Ngoại truyện một ( Tuổi thơ của anh và em)

Xứ Cần Thơ những năm ấy, người ta chỉ cần nhắc tới hai họ Trịnh và Phan là ai nấy đều phải kính nể.
Một nhà quyền, một nhà thế.
Nhà ông Hội đồng Trịnh đất ruộng cò bay thẳng cánh, người làm đếm không xuể.
Còn ông Bá hộ Nguyễn thì trùm vùng sông nước, ghe lúa, ghe gạo chạy đầy bến.
Hai ông là bạn tâm giao, giao hảo nhiều đời, con cái cũng qua lại thân thiết.

Giữa cái phủ Bá hộ nguy nga tráng lệ ấy, lại có một cậu chuyện về số phận bi thương của người đàn bà tên Hà.

Ngày còn con gái, bà làm người hầu cho bà Cả siêng năng, miệng nhỏ nhẹ, chưa từng cãi ai nửa lời.
Ai ngờ chỉ một đêm, khi ông Bá hộ say rượu trở về, bà bị ép buộc trong căn phòng chứa đồ cũ.
Sau đêm ấy, bà mang thai.

Bà Cả nổi cơn thịnh nộ, đập bàn đập ghế, đòi đuổi đi cho khuất mắt.
Nhưng ông Bá hộ, sợ miệng đời dị nghị, lại sợ chuyện lộ ra ngoài, bèn cưới bà làm vợ lẽ, coi như "đền danh tiết".
Cưới thì cưới, nhưng vì thân phận người ở bị cho là thấp hèn bà bàn ăn riêng, nhà riêng, chỉ được mặc lại đồ cũ của bà Hai.
Cả phủ nhìn bà không khác gì một con điếm phản bội chủ, không từ thủ đoạn để leo lên giường bá hộ ước vọng đổi đời.

Khi mang bầu đến tháng thứ tám, bà Hà vẫn phải ra sân giặt áo quần cho mấy cô lớn trong nhà.
Có lần bà trượt chân, xém té, bị bà Hai chỉ mặt chửi:

"Đồ thứ hầu hạ mà cũng bày đặt mang cốt nhà này trong bụng, trời đất ơi, ô nhục quá đi mất!"

Bà chỉ cúi đầu, nước mắt rơi lẫn trong giọt mồ hôi.
Cái thân phận vợ lẽ vốn sinh ra để chịu đòn roi và tiếng nhục.

Đêm bà sinh, mưa đổ như trút.
Cả phủ chẳng ai đoái hoài, chỉ có con ở già lén lấy nước ấm đỡ đẻ.
Thằng bé lọt lòng gầy nhẳng, da trắng, mắt đen láy.
Bà Cả liếc nhìn rồi cười khẩy:

"Con của người hầu mà cũng đòi mang họ Phan à?"

Bà Hà ôm con vào lòng, run rẩy đáp nhỏ:

"Tên nó là Thế Luân, tôi chỉ mong nó sống được thôi."

Nói xong, nước mắt rơi trên trán đứa trẻ.
Ngoài kia, mưa vẫn đổ như khóc thay cho người đàn bà bạc mệnh.

Những năm sau đó, bà Hà sống lặng lẽ trong khu nhà sau.
Ngày làm việc quần quật, đêm xoa lưng con, kể những câu chuyện cổ tích về "Người tốt sẽ được báo đáp", "Ở hiền gặp lành", "Người ác sẽ phải nhận quả báo". Dù bà sống hệt như ở địa nhưng vẫn muốn chắc mót hết tất cả sự lương thiện của mình để dạy dỗ đứa con nên người, sống cho phải đạo. Đó là hi vọng duy nhất của bà.

Thế Luân càng lớn càng giống cha, tư chất cũng hơn hẳn những người con trai khác của ông bá Hộ khiến ông ta cũng bắt đầu để mắt đến. Ông không muốn lãng phí tài năng, thêm nữa dù gì cũng là con trai của ông nên ông đang cân nhắc đến việc bồi dưỡng Thế Luân. Điều đó khiến bà Cả càng thêm ghét.

Bà Hai thì sai người hầu lén hắt nước dơ trước cửa phòng, có hôm bỏ côn Trùng vào cơm.
Bà Hà chỉ cười, dặn con:

"Con đừng nói với ai, họ làm thế cũng vì thương cha con thôi."
Thằng bé không hiểu, chỉ thấy mẹ mỗi ngày gầy đi, ho nhiều hơn.

Một lần, trời trở lạnh, bà vẫn bị sai ra giặt đồ dưới giếng.
Đêm đó, bà ho đến bật máu.
Thế Luân hoảng hốt, chạy khắp nơi cầu xin người giúp.
Không ai đoái hoài.
Người ta bảo:

"Mẹ mày chỉ là vợ lẽ, bệnh thì kệ, cha mày bận tiếp khách rồi."

Vài tháng sau, bà mất, không một ai dựng tang đường.
Chỉ có Thế Luân quỳ bên xác mẹ, đôi mắt mở to vô hồn.
Cậu nhỏ khẽ vuốt gương mặt đã lạnh, miệng run run:

"Má ơi, con sẽ không khóc nữa... má đừng bỏ con..."

Từ hôm đó, đứa trẻ ấy không còn khóc thêm lần nào nữa.
Trong căn nhà rộng thênh thang, cậu sống như một cái bóng bị quên lãng.

"Người xấu sẽ không bị Trời trả báo đâu má."
Thế Luân vừa nói vừa cười trước gò đất người ta đào vội ở sau vườn để chôn xác mẹ nó.

;

"Năm ấy, ông Hội đồng Trịnh dẫn con trai út là Nguyên An sang thăm phủ Bá hộ.
Giữa cái sân rộng lấp lánh nắng trưa, Nguyên An trông thấy một đứa bé gầy guộc, áo vá chằng vá đụp, đang lom khom nhặt từng cánh hoa rơi.

An đứng ngẩn người hồi lâu rồi khẽ hỏi:
- Em tên gì?

Đứa bé ngẩng lên, đôi mắt đen láy như hồ nước sâu thẳm:
- Em... là Thế Luân."

Ánh nắng khi ấy chiếu lên vai hai đứa trẻ.
Một đứa con nhà quyền quý, một đứa mang thân phận thấp hèn mà đâu ai ngờ, chính giây phút ấy, một sợi chỉ đỏ hình đã âm thầm buộc chặt hai người lại với nhau.

;

Hôm đó là một ngày trời trong veo, nắng trải vàng khắp lối. Ông bá hộ Phan và ông hội đồng Trịnh  hai người bạn thân lâu năm rủ nhau đưa mấy đứa con trai đi leo núi chơi. Cả đám con nhà giàu hí hửng, áo quần tươm tất, giày da bóng loáng. Riêng Thế Luân lẽo đẽo phía sau, ôm đống đồ lỉnh kỉnh.

Cậu chưa từng được đi xa như vậy bao giờ. Từ ngày mẹ mất, quanh quẩn của cậu chỉ là cái sân gạch đỏ và hàng cau sau nhà.

- Ê, thằng con bà hầu! Mày đi để khiêng đồ chớ ai rủ mày chơi đâu! - Thằng con bà Hai chõ miệng, nói lớn cho cả đám nghe.

Đường lên núi quanh co, dốc đá dựng đứng. Càng đi, gió càng thổi mạnh. Thế Luân nhỏ con, đi sau rốt. Cậu thở hổn hển, ôm giỏ đồ nặng muốn rụng tay. Mấy đứa đi trước thi nhau leo lên, thỉnh thoảng quay lại chọc:

- Nhanh lên coi, đồ con rùa!
- Mày chậm quá, chắc tao ngủ trưa trên đỉnh luôn quá!

Thế Luân không nói gì. Cậu chỉ cúi đầu.

Nhưng rồi chuyện gì đến cũng đến. Khi cả đám dừng lại nghỉ, một thằng bỗng lén đi vòng ra sau, xô mạnh vào vai Thế Luân. Cậu giật mình, trượt chân, rồi "rầm" một cái ngã nhào xuống hố sâu.

Tiếng đất đá rơi lộp bộp. Mọi thứ tối sầm lại.
Cậu đau điếng, nghe xương chân như nứt ra.

- Trời ơi... cứu em với... - Cậu cố kêu, nhưng tiếng lọt thỏm giữa núi rừng.
- Mày... mày có sao không?
Một thằng hỏi vọng xuống, giọng run.
Em... em đau... lắm... cứu em lên...

Một lát sau, tiếng chân người chạy loạn. Cậu biết... tụi nó bỏ đi rồi.

Thế Luân ôm chân, ráng ngồi dậy. Cái hố không sâu lắm, nhưng đủ khiến cậu không trèo lên nổi. Trời dần xụp tối. Bóng cây đổ dài, tiếng chim lạ kêu rợn cả người. Cậu sợ, ôm mặt khóc nấc.

Cậu nhớ mẹ.
Nếu mẹ còn sống, chắc sẽ chạy đến ôm cậu, quạt cho cậu, nấu cháo cho cậu. Nhưng mẹ đâu còn nữa. Mẹ nằm ở góc vườn sau, dưới bụi chuối già, xa lắc.
Nước mắt cậu rơi lã chã. "Mẹ ơi, con đau quá..."

Trên con đường mòn cách đó không xa, Nguyên An - con trai ông hội đồng Trịnh đang lạc đường. Cậu lớn hơn Thế Luân hai tuổi, da trắng, mặt sáng, đôi mắt đen lúc nào cũng như đang cười. Vừa đi vừa nghêu ngao hát:

"Trời chiều buông nắng vàng vương mái tranh..."

Đang hát nửa chừng, cậu nghe tiếng ai khóc. Ban đầu nhỏ xíu, rồi càng lúc càng rõ.
Cậu dừng lại, nghiêng tai nghe. Giữa rừng, tiếng khóc trẻ con nghe buồn lắm, như con mèo lạc kêu trong đêm mưa.

- Ai đó? - Nguyên An gọi lớn.
Tiếng khóc im bặt. Rồi lại vang lên, yếu ớt:
- Cứu... cứu tôi với...

Nguyên An hốt hoảng chạy theo tiếng gọi. Một lúc sau, cậu thấy cái hố. Dưới đó là một thằng nhỏ bùn đất dính đầy người, mặt lem luốc, chân sưng vù.

- Trời đất! Sao em xuống đó làm chi vậy?
- Em...em... bị té... - Thế Luân nói, giọng khàn đi.

Nguyên An nhìn quanh, không thấy ai. Cậu tháo cái áo đang mặc, xé làm đôi, rồi bện lại với mấy nhánh dây rừng, cột thành một sợi dây dài.

- Nè! Bám vô, anh kéo lên!
- Em... em sợ té...
- Không sao đâu, tin anh đi!

Cậu cúi người, kéo hết sức. Tay rát cả da, vai mỏi nhừ. Cuối cùng cũng kéo được Thế Luân lên. Cả hai ngã nhào ra đất, thở hổn hển.

Thế Luân vừa lên đến nơi, chưa kịp mừng đã òa khóc nức nở.
Nguyên An nhìn cậu, bật cười:

- Trời đất, em khóc nữa là anh bỏ lại đó nghen chưa!
- Đừng... đừng bỏ em... - Thế Luân hốt hoảng, nắm tay cậu chặt cứng.
- Giỡn đó! Anh đâu có bỏ em đâu.

Nói rồi Nguyên An khẽ vỗ vào lưng cậu, giọng nhẹ hều:
- Nín đi, em khóc hoài, ma rừng nghe nó tới đó.

Thế Luân ngưng bặt, chỉ còn tiếng nấc nhỏ xíu. Mặt cậu lem luốc, hai mắt sưng đỏ, nhìn lên mà ngại ngùng.

- Chân em bị gãy hả?
- Dạ... chắc vậy... đau lắm...
- Vậy anh cõng em, chịu không?

Thế Luân tròn mắt, chưa kịp gật thì Nguyên An đã cúi xuống, xoay lưng lại.
- Leo lên đi. Nhanh. Trời sắp tối rồi.

Cậu ngập ngừng một chút, rồi leo lên. Lưng Nguyên An ấm lắm, lại có mùi nắng nhẹ. Nguyên An đi từng bước chậm chạp, vừa đi vừa nói bâng quơ cho Thế Luân quên đau:

- Em biết không, hồi nhỏ anh té xuống ao, khóc muốn chết. Cha anh nói, ai khóc nhiều là sớm bị già đó. Nên em đừng khóc nữa, không thôi mai mốt thành ông già nhỏ xíu à.

Thế Luân khúc khích cười, rồi lại nấc.
Cậu áp má lên vai Nguyên An, thấy tim mình đập mạnh. Lần đầu tiên có người cõng cậu, nói chuyện với cậu như vậy. Không ai gọi cậu là "con hầu", không ai mắng mỏ. Chỉ có một người... bảo "đừng khóc nữa".

Khi đoàn người đi tìm đến nơi, họ thấy Nguyên An đang cõng Thế Luân từ trong rừng bước ra. Cảnh tượng khiến ai cũng sững lại.
Ông hội đồng Trịnh chạy đến, mặt đầy lo lắng:
- Con có sao không, An? Trời đất, con đi đâu mà giờ mới về!

Nguyên An cười toe:
- Con đi cứu người ta chớ đi đâu.

Ông bá hộ Phan nhìn Thế Luân đứa con rơi của mình ánh mắt thoáng qua rồi lảng đi chỗ khác.
Không ai nói gì thêm. Chỉ có Nguyên An vẫn cúi xuống, kéo áo cho Thế Luân, nhỏ giọng:
- Về nhà rồi đừng sợ nữa nghen. Có anh ở đây rồi.

Ông hội đồng Trịnh có ba người con trai. Trong đó, Nguyên An là út. Ai nhìn qua cũng biết ông thương thằng nhỏ này nhất nhà. Người ta nói, có lẽ vì Nguyên An có khuôn mặt giống hệt người vợ quá cố của ông người mà ông từng yêu nhất đời. Mỗi khi nhìn con, ông lại thấy thấp thoáng bóng dáng người xưa, nên thương, nên cưng, đôi khi đến mức chiều hư.

Nhà ông hội đồng giàu nứt tiếng trong vùng. Đất ruộng trải dài đến tận con kênh lớn, ghe thương hồ nào đi ngang cũng biết tên. Nguyên An sinh ra trong nhung lụa, muốn gì có nấy, tính tình lại tốt, chẳng kiêu căng như những cậu ấm khác. Cậu hay giúp người, nhất là những ai bị ức hiếp.

Từ ngày ấy, Nguyên An hay qua nhà bá hộ Phan chơi. Ông hội đồng và bá hộ vốn là bạn thân nên cũng không ai cấm cản. Nhưng mỗi lần Nguyên An tới, đám con trong nhà bá hộ lại tỏ vẻ khó chịu. Chúng chào cậu nhưng mắt thì nhìn Thế Luân đầy tức tối.

Một buổi chiều, Nguyên An dẫn Thế Luân ra sau vườn chơi. Cậu vừa gọt khúc mía, vừa nói:
- Em biết hông, mấy đứa đó ganh tị với em đó.
- Ganh chi?
Thế Luân ngạc nhiên.
- Tại em đẹp trai nên người ta ganh tị vì nhan sắc không được bằng em đó.

Nói rồi Nguyên An cười ha hả còn Thế Luân thì đỏ mặt.

Từ hôm đó, Nguyên An và Thế Luân thân nhau. Hai đứa học cùng nhau. Đang lẽ Thế Luân không được đi học, nhưng ỷ bản thân được cha cưng chiều nhất nhà, Nguyên An cứ nằn nặc một hai đòi cha xin bá hộ Phan cho Thế Luân đi học cho bằng được.

Thế Luân hiền lành ít nói, Nguyên An lanh lợi, nói nhiều bù cho cả hai.

Ở trường, tụi bạn ban đầu không ưa Thế Luân. Đứa thì chọc "con hầu cũng đòi học", đứa thì bảo "thân phận thấp mà bày đặt làm sang". Nhưng chưa kịp cười lâu thì đã bị Nguyên An nói cho một trận ra trò.

- Nè, ai nói nữa là nghỉ chơi luôn đó nghe!
Nguyên An chống nạnh, giọng cứng rắn.

Với tụi nhỏ trong trường, Nguyên An giống như "ông hoàng nhỏ", chẳng ai dám đụng tới. Ông hội đồng Trịnh nổi tiếng giàu, lại có thế trong vùng. Ai mà chọc giận con trai út của ông thì y như rằng cha mẹ cũng phải đến xin lỗi. Thế nên khi Nguyên An lên tiếng, cả bọn im re.

Từ đó, chẳng ai dám chọc Thế Luân nữa. Thậm chí, có đứa còn đem bánh, đem kẹo tới nịnh nọt để biết đâu có thể làm thân cùng cậu ấm.

Với Thế Luân, Nguyên An là người đầu tiên đưa tay kéo cậu lên khỏi hố sâu không chỉ là cái hố trong lòng đất, mà là hố sâu của cô đơn, sợ hãi, tủi thân.

Còn với Nguyên An, có lẽ cậu cũng chẳng hiểu vì sao mình quý em ấy đến vậy.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip