Thôi Oanh Nhi lúc này đã quay đầu đi nói:

- Buông tay! Bây giờ ngươi vịn hai tay lên là sẽ có thể sờ được một khối đá rồi.

Âm thanh của nàng vẫn rất bình tĩnh, chỉ đến mấy chữ cuối cùng mới thấy hơi run run.

Dương Lăng cũng không dám nói gì khác, hai người rất ăn ý, nín thinh không nhắc đến sự đụng chạm vô ý khi nãy. Y cố lấy can đảm buông tay, lần mò lên trên từ từ, đầu tiên sờ phải một mu bàn tay mềm mại, liền vội dịch sang bên một chút, thử một lúc rồi mới bám chặt lấy mỏm đá đó, đoạn thở dài nói:

- Tốt rồi! Nhưng mà... sức lực tôi có hạn, sợ sẽ không cầm cự được lâu. Bên ngoài... cũng không biết thắng bại thế nào rồi.

Thôi Oanh Nhi đáp khẽ:

- Khi nào ngươi hết sức thì ta sẽ đỡ ngươi lên. Thắng bại bên ngoài... chỉ đành phó thác cho trời thôi.

- Ôi! - Dương Lăng thở dài, lo lắng ngước đầu nhìn lên - Nếu viện quân còn chưa đến, người của tôi sẽ toàn quân chết sạch thôi! Giặc Thát chỉ cần ném thêm vài tảng đá xuống, hai ta liền sẽ bỏ mạng ở...

Y vừa nói đến đây, khoé mắt chợt như thấy có vật gì rơi xuống, tiếp đó mũi chợt đau nhói, nước mắt lập tức tràn ra. Một hòn đá cỡ nắm tay từ trên rơi xuống đã đập trúng mũi y.

Dương Lăng không kịp trở tay, theo phản xạ đưa một tay xuống thoa mũi, cánh tay kia bám vào chốn ẩm ướt trơn trợt, khớp đốt ngón tay lại bị tê cóng nên không trụ được, cả người y vụt cái liền rơi xuống.

- Cái đ...!

Tiếng chửi còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, Dương Lăng chợt thấy miệng hang tối sầm, một giọng nói vùng Lai Dương xen lẫn tiếng khóc rưng rức đang gào thét bên trên:

- Đại soái! Bà mẹ nó sao ngài lại ngã chết thế này!

Chú thích:

một trong hai kỳ (tương đương huyện) thuộc lãnh thổ đặc khu Tuy Viễn thuộc Nội Mông xưa, phiên âm từ Tumed.

Ebook made by A Bư - BanLong.us


Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #không