Cựu Trần Bất Ngữ (1)

Một câu chuyện nhỏ về "cuộc đời này" của hai con người.

______

(0)

Mưa xuân rơi ngoài hiên, nắng hạ nhuộm sương sớm, gió thu lay chuông nhỏ, tuyết đông phủ lối mòn. Chẳng qua là một cuộc đời bình thường, ẩn mình trong Cựu Trần, trở về giữa rừng sâu, không nghe tiếng nói vọng về, không còn những điều nuối tiếc.

(1)

Kinh Trập ngày ấy, Chủy phu nhân sinh hạ một tiểu công tử.

Linh phu nhân ánh mắt dịu dàng, nụ cười rạng rỡ. Nàng nói hôm nay là Kinh Trập - sấm xuân rền vang, vạn vật sinh sôi. Đây là một tiết trời đẹp, là một ngày lành. Đúng lúc đó, thị vệ mang đến lễ vật đã chuẩn bị sẵn, đó là một chiếc vòng tay nhỏ bằng bạc được khắc hoa văn tinh xảo, treo hai chiếc chuông bạc nhỏ, cầm trên tay lắc nhẹ còn vang tiếng leng keng lanh lảnh, nhỏ nhắn và vô cùng đáng yêu. Cung Lãng Giác ghé vào bên chiếc bàn thấp, nhìn chuông bạc bằng ánh mắt mê thích, cũng muốn đòi Linh phu nhân một cái. Linh phu nhân xoa xoa khuôn mặt tròn trắng trẻo của cậu, cười nói: "Cái này dành cho tiểu đệ đệ ở Chủy cung, trước đó không phải đã nói với Lãng nhi rồi sao, di nương sinh hạ đứa bé này, bất luận là muội muội hay đệ đệ, Lãng nhi đều trở thành ca ca, vì vậy phải yêu thương, bảo vệ đệ đệ muội muội có đúng không? Nếu đã như vậy, Lãng nhi còn muốn chiếc vòng nhỏ này của tiểu đệ nữa không?"

Cung Lãng Giác giống như một tiểu đại nhân tự kiểm điểm lại bản thân mình: "Lãng nhi biết sai rồi, Lãng nhi không nên đòi vòng của tiểu đệ. Lãng nhi phải yêu thương đệ đệ, cũng muốn bảo vệ đệ đệ".

Linh phu nhân lấy một miếng bánh hoa quế trên bàn rồi tiến tới: "Lãng nhi thật ngoan, vậy thưởng cho Lãng nhi một miếng bánh ngọt nữa. Chờ sinh nhật năm nay, ta cũng sẽ tặng cho con một chiếc vòng tay có được không?"

Cung Lãng Giác vui vẻ ra mặt, nhận lấy chiếc bánh, cùng Linh phu nhân đi ra ngoài.

Đi được nửa đường lại nghe hạ nhân đến báo tin. Nhưng lần này khác hẳn niềm vui ban nãy, sắc mặt hắn u buồn, giọng nghẹn ngào.

Chủy phu nhân hạ sinh một người con trai, nhưng chưa kịp nhìn mặt con đã rời nhân thế, hỉ sự hóa tang sự trong cùng một ngày.

Trong Cung Môn, Giác cung ở gần Chủy cung và cách xa hai cung còn lại. Linh phu nhân xưa nay vẫn thường cùng qua lại với Chủy phu nhân, giao tình giữa hai người cũng trở nên sâu sắc. Nghe được tin dữ, hộp gấm trong tay nàng rơi xuống đất, nàng lẩm bẩm tự nói: "Lẽ nào mọi sinh mệnh trên thế gian đều phải trả giá bằng mất mát? Tại sao xuân đến lại vô tình như vậy, phải lấy đi sự sống để đổi lấy một khởi đầu mới?"

Hoàng hôn buông xuống, ánh đèn mờ ảo đổ dài theo bóng người trên mái hiên. Cờ tang tung bay trong gió, đèn lồng trắng treo cao khắp Chủy Cung, ánh nến leo lét phản chiếu vầng trăng khuyết lạnh lẽo nơi cuối trời.

Cung Thượng Giác rời võ đường, đến thẳng Chủy Cung. Hắn hiếm khi đến nơi này, vừa bước qua cổng đã thấy khí lạnh mờ ảo bao trùm, sương độc nơi đây dày hơn các cung khác. Giờ lại càng u ám, tĩnh lặng như cõi chết. Mọi người đều mặc áo tang, lặng lẽ không nói một lời.

Người quản sự của Giác Cung vội chạy đến, liên tục gọi "Giác công tử", đưa hắn thay tang phục rồi dẫn đi tìm Linh phu nhân.

Lần đầu tiên trong đời, Cung Thượng Giác gặp được Cung Viễn Chủy – chính là ngày cậu được sinh ra, cũng là ngày mất của mẹ cậu.

Giữa một vùng trắng xóa, hài nhi mới sinh được bọc trong lớp bông mềm ấm áp, nằm trong vòng tay Linh phu nhân. Mắt nàng đỏ hoe, hẳn là đã khóc rất nhiều. Thấy Cung Thượng Giác, nàng gọi: "Thượng Giác, hãy đến xem đệ đệ của con".

Cung Lãng Giác cũng khóc. Linh phu nhân nói với cậu rằng đệ đệ không còn mẹ nữa. Dù cậu chưa hiểu rõ sống chết là gì, nhưng cũng hiểu rằng, mất mẹ là điều rất buồn.

Cung Lãng Giác tiến đến, nắm lấy tay anh trai, tủi thân nói: "Ca ca, đệ đệ không còn mẹ nữa rồi..."

Cung Thượng Giác đi tới bên cạnh Linh phu nhân, hai vị phu nhân từ Vũ Cung và Thương Cung ra hiệu cho cậu nói nhỏ một chút. Cậu nín thở, đến gần đứa bé còn quấn trong tã, nhìn thấy em trai út của Cung Môn vẫn đang ngủ yên lành.

Linh phu nhân nói: "Thượng Giác, đây là Viễn Chủy, Cung Viễn Chủy".

Cung Thượng Giác khẽ đưa tay chạm vào bàn tay nhỏ xíu cong cong của em bé, dịu giọng gọi: "Viễn Chủy".

Viễn Chủy đệ đệ.

Đứa trẻ ngủ say đột nhiên khẽ mở mắt, cất tiếng ư a yếu ớt, vẫy bàn tay trái như đang đáp lại.

Cung Lãng Giác nắm tay Cung Thượng Giác, hớn hở kêu lên: "Ca ca, Viễn Chủy đệ đệ đang đáp lại huynh đó".

Các phu nhân khẽ bật cười, khóe môi Cung Thượng Giác cũng cong lên.

"Viễn Chủy đệ đệ, sau này ta sẽ bảo vệ Lãng nhi, cũng sẽ bảo vệ em thật tốt".

Nhưng niềm hân hoan ấy chẳng kéo dài bao lâu – bởi từ đó, hắn gần như không còn cơ hội gặp lại Viễn Chủy.

Sau khi Chủy phu nhân nhập táng, Chủy Cung đóng chặt cửa lớn, không tiếp bất kỳ ai – ngay cả trưởng lão hay Chấp Nhẫn cũng đành quay về tay không. Phải đến một tháng sau, trưởng lão buộc phải lên tiếng đòi tổ chức lễ đầy tháng cho Cung Viễn Chủy, Cung Thượng Giác mới lại được đặt chân vào cung này lần nữa.

Tang lễ được thu dọn, song Chủy Cung vẫn lạnh lẽo hoang vu, khiến người ta sinh lòng sợ hãi. Chủy Cung chủ đầu bù tóc rối, trông như người đã hóa điên.

Trưởng lão giận dữ, cùng cha của Cung Thượng Giác và cung chủ Thương Cung đưa hắn vào đại sảnh, không biết họ đã nói gì.

Linh phu nhân dắt hai anh em Cung Thượng Giác và Cung Lãng Giác đến phòng ở của hạ nhân, tìm được tiểu công tử đã đầy một tháng tuổi.

Chủy công tử - một đứa bé như em lẽ ra phải được thương yêu và che chở. Dù không cần vàng bạc châu báu, cẩm y ngọc thực, nhưng cũng không nên sống trong cảnh như thế này: mẹ đã mất, cha lại không thương, nếu không nhờ bà vú năm xưa luôn bên cạnh phu nhân đích thân nuôi dưỡng trong phòng của bà, cậu bé e đã chẳng sống nổi đến ngày hôm nay. Nhưng bốn phía Chủy cung tràn ngập độc khí, bản thân Cung môn đã có chướng khí rất nặng. Trẻ sơ sinh không được điều dưỡng bằng thuốc, làm sao khỏe mạnh được? Bà vú cũng không còn cách nào khác. May sao đến ngày đầy tháng, Chủy cung mở cửa, bà ôm đứa bé quỳ gối trước các phu nhân, nghẹn ngào cầu xin cứu lấy tiểu công tử. Cung chủ nói: Tiểu công tử sinh ra đã mang theo tai họa, nó đã cướp đi thê tử mà ngài yêu thương nhất. Ngài không nhận đứa con này. Bà vú khóc lóc nói: "Nhưng phu nhân đã trông chờ ngày con trai chào đời biết bao nhiêu...Trước khi lâm chung, người vẫn mỉm cười, nắm lấy tay lão nô, đem chiếc khóa trường mệnh đã chuẩn bị từ lâu cho tiểu công tử giao cho ta, còn dặn rằng..."

"Ta mong rằng Viễn Chủy của ta sẽ sống một đời bình an thuận lợi, sống trăm tuổi lâu dài, hạnh phúc vô ưu."

Người đã gọi con mình bao lần "Viễn Chủy", lời trăn trối cuối cùng là: "Mẹ xin lỗi, con của mẹ, mẹ muốn dành cho con thật nhiều yêu thương..."

Nhưng từ khi người ra đi, đứa trẻ ấy phải chịu đựng nỗi đau bị cha ghét bỏ.

Linh phu nhân xót xa ôm lấy đứa bé vào lòng, thở dài: "Nếu hắn không nuôi, để ta nuôi."

Nàng đeo chiếc vòng bạc gắn chuông cho đứa trẻ, đeo thêm khóa trường mệnh lên cổ. Cậu bé vung tay, tiếng leng keng vang lên, cười vui vẻ thích thú.

Cung Lãng Giác – khi ấy vẫn chỉ là một đứa trẻ – nghiêm mặt nói: "Viễn Chủy đệ đệ đừng sợ, từ nay về sau Lãng ca ca sẽ bảo vệ đệ!"

Mọi người xung quanh đều bật cười.

Cung Thượng Giác xoa đầu đệ đệ, cất lời trêu: "Lãng nhi hôm trước còn nói cần ta bảo vệ, nay đã bảo vệ được Viễn Chủy đệ đệ rồi sao?"

Cung Lãng Giác một tay nắm ca ca, một tay nhẹ nhàng kéo góc áo đệ đệ, cười thật tươi nói: "Huynh bảo vệ đệ, rồi đệ và huynh cùng nhau bảo vệ Viễn Chuỷ!".

Cung Thượng Giác cũng cười, thiếu niên còn chưa đầy mười tuổi ngây thơ nói: "Ừ, ta sẽ bảo vệ các em". Hắn định nắm tay Cung Viễn Chủy, nhưng đứa trẻ đã giơ tay lên trước, nắm chặt ngón trỏ của hắn vào lòng bàn tay. Tiếng chuông ngân vang đan xen cùng tiếng cười trẻ thơ tạo nên một khúc nhạc ấm áp.

Tuy nhiên, điều Linh phu nhân mong mỏi cuối cùng vẫn không thể thành hiện thực...

Sau lễ đầy tháng, ngay cả Chấp Nhẫn phu nhân ra mặt nói muốn nhận nuôi đứa trẻ dưới gối mình cũng không thể khiến Chủy Cung chủ nhượng bộ. Người đàn ông vốn đã cô độc, sau khi mất đi tình yêu duy nhất đã hoàn toàn điên cuồng. Hắn cự tuyệt nói: "Ta sẽ không để con ta gặp chuyện gì. Ta sẽ nuôi dạy nó, cho đến ngày nó đủ năng lực kế vị Chủy Cung." Hắn rút ra một lọ sứ, tung độc phấn đầy trời, khiến ai nấy đều lùi bước. Trong tay hắn, đứa bé khóc lóc thảm thiết, tiếng chuông kêu vang rối loạn. Cuối cùng, mọi người chỉ có thể trơ mắt nhìn cánh cổng Chủy Cung lần nữa đóng chặt, tiếng khóc nhỏ dần sau bức tường cao, khiến người ta đau nhói lòng.

Từ đó về sau, suốt mấy năm liền, Cung Thượng Giác hầu như không còn cơ hội gặp lại Viễn Chủy đệ đệ – đứa bé đeo chiếc vòng bạc có chuông kêu leng keng. Cung Lãng Giác còn nhỏ, tính mau quên. Ban đầu vẫn thường nhắc nhớ muốn đến thăm tiểu đệ, nhưng dần dà việc học thêm nặng, chuyện mỗi ngày càng nhiều, rồi cũng không còn nhắc tới nữa. Chỉ có Cung Thượng Giác là vẫn luôn nhớ. Thế nhưng, so với Lãng Giác, hắn gánh trên vai nhiều trách nhiệm hơn: mỗi ngày luyện võ cùng sư phụ ở võ đường, học thuật trị quốc với cha, học đại đạo kinh thư cùng phu tử – ngày ngày bận rộn, mệt mỏi đến rã rời, đâu còn thời gian nghĩ đến điều gì khác. Chỉ có mỗi khi đến dịp lễ Tết, Linh phu nhân lại dắt hai anh em đến trước cửa Chủy Cung tìm người. Nhưng năm nào cũng như năm nào, đều không thể toại nguyện.

Sau này, mỗi khi nhớ lại mùa xuân năm ấy, trong ký ức vẫn là cờ tang giăng khắp, tiếng khóc vang vọng sau những bức tường cao.

Ấy chính là khởi đầu của cả một đời Cung Viễn Chủy.

(2)

Đêm mưa, sấm rền vang. Cung Viễn Chủy bị tiếng động làm tỉnh giấc, mở mắt ngẩn ngơ nhìn những tia chớp xé ngang bầu trời qua khung cửa sổ. Bên cạnh, bà vú cũng bị đánh thức, nửa mê nửa tỉnh với tay kéo chăn đắp cho cậu.

Trước kia, cậu rất sợ sấm sét. Mỗi khi nghe tiếng sấm, cậu lại khóc nức nở không ngừng. Nhưng từ khi biết nhớ biết nghĩ, cậu không còn khóc nữa. Cậu không muốn thấy bà vú vì dỗ mình mà thức trắng cả đêm. Cậu từng nghe những hạ nhân xì xào: "Bà ấy vì nó mà chẳng được ngủ yên, thật là một gánh nặng."

Cung Viễn Chủy nắm lấy bàn tay nhăn nheo của bà, nhỏ giọng nói: "Bà ơi, con không sợ đâu. Bà ngủ đi nhé."

Chẳng bao lâu sau, bên tai cậu lại vang lên tiếng thở đều đặn, êm êm của bà.

Sáng sớm hôm sau tỉnh lại, mưa đã ngừng. Cung Viễn Chủy đẩy cửa sổ, hít một hơi mùi đất ẩm sau mưa. Vừa định ra ngoài thì bị bà gọi lại. Bà lấy từ hòm gỗ ra một bộ y phục mới, giúp cậu thay. Bộ đồ vải thô giản dị, do chính tay bà từng mũi kim đường chỉ khâu thành, vừa vặn với thân người nhỏ bé của cậu. Cung Viễn Chủy thích thú vuốt ve viền lông mềm nơi tay áo, xoay người khoe bà, chiếc chuông bạc đeo trên cổ tay khẽ rung leng keng.

Bà cười dịu dàng nói rất hợp, rồi chải tóc cho Cung Viễn Chủy, sau đó bưng đến một chén mì trắng trứng gà làm bữa sáng, "Hôm nay là sinh nhật của tiểu công tử, mong tiểu công tử một tuổi mới bình an thuận lợi, sống trăm tuổi lâu dài, hạnh phúc vô ưu."

Cung Viễn Chủy ngẩng mặt, nghiêm túc nói: "Con cảm ơn bà."

Cậu ăn sáng cũng rất ngoan, không để sót lại một giọt nước canh nào.

Sau khi dùng bữa sáng, cậu ra sân sau nơi hạ nhân ở đào đất nghịch bùn. Lúc này đất còn ẩm mềm, đào không tốn sức, cũng dễ tìm được chút côn trùng nhỏ. Cậu hí hửng bỏ những con côn trùng vừa tìm được vào chiếc bình đất nhỏ bà đã chuẩn bị. Gương mặt bé con tập trung nghiêm túc. Hạ nhân đi ngang đều tránh cậu ra vài bước, ánh mắt nhìn tràn đầy sự chán ghét.

Đến giờ hẹn, Cung Viễn Chủy phải đi gặp cha. Bà vú vẫn mỉm cười như mọi khi: "Cung chủ vẫn rất quan tâm tiểu công tử mà. Năm nào vào ngày sinh nhật của công tử  cũng sẽ dành một ngày một đêm ở bên cạnh ngài."

Mỗi ngày từ sáng sớm đến hoàng hôn, Cung Viễn Chủy phải ở trong mật thất cùng cha: học y thư, nhận biết dược thảo, phân biệt độc vật. Nếu sai, sẽ bị phạt uống một chén thuốc không rõ công dụng. Có khi toàn thân đau đớn như bị thiêu đốt, có khi ngứa ngáy đến phát cuồng. Khi cơn đau qua đi, cậu lau mồ hôi lạnh trên trán, tiếp tục đọc to: "Tam lăng, mao căn, phục linh, mã tiền tử, thương nhĩ tử, xuyên luyện tử..."

Bà vú luôn nói: "Cung chủ là vì muốn công tử thành tài. Công tử đừng giận cha."

Từ khi Cung Viễn Chủy còn lẫm chẫm tập đi, bà đã nói vậy. Khi người khác nghi hoặc: "Cung chủ chẳng quan tâm đứa trẻ này, vứt nó cho hạ nhân nuôi. Bà còn lo lắng làm gì?". Bà vú chỉ lặng lẽ đáp: "Cung chủ muốn công tử học cách tự lập từ nhỏ. Người có kỳ vọng cậu ấy sẽ thành tài."

Mọi người cười nhạo bà.

Lại hỏi, lời này nói ra, bà có tin là thật không?

Bà đã tin tưởng. Bà phải tin rằng cung chủ rất quan tâm tiểu công tử, không muốn tiểu công tử trở thành một người không có người thân. Ban đầu, bà chỉ lừa chính mình. Sau này, khi Cung Viễn Chủy ngày ngày bị đưa đi học y độc, đêm lại trở về khu ở của hạ nhân, bà bắt đầu lừa luôn cả đứa nhỏ.

Bà nắm lấy bàn tay đầy vết thương của Cung Viễn Chủy mà rơi lệ, đứa trẻ lại nhẹ nhàng lau nước mắt cho bà, nói: "Bà ơi, bà đừng khóc. Con muốn học, con thật sự thích những thứ này."

Cung Viễn Chủy không nói dối. Cậu thật sự thích y học, thích độc thuật, không quan tâm người đàn ông lạnh lùng kia có xem mình là con hay không. Cậu chỉ được gọi ông là "Cung chủ", tuyệt đối không được gọi là "cha". Nếu gọi một tiếng cha sẽ lại nghe một câu mắng chửi, gọi một tiếng mẹ sẽ phải chịu một lần trừng phạt.

Đầu năm ấy khi tuyết tan vào cuối đông, bà vú bị nhiễm phong hàn và lâm bệnh nặng. Dù uống thuốc đã lâu nhưng vẫn không khỏi hẳn, để lại tật ho kéo dài. Cung Viễn Chủy không còn nghĩ đến "cha mẹ" trong miệng người khác có ý nghĩa gì. Cậu chỉ dồn tâm sức vào từng thang thuốc, từng vị dược. Người ta nói, Cung chủ Chủy Cung tuy là người kỳ quái nhưng y thuật cực cao. Cung Viễn Chủy muốn giỏi hơn cha mình. Ngày đầu tiên bị đưa vào mật thất, người cha coi cậu như quái vật lạnh lùng nói với cậu: "Những gì ngươi học, vừa có thể cứu người, cũng có thể giết người." Sau này, Cung Viễn Chủy đọc được nhiều điều trong những cổ thư y học: nào là đan dược trường sinh, nào là thuật cải tử hoàn sinh. Là thực hay là giả, lại không ai có thể kiểm chứng. Nhưng ít ra, nó cho cậu một lý do để tiến về phía trước. Khi ấy, cậu vẫn còn nhỏ, chưa biết được rằng phía trước là hư vô không lối thoát.Cậu chỉ muốn tìm cách cho bà vú được trường sinh, cho mẹ của cậu được sống lại.

Khi ý nghĩ ấy bị cha phát hiện, ông điên cuồng xé hết y thư trong mật thất. Ông cười như ma quỷ, từng câu từng chữ gào lên:

Nếu thật có trường sinh bất tử, vì sao mẹ ngươi lại phải chết sớm như vậy?

Nếu thật có cải tử hoàn sinh, vì sao ta dốc hết tâm huyết cả đời cũng không thể khiến nàng sống lại?

Còn ngươi! Ngươi đã cướp đi mạng sống của nàng, uống máu nàng, ăn thịt nàng, giờ lại ở đây nằm mơ giữa ban ngày sao?"

"Ngươi sinh ra - chính là tai họa lớn nhất đời nàng!"

Vì thế, Cung Viễn Chủy sống là để chuộc tội.

Cậu không hiểu tại sao bà vú lại chúc phúc cho sinh nhật của cậu, khi mà cha nói, ngày cậu ra đời chính là một ngày đau khổ của người mẹ mất sớm cậu chưa từng được gặp, là ngày tai ương giáng xuống. Vào ngày đó, cậu không phải đến mật thất mà cùng cha đến nghĩa trang trong sơn cốc, quỳ suốt một ngày một đêm trước mộ mẹ. Khi quá nửa đêm, cha mới đưa cậu về lại Chủy cung rồi rời đi một mình, bỏ lại cậu cùng ánh trăng lạnh lẽo.

Gió đêm nặng sương, trời càng lúc càng lạnh. Cung Viễn Chủy không muốn đánh thức bà vú, sợ làm bà mệt, nên cậu leo lên gốc cổ thụ trong sân. Qua lớp áo mỏng, cậu có thể cảm nhận được chiếc khóa trường mệnh trên ngực mình. Cậu ngồi thu mình trong những tán lá rậm rạp, lặng lẽ lắng nghe: Tiếng lá non đâm chồi, tiếng cành dài vươn cao, tiếng côn trùng cựa mình dưới đất. Vạn vật sinh sôi. Vạn vật sinh sôi...

Năm ấy, Cung Viễn Chủy hiểu rằng - thế gian này không có thần tiên bất tử, cũng chẳng có thuật cải tử hoàn sinh.

Mùa xuân không phải là mùa vạn vật hồi sinh. Bởi sinh mệnh con người quá mong manh, một cuộc đời người quá nhỏ bé.

Bà vú đã già, đời sống đạm bạc. Từ sau khi phu nhân qua đời, bà luôn u uất, chỉ vì muốn chăm lo cho tiểu công tử nên mới gắng gượng sống đến hôm nay. Cơn phong hàn năm đó cuối cùng cũng khiến bà một chân bước vào cõi chết. Nếu được chăm sóc kỹ, uống thuốc bổ đầy đủ, bà hẳn còn có thể sống thêm vài năm. Nhưng trong Chủy Cung, trước ánh mắt điên cuồng của Cung chủ, mạng của đám hạ nhân như bà cũng chỉ như cỏ rác.

Đầu tháng thứ hai sau sinh nhật Cung Viễn Chủy, khi rời mật thất trở về khu ở của hạ nhân, cậu thấy bà vú đang ngồi tựa trước cửa, như thường lệ đợi cậu về.

Ngoại trừ sinh nhật hằng năm, cậu luôn trở về vào lúc chạng vạng, bà sẽ chuẩn bị cơm canh, ngồi trên chiếc ghế nhỏ dưới mái hiên, ngóng trông cậu trở về. Nhưng lần này, bà chỉ nhắm mắt, im lặng. Bà không nghe thấy bước chân cậu, không thấy cậu đang đi vào sân, không cất tiếng gọi: "Tiểu công tử về rồi à? Hôm nay có món đậu phụ mềm mà công tử thích nhất đấy..."

Cung Viễn Chủy bước về phía trước, tay bà lạnh lẽo vô cùng. Mái tóc hoa râm được búi bằng chiếc trâm cài khắc đóa hoa quỳnh. Bà nói rằng đó là món quà năm xưa của phu nhân đã tặng cho bà, bà đã đeo nó rất nhiều năm.

Tóc của bà hơi rối vì tựa vào cửa mà ngủ thiếp đi, Cung Viễn Chủy tháo cây trâm kia xuống, có chút vụng về nhưng rất kiên nhẫn búi lại tóc cho bà. Tuy không đẹp lắm, nhưng chỉnh tề hơn rất nhiều.

Cậu quỳ xuống bên cạnh bà, nắm tay bà, nhỏ giọng nói: "Bà ơi, bà đi gặp mẹ con rồi phải không? Nếu gặp được người, bà kể cho người nghe về con nhé? Bà có thể hỏi giúp con... mẹ có hận con hay không? Có chán ghét con hay không?"

Câu hỏi ấy, cậu đã hỏi rất nhiều lần, bà vú cũng trả lời rất nhiều lần. Bà luôn chỉ vào chiếc khóa trường mệnh mà bà đã đeo cho cậu khi tròn một tháng tuổi và nói: "Tiểu công tử, phu nhân không hận con, không ghét con. Người luôn mong chờ con ra đời và ngày ngày vui vẻ vì điều đó. Con à, mẹ đã yêu con rất nhiều..."

Bởi thế, trước lúc lâm chung, người đã mỉm cười dịu dàng mãn nguyện, bởi thế, người đã nói rằng mong con của ta sẽ sống một đời bình an thuận lợi, sống trăm tuổi lâu dài, hạnh phúc vô ưu.

"Nhưng... tình yêu rốt cuộc là gì? Bà nói sau này sẽ dạy con biết cách yêu, biết thế nào là được yêu. Nhưng... 'sau này' của bà lại chỉ còn vài năm ngắn ngủi đến vậy sao? Viễn Chủy vẫn chưa kịp trưởng thành..."

Hoàng hôn buông xuống, tia sáng cuối cùng cũng tan vào bóng đêm. Cung Viễn Chủy mệt mỏi, mắt cay xè mà vẫn chẳng thể khóc. Cậu cứ mở to mắt, nói mãi, nói mãi, nếu không xung quanh thật sự quá yên tĩnh, cậu không thể chịu nổi.

"Bà ơi... bà và mẹ đều hy vọng ta sống trăm tuổi lâu dài, nhưng hai người đều không thể sống lâu trăm tuổi. Vậy con nhất định sẽ sống được như vậy, có thế thì hai người sẽ vui đúng không? Bà ơi, nếu bà gặp được mẹ, bà và mẹ có cùng nhau chờ con không? Thôi vậy, bà ơi. Người ta đều nói rằng con người sau khi chết sẽ được đầu thai. Bà hãy nắm tay mẹ con cùng nhau đi về phía trước đi, đi đến kiếp sau, sống một cuộc đời thật tốt, được không? "

Khi những người hầu tối muộn trở về, thấy Cung Viễn Chủy quỳ bên bà như đang ngủ, bà cũng không động đậy. Có người thấy lạ, vì trời đêm lạnh lẽo, bà vú xưa nay không ngồi ngoài này. Một người bước lại xem, nhẹ tay đẩy bà, bà nghiêng người rồi đổ xuống.

Tiếng kêu thất thanh vang lên khắp nơi.

Bà vú vốn nhân hậu, khi còn sống đối xử rất tốt với tất cả mọi người, khi bà mất, ai ai cũng thương xót. Họ dùng chiếc chiếu cuốn lấy bà, đem ra sườn núi ngoài cốc, tìm một chỗ ít cỏ dại, đào hố chôn xuống. Không có tang lễ, không có quan tài, không có bia mộ. Mọi người lục tục rời đi, lặng lẽ nói với nhau: "Bà ấy đối tốt với nó thế mà... nó chẳng khóc lấy một giọt nước mắt. Đúng là đồ vô tình vô nghĩa. Cha là quái vật lớn, nó chính là quái vật nhỏ. Sau này ai còn muốn quan tâm tới nó?"

Cung Viễn Chủy toàn thân lấm lem bùn đất, ôm một bó hoa dại trong lòng, nắm chặt gói giấy nhỏ trong tay, mặt không chút biến đổi đứng trước ngôi mộ đất mới đắp kia. Cậu trồng hoa dại xuống mộ, mở túi giấy rắc từng hạt giống xung quanh, tiếng chuông bạc vang vọng trong đêm tối.

Cậu nói: "Bà ơi... ngủ ngon."

Rồi cậu quay người rời đi, lại trèo lên gốc cổ thụ ấy, ngước nhìn những vì sao thưa thớt và vầng trăng khuyết trên cao, ngồi lặng lẽ suốt một đêm dài.

(3)

Chẳng ai bận tâm đến cái chết của một bà vú vô danh.

Ngoài Chủy cung, càng không ai hay biết.

Thế nhưng, cũng chính năm đó, cùng tháng đó, khắp nơi trong Cung môn treo cờ trắng.

Linh phu nhân tay nắm chặt vạt áo Cung Thượng Giác, gục đầu vào vai hắn, nhìn khuôn mặt hắn trắng bệch mà nức nở: "Thượng Giác, con khóc đi... Con phải khóc thì mới đỡ đau lòng hơn..."

Cung Thượng Giác đỡ mẹ ngồi xuống, lại kéo Cung Lãng Giác đang nấc nghẹn đến ôm vào lòng, nhẹ nhàng vỗ về an ủi. Mẹ không kìm được đau đớn dựa vào vai hắn khóc. Hắn cố giữ bình tĩnh, dù giọng đã nghẹn lại, khản đặc: "Mẹ, con không sao... Xin mẹ đừng lo."

Sau khi mẹ bình tĩnh lại đôi chút, hắn giao Cung Lãng Giác lại cho bà rồi đứng dậy rời đi, bước đến linh đường. Dù mới chỉ là một thiếu niên mười lăm tuổi, hắn đã tự mình gánh vác trách nhiệm của một trưởng tử.

Cung chủ của Giác Cung – cha của hắn – trong một chuyến công vụ vừa trở về đã là một thân xác không còn hơi thở. Tin dữ từ đầu bậc thang dài ngoài Cung Môn truyền về đến tận trong Giác Cung xa xôi. Linh phu nhân nghe xong, lửa giận công tâm, lập tức ngã quỵ. Đến khi tỉnh lại, điều đầu tiên bà thấy chính là chồng mình nằm bất động trong quan tài, lạnh lẽo và yên lặng.

Cung chủ Chủy Cung cuối cùng cũng rời khỏi cung, đích thân cho Giác Cung chủ uống một viên đan dược thần bí, như có kỳ tích, mang về một tia hi vọng. Thế nhưng vài canh giờ sau, vẫn không thể chống lại tử thần. Chủy Cung chủ khẽ lẩm bẩm: "Thế gian này... làm gì có kỳ tích..."

Đi bên ông là một đứa trẻ luôn cúi đầu im lặng. Cung Thượng Giác không có thời gian để để tâm đến nó, chỉ siết chặt hàm, im lặng tiếp nhận sự thật.

Cung chủ Giác Cung đã mang về cho Cung môn biết bao lợi ích không đếm xuể, vô số tài vật quý giá. Ngoài ra, ông còn đặc biệt chuẩn bị riêng một túi nhỏ, dành tặng cho vợ con mình:

Một nhành nguyệt quế, một hộp phấn má, một thanh đoản đao và một chiếc diều giấy.

Giác Cung chủ từ trước đến nay nói năng thận trọng, vậy mà ai cũng biết, ông bảo vệ và yêu thương vợ vô vàn, với con cái cũng yêu quý mà không chiều chuộng quá mức. Mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, người đàn ông mang dáng vẻ lạnh lùng lại bước vào tiệm phấn son, tỉ mỉ chọn từng hộp phấn thượng hạng, hay những cây trâm bạc đính hạt châu tinh xảo, hình ảnh ấy đã thành quen thuộc với người trong các cửa tiệm. Ông cũng thường dừng chân chọn lấy chiếc diều giấy xinh xắn, đôi khi là quả bóng da, khi lại là đèn hoa đăng – là những món đồ mà cậu con trai nhỏ yêu thích. Cuối cùng, ông chọn thêm một nhành nguyệt quế. Nếu không đúng mùa, sẽ là cành hoa khác thay thế. Với trưởng tử, ông nghiêm khắc hơn, nhưng cũng là người sẵn sàng bỏ thời gian mỗi ngày kèm hắn luyện võ, đọc sách, chưa từng vắng mặt. Thanh đoản đao được rèn suốt nhiều tháng, khắc chữ "Thượng", vốn là món quà ông định đích thân trao tặng cho trưởng tử của mình.

Cuối cùng khi Cung Thượng Giác cầm nó trong tay, đã trở thành di vật.

Giang hồ rộng lớn, khiến biết bao người thường ôm mộng phiêu bạt. Nhưng giang hồ sâu hiểm, cũng vùi lấp biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt.

Có người ghen tỵ với địa vị Giác Cung chủ trong giang hồ. Chỉ có vợ con ông mỗi ngày mong ông bình an trở về, hiểu sâu sắc nỗi lo: chẳng biết ông đang ở nơi đâu, có còn sống, có an toàn hay không. Ông từng hỏi Thượng Giác: "Giang hồ không chỉ có nghĩa khí hào hiệp, còn có lang sói hổ báo, vực sâu vạn trượng. Dù vậy... con vẫn nguyện gánh lấy trách nhiệm của một Cung chủ trong tương lai chứ?"

Cung Thượng Giác khi ấy đáp: "Cha có thể làm được, con trai cũng sẽ làm được."

Giữa ngày đông lạnh buốt, Cung Thượng Giác cắn răng, đứng tấn trên mặt đất lạnh giá, hơi thở hóa thành từng làn khói trắng, miệng đọc từng chữ: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín, thân luyện nghìn lần rèn giũa chẳng đổi chí. Cha cậu từng hỏi: "Thượng Giác, con có oán ta không?". Hắn bưng trà hành lễ, lời nói cử chỉ đều đầy phong thái quân tử: "Bước chân vào giang hồ, học võ để bảo thân, học văn để giữ đạo. Công dạy dỗ của cha, nỗi nhọc nhằn của người... cả đời này Thượng Giác xin ghi nhớ, biết ơn vô tận."

Cha hắn lặng im rất lâu, sau cùng trầm giọng: "Có con như vậy... là hạnh phúc của ta, cũng là phúc của Giác Cung, là phúc của cả Cung Môn."

Giang hồ này, chắc chắn Cung Thượng Giác sẽ có một chỗ đứng.

Nhưng ông lại không thể tận mắt nhìn thấy ngày này.

Chấp Nhẫn hỏi hắn: "Cung Thượng Giác, con có nguyện bước vào giang hồ không?"

Cung Thượng Giác nói: "Con đường của cha đã đi... cũng chính là con đường của con."

Lại quay đầu nhìn về phía mẹ, người vừa mất đi trượng phu, làm sao nỡ buông tay con trai của mình. Thế nhưng nàng chỉ lặng lẽ lau nước mắt, ngẩng đầu lên, để lộ khí chất đoan trang của một Cung chủ phu nhân, mỉm cười nói: "Thượng Giác, đi đi."

Cung Thượng Giác kế vị Cung chủ Giác Cung, mang theo thanh đoản đao và một lục ngọc thị vệ – người hộ vệ thân cận được Chấp Nhẫn đích thân chọn – bước chân vào giang hồ.

Và lần đầu tiên quay về Cung môn là lúc toàn thân hắn đầy thương tích.

Trán hắn sưng vù, vết bầm tím bên miệng chưa tan, phải nhờ Kim Phục đỡ khập khiễng bước vào trong Giác Cung, trông chẳng khác nào một kẻ bại trận thê thảm. Hắn lấy từ trong áo ra một hộp phấn và một nhành nguyệt quế, đưa cho mẹ: "Mẹ, để mẹ lo lắng rồi. Người yên tâm... dáng vẻ này, đây là lần đầu tiên, và cũng sẽ là lần duy nhất."

Đúng như lời hắn nói. Chưa đầy một năm, tên tuổi Cung Thượng Giác đã vang danh giang hồ. Người người đều biết Cung môn có một thiếu niên Cung chủ quyết đoán, thủ đoạn tàn độc. Những lời chê bai, nghi ngờ đã tan biến. Trưởng lão và Chấp Nhẫn cũng dần thêm yêu mến. Ngày hắn trở về Cung Môn, ai nấy đều thấy một thiếu niên tuấn tú, cốt cách phi phàm – là Cung chủ của Cung Giác ngày hôm nay.

Hắn trở thành một Cung chủ được tôn kính, ngẩng cao đầu đứng nơi cao nhất. Chỉ có Linh phu nhân mỗi đêm nắm tay con trai, vuốt ve từng vết thương trong lòng bàn tay, mu bàn tay, âm thầm rơi lệ cho đứa con chưa kịp trưởng thành của mình.

Sau khi mẹ rời đi, Cung Thượng Giác lần nữa mở mắt. Hắn đã rất lâu chẳng thể ngủ yên. Chỉ cần chút tiếng gió, tiếng lá, hắn cũng cảnh giác cao độ, như dã thú giữa rừng sâu. Hắn sợ mình sẽ chết đi, sợ khiến cho mẹ cùng Lãng nhi lại phải đau lòng thêm một lần nữa.

Ban ngày, Cung Lãng Giác luôn ở bên anh trai, nhìn anh xử lý việc trong cung, không quấy rầy, không ồn ào. Huynh trưởng hỏi cậu có muốn đi chơi đá cầu không, cậu lắc đầu: "Không đâu, đệ không muốn làm phiền ca ca. Chỉ cần trong những ngày ca ca không phải ra ngoài làm nhiệm vụ, ở nhà với đệ là đủ rồi."

Thật ra là muốn anh trai ở bên cạnh mình nhiều hơn.

Cung Thượng Giác xoa đầu đệ đệ, trầm mặc không nói gì.

Mỗi khi có tiệc gia đình, Cung Thượng Giác sẽ cùng mẹ và Cung Lãng Giác mang lễ vật đến dự tiệc, nhưng trong Giác Cung chưa từng bày biện thêm gì, lạnh lẽo vắng vẻ. Cho đến Tết Thượng Nguyên, Cung Thượng Giác phong trần mệt mỏi, vội vàng thúc ngựa trở về sớm sau chuyến công vụ, sai Kim Phục dẫn người trang hoàng Giác Cung rực rỡ đèn hoa. Linh phu nhân nhất thời ngẩn ngơ. Cung Lãng Giác nhìn đèn lồng đầy đủ màu sắc treo khắp hành lang dài, vui mừng không tả xiết.

Cung Thượng Giác ôm mẹ vào lòng, mỉm cười nói: "Từ nay về sau, con sẽ thay cha bảo vệ mẹ và Lãng nhi. Mẹ, chúc mừng Tết Thượng Nguyên."

Linh phu nhân không nhớ rõ mình đã bao lâu không thể nhìn thấy nụ cười của trưởng tử, dường như mới một năm, mà lại thấy dài như cả một đời. Nàng trở lại trong phòng, lấy ra một chiếc túi thêu hoa nguyệt quế. Trong túi là một viên ngọc bội – món quà nàng từng làm riêng cho Cung Thượng Giác. Miếng ngọc là do trượng phu nàng khi còn sống xuống núi đánh cho nàng, còn túi thơm là do chính tay nàng thêu, từng đường kim mũi chỉ mang theo hồi ức về mùa thu rực rỡ năm ấy, cây nguyệt quế nở hoa vàng rực khi hai người lần đầu gặp nhau. Đáng lẽ đó là quà sinh nhật mười lăm tuổi của Cung Thượng Giác, nhưng hắn không muốn tổ chức sinh nhật năm đó.

Cuối cùng vào ngày lễ Thượng Nguyên, chiếc túi ấy được treo ở bên hông Cung Thượng Giác.

Cung Lãng Giác nâng niu chiếc đèn rồng được anh trai tặng, trân quý như báu vật. Cung Thượng Giác nói: "Hôm nay là lễ hội, ca ca ở bên đệ. Đệ muốn làm gì cũng được, có điều ước nào, ca ca đều sẽ thực hiện". Cung Lãng Giác cuối cùng cũng cười thật tươi, nghĩ ngợi rất lâu, rồi nghiêm túc nói: "Ca ca, đệ cũng muốn có một thanh đoản đao."

Đệ cũng muốn bảo vệ mẹ, bảo vệ ca ca.

Bảo vệ Cung Môn, bảo vệ các huynh tỷ đệ muội, bảo vệ tất cả người thân của đệ.

Còn cả đệ ấy nữa, người đệ chưa từng gặp lại, không còn nhớ rõ dáng hình... tiểu đệ đệ năm xưa.

Linh phu nhân nghiêng đầu đi, gọi thị nữ tới, miệng nói: " Ơ kìa, hình như ta ngửi thấy mùi bánh ngọt... Chúng ta qua đó xem thử". Thị nữ đỡ nàng rời đi, có chút lo lắng hỏi: "Phu nhân, sao người lại khóc? Người không sao chứ?", bị nàng nhẹ tay gõ lên trán, cô lập tức im lặng.

Cung Thượng Giác nhắm mắt thật chặt rồi lại mở mắt ra, ngồi xuống trước mặt Cung Lãng Giác: "Được, Lãng nhi ngoan lắm. Sau này những ngày ca ca vắng nhà, đệ hãy thay ca bảo vệ mẹ, có được không?"

Cung Lãng Giác gật đầu thật mạnh.

Cung Thượng Giác tháo thanh đoản đao luôn mang bên hông, ngắm nhìn hồi lâu, cuối cùng trịnh trọng trao vào tay Cung Lãng Giác.

Chính thanh đoản đao ấy, hắn đã dùng để giết kẻ đầu tiên muốn lấy mạng mình. Và từ đó, vết rách dẫn lối vào giang hồ mở ra.

Cung Thượng Giác nghĩ: 'Cha ơi, người đã bảo vệ con suốt thời gian qua. Giờ đây con đã có năng lực, có thể tự mình đứng vững. Xin người hãy tiếp tục bảo vệ cho Lãng nhi, bảo vệ cho mẹ..."

(4)

Không biết mùa đông rét buốt này sẽ kéo dài đến bao giờ, mãi mà xuân vẫn chưa về.

Mùa đông năm nay lạnh giá hơn hẳn, chẳng thấy tuyết rơi, vậy mà cái lạnh lại thấu vào tim gan, thấu tận xương tủy. Cung Thượng Giác không hiểu tại sao lại thế, ôm chiếc chăn lông dày đi vào phòng Cung Lãng Giác, thay tấm chăn mỏng kia, rồi lại bỏ thêm than mới vào lò sưởi cạnh bàn. Sau đó, hắn đến phòng Linh phu nhân, kiểm tra cửa sổ có đóng kín không, bếp lò có đang cháy không.

Hắn nói: "Đông giá rét buốt, đừng để mẹ và Lãng nhi ban đêm chịu lạnh, nếu bị phong hàn thì không tốt đâu."

Kim Phục đứng bên cạnh tay cầm đèn, nghe vậy đột ngột quỳ sụp xuống đất, giọng run rẩy lo sợ xen lẫn nghẹn ngào: "Công tử, công tử... phu nhân và tiểu công tử đã... đã nhập lăng yên nghỉ trong sơn cốc rồi ..."

Cung Thượng Giác sững người, lặng lẽ đảo mắt nhìn quanh bốn phía lại chỉ thấy một mảng trắng xóa. Đó là những dải lụa trắng, đèn lồng trắng chưa kịp tháo xuống. Là áo tang trắng trên người mình và Kim Phục, là dải vải trắng buộc ngang trán.

"À", hắn cười khổ: "ban ngày chính mắt ta còn thấy mẹ và Lãng nhi được chôn cất trong ngôi mộ đen ấy... Sao giờ lại quên mất..."

"Công tử..."

Cung Thượng Giác đỡ Kim Phục đứng dậy, nhìn chằm chằm vào cánh cửa trước mặt hồi lâu rồi nói: "Kim Phục, đi lấy hai ổ khóa, khóa phòng của mẹ và Lãng nhi lại đi."

Kim Phục ngập ngừng một lúc lâu, định nói gì đó nhưng cuối cùng vẫn nuốt lời vào lòng, chỉ nhẹ giọng vâng dạ.

Cung Thượng Giác lại gọi hắn: "Viễn Chủy đệ đệ... đã được đưa về Chủy Cung chưa?"

Sau tang lễ, chính Cung Thượng Giác đã dặn Kim Phục hộ tống tiểu công tử hắn chưa từng gặp lại sau nhiều năm về lại Chủy Cung.

Kim Phục đáp vâng. Do dự một hồi, rồi khẽ khàng: "Công tử... gần đây người lao lực quá độ, xin hãy nghỉ ngơi sớm một chút..."

Cung Thượng Giác chỉ khẽ "ừ" một tiếng, xoay người rời đi.

Hắn bước chậm rãi trong màn đêm, dừng lại ở bậc thềm sân và ngồi xuống. Trước mắt là bóng dáng Cung Lãng Giác cầm đèn hoa đăng, cười ngây thơ gọi "ca ca", là hình ảnh Linh phu nhân dịu dàng mỉm cười gọi "Thượng Giác".

Nhưng rồi gió đêm thổi qua, lá khô rơi xuống, sân vườn vắng lặng, chỉ còn trơ trọi một mình hắn, lặng lẽ không một tiếng động.

Trong ký ức hiện về, hắn thấy Cung Lãng Giác nhỏ bé, bắt chước anh trai múa quyền đá cước, tập luyện đến eo mỏi lưng đau, hôm sau không dậy nổi. Vậy mà vẫn cắn răng chịu đựng, cố mặc quần áo, cầm thanh đoản đao chưa từng tuốt vỏ vung vẩy vài đường trước khi tiễn huynh trưởng rời đi.

Lại thấy Linh phu nhân mang canh nóng đến, múc cho hai anh em mỗi người một bát, vừa ăn vừa dịu dàng dặn dò đủ điều, từng lời đều chứa chan yêu thương.

Nhớ đến những dịp lễ tết, Linh phu nhân gói bánh, mang theo hai anh em đến Chủy Cung. Năm này qua năm khác, cánh cửa Chủy Cung vẫn luôn đóng kín, chẳng ai biết đứa em trai út giờ đây trông ra sao, sống thế nào. Mỗi lần đều thất vọng ra về.

Gần đến mùa hè, bên ngoài núi nở rộ hoa nguyệt quế. Trong Sơn Cốc Cựu Trần của Cung Môn độc khí nặng, hiếm có cây hoa được trồng. Cung Thượng Giác bèn đem nhiều nhánh nguyệt quế từ bên ngoài về tặng mẹ. Linh phu nhân khéo léo làm thành bốn chiếc túi thơm thêu hoa nguyệt quế, mùi hương nhè nhẹ dễ chịu. Ba chiếc treo bên hông, một chiếc hóa thành tro bụi, theo gió mà đi.

Mùa thu là mùa gặt hái, trong sân phủ đầy lá vàng. Linh phu nhân ngồi tựa vào ghế dưới tán cây, mắt lim dim nghỉ ngơi, bên cạnh là Cung Lãng Giác đọc sách viết chữ, chờ ngày Cung Thượng Giác trở về.

Mùa đông về, gió lạnh rít từng cơn, nhành mai đỏ trổ hoa trên cành. Cung Lãng Giác nói: "Năm nay thật lạnh quá, không biết bao giờ mới đến mùa xuân". Cậu mong được cùng mẹ và anh trai thả diều đón xuân. Linh phu nhân mỉm cười dịu dàng nói: "Lãng nhi đừng vội, mùa xuân sẽ đến thôi. Dù đến muộn một chút cũng chẳng sao. Chờ đến khi xuân về, nước sông ấm lên, thì sẽ lại là một năm phong cảnh đẹp."

Cung Thượng Giác rùng mình một cái, choàng tỉnh khỏi giấc mộng.

Trước mắt là cành mai trơ trụi giữa sân, hắn lẩm bẩm: "Mùa xuân năm nay... sẽ chẳng đến nữa."

Chẳng biết vì sao, những cành mai rực rỡ đều rụng hết. Cung Thượng Giác nghĩ, thế cũng tốt thôi. Giờ đây mỗi khi nhìn thấy màu đỏ, hắn chỉ nhớ đến những điều khác: Nhớ đến bàn tay mẹ lạnh buốt, thân thể em trai bé nhỏ vĩnh viễn không thể lớn lên, nhớ vũng máu loang lổ khắp cung và tiếng cười chế nhạo của kẻ thù.

Hắn ôm chặt ngọc bội và thanh đoản đao trong ngực, cố gắng truyền hơi ấm cho chúng, cũng như muốn sưởi ấm chính mình. Nước mắt chảy ra, cũng ấm nóng như thế.

Hắn nói: "Xin lỗi cha, là con vô dụng. Cung Môn gặp đại nạn kinh hoàng, con bất lực không thể cứu vãn."

Hắn còn nói: "Xin lỗi mẹ, con đã thất hứa. Con không bảo vệ được mẹ và Lãng nhi."

Cuối cùng, hắn khóc không thành tiếng: "...Xin lỗi... Lãng nhi. Ca ca là kẻ dối trá. Ta không bảo vệ được đệ, cũng không bảo vệ được mẹ. Không thể dẫn đệ đi thả diều, không thể cho đệ được nhìn thấy mùa xuân..."

Sẽ không còn một Tết Thượng Nguyên nào nữa.

Mùa đông này thật sự quá dài, quá khắc nghiệt...

Cung Thượng Giác nghĩ vậy.

Và Cung Viễn Chủy cũng nghĩ như vậy.

Cơn gió thổi qua sân viện Giác Cung, vượt qua tường cao, len lỏi đến Chủy Cung.

Gốc cổ thụ nơi đây bốn mùa không héo tàn, lúc nào cũng xanh tươi rợp bóng, lúc nào cũng trầm mặc đứng đó, cắm rễ vững chãi trong viện. Thiếu niên đang cuộn mình trên cây, khoác chiếc áo bông cũ kỹ không vừa người, bên trong vẫn là bộ áo tang trắng. Vết thương ở ngón tay đã được băng vải trắng, tuy không thấy rõ nhưng cậu biết đã gần khô miệng, chắc chỉ hai hôm nữa là lành.

Trong tang lễ của cha, cũng là tang lễ của nhiều người, cậu đã gặp Cung Thượng Giác. Là người cậu từng thấy thoáng qua nhưng chẳng biết là ai, khi ấy cậucvẫn chưa biết đó là "ca ca".

Chưa từng ai công nhận Cung Viễn Chủy là thiếu cung chủ của Chủy Cung. Cậu hầu như không ra khỏi cung, chỉ những khi có người trong Cung Môn mắc bệnh nan giải mà y sư đều bất lực, khi cha cậu được mời đến cứu chữa, lúc đó cậu sẽ được mang theo cùng đi. Cậu phải chẩn bệnh, phải kê thuốc. Nếu không làm được sẽ bị coi là vô dụng và bị đưa về Chủy cung chịu trừng phạt. Chỉ trong vài lần hiếm hoi ấy, cậu từng thấy công tử của Vũ Cung và tiểu thư của Thương Cung. Những người bên ngoài Chủy Cung đối với cậu như một thế giới xa vời mờ ảo.

Khi tiểu công tử Vũ cung áo quần sạch sẽ, ngây thơ chìa cho cậu một miếng bánh ngọt, cậu lùi lại liên tục như thể gặp rắn độc, nhanh chóng quay lưng bỏ chạy, miệng học theo đám hạ nhân gọi người kia là "con hoang". Nhưng tiểu công tử đó là ai, "con hoang" nghĩa là gì, bánh có vị ra sao, cậu chẳng hề hay biết. Cậu chỉ biết: Không được ăn bánh đó. Đó có thể là đồ ăn mốc meo hạ nhân ném cho, cũng có thể là thức ăn cha cậu bỏ thuốc vào bắt phải ăn.

Nhưng dù không muốn thì khi trở về Chủy Cung, cậu vẫn phải ăn. Vừa để no bụng, vừa để thử độc.

Mùa xuân năm nay, cậu nghe hạ nhân thì thầm: ngoài sơn cốc, thế lực Vô Phong đang ngầm rục rịch. Nếu đánh đến Cung Môn, đám người tay không tấc sắt trói gà không chặt như họ phải làm thế nào? Cung Viễn Chủy lúc này nói với cha: "Cung chủ, người có thể dạy con võ công không?"

Chủy Cung chủ bật cười lớn, ném cho cậu một quyển cổ tịch: "Một năm, luyện ra tám loại kịch độc trong sách. Nếu ngươi làm được, ta sẽ dạy."

Điều này cũng tiện cho mấy tên trưởng lão khỏi trách ông không đào tạo được người thừa kế. Dù ông ta cho rằng: Cung Viễn Chủy không xứng. Nhưng vì người ông yêu đã chết, ông đành nhẫn nhịn với đứa trẻ này và đối xử với nó bằng sự căm thù. Không thể để khi sống mất đi người yêu, đến chết rồi ông vẫn phải cách xa người đó.

Cung viễn Chủy nhận lấy y thư, ngày đêm vùi đầu luyện dược, nhưng giữa chừng lại gặp phải bế tắc, rất lâu cũng không thể đột phá.

Cung chủ thờ ơ lạnh nhạt đứng nhìn rồi bưng lên một chén thuốc mới rót vào miệng dược nhân.

Dược nhân ánh mắt đầy oán hận, phản ứng lại không đạt yêu cầu.

Cung Viễn Chủy cắn răng, hít sâu một hơi, tự uống thứ thuốc độc chính mình vừa luyện. Trong ánh mắt ngỡ ngàng hiếm hoi của cha, cậu đau đớn quằn quại dưới đất, lăn lộn khắp nơi. Cuối cùng lê đến cạnh bàn, nuốt lấy thuốc giải đã chuẩn bị sẵn, cả người cậu đổ mồ hôi lạnh, cố viết lại toàn bộ triệu chứng mà cậu cảm nhận được. Sau đó đổ bỏ bình thuốc, bắt đầu điều chế lại từ đầu.

Chủy Cung chủ mặt mày vặn vẹo dữ tợn, ôm đầu cười lớn như kẻ điên. Hắn nói: "Ta điên rồi. Ngươi cũng là một kẻ điên! Ta không xứng làm phu quân của nàng. Ngươi cũng không xứng làm con nàng!"

Nhưng Cung Viễn Chủy đau đến chết đi sống lại, không nghe được hắn đang nói cái gì.

Cuối cùng, tám bát thuốc độc được điều chế hoàn chỉnh, đặt ngay ngắn trước mặt cha. Bỗng ngoài viện vang tiếng hô náo loạn: "Vô Phong xâm nhập rồi! Nhanh trốn vào mật đạo!"

Cung Viễn Chủy ngơ ngác nhìn cha, kinh ngạc phát hiện người đàn ông bao năm điên loạn giờ đây lại tỉnh táo lạ thường, ánh mắt sáng quắc, thần sắc cứng rắn.

Ông nhặt quyển sổ ghi công thức thuốc mà Cung Viễn Chủy viết nhét vào lòng cậu, sau đó mở cửa mật thất đẩy cậu vào.

"Cút đi."

Tiếng huyên náo hỗn loạn khắp nơi, nhưng Cung Viễn Chủy chỉ nghe thấy giọng nói dửng dưng vô cảm của cha: "Theo bọn họ cút đi."

Cậu ôm cuốn sổ nhìn người đàn ông trước mặt, kẻ điên kia, cũng là Cung chủ Chủy Cung, là cha của cậu.

Chạy.

Cung Viễn Chủy.

Lần đầu tiên, cậu nghe thấy ông gọi tên mình.

Cánh cửa mật thất dần khép lại trước mắt.

Cậu há miệng, như muốn nói điều gì đó... nhưng không thành tiếng. Qua khe cửa cuối cùng, cậu thấy ông ấy uống một bát thuốc.

Chiếc bát có một vết mẻ. Cậu nhận ra đó chính là bát thuốc độc thứ tám cậu đã điều chế.

Cậu nghe được tiếng thét của mình: "Cha ơi!"

Đây là tiếng gọi duy nhất trong cuộc đời Cung Viễn Chủy, và cậu biết ông đã nghe thấy.

Cậu nhìn thấy ông ngã xuống, máu trào ra khóe môi, trên khuôn mặt nở một nụ cười đáng sợ.

Lần sau gặp lại, người cha chỉ gọi tên cậu một lần đã nằm trong quan tài.

Xung quanh vang lên tiêng kêu khóc, Cung Viễn Chủy cúi đầu nhìn giọt máu rỉ ra từ đầu ngón tay. Cậu nghe thấy ai đó nói: "Đồ máu lạnh như quái vật. Cha chết cũng không biết khóc."

Nhưng tại sao phải khóc?

Khóc có tác dụng gì? Khóc có thể cứu mẹ cậu sống lại sao? Có thể để bà vú sống trăm tuổi lâu dài sao? Có thể khiến cha công nhận cậu là con trai của mình sao? Khóc có thể giúp cậu được ăn no, mặc ấm, không bị ức hiếp sao?

Khóc có thể khiến cậu không đau và ngừng chảy máu sao?

Khóc... có thể khiến người ta yêu thương cậu sao?

Không thể được.

Cha cuối cùng cũng được an táng bên cạnh mẹ. Cung Viễn Chủy nghĩ, còn mình thì sao? Sau này mình sẽ được chôn ở đâu? Cậu muốn được chôn bên cạnh mẹ. Nhưng cha sẽ không cho. Vậy thì chôn cạnh bà vú vậy, làm bạn với bà. Cậu ngồi trên bậc thềm, máu ở đầu ngón tay dần khô, chẳng biết nên lau vào đâu. Áo tang là màu trắng, nếu dính máu, sẽ làm người khác phiền lòng.

Chính lúc ấy, cậu gặp Cung Thượng Giác.

Cung Thượng Giác bước đến lau đi vết máu cho cậu, rắc thuốc lên vết thương, băng bó cẩn thận. Cuối cùng giúp cậu tìm được câu trả lời.

Một lý do để khóc, một lý do để rơi nước mắt.

Cung Thượng Giác hỏi cậu: "Em tên là gì?", cậu đáp: "Ta tên là Cung Viễn Chủy."

Sau đó cậu lại hỏi: "Huynh sẽ gọi ta là Cung Viễn Chủy chứ?"

Cung Thượng Giác sững người, như lẩm bẩm với chính mình: "Thì ra... em chính là Viễn Chủy." Ánh mắt hắn vô thức nhìn xuống cổ tay cậu nhưng lại chẳng thấy gì cả.

Hoàn hồn lại, Cung Thượng Giác mỉm cười: "Viễn Chủy đệ đệ."

Hắn nói: "Ta là Cung Thượng Giác, Cung chủ Giác Cung, cũng là ca ca của em."

Hắn gọi Kim Phục, dặn đưa Cung Viễn Chủy trở về Chủy Cung. Việc phải xử lý lúc này quá nhiều, hắn nhất thời không thể đi theo. Trước khi rời đi, hắn khẽ xoa mái tóc còn rối đứa trẻ, dịu giọng mói: "Nếu có chuyện gì, cứ đến Cung Giác tìm ta."

Hắn biết Cung Viễn Chủy cũng như mình, đã không còn người thân. Hắn chỉ mong vẫn còn người có thể đối xử tốt với đứa trẻ này.

Cung Viễn Chủy nhìn bóng lưng rời đi ấy, nghĩ đến đôi mắt đỏ hoe của người đó. Có một câu hỏi cậu giấu trong lòng mà chưa từng hỏi:

Huynh dạy ta rằng, khi buồn có thể khóc...Vậy tại sao, huynh không khóc?

Rõ ràng huynh đau buồn như thế.

Đôi mắt huynh đượm buồn, bóng lưng cô đơn đến vậy.

Nhưng cậu không biết làm sao để gọi người ấy lại. Gọi bằng tên? Gọi "ca ca"? Phải gọi như thế nào? Cậu không biết.

Kim Phục nắm tay cậu dắt về Chủy Cung, ân cần dặn dò hạ nhân phải chăm sóc cậu chu đáo. Đám hạ nhân không ai dám chậm trễ trước mặt thị vệ thân cận của Giác Cung chủ, luôn miệng vâng dạ.
Bọn họ nói là giả ý, nhưng dường như Kim Phục lại thật lòng.
Hắn thật sự coi Cung Viễn Chủy là tiểu công tử. Trước khi đi còn cúi mình, kính cẩn gọi một tiếng: "Chủy công tử."
Cung Viễn Chủy.
Viễn Chủy công tử.
Viễn Chủy đệ đệ.

Hóa ra, cậu không chỉ là "quái vật nhỏ" nữa.

Cậu có một cái tên.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip