nhjm_ôn tập thị trường chứng khoán ( có lời giải)

1.  Ước định giá cổ phiếu thường

2. VN-Index

3. Hệ số P/E

4. Thu nhập của 1 cổ phiếu thường

5. Tỉ suất lợi tức cổ phần

1)    Phân tích chức năng của thị trường chứng khoán? Các cách chủ yếu để phân loại chứng khoán

2) Thị trường chứng khoán sơ cấp? TTCK thứ cấp? Mối quan hệ?

3) Chứng khoán phái sinh? Phân biệt chứng quyền và chứng khế?

4) Phân tích cơ cấu, mục tiêu của TTCK?

5) Các nguyên tắc hoạt động của TTCK

6) Những tổ chức và cá nhân tham dự vào TTCK?

7) Phân biệt 2 phương thức phát hành riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng

8) Những đặc trưng của 1 trái phiếu và các loại trái phiếu chủ yếu hiện nay

9) Phân tích nội dung của phương pháp phát hành chứng khoán ra công chúng

10) Phân tích chức năng, cơ cấu tổ chức và thành viên của SGDCK

11) Phân tích những điểm lợi và bất lợi đối với doanh nghiệp được niêm yết chứng khoán

12) Nội dung chủ yếu của các loại lệnh giao dịch

13) Vai trò và những nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán

14) Phân tích tác động của lãi suất thị trường đến giá và các lãi suất của trái phiếu

15) Phân tích ảnh hưởng các nhân tố chủ yếu đến giá thị trường của trái phiếu

16) Luận điểm chủ yếu của phân tích cơ bản và kĩ thuật

17) Trình bày phương pháp ước định giá cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi?

18) Nội dung 1 số chỉ số giá chứng khoán chủ yếu

19) Những rủi ro khi đầu tư chứng khoán

20) 5 nguyên tắc đầu tư chứng khoán thành công

23) Bí quyết đầu tư chứng khoán

24) So Sánh cổ phiếu-trái phiếu

1)      Phân tích chức năng của thị trường chứng khoán? Các cách chủ yếu để phân loại chứng khoán

1.1  Các chức năng của thị trường chứng khoán (4)

-  Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

- Cung cấp Khẩ năng thanh khoản cho các chứng khoán

- Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình kinh tế

- Giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô

(1)   Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Thị trường CK cung cấp phương tiện huy động số vốn nhàn rỗi trong dân cư cho các doanh nghiệp sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như: đầu tư phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất mới...

- Chức năng này được thực hiện khi: công ty phát hành chứng khoán và công chúng mua chứng khoán. Khi mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của các nhà đầu tư được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội

(2)   Cung cấp Khả năng thanh khoản cho các chứng khoán
- Thị trường chứng khoán là nơi các chứng khoán được mua bán, trao đổi. Nhờ thị trường CK, các nhà đầu tư có thể dễ dàng chuyển đổi các chứng khoản họ sở hữu thành tiền hoặc các loại chứng khoán khác  khi họ muốn
- Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền) là một trong những yếu tố quyết định tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư

(3)   Đánh giá giá trị doanh nghiệp và tình hình kinh tế
- Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị doạnh nghiệp và tình hình của nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo ra được một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm

(4)   Giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Thị trường chứng khoán là nơi cung và cầu vốn dài hạn gặp nhau. Trên thị trường chứng khoán, giá cả các chứng khoản phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và các ngành kinh tế nói chung
- Nếu giá chứng khoán tăng chứng tỏ rằng đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng

- Nếu giá chứng khoán giảm cho thấy dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế
* Vậy thị trường chứng khoán được gọi là "phong vũ biểu" của nền kinh tế, giúp chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ có thể mua và bán trái phiếu để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát hoặc sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào thị trường chứng khoán nằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế

1.2  Các cách chủ yếu để phân loại chứng khoán (5 cách)

Chứng khoán là một thuật ngữ dùng để chỉ giấy tờ có giá tức là giấy tờ ghi nhận khoản tiền tệ mà người sở hữu chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoản lợi tức nhất định theo kì hạn

1.2.1 Căn cứ vào chủ thể phát hành (3 loại)

- Chứng khoán doanh nghiệp: là các chứng khoán do các doanh nghiệp phát hành bao gồm cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp

- Chứng khoán chính phủ và chính quyền địa phương: Là các chứng khoán do chính phủ và chính quyền địa phương phát hành

- Chứng khoán của ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng: là các chứng khoán do các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng phát hành nhằm phục vụ cho các hoạt động nghiệp vụ của họ

1.2.2 Căn cứ vào tính chất huy động vốn

- Cổ phiếu: là giấy tờ chứng nhận việc đầu tư vốn của cổ đông vào công ty cổ phần

- Trái phiếu: là một hình thức vay nợ, trong đó người vay phát hành một chứng chỉ thường là với một lãi suất xác định, đảm bảo thành toán vào một thời hạn xác định trong tương lai

- Các chứng khoán phái sinh là các chứng khoán thể hiện quyền được mua cổ phiếu, trái phiếu theo các điều kiện nhất định đã được thỏa thuận trước

+ Chứng quyền ( quyền đặt mua ) là quyền ưu đãi do công ty cổ phần cho các cổ đông của nó được hưởng để mua cổ phiếu mới tỉ lệ với số cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Thông thường các cổ đông có chứng quyền được quyền mua hoặc đặt mua với giá thấp hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu. Các chứng quyền thường có kì hạn ngắn

+ Chứng khế: là quyền dự tính ưu tiên mua cổ phiếu mới hay bảo chứng phiếu. Một chứng khế thường được phát hành gắn liền với một loại chứng khoán khác cho phép người sở hữu nó được quyền mua cổ phiếu thường theo một giá định trước gọi là giá đặt mua trong một thời hạn nhất định. Giá định trước trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng khế có kì hạn dài hơn chứng quyền khoảng một vài năm

1.2.3 Căn cứ theo hình thức chứng khoán

- Chứng khoán ghi danh: là chứng khoán trên đó có ghi tên người sở hữu. Thông thường chứng khoán ghi danh bị hạn chế khả năng chuyển nhượng, thể hiện sự ràng buộc chặt chẽ của người sở hữu chứng khoán với người phát hành. Chứng khoán ghi danh có thể là cổ phiếu và trái phiếu ghi danh

- Chứng khoán không ghi danh: là các chứng khoán không ghi tên người sở hữu,các chứng khoán này được tự do chuyển nhượng

1.2.4 Căn cứ theo lợi tức của chứng khoán

- Chứng khoán có thu nhập cố định: là các chứng khoán có thu nhập xác định trước không phụ thuộc vào bất kì một yếu tố nào khác. Các chứng khoán thu nhập cố định thường thấy là các trái phiếu có lãi suất cố định và cổ phiếu ưu đãi

- Chứng khoán có thu nhập biến đổi: là các chứng khoán có thu nhập thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố nhất định

1.2.5 Căn cứ theo thị trường nơi chứng khoán được giao dịch

- Chứng khoán được niêm yết: là các chứng khoán được chấp nhận đủ tiêu chuẩn và được giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán (thường là chứng khoán có chất lượng cao)

- Chứng khoán không được niêm yết: là các chứng khoán không được niêm yết tại sở giao dịch và được giao dịch trên thị trường phi tập trung

2) Thị trường chứng khoán sơ cấp? TTCK thứ cấp? Mối quan hệ?

- TTCK sơ cấp còn gọi là thị trường cấp 1 hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành lần đầu. TTCK sơ cấp là một thị trường cung cấp vốn. Qua hoạt động của thị trường, những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng và các tổ chức kinh tế, xã hội có thể được chuyển thành vốn đầu tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán. Thị trường sơ cấp chỉ hoạt động khi có các đợt phát hành chứng khoán mới

- TTCK thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán được phát hành trên TTCK sơ cấp. TTCK thứ cấp là thị trường có tính chất cạnh tranh hoàn hảo, thị trường liên tục, có chức năng huy động vốn cho nền kinh tế

* Giữa TTCK sơ cấp và thứ cấp có mối quan hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu không có TTCK sơ cấp thì không có hàng hóa để lưu thống trên TTCK thứ cấp. Nhưng nếu không có sự tồn tại của TTCK thứ cấp thì TTCK sơ cấp khó có thể phát triển và hoạt động hiệu quả. Vì thế mặc dù hoạt động của TTCK thứ cấp không làm tăng them vốn đầu tư cho nền kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của nó làm cho TTCK sơ cấp hoạt động có hiệu quả và  phát triển hơn

3) Chứng khoán phái sinh? Phân biệt chứng quyền và chứng khế?

Các chứng khoán phái sinh là các chứng khoán thể hiện quyền được mua cổ phiếu, trái phiếu theo các điều kiện nhất định đã được thỏa thuận trước

+ Chứng quyền ( quyền đặt mua ) là quyền ưu đãi do công ty cổ phần cho các cổ đông của nó được hưởng để mua cổ phiếu mới tỉ lệ với số cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Thông thường các cổ đông có chứng quyền được quyền mua hoặc đặt mua với giá thấp hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu. Các chứng quyền thường có kì hạn ngắn vì nó là hình thức khuyến khích đầu tư thực hiện huy động vốn nhanh

VD: Ngày 28/3/03 HAD phát hành them 1 triệu CP, giá bán 40.000đ/CP

Nếu cổ đông có 10 CP cũ được phát 1 chứng quyền, được mua 1CP giá 35.000

Nếu cổ đông có 10.000 CP cũ => có 1000 Chứng quyền

Kỳ hạn chứng quyền 28/3/03-28/4/03

Nếu A không muốn mua CP, A có thể bán chứng quyền với giá 3000đ/chứng quyền

+ Chứng khế: là quyền dự tính ưu tiên mua cổ phiếu mới hay bảo chứng phiếu. Một chứng khế thường được phát hành gắn liền với một loại chứng khoán khác cho phép người sở hữu nó được quyền mua cổ phiếu thường theo một giá định trước gọi là giá đặt mua trong một thời hạn nhất định. Giá định trước trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng khế có kì hạn dài hơn chứng quyền khoảng một vài năm

VD: Ngày 26/3/05 Ree phát hành 1 triệu trái phiếu giá 100.000đ

Giá cổ phiếu hiện hành 37000đ/CP

Nếu người đầu tư mua 1 trái phiếu Ree phát kèm 1 chứng khế. NGười đầu tư sẽ mua 65000đ/CP

Vào bất cứ thời điểm nào 26/3/05-26/3/07

Trong thời gian đó nếu giá CP đạt 100000đ/CP thì người đầu tư sẽ mua CP giá 65000đ=> giá trị chứng khế là 35000đ/1 chứng khế

Nếu giá CP là 50000đ/CP thì người đầu tư mua CP giá 50000đ/CP=> giá trị chứng khế=0

4) Phân tích cơ cấu, mục tiêu của TTCK?

1. Cơ cấu thị trường chứng khoán

Có thể xem xét cơ cấu thị trường chứng khoán dưới một số góc độ sau:

1.1 Căn cứ vào tính chất các chứng khoán được giao dịch

- Thị trường cổ phiếu: là nơi các cổ phiếu được phát hành và giao dịch. Thị trường cổ phiếu gồm có thị trường cổ phiếu sơ cấp và thứ cấp

- Thị trường trái phiếu: là thị trường nơi các trái phiếu được phát hành và giao dịch. Thị trường trái phiếu cũng gồm có thị trường trái phiếu sơ cấp và thứ cấp

- Thị trường các sản phẩm phái sinh: bao gồm thị trường các hợp đồng tương lai, chứng quyền, chứng khế

1.2 Căn cứ và sự luân chuyển các nguồn vốn

- Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán lần đầu được phát hành

- Thị trường thứ cấp: là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp

Giữa thị trường sơ cấp và thứ cấp có mối quan hệ tương tác, gắn bó chặt chẽ với nhau. Nếu không có thị trường sơ cấp thì không có hàng hóa để lưu thống trên thị trường thứ cấp. Nhưng nếu không có sự tồn tại của thị trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp khó có thể phát triển và hoạt động hiệu quả. Vì thế mặc dù hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng them vốn đầu tư cho nền kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng của nó làm cho thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và  phát triển hơn

2. Mục tiêu của thị trường chứng khoán

2.1 Hoạt động có hiệu quả

Một thị trường chứng khoán có hiệu quả là một thị trường có tính hiệu quả về mặt thông tin và cơ chế giao dịch. Để đạt được điều này, thị trường chứng khoán cần phải đảm bảo các yêu cầu  sau

- Giá cả: Phải là giá cân bằng giữa cung và cầu, phải phản ánh được tức thời các thông tin có lien quan có thể ảnh hưởng tới giá cả. Do đó phải thiết lập được một cơ chế giao dịch nhạy bén có khả năng xác định giá cả thị trường của các chứng khoán một cách chính xác nhất

- Tính thanh khoản: Thị trường chứng khoán phải đảm bảo tính thanh khoản cao giúp cho các nhà đầu tư có thể mua và bán chứng khoán bất kì lúc nào họ muốn

- Chi phí giao dịch: Phải tối thiểu hóa đảm bảo những lợi ích thu được từ đầu tư vào chứng khoán không bị chi phí giao dịch ăn mòn. Muốn vậy hệ thống giao dịch chứng khoán phải được tổ chức sao cho tiết kiệm nhất về mặt chi phí

- Tổ chức: thị trường chứng khoán phải được tổ chức một cách thuận tiện cho người sử dụng. Như vậy mới thu hút được nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường

2.2 Điều hành công bằng

Điều hành công bằng TTCK là việc đảm bảo sự bình đẳng giữa những người tham gia vào thị trường. Muốn điều hành công bằng TTCK cần đảm bảo các yêu cầu sau:

- Các cơ quan điều hành thị trường phải xác lập các quy chế đảm bảo sự cạnh tranh tự do bình đẳng trên thị trường

- Các nhà đầu tư và các tổ chức có lien quan đến chứng khoán tự do tham gia và rút khỏi thị trường

- Mọi giao dịch không bình đẳng như giao dịch tay trong, ưu tiên cho đơn mua hang của một số nhà đầu tư sai nguyên tắc... đều bị nghiêm cấm

- Đảm bảo quyền lội của các nhà đầu tư thông qua việc duy trì thị trường lành mạnh, chống lại các trường hợp lũng đoạn thị trường và bóp méo giá gây thiệt hại cho nhà đầu tư

2.3 Phát triển ổn định TTCK

Để đảm bảo TTCK phát triển ổn định và lành mạn cần chú trọng phát triển và loại trừ các khả năng xảy ra khủng hoảng thị trường do mất khả năng thanh khoản hoặc do biến động giá cả quá lớn

- Do mất khả năng thanh khoản: trên TTCK nhiều khi người mua không biết rõ về người bán và khả năng thanh toán của họ nên việc một vài chứng khoán mất khả năng thanh khoản sẽ làm cho nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường, dẫn tới phản ứng dây chuyền và gây ra khủng hoảng của toàn bộ thị trường. Để giải quyết vấn đề này cần có một cơ chế giao dịch đảm bảo thông suốt, thành lập các tổ chức tài trợ chứng khoán, hỗ trợ thị trường nhằm ngăn ngừa tình trạng mất khả năng  thanh khoản đối với các chứng khoản của các công ty vẫn hoạt động tốt

- Do biến động giá cả: các biến động lớn về giá cả xảy ra khi cung và cầu tạm thời không cân bằng. Sự biến động quá mức của giá cả chứng khoán gây ra nỗi lo sợ cho các nhà đầu tư và cản trở sự hoạt động tốt của thị trường. Để khắc phục hiện trạng này cần có các công cụ ổn định giá cả trên TTCK

5) Các nguyên tắc hoạt động của TTCK

Thị trường chứng khoán là một thị trường có tổ chức nơi các chứng khoán được mua bán tuân theo những quy tắc đã được ấn định

1. Nguyên tắc cạnh tranh tự do

- Các nhà phát hành, nhà đầu tư được tự do tham gia và rút khỏi thị trường. Giá cả trên thị trường phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty

- Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán mà họ muốn đầu tư vào

- Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình chứng khoán có lợi nhuận cao nhất

2. Nguyên tắc giao dịch công bằng

- Có rất nhiều người tham gia TTCK với những mục đích khác nhau. Để đảm bảo lợi ích cho những người này, TTCK phải hoạt động dựa trên nguyên tắc giao dịch công bằng

- Tất cả mọi giao dịch phải được thực hiện trên cơ sở những quy định chung và mọi người tham gia thị trường đều bình đẳng trong việc thực hiện các quy định này

- Các trường hợp giao dịch bất bình đẳng như: giao dịch tay trong, sử dụng vốn lớn để đầu cơ lũng đoạn giá đều bị nghiêm cấm

3. Nguyên tắc công khai

- Các tin tức có tác động đến sự thay đổi giá cả của chứng khoán cần phải công khai cung cấp cho các nhà đầu tư nhằm tạo cho họ có cơ hội đầu tư như nhau, đồng thời đó cũng là biện pháp quan trọng để ngăn chặn các hành vi gian lận trong kinh doanh chứng khoán

- Các thông tin được công khai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức liên quan khác

4. Nguyên tắc trung gian mua bán

- Trên thị TTCK các giao dịch được thực hiện thông qua tổ chức mọi giới để đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch là chứng khoán thực tế và hợp pháp, tránh sự giả mạo lừa đảo trong giao dịch

- Các công ty chứng khoán bằng viện thực hiện các nghiệp vụ của mình đảm nhận vai trò trung gian cho cung và cầu chứng khoán gặp nhau. Cụ thể:

+ Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành

+ Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh các công ty chứng khoán mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư hoặc mua chứng khoán của nhà đầu tư này để bán cho nhà đầu tư khác

6) Những tổ chức và cá nhân tham dự vào TTCK?

1. Nhà phát hành

Là các tổ chức cần vốn và thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán- hang hóa của TTCK

Gồm

- Chính phủ và chính quyền địa phương phát hành các trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương

- Doanh nghiệp phát hành các cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp

- Các ngân hang, tổ chức tài chính phát hành các công cụ tài chính phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ của họ

2. Nhà đầu tư

Là những người bổ tiền đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lời

2.1 Nhà đầu tư cá nhân

- Nhà đầu tư cá nhân là những cá nhân tham gia mua bán chứng khoán trên TTCK với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Họ là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời muốn đầu tư để kiếm lời

- Khi nền kinh tế còn yếu kém, các nhà đầu tư cá nhân thường đưa vốn của mình vào đầu tư bất động sản hoặc cất trữ những tài sản an toàn ít mất giá. Khi nền kinh tế phát triển và đạt được tốc độ tăng trưởng cao thì các nhà đầu tư có thể thu đượccác khoản lợi từ sự tăng trưởng kinh tế thông qua việc đầu tư vào TTCK

2.2 Nhà đầu tư chuyên nghiệp

Hay là các tổ chức đầu tư là các tổ chức thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các tổ chức này thường có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư

Nhìn chung có một số nhà đầu tư chuyên nghiệp chính trên TTCK như sau

- Quỹ tín thác đầu tư: Quỹ này được thành lập nhằm thu hút vốn của nhiều nhà đầu tư cá nhân để đầu tư trên thị trường. Ưu điểm là có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm

- Công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm quản lý phí bảo hiểm đóng góp từ những người tham gia bảo hiểm và từ đó đưa vào đầu tư dưới các hình thức: gửi ngân hang, đầu tư vào chứng khoán và cho vay. Để đảm bảo khả năng sinh lời và tính ổn định, tỷ trọng các khoản đầu tư trong các công ty bảo hiểm được quy định rất chặt chẽ

- Các quỹ lượng hưu và các quỹ bảo hiểm khác: Các quỹ lương hưu và các quỹ BHXH thu phí đóng góp định kì của các cá nhân để sau này trả cho họ lương hưu hay các khoản trợ cấp khác. Phần phí thu được chưa phải chi trả có thể được các nhà quản lý quỹ đầu tư vào một số chứng khoán mà cụ thể là các trái phiếu có độ an toàn cao

- Công ty tài chính: được phép kinh doanh chứng khoán, có thể sử dụng nguồn vốn của mình để đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích thu lợi

3 Các tổ chức kinh doanh trên TTCK

3.1 Công ty chứng khoán

Là các công ty hoạt động trong ngành công nghiệp chứng khoán với các nghiệp vụ chính là: bảo lãnh phát hành, môi giới và kinh doanh chứng khoán. Không phải công ty chứng khoán nào cũng thực hiện cả 3 nghiệp vụ như trên. Để có thể thực hiện mỗi nghiệp vụ, các công ty chứng khoán phải đảm bảo có một số vốn nhất định và phải được phép của cơ quan có thẩm quyền

3.2 Ngân hang thương mại

Hoạt động của các NHTM trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán là tùy theo điều kiện và luật pháp mỗi nước quy định. Trên thế giới có 2 kiểu mấu sau

- Ngân hàng vạn năng (hà lan, Đức, Thụy Sĩ..) ngân hàng có đầy đủ các dịch vụ: ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm

- Ngân hàng phải thành lập công ty con chuyên hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán với tài sản riêng và hạch toán riêng

3.3 Công ty tư vấn đầu tư chứng khoán

Là công ty có chức năng tư vấn, giúp đỡ nhà đầu tư bằng việc ra quyết định đầu tư và thực hiện các quyết định đầu tư từ đó. Tại nhiều nước, công ty chứng khoán cũng có thể đảm nhận luôn chức năng tư vấn chứng khoán

3.4 Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán

Là công ty đứng ra quản lý tài sản của các quỹ tín thác đầu tư. Công ty này dựa trên đội ngũ chuyên gia có kinh nghiệm và trình độ tiến hành phân tích về TTCK, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý nhằm làm sinh lời tài sản của các quỹ tín thác đầu tư

7) Phân biệt 2 phương thức phát hành riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng

- Phát hành riêng lẻ là hình thức phát hành các chứng khoán cho 1 số lượng hạn chế nhất định các nhà đầu tư, do đó thủ tục thường đơn giản

- Chào bán ra công chúng là hình thức phát hành rộng rãi các chứng khoán mới ra công chúng cho tất cả các cá nhân và tổ chức đầu tư với các điều kiện và thời gian như nhau

* Để phân biệt ranh giới giữa phát hành riêng lẻ và chào bán ra công chúng bằng cách quy định giới hạn nhất định về số lượng người đầu tư. Việc quy định như vậy nhằm mục đích bảo vệ người đầu tư. Một loại chứng khoán mới phát hành rộng rãi ra công chúng có liên quan đến lợi ích của nhiều người vì thế để chào bán ra công chúng công ty đòi hỏi phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của pháp luật, đảm bảo được các điều kiện nhất định và phải có được sự chấp thuận của ủy ban chứng khoán nhà nước

8) Những đặc trưng của 1 trái phiếu và các loại trái phiếu chủ yếu hiện nay

Trái phiếu là loại chứng khoán nợ trung và dài hạn. Người phát hành với tư cách là người đi vay. Người mua trái phiếu là người cho vay và được gọi là trái chủ

- Đối với người thiếu vốn: trái phiếu là phương tiện vay vốn qua thị trường

- Đối với người đầu tư: trái phiếu là một phương tiện đầu tư để thu lời

1. Các đặc trưng

1. 1 Mệnh giá trái phiếu

- Mệnh giá trái phiếu hay giá trị danh nghĩa của trái phiếu là giá trị được ghi trên trái phiếu. Giá trị này được coi là số vốn gốc

- Mệnh giá là căn cứ để xác định số lợi tức tiền vay mà người phát hành phải trả. Mệnh giá cũng thể hiện số tiền người phát hành phải hoàn trả khi trái phiếu đến hạn

1. 2. Lãi suất danh nghĩa

- Là lãi suất được ghi trên trái phiếu hoặc người phát hành công bố trả cho nhà đầu tư. Lãi suất này được xác định theo tỉ lệ % với mệnh giá của trái phiếu và cũng là một căn cứ để xác định lợi tức trái phiếu

1.3. Thời hạn của trái phiếu

Là khoảng thời gian từ ngày phát hành đến ngày người phát hành hoàn trả tiền vốn lần cuối. Ngày mà khoản vốn gốc trái phiếu được thanh toán lần cuối được gọi là ngày đáo hạn của trái phiếu

1.4 Kì trả lãi

Là khoảng thời gian người phát hành trả lãi cho người nắm giữ trái phiếu. Tại nhiều nước, việc thanh toán lãi trái phiếu thường được thực hiện 6 tháng 1 lần

1.5 Giá phát hành

Là giá bán ra của trái phiếu vào thời điểm phát hành. Thông thường giá phát hành được xác định theo tỉ lệ % của mệnh giá

2. Các loại trái phiếu

2.1 Phân loại theo người phát hành

- Trái phiếu của chính phủ và chính quyền địa phương

- Trái phiếu của ngân hàng và các tổ chức tài chính

- Trái phiếu doanh nghiệp

2.2 Phân loại theo lợi tức trái phiếu

- Trái phiếu có lãi suất cố định ( trái phiếu lãi trả sau / trái phiếu mệnh giá) là loại trái phiếu mà lợi tức được xác định theo một tỉ lệ % cố định tính theo mệnh giá

- Trái phiếu không có lãi suất: là loại trái phiếu mà người mua không nhận được lãi nhưng được mua với giá thấp hơn mệnh giá (mua chiết khấu) và được hoàn trả số  tiền bằng mệnh giá khi trái phiếu đó đáo hạn

2.3 Phân loại theo mức độ đảm bảo thanh toán của người phát hành

- Trái phiếu đảm bảo

Là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm vật bảo đảm cho việc phát hành. Trong trường hợp người phát hành mất khả năng thanh toán tiền lãi hoặc hoàn trả tiền gốc thì những người có trái phiếu tức là trái chủ có quyền tịch thu và bán tài sản đó để thu hội lại số tiền người phát hành còn nợ

- Trái phiếu không đảm bảo

Là loại trái phiếu phát hành không có tài sản làm vật bảo đảm mà chỉ được bảo đảm bằng chính uy tính của người phát hành

2.4 Căn cứ vào khả năng chuyển đổi của trái phiếu

- Trái phiếu có thể chuyển đổi

Là một loại trái phiếu của công ty cổ phần cho phép trái chủ quyền được chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tỉ lệ chuyển đổi và kì hạn chuyển đổi được ấn định từ lúc phát hành trái phiếu và chỉ thay đổi khi công ty phát hành có sự tách hoặc gộp cổ phiếu

- Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu

Là loại trái phiếu có kèm theo chứng khế cho phép người chủ sở hữu được mua một số lượng cổ phiếu nhất định của công ty phát hành với một giá đã được xác định và vào những thời  kì nhất định

- Trái phiếu có thể mua lại

Là trái phiếu mà khi phát hành có quy định trên trái phiếu cho phép người phát hành được quyền mua lại một phần hay toàn bộ trái phiếu trước khi trái phiếu đến hạn thanh toán

2.5 Dựa vào hình thức trái phiếu

- Trái phiếu vô danh

Là trái phiếu không ghi tên người mua trên trái phiếu hoặc trong sổ sách của người phát hành, người nắm giữ trái phiếu là người được hưởng quyền lợi

- Trái phiếu ghi danh

Là trái phiếu có ghi tên người đầu tư trên trái phiếu hoặc trong sổ của nhà phát hành (phổ biến là hình thức ghi sổ ở người phát hành)

9) Phân tích nội dung của phương pháp phát hành chứng khoán ra công chúng

1. Phương pháp phát hành trực tiếp (chào bán qua bản cáo bạch)

- Đây là phương pháp mà doanh nghiệp phát hành trực tiếp chào bán chứng khoán cho công chúng theo giá chào bán đã xác định

- Doanh nghiệp phát hành tự lo liệu các thủ tục phát hành và trực tiếp bán chứng khoán ra công chúng

* Ưu điểm

- Chi phí phát hành tương đối thấp do không mất chi phí thuê tổ chức trung gian

* Nhược điểm

- Thời gian tập trung vốn thường kéo dài làm tốn thời gian, không huy động được vốn theo dự kiến, khi thị trường vốn phát triển, có nhiều nhà phát hành, doanh nghiệp khó có thể nắm bắt tình hình thị trường và các nhà đầu tư. Do vậy việc trực tiếp phát hành có thể gặp nhiều rủi ro, doanh nghiệp khó có thể bán hết chứng khoán trong đợt phát hành

2. Phương pháp ủy thác phát hành (chào bán qua người bảo lãnh)

- Đây là phương pháp phát hành gián tiếp. Doanh nghiệp thông qua một tổ chức gọi là tổ chức bảo lãnh phát hành để chào bán chứng khoán ra công chúng

- Tổ chức bảo lãnh phát hành ( người bảo lãnh) là người thực hiện mua toàn bộ hoặc một phần chứng khoán của người phát hành nhằm mục đích đưa số chứng khoán đó chào bán ra công chúng. Người bảo lãnh thường là các tổ chức tài chính có tiềm năng tài chính mạnh, tùy theo luật pháp mỗi nước cho phép

- Có 2 hình thức bảo lãnh phát hành

+ Bảo đảm chắc chắn:

Người bảo lãnh mua toàn bộ số chứng khoán của người phát hành rồi bán chứng khoán đó cho công chúng. Họ sẽ nhận được số tiền chênh lệch giữa giá chào bán và giá thương lượng với người phát hành. Nếu không bán hết họ sẽ trở thành người đầu tư của chứng khoán đó

+ Cố gắng tối đa

Nhà bảo lãnh đóng vai trò như một đại lý để phát hành chứng khoán cho người phát hành. Họ sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán mới ra công chúng

* Ưu điểm

- Doanh nghiệp được tư vấn chuyên môn về các loại chứng khoán, thời gian và số lượng phát hành. Đồng thời doanh nghiệp được người bảo lãnh phát hành gánh rủi ro thay khi chứng khoán không bán được hoặc buộc phải bán với giá thấp. Do đó có độ rủi ro thấp, dễ dàng bán hết được chứng khoán trong đợt phát hành

- Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ tạo ra hình ảnh đẹp và sự nổi tiếng của công ty, nhờ vậy công ty sẽ dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ở những lần sau. Thêm vào đó, khách hàng và nhà cung ứng của công ty thường cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
- Phát hành chứng khoán ra công chúng sẽ làm tăng giá trị tài sản ròng, giúp công ty có được nguồn vốn lớn và có thể vay vốn của ngân hàng với lãi suất ưu đãi hơn cũng như các điều khoản về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn. Ví dụ như các cổ phiếu của các công ty đại chúng dễ dàng được chấp nhận là tài sản cầm cố cho các khoản vay ngân hàng. Ngoài ra, việc phát hành chứng khoán ra công chúng cũng giúp công ty trở thành một ứng cử viên hấp dẫn hơn đối với các công ty nước ngoài với tư cách làm đối tác liên doanh.
- Phát hành chứng khoán ra công chúng giúp công ty có thể thu hút và duy trì đội ngũ nhân viên giỏi bởi vì khi chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty bao giờ cũng dành một tỷ lệ chứng khoán nhất định để bán cho nhân viên của mình. Với quyền mua cổ phiếu, nhân viên của công ty sẽ trở thành cổ đông, và được hưởng lãi trên vốn thay vì thu nhập thông thường. Điều này đã làm cho nhân viên của công ty làm việc có hiệu quả hơn và coi sự thành bại của công ty thực sự là thành bại của mình.
- Phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty có cơ hội tốt để xây dựng một hệ thống quản lý chuyên nghiệp cũng như xây dựng được một chiến lược phát triển rõ ràng. Công ty cũng dễ dàng hơn trong việc tìm người thay thế, nhờ đó mà tạo ra được tính liên tục trong quản lý. Bên cạnh đó, sự hiện diện của các uỷ viên quản trị không trực tiếp tham gia điều hành công ty cũng giúp tăng cường kiểm tra và cân đối trong quản lý và điều hành công ty.
- Phát hành chứng khoán ra công chúng làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo của công ty bởi vì các báo cáo của công ty phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý qui định. Chính điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện dễ dàng và chính xác hơn.

* Nhược điểm
- Phát hành cổ phiếu ra công chúng làm phân tán quyền sở hữu và có thể làm mất quyền kiểm soát công ty của các cổ đông sáng lập do hoạt động thôn tín công ty. Bên cạnh đó, cơ cấu về quyền sở hữu của công ty luôn luôn bị biến động do chịu ảnh hưởng của các giao dịch cổ phiếu hàng ngày.
- Chi phí phát hành chứng khoán ra công chúng cao, thường chiếm từ 8-10% khoản vốn huy động, bao gồm các chi phí bảo lãnh phát hành, phí tư vấn pháp luật, chi phí in ấn, phí kiểm toán, chi phí niêm yết... Ngoài ra, hàng năm công ty cũng phảI chịu thêm các khoản chi phí phụ như chi phí kiểm toán các báo cáo tài chính , chi phí cho việc chuẩn bị tài liệu nộp cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và chi phí công bố thông tin định kỳ.
- Công ty phát hành chứng khoán ra công chúng phải tuân thủ một chế độ công bố thông tin rộng rãi, nghiêm ngặt và chịu sự giám sát chặt chẽ hơn so với các công ty khác. Hơn nữa, việc công bố các thông tin về doanh thu, lợi nhuận, vị trí cạnh tranh, phương thức hoạt động, các hợp đồng nguyên liệu, cũng như nguy cơ bị rò rỉ thông tin mật ra ngoài có thể đưa công ty vào vị trí cạnh tranh bất lợi.

3. Phương pháp chào bán bằng đấu thầu

3.1 Thông báo đấu thầu (mời thầu)

Sau khi người phát hành đã chuẩn bị xong các công việc phát hành và bản đăng kí phát hành đã được ủy ban chứng khoán chuẩn y. Người phát hành thông báo và mời các nhà đầu tư tham gia đấu thầu

Trong thông báo cần cung cấp các thông tin cần thiết về đợt đấu thầu

- Tổng số vốn cần huy động

- Đặc điểm của loại chứng khoán phát hành

- Phương thức đấu thầu

- Thời hạn đăng kí đấu thầu

- Ngày mở thầu và địa điểm tổ chức đấu thầu

3.2 Đăng kí đấu thầu

Khi nhận được thông tin, các nhà đầu tư muốn tham gia đấu thầu phải gửi đơn đăng kí đấu thầu tới người phát hành hoặc người tổ chức đấu thầu

3.3 Đặt thầu

Sau khi xem xét kĩ tình hình của người phát hành và các vấn đề liên quan đến đợt đấu thầu, người tham gia đấu thầu gửi tiền đặt thầu tới người tổ chức đấu thầu trước ngày quy định mở thầu

Tiền đặt thầu phải đảm bảo yêu cầu bí mật

3.4 Mở thầu và xác định kết quả

Vào ngày giờ quy định mở thầu, người phát hành thực hiện mở các tiền đặt thầu và căn cứ vào phương thức đấu thầu để xác định số lượng người tham gia đã trúng thầu

3.5 Công bố kết quả

Sau khi kết quả được xác định sẽ được công bố công khai và cũng được gửi tới tất cả những người tham gia đấu thầu

KL: Chào bán bằng cách đấu thầu được coi là cơ chế phát hiện giá có sự cạnh tranh. Điều đó có lợi cho người phát hành. Để tham gia đấu thầu đòi hỏi người tham gia phải nắm được tình hình của người phát hành. Song vì chi phí cho việc nghiên cứu tình hình để tham gia đấu thầu cổ phiếu tương đối lớn nên người ta chỉ sử dụng phương pháp này cho những vụ phát hành chứng khoán lớn

10) Phân tích chức năng, cơ cấu tổ chức và thành viên của SGDCK

1. Chức năng

Trong nền kinh tế hiện đại, SGDCK chính là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức theo những quy luật nhất định. Chức năng chủ yếu của SGDCK là tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên sở được mua bán, giao dịch các chứng khoán thuận tiện, dễ dàng, góp phần tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn đầu tư của nền kinh tế

SGDCK có 4 chức năng chính

- Cung cấp dịch vụ giúp các công ty cổ phần đăng kí chứng khoán của họ trên thị trường, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các hàng hóa này đủ tiêu chuẩn giao dịch tại sở giao dịch

- Tổ chức việc giao dịch chứng khoán cho các nhà kinh doanh và những người môi giới thực hiện nhanh chóng thuận lợi  các cuộc mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng

- Cung cấp các nguồn thông tin về tình hình tài chính của các công ty phát hành chứng khoán có đăng kí trong sở cho các nhà đầu tư và các công ty môi  giới

- Nhận bảo quản chứng khoán của khách hàng gửi và thu lợi tức cổ phiếu hộ khách hàng

2. Cơ cấu tổ chức của SGDCK

2.1 Mô hình tổ chức

- Mô hình công lập: là mô hình sở giao dịch do nhà nước đứng ra thành lập, tổ chức và điều hành thị trường. Vốn của sở giao dịch được cấp từ ngân sách nhà nước

+Ưu điểm: đảm bảo ổn định thị trường trong giai đoạn đầu

+Nhược điểm: Việc quản lý không linh hoạt, không bắt kịp tín hiệu thị trường

- Mô hình công ty: sở giao dịch được thành lập dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Vốn do các thành viên hoặc cổ đông của công ty đóng góp. Hoạt động vì lợi nhuận

- Mô hình thành viên: Do các thành viên là các công ty chứng khoán sở hữu, được tổ chức như 1 công ty trách nhiệm hữu hạn có hội đồng quản trị mà thành phần đa số là do các công ty chứng khoán thành viên cử ra

HĐQT – Ban giám đốc – Các vụ chức năng (vụ giao dịch, vụ niêm yết, vụ thành viên, vụ CNTT, vụ nghiên cứu phát triển, vụ kế toán, vụ văn phòng)

* Hội đồng quản trị: là cơ quan quyền lực, lãnh đạo SGDCK, điều hành nghiệp vụ và ban hành các quy chế nghiệp vụ theo thẩm quyền của mình

2.2 Thành viên của SGDCK

Gồm nhiều loại khác nhau nhưng chủ yếu là 2 thành viên cơ bản: nhà môi giới chứng khoán và nhà giao dịch chứng khoán

a)      Nhà môi giới chứng khoán

Là người trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán. Tùy theo cách thức tổ chức hoạt động trên SGDCK, người ta có thể chia các nhà môi giới thành các loại nhà môi giới khác nhau

- Nhà môi giới hưởng hoa hồng

+ Là người hoạt động với tư cách là đại lý cho các nhà đầu tư trong việc mua hoặc bán chứng khoán và qua đó nhận được tiền hoa hồng môi giới từ việc thực hiện dịch vụ của mình

+ Đặc trưng của nhà môi giới hưởng hoa hồng là không bị đặt trước rủi ro bởi vì họ không nắm giữ chứng khoán trong khi thực hiện các hoạt động của mình

- Nhà môi giới chuyên nghiệp

Là loại nhà môi giới có ở một số SGDCK của một số nước điển hình là SGDCK Mỹ

Chịu thực hiện 2 chức năng

+ Thực hiện các lệnh giao dịch: Các chuyên gia này được nhận phí môi giới hoặc phí dịch vụ như những nhà môi giới khác

+ Làm nhiệm vụ tạo thị trường: Các chuyên gia phải duy trì một thị trường ổn định bằng cách: khi các loại chứng khoán do mình phụ trách có mức chênh lệch lớn giữa giá bán và giá mua, các chuyên gia sẽ chào bán hoặc trả giá mua chứng khoán đó cho mình với giá trung bình. Kết quả là thu hẹp được mức chênh lệch giữa giá mua và giá bán

b)      Nhà giao dịch chứng khoán có đăng kí

Đây là người mua bán chứng khoán do chính mình và thu lãi bằng khoản chênh lệch giữa giá mà nhà giao dịch mua vào và giá bán ra. Như vậy, nhà giao dịch chứng khoán hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có nhiều rủi ro bởi chính họ là người nắm giữ chứng khoán

11) Phân tích những điểm lợi và bất lợi đối với doanh nghiệp được niêm yết chứng khoán

Niêm yết chứng khoán là việc ghi tên các chứng khoán vào danh mục các chứng khoán đủ tiêu chuẩn được giao dịch tại SGDCK

1. Ưu điểm

- Những chứng khoán niêm yết được giao dịch, chuyển nhượng dễ dàng, tạo sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và công chúng

- Khi chứng khoán đã được niêm yết tại SGDCK thì công ty đó dễ dang phát hành các chứng khoán mới để huy động vốn với chi phí huy động thấp

- Thông qua việc mua bán, giao dịch các chứng khoán tại sở sẽ tạo điều kiện nâng cao uy tính và danh tiếng của công ty đối với công chúng

2. Nhược điểm

- Công ty phải công khai thông tin theo yêu cầu của pháp luật và SGDCK. Vì vậy, một số bí mật của công ty cũng được công chúng biết, điều này đôi khi gây những bất lợi cho công ty trong cơ chế thị trường

- Chứng khoán của công ty muốn được niêm yết phải  thỏa mãn tiêu chuẩn

+ Phải có một số cổ phiếu nhất định đã được phát hành

+ Phải có 1 số cổ đông nhất định đảm bảo khả năng thanh khoản cho các chứng khoán phát hành

+ Phải có số lợi nhuận thu được trước thuế đạt đến một mức nhất định trong năm tài chính trước đó

+ Sổ sách kế toán phải được xác nhận đúng pháp luật

12) Nội dung chủ yếu của các loại lệnh giao dịch

Lệnh giao dịch là chỉ thị của khách hàng cho người môi giới thể hiện ý muốn mua hoặc bán chứng khoán theo yêu cầu của họ đặt ra

- Lệnh thị trường (market order)

Là lệnh mua hoặc bán chứng khoán của khách hàng yêu cầu thực hiện ngay theo giá của thị trường khi lệnh được chuyển đến. Trong lệnh này khách hàng không ra giá cụ thể nhưng đã bao hàm ý phải bán hoặc mua ngay với giá có lợi cho khách hàng. Lệnh thị trường ưu tiên hàng đầu trong tất cả các thứ tự ưu tiên khi tham gia đấu giá. Đây cũng là loại lệnh được áp dụng phổ biến nhất trong giao dịch ở thị trường

- Lệnh giới hạn (Limit order)

Là lệnh mà khách hàng đã đưa ra một mức giá giới hạn cụ thể yêu cầu thực hiện giao dịch không cao hơn giá đó (nếu là mua), không thấp hơn giá đó( nếu là bán). Như vậy khi nhận được lệnh này, người môi giới phải mua hoặc bán theo giá tốt hơn hoặc theo giá đã định. Khi đưa ra lệnh này, khách hàng có thể tránh được việc mua bán chứng khoán với mức giá không có lợi cho mình nhưng không có sự đảm bảo là lệnh sẽ được thực hiện

- Lệnh dừng (stop order)

Lệnh này được sử dụng để hạn chế sự thua lỗ hoặc bảo vệ lợi nhuận trong kinh doanh chứng khoán. Nó cũng là một lệnh treo bởi vì nó sẽ không được thực hiện cho đến khi đạt hoặc vượt mức giá ấn định

+ Lệnh dừng bán: được dùng để giớ hạn thua lỗ của 1 loại chứng khoán

+ Lệnh dừng mua: dùng trong trường hợp bán trước mua sau để giới hạn sự thua lỗ

Một lệnh dừng mua được đưa ra cao hơn mức giá thị trường hiện hành, còn một lệnh dừng bán được đưa ra thấp hơn giá thị trường hiện hành

* Thời hạn hiệu lực của lệnh

Đi liền với các loại lệnh kể trên, khách hàng còn bổ sung thêm chỉ thị của mình về thời hạn hiệu lực của lệnh

- Lệnh có giá trị trong ngày (day order): Những lệnh được coi là có giá trị trong ngày nếu lệnh giao dịch không xác định rõ là có giá trị trong bao lâu và những lệnh ghi rõ có giá trị trong ngày

- Lệnh có giá trị cho đến khi hủy bỏ hay lệnh mở (open order): Là lệnh có hiệu lực cho đến khi thực hiện hay bị khách hàng hủy bỏ

- Lệnh tất cả hoặc là không (all or none): là lệnh yêu cầu toàn bộ lệnh phải được thực hiện trong cùng một giao dịch, không cho phép thực hiện từng phần. Tuy nhiên lệnh không bắt buộc là phải thực hiện ngay mà có thể thực hiện bất cứ lúc nào trong suốt quá trình giao dịch của ngày

- Lệnh thực hiện ngay hoặc hủy bỏ (IOC – Immediate or cancel): là lệnh yêu cầu phải thực hiện ngay nhưng không bắt buộc phải thực hiện toàn bộ mà có thể là một phần. Phần còn lại chưa thực hiện bị hủy bỏ

- Lệnh thực hiện toàn bộ hay hủy bỏ (full or kill –FOK) là lệnh yêu cầu thực hiện ngay toàn bộ hoặc hủy bỏ

13) Vai trò và những nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán

1. Vai trò

1.1 Vai trò huy động vốn

- Công ty chứng khoán là một trong số những trung gian tài chính có chức năng huy động vốn. hay nói cách khác công ty chứng khoán có vai trò làm chiếc cầu nối và là kênh dẫn cho vốn chảy từ một hay một số bộ phận này sang bộ phận khác đang có nhu cầu huy động vốn

- Công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động về nghiệp vụ và môi giới chứng khoán

1.2 Vai trò hình thành giá cả chứng khoán

Thông qua thị trường SGDCK, công ty chứng khoán cung cấp 1 cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình

1.3 Thực thi tính hoán tệ của chứng khoán

- Các nhà đầu tư luôn muốn có được khả năng chuyển tiền mặt thành chứng khoán có giá và ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định. Các công ty chứng khoán đã cung cấp cơ chế chuyển đổi rất quan trọng giúp các nhà đầu tư ít phải chịu thiệt hại nhất định khi tiến hành đầu tư

1.4 Thức đẩy vòng quay chứng khoán

Các công ty chứng khoán là những người góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán, qua việc chú ý đến nhu cầu người đầu tư, các công ty này cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Các công ty chứng khoán luôn cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợ với nhu cầu của khách hàng như tăng trưởng vốn, lãi cổ phần

1.5 Dịch vụ tư vấn

Các công ty chứng khoán không chỉ thực hiện mệnh lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn khác nhau. Các công ty chứng khoán cung cấp thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và các cá nhân đầu tư

Công ty chứng khoán cung cấp dịch vụ tư vấn dưới dạng sau

- Thu thập thông tin phục vụ cho mục đích của khách hàng chẳng hạn như: hiệu quả vốn, vấn đề rủi ro của khách hàng

- Cung cấp thông tin về các khả năng đầu từ khác nhau cũng như triển vọng ngắn và dài hạn của các khoản đầu tư đó trong tương lai

- Tư vấn về đầu tư phù hợp với môi trường đầu tư và nhu cầu khách hàng

2. Nghiệp vụ

2.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán

- Môi giới là một hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong đó một công ty chứng khoán tiến hành giao dịch chứng khoán nhân danh mình đại diện cho khách hàng. Để có được dịch vụ này, khách hàng phải trả cho công ty một khoản hoa hồng môi giới. Tỉ lệ hoa hồng môi giới do từng công ty chứng khoán đặt ra. Thông thường từ 0,3%-0.6% giá trị giao dịch

- Nghiệp vụ môi giới là nghiệp vụ chủ yếu của công ty chứng khoán. Nghiệp vụ này bao gồm: thực hiện lệnh giao dịch bán chứng khoán cho khách hàng, thanh toán và quyết toán các giao dịch

- Hoạt động của công ty môi giới chứng khoán gồm

+ Quản lý tài khoản hay tiền gửi của khách hàng

+ Quản lý các lệnh mua và bán của khách hàng

+ Vận hành các đầu mối thông tin

2.2 Bảo lãnh phát hành chứng khoán

Công ty chứng khoán có đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường và có tiềm lực tài chính. Do đó công ty chứng khoán là một trong những tổ chức chủ yếu thực hiện việc bảo lãnh cho các nhà phát hành chứng khoán mới. Thực hiện nghiệp vụ này, công ty chủ yếu nhận được tiền hoa hồng về bảo lãnh

2.3 Nghiệp vụ giao dịch chứng khoán

- Đây là một nghiệp vụ trong đó công ty chứng khoán mua chứng khoán cho mình, mọi rủi ro trong nghiệp vụ ngày do công ty chịu

- Công ty có thể mua bán trên SGDCK hoặc thông qua thị trường OTC

* Ngoài các nghiệp vụ cơ bản trên, công ty chứng khoán còn có thể tham gia các hoạt động phụ trợ và hoạt động đặc biệt như: hoạt động tín dụng, quản lý thu nhập chứng khoán, quản lý trái phiếu hay huy động vốn

14) Phân tích tác động của lãi suất thị trường đến giá và các lãi suất của trái phiếu

1. Các loại lãi suất cuẩ trái phiếu

1.1 Lãi suất danh nghĩa (in)

Là mức lãi suất mà người phát hành công bố trả cho nhà đầu tư và thường được ghi ngay trên trái phiếu

In = C / M * 100%

In lãi suất danh nghĩa của trái phiếu

C: số tiền lãi phải trả hàng năm

M: Mệnh giá của trái phiếu

1.2 Lãi suất hiện hành (ih)

Ih = C / Ph * 100%

Ph giá trái phiếu hiện hành

1.3 Lãi suất hoàn vốn (IRR)

Là lãi suất sao cho với mức lãi suất đó làm cho giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong tương lai do trái phiếu đem lại =giá mua của trái phiếu

Po = ∑CFt/(1+IRR)t  ( t= 1÷n)

Po : giá mua của trái phiếu ( giá trị hiện tại của khoản vốn đầu tư)

CFt: khoản tiền thu được do đầu tư vào trái phiếu ở năm thứ t

n: số năm tính toán

1.4 Lãi suất đến khi đáo hạn của trái phiếu (R)

Thể hiện mức sinh lời của trái phiếu khi người đầu tư mua trái phiếu tại 1 thời điểm và giữ trái phiếu đó đến khi trái phiếu đáo hạn

Po = ∑C/(1+R)t  + M/(1+R)n ( t= 1÷n)

N: năm tính toán (từ lúc người nắm giữ trái phiếu đến khi đáo hạn)

2. Mối quan hệ giữa lãi suất trên thị trường đến giá và các lãi suất trái phiếu

- Khi lãi suất thị trường bằng lãi suất danh nghĩa thì giá của trái phiếu hiện hành được bán bằng mệnh giá (Ph = M)

Khi đó in = ih = R

- Khi lãi suất thị trường có xu hướng tăng lên và lớn hơn lãi suất danh nghĩa của trái phiếu, lượng trái phiếu bán ra nhiều hơn, cung > cầu thì giá trái phiếu hiện hành sẽ giảm và nhỏ hơn mệnh giá (Ph <M)

Khi đó in < ih < R

- Khi lãi suất thị trường có xu hướng giảm xuống và nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa của trái phiếu, lượng trái phiếu bán ra nhiều hơn, cung< cầu thì giá trái phiếu hiện hành sẽ tăng và lớn hơn mệnh giá (Ph >M)

Khi đó in > ih > R

15) Phân tích ảnh hưởng các nhân tố chủ yếu đến giá thị trường của trái phiếu

Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá thị trường của trái phiếu, dưới đây là 3 nhân tố chủ yếu

- Lãi suất thị trường

Giá của một trái phiếu công ty sẽ thay đổi theo hướng ngược lại với lãi suất thị trường. Khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu sẽ giảm và ngược lại. Chẳng hạn, nhà đầu tư bán một trái phiếu trước ngày đáo hạn, thì khi lãi suất thị trường tăng, nhà đầu tư sẽ lỗ vốn. Có nghĩa là bán trái phiếu thấp hơn giá mua vào.

- Những thay đổi về tình hình tài chính của người phát hành

Tình hình tài chính xấu->cầu trái phiếu<cung trái phiếu-> giá trái phiếu giảm. Ngược lại

- Lạm phát dự tính

Lạm phát càng cao, lãi suất thực của trái phiếu (bằng lãi suất danh nghĩa của trái phiếu trừ lạm phát) càng giảm, do vậy làm mất giá trị của trái phiếu. Nếu một trái phiếu trả lãi 10%/năm, lạm phát bình quân 15% thì lãi suất thực của trái phiếu là -5% (âm 5%) -> giá trái phiếu giảm

Ngoài ra còn có các yếu tố: thu hồi (Trái phiếu công ty có một điều khoản cho phép nhà phát hành thu hồi hay "gọi" tất cả hay một phần trái phiếu mới trước ngày đáo hạn), tỉ giá, thanh lý (khả năng dễ bán)

16) Luận điểm chủ yếu của phân tích cơ bản và kĩ thuật

1. Phân tích cơ bản

- Phân tích cơ bản còn được gọi là phân tích tài chính. Phương pháp này xem xét tình hình các mặt hoạt động và tác động của môi trường kinh tế đến hoạt động và hiệu quả của doanh nghiệp. Từ đó, phân tích đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, khả năng thu nhập của công ty, cổ tức của cổ đông. Trên cơ sở số này ước định giá cổ phiếu của công ty

- Luận điểm chủ yếu của phương pháp phân tích cơ bản cho rằng giá trị của doanh nghiệp là yếu tố cơ bản quyết định giá cổ phiếu của công ty. Giá trị được đánh giá không chỉ nhìn nhận vào tình hình hiện tại của doanh nghiệp mà còn ở tương lai của doanh nghiệp. Giá của của cổ phiếu trên thị trường sẽ dao động xung quanh giá trị của doanh nghiệp

Như vậy, phương pháp phân tích cơ bản chú trọng vào việc phân tích đánh giá tình hình kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp ở hiện tại và tương lai để xác định giá của cổ phiếu

2. Phân tích kĩ thuật

- Đây là phương pháp xem xét diễn biến giá cổ phiếu trong thời gian đã qua để rút ra xu hướng biến động của giá cổ phiếu trong thời gian sắp tới

- Luận điểm chủ yếu của phân tích kĩ thuật cho rằng: Giá cả cổ phiếu biến động có tính chất chu kì và theo những chiều hướng nhất định. Bằng việc tập hợp, phân tích số liệu thống kê về giá cả và khối lượng giao dịch cổ phiếu có thể phát hiện ra xu hướng diễn biến giá cổ phiếu cũng như của thị trường. Việc xây dựng được các mô hình thị trường và các dạng mẫu biến động của giá cổ phiếu sẽ giúp cho việc ước định giá của cổ phiếu. Việc theo dõi sát sao giá cổ phiếu trên thị trường có thể nhìn nhận được khuynh hướng vận động giá cổ phiếu trong thời gian tới

17) Trình bày phương pháp ước định giá cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi?

1.  Ước định giá cổ phiếu thường

a) Trên góc độ đầu tư ngắn hạn

Người đầu tư mua cổ phiếu để nắm giữ và sau đó 1 thời gian sẽ bán cổ phiếu đó đi, do đó giá ước định của cổ phiếu thường là giá trị hiện tại của các khoản thu nhập trong tương lai do đầu tư cổ phiếu mang lại

Po= ∑Dt / (1+i)t  + Pn/(1+i)n

Po: giá ước định của cổ phiếu thường

Dt: lợi tức cổ phiếu dự tính thu được ở năm thứ t

Pn: giá bán cổ phiếu dự tính vào cuối năm n

n: số năm mà người đầu tư dự tính nắm giữ cổ phiếu

i: lãi suất chiếu khấu mà người đầu tư mong đợi (thường chọn là mức doanh lợi mà người đầu tư dự tính thu được)

b) Trên quan điểm đầu tư dài hạn

- Người đầu tư mua cổ phiếu của 1 công ty nào đó và hi vong trong tương lai, doanh nghiệp sẽ phát triển và khoản thu nhập từ cổ phiếu sẽ ngày càng lớn hơn

n→∞ thì Pn/(1+i)n →0 nên Po= ∑Dt / (1+i)t 

- Việc xác định giá cổ phiếu theo phương pháp này gọi là mô hình chứng khoán cổ tức. Để xác định được Po theo phương pháp này, ta phải xác định được cổ tức mà người đầu tư dự tính nhận được hàng năm

* TH1: Cổ tức tăng đều hàng năm, mức tăng cổ tức mỗi năm đều = g

- Gọi Do là cổ tức dự tính nhận được năm trước

Cổ tức dự tính nhận được ở năm thứ t là

Dt = Do (1+g)t  (t=1÷n)

Với i>g => Po = D1/(i-g)

* TH2: Cổ tức không tăng, không giảm (g=0)

Po = Do / i

* TH3: Cổ tức hàng năm tăng không đều nhau

- Giai đoạn 1: là giai đoạn doanh nghiệp phát triển với tốc độ cao trong thời gian T năm và tỉ lệ tăng cổ tức hàng năm =G

- Giai đoạn 2: Giai đoạn trưởng thành với tỉ lệ tăng cổ tức hàng năm là g

Po = ∑Dt/(1+i)t ( với t=1÷T) + ∑DT+t / (1+i) T+t (với t=1÷n)

A=∑Do (1+G)t / (1+i)t (với t=1÷T)

B = 1/ (1+i)T * ∑DT+t /(1+i)t (với t=1÷n)

C = ∑DT+t /(1+i)t  (với t=1÷n) = Do(1+g)T(1+g) / (1-g)

Vậy: Po = ∑Do (1+G)t / (1+i)t (với t=1÷T) + 1/ (1+i)T * Do(1+g)T(1+g) / (i-g)

2. Ước định giá cổ phiếu ưu đãi

Pp = Dp / (1+i) + Dp / (1+i)2 + ...+ Dp / (1+i)n

Dp : giá cổ phiếu ưu đãi

Dp : Lợi tức cổ phiếu ưu đãi hàng năm

i: mức doanh lợi hàng năm mà người đầu tư yêu cầu

- Phần lớn các cổ phiếu ưu đãi cho phép các cổ đông được hưởng lợi tức cổ phiếu cố định, đều đặn tương tự như lợi tức của trái phiếu có lãi suất cố định

Khi lợi tức  cổ phần không thay đổi Pp = Dp / i

18) Nội dung 1 số chỉ số giá chứng khoán chủ yếu

1. Chỉ số giá

Là chỉ số chủ yếu để đo lường sự biến động giá cổ phiếu trên thị trường

Ip = Sit . Pit / Sio . Pio

Ip: chỉ số giá chứng khoán

n: số loại cổ phiếu được đưa và tính toán

Sit: khối lượng cổ phiếu loại i tại thời điểm t

Sio: khối lượng cổ phiếu loại i tại thời điểm gốc

Pit: giá cổ phiếu loại i trên thị trường tại thời điểm t

Pio: giá cổ phiếu loại i trên thị trường tại thời điểm gốc

a) VN-Index

VN-Index = Tổng giá trị thị trường của cổ phiếu niêm yết tại thời điểm hiện tại / Tổng giá thị trường của cổ phiếu niêm yết ngày cơ sở * 100%

Khi có bất kì sự thay đổi nào diễn ra như việc niêm yết thêm 1 chứng khoán mới hoặc là hủy bỏ niêm yết 1 chứng khoán nào đó thì việc sửa đổi lại được thực hiện để duy trì những nhân tố có ảnh hưởng đến chỉ số. Phương pháp sửa đổi là xem xét lại tổng giá trị của cổ phiếu niêm yết ngày cơ sở

Mẫu số mới = Tổng giá trị của cổ phiếu sau khi thay đổi / tổng giá trị của cổ phiếu trước khi thay đổi * Mẫu số cũ

b) Chỉ số giá trên thị trường Mỹ

* Dowjones

Ip = 1/D * ∑Pit (i=1÷n)

Ip chỉ số bình quân Dowjones

D: số chia nhằm loại trừ những ảnh hưởng có tính chất nghiệp vụ về vốn mà có ảnh hưởng đến giá cổ phiếu

Pit Giá cổ phiếu loại i tại thời điểm t

n: số loại cổ phiếu được lựa chọn để tính toán

- Chỉ số bình quân Dowjones gồm 4 chỉ số sau

+ Chỉ số bình quan công nghiệp Dowjones: là chỉ số giá chứng khoán của ngành công nghiệp. Đậy là chỉ số được sử dụn phổ biến nhất, làm thước đo cho TTCK. Nó được xác định bằng cách lấy giá của 30 công ty hàng đầu thuộc lĩnh vực công nghiệp chia cho 1 số chia nhất định

+ Chỉ số bình quân Dowjones vận tải: là chỉ số giá chứng khoán của ngành GTVT được xác định trên cơ sở của 20 loại cổ phiếu của 20 công ty hàng đầu trong  ngành GTVT

+ Chỉ số giá trung bình dowjones dịch  vụ công cộng được tính trên cơ sở giá của 15 loại cổ phiếu thuộc các công ty hàng đầu trong ngành dịch vụ công cộng

+ Chỉ số hỗn hợp bình quân DowJones là chỉ số chung của toàn bộ 65 cổ phiếu nói trên

* S&P 500 tính cho 500 cổ phiếu

bao gồm 500 cổ phiếu được niêm yết tại SGDCK New York trong đó

- 400 CP cho ngành công nghiệp

- 20 CP cho ngành GTVT

- 40 CP cho ngành tài chính

- 40 CP cho ngành dịch vụ công cộng

c) Chỉ số giá chứng khoán trên TTCK Nhật Bản (Nikkei)

Được gọi là bình quân giá chứng khoán của SGDCK Tokyo và là bình quân số học giá chứng khoán của 225 CP được niêm yết trên sở giao dịch

D = A/N

A: tổng mức giá cổ phiếu vào cuối năm

N: số chia của ngày hôm đó

D: bình quân giá chứng khoán Nikkei

2. Chi số giá trên thu nhập (P/E)

Hệ số P/E = Giá thị trường của 1 cổ phiếu thường / thu nhập của 1 cổ phiếu thường

Thu nhập của 1 cổ phiếu thường = (Lợi nhận sau thuế- phần trả cổ tức cho cổ phiếu ưu đãi )/ tổng số cổ phiếu thường đang lưu hành

*ý nghĩa: hệ số này cho biết thị trường đã trả giá như thế nào cho thu nhập của công ty hay nói cách khác, để có một đồng thu nhập thì người đầu tư cần bỏ ra bao nhiêu tiền

3. Tỉ suất lợi tức cổ phần

Còn được gọi là tỉ suất cổ tức là thước đo mức độ hoàn vốn của cổ phiếu thường. Nó cho thấy mỗi đồng đầu tư vào cổ phiếu thường thì thu được bao nhiêu lợi tức

Tỉ suất lợi tức cổ phần = Lợi tức cổ phần của 1 cổ phiếu thường / giá trị thị trường của 1 cổ phiếu thường

19) Những rủi ro khi đầu tư chứng khoán

- Rủi ro phá sản

- Rủi ro kinh doanh

- Rủi ro thị trường

- Rủi ro lãi suất

- Rủi ro cơ sở

- Rủi ro hối đoái

- Rủi ro sức mua

- Rủi ro tài chính

- Rủi ro thanh khoản

- Rủi ro hệ thống

- Rủi ro thông tin

Rủi ro phá sản (Bankruptcy risk)

Khi mà một công ty phá sản, mặc nhiên cổ phiếu của công ty đó tụt dốc không phanh và mức thấp nhất có thể là chả còn giá trị gì. Một thống kê vui nhân cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi cho thấy, nêu cách đây 1 năm bạn có 1000 USD, mua cổ phiếu của hãng máy bay Delta Airline thì giờ chúng trị giá 49USD, nếu là của hãng bảo hiểm AIG thì giờ chúng có giá 33 USD, nếu là của ngân hàng Lehman Brothers thì giờ chúng trị giá 1USD. Còn nếu mua bia uống thì đống vỏ lon bia mang bán đồng nát sẽ được khoảng 200USD.

Rủi ro kinh doanh (Business risk)

Cổ phiếu của bạn đương nhiên sẽ tụt mất giá trị nếu tình trạng kinh doanh của công ty không thuận lợi. Khi có những thay đổi trong tình trạng này, công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ tức.

Rủi ro kinh doanh cũng có hai loại cơ bản: bên ngoài và nội tại. Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động.

Công ty cũng chịu những rủi ro đến từ bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể, như chi phí tiền vay, sự cắt giảm ngân sách, mức thuế nhập khẩu tăng, sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh.

Doanh số của một số ngành công nghiệp thép, ô tô có xu hướng bám sát chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một số ngành khác lại có xu hướng đi ngược lại. Các chính sách Nhà nước cũng là một phần của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn.

Rủi ro thị trường (Market risk)

Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổ, chỉ vì cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm cổ phiếu nói riêng.

Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng đôi khi cũng chẳng do gì cả mà chỉ là vấn đề tâm lý.

Rủi ro lãi suất (Interest rate risk)

Rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro hệ thống, hay còn gọi là rủi ro không phân tán được khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung.

Rủi ro cơ sở (Basis risk)

Là rủi ro mà các khoản đầu tư bù đắp vị thế trong một chiến lược phòng ngừa rủi ro không thay đổi theo các hướng đối ngược nhau. Mối tương quan không hoàn hảo giữa các khoản đầu tư bù đắp vị thế đã tạo ra các khoản lỗ hoặc lãi tiềm ẩn trong một chiến lược phòng ngừa rủi ro và do đó đã làm gia tăng thêm rủi ro cho vị thế của nhà đầu tư (nhà phòng ngừa rủi ro).

Rủi ro hối đoái (Transfer risk)

Rủi ro thị trường hối đoái khi người nợ nước ngoài không thể chi trả bằng loại tiền tệ (ngoại tệ) theo yêu cầu của chủ nợ.

Rủi ro sức mua (Purchasing power risk)

Rủi ro sức mua đến từ biến động của sức mua của đồng tiền thu được khi đầu tư vào một thị trường chứng khoán. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Nếu coi khoản đầu tư là một khoản tiêu dùng ngay, ta có thể thấy rằng khi một người mua cổ phiếu, anh ta đã bỏ mất một số cơ hội mua hàng hoá hay dịch vụ trong thời gian sở hữu cổ phiếu đó. Nếu, trong khoảng thời gian nắm giữ cổ phiếu đó, giá cả hàng hoá dịch vụ tăng, nhà đầu tư đã bị mất một phần sức mua.

Rủi ro tài chính (Financial risk)

Liên quan đến những rủi ro từ cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi phải được thanh toán cho chủ nợ trước khi trả cổ tức cho cổ đông nên nó có tác động lớn đến thu nhập của họ. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.

Bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ phiếu thường. Cụ thể là, việc sử dụng tỷ lệ vay nợ gây những hệ quả quan trọng đối với những người nắm giữ cổ phiếu thường, đó là làm tăng mức biến động trong thu nhập của họ, ảnh hưởng đến dự kiến của họ về thu nhập, và làm tăng rủi ro của họ.

Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk)

Rủi ro khi ngân hàng phải bán lỗ tài sản để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời. Thí dụ, người gửi tiền yêu cầu có tiền mặt ngay.

Danh sách này có thể còn kéo dài kha khá nữa. Và chúng ta có thể tự nhủ là dù sao thị trường vẫn còn may mắn vì các tay chơi đều chả bao giờ xem từ điển khi quyết định. Nếu không phải thế thì ai biết được thị trường liệu có còn tồn tại

Rủi ro hệ thống

là rủi ro liên quan đến cả thị trường và mọi công ty, ví dụ như: các thay đổi về chính sách của nhà nước, rủi ro về lãi suất, lạm phát,..

Rủi ro không hệ thống là rủi ro mà chỉ liên quan đến một nhóm cổ phiếu nào đó. Ví dụ như: kiện tôm, cá ba sa của Mỹ; phát hiện dư lượng chất kháng sinh hàng thủy sản xuất khẩu sang Nhật của thủy sản Việt Nam thì rủi ro này chỉ ảnh hưởng đến các doanh nghiệp trong ngành thủy sản, động đất, bão lụt thường ảnh hưởng không tốt đến ngành bảo hiểm nhưng lại tốt cho ngành sản xuất hàng tiêu dùng.

Rủi ro về thông tin:

 Thông tin hạn chế về doanh nghiệp và tính chất không minh bạch trong thông tin là một điểm rất hạn chế đối với cổ phiếu OTC

20) 5 nguyên tắc đầu tư chứng khoán thành công

Tự làm công việc của bạn
Điều này thì rõ ràng dễ hiểu nhưng có lẽ sai lầm phổ biến nhất mà các nhà đầu tư thường mắc phải là họ không biết nên mua chứng khoán nào. Bạn sẽ không mua chứng khoán đó nếu bạn không biết rõ về tình hình bên trong cũng như bên ngoài của công ty này.

Điều này có nghĩa rằng bạn cần phải nâng cao hiểu biết của mình về kế toán để rồi bạn có thể tự quyết định được mức độ tài chính hiện tại của công ty như thế nào. Thứ nhất, bạn quăng tiền của mình vào rủi ro thì bạn phải biết mình nên mua cái gì. Thêm nữa bạn không thể dựa vào một người khác nói với bạn rằng một công ty nào đó là nơi đầu tư hấp dẫn. Bạn phải tự quyết định đầu tư cho chính mình, bởi một cổ phiếu tăng trưởng nóng với người này lại là một thảm họa sắp xảy ra với người kia.

Tìm ra thế mạnh kinh tế
Điều gì phân biệt một công ty xấu với một công ty tốt hay một công ty tốt với một công ty xấu?

Câu trả lời là phần lớn thế mạnh mà công ty đó xây dựng sẽ phân biệt nó với công ty khác. Thuật ngữ "thế mạnh" thường được dùng để miêu tả lợi thế cạnh tranh của công ty, giống như các thành trì bảo vệ các lâu đài thời xa xưa, thế mạnh kinh tế giúp lợi nhuận công ty khỏi bị tấn công bởi các đối thủ cạnh tranh.

Trong bất kỳ nền kinh tế cạnh tranh nào, vốn luôn tìm đến những nơi có tỷ suất sinh lợi mong đợi cao nhất. Kết quả là các công ty có lợi nhuận cao thường bị bao vây bởi các đối thủ cạnh tranh, điều này giải thích tại sao mà lợi nhuận của hầu hết các công ty qua thời gian đều có khuynh hướng trở về mức trung bình. Điều này có nghĩa là các công ty có lợi nhuận cao thường trở nên ít lợi nhuận hơn bởi sự cạnh tranh của các đối thủ.

Có một biên độ an toàn
Tìm ra được những công ty tốt nhất là một nửa công đoạn trong quy trình đầu tư, nửa công đoạn còn lại là đánh giá giá trị của công ty đó. Bạn không thể bước ra thị trường và sẵn sàng chi trả những gì mà thị trường yêu cầu về cổ phiếu đó bởi vì thị trường đôi khi có thể yêu cầu những mức giá quá cao. Và nếu như bạn phải trả một giá quá cao thì lợi nhuận của bạn sẽ không như mong đợi.

Mục tiêu của bất kỳ một nhà đầu tư nào cũng là mua được những cổ phiếu với giá thấp hơn giá trị thực của chúng. Nhưng không may là việc ước lượng giá trị cổ phiếu lạc quan thì quá dễ còn tương lai thì lại đi theo chiều hướng xấu hơn mong đợi. Chúng ta có thể bù đắp được cho những chiều hướng xấu này bằng cách mua những cổ phiếu chỉ khi giá của chúng thấp hơn một cách đáng kể so với giá trị của chúng được ước lượng. Phần chênh lệnh giữa giá thị trường và giá trị ước lượng của cổ phiếu chính là biên độ an toàn.

Một cách đơn giản để có được cảm nhận về giá trị của cổ phiếu là xem xét tỷ số giá trên thu nhập trong quá khứ của nó và chỉ số giá trên giá sổ sách.

Điều quan trọng cần nhớ bây giờ đơn giản chỉ là: nếu bạn không sử dụng những quy tắc và nguyên tắc trong việc tìm ra mức giá mà bạn sẵn lòng chi trả thì sau đó bạn sẽ cảm thấy hối tiếc. Định giá giá trị của cổ phiếu là một phần quan trọng trong tiến trình đầu tư.

Nắm giữ vị thế trên một chặng đường dài
Không được quên rằng mua cổ phiếu là một hoạt động mua "món hàng chính yếu - niềm tin" và phải được đối xử đúng như thế. Bạn không phải đang mua hay bán một chiếc xe hơi, một chiếc tủ lạnh hay một cái đầu DVD 50 lần một năm. Đầu tư là một hiệp ước dài hạn bởi vì giao dịch ngắn hạn có nghĩa là bạn đang chơi một trò chơi của người thua cuộc. Chi phí thực sự đã bắt đầu tăng lên – cả về thuế lẫn chi phí trung gian và sẽ tạo ra một rào chắn không thể vượt qua được để tiến tới một kết quả tốt.

Biết được khi nào bán
Một cách lý tưởng thì chúng ta nên nắm giữ các khoản đầu tư mãi mãi, nhưng sự thật thì có rất ít công ty có giá trị cho mình nắm giữ cả thế kỷ và vì thế chỉ có một số ít nhà đầu tư với đầy đủ thông thái mới mua được cổ phiếu của các công ty này. Biết được khi nào là thời điểm phù hợp để bán những cổ phiếu này là một điều quan trọng tối thiểu cũng như là biết được khi nào nên mua nó, chúng ta thường bán đi phần thắng lợi quá sớm còn nắm giữ phần lỗ lại quá lâu.

Chìa khóa thành công là theo dõi công ty mà bạn nắm giữ cổ phiếu chứ không phải theo dõi giá cổ phiếu đó. Theo dõi thông tin về công ty đó cũng như ngành nghề mà công ty đó hoạt động tốt hơn là xem giá của cổ phiếu đó 20 lần một ngày.

Chúng tôi sẽ hỗ trợ các nhà đầu tư khi nào nên bán cổ phiếu bằng hướng dẫn cho nhà đầu tư biết khi nào không nên bán trong các bài viết sau.

Trên đây là năm quy tắc để đầu tư chứng khoán thành công mà các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán VN cần lưu ý khi tham gia vào thị trường.

23) Bí quyết đầu tư chứng khoán

Hiện nay người được đánh giá là thành công nhất trong lĩnh vực đầu tư tài chính là tỷ phú Warren Buffett. Dưới đây, xin giới thiệu bí quyết đầu tư của nhà tỷ phú siêu việt này.

Không đầu tư vào cổ phiếu mà đầu tư vào Công ty

Warren Buffett không quan tâm trong việc mua đi bán lại cổ phiếu trong một thời gian ngắn. Ông cho rằng, cổ phiếu chỉ là tờ giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ đông đối với Công ty đó.Vì thế, không đầu tư vào cổ phiếu mà đầu tư vào Công ty. Với những Công ty có tiềm năng, Warren Buffett áp dụng chiến lược "buy and hold -mua và giữ ", ông sẽ giữ cổ phiếu trong thời gian dài, đôi khi giữ luôn.

Theo ông, muốn biết được năng lực thật sự của Công ty đó, việc đầu tiên cần làm là việc đọc báo cáo thường niên của Công ty có ý định đầu tư. Ngoài những chỉ số tài chính vị trí, lợi thế cạnh tranh của Công ty và năng lực của ban lãnh đạo cũng được ông đặc biệt quan tâm.

Ông là chủ nhân của câu nói, "economic moat" có nghĩa Công ty đó có lợi thế cạnh tranh cao, là Công ty dẫn đầu của ngành kinh doanh chính của nó hoặc là có thương hiệu được đánh giá cao.

Warren Buffett luôn đặt ra cho mình những câu hỏi: " Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư có tốt không, Công ty có mô hình kinh doanh đơn giản không? Lợi nhuận Công ty tốt, tăng trưởng ổn định không? Tỷ số nợ trên vốn có thấp hơn? Tỷ số lợi nhuận trên nợ có cao không? Lượng tiền mặt đầu tư có đủ lớn để tạo ra lợi nhuận và sự tăng trưởng không? Chi phí vận hành của Công ty đó có ở mức chấp nhận được hay không? Công ty có giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư. Khi đó Công ty sẽ trở thành một máy in tiền với tốc độ ngày càng tăng cao nhờ hiệu ứng tuyệt vời từ lãi suất kép. Ban lãnh đạo có tầm nhìn và bề dày thành tích về quản lý kinh doanh, có đạo đức không?

Đầu tư theo giá trị nội tại

Warren Buffett cho rằng, về lâu dài cổ phiếu sẽ phản ánh giá trị thật của nó. Do vậy, những cổ phiếu tốt là những cổ phiếu đang được thị trường định giá thấp. Theo ông, khoảng cách giữa giá trị thị trường và giá trị nội tại càng lớn thì lợi nhuận cũng như độ an toàn càng cao. Để có lợi nhuận, nhà đầu tư phải tính được giá trị thực của cổ phiếu hay Công ty đang đầu tư. Khi tính giá trị thực ngoài việc sử dụng nguyên tắc xác định thật giá trị thật cơ bản như như những nhà đầu tư khác, Warren Buffett còn nghiên cứu rất kỹ, đưa ra những khả năng có thể hay không thể rất chính xác của những Công ty ông sắp đầu tư như ông đã trình bày.

Chọn thời điểm mua
Warren Buffett cho rằng, thời điểm tốt để mua cổ phiếu là khi thị trường vào giai đoạn điều chỉnh hoặc lúc thị trường đang ở thời kì giảm giá mạnh. Phương cách đơn giản này đã giúp ông tránh được những thua thiệt trong đầu tư và trở thành một nhà đầu tư tài chính thành công nhất hiện nay.

Không quan tâm
Khi đã mua, Warren Buffett không quan tâm đến sự lên xuống giá cả nữa. Không như các nhà đầu tư khác, thường đa dạng hóa đầu tư danh mục đầu tư có nghĩa nên chọn cổ phiếu của nhiều Công ty khác nhau, ngành khác nhau để đầu tư với mục đích bổ sung, hỗ trợ nhằm đạt lợi nhuận cao nhất, giảm tối đa mức độ rủi ro có thể xảy ra, Warren Buffett không theo trường phái trên. Ông cho rằng, khi đã chọn doanh nghiệp tốt đầu tư thì sẽ có lợi nhuận cao và khả năng rủi ro rất thấp. Đa dạng hóa đầu tư, diện đầu tư sẽ sẽ trải rộng, lợi nhuận sẽ không cao từ Công ty hay cổ phiếu chính yếu.

Và hãy......

"Hãy sợ hãi khi những người khác tham gia làm. Hãy tham lam khi những người khác sợ hãi". Warren Buffett cho rằng, khi phần đông tham lam sẽ đẩy giá cổ phiếu lên cao, vượt mức giá trị nội tại. Còn khi số đông sợ hãi sẽ khiến giá cổ phiếu tiến gần đến biên độ an toàn và lợi nhuận trong tương lai cao.

Theo ông, " Thời gian là kẻ thù của những doanh nghiệp đang ăn nên làm ra. Nếu doanh nghiệp bạn đầu tư có tỷ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu 20 - 25%, thời gian là bạn của bạn. Nếu tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp thấp hơn mức bạn mong muốn thì thời gian là kẻ thù của bạn".

24) So Sánh cổ phiếu-trái phiếu

*C1

- Thời hạn: ấn định – không ấn định

- Lợi tức: ấn định – có thể thay đổi

- Rủi ro: ít rủi ro – rủi ro

- Chủ sở hữu: Chủ trái (không tham gia biểu quyết, ứng cử thành viên HĐQT)- cổ đông

*C2

- Mệnh giá

- Lãi suất

- Thời gian đáo hạn

Trái phiếu dù ẩn bất cứ dưới hình thức nào cũng chỉ là một công cụ (giấy) nợ. Người phát hành đi vay nợ thông qua cam kết trong trái phiếu có nghĩa vụ trả gốc và lãi cho người mua giữ trái phiếu đó.
Trong quan hệ về trái phiếu, người ta thường nhắc đến thuật ngữ "nghĩa vụ". Đó là sự ràng buộc về pháp lý đối với người phát hành phải thực thi lời hứa trả lãi định kỳ (thường là hai lần mỗi năm theo thông lệ của TTCK) cho người cầm trái phiếu. Thu nhập của người đầu tư mua trái phiếu (cho vay) thể hiện gần như chắc chắn ở phần lãi "cứng" này cho tới khi nào nhà phát hành chưa làm xong nghĩa vụ trả nợ. Thuật ngữ nghĩa vụ (obligation) trong quan hệ luật và tài chánh có khi được khái quát hoá là món nợ.

Nếu cổ phiếu chỉ hạn chế trong phạm vi các công ty cổ phần thì các trái phiếu có sự tham gia rộng hơn nhiều về phía các chủ thể phát hành. Bởi vì không chỉ có công ty cổ phần, mà còn các công ty quốc doanh, chính phủ trung ương và địa phương, ... đều có thể huy động tài chính bằng phương tiện trái phiếu.

Các điều kiện căn bản

- Thứ nhất là mệnh giá: Khác với cổ phần, mệnh giá trái phiếu là yếu tố được xác lập rất rõ ràng, vì đây là cơ sở đặt nền móng cho các quan hệ nghĩa vụ suốt chiều dài tồn tại của trái phiếu. Trong tiếng Anh, mệnh giá thường được diễn đạt bằng từ face value; nhưng họ cũng dùng rất phổ biến các từ face amount, principal amount, hay par value. Mệnh giá trái phiếu thường được định chuẩn ở các số càng chẵn càng tốt (nhiều zero), tuỳ theo giá trị đồng bạc ở mỗi nước, đồng thời cũng là để giúp cho việc giao dịch thuận tiện. Thường thường mỗi thị trường sẽ có những mệnh giá được chuộng nhất và được khuyến khích sử dụng. Ví dụ ở Mỹ hiện nay khi nói đến trái phiếu trong TTCK thì dân chúng có thói quen liên tưởng ngay đến loại 1.000USD. Loại 5.000USD cũng phổ biến nhưng không bằng loại 1.000USD. Những loại nhỏ hơn 1.000USD gọi là "baby bond" (trái phiếu nhỏ lẻ) được các công ty cần huy động vét (thường là để lập quỹ hoàn trái hoặc hoán nợ cho các loại trái phiếu trả lãi cao đã huy động trước đó) nhưng không nhỏ hơn 1.000USD. Các baby bond phải chịu phí giao dịch đắt hơn.

Tại Việt Nam, trong thời gian khởi động để chuẩn bị cho việc ra đời TTCK, ta cũng đang quan tâm đến một mệnh giá đồng bộ để đáp ứng yêu cầu kỹ thuật trong giao dịch. Có thể nói, Ngân Hàng Đầu Tư Phát Triển VN (BIDV) là nhà phát hành tiên phong loại trái phiếu tiêu chuẩn này, vào tháng 11 và 12 năm 1999, với các mệnh giá chuẩn là 10.000.000 VNĐ và 1000 USD.

- Thứ hai là lãi suất: Đây là thành tố xác định quyền lợi về thu nhập định kỳ (phần cứng) cho người sở hữu trái phiếu (chủ nợ). Thuật ngữ tiếng Anh gọi đây là coupon, coupon rate hoặc nominal yield, cả ba từ này khi diễn đạt trong khung cảnh lãi suất trái phiếu thì không có gì khác nhau cả. Ở Việt Nam ta đã quen gọi lãi suất theo tháng, nhưng sau này khi tiếp cận trái phiếu cần nhớ lãi suất đó được tính trên cơ sở một năm. Tiền lãi, theo thông lệ đã phổ biến, được trả cứ nửa năm một lần, nên khi tính toán ta cần cưa đôi lãi năm ra hai phần bằng nhau. Chẳng hạn trái phiếu mệnh giá 10.000.000đ, lợi suất danh nghĩa (nominal yield = lãi suất = rate of interest) là 10% thì mỗi sáu tháng trái phiếu đó nhận được 500.000đ, và từ đó tính ra tháng, ra ngày. Điều này xem chừng quá đơn giản, nhưng lại là những cơ sở chi li không kém phần phức tạp và không thể xem thường, nhất là đối với các nhân viên trực tiếp làm việc tại các tổ chức trong TTCK. Chẳng hạn khi họ phải xác định ngày cho việc tính lãi dồn lại (accrued interest) để phân định quyền lợi khi mua bán trái phiếu.

- Thứ ba là thời gian đáo hạn: Với tất cả các loại trái phiếu bình thường, việc hoàn trả lại tiền gốc sẽ được thực hiện vào ngày đáo hạn (maturity). Ngày đáo hạn còn là cơ sở quan trọng để xác định các kỳ trả lãi. Do kỳ trả lãi được xác định mỗi năm hai lần, các báo cáo tài chính tiếng Anh và giới chuyên nghiệp thường sử dụng các mẫu tự viết tắt để chỉ các kỳ trả lãi cho từng loại trái phiếu. Ví dụ: trái phiếu J&J, trả lãi vào ngày 1 tháng Giêng và 1 tháng Bảy; trái phiếu F&A trả lãi vào ngày 1 tháng Hai và 1 tháng Tám; J&D trả lãi ngày 1 tháng Sáu và 1 tháng Chạp (dương lịch),...

Tại các thị trường phát triển, việc quy định số ngày trong năm và phương pháp đếm ngày được chuẩn hoá tuỳ theo loại trái phiếu. Ở Mỹ trái phiếu công ty và trái phiếu đô thị được tính theo năm có 360 ngày và tháng có 30 ngày (kể cả tháng Hai). Nhưng trái phiếu chính phủ thì lại tính một năm là 365 ngày và tháng tính theo ngày lịch thực tế.

Có 3 loại cơ cấu đáo hạn căn bản của một đợt phát hành trái phiếu.

1. Loại trái phiếu có thời hạn cố định (term bonds) đáo hạn tất cả cùng một lúc.

2. Loại trái phiếu đáo hạn theo nhóm (serial bonds) từng kỳ, loại này được phát hành một đợt nhưng có kỳ đáo hạn khác nhau theo lịch trình định trước. Ví dụ: một trái phiếu đô thị có lượng phát hành 100 tỷ đồng có lịch đáo hạn mỗi năm 5 tỷ suốt trong chiều dài tồn tại của đợt đó là 20 năm.

3. Loại trái phiếu đáo hạn kết hợp (balloon bonds) đáo hạn từng phần nhưng đa phần là vào kỳ cuối cùng. Ví dụ một đợt phát hành trái phiếu "balloon" có thể mỗi năm thu hồi 3% giá trị phát hành ban đầu trong vòng 20 năm, rồi sau đó tất toán 40% còn lại vào năm đáo hạn. Từ balloon cho ta khái niệm phần phình ra nằm ở cuối trái bóng.

Để phù hợp với kế hoạch sử dụng tài chính và tính toán hiệu quả kinh tế, một nhà phát hành có thể bán trái phiếu trải ra qua vài ba năm, họ sẽ thu xếp đợt phát hành theo từng sê- ri tách biệt.


Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #nhjm