PLDC quang do
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, tầm quan trọng của pháp luật hầu như được tất cả mọi người thừa nhận. Về lý thuyết, theo quan điểm Mác – Lênin, pháp luật là một hệ thống những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra trong một xã hội có giai cấp, tức là một hiện tượng bắt buộc phải có. Mặt khác, một công dân sống trong một xã hội, không ai thoát ra khỏi những qui định của pháp luật. Trong cuộc sống, có thể người ta đôi khi cảm thấy bị gò bó bởi những qui định của luật pháp nhưng chắc ai cũng hình dung được tình trạng hổn loạn nếu trong xã hội không tồn tại một hệ thống pháp luật hữu hiệu. Do đó, hiểu biết những qui định của pháp luật là hết sức cần thiết và hữu ích. Biết được pháp luật, người ta sẽ tránh được những hành vi vi phạm pháp luật, không bị những chế tài của pháp luật. Hơn nữa, biết được pháp luật, người ta sẽ hiểu được những gì mình làm, có thể thực hiện nhằm bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của mình.
Tuyên truyền, phổ biến pháp luật cũng là nhiệm vụ của mọi Nhà nước. Ở Việt Nam, trong các Nghị quyết Đảng và cả trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ 8 của Đảng vừa qua cũng nêu quyết tâm “tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa”.Vì thế, việc học tập, tìm hiểu cũng như tăng cường công tác phổ biến pháp luật là một yêu cầu cấp thiết có ý nghĩa thiết thực đối với mọi công dân trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Tập bài giảng môn học Pháp luật đại cương được biên soạn với nội dung đúng chương trình khung giáo dục đào tạo dành cho các lớp cao đẳng đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2002, đảm bảo tính liên thông giữa giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục đại học.
Tập bài giảng Pháp luật đại cương gồm 6 chương với thời lượng 45 tiết là tương đối phù hợp với đào tạo cao đẳng, đại học hiện nay; đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu cơ bản sau:
- Trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về pháp luật đại cương theo chương trình làm cơ sở cho việc học tập, nghiên cứu môn học pháp luật kinh tế và những môn chuyên ngành.
- Xây dựng tình cảm, niềm tin và thái độ giác độ, ý thức công dân của sinh viên đối với pháp luật. Trên cơ sở đó, giúp cho sinh viên tạo lập thói quen ứng xử phù hợp và theo chuẩn mực pháp luật.Tác giả cố gắng lựa chọn vấn đề, thuật ngữ pháp lý phù hợp, tránh dùng từ ngữ trừu tượng về nhà nước và pháp luật; tuy nhiên trong công tác biên soạn khó tránh khỏi những thiếu sót cả về hình thức lẫn nội dung.
Rất mong bạn đọc góp nhiều ý kiến quý báu để tập bài giảng này ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu học tập về pháp luật của sinh viên trong các trường cao đẳng.
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
I. Những vấn đề cơ bản về Nhà nước:
1/. Nguồn gốc của Nhà nước:
Về sự xuất hiện của Nhà nước, từ trước tới nay có nhiều quan niệm khác nhau, song có thể xếp làm hai loại: quan niệm phi mácxit và quan niệm mácxit.
1.1. Một số quan niệm phi mácxit về sự xuất hiện Nhà nước:
Thuyết thần học là thuyết cổ điển nhất về sự xuất hiện nhà nước. Thuyết này cho rằng Thượng đế là người sáng lập và sắp đặt mọi trật tự trên trái đất, trong đó có Nhà nước. Nhà nước do Thượng đế sáng tạo, thể hiện ý chí của Thượng đế thông qua người đại diện của mình là nhà vua. Vua là “thiên tử” thay Thượng đế “hành đạo” trên trái đất. Do đó việc tuân theo quyền lực của nhà vua là tuân theo ý trời, và nhà nước tồn tại vĩnh cửu.
Những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng thì cho rằng nhà nước là kết quả sự phát triển của gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người. Vì vậy, cũng như gia đình, nhà nước tồn tại trong mọi xã hội và quyền lực nhà nước, về bản chất giống như quyền gia trưởng của người chủ trong gia đình.
Trong thời kỳ Phục hưng xuất hiện các quan niệm mới về sự xuất hiện của nhà nước. Những người theo quan niệm này cho rằng sự xuất hiện của nhà nước là kết quả của một khế ước (hợp đồng) được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên, không có nhà nước. Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội, chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân. Trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới.
1. 2. Quan niệm mácxit về sự ra đời của Nhà nước:
Học thuyết Mác - Lênin coi nhà nước là hiện tượng có quá trình phát sinh, tồn tại và phát triển. Nhà nước nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định.
Theo học thuyết Mác - Lênin, chế độ cộng sản nguyên thuỷ (còn gọi là chế độ công xã nguyên thuỷ) là hình thái kinh tế - xã hội xuất hiện đầu tiên trong lịch sử loài người, trong xã hội này không có giai cấp, không có nhà nước và pháp luật, nhưng trong lòng nó lại chứa đựng những nhân tố làm nảy sinh ra nhà nước và pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu về xã hội cộng sản nguyên thuỷ giúp chúng ta tìm căn cứ để chứng minh quá trình phát sinh nhà nước và pháp luật, từ đó làm rõ thêm bản chất của các hiện tượng này.
Cơ sở kinh tế - xã hội của chế độ cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở hữu công cộng về tư lệu sản xuất ở mức độ rất sơ khai. Tương ứng với chế độ kinh tế ấy là hình thức tổ chức bầy người nguyên thuỷ. Trước tiên là sự xuất hiện những nhóm nhỏ gồm những người du mục cùng nhau kiếm ăn và tự bảo vệ, do một thủ lĩnh cầm đầu, dần dần xã hội loài người tiến lên một hình thức tương đối bền vững hơn, đó là thị tộc.
a. Thị tộc:
Việc sản xuất tập thể và phân phối tập thể yêu cầu phải thiết lập chế độ sở hữu công cộng của công xã về ruộng đất, gia súc, nhà cửa . . .. Thị tộc là hình thức tổ chức xã hội đầu tiên, là nét đặc thù của chế độ cộng sản nguyên thuỷ đã phát triển. Thị tộc là tế bào cơ sở của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Nó được hình thành trên cơ sở huyết thống và lao động tập thể cùng với những tài sản chung. Chính quan hệ huyết thống là khả năng duy nhất để tập hợp các thành viên vào một tập thể sản xuất có sự đoàn kết chặt chẽ và kỷ luật tự giác cao.
Đại diện cho ý kiến chung của thị tộc là Hội đồng thị tộc. Hội đồng thị tộc là tổ chức nắm giữ quyền lực cao nhất, quyết định các vấn đề quan trọng của thị tộc, bao gồm các thành viên đã trưởng thành của thị tộc. Đứng đầu thị tộc là tù trưởng.
Việc quản lý công xã thị tộc do tù trưởng đảm nhiệm, đây là người có uy tín Hội đồng thị tộc bầu lên. Lúc có xung đột giữa các thị tộc thì một thủ lĩnh quân sự được bầu ra để chỉ huy việc tự vệ và bảo vệ thị tộc.
Tù trưởng và thủ lĩnh quân sự hàng ngày cùng lao động như các thành viên khác của thị tộc. Họ có thể bị thị tộc bãi miễn. Quyền lực của họ cũng có tính chất cưỡng chế nhưng hoàn toàn dựa trên uy tín và sự ủng hộ của mọi thành viên trong thị tộc. Họ không có một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nào cả. Những công việc quan trọng đều do đồng thị tộc quyết định, còn việc thi hành thì do tù trưởng đảm nhiệm. Tù trưởng thể hiện lợi ích của toàn thể thị tộc, do đó được tập thể ủng hộ.
Đặc điểm của hình thức tổ chức xã hội thị tộc là:
+ Không có quyền lực tách riêng ra khỏi xã hội mà việc quản lý phục vụ lợi ích cả cộng đồng.
+ Không có bộ máy cưỡng chế đặc biệt được tổ chức một cách có hệ thống.
Do vậy, quyền lực trong xã hội thị tộc được gọi là “quyền lực xã hội”, phân biệt với “quyền lực nhà nước” ở các giai đoạn sau này.
Thị tộc tổ chức theo huyết thống ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế và hôn nhân, đặc biệt do phụ thuộc vào địa vị chủ đạo của người phụ nữ trong thị tộc nên nó được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Quá trình phát triển của kinh tế xã hội, của chiến tranh đã làm thay đổi quan hệ trong hôn nhân, địa vị của người phụ nữ trong thị tộc cũng thay đổi. Người đàn ông đã dần dần giữ vai trò chủ đạo trong đời sống thị tộc và chế độ mẫu hệ đã chuyển dần sang chế độ phụ hệ.
Trong quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại như liên kết chống xâm lược, trao đổi sản phẩm, các quan hệ hôn nhân ngoại tộc (chế độ ngoại tộc hôn) xuất hiện v.v. . . nó đòi hỏi các thị tộc phải mở rộng quan hệ với các thị tộc khác, dẫn đến sự xuất hiện các bào tộc và bộ lạc.
b. Bào tộc:
Bào tộc là một liên bao gồm nhiều thị tộc hợp lại. Việc tổ chức, quản lý bào tộc dựa trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức quyền lực như trong thị tộc, nhưng thể hiện mức độ tập trung quyền lực cao hơn.
Hội đồng bào tộc gồm các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự của các thị tộc. Hội đồng này quyết định những công việc quan trọng trong bào tộc.
c. Bộ lạc:
Bộ lạc bao gồm nhiều bào tộc liên minh lại. Tổ chức quyền lực trong bộ lạc cũng tương tự như thị tộc và bào tộc nhưng mức độ tập trung quyền lực cao hơn. Dù vậy, quyền lực vẫn mang tính xã hội, phục vụ lợi ích của tất cả mọi người, chưa mang tính giai cấp.
Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã hội đã làm biến đổi tổ chức thị tộc. Nghề chăn nuôi và trồng trọt không bắt buộc phải lao động tập thể, những công cụ lao động đã được cải tiến dần dần và những kinh nghiệm sản xuất được tích luỹ tạo ra khả năng cho mỗi gia đình có thể tự chăn nuôi, trồng trọt một cách độc lập. Do đó nhà cửa, gia súc, sản phẩm từ cây trồng, công cụ lao động đã trở thành vật thuộc quyền tư hữu của những người đứng đầu gia đình.
Trong thị tộc xuất hiện gia đình theo chế độ gia trưởng, chính nó đã làm rạn nứt chế độ thị tộc. Dần dần gia đình riêng lẻ đã trở thành lực lượng đối lập với thị tộc. Mặt khác, do năng suất lao động nâng cao đã thúc đẩy sự phân công lao động xã hội dần dần thay thế sự phân công lao động tự nhiên. Trong lịch sử đã trải qua ba (3) lần phân công lao động xã hội lớn. Sau mỗi lần, xã hội lại có những bước tiến mới, sâu sắc hơn, thúc đẩy nhanh quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ.
v Sự phân công lao động lần thứ nhất dẫn đến kết quả là ngành chăn nuôi tách khỏi trồng trọt. Do quá trình con người biết thuần dưỡng được động vật đã mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển sản xuất của loài người, tạo điều kiện cho lao động sản xuất chủ động và tự giác hơn, biết tích luỹ tài sản dự trữ để đảm bảo nhu cầu cho những ngày không thể ra ngoài kiếm ăn được. Đây là mầm mống sinh ra chế độ tư hữu. Bởi ngành chăn nuôi phát triển mạnh dẫn đến sự xuất hiện ngày càng nhiều gia đình chuyên làm nghề chăn nuôi và dần dần chăn nuôi trở thành một ngành kinh tế độc lập, tách ra khỏi trồng trọt.
Con người đã tạo ra nhiều của cải hơn mức nhu cầu duy trì cuộc sống của chính bản thân họ, vì vậy đã xuất hiện những sản phẩm lao động dư thừa và phát sinh khả năng chiếm đoạt những sản phẩm dư thừa đó. Tất cả các gia đình đều chăm lo cho kinh tế của riêng mình, nhu cầu về sức lao động ngày càng tăng, do đó tù binh chiến tranh dần dần không bị giết chết mà được giữ làm nô lệ để bóc lột sức lao động. Các tù trưởng và thủ lĩnh quân sự lợi dụng địa vị xã hội của mình chiếm đoạt nhiều gia súc, đất đai, chiến lợi phẩm và tù binh sau các cuộc chiến tranh thắng lợi. Quyền lực được thị tộc trao cho họ trước đây họ đem sử dụng vào việc bảo vệ lợi ích riêng của mình. Họ bắt nô lệ và những người nghèo khổ phải phục tùng họ. Quyền lực ấy được duy trì theo kiểu cha truyền con nối. Các tổ chức hội đồng thị tộc, bào tộc, bộ lạc dần dần tách ra khỏi dân cư, biến thành các cơ quan thống trị, bạo lực, phục vụ cho lợi ích những người giàu có. Một nhóm người thân cận được hình thành bên cạnh người cầm đầu thị tộc, bào tộc, bộ lạc. Lúc đầu họ chỉ là những vệ binh, sau đó được hưởng những đặc quyền, đặc lợi. Đây là mầm mống của đội quân thường trực sau này.
Sau lần phân công lao động xã hội đầu tiên, chế độ tư hữu đã xuất hiện, xã hội đã phân chia thành người giàu, người nghèo. Chế độ tư hữu xuất hiện cũng làm thay đổi quan hệ hôn nhân, từ quần hôn biến thành chế độ một vợ một chồng.
v Cùng với sự phát triển của chăn nuôi và trồng trọt thì thủ công nghiệp cũng phát triển để đảm bảo cung ứng các nhu cầu về công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt trong các gia đình, đặc biệt là sau khi loài người tìm ra kim loại như đồng, sắt .v .v . đã tạo ra khả năng có thể trồng trọt những diện tích rộng lớn hơn, khai hoang được những miền rừng rú.
Nghề gốm, nghề dệt v.v. . cũng ra đời. Từ đó, xuất hiện những người chuyên làm nghề thủ công nghiệp tách ra khỏi hoạt động sản xuất trong nông nghiệp. Như vậy, kết quả của lần phân công lao động xã hội thứ hai là thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp.
v Do có sự phân công lao động xã hội nên giữa các khu vực sản xuất, giữa các vùng dân cư xuất hiện nhu cầu trao đổi sản phẩm. Do đó thương nghiệp phát triển dẫn đến sự phân công lao động lần thứ ba - những người buôn bán trao đổi chuyên nghiệp đã tách ra khỏi hoạt động sản xuất.
Đây là lần phân công lao động có ý nghĩa quan trọng, chính nó làm nảy sinh ra một giai cấp không tham gia vào quá trình sản xuất nữa, mà chỉ làm công việc trao đổi sản phẩm, nhưng lại là người nắm giữ quyền điều hành sản phẩm, bắt người sản xuất phụ thuộc vào mình về mặt kinh tế, họ bóc lột cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng.
Chính sự phát triển của thương mại buôn bán đã làm xuất hiện đồng tiền với chức năng là vật ngang giá chung. Đồng tiền trở thành “hàng hoá của mọi hàng hoá”, kéo theo nó sự xuất hiện nạn cho vay nặng lãi, hoạt động cầm cố tài sản. Các yếu tố này đã thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung của cải vào tay một số ít người giàu, đồng thời cũng thúc đẩy sự bần cùng hoá và làm tăng nhanh số lượng dân nghèo, đã làm cho cuộc sống thuần nhất ở thị tộc bị đảo lộn.
Những hoạt động buôn bán, trao đổi, chế độ nhường quyền sở hữu đất đai, sự thay đổi chổ ở và nghề nghiệp đã phá vỡ cuộc sống định cư của thị tộc. Trong thị tộc không còn khả năng phân chia dân cư theo huyết thống. Nó đòi hỏi phải có một tổ chức quản lý dân cư theo lãnh thổ hành chính. Việc sử dụng những tập quán và tín điều tôn giáo không thể bảo đảm cho mọi người tự giác chấp hành. Để bảo vệ quyền lợi chung, đặc biệt là quyền sở hữu tài sản của lớp người giàu có đã thúc đẩy họ liên kết với nhau để thành lập nên một hình thức cơ quan quản lý mới, và phải là một tổ chức có đông đảo những người được vũ trang để bảo đảm sức mạnh cưỡng chế, để dập tắt mọi sự phản kháng, tổ chức đó phải khác hẳn với tổ chức thị tộc đã bất lực và đang tàn lụn dần - tổ chức đó chính là Nhà nước.
Như vậy, nhà nước đã xuất hiện một cách khách quan, nó là sản phẩm của xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định. Nhà nước không phải là một quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là một lực lượng nảy sinh từ trong lòng xã hội, nhưng lại tựa hồ như đứng trên xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột và giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng trật tự.
So với tổ chức thị tộc trước kia thì Nhà nước có hai đặc trưng cơ bản là: phân chia dân cư theo lãnh thổ, và thiết lập quyền lực công cộng. Quyền lực công cộng đặc biệt này không còn hoà nhập với dân cư nữa, quyền lực đó không thuộc về tất cả mọi thành viên của xã hội nữa, mà chỉ thuộc về giai cấp thống trị và phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.
Để đảm bảo cho quyền lực công cộng được thực hiện, Nhà nước phải sử dụng một thứ công cụ đặc biệt mà xã hội trước kia chưa hề biết đến - đó là pháp luật. Vì thế cùng với sự ra đời của nhà nước thì pháp luật cũng xuất hiện.
2/. Bản chất của Nhà nước:
Trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính trị thuộc về một giai cấp hoặc liên minh các giai cấp thống trị. Các giai cấp nắm quyền tổ chức ra một bộ máy đặc biệt để duy trì sự thống trị đối với xã hội, buộc các lực lượng xã hội khác phục tùng ý chí của mình. Bộ máy đó là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt. Quyền lực chính trị, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, về thực chất là “bạo lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp giai cấp khác”[1]
Như vậy, xét về mặt bản chất, nhà nước - tổ chức quyền lực chính trị, có tính giai cấp. Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được hợp pháp hoá thành ý chí nhà nước. Thông qua nhà nước, giai cấp (hoặc liên minh giai cấp) thực hiện sự thống trị xã hội trên các mặt: kinh tế, chính trị, tư tưởng. Bản chất giai cấp của nhà nước cũng được thể hiện thông qua các quan hệ đối ngoại.
Ngoài tính giai cấp, nhà nước còn có tính xã hội. Với tư cách là tổ chức công quyền, đại diện cho xã hội, trong khi thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, nhà nước còn tính đến lợi ích xã hội. Nhà nước phải giải quyết những vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo đảm duy trì các giá trị xã hội đã đạt được; duy trì trật tự, ổn định xã hội để phát triển, bảo đảm lợi ích tối thiểu của các lực lượng đối lập.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt, nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền.
3. Các dấu hiệu cơ bản của Nhà nước:
Nhà nước có một số đặc điểm cơ bản khác biệt so với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cụ thể:
- Nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, toàn thể nhân dân sinh sống trên đất nước;
- Chỉ duy nhất Nhà nước mới có thẩm quyền ban hành pháp luật áp dụng đối với tất cả mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân, và sử dụng các biện pháp cưỡng chế để thi hành khi cần thiết;
- Nhà nước có một bộ máy được tổ chức chặt chẽ để thực hiện chức năng quản lý trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội;
- Nhà nước có lực lượng quân đội, cảnh sát; có nhà tù, trại giam, tòa án ... làm nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ;
- Chỉ duy nhất Nhà nước mới có thẩm quyền thu thuế;
- Nhà nước là đại diện chính thức của quốc gia trong quan hệ đối ngoại với các quốc gia khác trên thế giới.
4. Chức năng của nhà nước:
Bản chất, vai trò xã hội của nhà nước thể hiện trực tiếp ở nhiệm vụ, chức năng của nhà nước:
Nhiệm vụ của nhà nước là mục tiêu do lực lượng lãnh đạo xã hội, nhà nước đặt ra cho nhà nước cần đạt tới, những vấn đề nhà nước cần giải quyết trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Trong đó có những nhiệm vụ chung, cơ bản, nhiệm vụ chiến lược lâu dài, những nhiệm vụ trước mắt.
Để thực hiện những mục tiêu đó, nhà nước triển khai hoạt động của mình trên các phương diện khác nhau, nhưng đều hướng tới là hoàn thành nhiệm vụ chung. Những hướng hoạt động đó được gọi là chức năng của nhà nước.
Như vậy, chức năng của nhà nước là những phương diện, những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước, nhằm thực hiện những nhiệm vụ trọng yếu nhất do lực lượng cầm quyền trong xã hội đặt ra cho nhà nước cần giải quyết.
Căn cứ vào phạm vi hoạt động của nhà nước, có thể chia chức năng nhà nước thành chức năng đối nội, và chức năng đối ngoại.
- Chức năng đối nội của nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước.
- Chức năng đối ngoại của nhà nước nhằm giải quyết các quan hệ của nhà nước với các dân tộc, các quốc gia khác trên trường quốc tế.
Chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện chức năng đối ngoại luôn luôn phải xuất phát từ tình hình thực hiện chức năng đối nội. Ngược lại, kết quả của việc thực hiện chức năng đối ngoại sẽ tác động mạnh mẽ tới việc tiến hành các chức năng đối nội.
Lưu ý, không có sự đồng nhất giữa chức năng nhà nước và chức năng của cơ quan nhà nước. Chức năng của nhà nước là phương diện hoạt động cơ bản của cả bộ máy nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước phải tham gia thực hiện ở mức độ khác nhau. Chức năng của cơ quan nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của nó để góp phần thực hiện chức năng chung của nhà nước. Vì vậy, một chức năng của nhà nước do nhiều cơ quan nhà nước thực hiện bằng những hình thức hoạt động đặc trưng khác nhau.
Để thực hiện các chức năng của nhà nước, nhiều hình thức, phương pháp hoạt động khác nhau được áp dụng. Hình thức, phương pháp bắt nguồn từ bản chất nhà nước, thể hiện bản chất nhà nước.
Hình thức pháp lý: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Phương pháp: thuyết phục, giáo dục, cưỡng chế.
5. Bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam:
5.1. Khái niệm bộ máy nhà nước:
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam có đặc điểm:
- Cơ cấu tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước.
- Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại diện do nhân dân bầu ra. Các cơ quan khác của nhà nước đều bắt nguồn từ cơ quan đại diện dân cử, chịu trách nhiệm và báo cáo trước cơ quan dân cử.
- Bộ máy nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong bộ máy nhà nước có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp nhằm tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, nhầm lẫn chức năng giữa chúng.
5.2. Hệ thống tổ chức bộ máy chính quyền ở Việt Nam bao gồm bốn cấp:
- Cấp Trung ương.
- Cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
- Cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).
- Cấp xã (xã, phường, thị trấn).
Hiện nay, nhiều địa phương còn phân chia xã ra nhiều ấp (hoặc thôn, khu vực). Có bầu trưởng ấp, trưởng thôn để giúp Ủy ban nhân dân xã quản lý địa bàn được sâu sát. Tuy nhiên, không được coi đây là cấp chính quyền cơ sở thứ 5. Cấp chính quyền nhỏ nhất trong nhà nước là cấp xã.
5. 3. Bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay:
Hệ thống cơ quan trong bộ máy Nhà nước ta bao gồm: Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, hệ thống cơ quan hành chính Nhà nước, hệ thống cơ quan kiểm sát và hệ thống cơ quan xét xử. Bên cạnh đó, còn có chế định chủ tịch nước – đây là chế định độc lập không thuộc hệ thống cơ quan nào trong bộ máy Nhà nước.
6. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam:
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền hình thành rất sớm trong lịch sử, ngay thời kỳ cổ đại các nhà tư tưởng như Platon, Arixtốt,…đã đề cao vai trò của pháp luật trong đời sống của nhà nước và xã hội.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại được các học giả tư sản thế kỉ XIX nâng lên ở trình độ mới thành lý thuyết nhà nước pháp quyền mà nội dung cơ bản của nó là sự lệ thuộc của nhà nước vào pháp luật, pháp luật phải phục vụ con người.
Ngày nay, trong các ấn phẩm khoa học trong và ngoài nước tuy còn tồn tại những quan niệm khác nhau về nhà nước pháp quyền, nhưng nhìn chung các tác giả đều thừa nhận nhà nước pháp quyền có những đặc điểm phổ biến sau:
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong hệ thống pháp luật Hiến pháp là tối cao, các đạo luật chiếm ưu thế trong hệ thống pháp luật;
- Pháp luật trong nhà nước pháp quyền là pháp luật mang tính nhân văn, nhân đạo, phục vụ con người, vì con người;
- Tất cả các cơ quan nhà nước, công chức viên chức nhà nước đều phải tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, đặt mình dưới pháp luật;
- Không ngừng mở rộng, bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do, lợi ích của công dân;
- Thiết lập mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước và giữa nhà nước với công dân;
- Đề cao vai trò của Tòa án trong việc bảo vệ pháp luật.
Tư tưởng, quan điểm về nhà nước pháp quyền ở nước ta được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng, pháp luật của nhà nước. Kế thừa có chọn lọc những quan điểm, tri thức nhân loại về nhà nước pháp quyền. Trên cơ sở quan điểm của Đảng có thể khẳng định ngoài những đặc điểm có tính phổ biến nói trên về nhà nước pháp quyền, quan điểm về nhà nước pháp quyền Việt Nam có những đặc thù của nó.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên nền tảng khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức;
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp;
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Để từng bước xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta cần phải:
1) Kiên trì và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam;
2) Đổi mới cơ cấu quản lý nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN nhằm tạo ra cơ sở vật chất cho đời sống xã hội, đời sống nhà nước;
3) Hoàn thiện hệ thống pháp luật về nội dung và hình thức, ưu tiên ban hành các luật về kinh tế, cải cách bộ máy nhà nước, về quyền công dân,…nhằm tạo ra một khung pháp lý lành mạnh cho mọi hoạt động của xã hội, nhà nước và của công dân;
4)Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cap ý thức pháp luật, lối sống tuân theo pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt đối với cán bộ, công chức;
5) Tổ chức tốt công tác thực hiện pháp luật;
6) Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, việc thực hiện pháp luật;
7) Hoàn thiện hoạt động lập pháp và giám sát của Quốc hội, hoàn thiện bộ máy hành chính nhà nước và các cơ quan tư pháp;
8) Mở rộng dân chủ, phát huy tính tích cực chính trị – xã hội của quần chúng, thực hiện đầy đủ dân chủ ở cơ quan, tổ chức, cơ sở;
9) Công khai hoá mọi lĩnh vực hoạt động nhà nước trừ những lĩnh vực liên quan tới bí mật, an ninh quốc gia, bảo đảm quan điểm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo ra môi trường phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội, đảm bảo sự ổn định về chính trị, sự thống nhất về tư tưởng, Đây là những tiền đề có tính tiên quyết để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
II. Những vấn đề cơ bản về pháp luật:
1. Nguồn gốc của pháp luật:
Để xã hội trật tự cần có sự điều chỉnh nhất định đối với các quan hệ của con người. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bất kỳ xã hội nào cũng được thực hiện bằng một hệ thống các quy phạm xã hội. Các quy phạm xã hội là những quy tắc về hành vi của con người. Khi chưa có Nhà nước, các quy tắc xã hội gồm: các quy tắc, tập quán, đạo đức, các tín điều tôn giáo . . . .
Sự hình thành giai cấp và đấu tranh giai cấp tới mức không thể điều hoà được dẫn tới sự ra đời của Nhà nước, cùng lúc với sự ra đời của Nhà nước đã xuất hiện một loại quy tắc của Nhà nước, đó là quy tắc pháp luật. Pháp luật được hình thành bằng hai con đường:
Thứ nhất, giai cấp thống trị thông qua Bộ máy Nhà nước cải tạo, sửa chữa các quy tắc phong tục, tập quán đạo đức sẵn có cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và các quy tắc đó trở thành pháp luật.
Thứ hai, bằng bộ máy nhà nước của mình, giai cấp thống trị đặt ra thêm các quy phạm mới, dùng quyền lực buộc mọi thành viên trong xã hội phải tuân theo nhằm duy trì một trật tự xã hội trong vòng trật tự của giai cấp thống trị, đồng thời bảo vệ lợi ích, củng cố sự thống trị của giai cấp thống trị đối với xã hội.
2. Bản chất của pháp luật:
* Tính giai cấp:
Pháp luật phản ánh ý chí của giai cấp thống trị. Ý chí đó được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và đảm bảo thực hiện. Nhờ nắm trong tay quyền lực Nhà nước mà giai cấp thống trị đã thông qua Nhà nước thể hiện ý chí của giai cấp mình một cách tập trung, thống nhất và hợp pháp hóa thành ý chí của Nhà nước.
Tính giai cấp còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội mà trước hết điều chỉnh quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội nhằm hướng các quan hệ đó phát triển phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị.
* Tính xã hội (giá trị xã hội của pháp luật):
Pháp luật do Nhà nước đại diện chính thức toàn xã hội ban hành, cho nên ở mức độ nhất định tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn cụ thể mà pháp luật còn thể hiện ý chí của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội.
Qui phạm pháp luật là thước đo hành vi xử sự của con người, qui định cách xử sự “chuẩn” để công dân thực hiện, thể hiện cụ thể trong các văn bản qui phạm pháp luật những việc được phép làm, không được phép làm, khuyến khích làm; là công cụ để kiểm nghiệm các quá trình, hiện tượng xã hội, nhận thức xã hội.
Từ phân tích trên có thể định nghĩa: Pháp luật là hệ thống các qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của giai cấp thống trị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế.
3. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật:
+ Tính cưỡng chế: (tính quyền lực, tính đảm bảo giá trị thi hành bằng Nhà nước)
Tính cưỡng chế thể hiện ở việc Nhà nước có thể dùng nhiều biện pháp để bắt buộc mọi người phải tuân thủ theo những qui định của pháp luật. Đây cũng là tính cơ bản, dựa trên quyền lực Nhà nước làm cho pháp luật có sức mạnh và hiệu lực. Nhà tư tưởng Pascal đã nói: “Công lý không có quyền lực thì bất lực, quyền lực không có công lý thì tàn bạo”. Tính cưỡng chế còn làm cho quy phạm pháp luật khác với các quy phạm đạo đức, luân lý vì ở các loại quy phạm này, con người thực hiện do niềm tin.
Pháp luật do Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện. Vì thế, cưỡng chế là thuộc tính cơ bản của pháp luật nói chung. Nhờ có tính cưỡng chế mà pháp luật của Nhà nước trở nên có sức mạnh thi hành và đây cũng là điểm khác biệt giữa pháp luật với đạo đức, tập quán.
Nhà nước bảo đảm giá trị thi hành bằng các biện pháp sau:
- Bằng thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật
- Bằng các biện pháp cưỡng chế Nhà nước. Cụ thể, trong các qui phạm pháp luật đều có các loại chế tài nhất định, tương ứng các hành vi vi phạm pháp luật.
+ Tính quy phạm phổ biến:
Tính quy phạm chỉ cách xử sự mà người ta phải theo trong những trường hợp nhất định. Tính quy phạm của pháp luật chính là việc thể chế hóa những qui định mang tính điển hình hướng dẫn mọi người noi theo. Sở dĩ, cần thiết phải có những khuôn mẫu áp dụng trong những hoàn cảnh nhất định vì trong từng trường hợp, do sự chi phối của nhiều điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau nên có thể nảy sinh những khả năng xử sự khác nhau có thể làm rối loạn xã hội, do đó Nhà nước cần đặt ra một khuôn mẫu chung.
Nói pháp luật mang tính quy phạm tức là nói đến tính quy tắc, khuôn mẫu, thước đo tiêu chuẩn hành vi xử sự của con người. Các quy tắc xử sự xác định cho mọi người giới hạn: những hành vi được phép, không được phép thực hiện; những việc được làm, không được làm (cấm); quyền và nghĩa vụ của công dân.
Khác với các quy phạm khác (như đạo đức, luân lý, tôn giáo), pháp luật mang tính phổ biến. Phạm vi tác động của pháp luật trên toàn lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia và được áp dụng nhiều lần đối với tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống, hoạt động trên lãnh thổ đó.
+ Tính xã hội: (tính khách quan, tính ổn định tương đối)
Pháp luật muốn phát huy hiệu lực thì nó phải phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội ở thời điểm nó tồn tại, tức là nó phản ánh đúng nhu cầu khách quan của xã hội. Pháp luật một nước phản ánh tình trạng kinh tế xã hội của nước đó trong một giai đoạn nhất định. Khi tình hình kinh tế xã hội thay đổi thì pháp luật cũng thay đổi theo để phù hợp. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là pháp luật cứ được ban hành một cách tuỳ tiện để rồi sửa đổi trong thời gian ngắn sau đó. Một trong những mục đích của pháp luật là giữ sự ổn định xã hội nên chính pháp luật cũng phải mang tính ổn định tương đối. Do đó, trước hai tính chất đối nghịch này, nhà làm luật phải cân nhắc để văn bản pháp luật khi ban hành phải phù hợp với xã hội và có thể áp dụng trong một thời gian tương đối dài để tạo sự ổn định cho các quan hệ xã hội. Điều này, đòi hỏi các nhà làm luật, ngoài việc đưa ra những quy phạm áp dụng trong hiện tại còn phải có khả năng “nắm bắt” những tình huống có thể xảy ra trong tương lai để đề ra những giải pháp phù hợp. Chính đặc tính này thể hiện sự sáng tạo của pháp luật.
+ Tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức: (tính hệ thống)
Pháp luật một nước gồm nhiều loại văn bản có hiệu lực thi hành khác nhau từ cao xuống thấp (Hiến pháp, luật, bộ luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, chỉ thị,…) nhưng tất cả các văn bản này không phải ở một trạng thái hổn độn mà chúng được sắp xếp theo một trật tự, có thứ bậc, thống nhất về nội dung và hình thức.
Về hình thức, mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi riêng tuỳ theo từng cấp ban hành, ngôn ngữ diễn đạt phải chính xác, rõ ràng, cụ thể, mỗi loại văn bản đều tuân thủ theo trình tự ban hành nhất định.Khi ban hành pháp luật phải diễn đạt bằng tiếng Việt phổ thông, chỉ dùng tiếng nước ngoài khi từ đó đã được Việt hóa.
Về nội dung văn bản cấp dưới không được trái với văn bản cấp trên, các văn bản cùng cấp không được mâu thuẫn, chồng chéo nhau.
4. Chức năng của pháp luật:
Pháp luật có ba chức năng chủ yếu: chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ, và chức năng giáo dục.
- Chức năng điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội được thể hiện qua hai hướng chính: một mặt pháp luật ghi nhận các quan hệ cơ bản, quan trọng và phổ biến trong xã hội; mặt khác pháp luật bảo đảm cho các quan hệ xã hội đó phát triển phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, của xã hội.
Chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật được thực hiện thông qua các hình thức: quy định, cho phép, ngăn cấm, gợi ý. Nhờ có pháp luật mà các quan hệ xã hội được trật tự hoá, đi vào nề nếp.
- Chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội đã được pháp luật điều chỉnh. Khi có hành vi vi phạm pháp luật xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh thì người có hành vi vi phạm đó sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế được quy định trong phần chế tài của quy phạm pháp luật, nhằm phục hồi lại quan hệ xã hội đã bị xâm phạm.
- Chức năng giáo dục của pháp luật được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức con người, làm cho con người hình thành ý thức pháp luật và hành động phù hợp với cách xử sự ghi trong quy phạm pháp luật.
5. Mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng khác:
5.1. Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế:
Pháp luật là yếu tố trong kiến trúc thượng tầng của xã hôi có giai cấp, do đó mà pháp luật được sinh ra trên cơ sở hạ tầng và được qui định bởi cơ sở hạ tầng.
Trong mối quan hệ với kinh tế, pháp luật có tính độc lập tương đối. Một mặt, pháp luật phụ thuộc vào kinh tế, mặt khác pháp luật lại có sự tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế.
Sự phụ thuộc của pháp luật vào kinh tế thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế – xã hội quyết định, chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Pháp luật luôn luôn phản ánh trình độ phát triển của chế độ kinh tế.
Pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế. Sự tác động đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực. Khi nào pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế thì pháp luật có nội dung tiến bộ và có tác dụng tích cực. Ngược lại, nó sẽ có nội dung tiêu cực và kìm hãm sự phát triển của kinh tế, xã hội.
5.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức:
Đạo đức là tổng thể những quan điểm, quan niệm của con người về cái đẹp, cái thiện, cái ác, về sự công bằng, nghĩa vụ, danh dự và về những phạm trù khác nhau của đời sống tinh thần của xã hội. Những quan điểm, quan niệm này rất khác nhau do những điều kiện của đời sống vật chất quyết định. Đạo đức khi đã trở thành niềm tin nội tâm thì chúng sẽ là cơ sở cho hành vi của con người. Quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội có rất nhiều loại. Giai cấp thống trị có quyền lực Nhà nước trong tay thể hiện quan điểm, quan niệm của mình lên thành pháp luật. Vì vậy, pháp luật luôn phản ánh đạo đức của lực lượng cầm quyền. Tất nhiên, nó phải phù hợp với các lực lượng khác trong xã hội. Đó cũng chính là một trong những điều kiện đảm bảo cho quyền lực của giai cấp thống trị được bền vững.
Pháp luật chịu sự tác động của đạo đức và các qui phạm xã hội khác, nhưng pháp luật có tác động rất mạnh mẽ tới các hiện tượng đó và ở một chừng mực nhất định, pháp luật còn có khả năng cải tạo các qui phạm đạo đức và xã hội.
Tuy vậy, giữa pháp luật và đạo đức cũng có những khác biệt vì không cùng mục đích và chế tài.
Về mục đích, pháp luật đặt ra những quy tắc để áp dụng cho mọi người nhằm giữ gìn trật tự xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các thành viên trong xã hội. Còn các quy tắc đạo đức là những quy phạm mang tính khuyên răn nhằm hoàn thiện cá nhân.
Về chế tài, pháp luật trừng phạt trực tiếp và trừng phạt ngay trong hiện tại còn các quy phạm đạo đức không mang tính quyền lực bắt buộc nên sự tuân theo hay không tuỳ theo sự xét đoán của từng người và sự chế tài chủ yếu bằng nội tâm.
Do vậy, phạm vi điều chỉnh của pháp luật và đạo đức không trùng khớp nhau. Có hành vi chịu sự chế tài của đạo đức và pháp luật (hành vi giết người), có hành vi chịu sự chế tài về mặt đạo đức nhưng pháp luật không cấm (kết hôn trong thời gian có tang). Ngược lại, có hành vi chịu sự chế tài của pháp luật nhưng không chịu sự chế tài về đạo đức (trốn tránh thực hiện một qui định vì phải làm tròn trách nhiệm với người thân trong gia đình)
5.3.Mối quan hệ giữa pháp luật và Nhà nước:
Nhà nước và pháp luật là hai bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng có quan hệ chặt chẽ nhau. Nhà nước không thể tồn tại và phát huy quyền lực nếu thiếu pháp luật. Ngược lại, pháp luật chỉ phát sinh , tồn tại và có hiệu lực khi dựa trên sức mạnh của quyền lực Nhà nước.
Như vậy, một mặt Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật tức dùng pháp luật làm công cụ để quản lý xã hội nhưng quyền lực Nhà nước phải dựa trên pháp luật, thực hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi chính pháp luật. Không thể cho rằng Nhà nước ban hành ra pháp luật thì có quyền không tuân theo những qui định của pháp luật đó. Nói khác, Nhà nước khi đã đặt ra pháp luật thì pháp luật có giá trị áp dụng chung cho mọi đối tượng trong xã hội, kể cả Nhà nước. Đó chính là quan điểm của một Nhà nước pháp quyền.
III. Pháp luật XHCN và vai trò của pháp luật XHCN:
1/. Khái niệm và bản chất của pháp luật XHCN:
Cũng giống như các kiểu pháp luật khác, pháp luật XHCN có bản chất vừa thể hiện tính giai cấp vừa thể hiện tính xã hội và cũng có những đặc trưng cơ bản của pháp luật nói chung. Tuy nhiên vì xuất phát từ cơ sở kinh tế chính trị, xã hội, văn hóa và hệ tư tưởng trong chủ nghĩa xã hội, cho nên pháp luật XHCN có những đặc thù riêng.
Pháp luật XHCN là kiểu pháp luật mới có bản chất khác với bản chất của các kiểu pháp luật trước đây. Bản chất của pháp luật XHCN thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
+ Pháp luật XHCN là một hệ thống quy tắc xử sự có tính thống nhất nội tại cao. Trước hết, nói đến pháp luật là nói đến tính hệ thống của nó. Tính hệ thống của pháp luật nói lên sự đa dạng của các loại QPPL do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù vậy chúng đều thống nhất với nhau, bởi vì chúng đều có cùng bản chất – pháp luật XHCN được xây dựng trên cơ sở của quan hệ kinh tế XHCN.
+Pháp luật XHCN thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đông đảo nhân dân lao động. Đây là nét khác biệt của pháp luật XHCN so với các kiểu pháp luật khác. Các kiểu pháp luật trước đó đều có chung bản chất là thể hiện ý chí của thiểu số giai cấp bóc lột, là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp đó. Pháp luật XHCN thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động- là số đông, chiếm tuyệt đại đa số trong dân cư. Vì vậy, pháp luật XHCN dễ được đông đảo quần chúng tôn trọng và thực hiện một cách tự giác.
+ Pháp luật XHCN có quan hệ chặt chẽ với chế độ kinh tế XHCN.
+ Pháp luật XHCN có quan hệ mật thiết với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cộng sản.
Trong mối quan hệ này đường lối, chính sách của Đảng giữ vai trò chỉ đạo: đường lối, chính sách của Đảng chỉ đạo phương hướng xây dựng pháp luật, nội dung pháp luật và việc tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật. Pháp luật luôn phản ánh đường lối, chính sách của Đảng là sự cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành các qui định chung thống nhất trên qui mô toàn xã hội.
+ Pháp luật XHCN có quan hệ qua lại với các qui phạm xã hội khác trong chủ nghĩa xã hội.
Từ những phân tích trên có thể định nghĩa về pháp luật XHCN: Pháp luật XHCN là hệ thống các qui tắc xử sự, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, do nhà nước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế trên cơ sở giáo dục và thuyết phục mọi người tôn trọng và thực hiện.
2/. Vai trò của pháp luật XHCN:
+ Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước XHCN:
Pháp luật là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Nhà nước không thể tồn tại mà không có pháp luật, ngược lại pháp luật cũng không thể phát huy được hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy Nhà nước.
Bộ máy nhà nước là một thiết chế phức tạp bao gồm nhiều loại cơ quan nhà nước khác nhau. Để bộ máy đó hoạt động có hiệu quả đòi hỏi phải xác định đúng chức năng, thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi loại cơ quan; phải xác lập một cách đúng đắn và hợp lý mối quan hệ giữa chúng; phải có những phương pháp và hình thức tổ chức và hoạt động phù hợp để tạo thành một cơ chế đồng bộ trong quá trình thiết lập và thực hiện quyền lực nhà nước. Tất cả những điều đó chỉ thực hiện được khi dựa trên cơ sở vững chắc của những nguyên tắc và qui định cụ thể của pháp luật.
+ Pháp luật là phương tiện để Nhà nước quản lý kinh tế, xã hội; là phương tiện để thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân:
Với những thuộc tính đặc trưng của mình, pháp luật có khả năng triển khai những chủ trương, chính sách về kinh tế, xã hội của Nhà nước một cách nhanh chóng, đồng bộ và hiệu quả trên quy mô rộng lớn nhất.
Pháp luật là cơ sở để Nhà nước phát huy quyền lực của mình, đồng thời kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của các tổ chức, các cơ quan và mọi công dân trong xã hội.
Pháp luật có vai trò quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế. Với một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế đầy đủ, đồng bộ phù hợp với thực tiễn Nhà nước có thể phát huy được hiệu lực của mình trong lĩnh vực tổ chức và quản lý kinh tế.
+ Pháp luật XHCN bảo đảm thực hiện nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội:
Dân chủ là thuộc tính của nhà nước XHCN.Việc tăng cường hiệu lực và phát huy vai trò của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội luôn gắn liền với quá trình thực hiện và mở rộng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền lực của nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.
Với bản chất và những đặc điểm đặc thù của mình, nhà nước XHCN giữ vị trí trung tâm trong hệ thống chính trị, tác động mạnh mẽ tới tất cả các bộ phận hợp thành hệ thống chính trị; đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của sự tác động trở lại của các bộ phận đó. Vì vậy, việc thiết lập và thực hiện nền dân chủ XHCN được biểu hiện trước hết ở sự củng cố và hoàn thiện hệ thống chính trị.
Dân chủ XHCN được biểu hiện trong việc xác lập và điều chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Những quyền tự do dân chủ của công dân phải được qui định cụ thể trong pháp luật và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Đồng thời, pháp luật cũng qui định những nghĩa vụ tương ứng mà công dân phải thực hiện để bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.
+ Pháp luật là cơ sở để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội:
Hệ thống QPPL được đặt ra để điều chỉnh, hướng dẫn hành vi xử sự của các chủ thể, thiết lập một trật tự quan hệ pháp luật, thúc đẩy quá trình phát triển và tiến bộ xã hội, pháp luật còn chứa đựng những qui phạm cấm mọi hành vi gây mất ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, xâm hại đến lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân.
Những biện pháp được pháp luật qui định để áp dụng trong những trường hợp vi phạm pháp luật thể hiện sức mạnh nhà nước, quyền lực của nhân dân để răn đe, phòng ngừa, xử lý và trừng phạt nghiêm minh những hành vi nguy hiểm cho xã hội.
+ Pháp luật XHCN có vai trò giáo dục mạnh mẽ:
Những QPPL được đặt ra luôn xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, là khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mỗi chủ thể khi ở trong tình huống đã được nhà nước dự kiến. Pháp luật tạo cho mỗi chủ thể khả năng sử dụng những quyền đã được qui định để phục vụ và bảo vệ mình, nhưng đồng thời phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng để tôn trọng quyền và lợi ích của các chủ thể khác.
Ý nghĩa giáo dục còn được thể hiện ở việc pháp luật qui định những hình thức và mức độ khen thưởng đối với những thành viên có nhiều đóng góp cho nhà nước và xã hội; xử lý và trừng trị nghiêm khắc đối với những người vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của cá nhân, tập thể hoặc nhà nước.
+ Pháp luật XHCN góp phần tạo dựng những quan hệ mới:
Bên cạnh những vai trò phản ánh, pháp luật còn thể hiện tính tiên phong, định hướng cho sự phát triển của các quan hệ xã hội.
Dựa trên cơ sở những kết quả và dự báo khoa học, người ta dự kiến được những thay đổi có thể diễn ra với những tình huống cụ thể, điển hình vì thế cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Từ đó, pháp luật được đặt ra để định hướng trước, xác lập những qui định và có thể thiết kế những mô hình tổ chức qui định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức thử nghiệm,v.v..
+ Pháp luật tạo ra môi trường ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia:
Trong thời đại ngày nay, phạm vi các mối quan hệ bang giao giữa các quốc gia ngày càng rộng lớn với nội dung, tính chất ngày càng phức tạp, đa dạng. Pháp luật đưa ra đường lối, chính sách, phương hướng làm nền tảng cho các mối quan hệ bang giao, làm cho các mối quan hệ quốc tế ngày càng ổn định và phát triển tốt.
IV. Pháp chế XHCN:
Tất cả các Nhà nước khi lên nắm quyền thống trị xã hội đều ban hành pháp luật. Nhưng hệ thống pháp luật này muốn hữu hiệu cần phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế. Tuy nhiên, pháp luật mỗi Nhà nước với tính chất và phương pháp thực hiện có khác nhau nên sự thực hiện cũng khác nhau. Ý niệm về thực hiện pháp luật một cách nghiêm túc trong thực tế là khái niệm pháp chế.
1/. Khái niệm pháp chế:
Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị - xã hội, trong đó tất cả cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh và triệt để.Pháp chế là nguyên tắc trong tổ chức, hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, là nguyên tắc trong hành vi xử sự của công dân.
Nhà nước nào cũng có pháp luật, nhưng không phải nhà nước nào pháp luật cũng được thực hiện triệt để, điều đó phụ thuộc phần lớn vào bản chất nhà nước. Vì vậy, khi tìm hiều về Nhà nước và pháp luật không thể tách rời vấn đề pháp chế.
Việc tồn tại một hệ thống pháp luật ổn định, đầy đủ, tự thân nó chưa được củng cố được pháp chế. Bản thân pháp luật không đồng nghĩa với pháp chế. Trong lịch sử cũng đã tồn tại những nhà nước có một hệ thống luật lệ phát triển khá đầy đủ, nhưng lại không có pháp chế vì sự tồn tại pháp luật mà nội dung của chúng không phù hợp với nền văn minh của một nền xã hội nhất định, không phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội tồn tại khách quan thì không thể coi việc thực hiện pháp luật đó là có pháp chế.
Điều 12 Hiến pháp 1992 qui định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Điều này nói lên pháp chế là một trong những phương pháp quản lý của Nhà nước đối với xã hội.
Điều 12 Hiến pháp 1992 qui định: Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, pháp chế yêu cầu, đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, kiên quyết đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Pháp chế và pháp luật là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và đòi hỏi đối với các chủ thể pháp luật, phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội.
+ Pháp luật là tiền đề của pháp chế: Pháp chế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể được củng cố và tăng cường khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hiện đại và khả thi. Ngược lại, pháp chế xã hội chủ nghĩa làm cho pháp luật có hiệu lực, biến thành hiện thực trong cuộc sống.
2/. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa:
Những yêu cầu của pháp chế là những đòi hỏi thể hiện sự tuân thủ pháp luật của mọi người, mọi tổ chức, đó là:
+ Tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật.
Yêu cầu này đòi hỏi tất cả các hoạt động tổ chức và thực hiện pháp luật không được trái với Hiến pháp và các văn bản luật. Nội dung thể hiện:
Mặc dù các cơ quan Nhà nước ban hành ra Hiến pháp và pháp luật nhưng không được vi phạm pháp luật, trái lại phải gương mẫu chấp hành.
Các văn bản qui phạm pháp luật cấp dưới dù chiếm số lượng lớn trong hệ thống pháp luật nhưng không được mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản qui phạm pháp luật của cơ quan cấp trên, không được trái Hiến pháp và pháp luật.
+ Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên qui mô toàn quốc.
Pháp luật được ban hành, nó phải được tổ chức thực hiện như nhau trên phạm vi toàn quốc. Nhà nước không thừa nhận bất cứ một đặc quyền, ngoại lệ nào trong lĩnh vực thực hiện pháp luật.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có một hệ thống pháp luật và một kỷ luật Nhà nước chung cho mọi người. Mọi vi phạm phải được xử lý nghiêm minh, bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
+ Các cơ quan xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật phải hoạt động một cách tích cực, chủ động và có hiệu quả.
Pháp luật là cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế nên cần phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ, muốn vậy phải đảm bảo cho các cơ quan xây dựng pháp luật đủ khả năng và điều kiện để hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Ngoài việc xây dựng, việc tổ chức và thực hiện pháp luật cũng là một mặt quan trọng của nền pháp chế. Muốn tăng cường pháp chế thì phải bảo đảm cho các cơ quan tổ chức và thực hiện pháp luật hoạt động có hiệu quả. Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật (như Tòa án, Viện kiểm sát, công an…) cần chú trọng các biện pháp để đảm bảo cho các cơ quan này xử lý nhanh chóng, công minh và có hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật.
+ Công tác xây dựng, củng cố pháp chế không tách rời với việc nâng cao trình độ văn hoá cho toàn dân.
Trình độ văn hóa nói chung và trình độ văn hóa pháp lý nói riêng của viên chức Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân có ảnh hưởng rất lớn tới quá trình củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trình độ văn hóc của công chúng càng cao thì pháp chế càng được củng cố vững mạnh. Vì vậy, phải gắn liền công tác pháp chế với việc nâng cao trình độ văn hóa nói chung và văn hóa pháp lý nói riêng của các viên chức Nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân.
3/. Vấn đề tăng cường pháp chế xã hội XHCN trong giai đoạn hiện nay:
a. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với pháp chế:
Đảng lãnh đạo trực tiếp và toàn diện công tác pháp chế là một nguyên tắc quan trọng, thể hiện ở những nội dung sau:
+ Đảng đề ra chiến lược phát triển kinh tế, xã hội; chiến lược toàn diện về công tác pháp chế; đề ra những phương hướng xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật.
+ Đào tạo bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường lực lượng cho các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế.
+ Tổ chức lãnh đạo phong trào quần chúng tham gia tích cực chống vi phạm pháp luật.
b. Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật XHCN:
Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật là một công tác lớn, phải có sự phối hợp của nhiều cơ quan, nhiều hoạt động, nhiều biện pháp. Cụ thể:
- Phải hệ thống hoá pháp luật.
- Kịp thời thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với mỗi giai đoạn cụ thể.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật.
- Thường xuyên rà soát và thay đổi các văn bản pháp luật không còn phù hợp, trái thẩm quyền.
- Phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo cho pháp luật luôn gắn với cuộc sống, phù hợp với những thay đổi của quan hệ xã hội.
c. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật là một công tác tổ chức trung tâm của pháp chế, phải tiến hành nhiều hoạt động nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, cụ thể là:
- Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật, tạo điều kiện để xây dựng và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.
- Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý có đủ trình độ, phẩm chất chính trị và có khả năng công tác để sắp xếp vào cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế.
- Kiện toàn các cơ quan làm công tác pháp luật, pháp chế. Đồng thời tạo điều kiện vật chất cần thiết đảm bảo cho hoạt động của các cơ quan đó đạt hiệu quả cao.
- Trong từng thời kỳ, cần có tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời để thấy rõ những thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, từ đó đề ra những phương pháp và các biện pháp cải tiến .
Các hoạt động trên phải được tiến hành đồng bộ và kết hợp biện pháp kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật.
d. Kiện toàn các cơ quan quản lý nhà nước và tư pháp:
Phải kiện toàn các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan tư pháp gọn nhẹ, có chất lượng cao, với một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị và phẩm chất đâo đức tốt, có năng lực và trình độ chuyên môn cao đủ đáp ứng với đòi hỏi của công việc đảm nhận. Và phải là những người cương quyết đấu tranh không khoan nhượng, chống mọi hành vi tham nhũng, cửa quyền, vi phạm pháp luật nhằm bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.
e. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật:
Phải thường xuyên tổ chức việc kiểm tra hoạt động bộ máy Nhà nước, đặc biệt là hệ thống các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật, đảm bảo cho bộ máy Nhà nước hoạt động nhịp nhàng theo đúng nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật. Những vi phạm pháp luật của các cán bộ trong bộ máy Nhà nước phải đươc xử lý nghiêm minh theo nguyên tắc: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”.
Nhà nước phải xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát toàn diện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức như sau:
+ Sự giám sát từ trên xuống của các cơ quan quyền lực như: Quốc hội, HĐND các cấp.
+ Sự kiểm tra, thanh tra của các cơ quan thanh tra từ trung ương xuống địa phương; kiểm tra xử lý ngăn chặn ngay trong nội bộ của các cơ quan, tổ chức.
+ Chức năng kiểm sát từ bên ngoài của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân.
+ Sự kiểm tra của các cơ quan xét xử thông qua quá trình giải quyết các vụ án, giải quyết các tranh chấp,… để phát hiện những khiếm khuyết của pháp luật, tình hình vi phạm pháp luật để có kiến nghị hợp pháp với các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu để có biện pháp khắc phục. Đây là hình thức kiểm tra từ bên ngoài của hệ thống kiểm tra tổng thể trong xã hội.
+ Phát huy sự kiểm tra xã hội của các tổ chức quần chúng, hướng dẫn và tôn trọng quyền khiếu nại, tố cáo của công dân khi phát hiện có hành vi phạm pháp hoặc có sự việc trái với lợi ích chung của xã hội. Đây là hình thức kiểm tra từ dưới lên trong chiến lược kiểm tra và giám sát việc thực thi pháp luật trong xã hội.
Câu hỏi:
1. Định nghĩa pháp luật? Trình bày các thuộc tính cơ bản của pháp luật?
2. Khái niệm pháp luật xã hội chủ nghĩa ? Vai trò và bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa?
3. Để tăng cường pháp chế cần phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản nào? Trình bày những yêu cầu đó?.
Chương II
HÌNH THỨC PHÁP LUẬT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (6tiết)
I. Khái niệm hình thức pháp luật – Các hình thức pháp luật cơ bản:
1/ Khái niệm hình thức pháp luật:
Hình thức pháp luật là cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để thể hiện ý chí của giai cấp mình thành những thể chế bắt buộc trong xã hội. Lợi dụng địa vị thống trị của mình, giai cấp thống trị đã hợp pháp hóa ý chí của mình thành ý chí Nhà nước thông qua các hoạt động lập pháp.
Hình thức pháp luật là những dạng tồn tại thực tế của pháp luật trong các kiểu Nhà nước. Hình thức pháp luật là phương thức phản ánh ý chí của giai cấp cầm quyền ra bên ngoài thông qua việc hợp pháp hóa trong các hoạt động làm luật và ban hành luật của Nhà nước.
2/. Các hình thức pháp luật trong lịch sử:
Trong lịch sử hình thành pháp luật ở các nước trên thế giới, các nhà cầm quyền công nhận và sử dụng ba hình thức pháp luật chủ yếu sau đây: tập quán pháp (luật tục), án lệ (tiền lệ pháp), văn bản QPPL.
+ Tập quán pháp: là hình thức pháp luật không thành văn được Nhà nước lựa chọn, có sẵn trong đời sống xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị và nâng chúng lên thành những qui tắc xử sự chung cho mọi người.
Vì tập quán pháp hình thành một cách tự phát, ít phổ biến nên mang tính cục bộ không phù hợp với bản chất của pháp luật XHCN. Tuy nhiên, cũng có những tập quán thể hiện truyền thống đạo đức dân tộc, có tác dụng tốt trong việc hình thành tính cách con người mới XHCN, nên Nhà nước XHCN vẫn còn thừa nhận một số tập quán tiến bộ và hợp pháp hoá chúng thành pháp luật.
+ Án lệ: là hình thức Nhà nước thừa nhận các quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các cơ quan xét xử hoặc cơ quan hành chính làm khuôn mẫu để giải quyết các vụ việc tương tự xảy ra sau này.
Án lệ là hình thức pháp luật không phải do cơ quan lập pháp ban hành, mà do các cơ quan hành pháp hoặc xét xử xử lý vụ việc trên thực tế, lấy kết quả giải quyết vụ việc trước áp dụng cho vụ việc tương tự sau này. Do đó, dễ tạo ra tình trạng tuỳ tiện, không phù hợp với nguyên tắc pháp chế cho nên, hình thức pháp luật này trong Nhà nước pháp quyền không được coi là hình thức cơ bản của pháp luật.
+ Văn bản quy phạm pháp luật: Đây là hình thức pháp luật thành văn và được coi là hình thức pháp luật chủ yếu của Nhà nước XHCN.
Ngoài ra, trên thế giới còn có các hình thức pháp luật khác như: học thuyết pháp lý, ý thức pháp luật , điều ước quốc tế, các văn bản của Đảng cầm quyền,v.v…
II/ Văn bản QPPL – Hình thức pháp luật chủ yếu của Nhà nước XHCN:
Văn bản quy phạm pháp luật là một loại hình thức của pháp luật. Trong các nước xã hội chủ nghĩa, văn bản quy phạm pháp luật được xem là hình thức pháp luật chủ yếu nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội xảy ra trong đời sống hàng ngày.
1/ Khái niệm, đặc điểm:
a. Khái niệm:
Văn bản quy phạm pháp luật là loại văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành chứa đựng các quy phạm pháp luật. tuỳ từng nước, văn bản quy phạm pháp luật có nhiều loại, mang nhiều tên gọi khác nhau, mỗi loại chứa đựng một nội dung riêng, ban hành theo một trình tự, hình thức nhất định và thường được chia thành 2 loại: văn bản luật (văn bản lập pháp) và văn bản dưới luật (văn bản lập quy).
Ở Việt Nam, Điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội thông qua ngày 12/11/1996, công bố ngày 23/11/1996, có hiệu lực ngày 01/01/1997 đã được sửa đổi bổ sung ngày 16/12/2002 thì: “Văn bản qui phạm pháp luật là hình thức pháp luật thành văn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định, có chứa đựng các qui tắc xử sự chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Văn bản quy phạm pháp luật khác với các văn bản áp dụng pháp luật (hay còn gọi là các văn bản cá biệt) dùng để áp dụng một quy phạm pháp luật cho một trường hợp cụ thể hội đủ các điều kiện nêu trong văn bản quy phạm.
b. Đặc điểm:
- Là văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành đúng hình thức, tên loại theo luật định;
- Chứa đựng qui tắc xử sự chung, tức là văn bản chứa đựng những chuẩn mực mà các cá nhân, tổ chức phải tuân theo khi tham gia vào những quan hệ xã hội được những qui tắc đó điều chỉnh và được áp dụng nhiều lần trong thực tế cuộc sống;
- Được ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật định;
- Được Nhà nước đảm bảo thi hành bằng các biện pháp như tuyên truyền, thuyết phục, các biện pháp về tổ chức, kinh tế, trong trường hợp cần thiết áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
2/. Các loại văn bản qui phạm pháp luật ở Việt Nam hiện nay:
Hiến pháp, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp qui định trình tự, thủ tục ban hành các loại văn bản quy phạm pháp luật theo giá trị pháp lý từ cao đến thấp:
Cấp ban hành
Cơ quan ban hành
Văn bản quy phạm pháp luật
(theo thứ tự giá trị pháp lý từ cao xuống thấp)
Ở
Trung ương
1. Quốc hội;
2. Uỷ ban TV Quốc hội;
3. Chủ tịch nước;
4. Chính phủ;
5. Thủ tướng Chính phủ;
6. Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao;
7. Chánh án Toà án nhân dân tối cao;
8. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
9. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ;
1. Hiến pháp, bộ luật, luật, nghị quyết;
2. Pháp lệnh, nghị quyết;
3. Lệnh, quyết định;
4. Nghị quyết, nghị định;
5. Quyết định, chỉ thị;
6. Nghị quyết;
7. Quyết định, chỉ thị, thông tư;
8. Quyết định, chỉ thị, thông tư;
9. Quyết định, chỉ thị, thông tư;
Ở địa phương
10. Hội đồng nhân dân ba cấp;
11. Uỷ ban nhân dân ba cấp.
10. Nghị quyết;
11. Quyết định, chỉ thị.
* Văn bản do Quốc hội ban hành: Hiến pháp, Luật, Nghị quyết
- Hiến pháp: là đạo luật cơ bản còn gọi là “đạo luật mẹ” có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Hiến pháp qui định những vấn đề cơ bản nhất của xã hội như: chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức nhà nước.v.v..
Hiến pháp do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội thông qua theo một thủ tục đặc biệt chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung. Các văn bản qui phạm pháp luật không được trái với hiến pháp.
- Luật (bộ luật): là loại văn bản có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp do Quốc hội thông qua, phù hợp với hiến pháp,cụ thể hoá các qui định của Hiến pháp và nhằm thực hiện Hiến pháp.
Mỗi đạo luật hoặc bộ luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng, cơ bản, tương đối ổn định như: tổ chức bộ máy nhà nước, chế độ bầu cử, hình sự – dân sự, hôn nhân – gia đình.v.v.. các văn bản dưới luật nếu không phù hợp với luật đều bị đình chỉ hiệu lực, sửa đổi hoặc bãi bỏ. Chỉ có Quốc hội mới có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các đạo luật.
-Nghị quyết của Quốc hội: dùng để thông qua các kế hoạch phát triển kinh tế –xã hội của đất nước, chính sách tài chính, tiền tệ, dự toán ngân sách nhà nước và các vấn đề đối nội, đối ngoại khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội.
* Văn bản do Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành: Pháp lệnh, Nghị quyết
-Pháp lệnh: chỉ được ban hành ở những lĩnh vực mà Quốc hội giao cho, qui định tại Điều 91, 93 Hiến pháp 1992, khi đã ban hành pháp lệnh phải được thực hiện trong một thời gian xác định và có báo cáo tổng kết.
-Nghị quyết: giải thích Hiến pháp, pháp luật, giám sát, hướng dẫn hoạt động của các cơ quan nhà nước theo nhiệm vụ, quyền hạn và quyết định những vấn đề cụ thể khác theo thẩm quyền.
* Văn bản của Chủ tịch nước: Lệnh, quyết định.
-Lệnh: để công bố Hiến pháp, Luật, pháp lệnh của Uûy ban thường vụ Quốc hội; ban bố tình trạng khẩn cấp của đất nước.
-Quyết định: dùng để thực hiện các nhiệm vụ được Quốc hội và pháp luật qui định. Trình tự, thẩm quyền ban hành văn bản qui phạm pháp luật của Chủ tịch nước được qui định tại Điều 106 Hiến pháp 1992.
* Văn bản của Chính phủ: Nghị định, Nghị quyết.
-Nghị định: dùng để hướng dẫn chi tiết thi hành luật, pháp lệnh; dùng để điều chỉnh những quan hệ xã hội hết sức cần thiết mà chưa được qui định ở Luật và pháp lệnh.
-Nghị quyết: dùng để qui định chủ trương, biện pháp, chính sách về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, đối ngoại thuộc thẩm quyền của chính phủ. Thẩm quyền và thủ tục ban hành nghị quyết của Chính phủ qui định tại Điều 115 Hiến pháp 1992.
* Văn bản của Thủ tướng Chính phủ: Quyết định, Chỉ thị.
-Quyết định: là văn bản qui định các biện pháp để lãnh đạo và điều hành hoạt động của chính phủ và hệ thống tổ chức nhà nước từ trung ương đến cơ sở trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
-Chỉ thị: dùng để đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn phối hợp hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ.v.v..trong việc thực hiện các chủ trương, các chính sách, pháp luật của Nhà nước, quyết định của Chính phủ.
* Văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ:Quyết định, Chỉ thị, Thông tư.
-Quyết định: dùng để ban hành các biện pháp, thể lệ cụ thể thi hành pháp luật và các chủ trương, chính sách của chính phủ; đề ra các tiêu chuẩn, qui trình và định mức kinh tế – kỹ thuật thuộc ngành.v.v..
-Chỉ thị: dùng để chỉ đạo kiểm tra hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc ngành hoặc lĩnh vực trong việc thực hiện văn bản của các cơ quan cấp trên.
-Thông tư: dùng để giải thích, hướng dẫn thực hiện những qui định được luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các nghị quyết, nghị định của Chính phủ; quyết định, chỉ thị của Thủ tướng chính phủ giao thuộc phạm vi quản lý ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.
* Văn bản của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:
Nghị quyết: dùng để hướng dẫn các Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật, tổng kết kinh nghiệm xét xử.
* Văn bản của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:
Quyết định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: qui định các biện pháp để bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; qui định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quyết định, chỉ thị, thông tư của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: được ban hành để bảo đảm việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự về tổ chức; qui định những vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
* Văn bản liên tịch: là loại văn bản dưới luật do hai hay nhiều cơ quan ở trung ương phối hợp với nhau ban hành, dùng để giải thích một chính sách, chế độ nhà nước hoặc hướng dẫn thi hành nhằm tạo sự đồng bộ trong quá trình thực hiện pháp luật.
- Nghị quyết;
- Thông tư liên tịch.
* Văn bản của chính quyền địa phương:
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp để ban hành các biện pháp thi hành luật pháp tại địa phương; biện pháp ổn định nâng cao đời sống của nhân dân địa phương làm tròn nhiệm vụ Nhà nước giao.
Quyết định của Ủy ban nhân dân các cấp: ban hành các chủ trương biện pháp cụ thể thực hiện các chủ trương, chính sách qui định của Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, cơ quan cấp Bộ và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp; quyết định về tổ chức và nhân sự thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân; tổ chức thực hiện và kiểm tra đối với cơ quan tổ chức trong việc chấp hành luật pháp Nhà nước ở địa phương.
Chỉ thị: dùng để truyền đạt và chỉ đạo thực hiện chủ trương chính sách của Trung ương, các nghị quyết của Hội đồng nhân dân trong trường hợp không cần thiết ban hành quyết định; để giao trách nhiệm thực hiện cho cơ quan hành chính cấp dưới.
III. Hiệu lực của văn bản QPPL:
Khi một văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành cần xác định văn bản này có giá trị từ lúc nào, đến lúc nào và trong phạm vi nào, đối với ai. Đó là hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm: hiệu lực theo thời gian, hiệu lực theo không gian và hiệu lực theo đối tượng.
Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là giới hạn phạm vi tác động của văn bản đó theo thời gian, không gian và đối tượng nhất định.
1/.Hiệu lực theo thời gian: là giới hạn tác động của văn bản được xác định từ thời điểm phát sinh hiệu lực cho đến khi chấm dứt giá trị thi hành văn bản đó.
1.1. Thời điểm phát sinh hiệu lực văn bản:
Thông thường, văn bản ghi rõ thời điểm phát sinh hiệu lực thì đến thời điểm đã được xác định thì văn bản sẽ đưa ra tổ chức thực hiện trên thực tế (thường là những văn bản quan trọng).
Thí dụ: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật lao động đã được sữa đổi và thông qua ngày 04/02/2002 có hiệu lực ngày 01/01/2003; Bộ luật hình sự thông qua ngày 21/12/1999 có hiệu lực 01/7/2000; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính mới thay thế pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 06/7/1995 có hiệu lực ngày 01/10/2002.
Văn bản không có điều khoản ghi rõ thời điểm phát sinh hiệu lực:
(+) Đối với các văn bản của Quốc hội như luật, nghị quyết; văn bản của Ủy ban thường vụ Quốc hội như pháp lệnh, nghị quyết có hiệu lực kể từ ngày Chủ tịch nước ký lệnh công bố, trừ trường hợp văn bản đó có qui định ngày có hiệu lực khác.
(+) Đối với văn bản của Chủ tịch nước có hiệu lực kể từ ngày đăng trên Công báo, trừ trường hợp văn bản đó có qui định ngày có hiệu lực khác.
(+) Đối với văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; văn bản của các Bộ, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và các văn bản liên tịch sẽ có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng trên Công báo hoặc có hiệu lực muộn hơn nếu được qui định tại văn bản đó.
Tuy nhiên, đối với văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ qui định các biện pháp thi hành trong tình trạng khẩn cấp thì văn bản đó có thể qui định ngày có hiệu lực sớm hơn.
1.2. Thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản qui phạm pháp luật thường được xác định như sau:
Trong văn bản có qui định thời hiệu chấm dứt hiệu lực thì khi đến thời điểm đó văn bản đương nhiên hết hiệu lực thi hành. Nếu trong văn bản pháp luật không ghi thời hạn chấm dứt hiệu lực thì nó chỉ chấm dứt hiệu lực toàn bộ khi có văn bản mới ra đời và trong văn bản mới đó qui định sẽ thay thế văn bản cũ.
Thí dụ: Điều 123 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 qui định: “Pháp lệnh này thay thế pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 06 tháng 7 năm 1995. Những qui định về xử lý vi phạm hành chính trước đây trái với pháp lệnh này đều bị bãi bỏ…”
1.3. Thời điểm văn bản ngưng hiệu lực:
Văn bản quy phạm pháp luật bị đình chỉ thi hành thì ngưng hiệu lực cho đến khi có quyết định có quyết định xử lý của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và nếu:
+ Không bị huỷ bỏ thì văn bản tiếp tục có hiệu lực.
+ Bị hủy bỏ thì văn bản hết hiệu lực.
Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực hoặc hết hiệu lực của văn bản phải qui định rõ tại quyết định đình chỉ thi hành, quyết định xử lý của cơ quan Nhà nước thẩm quyền.
Quyết định đình chỉ, xử lý văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải được đăng vào công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
1.4.Hiệu lực hồi tố của văn bản qui phạm pháp luật:
Hiệu lực hồi tố của văn bản quy phạm pháp luật (hiệu lực trở về trước của văn bản) là giá trị thi hành văn bản đối với các vụ việc xảy ra trước ngày mà văn bản đó có hiệu lực.
Về nguyên tắc chung, một văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành không có hiệu lực đối với những việc đã xảy ra trong quá khứ. Những việc này phải được điều chỉnh bởi những quy phạm pháp luật đã được ban hành trong giai đoạn hành vi đó phát sinh. Nói khác đi, văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm văn bản có hiệu lực và đối với các hành vi xảy ra sau thời điểm này. Nguyên tắc này được đặt ra nhằm tạo sự ổn định xã hội, bảo đảm sự an toàn pháp lý của chủ thể, giúp các chủ thể ý thức trước được những hậu quả của hành vi.
Thí dụ: Điều 7 Bộ luật hình sự qui định: “Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện …”
Không được áp dụng hồi tố trong những trường hợp sau đây:
+ Qui định trách nhiệm pháp lý mới cho những hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi, pháp luật không qui định trách nhiệm pháp lý.
+ Khi đạo luật qui định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các qui định không có lợi cho người phạm tội thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
Thí dụ: Điều 224 Bộ luật hình sự 1999 qui định “Tội tạo ra và lan truyền, phát tán các chương trình vi rút, tin học”; Các tội phạm về môi trường, .v.v..
Tuy nhiên, để thực hiện việc quản lý xã hội, đem lại lợi ích cho tập thể và cho cả các chủ thể, nguyên tắc bất hồi tố có một số ngoại lệ (nghĩa là áp dụng hồi tố cho các hành vi xảy ra trước khi ban hành văn bản quy phạm pháp luật này).
Tóm lại, nguyên tắc bất hồi tố là nguyên tắc chung của pháp luật. Chỉ áp dụng các ngoại lệ (tức là áp dụng hồi tố) trong một số trường hợp nhằm mục đích phục vụ cho xã hội hoặc vì lý do nhân đạo, cò lợi cho người vi phạm.
2/. Hiệu lực theo không gian: là giới hạn tác động của văn bản trên phạm vi lãnh thổ nhất định, có thể là một đơn vị hành chính, một ngành, một lĩnh vực hoặc trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.
Trường hợp trong văn bản quy phạm pháp luật có xác định rõ phạm vi hiệu lực trong không gian thì áp dụng trong phạm vi đó.
Thí dụ: Điều 5 Bộ luật hình sự qui định: “Bộ luật hình sự được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễm trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”.
Trường hợp trong văn bản quy phạm pháp luật không xác định rõ phạm vi hiệu lực thì hiệu lực theo không gian của văn bản phụ thuộc vào 02 yếu tố: thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản và tính chất, nội dung của văn bản.
Thông thường, đối với các văn bản do cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành thì có hiệu lực trên toàn lãnh thổ quốc gia và được áp dụng đối với mọi cơ quan, tổ chức, công dân Việt nam, trừ trường hợp pháp luật có qui định khác; đối với các văn bản do chính quyền địa phương ban hành như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp.v.v.. thì có hiệu lực trùng với thẩm quyền quản lý ban hành văn bản.
3/. Hiệu lực theo đối tượng của văn bản: là giới hạn xác định về cá nhân, tổ chức phải thi hành văn bản đó.
Công dân, pháp nhân Việt Nam tất nhiên là đối tượng tác động chủ yếu của các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dù họ đang sinh sống và hoạt động trong lãnh thổ hay ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam cũng có hiệu lực đối với cơ quan, tổ chức, người nước ngoài ở Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hay ký kết có qui định khác.
Câu hỏi:
1. Trình bày các hình thức pháp luật trong lịch sử?. Theo anh (chị) Nhà nước XHCN sử dụng hình thức pháp luật nào là hình thức pháp luật chủ yếu? Vì sao?.
2. Văn bản quy phạm pháp luật là gì? So sánh văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật?
3. Trình bày hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật ?
Chương III
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XHCN (2 tiết)
Các qui định của pháp luật không phải được xếp đặt một cách vô trật tự mà nằm trong một hệ thống chặt chẽ, có mối liên hệ mật thiết nhau. Do đó, trước khi đi sâu tìm hiểu các khái niệm khác của pháp luật, cần phân tích hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay.
I. Khái niệm chung về hệ thống pháp luật XHCN:
1/. Khái niệm về hệ thống pháp luật XHCN:
Hệ thống pháp luật là tổng thể các QPPL có mối quan hệ nội tại, thống nhất với nhau được phân định thành các ngành luật và các chế định pháp luật thể hiện ra bên ngoài bằng các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục luật định.
Nội dung của hệ thống pháp luật gồm 02 phần: cấu trúc bên trong và hình thức bên ngoài của pháp luật.
+ Cấu trúc bên trong của pháp luật: gồm tổng thể các qui phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất nhau tạo nên toàn bộ nội dung của toàn bộ hệ thống pháp luật, được phân chia thành các cấp độ từ hẹp đến rộng mang tên: qui phạm pháp luật, chế định pháp luật, ngành luật.
- Qui phạm pháp luật là qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung cho mọi người và được nhà nước bảo đảm thực hiện trong các trường hợp cụ thể, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị do nhà nước ban hành.
Đây là phần tử nhỏ nhất trong hệ thống pháp luật nhưng cũng chính bộ phận này hình thành nên hệ thống pháp luật (chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn ở phần sau).
- Chế định pháp luật là một nhóm qui phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội cùng loại, có tính chất nội tại trong một ngành luật.
- Ngành luật là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh một loại quan hệ xã hội cùng tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội với những phương pháp điều chỉnh riêng.
Như vậy, xét về mặt cấu trúc: tập hợp nhiều qui phạm pháp luật sẽ tạo thành một chế định pháp luật, nhiều chế định pháp luật tạo thành một ngành luật, tập hợp các ngành luật tạo nên một hệ thống pháp luật.
+ Hình thức bên ngoài của pháp luật (hay còn gọi là nguồn của pháp luật): là những dạng tồn tại bên ngoài của pháp luật do nhà nước thừa nhận hoặc ban hành thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
Hình thức pháp luật XHCN là cách thức mà Nhà nước XHCN phản ánh ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ra bên ngoài thông qua việc hợp pháp hoá trong các hoạt động làm luật và ban hành luật.
- Về nguồn cơ bản có ba loại: (đã được giới thiệu ở chương II)
+Tập quán pháp.
+ Tiền lệ pháp.
+ Văn bản qui phạm pháp luật.
2/. Các căn cứ để phân thành ngành luật:
Ngành luật là tổng thể các QPPL điều chỉnh một loại quan hệ xã hội cùng tính chất thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội với những phương pháp điều chỉnh riêng.
Ngành luật là một bộ phận của hệ thống pháp luật. Để phân biệt ngành luật này với ngành luật khác thường dựa vào hai căn cứ sau: đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh.
* Đối tượng điều chỉnh: là những quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh có chung tính chất, phát sinh trong một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội.
* Phương pháp điều chỉnh: là cách thức mà Nhà nước sử dụng trong pháp luật để tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh là căn cứ có tính chất hỗ trợ làm tăng hiệu quả điều chỉnh.
Có nhiều quan hệ xã hội không phải là đối tượng của một ngành luật mà là đối tượng điều chỉnh của hai hay nhiều ngành luật khác nhưng phương pháp điều chỉnh khác nhau.
II. CÁC NGÀNH LUẬT TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành hình thành và phát triển gắn liền với lịch sử đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước. Mốc quan trọng trong lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bản tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 02/9/1945. Đây là văn bản có tính chất pháp lý đầu tiên định hướng những tư tưởng, những nguyên tắc quan trọng cho việc xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau này.
Hệ thống pháp luật Việt Nam mang định hướng xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc chống áp bức, bóc lột, thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, coi con người là giá trị cao nhất trong xã hội.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển hệ thống pháp luật nước ta luôn vận động thay đổi để phù hợp với những phát triển của nền kinh tế xã hội.
Việc phân chia thành các ngành luật tuỳ thuộc vào sự phát triển, thay đổi các quan hệ xã hội, thời gian và quan điểm của các nhà khoa học pháp lý ở mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, có thể liệt kê một số ngành luật sau đây: (Nội dung này được học ở chương VI)
1) Ngành luật Nhà nước
2) Ngành luật Hành chính
3) Ngành luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
4) Ngành luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
5) Ngành luật Hôn nhân và Gia đình
6) Ngành luật Lao động
7) Ngành luật Thương mại
8) Ngành luật Đất đai
9) Ngành luật Tài chính
10) Ngành luật Ngân hàng
11) Ngành luật Môi trường.
Câu hỏi :
Trình bày hiểu biết của anh (chị) về hệ thống pháp luật XHCN ?
Chương IV
QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT(6 tiết)
Hệ thống pháp luật, các chế định pháp luật thực ra hình thành từ các QPPL. Do đó, các quy định pháp luật có thể xem như là các tế bào nhỏ nhất trong hệ thống pháp luật và chi phối rất nhiều đến quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Trong chương này, sẽ tìm hiểu về khái niệm, đặc điểm, cơ cấu, phân loại QPPL và khái niệm, đặc điểm QHPL và mối quan hệ giữa QPPL và QHPL.
I. QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1/. Khái niệm chung về QPPL:
a. Định nghĩa QPPL:
Trong quan hệ hằng ngày giữa các thành viên trong xã hội cần có những quy tắc xử sự chung để điều chỉnh các mối quan hệ này. đó là những quy phạm xã hội, gồm nhiều loại như: quy phạm đạo đức, tôn giáo, luân lý,…
Khi xã hội có Nhà nước, để đảm nhận việc quản lý xã hội, Nhà nước cũng ban hành (bằng cách đặt ra hoặc thừa nhận) những qui tắc xử sự mang tính bắt buộc chung đối với mọi người, đó là các quy phạm pháp luật.
QPPL là qui tắc xử sự có tính bắt buộc chung cho mọi người trong các trường hợp cụ thể, do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và được bảo đảm thực hiện.
QPPL là thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật. Nó là qui tắc xử sự chung, là chuẩn mực để mọi người phải tuân theo, là tiêu chuẩn để đánh giá hành vi của con người. Thông qua QPPL ta biết được hoạt động nào phù hợp với pháp luật, hoạt động nào trái pháp luật.
Qui phạm pháp luật XHCN là qui tắc xử sự chung cho mọi người do Nhà nước xã hội chủ nghĩa ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Đặc điểm của QPPL:
QPPL là loại quy phạm xã hội nên nó mang những đặc điểm chung của quy phạm xã hội, đó là tính điều chỉnh, tính phụ thuộc vào ý thức, tính phổ biến. Ngoài ra, QPPL là loại quy phạm xã hội đặc biệt nên có những đặc điểm riêng như sau:
+ Do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị.
+ Có tính bắt buộc chung đối với mọi người trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
Pháp luật là hệ thống qui tắc xử sự còn qui phạm pháp luật là một qui tắc xử sự – một đơn vị, một tế bào của pháp luật, thông thường một điều luật là một qui phạm pháp luật.
2/. Các thành phần của QPPL:
Qui phạm pháp luật là thành tố nhỏ nhất của hệ thống pháp luật. Mỗi qui phạm pháp luật là một qui tắc xử sự chung, do đó mỗi qui phạm pháp luật cần giải quyết những vấn đề sau:
+ Trường hợp, điều kiện, hoàn cảnh nào mà qui phạm pháp luật tác động đến?.
+ Gặp những trường hợp đó, người ta xử sự như thế nào cho đúng luật?.
+ Nếu không xử sự đúng qui định của pháp luật sẽ bị những chế tài gì?
Trả lời các câu hỏi trên chính là hình thành nên cơ cấu của qui phạm pháp luật. Qui phạm pháp luật có 3 bộ phận hợp thành: Giả định, qui định và chế tài. Lần lượt chúng ta tìm hiểu:
a. Giả định:
Nêu rõ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của cuộc sống mà khi hoàn cảnh, điều kiện đó xảy ra thì người ở trong hoàn cảnh đó phải xử sự theo qui định của Nhà nước (hành động hoặc không hành động)
- Giả định thường trả lời các câu hỏi:
+ Người (tổ chức) nào?
+ Khi nào?
+ Trong hoàn cảnh, điều kiện nào?
- Giả định là một bộ phận cần thiết không thể thiếu được trong qui phạm pháp luật, thiếu giả định thì qui phạm pháp luật trở nên vô nghĩa.
- Giả định của qui phạm pháp luật có thể đơn giản (chỉ nêu một hoàn cảnh, điều kiện), có thể phức tạp (nêu hai hay nhiều hoàn cảnh, điều kiện).
b. Qui định: (qui định mô hình của hành vi)
Là bộ phận thứ hai của qui phạm pháp luật nêu lên cách xử sự buộc người ta phải làm, không được làm hoặc đã thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm khi ở trong hoàn cảnh, điều kiện đã nêu trong giả định. Nói cách khác, qui định nêu quyền và nghĩa vụ khi ở vào điều kiện, hậu quả nêu ở phần giả định.
- Qui định thường trả lời câu hỏi:
+ Phải làm gì?
+ Được làm gì? Không được làm gì?
+ Làm như thế nào?
Qui định chính là mệnh lệnh của Nhà nước buộc người ta phải tuân theo, nó thể hiện ý chí của Nhà nước. Thông qua bộ phận này, Nhà nước xác định quyền và nghĩa pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội mà qui phạm pháp luật điều chỉnh.
Qui định là bộ phận chủ yếu của qui phạm pháp luật và là cơ sở vững chắc giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền định tội, hay truy cứu trách nhiệm đối với người vi phạm pháp luật. Qui định là bộ phận cơ bản, không có qui định thì sẽ không có qui phạm pháp luật.
c. Chế tài:
Nêu biện pháp xử lý dự kiến sẽ áp dụng đối với những người đã xử sự không đúng hoặc làm trái qui định của Nhà nước - trái với nội dung đã ghi ở phần qui định của qui phạm pháp luật.
- Chế tài thường trả lời câu hỏi: hậu quả như thế nào nếu không làm đúng qui định của Nhà nước. Để đảm bảo cho QPPL được thực hiện trên thực tế cần phải có phần chế tài.
- Chế tài là hậu quả bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật, nó biểu hiện thái độ của Nhà nước và là điều kiện bảo đảm cần thiết cho những qui định của Nhà nước thực hiện chính xác và triệt để.
* Mục đích của chế tài:
+ Trừng trị người vi phạm pháp luật, làm cho họ có ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật.
+ Ngăn ngừa mọi khả năng có thể vi phạm pháp luật.
- Các loại chế tài: chế tài hành chính, chế tài hình sự, chế tài dân sự, chế tài kỷ luật.v.v..
* Tìm hiểu một số thí dụ sau đây:
Thí dụ1: Điều 94 BLHS sự qui định: “Người mẹ nào do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt mà giết con mới đẻ hoặc vứt bỏ đứa trẻ đó dẫn đến hậu quả đứa trẻ chết, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm”
Thí dụ 2: Điều 98 BLHS qui định: “Người nào vô ý làm chết người thì phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”.
Thí dụ 3: Điều 108 Hiến pháp 1992 qui định: “Trong trường hợp khuyết Chủ tịch nước, thì Phó Chủ tịch quyền Chủ tịch cho đến khi Quốc hội bầu Chủ tịch nước mới”.
3/. Phân loại QPPL:
* Căn cứ vào nội dung của QPPL: QPPL nguyên tắc, QPPL định nghĩa, QPPL điều chỉnh.
+ QPPL nguyên tắc: là những qui phạm pháp luật nêu lên một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, của các tổ chức xã hội, trong hoạt động của công dân.
Thí dụ: Điều 52 Hiến pháp 1992 qui định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”
+ QPPL định nghĩa: là qui phạm pháp luật giải thích một vấn đề, một khái niệm pháp lý.
Thí dụ 1: Điều 13 Bộ luật lao động qui định: “Mọi hoạt động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Thí dụ 2: Điều 42 Luật đất đai qui định: “Đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp”
+ QPPL điều chỉnh: là qui phạm pháp luật qui định thẩm quyền của cơ quan Nhà nước, của tổ chức xã hội, qui tắc xử sự của công dân.
Thí dụ: Điều 38 Luật đất đai qui định: “Uûy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nếu các tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình.”
* Căn cứ vào hình thức biểu hiện của mệnh lệnh nêu trong QPPL: QPLL dứt khoát, QPPL tuỳ nghi và QPPL hướng dẫn.
+ QPPL dứt khoát: là qui phạm chỉ nêu một cách xử sự, chủ thể không được lựa chọn mà phải làm đúng theo qui định của Nhà nước.
Thí dụ: “Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động” (Điều 6 Bộ luật lao động).
+ QPPL tùy nghi: là qui phạm nêu hai hay nhiều cách xử sự để chủ thể lựa chọn.
Thí dụ: “Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn” (Điều 12 Luật hôn nhân –gia đình)
+ QPPL hướng dẫn: là qui phạm thuyết phục, chỉ dẫn cho các chủ thể tham gia tự giải quyết quyền và nghĩa vụ của mình. (thường gặp nhiều trong pháp luật dân sự, kinh tế)
* Căn cứ vào qui định có tính chất nội dung hay tính chất hình thức:
+ QPPL nội dung: là qui phạm qui định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ xã hội.
Thí dụ 1: Điều 9 Luật doanh nghiệp qui định: “Mọi người đều có quyền thành lập doanh nghiệp trừ các trường hợp sau đây:….” (8 trường hợp loại trừ).
Thí dụ 2: Điều 20 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1992 qui định: “Trong thời gian lập danh sách cử tri, công dân có quyền bầu cử đại biểu Quốc hội, cư trú thường xuyên hay tạm thời ở đâu đều được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi đó. Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách ở nơi cư trú.”
+ QPPL hình thức: là qui phạm qui định hình thức, trình tự thủ tục cần thiết cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ mà qui phạm pháp luật nội dung đã qui định.
Thí dụ: Điều 12,13,14 Luật doanh nghiệp qui định hồ sơ đăng ký kinh doanh, cách thức trình tự, thủ tục nộp đơn tại cơ quan đăng ký kinh doanh thuộc tỉnh.v.v để đảm bảo công dân thực hiện quyền kinh doanh của mình.
- Các qui phạm pháp luật nội dung tạo thành luật nội dung (luật vật chất) như: luật dân sự, luật hình sự.v.v..
- Các qui phạm pháp luật hình thức tạo thành luật hình thức (luật thủ tục) như: luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự v.v..
* Căn cứ cách trình bày QPPL, có thể chia thành:
+ QPPL bắt buộc: là qui phạm qui định cho chủ thể nghĩa vụ phải thực hiện một hành vi nhất định.
+ QPPL cấm đoán: là qui phạm qui định những hành vi không cho phép chủ thể thực hiện.
+ QPPL cho phép: là qui phạm qui định cho chủ thể có khả năng tự chọn cách xử sự trong phạm vi cho phép.
* Căn cứ đặc điểm của các ngành luật, có thể chia thành: QPPL hình sự, QPPL dân sự, QPPL hành chính, QPPL lao động v.v…
II. QUAN HỆ PHÁP LUẬT
1/. Khái niệm chung về QHPL:
a. Định nghĩa:
Trong cuộc sống hàng ngày, con người tham gia vào nhiều mối quan hệ đa dạng phức tạp như: quan hệ đồng nghiệp, bạn bè, nam – nữ, quan hệ vợ chồng v.v.. và những quan hệ đó sẽ được điều chỉnh bởi nhiều qui phạm xã hội khác nhau như: đạo đức, tôn giáo, điều lệ, tín điều tôn giáo,. v.v. Trong những mối quan hệ đó, có những quan hệ quan trọng, phổ biến Nhà nước thấy cần phải tác động điều chỉnh nó bằng những qui tắc xử sự chung thể hiện ý chí của mình thì những quan hệ đó được gọi là quan hệ pháp luật. Như vậy, QHPL là quan hệ xã hội được QPPL điều chỉnh.
Hay định nghĩa cách khác, QHPL là quan hệ xã hội trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia được pháp luật xác lập và bảo đảm thực hiện.
Thí dụ: Quan hệ nam – nữ muốn trở thành quan hệ pháp luật về hôn nhân thì phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục mà luật hôn nhân – gia đình qui định. Nếu không tuân thủ sẽ không được thừa nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
b. Đặc điểm của QHPL:
+ Là quan hệ mang tính ý chí;
+ Là quan hệ các bên tham gia đều mang quyền và nghĩa vụ pháp lý;
+ Quan hệ pháp luật và QPPL có mối quan hệ biện chứng với nhau;
+ Được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế.
c. Phân loại QHPL:
- Căn cứ vào đối tượng và phương pháp điều chỉnh, QHPL được phân thành các nhóm lớn tương ứng với các ngành luật: QHPL dân sự, QHPL hình sự, QHPL kinh tế, QHPL hôn nhân và gia đình, QHPL đất đai,v.v…
- Căn cứ vào cách thức thực hiện quyền và nghĩa vụ chủ thể: QHPL được phân thành QHPL cụ thể và QHPL chung.
+ QHPL cụ thể: là quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể nhất định có quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Dựa vào tính xác định của chủ thể: QHPL cụ thể chia thành 2 loại: QHPL tương đối và QHPL tuyệt đối.
- QHPL tương đối là QHPL mà các chủ thể tham gia đều được xác định.
Thí dụ: Quan hệ mua bán nhà giữa A và B; hợp đồng kinh tế giữa Công ty C và Công ty D.
- QHPL tuyệt đối là QHPL trong đó một bên chủ thể được xác định, chủ thể còn lại là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào.
Trong QHPL tuyệt đối, chủ thể xác định là bên có quyền, các chủ thể còn lại là bên có nghĩa vụ không được vi phạm.
Thí dụ: Quan hệ sở hữu, QHPL về quyền tác giả, tác phẩm…
+ QHPL chung: là những quan hệ phát sinh trực tiếp từ Hiến pháp, các đạo luật và cơ sở của sự hình thành các quan hệ pháp luật cụ thể.
2/. Thành phần của QHPL:
Các yếu tố hợp thành QHPL gồm có: chủ thể QHPL, nội dung của QHPL và khách thể của QHPL.
2.1. Chủ thể của QHPL:
a. Khái niệm:
Chủ thể QHPL là những cá nhân, tổ chức theo qui định của pháp luật có thể trở thành các bên tham gia thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý trong QHPL cụ thể.
Trong một QHPL có ít nhất hai chủ thể hình thành hai bên tham gia. Cũng có thể có QHPL gồm nhiều chủ thể tham gia hình thành hai bên hoặc nhiều bên. Thí dụ: hợp đồng mua bán giữa bên A và bên B hoặc A và B, C hoặc giữa A và B có C bảo lãnh.
Có những QHPL chỉ có những chủ thể đặc biệt được tham gia, như trong quan hệ tố tụng hình sự chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và những người có liên quan mới trở thành chủ thể của QHPL này.
Nhưng có loại QHPL mà mọi cá nhân, tổ chức đều có thể trở thành chủ thể. Thí dụ: quan hệ pháp luật trong việc nhận thừa kế.
b. Các loại chủ thể:
Căn cứ vào tính chất pháp lý và đặc trưng của chủ thể, có thể phân chia chủ thể QHPL thành các loại chính sau đây:
* Chủ thể là cá nhân (hay còn gọi là thể nhân): Cá nhân muốn trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật phải có năng lực chủ thể – Năng lực chủ thể gồm có năng lực pháp luật và năng lực hành vi.
+ Năng lực pháp luật là khả năng hưởng các quyền và nghĩa vụ pháp lý theo qui định của pháp luật để họ có thể tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể.
Năng lực pháp luật là thuộc tính không tách rời của mỗi cá nhân, thời điểm phát sinh tuỳ qui định của mỗi nước. Theo luật pháp nước ta năng lực pháp luật của mỗi công dân phát sinh khi được sinh ra, và chấm dứt khi người đó chết tức là mỗi công dân Việt Nam được xem như có năng lực pháp luật khi còn sống.
Tuy nhiên có một số trường hợp năng lực pháp luật chỉ xuất hiện khi cá nhân đạt đến một độ tuổi nhất định. Lúc này năng lực pháp luật và năng lực hành vi xuất hiện cùng một lúc.
Thí dụ: Độ tuổi kết hôn của công dân Việt Nam, nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên; đủ 21 tuổi được quyền ứng cử, đủ18 tuổi được quyền bầu cử,v.v.
Năng lực pháp luật là điều kiện pháp lý chủ yếu qui định tư cách của chủ thể. Không có năng lực pháp luật thì không thể tham gia quan hệ pháp luật với tư cách là chủ thể. Về nguyên tắc, năng lực pháp luật của cá nhân không bị hạn chế trừ trường hợp do pháp luật qui định, chủ yếu là chế tài đối với người vi phạm pháp luật và việc hạn chế đó phải được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ do pháp luật qui định.
+ Năng lực hành vi là khả năng của chủ thể bằng chính hành vi của mình, tham gia vào quan hệ pháp luật và tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật qui định.
Năng lực hành vi được đảm bảo bằng hai điều kiện sau: độ tuổi; khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
- Đạt đến một độ tuổi nhất định: Về tuổi, tuỳ theo qui định của từng nước và tuỳ từng loại quan hệ pháp luật nhưng thường thấy lấy độ tuổi 18 là tuổi thành niên của công dân làm mốc qui định. Ở độ tuổi này, công dân đã có đủ suy nghĩ khi hành động. Tuy nhiên, phụ thuộc vào tính chất, tầm quan trọng của quan hệ pháp luật mà pháp luật qui định độ tuổi cho một số loại quan hệ pháp luật có khác nhau.
Thí dụ: Ở Việt Nam, trong quan hệ pháp luật hình sự theo Điều 12 BLHS qui định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Trong QHPL dân sự qui định: Người đủ 18 tuổi trở lên và không bị mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không điều khiển hành vi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người chưa đủ 6 tuổi, người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác không điều khiển hành vi thì không có năng lực hành vi dân sự. Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập thực hiện các giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với lức tuổi. Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, có tài sản riêng đủ để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ trường hợp pháp luật có qui định khác.
Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, nam phải từ 20 tuổi, nữ từ 18 tuổi trở lên thì mới trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật này.
- Đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: Công dân tuy đã đạt đủ độ tuổi qui định nhưng người đó phải không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh nào khác làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi tức là cá nhân đó phải ý thức được hậu quả của việc mình làm. Người nào không có khả năng nhận thức thì không có năng lực hành vi.
Thí dụ: Điều 13 Bộ luật hình sự qui định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự… »
Tuy nhiên, việc mất năng lực hành vi chỉ miễn trừ trách nhiệm khi vì nguyên nhân khách quan. Trường hợp đương sự mất khả năng nhận thức vì lý do chủ quan (say rượu hay dùng chất kích thích) thì không được miễn trừ trách nhiệm.
Trong Bộ luật dân sự còn qui định trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự do Tòa án quyết định đối với người nghiện ma túy hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Trong phạm vi bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mọi giao dịch liên quan đến tài sản của người này phải có sự đồng ý của người đại diện hợp pháp trừ giao dịch nhỏ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày.
Như vậy, năng lực của một cá nhân gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật là cơ sở của năng lực hành vi và năng lực hành vi là điều kiện để chủ thể qua hành vi, tham gia các quan hệ pháp luật cụ thể. Có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, cá nhân có thể tự mình giao dịch hoặc thông qua người đại diện theo ủy quyền. Chỉ có năng lực pháp luật mà không có năng lực hành vi thì không thể trực tiếp tham gia các quan hệ pháp luật mà phải thông qua hành vi của người đại diện theo pháp luật (đó có thể là cha, mẹ, người giám hộ của cá nhân, được coi là chủ thể gián tiếp), nếu quan hệ pháp luật đó cho phép.
Thí dụ: Công dân A, có năng lực pháp luật nên được hưởng căn nhà là di sản thừa kế của cha mẹ để lại nhưng công dân A không thể tự mình ký hợp đồng để bán ngôi nhà này nếu anh ta dưới 18 tuổi hoặc bị mất trí. Trường hợp này, công dân A phải được người giám hộ thay mặt ký hợp đồng vì A không có năng lực hành vi. Ngược lại, có năng lực hành vi nhưng không có năng lực pháp luật thì không thể tham gia vào quan hệ pháp luật này.
Thí dụ: Một người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được thành lập doanh nghiệp tư nhân (dù họ đủ tuổi, còn minh mẫn) và cũng không thể ủy quyền cho người khác thay họ để thành lập doanh nghiệp tư nhân.
Tóm lại, cá nhân muốn là chủ thể của quan hệ pháp luật bắt buộc phải có năng lực pháp luật. Ngoài năng lực pháp luật, chủ thể là cá nhân còn phải có năng lực hành vi trong trường hợp quan hệ pháp luật đó đòi hỏi phải có hành vi cụ thể.
* Chủ thể là tổ chức: Tổ chức gồm tổ chức có tư cách pháp nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân.
+ Tổ chức là pháp nhân : Pháp nhân là một con người giả định được gắn cho các tổ chức hội đủ một số điều kiện luật định để trở thành chủ thể một số quan hệ pháp luật cụ thể. Điều 84 BLDS qui định những điều kiện để trở thành pháp nhân:
+ Được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận;
+ Phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
+ Có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
+ Nhân danh mình khi tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, nghĩa là pháp nhân nhân danh bản thân mình với tên gọi khi thành lập tham gia, tiến hành các hoạt động và phải chịu trách nhiệm về hoạt động đó.
* Các loại pháp nhân:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang;
- Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội;
- Tổ chức kinh tế;
- Tổ chức xã hội, tổ chức xã hội- nghề nghiệp;
- Qũy xã hội, qũy từ thiện;
- Các tổ chức có đủ các điều kiện trên.
Để tham gia vào quan hệ pháp luật thì pháp nhân cũng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Thông thường, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân xuất hiện cùng một lúc, kể từ ngày ghi trong giấy phép thành lập hoặc giấy đăng ký kinh doanh.
Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền:
- Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người đương nhiên qua hành vi của mình, tạo nên các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho pháp nhân, đó là người được qui định trong quyết định thành lập pháp nhân hoặc trong điều lệ của pháp nhân, là người được bổ nhiệm hoặc được bầu vào chức vụ đứng đầu pháp nhân đó.
- Đại diện theo ủy quyền của pháp nhân là người được người đại diện theo pháp luật ủy quyền, qua hành vi của người này tạo nên các quyền và nghĩa vụ của pháp nhân trong các quan hệ pháp luật cụ thể.
Như vậy, trước pháp luật pháp nhân được xem như là một người có đủ tư cách hành động có thể quan hệ với các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong một số quan hệ pháp luật nhất định pháp nhân không thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật đó như: quan hệ pháp luật hình sự, quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình.
+ Nhà nước là pháp nhân đặc biệt:
- Chủ thể của các quan hệ sở hữu tài sản quốc gia;
- Chủ thể của quan hệ pháp luật quốc tế;
- Chủ thể của quan hệ thừa kế, trong trường hợp không có người thừa kế hoặc công dân hiến tài sản cho Nhà nước.
+ Tổ chức không có tư cách pháp nhân: đó là các tổ chức, đoàn thể xã hội, không có đủ điều kiện để trở thành pháp nhân, tham gia quan hệ pháp luật trong hai trường hợp sau:
Để thực hiện quyền và nghĩa vụ thuộc phạm vi quyền hạn của tổ chức mình mà pháp luật đã qui định;
Khi bản thân tổ chức hoặc nhân viên của tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật, phải thực hiện các trách nhiệm pháp lý do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng.
Ngoài các chủ thể trên, trong Bộ luật dân sự Việt Nam có qui định hộ gia đình, tổ hợp tác cũng là chủ thể pháp luật trong một số quan hệ pháp luật đặc thù như sau:
Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản để hoạt động kinh tế chung trong quan hệ sử dụng đất, trong hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lãnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật qui định, là chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự đó. Những hộ gia đình mà đất ở được giao cho hộ cũng là chủ thể trong quan hệ dân sự liên quan đến đất này.
Tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm, là chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự này.
2.2. Nội dung của quan hệ pháp luật:
Nội dung của quan hệ pháp luật là quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể tương ứng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật.
* Quyền của chủ thể: là khả năng xử sự mà pháp luật cho phép chủ thể thực hiện.
Các đặc tính của quyền:
+ Chủ thể quan hệ pháp luật được quyền thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép hoặc được hưởng những lợi ích nhất định do pháp luật qui định và bảo đảm.
Thí dụ: Theo pháp luật qui định về thừa kế theo pháp luật: các con được quyền ngang nhau trong việc thừa hưởng di sản của cha mẹ để lại không có di chúc. Nhưng các con cũng có quyền nhận hoặc không nhận phần di sản đó.
+ Có quyền yêu cầu bên kia có nghĩa vụ pháp lý phải thực hiện hoặc không thực hiện một số hành vi nhất định.
+ Trong trường hợp cần thiết có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền dùng các biện pháp cưỡng chế tác động để bảo đảm thực hiện các quyền nêu trên.
* Nghĩa vụ của chủ thể: là cách xử sự mà pháp luật bắt buộc chủ thể phải thực hiện nhằm đáp ứng quyền của chủ thể bên kia. Nói cách khác, nghĩa vụ pháp lý là những yêu cầu, đòi hỏi chủ thể phải hoặc không được có những hành vi nhất định tương ứng với quyền của chủ thể bên kia.
Các đặc tính của nghĩa vụ:
- Chủ thể phải xử sự theo yêu cầu của pháp luật (không thực hiện những hành vi pháp luật cấm và thực hiện những hành vi pháp luật buộc thực hiện).
- Chủ thể phải chịu trách nhiệm pháp lý khi có cách xử sự không đúng.
Quyền và nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ pháp luật là hai mặt thống nhất của một vấn đề. Quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại.
2.3. Khách thể của quan hệ pháp luật:
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích mà các bên chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ pháp luật, là cơ sở để hình thành các quyền và nghĩa vụ của các bên.
Khách thể quan hệ pháp luật có thể là các giá trị vật chất (như nhà cửa, tiền bạc, hàng hoá,…), các giá trị phi vật chất (như nghề nghiệp, địa vị xã hội, học vị,…), những giá trị về tinh thần (như quyền ứng cử, bầu cử, hội họp,..).
Khách thể của quan hệ pháp luật phản ánh lợi ích của chủ thể. Sự quan tâm nhiều hay ít của các chủ thể quan hệ pháp luật đối với khách thể là động lực thúc đẩy sự phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật.
Khách thể của quan hệ pháp luật khác với đối tượng tác động của quan hệ pháp luật. Đối tượng tác động là những gì mà các bên chủ thể trực tiếp tác động đến. Còn khách thể là những lợi ích nhất định mà các chủ thể mong muốn đạt được khi tham gia vào quan hệ xã hội cụ thể. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đối tược tác động đồng thời là khách thể của quan hệ pháp luật.
Thí dụ 1: Trong quan hệ mua – bán nhà
Nhà: đối tượng tác động đồng thời khách thể của quan hệ này.
Thí dụ 2: Trong vụ trộm cắp chiếc xe gắn máy.
Chiếc xe gắn máy: đối tượng tác động, đồng thời là khách thể.
Thí dụ 3: Trong vụ án hình sự về tội giết người
Người cụ thể trong vụ án này: đối tượng tác động.
Tính mạng, sức khoẻ của người đó: khách thể của quan hệ.
3/. Những điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật
Qui phạm pháp luật tác động đến các quan hệ xã hội và biến chúng thành quan hệ pháp luật nhưng qui phạm pháp luật chỉ có thể làm phát sinh quan hệ pháp luật thực tế nếu gắn liền với những sự kiện đặc biệt. Thí dụ: Các qui phạm pháp luật hình sự vẫn tồn tại song các quan hệ pháp luật về hình sự sẽ khônng có nếu tội phạm không xảy ra. Những sự kiện đặc biệt mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng gắn liền với việc hình thành, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật được gọi là sự kiện pháp lý. Đây cũng là căn cứ chính làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật.
Sự kiện pháp lý là sự kiện có thật xảy ra trong đời sốngxã hội nhưng phù hợp với điều kiện đã được pháp luật dự và do đó làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể.
Thí dụ: hành vi cướp tài sản được dự liệu trong quan hệ pháp luật hình sự; A và B kết hôn, được dự liệu trong quan hệ hôn nhân và gia đình.
- Căn cứ vào đặc điểm của ý chí, sự kiện pháp lý được chia thành 2 loại: sự biến và hành vi.
* Sự biến: là sự kiện phát sinh không phụ thuộc vào ý chí của con người nhưng lại làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa những chủ thể nhất định. Thí dụ: Sinh, các hiện tượng tự nhiên như: dịch họa, thiên tai,…
* Hành vi: là cách xử sự thể hiện ý chí của con người làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật. Thí dụ: Một cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp tư nhân thì phải làm đơn đăng ký kinh doanh theo qui định của pháp luật.
Tùy theo ý chí làm phát sinh sự kiện có phù hợp hay không phù hợp với pháp luật mà xử sự được phân thành: xử sự hợp pháp và xử sự không hợp pháp.
+ Xử sự hợp pháp là xử sự đúng với pháp luật, phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
+ Xử sự không hợp pháp là xử sự không đúng với yêu cầu của pháp luật, vi phạm vào điều mà pháp luật cấm đoán.
Từ đó, có thể tóm tắt nội dung quan hệ pháp luật bằng sơ đồ sau:
Câu hỏi:
1. Nêu định nghĩa quy phạm pháp luật? Cấu thành của QPPP?.Cho thí dụ về QPPL và phân tích các bộ phận cấu thành của QPPL đó?.
2. Quan hệ pháp luật là gì?. Đặc điểm của quan hệ pháp luật? Cho thí dụ.
3. Trình bày các thành phần của quan hệ pháp luật? Cho thí dụ và phân tích các thành phần của quan hệ pháp luật đó?.
Chương V
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ (6 tiết)
Pháp luật dù được xây dựng hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu không được thực hiện nghiêm túc cũng không đạt được mục đích đặt ra. Do đó, cần phải có các hình thức thực hiện pháp luật. Trong mối quan hệ giữa các chủ thể, nhiều lúc chủ thể không thực hiện theo qui định của pháp luật tức phát sinh các vi phạm pháp luật và chủ thể này phải gánh chịu các trách nhiệm về mặt pháp lý.
Trong chương này, sẽ đề cập các vấn đề nói trên.
I. Nhận thức cơ bản về thực hiện pháp luật:
1. Khái niệm thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, làm cho những qui định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Nói cách khác, Thực hiện pháp luật là đưa pháp luật vào cuộc sống, vào thực tiễn hoạt động.
Pháp luật trở thành hiện thực cuộc sống, được thể hiện thông qua hoạt động của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức – xã hội và công dân.
2. Các hình thức thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật thông qua các hình thức sau đây:
+ Tuân thủ pháp luật: là những hành vi kìm chế (xử sự thụ động), không làm những gì pháp luật không cho phép hoặc ngăn cấm.
Thí dụ: không được thực hiện hành vi phạm tội.
+ Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật): là các hình thức xử sự tích cực khi các chủ thể thực hiện nghĩa vụ do pháp luật qui định.
Thí dụ: Thực hiện nghĩa vụ đóng thuế đối với Nhà nước khi có hoạt động kinh doanh.
Như vậy, tuân thủ và thi hành là hình thức chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình.
+ Vận dụng và sử dụng pháp luật: là hình thức chủ thể thực hiện quyền của mình do pháp luật cho phép.
Thí dụ: Khi một người bị người khác xâm hại đến quyền lợi của họ thì họ có quyền khởi kiện trước Toà án đòi bồi thường (pháp luật qui định cho công dân quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện…).
+ Áp dụng pháp luật: là hình thức Nhà nước thông qua các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để các chủ thể (cá nhân, tổ chức) thực hiện những qui định của pháp luật (chủ thể thực hiện pháp luật có sự can thiệp của Nhà nước), hoặc tự mình căn cứ vào những qui định của pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể. Đây là hình thức quan trọng trong việc thực hiện pháp luật.
3. Áp dụng pháp luật:
Khi thực hiện pháp luật, có nhiều trường hợp nếu không có sự can thiệp của cơ quan Nhà nước, các QPPL sẽ không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, do đó áp dụng pháp luật tức là áp dụng QPPL vào trong các trường hợp cụ thể.
3.1. Các trường hợp áp dụng pháp luật:
- Khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể pháp luật không mặc nhiên phát sinh nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước.
Thí dụ: Nữ: 18 tuổi, nam 20 tuổi ® muốn trở thành quan hệ hôn nhân phải được uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai bên công nhận.
- Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không thể tự mình giải quyết được.
Thí dụ: Tranh chấp hợp đồng kinh tế về điều khoản chất lượng, nếu có yêu cầu của một trong hai bên thì Toà kinh tế sẽ giải quyết.
- Khi cần áp dụng những chế tài đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật.
Thí dụ: Một người đi xe gắn máy (110 phân khối) không có bằng lái bị cảnh sát giao thông xử phạt hành chính ® căn cứ vào pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt.
- Trong một số quan hệ pháp luật quan trọng Nhà nước cần tham gia để kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại một sự kiện thực tế cụ thể nào đó.
Thí dụ: Toà án tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích; Nhà nước phê chuẩn điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp; chứng thực thế chấp.v.v..
3.2. Áp dụng pháp luật tương tự :
Do cuộc sống đa dạng và phức tạp nên trong thực tế có nhiều quan hệ xã hội phát sinh mà chưa có qui phạm pháp luật điều chỉnh, tình trạng này người ta gọi là “chỗ trống pháp luật”.
“Chỗ trống pháp luật” là những mảng quan hệ xã hội cụ thể thiếu sự qui định của pháp luật cho những hoàn cảnh, tình tiết của cuộc sống mà đáng lẽ ra phải được điều chỉnh.
Để khắc phục tình trạng này thì áp dụng pháp luật tương tự. Áp dụng pháp luật tương tự có hai loại: áp dụng tương tự QPPL và áp dụng tương tự pháp luật.
- Áp dụng tương tự QPPL là giải quyết một vụ việc thực tế cần phải giải quyết trên cơ sở một QPPL điều chỉnh một trường hợp khác có nội dung gần giống như vậy. Điều kiện để áp dụng tương tự QPPL là chưa có QPPL điều chỉnh trường hợp khác có nội dung tương tự.
- Áp dụng tương tự pháp luật là giải quyết một vụ việc cụ thể trên cơ sở những nguyên tắc chung của pháp luật. Điều kiện để áp dụng tương tự pháp luật là không có QPPL trực tiếp điều chỉnh trường hợp cụ thể đó và cũng không có những QPPL điều chỉnh những trường hợp tương tự.
Tuy nhiên, việc áp dụng pháp luật tương tự phải hết sức hạn chế, chỉ thực hiện khi pháp luật cho phép và cần thận trọng để tránh việc áp dụng tuỳ tiện. Khi áp dụng pháp luật tương tự phải vận dụng văn bản ban hành gần nhất và đang có hiệu lực pháp luật để giải quyết vụ việc được đúng đắn.
Tại Việt Nam, trong lĩnh vực dân sự, theo Điều 3 Bộ luật dân sự qui định: “Trong trường hợp pháp luật không qui định và các bên không có thỏa thuận, thì có thể áp dụng tập quán hoặc qui định tương tự của pháp luật nhưng không được trái với những nguyên tắc qui định trong Bộ luật này.”
Riêng trong lĩnh vực hình sự, không được áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết nhằm bảo đảm các quyền tự do của công dân.
Điều 2 Bộ luật hình sự qui định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự qui định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
4. Giải thích pháp luật:
a. Khái niệm:
Giải thích pháp luật là làm sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của các qui phạm pháp luật, đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất pháp luật.
Căn cứ vào chủ thể tiến hành giải thích và đặc trưng của sự giải thích, giải thích pháp luật chia làm hai loại: giải thích không chính thức và giải thích chính thức.
* Giải thích không chính thức: đây là sự giải thích tư tưởng, nội dung của các QPPL do các cá nhân, tổ chức bất kỳ thực hiện, không mang tính chất bắt buộc phải xử sự theo cách giải thích đó. Nó không mang ý nghĩa bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạt động áp dụng pháp luật. Nhưng sự giải thích không chính thức đặc biệt là của các nhà khoa học pháp lý, các luật gia cũng có tác động quan trọng đến ý thức pháp luật của các chủ thể pháp luật, và thông qua đó tới hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật.
* Giải thích chính thức: Là sự giải thích các tư tưởng, nội dung của QPPL được tiến hành bởi các cơ quan có thẩm quyền, có hiệu lực bắt buộc và được ghi vào các văn bản giải thích pháp luật.
Thí dụ: Điều 3 Luật doanh nghiệp năm 1999 giải thích thế nào là doanh nghiệp, cổ đông, cổ phần, lãi suất,v.v…
Giải thích chính thức chia làm hai loại: giải thích mang tính qui phạm và giải thích chính thức cụ thể.
+ Giải thích mang tính qui phạm: là sự khái quát hoá thực tế thực hiện và áp dụng pháp luật, từ đó xác định việc thực hiện, áp dụng thống nhất luật pháp.
+ Giải thích chính thức cụ thể có hiệu lực đối với một vụ việc pháp lý cụ thể.
b. Các phương pháp giải thích pháp luật:
+ Phương pháp logic: là phương pháp sử dụng những suy đoán logic để làm sáng tỏ nội dung của QPPL. Phương pháp này được sử dụng trong trường hợp lời văn của qui phạm không trực tiếp nói đến các yêu cầu của Nhà nước.
+ Phương pháp giải thích về mặt văn phạm: làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng của QPPL bằng cách làm rõ nghĩa từng chữ, từng câu và xác định mối liên hệ ngữ pháp giữa chúng với nhau.
+ Phương pháp giải thích chính trị – lịch sử: tìm hiểu, giải thích nội dung của QPPL thông qua việc nghiên cứu các điều kiện chính trị, lịch sử đã dẫn đến việc ban hành văn bản có chứa qui phạm đó.
+ Phương pháp giải thích hệ thống: làm rõ nội dung, tư tưởng của QPPL thông qua đối chiếu nó với các qui phạm khác; xác định vị trí của qui phạm đó trong chế định pháp luật, ngành luật cũng như trong toàn bộ hệ thống pháp luật.
Trong thực tế, người ta thường sử dụng cách giải thích đúng nguyên văn – văn bản pháp luật được hiểu theo đúng từng câu, từng chữ của nó.
II. Vi phạm pháp luật (VPPL)
1. Khái niệm :
Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người trái với qui định của pháp luật, có lỗi do chủ thể có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật xác lập và bảo vệ.
VPPL là trường hợp các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những qui định của pháp luật. Tuy nhiên, để bị coi là VPPL, cần phải hội đủ các dấu hiệu cơ bản của VPPL.
2. Các dấu hiệu của vi phạm pháp luật:
2.1. Vi phạm pháp luật là hành vi xác định của con người cụ thể: hoạt động của con người từ khi suy nghĩ đến khi thể hiện ra ngoài, trải qua nhiều giai đoạn. Khoa học pháp lý không xem xét tất cả các giai đoạn đó mà chỉ nghiên cứu giai đoạn thể hiện các hành vi. Hành vi là sự thể hiện ý chí ra bên ngoài bằng hành động (hoặc không hành động) một cách có ý thức nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt quan hệ pháp luật. Vì vậy, những gì còn trong sự suy nghĩ của chủ thể không bị chi phối bởi các quy phạm pháp luật.
2.2. Hành vi xác định phải trái pháp luật hiện hành: Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với những qui định của pháp luật, tức là làm những điều luật pháp luật cấm hoặc không làm những điều luật pháp luật bắt buộc. Hành vi bất hợp pháp ấy của chủ thể có thể là của cá nhân hoặc của tổ chức.
Trong thực tế, luật pháp không thể dự liệu tất cả hành vi của các chủ thể được làm và không được làm, nên các nước thường áp dụng quan điểm của John Locke: “Chủ thể được phép làm những gì mà luật không cấm” còn đối với những người nắm giữ quyền lực thì : “cấm không được làm những gì mà luật pháp không cho phép”
Hành vi trái pháp luật thể hiện dưới dạng:
- Làm một việc (hành động) mà pháp luật cấm không được làm;
- Không làm một việc (không hành động) mà pháp luật đòi hỏi;
- Sử dụng quyền hạn vượt quá qui định của pháp luật.
Do đó, chỉ xem là hành vi trái pháp luật khi vi phạm những qui định mà luật pháp cấm hoặc không làm những gì mà pháp luật buộc phải làm.
2.3. Hành vi trái pháp luật đó phải có lỗi của chủ thể: Hành vi trái pháp luật này phải thể hiện ý chí của chủ thể tức là mặt chủ quan của hành vi, hay lỗi của chủ thể. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để xác định hành vi VPPL.
Do đó, có những hành vi trái pháp luật nhưng thực hiện trong những hoàn cảnh, điều kiện mà chủ thể không thể lựa chọn cách xử sự khác, thì hành vi trái pháp luật đó không có lỗi nên không thể xem là hành vi VPPL. Thí dụ: trường hợp phòng vệ chính đáng, tình thiết cấp thiết.
2.4. Chủ thể của vi phạm pháp luật phải là người có đủ năng lực trách nhiệm pháp lý: Nghĩa là chủ thể có khả năng lựa chọn cách xử sự, có khả năng nhận thức được hậu quả hành vi của mình mà vẫn thực hiện thì mới xem là hành vi VPPL. Do đó, những hành vi trái pháp luật được thực hiện do những người không có năng lực hành vi (mất trí, điên khùng hoặc dưới tuổi luật định) thì không thể xem là hành vi VPPL.
3..Phân loại vi phạm pháp luật:
- Căn cứ vào mức độ và tính chất nguy hiểm cho xã hội của vi phạm pháp luật, chúng được chia thành tội phạm và các vi phạm pháp luật không phải là tội phạm.
- Căn cứ vào đặc điểm khách thể vi phạm pháp luật, chúng được chia theo Ngành Luật, chế định pháp luật. Có các loại vi phạm pháp luật: Vi phạm hình sự (tội phạm), vi phạm hành chính, vi phạm dân sự, vi phạm kỷ luật.
+ Vi phạm hình sự: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự gây ra một cách vô ý hoặc cố ý. (Điều 8 BLHS).
- Xâm hại đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc; chế độ Nhà nước, chế độ kinh tế và sở hữu XHCN; tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân.
- Chủ thể vi phạm hình sự: Cá nhân.
+ Vi phạm hành chính:Là hành vi xâm phạm các qui tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo qui định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện cố ý hay vô ý.
- Quy tắc quản lý Nhà nước rất đa dạng: Quản lý trật tư an toàn xã hội; trật tự quản lý văn hoá, giáo dục, đất đai, tài nguyên môi trường; trật tự an toàn giao thông…
- Chủ thể vi phạm hành chính: Cá nhân hoặc có thể là tổ chức.
+ Vi phạm dân sự: Là những hành vi xâm hại đến quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản hoặc không liên quan đến tài sản được qui định trong Bộ luật dân sự.
- Xâm hại đến:
· Quan hệ tài sản: Là quan hệ giữa người với người về những lợi ích vật chất được tạo ra trong quá trình hoạt động sản xuất của xã hội như: quan hệ sở hữu, quan hệ thừa kế… Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn liền với một tài sản.
· Quan hệ nhân thân: Là quan hệ giữa người với người về những lợi ích phi vật chất, không có giá trị kinh tế, không tính ra được thành tiền và không thể chuyển giao vì nó gắn liền với một cá nhân, tổ chức nhất định. Nó ghi nhận đặc tính riêng biệt và sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân hay tổ chức đó.
Quan hệ nhân thân thuộc phạm vi điều chỉnh của ngành luật dân sự gồm quan hệ nhân thân liên quan đến tài sản (như: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp…) và quan hệ nhân thân không liên quan đến tài sản (như: danh dự, nhân phẩm, tên gọi…).
- Vi phạm dân sự dẫn đến việc áp dụng các chế tài do những qui phạm pháp luật dân sự qui định.
- Chủ thể vi phạm dân sự: Cá nhân hoặc tổ chức.
+ Vi phạm kỷ luật: Là những hành vi có lỗi, trái với những qui chế, qui tắc xác lập trật tự trong nội bộ một cơ quan, xí nghiệp, trường học,…
- Vi phạm kỷ luật dẫn đến việc áp dụng các biện pháp thi hành kỷ luật khác nhau như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương,…
- Chủ thể của vi phạm kỷ luật: Cán bộ – công chức Nhà nước, học sinh – sinh viên,…
4. Các yếu tố cấu thành hành vi VPPL: (Cấu trúc của hành vi VPPL)
Trong khoa học pháp lý, về mặt cấu trúc vi phạm pháp luật thường được xem xét trên nhưng yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, mặt chủ thể và mặt khách thể.
4.1. Mặt khách quan: Là những biểu hiện bên ngoài của vi phạm pháp luật bao gồm hành vi trái pháp luật, hậu quả, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện thực hiện…và mối quan hệ nhân – quả.
- Về hành vi trái pháp luật: (xem phần 2.II chương V).
- Về hậu quả: Cần được hiểu là những thiệt hại xảy ra về vật chất, tinh thần cho xã hội hoặc của thành viên khác trong xã hội.
- Xác định mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại đã xảy ra. Nói khác đi cần xác định xem thiệt hại xảy ra có phải do hành vi trái pháp luật trực tiếp gây ra hay không.
Đây là yếu tố cần thiết vì có những hành vi trái pháp luật không trực tiếp gây ra thiệt hại mà do những nguyên nhân khác gây ra.
4.2.Mặt chủ quan: là thái độ tâm lí của chủ thể, là diễn biến bên trong của con người mà giác quan người khác không thể cảm giác chính xác được.
- Các dấu hiệu của mặt chủ quan gồm lỗi, động cơ, mục đích của chủ thể đối với hành vi và hậu quả của sự vi phạm pháp luật.
+ Lỗi: là trạng thái tâm lí bên trong của chủ thể khi có hành vi VPPL.
- Căn cứ vào dấu hiệu vào ý chí và lý trí lỗi gồm hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý.
· Lỗi cố ý: gồm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp.
+ Lỗi cố ý trực tiếp: Người vi phạm nhìn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mong muốn điều đó xảy ra.
+ Lỗi cố ý gián tiếp: là trường hợp người vi phạm nhận thức được hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tuy không mong muốn nhưng để mặc cho hậu quả xảy ra.
Thí dụ: Thấy người bị tai nạn nguy hiểm đến tính mạng nhưng để mặc cho người đó, không cứu giúp họ.
· Lỗi vô ý: gồm lỗi vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý do cẩu thả.
+ Lỗi vô ý vì quá tự tin: Là trường hợp người vi phạm thấy trước được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm nhưng tin rằng không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
Thí dụ 1: Lái xe quá tốc độ, tin rằng không xảy ra tai nạn nhưng thực tế đã xãy ra tai nạn.
Thí dụ 2: Thủ trưởng cơ quan không trang bị đầy đủ phương tiện phòng cháy chữa cháy cho cơ quan để xảy ra thiệt hại. (do quá chủ quan).
+ Lỗi vô ý do cẩu thả: Là trường hợp người vi phạm không nhận thức được hậu quả nguy hiểm do hành vi cuả mình mặc dù trách nhiệm phải biết và có thể biết.
Thí dụ: Kinh doanh thuốc nồng dược, không sắp xếp bảo đảm an toàn để xảy ra ngộ độc.
+ Động cơ vi phạm pháp luật: Là những nguyên nhân bên trong (các nhu cầu cần thoả mãn) thúc đẩy chủ thể vi phạm pháp luật.
+ Mục đích vi phạm pháp luật: Là những mục tiêu mà chủ thể cần đạt tới khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
4.3. Mặt chủ thể: là cá nhân, tổ chức phải có năng lực chịu trách nhiệm pháp lý căn cứ vào độ tuổi, vào khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, và tuỳ thuộc vào khách thể được pháp luật bảo vệ mà qui định năng lực chịu trách nhiệm pháp lý trong các ngành luật.
Ở mỗi loại VPPL, tuỳ theo qui định của pháp luật đều có chủ thể riêng.
4.4. Mặt khách thể : Là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng lại bị hành vi VPPL xâm hại. Việc xác định khách thể có ý nghĩa trong quan trọng việc xác định tính chất nguy hiểm của hành vi.
Thí dụ: Hành vi xâm hại đến các quan hệ về tính mạng, tài sản của công dân thì nguy hiểm hơn hành vi xâm hại trật tự an toàn giao thông.
III. Trách nhiệm pháp lý (TNPL)
1. Khái niệm TNPL :
Trong lĩnh vực pháp lý, khái niệm “trách nhiệm” được sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau.
Nghĩa thứ nhất: “trách nhiệm” là bổn phận, nhiệm vụ, nghĩa vụ của chủ thể pháp luật, tức là những điều mà pháp luật yêu cầu phải làm, chủ thể có thái độ tích cực sử dụng mọi khả năng để hoàn thành, hành động với “ý thức trách nhiệm”.
Nghĩa thứ hai: “trách nhiệm” được hiểu là hậu quả bất lợi mà chủ thể phải gánh chịu trước Nhà nước khi có hành vi vi phạm pháp luật, gây hậu quả xấu cho xã hội.
TNPL là mối quan hệ pháp luật đặc biệt giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi được qui định trong phần chế tài của qui phạm pháp luật.
2. Đặc điểm TNPL:
+ TNPL chỉ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với chủ thể VPPL;
+ Việc truy cứu TNPL chỉ được thực hiện đối với các hành vi vi phạm pháp luật có đủ yếu tố cấu thành;
+ TNPL gắn liền các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước và các biện pháp đó được qui định trong phần chế tài của qui phạm pháp luật.
Tuy nhiên, không phải mọi biện pháp cưỡng chế đều thể hiện sự chế tài do chủ thể VPPL. Có những biện pháp cưỡng chế nhưng nhằm mục đích phòng ngừa ngăn chặn. Thí dụ: biện pháp cưỡng chế dân chúng ra khỏi khu vực có dịch bệnh thì biện pháp cưỡng chế này không phải là thực hiện sự chế tài đối với hành vi VPPL.
* Mục đích của TNPL: Giáo dục, răn đe, trừng phạt đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật, mặt khác phòng ngừa chung đối với cộng đồng.
3. Phân loại trách nhiệm pháp lý:
Trong thực tiễn hoạt động pháp luật có các loại TNPL sau đây:
+ Trách nhiệm hình sự: là loại TNPL nghiêm khắc nhất chỉ do Toà án áp dụng đối với cá nhân – người thực hiện hành vi phạm tội. Cụ thể là hệ thống hình phạt trong Bộ luật hình sự.
+ Trách nhiệm hành chính: là loại TNPL do các cơ quan quản lý Nhà nước áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật hành chính.
+ Trách nhiệm dân sự: là loại TNPL do Toà án nhân dân áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật dân sự (có thể là bên tham gia quan hệ áp dụng đối với chủ thể vi phạm).
+ Trách nhiệm kỷ luật: là loại TNPL do thủ trưởng cơ quan Nhà nước hoặc thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp áp dụng đối với cán bộ- công chức Nhà nước, học sinh – sinh viên vi phạm kỷ luật lao động, công tác, học sinh. Trách nhiệm kỷ luật đưa đến chế tài là khiển trách, cảnh cáo, chuyển đi làm công việc khác, sa thải hoặc buộc thôi việc.
+ Trách nhiệm vật chất: trách nhiệm bồi thường khi gây thiệt hại.
Tuỳ hành vi VPPL mà chủ thể vi phạm có thể phải chịu nhiều loại trách nhiệm pháp lý khác nhau: hình sự- dân sự, hành chính-dân sự.v.v..
4. Các biện pháp đấu tranh phòng, chống VPPL :
Để nâng cao trình độ văn minh và ý thức pháp luật cho công dân cần phải thực hiện các biện pháp sau đây để góp phần phòng, chống tội phạm:
- Biện pháp cơ bản, lâu dài là nâng cao trình độ dân trí của xã hội, tạo cho mọi tầng lớp nhân dân khả năng nhận thức được pháp luật.
- Giáo dục pháp luật rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân. Cụ thể: giáo dục kiến thức khoa học pháp lý và giải thích trực tiếp các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản pháp luật; tạo nền tảng cơ bản để hiểu sâu sắc pháp luật và khả năng nhận thức pháp luật trong quá trình dự thảo, biểu quyết, ban hành và áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội.
- Đẩy mạnh công tác thông tin pháp luật và giải thích pháp luật trong nhân dân.
- Đẩy mạnh công tác đấu tranh và xử lý kịp thời, công khai hành vi VPPL.
- Mở rộng dân chủ cho đông đảo nhân dân được góp ý kiến vào các dự thảo luật có liên nhiều đến đời sống của tầng lớp nhân dân.
Câu hỏi:
1. Thực hiện pháp luật là gì?. Các hình thức thực hiện pháp luật?. Theo anh (chị) hình thức thực hiện pháp luật nào quan trọng, phổ biến nhất? Tại sao?.
2. Trình bày các dấu hiệu cơ bản của VPPL?. Phân biệt hành vi trái pháp luật và hành vi VPPL? Phân tích các cấu thành của VPPL?
3. Trách nhiệm pháp lý là gì?. Phân tích đặc điểm của TNPL?
Chương VI
CÁC NGÀNH LUẬT CHỦ YẾU TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM (15 tiết)
A. NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP
Nguồn chủ yếu của ngành luật Hiến pháp là:
- Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001);
- Luật tổ chức Quốc hội - 2001;
- Luật tổ chức Chính phủ - 2001;
- Luật tổ chức Toà án nhân dân - 2002;
- Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân - 2002;
- Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
I- KHÁI NIỆM:
Khái niệm - Luật Hiến pháp là một ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nghiên cứu dưới góc độ pháp lý một cách khái quát những vấn đề chung nhất về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, bộ máy nhà nước và các bộ phận cấu thành của bộ máy, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.. Tất cả những ngành luật khác đều được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của Luật Hiến pháp, và không được trái với những quy định của Luật Hiến pháp.
Sự phát triển của Luật Hiến pháp Việt Nam:
Quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện của Luật Hiến pháp gắn liền với lịch sử lập hiến của Nhà nước. Cho đến nay, lịch sử lập hiến Việt Nam ghi nhận có các Hiến pháp sau đây:
- Hiến pháp 1946 - được Nghị viện nhân dân thông qua ngày 09/11/1946.
- Hiến pháp 1959 - được Quốc hội khoá I thông qua ngày 31/12/1959.
- Hiến pháp 1980 - được Quốc hội khoá VI thông qua ngày 18/02/1980.
- Hiến pháp 1992 - được Quốc hội khoá VIII thông qua ngày 15/4/1992.
Ngày 25/12/2001 Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992.
II- MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT HIẾN PHÁP:
1- Chế độ chính trị: Chế độ chính trị được khảo sát thông qua các bộ phận của hệ thống chính trị.
a. Trung tâm của hệ thống chính trị là nhà nước. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong đó, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
b. Lãnh đạo hệ thống chính trị là Đảng cộng sản Việt Nam. Đảng là đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tuy giữ vai trò lãnh đạo nhưng mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
c. Nhằm phát huy dân chủ, trong hệ thống chính trị còn có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên. Đây là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước. Ngược lại, nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.
2- Chế độ kinh tế:
Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được Nhà nước bảo hộ. Trong đó, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, nhà nước có chính sách bảo hộ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng.
3- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ:
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.
Phát triển giáo dục, phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
4- Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân:
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân.
Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân.
Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình.
Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.
Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
5- Chế định về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
B. NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH.
Nguồn chủ yếu của Luật hành chính là:
- Luật khiếu nại tố cáo –1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004);
- Luật Tổ chức Chính phủ -2001;
- Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003;
- Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2003);
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính - 2002;
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998)
I. ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT HÀNH CHÍNH:
Đối tượng điều chỉnh của Luật hành chính là những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, bao gồm ba nhóm quan hệ xã hội sau:
+ Quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động chấp hành và điều hành của các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước với bên ngoài nhằm thực hiện chức năng căn bản là quản lý Nhà nước. Đây là nhóm quan hệ cơ bản và chủ yếu trong đối tượng điều chỉnh của luật hành chính.
Đó là quan hệ giữa cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp trên với cơ quan quản lý hành chính cấp dưới, quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước không trực thuộc nhau về mặt tổ chức,v.v..
Thí dụ 1: Bộ Giáo dục – Đào tạo với Bộ Văn hoá – Thông tin; Bộ Công an với Bộ Quốc phòng.
Thí dụ 2: Quan hệ giữa cơ quan hành chính Nhà nước với các đơn vị kinh tế đóng trên địa bàn tỉnh, huyện đó.
+ Những quan hệ mang tính chấp hành, điều hành trong tổ chức và hoạt động nội bộ của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước.
Thí dụ: Công tác tổ chức cơ cấu của Quốc Hội (mang tính nội bộ) ® tuân thủ nội qui, qui chế do Quốc Hội đề ra.
+ Những quan hệ mang tính chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các tổ chức xã hội, của các cơ quan không phải là hành chính Nhà nước được Nhà nước giao cho một số trách nhiệm quản lý.
Thí dụ: Tàu biển quốc doanh, máy bay rời khỏi bến cảng, sân bay, mọi hành vi VPHC xảy ra Nhà nước trao quyền cho Phi công trưởng, thuyền trưởng xử lý thông qua các qui định của pháp luật.
Để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội nói trên, Luật hành chính sử dụng chủ yếu phương pháp điều chỉnh mang tính mệnh lệnh, chỉ huy thể hiện tính quyền lực – phục tùng.
Tóm lại, Luật hành chính điều chỉnh toàn bộ những quan hệ xã hội, những hoạt động quản lý được thực hiện bởi Nhà nước hoặc nhân danh Nhà nước, mà đối tượng là các hoạt động chấp hành, điều hành của hệ thống cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
II. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA NGÀNH LUẬT HÀNH CHÍNH:
1. Quy phạm pháp luật hành chính:
Quy phạm pháp luật hành chính là quy tắc xử sự do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước.
Hiện nay, qui phạm pháp luật hành hành chính được qui định trong các văn bản qui phạm pháp luật như: Luật khiếu nại, tố cáo 1998, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002.... Tuy nhiên, do phạm vi rất rộng, nên có thể xem tất cả mọi qui phạm phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ quản lý nhà nước trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là quan hệ pháp luật hành chính.
2. Quan hệ pháp luật hành chính:
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ xã hội hình thành trong lĩnh vực quản lý nhà nước giữa các chủ thể mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật hành chính và được điều chỉnh bằng quy phạm pháp luật hành chính.
Những quan hệ pháp luật hành chính có tất cả những đặc trưng của các quan hệ pháp luật nói chung. Nhưng đây là mối quan hệ hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật này không bình đẳng với nhau, do đó quan hệ pháp luật hành chính có những đặc trưng riêng biệt so với các quan hệ pháp luật khác, như:
- Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính luôn gắn với hoạt động chấp hành - điều hành của Nhà nước.
- Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh do yêu cầu hợp pháp của bất kỳ bên nào mà sự đồng ý hay thoả thuận của bên kia không phải là điều kiện bắt buộc.
- Trong các quan hệ pháp luật hành chính bao giờ cũng có ít nhất một chủ thể mang quyền lực Nhà nước, nhân danh Nhà nước và để thực hiện quyền lực Nhà nước. Đây là chủ thể bắt buộc phải có mà thiếu nó thì không thể hình thành quan hệ pháp luật hành chính.
- Những tranh chấp phát sinh giữa các bên trong quan hệ pháp luật hành chính trước hết được giải quyết theo trình tự, thủ tục hành chính và thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước.
- Bên vi phạm trong quan hệ pháp luật hành chính phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước chứ không phải trước bên kia.
3. Cơ quan hành chính nhà nước:
a) Khái niệm cơ quan hành chính Nhà nước:
Cơ quan hành chính nhà nước là những cơ quan thực hiện các hoạt động chấp hành, điều hành các mặt hoạt động của đời sống xã hội, bằng những hình thức và phương pháp do pháp luật quy định.
Là một loại cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có những đặc điểm của cơ quan nhà nước nói chung như tính quyền lực nhà nước, phạm vi thẩm quyền pháp luật quy định để thực hiện chức năng của mình.
b) Đặc điểm của cơ quan hành chính Nhà nước:
Bên cạnh những đặc điểm của cơ quan nhà nước nói chung, các cơ quan hành chính nhà nước có một số đặc điểm riêng phân biệt với hoạt động của các cơ quan lập pháp và tư pháp như sau:
- Là cơ quan chuyên thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, hoạt động quản lý hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành, điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Là hệ thống cơ quan có lực lượng cán bộ, công chức đông đảo nhất trong bộ máy nhà nước, trực tiếp giải quyết phần lớn các công việc quản lý nhà nước. Do đó người ta nhìn và đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trước hết thông qua hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
- Là cơ quan có hệ thống đơn vị cơ sở trực thuộc, đó là những đơn vị sản xuất ra của cải vật chất, thực hiện những công việc mang tính sự nghiệp, do các cơ quan hành chính nhà nước thành lập ra, trực tiếp chỉ đạo điều hành hoạt động.
C. NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
I. NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ
Nguồn chủ yếu của ngành Luật Hình sự là: BLHS năm 1999.
1. Khái niệm:
Ngành luật hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm tổng thể những QPPL xác định hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm, qui định hình phạt đối với người có hành vi phạm tội.
Nói cách khác, Luật hình sự là ngành luật tổng hợp những QPPL xác định hành vi phạm tội và qui định hình phạt đối với người phạm tội.
2. Đối tượng điều chỉnh: Quan hệ giữa người thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự qui định là tội phạm với Nhà nước.
3. Phương pháp điều chỉnh: Quyền uy.
Phương pháp điều chỉnh của luật hình sự có đặc điểm riêng là khi chủ thể vi phạm, các cơ quan thẩm quyền có quyền áp dụng các biện pháp chế tài tương ứng với vi phạm - kể cả việc tước đi mạng sống – đối với chủ thể này.
Luật hình sự là một ngành luật có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân; trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ngành luật này có sức mạnh cưỡng chế rất lớn.
Luật hình sự gồm 2 phần: phần chung gồm những qui phạm qui định những nguyên tắc, nhiệm vụ của luật hình sự, những qui định chung về tội phạm và hình phạt; phần các tội phạm gồm các dấu hiệu pháp lý của những tội phạm cụ thể và mức hình phạt có thể áp dụng cho tội phạm đó.
4. Các nguyên tắc xử lý của Luật hình sự Việt Nam:
- Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.
- Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.
Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra.
- Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục.
- Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt.
- Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
5. Một số chế định cơ bản của ngành luật hình sự:
5.1. Tội phạm:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
5.2. Hình phạt:
a) Khái niệm:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.
Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.
b) Các hình phạt:
Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung.
1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
6. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự:
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
- Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
II- NGÀNH LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ:
Nguồn chủ yếu của ngành Luật tố tụng hình sự là: BLTTHS năm 2003.
1. Một số khái niệm:
- Tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử, thi hành án, của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan nhà nước khác và các tổ chức xã hội, được thực hiện theo một trình tự đặc biệt do pháp luật quy định, nhằm nhanh chóng và kịp thời khám phá tội phạm và kẻ phạm tội, xử lý tội phạm theo đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
- Luật Tố tụng Hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tố tụng hình sự, giải quyết một vụ án hình sự giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng hình sự và giữa họ với nhau.
* Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hình sự: Những quan hệ xã hội phát sinh từ việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
* Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hình sự có những đặc điểm sau:
Phương pháp quyền lực - phục tùng: Thực hiện quyền của Nhà nước đối với những người và cơ quan tham gia tố tụng liên quan đến việc đấu tranh chống tội phạm và thi hành án.
Phương pháp phối hợp - chế ước:Thực hiện sự phối hợp và chế ước giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Mỗi cơ quan cần thực hiện tốt các chức năng của mình nhưng có quyền phát hiện hoặc yêu cầu cơ quan khác sửa chữa những vi phạm pháp luật.
- Trong khoa học pháp lý hình sự, quá trình tố tụng được chia thành các giai đoạn sau:
+ Khởi tố vụ án hình sự;
+ Điều tra, truy tố vụ án hình sự;
+ Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự;
+ Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự;
+ Thi hành bản án hình sự.
+ Giai đoạn tố tụng đặc biệt (Giám đốc thẩm, tái thẩm)
- Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng:
1- Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Toà án.
2- Những người tiến hành tố tụng gồm có:
a) Điều tra viên;
b) Kiểm sát viên;
c) Thẩm phán;
d) Hội thẩm;
đ) Thư ký phiên toà.
2. Những nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự:
- Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự.
- Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật.
- Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
- Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia.
- Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
- Nguyên tắc xét xử công khai.
- Nguyên tắc không ai có thể bị coi là có tội, nếu chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực của Toà án.
D. NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
I. NGÀNH LUẬT DÂN SỰ[2] :
Nguồn chủ yếu của ngành luật dân sự là: Bộ luật Dân sự năm 2005.
1. Khái niệm:
Luật dân sự, trong quan niệm của luật Việt Nam hiện đại, là tập hợp các quy tắc quy định địa vị pháp lý của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác (hộ gia đình, tổ hợp tác), quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân trong giao lưu dân sự, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự (BLDS năm 2005 - BLDS - Điều 1)
2. Đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự:
Dựa vào định nghĩa của luật viết hiện hành, có thể xác định rằng luật dân sự Việt Nam giải quyết bốn vấn đề lớn: 1- Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm những ai? 2- Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có những quyền và nghĩa vụ gì? 3- Các quyền và nghĩa vụ này được xác lập như thế nào? 4- Luật dự liệu những biện pháp gì để bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó ?
2.1- Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
Các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong luật thực định bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác.
1 - Cá nhân
Là con người cụ thể và đang sống. Cá nhân phải có hộ tịch rõ ràng, cho phép phân biệt được với cá nhân khác. Mọi cá nhân không nhất thiết đều có quyền và nghĩa vụ giống nhau, dù tất cả các cá nhân đều bình đẳng trước pháp luật. Việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi cá nhân lệ thuộc vào kết quả đánh giá năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân đó.
Năng lực pháp luật - Là khả năng của cá nhân có được quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự (BLDS Điều 14 khoản 1). Năng lực pháp luật của cá nhân có từ khi cá nhân được sinh ra và mất đi khi cá nhân chết (Điều 14 khoản 3). Luật nói rằng mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau (Điều 14 khoản 2); song, có khi cá nhân không không thể có một quyền nào đó mà tất cả những cá nhân khác đều có thể có, như trong trường hợp người không có quyền hưởng di sản do đã có một trong những hành vi được ghi nhận tại BLDS Điều 643 khoản 1. Ta nói rằng cá nhân có thể mất năng lực pháp luật ngay khi còn sống trong những trường hợp đặc biệt. Trong luật thực định Việt Nam, tình trạng mất năng lực pháp luật chỉ tồn tại trong những trường hợp đặc biệt do luật quy định và chỉ có hiệu lực đối với các quan hệ phát sinh trong những trường hợp đó. Nói cách khác, không có tình trạng mất năng lực pháp luật tổng quát: người không có quyền hưởng di sản, trên nguyên tắc, chỉ không có quyền hưởng đối với một di sản xác định, và bảo tồn khả năng có quyền hưởng đối với các di sản khác.
Năng lực hành vi - Là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 17 BLDS). Khác với năng lực pháp luật, năng lực hành vi chỉ được thừa nhận cho những cá nhân có đủ các điều kiện do pháp luật quy định: người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự (Điều 21 BLDS); người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự theo quyết định của toà án (khoản 1 Điều 22 BLDS). Tất cả những giao dịch của người không có hoặc mất năng lực hành vi dân sự đều chỉ có thể được xác lập thông qua người đại diện. Ta nói rằng luật có ghi nhận tình trạng không có hoặc mất năng lực hành vi tổng quát. Tình trạng không có năng lực hành vi tổng quát luôn có tính chất tạm thời và sẽ chấm dứt sau một thời gian; trong khi tình trạng mất năng lực hành vi tổng quát có thể kéo dài không thời hạn.
2 - Pháp nhân
Là một tổ chức tồn tại vì một mục đích nào đó. Pháp nhân phải có những yếu tố lý lịch cơ bản rõ ràng cho phép phân biệt với cá nhân các thành viên của nó và với các pháp nhân khác. Pháp nhân có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình: có những pháp nhân (như quỹ xã hội, quỹ từ thiện) không thể có những quyền và nghĩa vụ của thương nhân; không pháp nhân nào có thể có quyền và nghĩa vụ của người thừa kế theo pháp luật.
3 - Hộ gia đình
Là tập hợp những người gắn bó với nhau do quan hệ huyết thống hoặc hôn nhân, có tài sản chung và thực hiện các hoạt động kinh tế chung. Cũng như pháp nhân, hộ gia đình có năng lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình. Song nội dung năng lực pháp luật của hộ gia đình được xác định theo những nguyên tắc gần giống với những nguyên tắc xác định năng lực pháp luật của cá nhân; bởi vậy, hộ gia đình, trên nguyên tắc, có khả năng có quyền và nghĩa vụ như cá nhân, trừ những quyền và nghĩa vụ mà chỉ cá nhân mới có thể có được, như quyền thừa kế theo pháp luật, quyền kết hôn, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con cái,...
4 - Tổ hợp tác
Là tập hợp những người có cùng một nghề nghiệp trong các lĩnh vực dịch vụ và thủ công nghiệp và quan hệ bè bạn, thầy trò, cùng góp tài sản để thực hiện chung các hoạt động nghề nghiệp. Tổ hợp tác cũng phải có các yếu tố lý lịch rõ ràng và có năng lực pháp luật, năng lực hành vi phù hợp với mục đích tồn tại của mình, như pháp nhân.
2.2- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự:
Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận cho các chủ thể hai loại quyền dân sự: quyền có tính chất tài sản và quyền không có tính chất tài sản (còn gọi là quyền nhân thân).
1- Quyền có tính chất tài sản
Là những quyền định giá được bằng tiền, là quan hệ giữa các chủ thể mà có đối tượng là một giá trị tài sản. Có những quyền được thực hiện trực tiếp trên một vật cụ thể (gọi là quyền đối vật); có những quyền tương ứng với những nghĩa vụ mà người khác phải thực hiện (gọi là quyền đối nhân).
2- Quyền nhân thân
Quyền chính trị - Trên nguyên tắc các quyền chính trị của các chủ thể của quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của công pháp. Song, một số quyền có ý nghĩa chính trị được liệt kê trong nhóm các quyền nhân thân theo nghĩa của pháp luật dân sự: quyền xác định dân tộc, quyền đối với quốc tịch, quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do đi lại, cư trú. Mặt khác, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29/11/1989 quy định rằng việc giải quyết các khiếu nại liên quan đến danh sách cử tri được tiến hành trong khuôn khổ thủ tục tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân (Điều 10 khoản 6)
Quyền gia đình - Gồm các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các quan hệ giữa những thành viên trong gia đình: quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình,... Các quyền gia đình, trên nguyên tắc, không có tính chất tài sản; nhưng cũng có những quyền gia đình có tính chất tài sản, như quyền của vợ, chồng đối với tài sản chung, quyền thừa kế theo pháp luật.
Quyền nhân thân - Các quyền này rất đa dạng trong luật dân sự: các quyền đối với thân thể (quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể); các quyền trong đời sống dân sự (quyền đối với họ, tên, hộ tịch, quyền kết hôn, quyền ly hôn,...); các quyền trong quan hệ công (quyền tự do đi lại, cư trú); các quyền được tôn trọng đối với đời tư (quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền đối với bí mật đời tư); các quyền nhân thân của người sáng tạo ra tác phẩm văn chương, nghệ thuật, khoa học; các quyền trong đời sống kinh tế (quyền tự do kinh doanh);...
2.3 - Xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự
Quyền và nghĩa vụ dân sự được xác lập theo các căn cứ quy định tại Điều 13 BLDS. Nói chung một quyền có thể được xác lập do được tạo ra hoặc được chuyển giao, do hiệu lực của một giao dịch hoặc do hệ quả của một sự kiện pháp lý.
1- Tạo ra hoặc chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự:
Tạo ra quyền và nghĩa vụ dân sự - Nói “quyền và nghĩa vụ dân sự được tạo ra”, ta hiểu rằng quyền và nghĩa vụ này xuất hiện ở chủ thể thứ nhất.
Các quyền nhân thân, nói chung, chỉ có thể được xác lập do được tạo ra. Có những quyền phát sinh cùng một lúc với người có quyền: được sinh ra, con người có quyền đối với họ, tên, hộ tịch, có quyền nhận cha, mẹ. Có những quyền phát sinh sau một sự kiện: quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được xác lập do hôn nhân; quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ được xác lập do việc sinh con.
Nhưng các quyền nhân thân của tác giả được để lại cho người thừa kế. Vậy, cũng có thể có trường hợp quyền nhân thân được xác lập bằng con đường chuyển giao.
Các quyền có tính chất tài sản cũng có thể được tạo ra: quyền đối nhân được tạo ra từ hợp đồng hoặc từ một sự kiện pháp lý nào đó (tai nạn, ly hôn); quyền sở hữu được tạo ra bằng cách chiếm hữu vật vô chủ, bằng việc chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong nhiều năm; quyền sở hữu trí tuệ được tạo ra bằng hoạt động sáng tạo.
Chuyển giao quyền và nghĩa vụ dân sự - Gọi là được chuyển giao, các quyền và nghĩa vụ trước đây thuộc về một người, nay được giao lại cho một người khác. Hầu hết các quyền được xác lập bằng con đường chuyển giao đều là các quyền có tính chất tài sản: quyền đối nhân được chuyển giao bằng cách chuyển quyền yêu cầu, chuyển nghĩa vụ; quyền sở hữu được chuyển giao bằng hợp đồng, thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật;...
2- Giao dịch hoặc sự kiện pháp lý:
* Giao dịch
Khái niệm - Giao dịch là việc bày tỏ ý chí của một hoặc nhiều người nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quyền. Người bày tỏ ý chí gọi là bên giao dịch.
Trong trường hợp chỉ có một người bày tỏ ý chí, ta có giao dịch một bên. Có khi giao dịch một bên cũng được ghi nhận trong luật Việt Nam, dù có đến hai người bày tỏ ý chí, như khi vợ chồng cùng lập một di chúc để định đoạt tài sản chung. Song, thông thường, với sự bày tỏ ý chí của nhiều người, ta có giao dịch nhiều bên. Giao dịch nhiều bên được xác lập, một khi có sự gặp gỡ (sự thống nhất) ý chí của nhiều người. Bởi vậy, ta còn gọi giao dịch nhiều bên là sự thoả thuận.
Theo động cơ kinh tế của người bày tỏ ý chí, ta có giao dịch có đền bù (mua bán, trao đổi) hoặc không có đền bù (tặng cho, di chúc).
Theo tầm quan trọng của giao dịch, ta có giao dịch định đoạt và giao dịch quản trị. Bằng giao dịch định đoạt, một quyền có tính chất tài sản đi ra khỏi khối tài sản của người định đoạt: quyền này có thể biến mất (tài sản được tiêu dùng) hoặc được chuyển cho người khác (tài sản được bán, được tặng cho). Bằng giao dịch quản trị, người giao dịch bảo quản và khai thác lợi ích từ các quyền có tính chất tài sản của mình (giao kết hợp đồng sửa chữa, bán hoa lợi từ tài sản gốc).
Các điều kiện để giao dịch có giá trị - Giao dịch chỉ có giá trị khi có đủ các điều kiện quy định tại Điều 122 BLDS, cụ thể là giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
1- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
2- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
3- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
4- Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
* Sự kiện pháp lý:
Khái niệm - Sự kiện pháp lý là sự việc có tác dụng tạo ra, chuyển giao hoặc làm chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Thông thường, sự kiện pháp lý có nguồn gốc từ hành vi của con người, cố ý hoặc vô ý: hủy hoại tài sản của người khác; lái xe không làm chủ được tốc độ, gây tai nạn dẫn đến thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác;... Nhưng sự kiện pháp lý cũng có thể có nguồn gốc vật chất, tự nhiên hoặc xã hội: sau một thời gian do luật quy định, người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai đối với một tài sản sẽ trở thành chủ sở hữu tài sản đó; do việc một người chết, những tài sản của người này được chuyển giao cho người thừa kế, người được di tặng; do một người con bị tai nạn và trở thành tật nguyền, cha, mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng người con đó;...
Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch luôn luôn là các quyền và nghĩa vụ mà các bên giao dịch quan tâm, muốn có, tìm kiếm, trông đợi và đeo đuổi. Trong khi đó, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ sự kiện pháp lý luôn do luật áp đặt, độc lập với ý chí của con người. Ngay cả khi sự kiện pháp lý có nguồn gốc từ hành vi cố ý của con người, thì các quyền và nghĩa vụ từ sự kiện đó sinh ra không phải là mục tiêu hành động của người đó: một người cố tình gây thiệt hại cho người khác không phải với mong muốn trở thành người có nghĩa vụ bồi thường cho người bị thiệt hại. Bởi vậy, có thể gọi các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một giao dịch là nội dung hiệu lực của giao dịch đó; còn các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ một sự kiện pháp lý là nội dung hệ quả của sự kiện pháp lý đó.
2.4- Bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự:
Nhìn chung, các quy tắc của luật được các chủ thể của quan hệ pháp luật chấp hành một cách tự giác.
Cá biệt, trong một số trường hợp, chủ thể này hoặc chủ thể khác đi quá giới hạn mà luật xác định, đối với các quyền của mình và thế là có sự phản ứng của người bị thiệt hại. Trong một xã hội có tổ chức, không ai có thể tự thiết lập công lý cho chính mình. Trong trường hợp một người bị thiệt hại do lỗi của một người khác, luật cho phép người bị thiệt hại yêu cầu sự can thiệp của quyền lực công cộng để khôi phục các quyền của mình. Đại diện cho quyền lực công cộng trong việc giải quyết những bất đồng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật là các toà án; quyền của chủ thể của quan hệ pháp luật được yêu cầu toà án bảo vệ quyền lợi của mình gọi là quyền khởi kiện. Tổ chức toà án là đề tài của một nghiên cứu khác. Ở đây ta xem xét một vài vấn đề chung nhất liên quan đến quyền khởi kiện.
1 - Khái niệm quyền khởi kiện:
Quyền và quyền khởi kiện - Quyền khởi kiện, hiểu theo nghĩa rộng nhất là phương tiện sử dụng bởi một người tự cho rằng mình có một quyền để yêu cầu công lý thừa nhận quyền đó cho mình cũng như bảo đảm việc người khác tôn trọng quyền đó của mình. Thông thường, bất kỳ quyền nào cũng được bảo đảm thực hiện bằng quyền khởi kiện. Tuy nhiên, một cách ngoại lệ:
- Có những quyền mà việc kiện đòi tôn trọng quyền đó không được thừa nhận. Hầu hết các quyền loại này được bảo đảm thực hiện bằng đạo đức, bằng ý thức tự giác, bằng lương tâm, chứ không phải bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Ví dụ: quyền của con đã thành niên mà không có khả năng lao động, được cha, mẹ nuôi dưỡng.
- Có những việc kiện không nhằm yêu cầu tôn trọng một quyền (hoặc ít nhất không trực tiếp nhằm mục đích đó) mà chỉ nhằm bảo tồn các lợi ích. Ví dụ: quyền yêu cầu toà án áp dụng các biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt.
- Có trường hợp quyền vẫn còn, nhưng quyền khởi kiện lại không còn.Ví dụ: một người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai đối với một động sản; sau mười năm, nếu chủ sở hữu không kiện đòi lại tài sản, thì quyền kiện đòi lại tài sản biến mất; nhưng nếu người chiếm hữu tự nguyện trả lại tài sản cho chủ sở hữu vào năm thứ mười một, thì người sau này vẫn có thể tiếp nhận tài sản như là người luôn có quyền sở hữu đối với tài sản đó, chứ không phải như là người được người khác chuyển quyền sở hữu tài sản.
2 - Các loại quyền khởi kiện:
Quyền khởi kiện không có tính chất tài sản - Bao gồm các quyền khởi kiện liên quan đến những quyền và lợi ích không định giá được bằng tiền. Tiêu biểu cho nhóm này là những quyền khởi kiện về hộ tịch: quyền yêu cầu nhận cha, mẹ cho con; quyền yêu cầu nhận con cho cha, mẹ; quyền kiện xin ly hôn;...
Quyền khởi kiện có tính chất tài sản - Bao gồm các quyền khởi kiện nhằm xác lập, khôi phục hoặc bảo đảm việc thực hiện một quyền đối với một tài sản hay một quyền tương ứng với một nghĩa vụ tài sản của một người khác. Có thể kể ra: quyền kiện đòi lại tài sản, quyền kiện đòi bồi thường thiệt hại;...
Quyền khởi kiện có tính chất hỗn hợp - Bao gồm những quyền khởi kiện liên quan cả đến quyền không có tính chất tài sản và quyền có tính chất tài sản, cả đến quyền đối với một tài sản cụ thể và quyền tương ứng với nghĩa vụ tài sản của một người khác.
Ví dụ: Khi kiện xin nhận con cho cha, mẹ đã chết, người khởi kiện có thể không chỉ quan tâm đến quyền xác lập quan hệ cha mẹ-con cái mà còn đến quyền hưởng di sản.
3. Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự:
Phương pháp điều chỉnh của Luật dân sự có những đặc thù sau:
- Bình đẳng về địa vị pháp lý giữa các chủ thể;
- Quyền tự định đoạt giữa các chủ thể;
- Trách nhiệm của người vi phạm phải bồi thường vật chất cho bên có quyền lợi bị vi phạm.
4. Các quyền dân sự cơ bản:
a) Quyền sở hữu:
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
+ Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 182 BLDS)
+ Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tàin sản (Điều 192 BLDS)
+ Quyền định đoạt là quyền chuyển giao sở hữu tài sản hoặc từ bỏ quyền sở hữu đó. (Điều 195 BLDS)
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản.
b) Quyền giao kết hợp đồng dân sự:
Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
Nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự:
Việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
- Tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Hình thức hợp đồng dân sự:
Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
Khi các bên thoả thuận giao kết hợp đồng bằng hình thức nhất định, thì hợp đồng được coi là đã giao kết khi đã tuân theo hình thức đó.
Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản, phải được chứng nhận của Công chứng nhà nước, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép, thì phải tuân theo các quy định này.
c) Quyền thừa kế:
c1) Một số khái niệm:
- Thừa kế là sự chuyển quyền sở hữu đối với tài sản của người chết cho người thừa kế, thông qua ý nguyện cá nhân được thể hiện bằng di chúc hoặc căn cứ vào quy định của pháp luật.
- Di sản thừa kế là những tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại di sản thừa kế.
- Người để lại di sản thừa kế là người đã chết nhưng có tài sản để lại. Người để lại di sản thừa kế chỉ có thể là cá nhân.
- Người thừa kế là người được hưởng di sản của người chết để lại theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế có thể là cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước.
* Người không được quyền hưởng di sản:
Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế
đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiêïn những người nói trón vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
* Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế:
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
* Di sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước:
Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, thì di sản không có người nhận thừa kế thuộc Nhà nước.
c2) Thừa kế theo di chúc:
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
* Người lập di chúc:
- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
* Hình thức của di chúc:
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng.
Người thuộc dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc tiếng nói của dân tộc mình.
* Di chúc bằng văn bản:
Di chúc bằng văn bản bao gồm:
1- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;
2- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;
3- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn;
4- Di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước.
* Di chúc miệng:
Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe doạ do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản, thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.
Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt, thì di chúc miệng bị huỷ bỏ.
* Di chúc hợp pháp:
Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
* Nội dung của di chúc bằng văn bản:
Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang, thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
* Người làm chứng cho việc lập di chúc:
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
2- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3- Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
* Di chúc chung của vợ, chồng:
- Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
- Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
- Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
- Trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thoả thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời điểm đó.
* Di chúc bị thất lạc, hư hại:
Kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu di chúc bị thất lạc hoặc bị hư hại đến mức không thể hiện được đầy đủ ý chí của người lập di chúc và cũng không có bằng chứng nào chứng minh được ý nguyện đích thực của người lập di chúc, thì coi như không có di chúc và áp dụng các quy định về thừa kế theo pháp luật.
Trong trường hợp di sản chưa chia mà tìm thấy di chúc, thì di sản được chia theo di chúc.
* Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: (Điều 669 BLDS)
Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo qui định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo qui định tại khoản 1 điều 643 của Bộ luật này:
1- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2- Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.
* Di tặng:
Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc.
Người được di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người di tặng, thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.
c3) Thừa kế theo pháp luật:
Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
* Những trường hợp thừa kế theo pháp luật:
Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
- Không có di chúc;
- Di chúc không hợp pháp;
- Những người thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế;
- Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối quyền hưởng di sản.
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
- Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
- Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực;
- Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế.
* Người thừa kế theo pháp luật:(Điều 676 BLDS)
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu của người chết mà người người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
* Thừa kế thế vị:(Điều 677 BLDS)
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
* Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế:
Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con, thì được thừa kế di sản của nhau.
* Việc thừa kế trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung, đang xin ly hôn, đã kết hôn với người khác:
Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được Toà án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu một người chết, thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết, thì dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản.
5. Trách nhiệm dân sự:
Trách nhiệm dân sự là hậu quả pháp lý phát sinh đối với người có nghĩa vụ dân sự mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
Có hai loại trách nhiệm dân sự là:
- Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng; và
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
+ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại, thì phải tự bồi thường.
+ Khi người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ, thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng, thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật dân sự.
Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại, thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường, thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
+ Khi người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có cá nhân, tổ chức giám hộ, thì cá nhân, tổ chức đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ, thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
II- NGÀNH LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ:
Nguồn chủ yếu của ngành luật tố tụng dân sự là:
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004;
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989;
- Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
1. Khái quát chung:
Công dân, pháp nhân, theo thủ tục do pháp luật quy định, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án nhân dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Như vậy, hành vi khởi kiện của công dân, pháp nhân, của tổ chức xã hội hoặc hành vi khởi tố của Viện Kiểm sát nhân dân sẽ làm phát sinh vụ án dân sự tại Toà án nhân dân.
- Vụ án dân sự là vụ án phát sinh tại Toà án nhân dân trong trường hợp cá nhân, tổ chức, các cơ quan nhà nước yêu cầu Toà án bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của tập thể, của Nhà nước, hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm.
- Luật tố tụng dân sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật nước ta, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng phát sinh giữa Toà án với những người tham gia tố tụng trong quá trình Toà án giải quyết các vụ án dân sự để bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, tập thể và của cá nhân.
- Đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng dân sự là toàn bộ các hoạt động của Toà án, Viện Kiểm sát, các đương sự và của những người tham gia tố tụng khác trong quá trình Toà án giải quyết vụ án dân sự.
2. Một số nội dung cơ bản của Luật tố tụng dân sự:
a) Những việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân:(Điều 25 BLTTDS)
+ Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam;
+ Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản;
+ Tranh chấp về hợp đồng dân sự;
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp qui định Khoản 2 Điều 29 của BLTTDS;
+ Tranh chấp về thừa kế tài sản;
+ Tranh chấp về bồi thường hại thiệt ngoài hợp đồng;
+ Tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo qui định của pháp luật về đất đai;
+ Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo qui định của pháp luật;
+ Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có qui định.
b.Thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp:
* Thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Tòa án nhân dân cấp huyện) (Điều 33 BLTTDS)
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau:
+ Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình qui định tại Điều 25 và Điều 27 BLTTDS;
Điều 27 BLTTDS qui định: ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về việc xác định cha mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ; tranh chấp về cấp dưỡng; các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có qui định.
+ Tranh chấp về kinh doanh, thương mại qui định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 BLTTDS.
Cụ thể: mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, địa lý; ký gởi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; tham dò, khai thác.
+ Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động mà Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, hòa giải viên lao động của cơ quan quản lý nhà nước về lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hòa giải không thành hoặc không giải quyết trong thời hạn do luật định trừ các tranh chấp không nhất thiết phải qua hòa giải tại cơ sở. (Điểm a, b, c, d, đ Khoản 1 Điều 31 BLTTDS).
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau:
+ Yêu cầu dân sự qui định tại Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 26 BLTTDS.
+ Yêu cầu về hôn nhân và gia đình qui định tại Khoản 1, 2, 3, 4 Điều 28 BLTTDS.
Nếu những tranh chấp, yêu cầu trên có yếu tố nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện.
* Thẩm quyền của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Toà án nhân dân cấp tỉnh): (Điều 34 BLTTDS)
Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ việc sau:
+ Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động qui định tại các Điều 26, 27, 29, 31 BLTTDS trừ những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện;
+ Yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động qui định tại các Điều 26, 28, 30, 32 BLTTDS trừ những yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện;
+ Những tranh chấp, yêu cầu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng có yếu tố nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài;
+ Những tranh chấp, yêu cầu thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nhưng Tòa án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
c) Một số quy định khác:
* Thẩm quyền của Toà án đối với quyết định của cơ quan, tổ chức khác:
Khi xét xử vụ án dân sự, Toà án có quyền huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết.
* Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ:
- Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là Toà án nơi cư trú hoặc nơi làm việc của bị đơn; nếu bị đơn là pháp nhân thì Toà án có thẩm quyền là Toà án nơi pháp nhân có trụ sở, trừ trường hợp pháp luật quy định khác. Các đương sự cũng có thể thoả thuận yêu cầu Toà án nơi cư trú của nguyên đơn giải quyết.
- Tranh chấp bất động sản do Toà án nơi có bất động sản giải quyết.
* Những trường hợp nguyên đơn được lựa chọn Toà án:
Trong những trường hợp sau đây nguyên đơn có quyền lựa chọn Toà án giải quyết:
- Nếu không biết địa chỉ của bị đơn hoặc nếu bị đơn không có nơi cư trú ở Việt Nam thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có tài sản hoặc cư trú cuối cùng của bị đơn giải quyết;
- Nếu vụ án phát sinh từ hoạt động của một chi nhánh của pháp nhân thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi pháp nhân có trụ sở hoặc nơi có chi nhánh đó giải quyết;
- Nếu yêu cấp cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của mình giải quyết;
- Nếu đòi bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của mình, nơi xảy ra việc gây thiệt hại hoặc nơi cư trú của bị đơn giải quyết;
- Nếu vụ án phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể kiện ở Toà án nơi cư trú của bị đơn hoặc nơi thực hiện hợp đồng; nếu khi ký kết hợp đồng mà các bên có thoả thuận trước về Toà án giải quyết việc tranh chấp thì nguyên đơn chỉ được khởi kiện tại Toà án đó;
- Nếu các bị đơn có nơi cư trú khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi cư trú của một trong các bị đơn giải quyết.
d)Trình tự thủ tục giải quyết vụ án dân sự:
+ Thụ lý vụ án
+ Điều tra, hòa giải
+ Xét xử sơ thẩm
+ Xét xử phúc thẩm
+ Thi hành án dân sự
+ Giai đoạn tố tụng đặc biệt
E.NGÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
I- MỘT SỐ KHÁI NIỆM:
- Luật hôn nhân và gia đình là tập hợp các quy tắc chi phối sự thành lập và sự vận hành của gia đình. Có ba dữ kiện cơ bản liên quan đến gia đình mà từ việc phân tích ba dữ kiện ấy, người làm luật đề ra các quy tắc của mình: sự phối hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhằm xây dựng cuộc sống chung; sự sinh con và việc giáo dực con. Vai trò của luật trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình được xác định tuỳ theo kết quả xác định mối quan hệ giữa Nhà nước và gia đình, hay đúng hơn, tuỳ theo mức độ tự chủ của gia đình đối với Nhà nước, trong quá trình hình thành và phát triển của các dữ kiện ấy[3].
- Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Hôn nhân là cơ sở cho sự tồn tại của gia đình.
- Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn;
- Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định;
- Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của pháp luật;
- Cưỡng ép kết hôn là hành vi buộc người khác phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ;
- Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân;
- Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng;
- Cưỡng ép ly hôn là hành vi buộc người khác phải ly hôn trái với nguyện vọng của họ;
- Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật HN & GĐ. Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi nuôi dưỡng mỗi con người, là môi trường quan trọng để hình thành và giáo dục nhân cách, giáo dục ý thức công dân. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
- Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật HN & GĐ;
- Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu nội và cháu ngoại;
- Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra: cha mẹ là đời thứ nhất; anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con chú con bác, con cô con cậu, con dì là đời thứ ba;
- Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
II- CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH:
- Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.
- Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
- Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.
- Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú và con ngoài giá thú.
- Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ phụ nữ, trẻ em, giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.
III- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH:
1- Kết hôn:
Khái niệm - Kết hôn, theo định nghĩa chính thức của luật Việt Nam hiện hành, là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn (Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 8 khoản 2).
Điều kiện kết hôn:
Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn.
Những trường hợp cấm kết hôn:
Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:
1. Người đang có vợ hoặc có chồng;
2. Người mất năng lực hành vi dân sự;
3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
5. Giữa những người cùng giới tính.
Đăng ký kết hôn:
- Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện;
- Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng.
- Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau cũng phải đăng ký kết hôn.
Thẩm quyền đăng ký kết hôn:
- Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn là cơ quan đăng ký kết hôn.
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài là cơ quan đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau ở nước ngoài.
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi và giám hộ có yếu tố nước ngoài.
2- Quan hệ giữa vợ và chồng:
- Vợ chồng chung thuỷ, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.
- Bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng.
- Tài sản chung của vợ chồng:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thoả thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thoả thuận.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.
- Tài sản riêng của vợ, chồng:
1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.
2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
3- Quan hệ giữa cha mẹ và con:
- Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ:
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
2. Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con, ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Nghĩa vụ và quyền của con:
Con có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ.
- Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng:
1. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.
4- Vấn đề nhận con nuôi:
- Người được nhận làm con nuôi:
1. Người được nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống.
Người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn.
2. Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ chồng.
- Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi:
Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
2. Hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên;
3. Có tư cách đạo đức tốt;
4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
- Đăng ký việc nuôi con nuôi:
Việc nhận nuôi con nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch.
Thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi, giao nhận con nuôi được thực hiện theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
5- Ly hôn:
- Quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn:
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn.
2. Trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi thì chồng không có quyền yêu cầu xin ly hôn.
- Hoà giải tại Toà án:
Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
- Thuận tình ly hôn:
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành, nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận về tài sản và con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con; nếu không thoả thuận được hoặc tuy có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án quyết định.
- Ly hôn theo yêu cầu của một bên:
Khi một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hoà giải tại Toà án không thành thì Toà án xem xét, giải quyết việc ly hôn.
- Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn:
1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
2. Vợ, chồng thoả thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thoả thuận được thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thoả thuận khác.
- Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn:
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.
- Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn:
1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
G. NGÀNH LUẬT LAO ĐỘNG
Nguồn chủ yếu của Luật Lao động là:
- Bộ luật Lao động (1994);
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động (năm 2002);
- Luật Công đoàn - 1990;
- Các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động.
I- ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT LAO ĐỘNG:
Đối tượng điều chỉnh của Luật lao động là mối quan hệ xã hội phát sinh giữa một bên là người lao động làm công ăn lương với một bên là cá nhân hoặc tổ chức sử dụng, thuê mướn có trả công cho người lao động và các quan hệ khác có liên quan chặc chẽ hoặc phát sinh trong từ quan hệ lao động đó.
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của Luật lao động bao gồm hai nhóm quan hệ xã hội :
- Quan hệ lao động;
- Các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động (phát sinh trong quá trình sử dụng lao động).
a) Quan hệ lao động:
Quan hệ lao động là quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động phát sinh trong quá trình tuyển chọn và sử dụng sức lao động của người lao động.
Chủ thể của quan hệ lao động là người sử dụng lao động và người lao động:
- Người lao động là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và có giao kết hợp đồng lao động (ngoại trừ những ngành nghề đặc biệt do Bộ LĐTB & XH quy định thì được nhận trẻ em dưới 15 tuổi vào làm);
- Người sử dụng lao động có thể là cá nhân (nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi), các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam, cơ quan Nhà nước v.v. . . .
Điều 1 Bộ luật Lao động năm 1994 nước ta quy định : “Bộ luật lao động điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ lao động liên quan trực tiếp với quan hệ lao động”. Đây là loại quan hệ lao động tiêu biểu và cũng là hình thức sử dụng lao động chủ yếu, phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Như vậy, khác với quan hệ lao động làm công ăn lương do Luật lao động điều chỉnh, quan hệ lao động của cán bộ, công chức làm việc trong bộ máy Nhà nước có những nét đặc trưng khác biệt, vì vậy quan hệ lao động này trước hết do Luật hành chính điều chỉnh. Tuy nhiên, dưới góc độ là một quan hệ sử dụng lao động, Luật lao động cũng điều chỉnh các quan hệ lao động của cán bộ, công chức trong phạm vi phù hợp. Điều 4 Bộ luật lao động quy định: “Chế độ lao động đối với công chức, viên chức Nhà nước, người giữ các chức vụ được bầu, cử hoặc bổ nhiệm, người thuộc lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân, người thuộc các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị, xã hội khác và xã viên hợp tác xã do các văn bản pháp luật khác quy định nhưng tùy từng đối tượng mà được áp dụng một số uy định trong Bộ luật này”.
b) Các quan hệ liên quan đến quan hệ lao động:
Ngoài quan hệ lao động làm công ăn lương là quan hệ chủ yếu, Luật lao động còn điều chỉnh một số quan hệ xã hội khác có liên quan chặt chẽ với quan hệ lao động. Những quan hệ đó bao gồm :
- Quan hệ về việc làm;
- Quan hệ học nghề;
- Quan hệ về bồi thường thiệt hại;
- Quan hệ về bảo hiểm xã hội;
- Quan hệ giữa người sử dụng lao động với tổ chức Công đoàn, đại diện của tập thể người lao động;
- Quan hệ về giải quyết các tranh chấp lao động và các cuộc đình công;
- Quan hệ về quản lý lao động.
II- CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA LUẬT LAO ĐỘNG:
Nguyên tắc cơ bản của Luật lao động là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật lao động trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử dụng lao động. Nội dung các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về lĩnh vực lao động. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Lao động gồm:
a) Nguyên tắc bảo vệ người lao động:
Nguyên tắc bảo vệ người lao động bao gồm các nội dung sau đây:
- Đảm bảo quyền tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử của người lao động;
- Trả lương (tiền công) theo thỏa thuận;
- Thực hiện bảo hộ lao động đối với người lao động;
- Đảm bảo quyền được nghỉ ngơi của người lao động;
- Tôn trọng quyền đại diện của tập thể lao động;
- Thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động;
b) Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động:
Người sử dụng lao động trong bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng có quyền tuyển chọn lao động, quyền tăng hoặc giảm lao động phù hợp nhu cầu sản xuất, kinh doanh, quyền ban hành nội quy và các quy chế lao động, có quyền khen thưởng, kỷ luật, chấm dứt hợp đồng lao động v.v... theo quy định của pháp luật. Nếu tài sản của người sử dụng lao động bị người lao động làm thiệt hại thì họ có quyền yêu cầu được bồi thường. Người sử dụng lao động cũng có quyền phối hợp với tổ chức Công đoàn trong quá trình sử dụng lao động để quản lý lao động dân chủ và hiệu quả; có quyền thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể trong đơn vị cho phù hợp với tình hình sản xuất, kinh doanh và khả năng kinh tế, tài chính của đơn vị mình (xem chương V Bộ luật lao động).
Trong quá trình hoạt động, người sử dụng lao động có quyền tham gia các tổ chức của người sử dụng lao động. Nếu các quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm thì họ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ cho mình.
c) Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
III- NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT LAO ĐỘNG:
1) Việc làm:
Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm.
Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội.
2) Học nghề:
Mọi người có quyền tự do lựa chọn nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình.
Doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được mở cơ sở dạy nghề.
Chính phủ ban hành quy định về việc mở các cơ sở dạy nghề.
3) Hợp đồng lao động:
Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.
Hợp đồng lao động phải có những nội dung chủ yếu sau đây: công việc phải làm, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng, điều kiện về an toàn lao động, vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động.
4) Thoả ước lao động tập thể:
Thoả ước lao động tập thể (gọi tắt là thoả ước tập thể) là văn bản thoả thuận giữa tập thể lao động và người sử dụng lao động về các điều kiện lao động và sử dụng lao động, quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong quan hệ lao động.
Thoả ước tập thể do đại diện của tập thể lao động và người sử dụng lao động thương lượng và ký kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và công khai.
Nội dung thoả ước tập thể không được trái với các quy định của pháp luật lao động và pháp luật khác.
Nhà nước khuyến khích việc ký kết thoả ước tập thể với những quy định có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật lao động.
5) Tiền lương:
Tiền lương của người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
6) Thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi;
7) Kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất;
8) An toàn lao động, vệ sinh lao động;
9) Những quy định riêng đối với lao động nữ;
10) Những quy định riêng đối với lao động chưa thành niên, lao động là người cao tuổi; lao động là người tàn tật, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao;
11) Lao động có yếu tố nước ngoài;
12) Bảo hiểm xã hội;
13) Công đoàn;
14) Giải quyết tranh chấp lao động;
15) Quản lý nhà nước về lao động;
16) Thanh tra Nhà nước về lao động, xử phạt vi phạm pháp luật lao động.
H. NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
Nguồn chủ yếu của ngành Luật Thương mại là:
- Luật Thương mại – 14/6/2005 có hiệu lực 01/01/2006;
- Luật doanh nghiệp – 29/11/2005 có hiệu lực 01/7/2006;
- Luật doanh nghiệp Nhà nước – 2003 có hiệu lực 01/01/2004
- Luật khuyến khích đầu tư trong nước -1994 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998);
- Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - 1996 (được sửa đổi, bổ sung năm 2000);
- Luật phá sản năm 2004 có hiệu lực 15/10/2004;
- Pháp lệnh TTGQCVA kinh tế - 1994;
- v.v. . . .
1- ĐỊNH NGHĨA:
Luật Thương mại là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau, và giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước.
2- ĐỐI TƯỢNG ĐIỀU CHỈNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI:
Luật Thương mại điều chỉnh những mối quan hệ sau:
- Quan hệ phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế với các doanh nghiệp.
- Quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhằm mục đích sản xuất kinh doanh.
- Quan hệ kinh tế phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp như quan hệ giữa tổng công ty và các đơn vị thành viên của nó, quan hệ giữa công ty và các thành viên công ty, giữa các phân xưởng, đội sản xuất của doanh nghiệp . . . .
3- PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU CHỈNH: Mệnh lệnh - phục tùng, thỏa thuận, tự nguyện.
4- MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH CƠ BẢN CỦA NGÀNH LUẬT THƯƠNG:
- Địa vị pháp lý các loại hình doanh nghiệp;
- Hợp đồng kinh doanh, thương mại;
- Giải quyết tranh chấp trong hoạt động kinh doanh, thương mại;
- Phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
K. NGÀNH LUẬT ĐẤT ĐAI
Nguồn chủ yếu của ngành luật đất đai là: Luật đất đai năm 2003 và các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003.
I- Khái niệm và các nguyên tắc cơ bản của Luật đất đai:
Khái niệm - Luật đất đai là ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật nước ta, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan tới việc sở hữu, quản lý và sử dụng đất ở Việt Nam.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật đất đai:
- Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu đặc biệt của Nhà nước.
- Nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật.
- Nguyên tắc sử dụng đất đai hợp lý và tiết kiệm.
- Nguyên tắc đặc biệt ưu đãi đối với đất nông nghiệp.
- Nguyên tắc cải tạo và bồi bổ đất.
II- MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI:
1- Giao đất, cho thuê đất:
- Nhà nước giao đất cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài dưới hình thức giao đất không thu tiền sử dụng đất và giao đất có thu tiền sử dụng đất.
- Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê đất.
- Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, nhận quyền sử dụng đất từ người khác gọi chung là người sử dụng đất.
- Nhà nước cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất.
- Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2- Quản lý Nhà nước về đất đai bao gồm:
Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về đất đai trong cả nước.
Uỷ ban Nhân dân các cấp thực hiện quản lý Nhà nước về đất đai trong địa phương mình theo thẩm quyền được quy định tại Luật này.
Thủ trưởng cơ quan quản lý đất đai ở Trung ương chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan quản lý đất đai ở địa phương chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc quản lý Nhà nước về đất đai.
3- Phân loại đất:
Căn cứ vào mục đích sử dụng chủ yếu, đất được phân thành các loại sau đây:
1- Nhóm đất nông nghiệp bao gồm các loại đất:
a) Đất trồng cây hằng năm gồm đất trồng lúa, đất đồng cỏ dùng vào chăn nuôi, đất trồng cây hằng năm khác;
b) Đất trồng cây lâu năm;
c) Đất rừng sản xuất;
d) Đất rừng phòng hộ;
đ) Đất rừng đặc dụng;
e) Đất nuôi trồng thuỷ sản;
g) Đất làm muối;
h) Đất nông nghiệp khác theo quy định của Chính phủ.
2- Nhóm đất phi nông nghiệp bao gồm các loại đất sau:
a) Đất ở gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị;
b) Đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp;
c) Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh;
d) Đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp gồm đất xây dựng khu công nghiệp; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh; đất sử dụng cho hoạt động khoáng sản; đất sản xuất vật liệu xây dựng, làm đồ gốm;
đ) Đất sử dụng vào mục đích công cộng gồm đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; đất xây dựng các công trình công cộng khác theo qui định của Chính phủ;
e) Đất do cơ sở tôn giáo sử dụng;
g) Đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhờ thờ họ;
h) Đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;
i) Đất sông, ngòi, kênh, rạch, suối và mặt nước chuyên dùng;
k) Đất phi nông nghiệp khác theo qui định của Chính phủ.
3- Nhóm đất chưa sử dụng bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng.
4- Chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất:
- Thủ tục chuyển đổi quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân xã; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất (cả ở nông thôn và đô thị) làm tại Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
* Không được chuyển quyền sử dụng đất trong những trường hợp sau đây:
1- Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp;
2- Đất giao cho các tổ chức mà pháp luật quy định không được chuyển quyền sử dụng;
3- Đất đang có tranh chấp.
5- Giải quyết tranh chấp đất đai:
1) Nhà nước khuyến khích việc hoà giải các tranh chấp đất đai trong nhân dân.
Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân, các tổ chức thành viên khác của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế ở cơ sở và công dân hoà giải các tranh chấp đất đai.
2) Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì do Uỷ ban nhân dân giải quyết theo quy định sau đây:
- Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết các tranh chấp giữa cá nhân, hộ gia đình với nhau, giữa cá nhân, hộ gia đình với tổ chức, giữa tổ chức với tổ chức nếu các tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình;
- Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết các tranh chấp giữa tổ chức với tổ chức, giữa tổ chức với hộ gia đình, cá nhân nếu tổ chức đó thuộc quyền quản lý của mình hoặc của Trung ương;
- Trong trường hợp không đồng ý với quyết định của Uỷ ban nhân dân đã giải quyết tranh chấp, đương sự có quyền khiếu nại lên cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên. Quyết định của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp có hiệu lực thi hành.
3) Các tranh chấp về quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất đã có giấy chứng nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất đó thì do Toà án giải quyết.
4) Pháp luật đất đai nghiêm cấm việc lấn chiếm đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái phép, sử dụng đất không đúng mục đích được giao, huỷ hoại đất.
L. NGÀNH LUẬT TÀI CHÍNH
Nguồn cơ bản: Luật Ngân sách Nhà nước, Luật và pháp lệnh về thuế .v.v..
1.Khái niệm:
Ngành luật tài chính là hệ thống các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động, phân phối và sử dụng những nguồn vốn tiền tệ, đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước cũng như đáp ứng các nhu cầu kinh tế xã hội khác.
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh:
* Đối tượng điều chỉnh của ngành luật tài chính: Những quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập, quản lý và sử dụng các nguồn vốn và quỹ tiền tệ nhất định. Các quan hệ này thường xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau, liên quan đến nhiều chủ thể.
Luật tài chính là ngành luật lớn, phức tạp, nội dung gồm:
- Chế định về ngân sách Nhà nước;
- Chế định bảo hiểm tài chính các doanh nghiệp ;
- Chế định về thuế và các khoản thu của Ngân sách Nhà nước;
- Chế độ cấp phát tài chính cho các ngành kinh tế quốc doanh;
- Chế định về tài chính tổ chức xã hội và dân cư;
- Kỷ luật tài chính.
* Phương pháp điều chỉnh: Mệnh lệnh; bình đẳng – thoả thuận.
M. NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG:
Nguồn cơ bản: Luật ngân hàng Nhà nước, Luật tổ chức tín dụng.
1. Khái niệm:
Luật ngân hàng là ngành luật bao gồm các qui phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng.
Luật ngân hàng xác định địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; địa vị pháp lý của các tổ chức tín dụng và các chủ thể kinh doanh ngân hàng khác; chế độ pháp lý về tín dụng ngân hàng; chế độ thanh toán không dùng tiền mặt.v.v…
2. Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh:
* Đối tượng điều chỉnh: Quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý, kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán ngoại hối.
* Phương pháp điều chỉnh: Mệnh lệnh; bình đẳng – thoả thuận.
N. NGÀNH LUẬT MÔI TRƯỜNG:
1. Một số khái niệm cơ bản của Luật Môi truờng:
- Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật.
- Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất khác.
- Hoạt động bảo vệ môi trường là hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học.
- Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh, về hàm lượng của chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường.
- Ô nhiễm môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật.
- Suy thoái môi trường là sự suy giảm về chất lượng và số lượng của thành phần môi trường,gây ảnh hưởng xấu đối với con người và sinh vật.
- Sự cố môi trường là tai biến hoặc rủi ro xảy ra trong quá trình hoạt động của con người hoặc biến đổi thất thường của tự nhiên, gây ô nhiễm, suy thoái hoặc biến đổi môi trường nghiêm trọng.
- Đánh giá tác động môi trường là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ thể để đưa ra các biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó.
- Luật môi trường là lĩnh vực pháp luật chuyên ngành bao gồm các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình khai thác, sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống của con người.
2. Đối tượng điều chỉnh:
Các quan hệ xã hội mà các quy phạm luật môi trường điều chỉnh có thể phân loại theo các nhóm sau:
+ Các quan hệ giữa một bên là các cá nhân, tổ chức với một bên là nhà nước phát sinh từ hoạt động quản lý nhà nước về môi trường.
Các quan hệ này chứa đựng những yếu tố của quan hệ pháp luật hành chính và chính vì thế mà có quan điểm cho rằng luật môi trường thuộc pháp luật hành chính. Nhóm quan hệ này có những đặc trưng của quan hệ pháp luật hành chính, nhất là quan hệ phát sinh từ việc xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; lĩnh vực khiếu nại, tố cáo các hành vi của các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật môi trường. Những quan hệ này bao gồm:
- Quan hệ phát sinh từ hoạt động đánh giá tác động môi trường;
- Quan hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật và chính sách môi trường;
- Quan hệ phát sinh từ việc xử lý vi phạm pháp luật môi trường.
+ Quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với nhau do thỏa thuận ý chí của các bên. Đặc trưng của quan hệ này là sự thỏa thuận, sự bình đẳng. Các bên trong mối quan hệ này thực hiện các quyền của mình trong lĩnh vực môi trường một cách bình đẳng trong khuôn khổ của pháp luật. Trong lĩnh vực môi trường, mối quan hệ này ngày càng trở nên phổ biến hơn do khả năng định hướng hành vi chủ thể thông qua không phải là chế tài, hình phạt mà là các lợi ích kinh tế. Luật môi trường trong bối cảnh đó cần chú trọng hơn các giải pháp điều chỉnh thông qua các lợi ích kinh tế. Các mối quan hệ mang tính chất dân sự thương mại như thế trong lĩnh vực môi trường bao gồm:
- Quan hệ về bồi thường thiệt hại do việc gây ô nhiễm, suy thoái hay sự cố môi trường gây nên;
- Quan hệ phát sinh từ việc hợp tác khắc phục thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái hoặc sự cố môi trường gây ra;
- Quan hệ phát sinh từ việc giải quyết tranh chấp môi trường;
- Quan hệ trong lĩnh vực phối hợp đầu tư vào các công trình bảo vệ môi trường.
3. Các nguyên tắc chủ yếu của Luật Môi trường:
Các nguyên tắc của luật môi trường cần phân biệt với các nguyên tắc cụ thể được áp dụng trong các chế định hay nhóm quan hệ khác nhau của nó.Các nguyên tắc của luật môi trường chi phối một cách toàn diện các quan hệ phát sinh việc bảo vệ môi trường.Những nguyên tắc hay những quy phạm pháp luật điều chỉnh đối với từng nhóm quan hệ luật môi trường cần phải được ban hành nhằm thực hiện các nguyên tắc cơ bản này.
+ Nguyên tắc đảm bảo quyền con người được sống trong môi trường trong lành
+ Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất trong quản lý và bảo vệ môi trường.
+ Nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững
+ Nguyên tắc coi trọng tính phòng ngừa.
4. Nguồn của Luật Môi trường:
Nguồn của pháp luật bảo vệ môi trường bao gồm một hệ thống những văn bản pháp luật do nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Cũng như nguồn của nhiều ngành luật, lĩnh vực khác, nguồn của luật môi trường đa dạng về hình thức. Nhiều QPPL môi trường được ban hành trong văn bản pháp luật chung và cũng có văn bản pháp luật riêng về lĩnh vực môi trường. Chính vì vậy, việc xác định nguồn của luật môi trường có ý nghĩa trong việc xác định hiệu lực của các quy phạm.
+ Các văn bản luật:
Hiến pháp
Luật bảo vệ môi trường năm 2005
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004
Luật dầu khí 1993, 2000
Luật đất đai năm 2003
Luật tài nguyên nước năm 1998
Luật thuỷ sản năm 2003
Bộ luật hình sự 1999
+ Các văn bản dưới luật:
* Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội:
- Pháp lệnh an toàn và kiểm soát bức xạ ban hành năm 1996;
- Pháp lệnh chất lượng hàng hoá năm 1999;
- Pháp lệnh khai thác và bảo vệ kiểm dịch thực vật năm 2001;
- Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003;
- Pháp lệnh giống cây trồng năm 2004;
- Pháp lệnh giống vật nuôi năm 2004.
* Nghị quyết, nghị định của Chính phủ:
- Nghị định số 23/HĐBT ngày 24/10/1991 ban hành điều lệ vệ sinh;
- Nghị định số 11/2002/NĐ-CP ngày 22/1/2002 về quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và quá cảnh các loại động vật hoang dã;
- Nghị định số 48/2002/ NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi bổ sung danh mục thực vật, rừng quý hiếm ban hành kèm theo Nghị định số 18/HĐBT ngày 17/01/1992;
- Nghị định số 109/2003/NĐ-CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước;
- Nghị định số 139/2004/NĐ-CP ngày 25/6/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng;
- Nghị định số 121/2004/NĐ- CP ngày 12/5/2004 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khoáng sản.
* Các quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh.
Câu hỏi:
1. Hãy trình bày đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh của các ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
2. Tại sao nói ngành luật Nhà nước là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam?
3. Ngành luật Hành chính còn gọi là ngành luật quản lý: Đúng hay sai? Tại sao?
4. Tại sao nói ngành luật hình sự là ngành luật bảo vệ tất cả quyền, lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân, tổ chức?
5. Trình bày những chế định cơ bản trong ngành luật dân sự?
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các văn bản pháp luật:
Hiến pháp năm 1992
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Tố tụng Dân sự
Bộ luật Lao động năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2002)
Luật Hôn nhân và Gia đình
Luật Thương mại năm 2005
Luật doanh nghiệp năm 2005
Luật Hợp tác xã năm 2003
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003)
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002
…v. v….
2. Đại cương về Nhà nước và pháp luật – Tiến sĩ Phạm Hồng Thái và Tiến sĩ Đinh Văn Mậu – Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh năm 1996.
3. Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật – Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1994.
4.Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1994.
5.Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật – Học viện Hành Chính Tp. Hồ Chí Minh – Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Hà Nội năm 2001.
6. Giáo trình Pháp luật đại cương – Chủ biên Thạc sĩ Nguyễn Minh Toàn, NXB CTQG năm 2003.
7. Giáo trình Pháp luật đại cương – Chủ biên Thạc sĩ Diệp Thành Nguyên và Phan Trung Hiền, Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ, xuất bản năm 2004.
8. Giáo trình Luật Dân sự – Chủ biên Ts. Nguyễn Ngọc Điện, Khoa Luật Trường Đại học Cần Thơ, xuất bản năm 2003.
9. Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và Pháp luật – Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật – NXB Chính trị Quốc Gia năm 1995.
10. Những vấn đề cơ bản về Nhà nước Pháp quyền XHCN Việt Nam – TSKH Đào Trí Úc, xuất bản năm 2005.
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
- Bộ lao động thương binh và xã hội Bộ LĐTB & XH
- Bộ luật hình sự BLHS
- Bộ luật tố tụng hình sự BLTTHS
- Bộ luật dân sự BLDS
- Bộ luật tố tụng dân sự BLTTDS
- Chủ nghĩa xã hội CNXH
- Quy phạm pháp luật QPPL
- Quan hệ pháp luật QHPL
- Trách nhiệm pháp lý TNPL
- Vi phạm pháp luật VPPL
MỤC LỤC
Lời nói đầu..................................................................................................
Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
(9tiết)
I. Những vấn đề cơ bản về Nhà nước ........................................................
1. Nguồn gốc của Nhà nước ....................................................................
2. Bản chất củaNhà nước.........................................................................
3.Các dấu hiệu cơ bản của Nhà nước........................................................
4. Chức năng của Nhà nước.....................................................................
5. Bộ máy Nhà nước ...............................................................................
6. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam............................................
II. Những vấn đề cơ bản về pháp luật........................................................
1. Nguồn gốc của pháp luật.......................................................................
2. Bản chất của pháp luật.........................................................................
3. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật.......................................................
4. Chức năng của pháp luật.......................................................................
5. Mối quan hệ giữa pháp luật với các hiện tượng khác...............................
III. Pháp luật XHCN và vai trò của pháp luật XHCN................................
1. Bản chất của pháp luật xã hội chủ nghĩa ................................................
2. Vai trò của pháp luật XHCN.................................................................
IV. Pháp chế XHCN...................................................................................
1. Khái niệm............................................................................................
2. Những yêu cầu cơ bản của pháp chế XHCN..........................................
3. Vấn đề tăng cường pháp chế XHCN trong giai đoạn hiện nay...................
Chương II: HÌNH THỨC PHÁP LUẬT XHCN (6 tiết)
I. Khái niệm hình thức pháp luật – Các hình thức pháp luật cơ bản..........
1. Khái niệm hình thức pháp luật...............................................................
2. Các hình thức pháp luật trong lịch sử.....................................................
II. Văn bản QPPL – Hình thức pháp luật chủ yếu của Nhà nước XHCN...
1. Khái niệm, đặc điểm của văn bản QPPL................................................
2. Các loại văn bản QPPL ở Việt Nam......................................................
III. Hiệu lực của văn bản QPPL................................................................
1. Hiệu lực theo thời gian..........................................................................
2. Hiệu lực theo không gian......................................................................
3. Hiệu theo theo đối tượng......................................................................
Chương III: HỆ THỐNG PHÁP LUẬT XHCN (2 tiết)
I. Khái niệm chung về hệ thống pháp luật XHCN......................................
1. Khái niệm về hệ thống pháp luật XHCN ...............................................
2. Các căn cứ để phân định ngành luật.......................................................
II. Các ngành luật chủ yếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam ................
Chương IV: QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ QUAN HỆ PHÁP LUẬT(6tiết)
I. Quy phạm pháp luật (QPPL)..................................................................
1. Khái niệm chung về QPPL...................................................................
2. Cấu thành của QPPL...........................................................................
3. Phân loại QPPL...................................................................................
II. Quan hệ pháp luật (QHPL)...................................................................
1. Khái niệm QHPL.................................................................................
2. Cấu thành của QHPL...........................................................................
3. Các điều kiện làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt QHPL...........................
Chương V: THỰC HIỆN PHÁP LUẬT, VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ (6 tiết)
I. Nhận thức cơ bản về thực hiện pháp luật...............................................
1. Khái niệm thực hiện pháp luật...............................................................
2. Các hình thức thực hiện pháp luật.........................................................
3. Áp dụng pháp luật................................................................................
4. Giải thích pháp luật..............................................................................
II. Vi phạm pháp luật................................................................................
1. Khái niệm VPPL..................................................................................
2. Các dấu hiệu VPPL..............................................................................
3. Phân loại hành vi VPPL.......................................................................
4. Cấu thành của hành vi VPPL................................................................
III. Trách nhiệm pháp lý (TNPL)...............................................................
1. Khái niệm TNPL
2. Đặc điểm TNPL..................................................................................
3. Phân loại TNPL...................................................................................
4. Các biện pháp đấu tranh phòng chống VPPL..........................................
Chương VI: CÁC NGÀNH LUẬT CHỦ YẾU TRONG
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM (15 tiết)
A. Ngành luật Nhà nước...............................................................................
B. Ngành luật Hành chính............................................................................
C. Ngành luật Hình sự và Tố tụng hình sự.....................................................
D. Ngành luật Dân sự và Tố tụng dân sự.......................................................
E. Ngành luật Hôn nhân và Gia đình.............................................................
G. Ngành luật Lao động...............................................................................
H. Ngành luật Thương mại...........................................................................
K. Ngành luật Đất đai...................................................................................
L. Ngành luật Tài chính................................................................................
M. Ngành luật Ngân hàng.............................................................................
N. Ngành luật Môi trường.............................................................................
* Danh mục tài liệu tham khảo..............................................................
[1] C.Mác, Ph.Ăngghen: Tuyển tập, tập 1, NXB Sự thật, H.1980, tr.569.
[2] Phần này tham khảo Giáo trình Luật Dân sự - Ts. Nguyễn Ngọc Điện - Khoa Luật,ĐH. Cần Thơ - 2003.
[3] Trang 4 và 5 Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình - Ts. Nguyễn Ngọc Điện - Khoa Luật - ĐH. Cần Thơ - 2001.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip