Người Việt có dân tộc tính không? (phần 1)

LỜI NÓI ĐẦU

Bàn về dân tộc tính, về tinh thần dân tộc là điều khó khăn, tế nhị. Khó từ cách định nghĩa đến cách đưa ra bằng chứng, trong thời buổi nhân tâm ly tán nầy, người ta thường đồng ý nhau về danh từ nhưng lại cãi vã nhau khi áp dụng lý luận vào thực tế.

Nói tổng quát về Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Phan Bội Châu thì lần hồi trở nên nhàm chán. Nói về cách uống trà, lễ Nam Giao, nước mắm Phú Quốc thì dường như tiêu cực, lẩm cẩm không làm thỏa mãn những người đang sốt ruột. Cây cổ thụ vươn lên trời, rễ ăn sâu vào lòng đất hút chất phân. Nói riêng về cây cổ thụ hoặc nói riêng về chất đất thì dường như phiến diện, điều quan trọng là giải thích sự liên quan giữa chất đất và màu xanh của lá cũng như giải thích việc cúng đình, lễ chùa, cấy phát vần công có ảnh hưởng như thế nào đến tài hoa và thái độ kiêu hùng của vua Quang Trung, liệt sĩ Nguyễn Thái Học.

Bởi vậy, tập sách này chỉ là khởi thảo. Người viết cố nắm bắt lấy vấn đề nhưng vẫn không nắm vững, nhiều đoạn quá dài, vô ích, lặp đi lặp lại trong khi nhiều đoạn cần thiết, có tánh cách quyết định chỉ được nói sơ qua. Dám mong đây là mớ tài liệu rời rạc - một đống xà bần - nào gạch bể, ngói vụn, cây gẫy, trong đó có vài món đáng chú ý, có thể xài được, đáng xem thử.

° ° °

Dân tộc tính là gì?

Danh từ "dân tộc tính" dường như chỉ xuất hiện từ năm 1945 và được bàn cãi từ đó về sau, kèm theo danh từ "cá tính dân tộc", "văn hóa dân tộc"?

Nếu chúng tôi không lầm thì trước kia các nhà văn hóa vẫn thắc mắc, tìm hiểu dân tộc tính Việt Nam nhưng họ dùng danh từ hơi khắc, thí dụ như:

- Quốc học, quốc hồn, quốc túy.

- Bốn ngàn năm văn hiến.

Danh từ "tinh thần dân tộc" được nhắc nhở đến, khi bàn về dân tộc tính. "Tinh thần" là ngụ ý tinh thần tranh đấu chống ngoại xâm: chiêu hồn nước, khóc quốc hồn.

Chính trị và văn hóa lại dính liền với nhau như trường hợp phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, do các nho sĩ đề xướng hồi đầu thế kỷ.

Nhiều người tạm định nghĩa dân tộc tính là tính chất đặc biệt của dân tộc. Dân tộc ta có gì khác, trong thói ăn nết ở, trong cách thức xây dựng nhà cửa, trong nếp suy tư? Để giải đáp, họ cho rằng dân Việt bắt chước giỏi, có óc châm biếm hài hước, cần cù siêng năng, mang cái tâm trạng hơi buồn buồn. Nhiều nhà khảo cổ Tây phương nghiên cứu kỹ lưỡng để xem người Việt có gì đặc sắc so với người Ai Cập, người Tàu, người Ấn Độ căn cứ vào di tích, vào những gì mà ngày nay còn chụp ảnh được, đào xới được, đọc được. Triêt lý Việt Nam gần như không có gì rõ rệt (tổng hợp Tam giáo), muốn nghiên cứu thì nên qua Trung Hoa, Ấn Độ, nhìn Hy Mã Lạp Sơn, Tây Tạng hoặc rừng núi tỉnh Sơn Đông, dòng sông Hoàng Hà. Những bản kinh kệ xưa nhứt là ở miền Ấn Độ, cái sọ ông Bàn Cổ ở mãi tận miền Bắc Trung Hoa. Người Việt mô phỏng vụng về mọi triết học, mọi hình thức văn hóa, mọi kỹ thuật. Người Tây Phương với tình cảm lãng mạn, với lòng yêu mến thiên nhiên đã hăm hở xuống thuyền để vượt đại dương, tìm chân trời mới, tìm thảo mộc, tìm văn hóa xa lạ, xa lạ đối với họ. Nhà thám hiểm và thương gia đi trước, vào thế kỷ thứ 18, những đội binh viễn chinh theo sau. Đến vùng đất mới miền gió mùa, họ tập tành làm văn sĩ, làm nhà khảo cổ, nghiên cứu về văn học, nhân chủng. Bao nhiêu đề tài hiện ra, cứ viết, cứ sưu tầm, vẽ tranh sơ sài là gây được dư luận, trở thành ngón bút "ăn khách", giúp cho đồng bào chánh quốc mua vui một vài trống canh. Người Tây phương bắt đầu làm quen với nhiều địa danh, nhiều thiên đường mới: những điệu vũ Bali (Nam Dương), cách uống trà Nhựt, những đền đài Đế Thiên Đế Thích, tiếng nói của đá Kim Tự Tháp, những đồ gốm Càn Long, hoặc đồ đồng thời "Trụ mê Đắt Kỷ", kho tàng vua chúa Mễ Tây Cơ, Nam Mỹ Châu. Những người giàu thiện chí, giào lòng nhơn đạo nằm nhà ở Tây Phương dạo ấy như dửng dưng, sống êm ấm, có vài phản ứng xót thương không đáng kể đối với thế giới nhược tiểu. Chuyện xa ở Đông Á thì đã đành. Đến như chuyên buôn người ở Phi Châu, dường như họ không thấy lương tâm cắn rứt cho lắm.

Và trong cái thế giới thiên nhiên với muôn hồng nghìn tía ấy, dưới mắt người Tây Phương, rõ ràng người Việt Nam chẳng có gì đáng kể, về hình thức. Người Nhựt, người Tàu, người Ấn Độ, người thiểu số Cao Nguyên, bộ lạc ăn lông ở lỗ ngoài hải đảo Thái Bình Dương đáng chú ý hơn. Ở dải đất Đông Dương này thì quyền ưu tiên dành cho Đế Thiên Đế Thích, nghệ thuật Chiêm Thành, hoặc cánh đồng rải rác những cái chum bằng đá ở Lào. Việt Nam thuộc vào hàng thứ yếu, tuy trụ sở hành chánh toàn xứ Đông Pháp được đặt tại Hà Nội và trụ sở thứ nhì ở Sài Gòn.

Thực dân theo dõi sanh hoạt người Thượng ở Cao Nguyên Trung phần, có lẽ vì chính trị, chiến lược hơn, dưới mặt họ số người Thượng này chỉ là người thổ dân ở hải đảo Nam Dương, không gì là độc nhứt vô nhị. Đến như người thiểu số Mán, Mèo, Thái ở vùng Cao Bằng cũng thế, chỉ là những nhánh nhóc của nhóm người từ rừng núi Vân Nam. Trong việc sưu tầm văn hóa, người Pháp đã tặng cho người Việt vài lời khen an ủi: sọ người ở Hòa Bình, trống đồng Thanh Hóa, lăng tẩm Huế, tượng nhà sư Minh Hạnh. Trước khi rút lui, người Pháp phát giác thêm những di tích ở đồng bằng Hậu Giang về nước Phù Nam, tại thương cảng Ốc Eo (núi Ba Thê - An Giang).

Thật là nghèo nàn, dưới mắt họ: vài tập tục lai căn, hoàn toàn vay mượn từ Trung Hoa, Ấn Độ với ngày Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, tục lệ quan hôn tang lễ, bùa phép.

Khi tổng kết văn hóa Đông Á, người Tây phương nói rất ít về Việt Nam hoặc không nói tới. Cuộc Nam tiến của dân Việt chỉ là hiện tượng chung. Thái Lan, Tàu, Miến Điện đều có cuộc Nam tiến để tìm đất sống. Đôi khi, người ta tóm tắt trong vài hàng khoảng thời gian từ đời Hùng Vương đến đầu nhà Nguyễn, để nói vài dòng về giai đoạn tiếp xúc với Tây Phương.

Văn hóa Việt Nam phải chăng là thứ văn hóa vay mượn vụng về, không đến nơi đến chốn, là học trò của Trung Hoa thời xưa? Người Nhựt biết sáng tạo nên họ có chữ viết đặc biệt, có đạo Phật mạnh mẽ, có đồ gốm độc đáo.

Tuy nhiên, các nhà khảo cứu hơi lúng túng, giải thích không rành rọt tại sao người Việt không bị đồng hóa với Trung Hoa, còn đánh thắng được quân Mông Cổ, quân Minh.

Họ tạm nhìn nhận rằng đân Việt có sức sống, không mạnh cho lắm vì nếu mạnh thì người Pháp đã bị đánh hất rồi. Suốt thời gian đô hộ, người Pháp duy trì quan niệm tự tôn, mua chuộc được một số quan lại, tay sai đắc lực. Họ muốn thương hại người Việt nhỏ bé như cha thương con, nếu họ không đến thì có lẽ nước Việt sẽ hoang vu, đa số mù chữ, đàn ông đàn bà để tóc, ăn trầu, đàn ông là nhà quê, đàn bà là Thị Ba, Thị Tư thiếu vệ sinh, ưa uống rượu, mê tín, điểm đáng than phiền nhứt là người Việt ưa ăn cắp vặt, thiếu thành thật, che giấu tình cảm (hypocrite), trước mặt thì đóng kịch sợ hãi, sau lưng thì chửi thề. Đúng là tâm lý của bọn cu-li. Người Việt du học bên Pháp dễ bị nhận lầm là người Tàu. Có người Pháp lại nhớ mang máng rằng Sài Gòn ở gần Hồng Kông, Thượng Hải, từ nơi này có thể đi xe hơi vài giờ đồng hồ đến nơi kia.

Người ta đã ngạc nhiên khi thấy người Việt Nam làm được chuyện lớn là đánh thực dân Pháp, đánh với tinh thần bền bỉ, với trình độ khoa học, với lòng yêu nước gần như ít dân tộc nhược tiểu nào có.

Nếu người Việt đánh thắng, chỉ đánh một trận thì có thể là cầu may, như tình cờ trúng số độc đắc. Nhưng lịch sử hồi 1945 là một thứ lịch sử dài, một năm sẽ được hậu thế ghi chép bằng mười năm, nó không phải là chuyện cầu may vì người Việt tiến từ thấp đến cao, trong khoảng thời gian ngắn và giờ đây dường như họ đang chịu đựng đau thương cho toàn thể nhân loại. 

  ° ° °  

Ông Nguyễn Trãi, trong bài Bình Ngô Đại Cáo nhắc đến (theo bản dịch của Trúc Khê): 

- Nước Đại Việt ta 
Nền văn hiến cũ 
Non nước cõi bờ đã khác 
Bắc Nam phong tục vẫn riêng 
Cơ đồ dựng trải Triêu, Đinh, Lý, Trần... 
Cho nên: 
Lưu Cung tham công mà phải thua 
Triệu Tiết muốn lớn càng mau mất 
Toa Đô bị bắt ở bến Hàm Tử 
Ô Mã phải chết ở sông Bạch Đằng... 

Để xác nhận người Việt Nam so với người phương Bắc (Trung Hoa) "cõi bờ đã khác, phong tục vẫn riêng", nền văn hiến cũ đối với ông là yếu tố khiến người Việt thâu nhiều chiến thắng quyết định, vạch rõ cõi bờ. Ông Nguyễn Trãi không nói rõ với nền văn hiến cũ, người Việt mang cá tính, phong tục riêng rẽ cụ thể như thế nào - cách ăn uống, cưới hỏi, cách thức cày ruộng, xây cất nhà cửa, đình chùa. Ông Nguyễn Trãi là nhà thơ. Lòng yêu nước được ông nói gọn trong hai tiếng "non nước". Chắc chi thiên hạ đời nay, mà đem non nước làm rầy chiêm bao. 

Non nước là chuyện non nước, là sức mạnh có thể làm giựt mình thức giấc những kẻ đang sống trong chiêm bao, cuộc sống ổn định giả tạo, thoáng qua thời quân Tàu đô hộ. Và chính "non nước" đã đánh tan quân Tàu. Non nước là văn hiến cũ, cũ trở thành mới với Bình định vương Lê Lợi.

Một luận điệu mới: nói đến lịch sử, nói đến văn hóa cổ truyền là lỗi thời, là chưa thấy hoàn cảnh hậu bán thế kỷ Hai Mươi của nền văn minh phồn thịnh, tràn ngập sản phẩm để tiêu thụ, hưởng thụ. Khảo cứu truyền thống văn hóa là chuyện lẩm cẩm. Lẩm cẩm vì nó không đem lại tiền bạc. Học sinh giỏi Việt văn, giỏi về sử địa chưa chắc thi đậu. Muốn thi đậu, người ta chỉ cần lo luyện thi Toán-Lý-Hóa. Khảo cứu văn hóa chỉ cần thiết và không lẩm cẩm khi bài vở được dịch ra ngoại ngữ, xem là tài liệu cần thiết cho người ngoại quốc "tìm hiểu" nước Việt Nam.

Nói đến văn hóa, lịch sử Việt Nam lúc nầy là "đâm hơi" làm rầy giấc chiêm bao của nhiều người. Chạy gạo không đủ thời giờ, hơi đâu làm chuyện văn hóa, trừ phi nghe chuyện văn hóa, nghe một cách êm ái, muồi mẫn, qua tân nhạc vọng cổ - lúc nằm trong tiện nghi vật chất để tìm tiện nghi tinh thần! Thời chiến, nên nói một cái gì mới ngoài cái văn hiến bốn ngàn năm với cây nêu ngày Tết, cái khăn đóng áo dài và những bộ sử bị mọt mối gặm nhấm. Ngoài Truyện Kiều và Lục Vân Tiên. Ngoài thuyết Tam giáo đồng nguyên. Các cụ ngày xưa đã làm cho nước nầy mất cũng vì quá tin vào bốn ngàn năm văn hiến. Thời ấy, người Việt Nam có đầy đủ dân tộc tính, không bị lai căn, đầy đủ văn hóa cổ truyền với ông đạo sĩ luyện phép trường sinh, với người nông phu đi cày mồ hôi thánh thót như mưa, với ông vua bài ngoại, xem người Tây phương như "quỷ trắng", với nông thôn tự trị.

Cách mạng năm 1945. Hay lắm, toàn dân biết rồi. Bây giờ là khác, từ năm 1954 đến nay, giai đoạn sau đã kéo dài hơn 10 năm và để cho có vẻ trầm hùng, nên cộng với giai đoạn trước để gọi là trên 20 năm tang tóc. Nhưng giai đoạn 1954 đến nay khác hơn giai đoạn trước. Người ta bước vào thời kỳ liên lục địa để cùng hưởng thụ một thứ văn minh sung túc, với vô tuyến truyền hình, bếp điện, xe gắn máy, thuốc xịt muỗi, với thân thể đàn bà, với thần tượng mới. Coi chừng bị thời cuộc đào thảo đó! Chúng ta nên đi tiên phong, nói đúng hơn là theo đường lối tiền phong của văn nghệ... Pháp. Sưu tầm sử liệu, tìm hiểu dân tộc tính là thiện chí nhưng nên dành công việc đó cho chuyên viên UNESCO, cho Asia Foundation, họ có tiền, có chuyên viên, có phương pháp khoa học. Cả nhân loại đang chạy theo nền văn minh mới, hòa đồng. Phải xóa bỏ ranh giới thì mới hiểu nhau vì dân tộc này dính vào dân tộc khác, từ hồi tiền sử. Không nước nhỏ nào không thiếu nợ, không lãnh viện trợ mà tiến được. Đèn néon chiếu sáng khắp nơi. Đang trù liệu kế hoạch đề phòng nhân loại đang lâm vào nạn nhân mãn. Viễn ảnh của bịnh ung thư. Nên chú tâm vào vấn đề phân tâm học vì từ hồi nằm trong bào thai, ai cũng mang mặc cảm, ai cũng yếu thần kinh. Nếu muốn nghiên cứu trở về quá khứ thì nên xoay qua ngành xem tử vi, bói bài cào, cứ phối hợp tử vi các nước trên thế giới với ngành "tử vi dân tộc". Ngôn ngữ con người đã thay đổi, mẹo luật văn phạm xưa hết thích hợp rồi. Bây giờ là tín hiệu, là biểu tượng mới. Thời gian đã ngưng đọng. Quá khứ bị cắt đứt, tương lai thì lờ mờ. Âm thịnh dương suy, gần ngày tận thế vì thế chiến thứ ba có thể bùng nổ trong ngày mai, hoặc lát nữa. Cái lương tâm lẩm cẩm không ích gì hết. Cù lần. Gàn. Không thực tế. Không chịu chơi. Con người là con cua, con sên. Quan niệm về giai cấp đã lỗi thời. Xã hội bây giờ đi đến điều hòa giai cấp, thí dụ như ở các nước có nền kỹ nghệ mạnh. Chánh trị là ngành chuyên môn dành cho người đã tốt nghiệp về chánh trị học. Thỉnh thoảng, nếu thấy hơn buồn, hơi bất mãn thì nên kêu lên "Ôi quê hương đau thương thành chai đá!". Và nguyện cầu Thượng đế. Và kêu réo Mẹ Việt Nam. Chữ nghĩa muốn khỏi bị đào thải thì nên chứa đựng nội dung mới. Muốn diễn tả tâm tư thế hệ thì nên theo thứ văn phạm mới. Cô độc quá. Cô độc là sang trọng. Nếu cảm thấy cô độc thì bạn đã chạy theo kịp trào lưu thế giới trong cuộc chuyển mình vĩ đại của thế kỷ này qua thế kỷ sắp tới.

Cô độc là bịnh của tương lai nhân loại. Nhưng ngày qua ngày, cô độc trở thành bịnh của quá khứ, như kiểu áo, như kiểu xe hơi bị phế thải sau khi ra lò. Giữa năm 1967 nên mua tấm lịch 1968 cho sớm, mặc đầu đến đầu năm 1968 thì tấm lịch đã đóng bụi. Giờ đây các dân tộc trên thế giới đều mang một bịnh như nhau. Đừng tranh tị với các cường quốc rồi chửi rủa họ. Vì họ cũng đang bi đát, con người họ đang phá sản về tinh thần, chới với trong "cái hố thẳm của tư tưởng". Nếu mình thành thật với mình, mình cũng đi tới một kết luận như họ. Con người gặp nhau, với nụ cười xã giao. Như hai con cá lội trong bồn, với miếng kiếng ngăn đôi. Bây giờ, buồn nôn là vừa. Trước sau gì người Việt cũng buồn nôn, luật trời tránh sao cho khỏi. Và tại sao ta không kêu lên tên các triết gia Âu Châu, gọi lên hình ảnh xác thịt của các hoa hậu Âu châu, từ bây giờ, kẻo trễ. Vì so với các nước trên thế giới, chúng ta đã trễ nải, dùng vô tuyến truyền hình, dùng nồi điện, máy giặt quần áo, dùng bồn tắm cũng trễ nải. 

° ° °

Một số triết gia Tây phương thú nhận từ lâu rằng trên thế gian nầy không phải chỉ có một nền văn minh duy nhứt của Tây phương. Nền văn minh nầy đang "xế tà" sau khi mọc lên rồi đứng bóng ngay giữa bầu trời. Nghĩa là cái khuôn vàng thước ngọc Tây phương đã lỗi thời, không phát huy những giá trị của con người, luôn cả con người Tây phương. Sự may mắn của Tây phương, hiện nay là sống trong cảnh thanh bình, không bị ngoại xâm, không có nội loạn (nội loạn võ trang). Họ có đủ thời giờ phân tích, tìm tòi, cãi vả, đem sợi tóc chẻ làm tư để hiểu tại sao họ suy đồi, hoặc họ suy đồi tức là đang tiến lên theo một kiểu khác. Cuộc cãi vả ấy không làm cho họ mất nước vì các dân tộc nhược tiểu làm sao đủ sức đem binh đến đánh họ, tại nhà họ?

Ở Việt Nam thì khác, Việt Nam đang chịu đựng chiến tranh và đang nhập cảng triết học, nhập cảng nếp sống Tây phương ngay lúc chiến tranh. Người trí thức Việt Nam đôi khi thấy mình cần vạch một lối đi dân tộc, khác với Tây phương nhưng vạch với kỹ thuật Tây phương. 

 Làm sao cho ra?

Nếu vạch không ra thì dễ quá, cứ mời chuyên viên văn hóa Tây phương đến giúp, ta học hỏi thêm với họ, làm chuyên viên cho họ! Mãi đến nay, nhiều học giả Việt Nam vẫn nghiên cứu với tinh thần khoa học Tây phương, biên soạn, sưu tầm tài liệu dường như với mụch đích trả bài, làm một thí sinh của đại học đường Tây phương, soạn luận văn để mà giựt lấy bằng cấp đem về giúp Tổ quốc. Người Việt Nam nói chung, những người đang chịu khổ, đang suy nghĩ về đất nước nhìn số học giả nói trên với thái độ kính nhi viễn chi. Số học giả này đã hiểu thân phận của họ, đã thấy phản ứng của số học sinh mà họ đang dạy tại nhà trường; phản ứng về lối dạy, về phương pháp nghiên cứu sai lệch, xa thực tế.

Họ không làm được chuyện gì mới. Vì làm sao làm được trong khi các nhà khảo cứu tiền bối - người Pháp đa số - đã được ưu thế khi quan sát, ghi chép về hình thức văn hóa, văn minh Việt Nam trước họ, hồi đầu thế kỷ 20 khi mà những nét, những hình thức của văn minh Việt Nam chưa bị tàn phá, đập nát thành mảnh vụn. Bây giờ chỉ là chép sách cũ, của Tây. Cô độc, thất nghiệp về tinh thần, những học giả "kinh nhi viễn chi" này ắt đã nhiều phen cau mày, buồn buồn, ngáp dài bên chồng sách khi nghe văng vẳng tiếng súng, đêm thâu. Cái cau mày của một hành khách ngồi trên xe đò. Người hành khách không lái xe nhưng đem lại lợi tức cho ông chủ xe. Chủ xe không đích thân lái xe nhưng ông ta mướn tài xế. Và người tài xế đã vô tình, hoặc cố ý vì lý do kỹ thuật là lái vào sát lề để cán dẹp một người đi bộ. Người đi bộ nằm dưới bánh xe, trên bánh xe là cái thùng xe và trên thùng xe là lớp nệm, trên đó có sức nặng của người hành khách gọi là vô tội trong vụ cán xe này. Và người hành khách sạch sẽ ấy sẽ cố gắng giữa thái độ bình thản, tự phong là nhân chứng, vì bình thản là thái độ chân chính của nhà khoa học. Để cho tình cảm riêng tư chen vào hư cuộc khảo cứu, cuộc quan sát. Nên nói thêm rằng nhà nghiên cứu khoa học nhân căn của chúng ta cố ý quên rằng mình đang ngồi trên xe. Ông ta phóng mắt tìm những nét độc đáo... trong dân tộc, theo phương pháp mà các vị hiền tiền ở Tây phương đã dạy, với tinh thần nhân bản - làm như ở Á Đông, ở Việt Nam chúng ta không biết tình đồng bào, tình nhân loại và chúng ta cần nhập cảng thứ đạo đức ấy từ Tây phương mà dùng. Người lữ hành trên chiếc xe thấy mình là kẻ sống không gặp thời. Phải chi họ được sống trong cái thuở thanh bình hồi đầu thế kỷ, khi các tháp Chàm, các lăng tẩm Huế, các bộ sử in trên giấy bản còn trinh nguyên chưa được cặp mắt xanh của người hùng Tây phương ghé đến. Thuở ấy, một viên chánh tham biện chủ tỉnh đến đình chùa gặp ông đại hương cả, viếng một bô lão (đang lãnh chức cai tổng, một chức vụ tượng trưng) là tha hồ sưu tầm sốt dẻo bao nhiêu sử liệu gần như nguyên chất, đáng tin cậy vào bậc nhứt, nói chi đến các người Pháp được tu nghiệp để qua thuộc địa nghiên cứu về văn hóa, nhân chủng. Họ trở thành thánh sống đáng cho tổ quốc ghi ơn (tổ quốc Việt Nam)!

Người học giả Việt Nam ngày nay tìm mãi, với phương pháp Tây phương, mà không thấy cái gì mới mẻ hơn về mặt văn hoá. Họ tự an ủi rằng người Pháp đi trước đã đớp những món ngon rồi, giờ đây là cạn tàu ráo máng, hoặc là hoàn cảnh chiến tranh không cho phép họ đi thung thăng tận miền quê, hoặc là thiếu phương tiện, thiếu tiền trợ cấp. Sử liệu Việt Nam có lẽ phong phú nhứt hồi đời nhà Nguyễn, từ khi Nguyễn Ánh gặp Bá Đa Lộc. Giai đoạn ấy được người Pháp chiếm quyền ưu tiên ăn nói, sưu tầm tài liệu ở Việt Nam, đối chiếu với tàu liệu ở bộ Thuộc địa chánh quốc. Nhưng người Pháp đã nói hết chưa? Ở miền Nam, chúng ta đã nói lên, đã tổng kết "theo phương pháp khoa học", những cuộc tranh đấu chống thực dân Pháp suốt trăm năm đô hộ hay chưa? Hay là đợi người Pháp tổng kết giùm qua các tài liệu ở "chánh quốc". Người Pháp giúp ta những gì về văn hóa? Cái nhân văn, nhân chủng... của họ đã đem lợi ích gì? Muốn sử dụng đúng bất cứ một phương pháp nào để nghiên cứu văn hóa, sử học thì điều kiện căn bản vẫn là lòng tự tin, lòng tự trọng. Nói mạnh hơn, là tự hào. Người Việt Nam có quyền tự hào. Tại sao chúng ta không đả phá cái thứ khoa học lấy Tây phương làm chuẩn để phê phán các dân tộc hải ngoại, ngoài phạm vi Âu châu như Phi, Úc, Mỹ châu (trước khi có di dân)? Chúng ta nên đứng vào vị trí một người Việt Nam để viết những quyển lịch sử về nước Anh, nước Pháp, nước Mỹ cho đồng bào ta đọc. Chúng ta sẽ giải thích cho đồng bào ta biết tại sao thực dân Pháp tìm thuộc địa vào cái lúc mà thi sĩ, văn sĩ của họ theo xu hướng lãng mạn, yêu cây cỏ, yêu nhân loại, yêu tự do bình đẳng.

Văn hóa Việt Nam không bị người Tàu trước kia và người Pháp sau này tiêu diệt vì nó có thật, có sức mạnh. Nhưng nó bị mất mát, nói cụ thể là bị đập ra từng mảnh rời rạc, nếu quan sát từng mảnh thì mất ý nghĩa hoặc ý nghĩa bị xuyên tạc như người xem con voi mà chỉ thấy cái đuôi giống như cái chổi, lỗ tai giống như cây quạt. Tại sao ta không sưu tầm, ráp nối, tìm hiểu thực chất mảnh vụn đó? Thời quân Tàu cai trị còn lưu lại những chuyện cổ tích, những giai thoại - những mảnh vụn quý báu, đáng tin cậy. Người Pháp đập văn hóa nước ta ra từng mảnh vụn, những gì của ta còn lại đều là giai thoại sai niên biểu, là cổ tích, mê tín không xài được. Không là tài liệu đáng tin cậy - chỉ là nhảm nhí, trà dư tửu hậu, chuyện khôi hài. Dường như người Pháp - theo phương pháp của họ - đã gọi đó là anecdote. Anecdote của đám dân quê, của Cống Quỳnh, đượm thần quyền, ma quái. Một thí dụ cho rõ: cái chết của Nguyễn Trung Trực. Người Pháp ở thuộc địa Nam Kỳ thấy phần nào cuộc khởi nghĩa này, cách đây một trăm năm. Các bô lão ở Rạch Giá mãi đến nay còn nhắc nhở rằng trước khi bị hành quyết, ông Nguyễn Trung Trực, một lãnh tụ chưa đầy 30 tuổi đã nói với thực dân rằng: "Chừng nào đất nầy hết cỏ thì mới hết người giết Tây". Nhà khảo cứu (học ở trường của Pháp, từ Pháp về) sẽ cho rằng câu nói khẳng khái ấy hơi "khó tin" vì thiếu sử liệu để chứng minh. Sử liệu gì bây giờ? Câu ấy phải được ghi vào biên bản do bọn đao phủ xác nhận, có ký tên hoặc lăn ốc tay làm bằng? Hay là được một sĩ quan Pháp thuật lại, đăng tải trên mặt báo thời ấy, ở Sài Gòn hoặc ở Paris, Hồng Kông, Batavia... trên trang mấy, dòng thứ mấy. Kẻ nào nêu câu nói đó lên mặt giấy thì bị xem là cổ xúy lòng ái quốc lẩm cẩm, để tình cảm riêng tư len lỏi vào việc làm khoa học. Không cần giải thích dông dài, chúng ta tin rằng câu nói trên nhứt định là có, mặc dầu những kẻ nghe tận tai, thấy tận mắt đã chết từ lâu. Họ thuật lại cho con cháu và tuy "tam sao thất bản", sai lạc vài tiếng nhưng tinh thần câu nói vẫn là vậy. Có lẽ lúc liệt sĩ thọ hình, một số lĩnh mã tà đã nghe rồi nói rỉ tai cho nhau. Thời Pháp thuộc, nếu nhà khảo cứu Pháp hay ông đốc phủ sứ nào muốn điều tra về lời đồn đãi ấy chắc là gặp câu trả lời "không nghe không thấy" của người dân. Ai ngu dại gì mà nói một chuyện gây tai họa cho bản thân mình? Và ông đốc phủ sứ nếu nghe được ắt đã cư xử khéo léo, khuyên dân chúng đừng đồn đãi những lời quốc sự, và trở về báo cáo rằng không có gì hết.

Phải chăng chuyện cũ thì đã bị khai thác triệt để rồi, còn gì mà nói? 

Thật ra, người Pháp che giấu tất cả. Một số "học giả" học trường Tây lại muốn đi xa hơn, ngược về quá khứ xa xưa, càng xa càng tốt để dễ bề làm việc, được yên ổn tâm thần, đồng thời lại được hy vọng nổi danh khắp thế giới hơn là nói chuyện thời dân tộc ta bị trị. Đào xới gặp một cái hũ, một cục đá vẫn là dễ chịu cho lương tâm hơn là đào xới một bộ xương người, nhưng nếu là xương người thì nên tìm bộ xương nào đã nằm trong lòng đất trước thời nhà Nguyễn. Vài "học giả" Tây phương đi phiêu lưu qua thuộc địa tìm danh lợi - tìm dễ dàng hơn ở chánh quốc - đã dùng phương pháp khách quan, nhân bản của họ để ca ngợi vài tên phản quốc bổn xứ, có công đánh Nam dẹp Bắc hoặc ru ngủ dân tộc. Chúng ta chưa đính chánh hẳn hoi. Đào xới một bộ xương cọp chết vẫn là dễ dàng và sang trọng hơn là đối diện với một con cọp sống. Nào ai cấm cản các nhà khảo cứu đi sâu vào phong trào Cần Vương, Duy Tân, cách mạng kháng Pháp nữa đâu? Viết lại đời hoạt động của ông Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh hoặc ông Đồ Chiểu là việc khá thực tế, cấp bách, viết với quan niệm mới, với lòng tự tin lòng yêu nước. Chúng ta còn nhiều sử liệu vì nhiều vị nầy ở miền Nam. Người Pháp đã nói về ông Đồ Chiểu, qua Lục Vân Tien, xem đó là tác phẩm lớn. Họ cố ý bỏ quên những bài bát cú, những bài văn tế của ông Đồ Chiểu. Người Việt Nam nên đặt lại vấn đề: Lục Vân Tiên được sáng tác khi người Pháp chưa đến, miền Nam chưa mất. Những bài văn tế của ông Đồ Chiểu mới thật sự là tác phẩm lớn, là nỗi lòng của ông và của dân tộc. 

Giờ đây, người ngoại quốc đang hướng về dân tộc ta. Nhưng nhà khảo cứu ở nước ta thì hướng về ngoại quốc, muốn xuất ngoại để trình luận án hoặc tìm thêm tài liệu về Việt Nam. Trường hợp Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu được các nhà khảo cứu nhân văn ở Việt Nam nhận xét như thế nào, qua cái lăng kính "nhân bản Tây phương"? Họ quan tâm đến không? Họ có ý thức sưu tầm tài liệu để khảo sát đúng phương pháp của "Tây phương" hay không? Hay đó chỉ là huyền thoại, là chuyện tình cảm lẩm cẩm, là "anecdote"? Hỡi ơi! Những người nhân bản không dám đối diện với tấm gương nhân bản nóng rực như lửa mà mát rượi như gió trên đồng lúa. Họ không dám thú nhận sự bất lực của một phương pháp không thích nghi, hẹp hòi, phiến diện, chỉ tạm có giá trị đối với Tây phương khi các dân tộc chậm tiến chưa được lên tiếng. Khi mới xâm chiếm nước ta, vài sĩ quan Pháp trong quân đội viễn chinh đã nói thẳng mà không sợ phản tuyên truyền, không sợ mất chức vì giới quân đội họ lúc ấy khá mạnh nhờ khí giới. Họ nắm chắc sức thắng thế (Ch. Gossenlin, Réveillère). Họ nhìn nhận rằng Phan Đình Phùng giàu khí khái, rằng dân chúng vùng Gò Công có người hùng đúng nghĩa như người Hy Lạp thời cổ. Những sử liệu như trên đáng được gìn giữ, gạn lọc và chúng ta háo hức chờ đợi một công trình "giải độc" về sử học. Công trình nầy phải do người Việt Nam làm lấy vì "ai yêu nước Việt hơn người Việt"... Nếu cần viện trợ kỹ thuật thì chúng ta thiết tha yêu cầu người Pháp, người Nhựt, người Anh, người Mỹ... giúp chúng ta những tài liệu liên quan đến lịch sử Việt Nam mà họ đang giữ. Hoặc nhờ họ giảo nghiệm những bộ xương, những đồ gốm, đồ đồng. Với các nước nhược tiểu ở Đông Nam Á, ta cần liên lạc để trao đổi tài liệu và phương pháp. Một quyển sử được biên khảo với tinh thần nói trên ắt sẽ làm hài lòng toàn dân, được chào đón niềm nở.

Người nghiên cứu không còn cô độc nữa. Họ sẽ tranh luận thẳng thắn với nhau, với tinh thần xây dựng, hứng thú. Và người dân dốt nát sẽ muốn gần nguời khảo cứu hơn.

Với số chuyên viên đào tạo ở Tây phương và với những người yêu sử ở trong nước, nhứt định chúng ta sẽ làm đựoc chuyện nói trên. Vừa làm vừa tìm ra những nguyên tắc, những phương pháp mới.

Người Tây phương xem vấn đề Việt Nam là vấn đề hàng đầu, làm ray rứt "lương tâm nhân loại". Chính họ cũng thấy rằng Việt Nam là một dân tộc đáng nể, rõ ràng có gì khác so với các dân tộc ở Đông Nam Á. Người Mỹ dường như đang cố gắng tìm hiểu người Việt qua những sự kiện thực tế, họ dùng kỹ thuật phỏng vấn, trắc nghiệm tâm lý, điều tra tại chỗ qua cặp mắt của nhà xã hội học để hiểu về thành thị và nhứt là nông thôn. Đến nay dường như các nhà xã hội học, các bình luận gia còn đang làm việc và chưa đưa ra một tổng kết nào cụ thể, làm thỏa mãn những ai muốn hiểu về "dân tộc tính" Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip