Bài tập lớn tư tưởng tada


Đề bài: Phân tích luận điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh: "Nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì".
Làm rõ ý nghĩa của luận điểm đối với Việt Nam hiện nay.

Bài làm:

Lịch sử Việt Nam là lịch sử không ngừng đấu tranh trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước là cội nguồn của sức mạnh dân tộc Việt Nam. Đối với người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc và dân chủ; độc lập dân tộc phải gắn với hạnh phúc và tự do của nhân dân; đồng thời, tự do và hạnh phúc của nhân dân cũng chính là giá trị sâu sắc của độc lập dân tộc. Điều đó được Người khái quát thành chân lý sâu sắc: "Nếu nước độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì."

Độc lập, tự do, hạnh phúc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Độc lập, tự do, hạnh phúc - đó là ham muốn tột bậc của Bác, đó cũng là khát vọng lớn lao của lớp lớp các thế hệ người Việt Nam.

Người dân được tự do và hạnh phúc, đó là mục tiêu lớn lao nhất mà vì nó Hồ Chí Minh cống hiến toàn bộ cuộc đời của mình. "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" là tư tưởng cách mạng cốt lõi, là lẽ sống của Hồ Chí Minh và của dân tộc Việt Nam.

Độc lập trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một nền độc hoàn toàn triệt để và có chủ quyền thực sự về mọi lĩnh vực. Dân tộc Việt Nam có quyền quyết định vận mệnh của mình. Dưới sự lãnh đạo của Người, tư tưởng độc lập, tự chủ đã trở thành "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt và định hình các hoạt động đối ngoại từ khi lập quốc đến nay. Về quan niệm độc lập của nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích cho thông tin viên hãng Roi-tơ, ông V. Rao rằng: "Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào."

Giữ vững độc lập, tự chủ vừa là đường lối, vừa là nguyên tắc bất biến để chúng ta bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia, dân tộc của mình. Đó chính là kết tinh của sự nghiệp đối ngoại của Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh, muốn có nền độc lập hoàn toàn thì phải đứng về lập trường giai cấp vô sản, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lenin, và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đó mới là nền độc lập thực sự, mang lại tự do, ấm no hạnh phúc thực sự cho nhân dân.

Trong tư tưởng yêu nước Hồ Chí Minh, tự do là tự do của toàn thể dân tộc. Dân tộc chỉ có thể tự do khi đã giành được độc lập. Tự do có nghĩa là thoát khỏi ách thống trị, áp bức bóc lột của nước ngoài. Nói tóm lại, tự do là thoát khỏi thân phận nô lệ, của con người nô lệ mất nước. Dân tộc có quyền tự do lưạ chọn con đường phát triển của riêng mình.

Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng bảo đảm quyền tự do của nhân dân trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945. Ngay từ những câu đầu tiên, Người đã trích dẫn những "lời bất hủ" trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Hoa Kỳ do Thomas Jefferson soạn thảo: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Người còn nhắc lại Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 như một sự lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp đã "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta... tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào... thi hành những luật pháp dã man".

Tại sao Người lại nhấn mạnh trong Tuyên ngôn độc lập một tư tưởng từ tuyên ngôn độc lập và dân quyền của một quốc gia tư bản? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời ngay trong Tuyên ngôn độc lập 1945: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Hồ Chí Minh đã phân biệt rạch ròi giữa chế độ chính trị của một quốc gia và chân lý, giá trị triết lý của nhân loại. Thật vậy, các quốc gia dù khác nhau về chế độ chính trị đều phải hướng tới mục tiêu bảo vệ các quyền và tự do căn bản và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho người dân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập và tự do có mối quan hệ vô cùng mật thiết. Hồ Chí Minh khẳng định độc lập, tự do là các quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới và là khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Người đã từng nói: "Tôi chỉ có một ham muốn tột bậc, ham muốn là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Tự do, hạnh phúc của con người bao giờ cũng là nỗi trăn trở của Người. Chính vì tự do hạnh phúc của con người mà Hồ Chí Minh đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội chỉ có giá trị thực sự khi nó mang lại tự do, hạnh phúc cho con người. Ở Hồ Chí Minh, lòng yêu tổ quốc bao giờ cũng gắn chặt chẽ với lòng thương yêu nhân dân. Người từng nói, nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lí gì. Như vậy, theo Hồ Chí Minh độc lập và tự do là hai vấn đề luôn luôn tồn tại cùng nhau không thể tách rời.

Hồ Chí Minh xác định: có độc lập mới có tự do, có giành được độc lập dân tộc mới có điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và mang lại tự do, hạnh phúc thật sự cho nhân dân. Trong Tuyên ngôn độc lập, tư tưởng ấy đã thể hiện sự gắn bó các quyền dân tộc cơ bản với các quyền cơ bản của con người. Người đã hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của các hệ tư tưởng cũ, đã khẳng định một cách hùng hồn rằng ngọn cờ độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là ngọn cờ bảo vệ nhân quyền và các quyền lợi chân chính của con người.

Hạnh phúc, tự do theo quan điểm Hồ Chí Minh là người dân phải được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do chủ nghĩa xã hội đem lại. Đời sống vật chất là trên cơ sở một nền kinh tế cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Người dân từ chỗ có ăn, có mặc, có chỗ ở đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm.

Khác với các con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến (cuối thế kỷ XIX), hoặc chủ nghĩa tư bản (đầu thế kỷ XX), con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh nêu ra chân lý mang tính thời đại:"Trong thời đại ngày nay, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn cách nào khác con đường cách mạng vô sản." Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Năm 1960, Người nói: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ."

Theo Người, xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ khi thiết lập được chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất mới xoá bỏ được tận gốc tình trạng áp bức bóc lột. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có xoá bỏ tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân vì dân mới đảm bảo cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc và tự do hạnh phúc của con người. Người nói: "Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Bởi vậy, sau khi dành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do.

Giành độc lập dân tộc rồi phải tiến lên chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội là "làm sao cho dân giàu, nước mạnh, là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do thật sự, triệt để." Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội là cơ sở để đảm bảo vững chắc cho dân tộc.

Trong "Thư gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bài báo "Bỏ cách làm tiên ấy đi!" trên báo Cứu quốc số 69 ra ngày 17-10-1945 nhằm phê phán tệ bán chức và buộc dân góp quỹ Người cương quyết yêu cầu những đại diện mới của chính quyền phải đề phòng những thói hư tật xấu của bộ máy hành chính cũ. Người viết: "Chúng ta phải hiểu rằng các cơ quan chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật... Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì... Chúng ta phải yêu dân thì dân mới yêu ta, kính ta."

Bác gay gắt phê phán những "lỗi lầm rất nặng nề" mà nhiều cán bộ đã phạm phải như "làm việc trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo... Từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân nghĩa là để gánh việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị Pháp, Nhật" và nhắc lại nguyên lý: "Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta... Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa". Người nêu rõ bản chất cách mạng và dân chủ của chính quyền nhân dân, nguồn gốc sức mạnh của chính quyền là ở sự gắn bó với nhân dân, hết lòng, hết sức mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Nguyên tắc tiên quyết khi xây dựng bộ máy chính quyền là chính quyền đó phải của dân, do dân, vì dân. Trong tác phẩm Thường thức chính trị viết năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Ở nước ta, chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là người nắm chính quyền, là lực lượng tạo ra quyền hành.

Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, dân tộc. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người ý thức rất rõ vị trí của mình trong bộ máy nhà nước, Bác nhiều lần nhắc nhở: ở nước ta từ Hồ Chủ tịch trở xuống là đầy tớ của dân; dân đặt ở đâu thì làm đó; Người làm Chủ tịch nước cũng là nhận sự trao quyền uỷ thác của dân.

Theo Hồ Chí Minh, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước, nhà nước phải tin dân và dựa vào dân. Ngoài ra, nó còn bao hàm nội dung khác: nhân dân có quyền tham gia vào công việc quản lý nhà nước, phê bình, kiểm soát, kiểm tra và giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đại biểu do mình cử ra.

Nhà nước vì dân, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, là nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong sạch, tránh quan lieu, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, phải loại hết "các ông quan cách mạng" ra khỏi bộ máy nhà nước.

Dưới ánh sang tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp."

Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ. Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ, văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất nước.

Quan điểm về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đề cập hết sức đầy đủ và sâu sắc. Đến nay, các quan điểm này của Người vẫn giữ nguyên giá trị và có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì vậy, vấn đề cốt tử là làm sao để nhân dân thực sự làm chủ vận mệnh của đất nước. Để quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và thực thi trong cuộc sống, cần xây dựng và hoàn thiện thể chế, phương thức, cơ chế thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), trong đó nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng Nhà nước pháp quyền và các tổ chức xã hội do chính họ lập ra và quản lý. Theo đó, nhân dân vừa là người cử ra chính quyền các cấp, vừa là người quản lý, kiểm tra, kiểm soát toàn bộ hoạt động của bộ máy quyền lực đó.

II. Ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay.

Luôn luôn giữ vững nền độc lập, chủ quyền dân tộc. Bảo vệ nền độc lập trước các thế lực ngoại xâm, thế lực thù địch. Trước diễn biến của tình hình thế giới và trong nước, đặc biệt trước sự chống phá của các thế lực thù địch, Đại hội XII của Đảng khẳng định: "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc". Đảng ta nhấn mạnh mục tiêu, yêu cầu bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên vị trí hàng đầu; trong đó khẳng định ý chí quyết tâm, "kiên quyết, kiên trì" đấu tranh để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc; không để đất nước bị động, bất ngờ, không để mất đất, mất đảo, mất dân. Đảm bảo độc lập đi liền với tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Đồng thời, ngày càng hoàn thiện bộ máy nhà nước của dân, do dân và vì dân. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, việc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng và học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội của nhân dân. Bởi, đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân làm chủ.

Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân phải nắm vững mục tiêu là tôn trọng, bảo vệ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tất cả vì độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 1992 khẳng định rõ: Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

Quan điểm trên càng có ý nghĩa quan trọng trong xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân - do nhân dân làm chủ, nhất là khi các thế lực thù địch đang lợi dụng chiêu bài "dân chủ" và "nhân quyền" cũng như các thủ đoạn khác để vu cáo, xuyên tạc chế độ dân chủ, chống phá cách mạng nước ta. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân". Tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền phải quán triệt sâu sắc quan điểm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Vấn đề là phải thống nhất nhận thức về mối quan hệ giữa toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với quyền lực của Nhà nước. Xét về mặt chính trị - xã hội thì nhân dân là cội nguồn của quyền lực Nhà nước, là chủ thể quản lý đất nước. Quyền lực của Nhà nước pháp quyền chính là quyền lực do nhân dân làm chủ trao cho Nhà nước, thay mặt cho nhân dân quản lý xã hội. Xét về mặt quản lý, Nhà nước là một tổ chức công quyền thực thi quyền lực. Dựa vào hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, Nhà nước thực hiện việc điều chỉnh các quá trình xã hội theo ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Vì vậy, giữa quyền lực Nhà nước với quyền làm chủ của nhân dân là thống nhất, không có sự đối lập về mục tiêu và lợi ích. Pháp luật là ý chí của nhân dân lao động, thể hiện sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. Những quyền tự do, dân chủ, nghĩa vụ của nhân dân được đưa lên thành luật, và Nhà nước chịu trách nhiệm trước nhân dân, bảo đảm và bảo vệ những quyền lợi, nghĩa vụ ấy của nhân dân. Như vậy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN thực hiện công việc quản lý đất nước bằng pháp luật, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp luật, tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Đồng thời, phải nâng cao dân trí, động viên, giáo dục và tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân sử dụng quyền làm chủ, quyền lực của mình tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

Bên cạnh đó, phát huy quyền làm chủ của nhân dân để nhân dân thực sự thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Nhà nước ta hiện nay đang tìm ra và thực thi những cơ chế, hình thức dân chủ hữu hiệu để nhân dân thật sự quyết định những công việc trọng đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trước hết và trực tiếp ở cơ sở. Thực tiễn đã chỉ rõ, chừng nào và khi nào Nhà nước chưa tạo đủ điều kiện để nhân dân thực hiện phát huy quyền làm chủ của mình ở cơ sở, hoặc để xảy ra dân chủ cực đoan, dân chủ quá trớn, gây trở ngại cho hoạt động điều hành và quản lý của bộ máy chính quyền cơ sở, thì chừng đó quyền lực Nhà nước ở địa phương bị suy giảm, cản trở việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

Trong quá trình phát huy dân chủ XHCN, để nhân dân thực sự thực hiện quyền lực và quyền làm chủ đất nước của mình, cần nắm vững bản chất và nội dung của vấn đề dân chủ. Dân chủ ở nước ta là dân chủ XHCN, là nền dân chủ của khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; quyền lợi đi đôi với trách nhiệm và nghĩa vụ; dân chủ được cụ thể hóa thành pháp luật, dân chủ trong khuôn khổ pháp luật; khắc phục tình trạng vô kỷ luật, dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để phá hoại chế độ XHCN. Đồng thời, tuyệt đối không mơ hồ trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với các giá trị văn hoá dân chủ XHCN. Cần phải kiên quyết chống lại những luận điệu xuyên tạc, mị dân, núp dưới chiêu bài "tự do", "dân chủ", "nhân quyền" tư sản để xuyên tạc những giá trị dân chủ XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã xây dựng, vun đắp trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Chúng ta cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong các cơ quan quyền lực của tổ chức nhà nước về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách, năng lực quản lý, năng lực chuyên môn để họ thực sự là "người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là nhân tố "cốt lõi" bảo đảm sự thành công của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì nhân dân. Đồng thời, tăng cường vai trò lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đáp ứng được những đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN thời kỳ mới. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua khẳng định và được xác định tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là điều kiện để bảo đảm Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bảo đảm cho hệ thống chính trị có đủ khả năng đưa đất nước ta từng bước vượt qua nguy cơ, thách thức, vững vàng đi theo con đường cách mạng XHCN.

Đã hàng thập kỷ trôi qua, nhưng lời dạy của Bác vẫn còn nguyên giá trị không chỉ hiện tại mà còn đến cả tương lại. Chúng ta rút ra được bài học: Dân tộc độc lập thì phải đi đôi với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Muốn như vậy, cần phải giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, đồng phấn đấu xây dựng một Nhà nước Việt Nam XHCN là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Có thế thì người dân mới được hạnh phúc, ấm no.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip