6666
Vào một ngày mùa thu năm ngoái, một đồng nghiệp của tôi bay đến Bostonn tham dự buổi họp của một trong những lớp học y khoa kỳ lạ nhất trên thế giới. Y khoa ư? Vâng, lớp học tổ chức mỗi tuần một lần ở Phòng khám Boston, và những học viên tham dự phải được đều đặn kiểm tra sức khỏe toàn diện mới được vào học. Thực tế, lớp học này chính là một phòng khám tâm lý. Mặc dù lấy tên gọi chính thức là Lớp Tâm lý học Ứng dụng, mục đích thực sự của nó là chữa trị cho những người lo lắng đến sinh bệnh. Và có rất nhiều bệnh nhân ở đấy là những bà nội trợ đang gặp chuyện phiền toái.
Lớp học điều trị lo lắng đó đã ra đời như thế nào? Năm 1930, Bác sĩ Joseph H. Pratt – học trò của Ngài William Osler – quan sát thấy nhiều bệnh nhân đến phòng khám Boston dường như không gặp vấn đề gì về thể chất nhưng lại thực sự có những triệu chứng rất điển hình. Một phục nữ có hai cánh tay tê bại vì “viêm khớp” đến nỗi không thể tự sử dụng được nữa. Một bênh nhân lại cho thấy những triệu chứng đau đớn như bị “ung thư dạ dày”. Những người bệnh khác thì bị đau lưng, nhức đầu, mệt mỏi thường xuyên và hay gặp các cơn đau nhức không xác định rõ nguyên nhân. Tất cả đều thực sự cảm thấy đau đơn. Nhưng các cuộc kiểm tra kỹ lưỡng nhất cũng phát hiện ra họ đã gặp vấn đề gì về mặt thể chất. Nhiều bác sĩ cổ hủ sẽ cho rằng tất cả chỉ là tưởng tượng – “đầu óc họ tư suy diễn ra”.
Nhưng bác sĩ Pratt hiểu rằng chẳng ích gì khi bảo các bệnh nhân này “hãy về nhà và quên nó đi”. Ông biết hầu hết mọi người đều không muốn bị ốm; nếu có thể dễ dàng quên đi bệnh tật như thế, họ đã tự mình làm rồi chứ chẳng cần nhờ đến bác sĩ nữa. Vậy phải làm gì đây?
Ông liền tổ chức ra lớp học này – trước bao ngờ vực của nhiều người thuộc giới y khoa. Nhưng lớp học đã rất thành công! Nhiều năm qua, hàng nghìn bệnh nhân đã “khỏi bênh” nhờ tham dự lớp học. Có người còn đến thường xuyên hàng năm như thể đó là một hoạt động tín ngưỡng kiểu đi lễ nhà thờ. Trợ lý của tôi đã nói chuyện với một người phụ nữ hầu như không bỏ lỡ bất cứ buổi học nào trong suốt chín năm qua. Bà kể lần đầu tiên đến phòng khám, bà đã đinh ninh rằng mình bị viêm thận và đau tim. Bà lo lắng và căng thẳng đến nỗi thỉnh thoảng mắt mờ đi và có một khoảng thời gian ngắn, bà gần như bị mù. Nhưng giờ đây, bà sống rất khỏe mạnh, vui vẻ và tự tin. Ẵm trong tay một đứa cháu ngủ ngon lành, bà trông như mới chỉ bốn mươi tuổi. Bà nói: “Trước kia, tôi thường lo lắng về chuyện gia đình nhiều đến mức đôi khi tôi ước mình có thể chết đi. Nhưng từ lớp học này, tôi hiểu ra lo lắng chỉ vô ích và tôi học được cách ngừng lo lắng lại. Và tôi có thể thành thực nói rằng giờ đây tôi sống rất thanh thản”.
Bác sĩ Hilferding, cố vấn y khoa của lớp học, cho rằng một trong những phương thuốc giúp vơi bớt lo âu là “nói ra những rắc rối của bạn với một người bạn tin tưởng. Chúng ta còn gọi đó là hành động trút gánh nặng trong lòng”. Bà nói: “Khi đến đây, bệnh nhân có thể nói chuyện rất lâu về những vấn đề của họ, cho tới khi họ không còn thấy vướng bận vì chúng nữa. Cứ một mình ủ ê gặm nhấm nỗi âu lo chỉ khiến bạn bị căng thẳng thần kinh mà thôi. Tất cả chúng ta phải biết chia sẻ những rắc rối và âu lo của mình, để cảm thấy có ai đó trên đời sẵn sàng lắng nghe và thấu hiểu chúng ta”.
Trợ lý của tôi từng chứng kiến một người phụ nữ đã cảm thấy khuây khỏa rất nhiều khi nói ra những phiền muộn của mình. Cô gặp rắc rối trong gia đình và lúc mới bắt đầu kể chuyện, cô chẳng khác nào một chiếc lò xo bị nén xuống và chỉ chực bật lên. Dần dần, cô lấy lại được bình tĩnh; và đến cuối buổi nói chuyện, cô đã nở một nụ cười. Phải chẳng vấn đề của cô đã được giải quyết? Không hề, đâu dễ dàng như vậy, điều tạo nên sự thay đổi chính là việc nói chuyện với ai đó, nhận một vài lời khuyên và chút cảm thông từ người khác. Điều thực sự tạo nên thay đổi chính là khả năng hàn gắn tuyệt diệu nằm trong những lời nói!
Trong một chừng mực nào đó, khả năng hàn gắn của ngôn từ chính là cơ sở của các phân tích tâm lý. Ngay từ thời của Freud, các nhà phân tích đã nhận ra rằng bệnh nhân có thể giải tỏa những lo lắng của mình bằng cách nói chuyện, chỉ đơn giản là nói chuyện mà thôi. Tại sao lại như thế? Có thể là do khi nói chuyện, chúng ta thấu hiểu hơn một chút về những rắc rối của mình và thấy tương lai tươi sáng hơn. Không ai biết câu trả lời chính xác, nhưng tất cả chúng ta đều hiểu rằng việc “nói ra” hay “lấy gánh nặng khỏi lồng ngực” có thể có tác dụng xoa dịu ngay tức khắc.
Vậy lần sau, khi gặp phải một vấn đề nào đó về cảm xúc, chúng ta hãy nhìn quanh xem có ai để trò chuyện không. Tất nhiên, tôi không có ý bảo bạn đi lung tung khắp nơi và phàn nàn, than vãn với bất cứ người nào mình gặp; điều đó chỉ khiến bạn bị né tránh mà thôi. Chúng ta hãy quyết tìm một ai đó mà chúng ta tin tưởng, có thể là một người thân, một bác sĩ, một luật sư hay một cha xứ. Rồi hãy nói với người đó: “Tôi muốn nghe lời khuyên của anh. Tôi đang gặp rắc rối và thực sự mong anh sẽ lắng nghe những gì tôi nói. Anh có thể cho tôi vào lời khuyên. Anh có thể thấy những khía cạnh mà tự tôi không nhìn ra. Và ngay cả khi không thể làm gì thì anh cũng đã giúp tôi rất nhiều, chỉ cần anh ngồi xuống và lắng nghe tôi nói thôi”.
Như vậy, việc nói ra tất cả là một trong những liệu pháp chính được sử dụng ở lớp học của Phòng khám Boston. Dưới đây là một số ý kiến khác chúng tôi rút ra được từ lớp học này – đó là những việc bạn có thể tự mình làm ở nhà.
1. Tạo ra một quyển sổ có khả năng “truyền cảm hứng”, trong đó, bạn có thể ghi lại tất cả những bài thơ, những lời cầu nguyện ngắn, hay những lời trích dẫn khiến bạn cảm thấy hứng thú và phấn chấn. Có thể khi tâm trạng sa sút, bạn sẽ tìm thấy những ghi chép ấy một câu nói giúp xua tan nỗi u sầu của mình. Nhiều người đã giữ những quyển sổ như thế trong nhiều năm liền và họ xem đó là “cẩm nang cầm tay” cho tinh thần.
2. Đừng chăm chú quá nhiều vào khuyết điểm của người khác! Một phụ nữ ở trong lớp học – người nhận thấy mình đang trở thành một người vợ hay quở mắng, đay nghiến và có gương mặt hốc hác vì lo lắng – đã bất ngờ được hỏi: “Cô sẽ làm gì nếu chồng mình qua đời?”. Quá sửng sốt trước giả định đó, cô lập tức ngồi xuống và viết ra một danh sách dài những điểm tốt của chồng. Nếu bạn cảm thấy mình đã cưới phải một kẻ không thể chấp nhận được, sao bạn không làm như người phụ nữ đó? Có thể sau khi điểm lại những đức tính của người bạn đời, bạn sẽ nhận ra họ chính là người mình hằng mong được chung sống!
3. Hãy quan tâm đến mọi người! Hãy lưu ý một cách chân thành và thiện chí tới những người cùng chia sẻ cuộc sống với bạn. Một phụ nữ từng rất đau khổ vì cảm thấy mình bị “lạc lỏng” và không có lấy một người bạn. Thế rồi cô được yêu cầu kể một câu chuyện về người cô gặp sau đó. Vậy là, ngay trên xe buýt, cô bắt đầu tìm hiểu và suy đoán về hoàn cảnh của những người mình gặp. Cô cố gắng hình dung xem cuộc sống của họ ra sao. Bạn biết không, cô nói chuyện với tất cả mọi người ở bất cứ nơi đâu – và giờ đây, cô là một người lôi cuốn, hoạt bát và hạnh phúc với “vết thương” đã được chữa lành.
4. Lập kế hoạch cho công việc ngày mai trước khi bạn đi ngủ. Qua lớp học, người ta nhận ra rằng có nhiều người cảm thấy đang bị cuốn vào vòng xoáy bất tận của công việc và những thứ phải làm khác. Họ không bao giờ hết việc, và luôn bị thời gian rượt đuổi. Để chữa trị cảm giác vội vã và lo lắng đó, họ được khuyên mỗi tối hãy lên kế hoạch cho ngày hôm sau. Điều gì đã xảy ra? Họ hoàn thành được nhiều việc hơn, ít mệt hơn, cảm thấy thành công, hãnh diện và có thời gian dành cho nghỉ ngơi và thư giãn.
5. Cuối cùng, tránh căng thẳng và mệt mỏi. Hãy thư giãn! Thư giãn! Không gì có thể khiến bạn già đi nhanh hơn sự căng thẳng và mệt mỏi. Không gì có thể tàn phá dung nhan và sự tươi trẻ của bạn nhanh như thế! Trong suốt một giờ học ở Lớp tâm lý học Ứng dụng tại Boston mà trợ lý của tôi tham dự, Giáo sư Paul E. Johnson, đã nhắc lại và cho thực hành nguyên tắc chúng ta đã thảo luận trong chương trước – Nguyên tắc thư giãn. Sau mười phút tập thư giãn cùng những người khác, trợ lý của tôi đã suýt ngủ thiếp đi trên ghế! Tại sao việc thư giãn cơ thể lại được đặc biệt chú trọng như vậy? Vì phòng khám và những bác sĩ khác biết rằng nếu muốn loại bỏ lo âu, người bệnh cần phải được nghỉ ngơi!
Vâng, bạn cần phải nghỉ ngơi! Không nhất thiết bạn phải có một chiếc gường thật êm mới có thể thư giãn được. Ngược lại, một mặt sàn cứng có thể giúp bạn nhiều hơn là chiếc giường lò xo, bởi nó tăng cường sức đề kháng và có lợi cho cột sống.
Dưới đây là một số bài tập thư giãn mà bạn có thể áp dụng. Hãy luyện tập hàng tuần – và xem bạn đã cải thiện như thế nào dung nhan và tinh thần của mình!
a. Nằm ngửa trên sàn nhà khi bạn cảm thấy mệt mỏi. Duỗi thẳng chân tay. Lăn người nếu bạn muốn. Làm thế hai lần mỗi ngày.
b. Nhắm mắt lại. Bạn có thể thử nói, theo gợi ý của Giáo sư Johnson, những điều như sau: “Mặt trời đang tỏa nắng trên đầu. Bầu trời trong xanh và bừng sáng. Thiên nhiên an lành đang bao trùm cả thế giới này – và tôi, đứa con của thiên nhiên, đang hòa vào Vũ trụ”.
c. Nếu không thể nằm xuống bởi không có thời gian rảnh rỗi, bạn vẫn có thể đạt được hiệu quả tương tự khi ngồi trên ghế. Một chiếc ghế thẳng, vững chắc rất tốt cho việc thư giãn. Ngồi thẳng trên ghế như một pho tượng cổ Ai Cập, thả lỏng cánh tay và đặt nhẹ lòng bàn tay lên đùi.
d. Bây giờ hãy chầm chậm duỗi các ngón chân – rồi thả lỏng. Kéo căng cơ chân – rồi thả lỏng. Chầm chậm làm tiếp lên các bộ phận ở phía trên cơ thể cho tới cổ. Rồi xoay đầu như thể đó là một quả bóng. Liên tục nhắc các cơ bắp của mình (như trong chương trước) “”Thả lỏng…thả lỏng…”.
e. Thư giãn thần kinh bằng hơi thở chậm đều. Hít thở thật sâu. Những người tập Yoga Ấn Độ đã đúng khi cho rằng: hơi thở đều đặn là một trong những phương thuốc hiệu quả nhất từng được phát hiện để xoa dịu thần kinh.
j. Hãy nghĩ đến những nếp nhăn và vẻ cau có trên gương mặt bạn và làm phẳng chúng ra. Nhẹ nhàng thả lỏng các cơ mặt để làm tan biến những biểu hiện lo âu đang hiện hữu giữa hai chân mày và bên khóe miệng của bạn. Làm thế hai lần mỗi ngày có tác dụng không hề thua kém việc đi mát-xa ở các thẩm mỹ viện. Có thể những đường nhăn trên gương mặt bạn sẽ biến mất hoàn toàn!
Muốn tránh mệt mỏi và giữ sắc diện tươi trẻ, bạn hãy làm theo Nguyên tắc 3:
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP THƯ GIÃN KHI Ở NHÀ
Thói quen thứ nhất:
Chỉ để trên bàn những giấy tờ liên quan đến vấn đề phải giải quyết ngay.
Roland L. Wulliams, Giám đốc công ty đường sắt Chicago and Northwestern, từng nói: “Một người sẽ thấy mình làm việc dễ dàng và chính xác hơn rất nhiều nếu mỗi ngày anh ta đều thu dọn chiếc bàn làm việc ngồn ngộn giấy tờ, chỉ để lại những tài liệu cần thiết cho những vấn đề phải giải quyết ngay. Tôi cho đó là người biết trông nom công việc và đấy chính là bước đầu tiên tiến tới sự hiệu quả”.
Nếu có dịp đến thăm Thư viện Quốc hội ở Washington, D.C., bạn sẽ thấy năm từ sau được sơn trên trần nhà – năm từ do nhà thơ Pope viết ra: “Order is Heaven’s First Law” (Trật tự là quy tắc đầu tiên của thiên đàng).
Trật tự cũng cần là quy tắc đầu tiên trong kinh doanh. Nhưng thực tế thì sao? Những chiếc bàn vẫn thường ngổn ngang giấy tờ chất đống hàng tuần liền mà chưa được giải quyết. Giám đốc một tòa soạn báo ở New Orleans đã có lần nói với tôi rằng sau khi dọn dẹp một bàn làm việc của ông, người thư ký đã tìm thấy cái máy đánh chữ tưởng đã mất từ hai năm trước!
Chỉ riêng cảnh tượng một chiếc bàn làm việc bừa bộn với những lá thư chưa được trả lời, những báo cáo và những ghi nhớ chằng chịt cũng đủ gây rối trí, căng thẳng và lo lắng. Thậm chí còn có thể tệ hơn. Khi trước mắt lúc nào cũng là những hình ảnh nhắc nhở về tình trạng “có hàng triệu thứ phải làm mà không lấy đâu ra thời gian” thì bạn sẽ không chỉ bị căng thẳng, mệt mỏi mà còn có nguy cơ mắc bệnh cao huyết áp, đau tim và loét dạ dày nữa.
Trọng Hội nghị quốc gia của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ, Bác sĩ John H. Stokes, Giáo sư của trường Y khoa thuộc Đại học Pennsylvania, đã đọc một bài phát biểu có nhan đề “Bệnh tật hữu cơ – Biến chứng của sự rối loạn thần kinh chức năng”. Ông đưa ra 11 nguyên nhân của căn bệnh. Và một trong số đó, ở vị trí đầu tiên là: “Cảm giác về những nghĩa vụ bắt buộc; một danh sách dài vô tận những công việc sẽ phải làm”.
Nhưng vì sao một hành động đơn giản như dọn dẹp và sắp xếp gọn gàng bàn làm việc có thể giúp bạn tránh khỏi áp lực cao, cảm giác mệt mỏi về nghĩa vụ trước “một danh sách dài vô tận của những việc sẽ phải làm”? Bác sĩ tâm thần học nổi tiếng Williams L. Sadler có kể câu chuyện về một bệnh nhân đã tránh khỏi suy nhược thần kinh nhờ áp dụng chính phương pháp đơn giản này. Đó là giám đốc của một công ty lớn ở Chicago. Khi đến gặp bác sĩ Sadler, ông này đang trong trạng thái rất lo lắng, bất an và căng thẳng. Ông biết nếu cứ tiếp tục thì rất dễ suy sụp nhưng lại không có cách nào thoát khỏi công việc. Ông cần được giúp đỡ.
Bác sĩ Sadler nói: “Khi ông ấy đang kể cho tôi nghe về câu chuyện của mình thì điện thoại của tôi đổ chuông. Bệnh viện đang gặp rắc rối; và thay vì trì hoãn vấn đề, tôi lập tức đưa ra quyết định. Tôi cố gắng giải đáp ngay mọi câu hỏi, nếu có thể. Sau đó lại có một tình huống khẩn cấp khác, tôi cũng thảo luận luôn. Lần cắt ngang thứ ba là khi một đồng nghiệp của tôi đến văn phòng hỏi lời khuyên cho một bệnh nhân đang ốm rất nguy kịch. Khi giải quyết xong, tôi quay lại phía vị khác và mở lời xin lỗi vì đã bắt ông phải đợi. Nhưng khuôn mặt ông lại sáng bừng lên và hoàn toàn khác so với lúc mới đến”.
Người đã nói với Sadler: “Bác sĩ không phải xin lỗi! Trong mười phút vừa qua, tôi nghĩ mình đã ngẫm ra vấn đề của tôi là gì rồi. Tôi sẽ về văn phòng và xem lại thói quen làm việc của mình … Nhưng trước khi đi, nếu bác sĩ không phiền, tôi rất muốn được xem qua bàn làm việc của bác sĩ”.
Bác sĩ Sadler mở ngăn kéo bàn ra. Bên trong trống không – ngoại trừ mấy vật dụng văn phòng. Bệnh nhân đó nói: “Hãy cho tôi biết ngài để những việc chưa hoàn thành của mình ở đâu?”.
Sadler trả lời: “Tôi đã làm xong hết rồi!”
“Còn những lá thư chưa được hồi đáp?”
“Tôi đã hồi đáp hết rồi!”. Sadler nói tiếp: “Quy tắc của tôi là không bao giờ đặt một lá thư xuống khi chưa trả lời xong. Tôi sẽ đọc câu trả lời cho thư ký của mình ngay khi xem xong lá thư”.
Sáu tuần sau, vị giám đốc đó lại mời bác sĩ Sadler đến thăm văn phòng của mình. Ông đã thay đổi – và chiếc bàn làm việc của ông cũng thế. Ông mở những ngăn kéo bàn ra, trong đó không hề có công việc nào chưa hoàn tất. Vị giám đốc nói: “Sáu tuần trước, tôi có ba cái bàn làm việc khác nhau ở hai văn phòng – và luôn ngập đầu vì công việc. Tôi không bao giờ có thể hoàn thành chúng. Sau khi nói chuyện với bác sĩ, tôi quay về và dọn sạch những chồng báo cáo và tài liệu cũ. Giờ đây, tôi chỉ làm việc tại một chiếc bàn, giải quyết ngay những vấn đề mới phát sinh, và không còn bị giày vò, lo lắng trước hàng núi việc chưa giải quyết xong. Nhưng điều ngạc nhiên hơn cả là tôi đã hoàn toàn hồi phục, và chẳng còn gặp vấn đề gì về sức khỏe nữa!”.
Charles Evans Hughes, nguyên Thẩm phản Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, nói: “Người ta không chết vì làm việc quá nhiều, mà chết vì phung phí và lo lắng”. Vâng, vì phung phí năng lượng và lo lắng bởi họ dường như không bao giờ có thể hoàn thành hết công việc.
Thói quen thứ hai:
Giải quyết mọi việc theo thứ tự quan trọng
Người sáng lập Công ty Dịch vụ Cities có mạng lưới rộng khắp cả nước, Henry L. Doherty, cho hay dù ông có trả lương cao đến đâu thì hầu như vẫn không thể tìm ra một nhân viên có hai khả năng vô giá: biết suy nghĩ và giải quyết công việc theo thứ tự quan trọng.
Charles Luckman – người tay trắng lập nghiệp và sau 12 năm đã trở thành giám đốc Công ty Pepsodent, nhận mức lương 100.000 đô-la một năm và thêm 1 triệu đô-la thu nhập từ các lĩnh vực khác – đã tuyên bố rằng phần nhiều thành công của ông là nhờ vào hai khả năng hầu như không thể tìm thấy mà Henry L. Doherty đã đề cập ở trên. Charles Luckman nói: “Tôi thường dậy từ lúc 5 giờ sáng bởi đó là lúc tôi suy nghĩ sáng suốt nhất – rồi vạch kế hoạch thấu đáo cho cả ngày với phương châm giải quyết công việc theo thứ tự quan trọng của chúng”.
Frank Bettger, một trong những người bán bảo hiểm thành công nhất nước Mỹ, đã không đợi cho đến 5 giờ sáng để lập kế hoạch mỗi ngày. Ông lập từ đêm trước đó: đưa ra mục tiêu cho bản thân mình – mục tiêu bán một số lượng bảo hiểm nhất định trong ngày hôm sau. Nếu không thực hiện được, con số còn thiếu đó sẽ được cộng dồn sang ngày kế tiếp – và tiếp nữa.
Từ kinh nghiệm của mình, tôi biết một người không phải lúc nào cũng có thể giải quyết mọi việc theo thứ tự quan trọng của chúng, nhưng tôi cũng biết rằng so với kiểu làm tùy hứng, thói quen lập kế hoạch thứ tự về những việc cần làm thật sự tốt hơn rất nhiều.
Nếu George Bernard Shaw không đề ra quy tắc cứng rắn phải làm những việc quan trọng nhất trước tiên, có thể ông đã thất bại trong nghiệp viết và suốt đời vẫn mãi là một thủ quỹ ở ngân hàng. Kế hoạch của ông đòi hỏi phải viết 5 trang sách mỗi ngày. Suốt 9 năm trời, ông đã tuân thủ kế hoạch đó, bất chấp căn bệnh đau tim, bất chấp việc ấy chỉ đem đến cho ông tổng cộng 30 đô-la – tính ra là khoảng một xu mỗi ngày. Còn Robin-son Crusoe thì thậm chí còn lên kế hoạch làm việc cho từng giờ trong ngày.
Thói quen thứ ba:
Khi gặp vấn đề nảy sinh, hãy giải quyết ngay nếu thấy có đầy đủ các yếu tố để ra quyết định.
Một học viên trước đây của tôi là H. P. Howell đã bảo rằng khi ông còn là thành viên của ban giám đốc Công ty Thép Hoa Kỳ, các cuộc họp thường kéo dài rất lâu – nhiều vấn đề được thảo luận nhưng rất ít quyết định được đưa ra. Kết quả là mỗi thành viên của ban giám đốc phải mang hàng đống báo cáo về nhà nghiên cứu.
Cuối cùng, ngài Howell thuyết phục ban giám đốc mỗi lần họp chỉ nên chọn ra một vấn đề giải quyết dứt khoát. Không chần chừ - không trì hoãn. Quyết định đưa ra có thể là yêu cầu phải cung cấp thêm thông tin, là tiến hành hay không tiến hành việc gì đấy. Dù thế nào đi nữa cũng phải quyết định xong vấn đề đang thảo luận rồi mới được chuyển sang vấn đề khác. Ngài Howell cho tôi hay kết quả tốt đẹp trông thấy: các thành viên không phải mang đống tài liệu về nhà nữa, và cảm giác căng thẳng với những vấn đề chưa được giải quyết cũng không còn.
Đó thật sự là một quy tắc tốt, không chỉ cho ban giám đốc của Công ty Thép Hoa Kỳ, mà còn cho tất cả chúng ta.
Thói quen thứ tư:
Học cách tổ chức, ủy quyền và giám sát
Nhiều doanh nhân đang tự đẩy mình xuống mồ bởi họ không bao giờ học được cách giao phó trách nhiệm cho những người khác. Họ cứ tự mình lao đầu vào mọi việc để rồi bị choáng ngợp trong những chi tiết vụn vặt và sự lộn xộn, bị cuốn đi trong cảm giác vội vã, lo lắng và căng thẳng. Tôi biết thật khó để học cách giao phó trách nhiệm cho người khác. Bản thân tôi cũng thấy khó. Từ kinh nghiệm cá nhân, tôi cũng biết rằng tai họa có thể xảy ra khi ta ủy quyền nhầm người. Nhưng dù khó tới đâu thì các nhà lãnh đạo cũng phải làm, nếu muốn tránh khỏi lo âu, căng thẳng và mệt mỏi.
Các nhà lãnh đạo xây dựng nên những doanh nghiệp lớn nhưng lại không biết cách tổ chức, ủy quyền và giám sát thường bị đột tử vào tuổi 50 hoặc đầu 60 vì những vấn đề tim mạch – nảy sinh từ sự lo âu và căng thẳng. Bạn muốn có một ví dụ cụ thể ư? Hãy xem mục “Tin buồn” trên tờ báo bạn vẫn hay đọc
Một trong những nguyên nhân chính gây ra chứng mệt mỏi là sự buồn chán. Tôi xin dẫn ra đây trường hợp của một người quen sống trong khu phố nhà tôi làm ví dụ: Cô Alice là một nhân viên hành chính. Một hôm, Alice về nhà trong tình trạng hoàn toàn kiệt sức. Cô làm việc gì cũng uể oải. Cô thấy mệt mỏi, nhức đầu và đau lưng. Cô mệt đến mức không thiết tha gì đến bữa tối mà chỉ muốn lên giường ngủ ngay. Mẹ cô phải dỗ dành mãi cô mới chịu ngồi vào bàn ăn. Bỗng, chuông điện thoại reo lên. Cậu bạn trai gọi đến! Một lời mời đi khiêu vũ! Mắt cô sáng long lanh. Tinh thần cô phấn chấn hẳn lên. Cô vội vã chạy lên gác, diện bộ cánh màu xanh yêu thích nhất để đến dự buổi khiêu vũ. Ba giờ sáng, cô trở về nhà, không mảy may mệt mỏi hay kiệt sức mà thậm chí còn thấy tâm trạng lâng lâng tới mức không ngủ được.
Vậy điệu bộ mệt mỏi và uể oải trước đó 8 tiếng của Alice là thật hay giả? Chắc chắn là thật. Cô bị kiệt sức bởi quá chán ngán công việc của mình, cũng có lẽ là chán ngán cuộc sống đều đặn hàng ngày nữa. Có hàng triệu người giống Alice, và có thể bạn cũng nằm trong số đó.
Ai cũng biết rằng trạng thái cảm xúc tiêu cực có thể gây ra nhiều mệt mỏi hơn so với các hoạt động thể chất. Vài năm trước, trong quyển Archives of Psychology (Các thành tựu của Tâm lý học), Tiến sĩ Joseph E. Barmack đã công bố kết quả các thí nghiệm của mình, trong đó nêu rõ vì sao sự nhàm chán có thể sinh ra mệt mỏi. Tiến sĩ Barmack đã yêu cầu một nhóm sinh viên làm hàng loạt những bài kiểm tra mà ông biết họ chẳng mất thích thú. Kết quả những sinh viên này cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ, đau đầu, mỏi mắt và cáu bẳn. Thậm chí có người còn cảm thấy khó chịu trong dạ dày. Các triệu chứng trên có phải chỉ là do “tưởng tượng”? Không hề. Kết quả kiểm tra quá trình trao đổi chất của những sinh viên này đã xác nhận rằng khi một người thấy chán nản, huyết áp của cơ thể và hàm lượng oxy trong máu người đó thực sự giảm xuống; và ngược lại, khi chúng ta bắt đầu cảm thấy hứng khởi và vui vẻ trong công việc, toàn bộ quá trình trao đổi chất sẽ phục hồi ngay tức thì!
Hiếm khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi khi làm một việc gì đó lý thú và khiến mình say mê. Chẳng hạn, gần đây tôi có đi nghỉ ở bang Canadian Rocky bao quanh Hồ Louise. Suốt mấy ngày rong ruổi câu cá hồi dọc nhánh sống Corral, hôm nào tôi cũng phải mất 8 tiếng xoay xở giữa rừng cây bụi cao quá đầu, vấp vào những khúc gỗ xẻ và phải chật vật tìm cách vượt qua các thân cây đổ chắn ngang mà vẫn không thấy mệt. Tại sao ư? Bởi tôi thấy háo hức và hồ hởi. Tôi thấy mình như lập được kỳ công với sáu con cá hồi to nặng câu được. Nhưng giả sử tôi chán ghét việc câu cá thì bạn thử đoán xem tôi sẽ cảm thấy thế nào? Hẳn tôi sẽ mệt lử khi làm những việc đòi hỏi sức lực như thế ở độ cao hơn 2.000 mét.
Sự chán nản gây nhiều mệt mỏi hơn cả việc phải thực hiện các công việc đòi hỏi cao về sức lực. Tôi xin dẫn chứng một ví dụ mà theo tôi là điển hình nhất: câu chuyện của ông S. H. Kingman, chủ tịch Ngân hàng tiết kiệm Công – Nông Minneapolis. Tháng 7 năm 1953, Chính phủ Canada đề nghị Câu lạc bộ leo núi Alpine chọn ra một số người để huấn luyện leo núi cho đội kỵ binh Hoàng gia xứ Wales, và ông Kingman là một trong số người được chọn. Ông kể cho tôi nghe về quá trình rèn luyện mà ông và những giáo viên hướng dẫn khác – tất cả đều trong độ tuổi từ 42 đến 59 – đảm nhiệm. Họ dẫn những người lính trẻ đi bộ qua những dòng sông lên những dốc đã trơn trượt, thẳng đứng cao hơn 12 mét chỉ với dây thừng và tay không. Họ đã trèo lên đỉnh Machael, đỉnh Vice-President và nhiều đỉnh không tên khác trong thung lũng Little Yoho ở rặng Canadian Rocky. Sau 15 giờ leo núi, những người lính trẻ đã hoàn toàn kiệt sức, mặc dù trước đó họ đang trong trạng thái rất sung sức khi vừa hoàn tất một khóa đặc công kéo dài sáu tuần.
Phải chăng khóa đặc công ấy vẫn chưa thể làm các cơ bắp của họ đủ sức chiến đấu với sự mệt mỏi? Không! Nguyên nhân thực sự khiến những người lính trẻ bị kiệt sức là do họ chán ngán việc leo núi. Lúc về trại, nhiều người còn mệt đến mức ngủ gật trong khi vẫn chưa ăn uống gì. Nhưng những giáo viên hướng dẫn – những người già gấp đôi, gấp ba những người lính ấy – có bị mệt không? Có, nhưng họ không bị kiệt sức. Họ vẫn ăn tối và ngồi thức hàng giờ trò chuyện về các sự kiện diễn ra trong ngày. Họ không kiệt sức bởi họ cảm thấy thích thú với việc leo núi.
Trong các thí nghiệm về sự mệt mỏi, Tiến sĩ Edward Thorndike của Đại học Columbia đã khiến những thành niên trẻ thức liên tục gần một tuần bằng cách giữ cho họ luôn luôn trong trạng thái phấn chấn. Sau rất nhiều nghiên cứu, Bác sĩ Thorndike đi đến kết luận: “Nhàm chán là nguyên nhân duy nhất thực sự gây ra sự mệt mỏi trong công việc”.
Nếu là người làm việc trí óc, bạn sẽ hiếm khi thấy mệt mỏi vì lượng công việc mình đã làm mà thường bị mệt mỏi vì lượng công việc mình chưa làm được. Chẳng hạn, thử nhớ lại về một ngày nào đó trong tuần trước, khi mọi công việc của bạn đều bị gián đoạn. Không một lá thư được trả lời. Các cuộc hẹn đều bị hủy bỏ. Rắc rối ở khắp mọi nơi. Việc nào cũng gặp trục trặc. Bạn chẳng hoàn thành được gì, ấy vậy mà về nhà vẫn thấy cả người mệt lử đi – và đầu như muốn nổ tung ra.
Hôm sau, mọi việc ở văn phòng lại đâu vào đấy. Bạn hoàn thành được khối lượng công việc nhiều gấp 40 lần so với lượng công việc mình làm hôm trước vậy mà trông vẫn tươi tỉnh khi về đến nhà. Chắc hẳn bạn đã từng trải qua những chuyện tương tự. Và tôi cũng thế.
ôhôhHChúng ta thấy gì qua hiện tượng này? Đơn giản là: Sự mệt mỏi của chúng ta thường không bắt nguồn từ công việc mà từ sự lo lắng, nỗi chán nản và bực dọc.
Trong thời gian viết chương sách này, tôi có đi xem một buổi diễn lại vở hài kịch vui nhộn của Jerome Kern, vở Show Boat. Trong một màn chuyển tiếp giữa hai cảnh, thuyền trưởng Andy, chỉ huy con tàu Cotton Blossom, đã đưa ra một câu nói đầy tính triết lý rằng: “Những người may mắn là những người được làm những việc mình yêu thích”. Những người ấy may mắn bởi vì họ có nhiều năng lượng hơn, hạnh phúc hơn, ít lo lắng hơn và ít mệt mỏi hơn những người khác. Ở đâu có sự hứng thú, ở đó có sự sung túc. Dạo qua dãy 10 khu nhà với một bà vợ hoặc một ông chồng hay cằn nhằn sẽ mệt hơn so với đi bộ cả 15 cây số với một người tình đáng yêu.
Vậy thì chúng ta có thể làm gì? Sau đây là những gì mà một nhân viên tốc ký đã làm. Đó là nhân viên tốc ký của một công ty kinh doanh dầu hỏa ở Tulsa, Oklahoma. Tháng nào cô cũng mất vài ngày để làm một trong những công việc tẻ ngắt: Điền dữ liệu vào các hợp đồng bán dầu đã được in sẵn. Công việc nhàm chán vô cùng nhưng rốt cuộc, cô đã tìm cách tự cứu mình khỏi tình trạng chán nán bằng cách hạ quyết tâm sẽ làm cho công việc đó trở nên thú vị. Bằng cách nào ư? Hàng ngày cô tự thi với chính mình. Cuối mỗi buổi sáng, cô đếm số lượng mẫu hợp đồng mình ghi được và cố gắng làm hơn thế trong buổi chiều. Cuối ngày, cô tổng cộng số mẫu mình hoàn thành và đến hôm sau lại cố gắng làm được nhiều hơn thế. Kết quả ra sao? Chẳng bao lâu cô đã điền được nhiều đơn in sẵn hơn bất cứ nhân viên tốc ký nào khác trong phòng mình. Và toàn bộ việc này mang lại cho cô những gì? Lời cảm ơn, khen ngợi, tăng lương hay thăng chức? Không có gì cả. Nhưng nó thực sự đã giúp cô tránh được cảm giác mệt mỏi do nhàm chán. Nó đã mang đến cho cô sự động viên tinh thần rất lớn. Khi dốc sức biến một công việc vốn tẻ nhạc trở nên thú vị, cô có nhiều sức lực hơn, trở nên say mê hơn và thấy hạnh phúc hơn rất nhiều so với trước kia.
Tôi chắc chắn câu chuyện này là có thật, bởi cô nhân viên tốc lý đó chính là … vợ tôi!
Còn đây lại là câu chuyện của một nhân viên tốc ký khác, người nhận ra rằng khi hành động như thế công việc của mình rất thú vị, bạn sẽ nhận được một kết quả xứng đáng. Tên cô là Vallie G. Golden, người vùng Almhurst thuộc bang Illinois. Trước đây cô thường rất khổ sở với công việc của mình. Và đây là câu chuyện cô đã kể cho tôi trong thư:
“Công ty chúng tôi có 4 nhân viên văn thư và mỗi nhân viên được phân công giúp việc giấy tờ cho một vài sếp. Chúng tôi hầu như bận ngập đầu vì công việc. Một ngày, trợ lý của một Trưởng bộ phận cứ nhất định muốn tôi phải viết lại một bức thư dài, tôi phản đối và cố chỉ ra rằng lá thư đó chỉ cần sửa chữa chứ không cần viết lại. Anh ta lập tức đáp trả rằng, nếu tôi không làm thì sẽ có người khác làm thay! Tôi tức điên lên! Nhưng khi ngồi xuống để bắt đầu viết lại lá thư, tôi chợt nhận ra có rất nhiều người khác đang muốn được làm cái công việc mà tôi đang ghét đắng ấy. Hơn nữa, tôi được trả lương để làm công việc này. Nhận thức đó làm tôi thấy khá hơn. Rồi tôi hạ quyết tâm là mình sẽ làm việc như thể là tôi thực sự thích nó – dù trong thâm tâm tôi chẳng thích tí nào. Thế rồi, tôi phát hiện ra một điều cực kỳ quan trọng: cách nghĩ đó làm cho tôi thấy thích công việc của mình. Và khi thấy thích công việc, tôi thấy mình làm việc nhanh hơn trước. Bởi vậy, bây giờ, chẳng mấy khi tôi phải làm việc quá sức. Thái độ làm việc mới này đã giúp tôi được tiếng là một nhân viên giỏi. Và khi một trong những người quản lý công ty cần một thư ký riêng, ông đã đề nghị tôi vào vị trí ấy bởi theo lời ông nói, tôi là người luôn sẵn sàng làm việc ngoài giờ mà không kêu ca nửa lời! Quả thật, phát hiện ra sức mạnh trong việc thay đổi thái độ tinh thần có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tôi. Nó đã làm nên những điều kỳ diệu!”
Cô Golden đã làm theo triết lý sống “như thể” kỳ diệu của Giáo sư Hans Vaihinger. Ông khuyên chúng ta phải biết làm việc “như thể” chúng ta hạnh phúc – và hãy giữ thái độ đó trong nhiều việc khác nữa. Bởi khi làm việc “như thể” bạn rất yêu thích công việc của mình, dần dần bạn sẽ thấy nó trở nên thú vị thật. Hơn nữa việc đó còn giúp bạn giảm bớt mệt mỏi, căng thẳng và lo âu.
Vài năm trước, Harlan A. Howard đã đưa ra một quyết định làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời mình. Anh đã quyết tâm biến một công việc vốn nhàm chán trở nên thú vị. Mà công việc của cậu thiếu niên Harlan lúc đó đáng chán thật: rửa bát đĩa, lau dọn quầy hàng, múc kem ra đĩa cho những học sinh cùng trang lứa tại phòng ăn trưa của trường trung học, trong khi các cậu bạn khác thì mãi mê chơi bóng và chọc ghẹo các cô gái. Harlan Howard vô cùng chán ghét công việc của mình, nhưng vì không thể bỏ được nên cậu quyết định tìm hiểu về kem – chúng được làm như thế nào, gồm những thành phần gì, tại sao lại có những loại kem ngon hơn những loại khác. Thế rồi cậu trở thành học sinh xuất sắc về môn hóa, và niềm đam mê với ngành hóa học thực phẩm đã đưa cậu đến trường cao đẳng Massachusetts để học chuyên sâu về công nghệ chế biến thực phẩm. Khi công ty New York Cocoa Exchange tổ chức một cuộc thi mở cho tất cả các sinh viên đại học với giải thưởng trị giá 100 đô-la cho bài viết xuất sắc nhất về cách sử dụng cô-ca và sô-cô-la, bạn thử đoán xem ai là người giành giải thưởng đó?... Đúng thế, Đó chính là Harlan Howard.
Tốt nghiệp xong, nhận thấy xin việc thật khó nên anh đã mở một phòng thí nghiệm tư nhân tại tầng trệt nhà riêng ở Amherst, Massachusetts. Một thời gian ngắn sau đó, Chính phủ ban hành luật mới quy định sữa tươi cần phải được kiểm trùng trước khi bán ra thị trường. Chẳng bao lâu, Harlan A. Howard đã được mời đến kiểm trùng sữa cho 14 công ty sữa ở Amherst và anh phải thuê thêm hai trợ lý để phụ giúp mình.
Bạn thử đoán xem 25 năm nữa Howard sẽ như thế nào? Ồ, những người hiện nay đang điều hành kinh doanh trong lĩnh vực hóa thực phẩm rồi sẽ nghỉ hưu, nhường chỗ cho thế hệ trẻ, nhiệt tình và đầy sáng tạo. 25 năm nữa, Harlan A. Howard có thể trở thành một nhà lãnh đạo hàng đầu trong lĩnh vực của mình, trong khi các bạn học trước đây từng được anh phục vụ kem có thể sẽ chỉ là những kẻ kém cỏi, thất nghiệp, luôn miệng trách móc chính phủ và than vãn rằng cuộc đời chẳng cho họ lấy một cơ hội. Hẳn Harlan A. Howard cũng đã chẳng có một cơ hội nếu không quyết tâm biến công việc vốn nhàm chán trở nên thú vị.
Nhiều năm trước, có một thanh niên khác cũng từng chán ghét việc đứng máy tiện bu-lông tại nhà máy của mình. Tên anh là Sam. Sam muốn bỏ việc, nhưng lại sợ sẽ không tìm được việc khác. Vì dù sao vẫn phải làm công việc chán ngắt này, nên anh quyết sẽ khiến cho nó trở thành thú vị bằng cách thi đua với người thợ đứng máy đằng sau mình. Một người phải dũa mặt ngoài bu-lông cho nhẵn, còn người kia thì tiện bu-lông sao cho đường kính đúng kích thước. Thỉnh thoảng họ lại đổi máy cho nhau để xem ai tiện được nhiều bu-lông hơn. Người quản đốc rất ấn tượng trước khả năng làm việc nhanh và chính xác của Sam nên chẳng bao lâu đã giao cho anh một công việc khá hơn. Đó là sự khởi đầu trong chuỗi các thăng tiến sau này của Sam. Ba mươi năm sau, Sam – Samuel Vauclain – trở thành chủ tịch của Công ty dầu máy xe lửa Baldwin. Hẳn ông vẫn chỉ là một thợ cơ khí quèn nếu ngày xưa không quyết tâm tìm sự thú vị trong công việc buồn chán của mình.
H.V Kaltenborn – nhà bình luận tin tức nổi tiếng trên sóng phát thanh – có lần kể cho tôi nghe chuyện ông đã biến một công việc tẻ nhạt trở thành thú vị như thế nào. Hồi 22 tuổi, để vượt Đại Tây Dương, ông đã nhận làm công việc cho bò ăn và uống nước trên một chiếc tàu chở gia súc trên cùng tuyến đường. Khi đến Châu Âu, ông đạp xe một vòng xuyên nước Anh đến Pháp trong tình trạng mệt lả và đói khát. Ông đành đem cầm cố chiếc máy chụp hình của mình lấy 5 đô-la rồi dùng số tiền này đăng quảng cáo tìm việc trên tờ The New York Herald xuất bản tại Pháp. Sau đó, ông nhận được công việc bán kính nhìn nổi. Tôi vẫn còn nhớ những chiếc kính nhìn nổi cổ lỗ hồi ấy. Chúng tôi vẫn thường đưa hai bức tranh giống hệt nhau ra trước kính rồi nhìn vào trong đó để thấy điều kỳ diệu xảy ra. Hệ thấu kính sẽ tạo ra hiệu ứng không gian ba chiều và hai hình ảnh sẽ biến thành một, ta có cảm giác như nhìn thấy chiều sâu của khối hình ảnh đó.
Kaltenborn bắt đầu đi đến từng nhà ở Paris để bán kính, dù ông không nói được tiếng Pháp. Tuy vậy, ngay trong năm đầu tiên ông vẫn kiếm được 5.000 đô-la tiền hoa hồng và trở thành một trong những nhân viên bán hàng được trả thù lao cao nhất tại Pháp năm đó. H. V. Kaltenborn nói với tôi rằng kinh nghiệm từ việc bán hàng đã cho ông nhiều phẩm chất để tiến đến thành công, không thua gì việc học ở Đại học Harvard. Quan trọng nhất là sự tự tin. Ông khẳng định rằng công việc bán kính đã cho ông kinh nghiệm và sự tự tin đến mức ông có cảm tưởng mình có thể bán được cả tờ Biên bản Quốc hội cho những bà nội trợ Pháp!
Việc gõ cửa từng gia đình để bán hàng đã cho ông những hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của người Pháp, và chính vốn kiến thức vô giá ấy sau này đã hỗ trợ ông rất nhiều trong việc phân tích và bình luận các sự kiện của Châu Âu trên sóng phát thanh. Kaltenborn làm cách nào để trở thành một chuyên gia bán hàng trong khi bản thân ông không hề nói được tiếng Pháp? Ông đã nghĩ ra cách nhờ sếp của mình viết hộ ra giấy một bài chào hàng bằng tiếng Pháp chuẩn, rồi cố học thuộc lòng. Khi một bà nội trợ bước ra mở cửa, Kaltenborn liền tuôn ra bài chào hàng đã học thuộc với một kiểu phát âm tệ hại đến mức ai cũng phì cười. Rồi vừa nói, Kaltenborn vừa cho các bà nội trợ xem những hình ảnh trong kính nhìn nổi, và khi họ hỏi lại một câu gì đó, ông sẽ chỉ nhún vai và nói: “Người Mỹ …. Người Mỹ ….”. Sau đó, ông ngả mũ xuống và chỉ vào tờ giấy chào hàng đã viết sẵn bằng tiếng Pháp mà ông đã dán ở bên trong. Những bà nội trợ sẽ bật cười, và ông cũng vừa cười vừa cho họ xem thêm nhiều hình ảnh nữa. Khi kể với tôi chuyện này, H.V. Kaltenborn thú thực rằng công việc ấy chẳng dễ dàng chút nào và chỉ có một động lực duy nhất khiến ông theo đuổi đến cùng đó là: quyết tâm làm cho công việc trở nên thú vị. Mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông lại nhìn vào gương và tự lên dây cót tinh thần cho mình: “Này Kaltenborn, nếu muốn có cái ăn, mình phải làm công việc này. Đằng nào cũng phải làm, vậy sao không làm thật vui vẻ? Sao không tưởng tượng mình là một diễn viên đang biểu diễn trên sân khấu mỗi lần gõ cửa nhà khách hàng? Suy cho cùng, những gì mình đang làm cũng ngộ nghĩnh hệt như một màn biểu diễn trên sân khấu. Vậy sao mình không làm việc bằng tất cả sự phấn khởi và nhiệt tình?”
Ông Kaltenborn tâm sự rằng việc ngày nào cũng tự lên dây cót tinh thần đã biến công việc mà ông từng khiếp sợ và ghét cay ghét đắng trở thành một cuộc thử sức đầy lý thú và còn mang lại cho ông một khoản thù lao lớn.
Khi tôi hỏi ông liệu có muốn đưa ra lời khuyên nào cho những bạn trẻ vốn đang háo hức được thành công, ông trả lời: “Lời khuyên của tôi chỉ là mỗi sáng hãy tự đấu tranh tư tưởng với chính mình. Ai cũng nói rằng những bài tập thể dục có tác dụng rất lớn trong công việc giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng ngái ngủ. Những cái chúng ta cần làm nhiều hơn nữa chính là những bài tập tinh thần vào mỗi buổi sáng để được tỉnh táo hoàn toàn và bắt tay vào công việc. Hãy tự nói chuyện để lên dây cót tinh thần cho mình vào mỗi buổi sáng”.
Liệu đó có phải là một việc làm ngốc nghếch, vớ vẩn và trẻ con không? Trái lại, nó là một việc làm cần thiết xét dưới góc độ tâm lý. Ta nghĩ thế nào thì cuộc sống của ta sẽ như thế ấy”, câu nói này vẫn giữ nguyên giá trị suốt 18 thế kỷ qua, kể từ lần đầu tiên được Marelius viết ra trong tác phẩm Meditations (Những suy tưởng).
Qua việc tự nói chuyện với mình mỗi ngày, bản thân bạn sẽ được định hướng bằng những suy nghĩ tích cực, hạnh phúc, mạnh mẽ và thanh thản. Khi nhắc nhở mình phải biết ơn những thứ đã có, bạn có thể khiến tâm hồn mình luôn tràn ngập trong những xúc cảm bay bổng và vui tươi.
Với những suy nghĩ đúng đắn, hợp lý, bạn có thể làm cho mọi việc trở nên dễ chịu hơn. Ông chủ nào chẳng muốn bạn say mê với công việc để làm giàu thêm cho ông ta. Nhưng đừng bận tâm đến việc sếp của bạn muốn gì, hãy chỉ nghĩ đến sự hứng thú mà công việc đem lại cho bạn. Hãy tự nhắc bản thân rằng niềm say mê công việc sẽ giúp nhân đôi hạnh phúc trong cuộc đời bạn, bởi bạn dành gần như một nửa cuộc đời để làm việc. Hãy luôn nhắc nhở mình rằng hứng thú với công việc sẽ khiến đầu óc bạn được thảnh thơi và về lâu dài, nó còn giúp bạn thăng tiến và được tăng lương. Ngay cả khi không làm được như thế, thì nó cũng làm giảm tối đa sự mệt mỏi của bạn và giúp bạn có được những giờ phút thư giãn.
Cách tốt nhất để xua tan nỗi buồn chán, tìm thấy niềm vui và sự thú vị trong công việc là áp dụng Nguyên tắc 5:
NHIỆT TÌNH VỚI CÔNG VIỆC
Nếu bị mất ngủ, bạn có lo lắng không? Vậy, có thể bạn sẽ quan tâm đến câu chuyện của Samuel Untermyer – một luật sư nổi tiếng thế giới – người chưa bao giờ có được một giấc ngủ trọn vẹn trong đời.
Hồi học đại học, Sam Untermyer cũng ngày đêm lo lắng về hai chứng bệnh không cách nào chữa trị được – bệnh hen suyễn và chứng mất ngủ. Vì thế, ông đã quyết định làm điều tốt nhất trong hoàn cảnh của mình – tận dụng hết thời gian bị mất ngủ. Thay vì nằm trằn trọc và lo lắng đến suy sụp, Untermyer ngồi dậy học bài. Kết quả ra sao? Ông dần dần khiến tất cả bạn bè trong lớp nể phục và trở thành một trong những sinh viên xuất sắc nhất Đại học New York.
Sau khi đã trở thành luật sư, chứng mất ngủ của ông vẫn không hề thuyên giảm. Nhưng điều đó không làm Untermyer mảy may lo lắng. Ông nói: “Tự nhiên sẽ lo cho tôi”. Và đúng như thế thật. Mặc dù thời gian ngủ rất ít ỏi, nhưng ông vẫn giữ được sức khỏe tốt và khả năng làm việc của ông cũng chẳng thua kém bất cứ một luật sư trẻ nào trong Hội Luật sư New York. Thậm chí Untermyer còn chăm chỉ hơn vì ông vẫn làm việc trong khi họ ngủ!
Ở tuổi 21, Sam Untermyer đã kiếm được 75.000 đôla một năm; và những luật sư trẻ khác đều đổ xô đến các phiên tòa có ông tranh tụng để học hỏi trong một vụ xử, ông nhận được số tiền thù lao kỷ lục, có lẽ là mức cao nhất dành cho một luật sư thời bấy giờ: một triệu đôla trả bằng tiền mặt.
Ông vẫn bị mất ngủ - ngày nào cũng đọc sách tới nửa đêm để rồi sau đó dậy vào lúc 5 giờ và bắt đầu trả lời thư. Lúc mọi người bắt đầu làm việc, ông đã hoàn thành được một nửa công việc trong ngày của mình. Và người đàn ông chẳng mấy khi có được một giấc ngủ trọn vẹn này đã sống thọ tới 81 tuổi. Nhưng nếu lúc nào cũng cáu bẳn và lo lắng vì mất ngủ, hẳn ông đã tự hủy hoại sức khỏe của mình từ lâu rồi.
Chúng ta dành 1/3 cuộc đời để ngủ, nhưng mấy ai thực sự hiểu bản chất của giấc ngủ là gì. Chúng ta chỉ biết đó là một thói quen – và trong trạng thái nghỉ ngơi này sẽ diễn ra quá trình tự phục hồi cơ thể - chứ không biết rằng mỗi người cần ngủ bao nhiêu thời gian là hợp lý. Thậm chí chúng ta còn không biết mình có cần phải ngủ hay không.
Nghe có vẻ kỳ quặc? Thì đây, trong Thế chiến thứ nhất có một người lính Hungari tên Paul Kern từng bị thương ở thùy não trước. Sau khi bình phục, điều kỳ lạ là Paul Kern đã mất khả năng ngủ. Các bác sĩ dùng mọi biện pháp – kể cả thuốc giảm đau, thuốc ngủ, thậm chí cả thuật thôi miên – nhưng cũng chẳng khiến ông ngủ được, dầu chỉ trong vài phút.
Các bác sĩ nói Kern sẽ không sống được lâu, nhưng ông đã chứng minh rằng đó chỉ là lời sự đoán tầm phào. Ông vẫn làm việc như thường và sống khỏe mạnh suốt nhiều năm sau đó. Khi mọi người đều ngủ, ông chỉ nằm xuống, nhắm mắt và nghỉ ngơi chứ không hề ngủ. Trường hợp của ông được xem là một hiện tượng kỳ lạ trong y học, một hiện tượng đã làm đảo lộn rất nhiều quan niệm của chúng ta về giấc ngủ.
Tùy cơ thể, có người cần thời gian ngủ nhiều hơn những người khác. Toscanini chỉ cần ngủ 5 tiếng mỗi đêm, nhưng Calvin Coolidge phải ngủ gấp đôi thời gian đó, 11 tiếng mỗi ngày. Nói cách khác, Toscanini chỉ dành 1/5 cuộc đời để ngủ trong khi Coolidge dành tới gần nửa cuộc đời cho việc ngủ.
Những lo lắng về chứng mất ngủ còn khiến bạn bị tổn thương hơn cả những gì mà căn bệnh này thực sự đem lại. Chẳng hạn như trường hợp của một sinh viên của tôi – Ira Sandner, người vùng Ridgefield Pard, thành phố New Jersey – đã suýt tự tử vì mắc chứng mất ngủ kinh niên. Ira Sandner kể lại:
“Tôi thực sự nghĩ rằng mình sắp phát điên. Vấn đề ở chỗ ban đầu tôi thường ngủ quá say đến nỗi đồng hồ báo thức reo mà tôi vẫn không dậy được. Hậu quả là sáng nào tôi cũng đi làm muộn. Tôi rất lo lắng về điều đó, và thực tế thì sếp tôi đã gay gắt yêu cầu tôi phải đên đúng giờ. Tôi hiểu rằng nếu tiếp tục ngủ quá giờ thì tôi sẽ mất việc.
Tôi đem chuyện này kể với các bạn mình, và một người đã khuyên tôi trước khi ngủ hãy tập trung cao độ vào cái đồng hồ báo thức. Chứng mất ngủ bắt đầu từ đó! Tiếng tích – tích – tích của cái đồng hồ báo thức đáng nguyền rủa bỗng trở thành nỗi ám ảnh của tôi. Nó khiến tôi không sao ngủ được, cứ nằm trằn trọc suốt đêm! Sáng ra, tôi gần như phát bệnh vì mệt mỏi và lo lắng. Việc này tiếp diễn suốt 8 tuần sau đó. Không từ nào diễn tả hết nỗi khổ sở mà tôi phải chịu đựng. Tôi tin chắc mình sẽ phát điên. Đôi khi tôi đi tới đi lui trong phòng hàng giờ liền, và có lúc, thực sự tôi đã nghĩ đến chuyện nhảy qua cửa sổ để kết thúc mọi chuyện!
Cuối cùng tôi đến gặp một bác sĩ quen biết. Ông nói: “Ira này, bác không thể giúp cháu được. Không ai có thể giúp cháu, bởi chính cháu là người tự tạo ra việc này. Đến đêm, hãy lên giường và nếu không ngủ được cũng đừng lo lắng làm gì. Chỉ cần tự nhủ rằng: “Nếu không ngủ được thì thôi, mình cũng chẳng cần. Mình vẫn ổn cho dù có nằm thức đến sáng”. Cứ nhắm mắt vào và nói: “Chỉ cần nằm yên và không nghĩ gì đến chuyện mất ngủ, mình sẽ được nghỉ ngơi”.
Tôi làm theo lời ông và sau hai tuần, tôi bắt đầu ngủ được! Chưa đầy một tháng sau, tôi đã ngủ được 8 tiếng, và các dây thần kinh của tôi đã trở lại trạng thái bình thường”.
Không phải chứng mất ngủ mà chính là sự lo lắng về nó đã suýt giết chết Ira Sandner.
Tiến sĩ Nathaniel Kleitman, giáo sư của Đại học Chicago – một chuyên gia có nhiều công trình nghiên cứu về giấc ngủ nhất trên thế giới – đã khẳng định ông chưa từng thấy người nào bị chết vì chứng mất ngủ. Nhưng có một điều chắc chắn rằng khi quá lo lắng về chứng mất ngủ của mình, người ta sẽ bị kiệt quệ sức lực và đổ bệnh. Chính việc lo lắng về chứng mất ngủ là thủ phạm hủy hoại sức khỏe chứ không phải bản thân chứng mất ngủ.
Tiến sĩ Kleitman còn nói rằng thực sự những người hay lo lắng vì bị mất ngủ còn ngủ nhiều hơn họ tưởng. Có người đã thề rằng: “Đêm qua, tôi không hề chợp mắt”. Nhưng thực ra, có lẽ đêm qua anh ta đã ngủ hàng tiếng đồng hồ mà không hề hay biết. Điển hình là trường hợp của Hernert Spencer, một trong những nhà suy tưởng hàng đầu thế kỷ 19 đồng thời cũng là một học giả danh tiếng. Ông sống trong một khu nhà tập thể và thường làm mọi người ngán ngẩm vì những lời phàn nàn về chứng mất ngủ của mình. Đôi lúc, ông đã dùng cả thuốc phiện để có thể ngủ được. Một đêm, ông cùng Giáo sư Sayce của Đại học Oxford ngủ chung phòng trong một khác sạn. Sáng hôm sau, Spencer kêu ca rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt trong khi thực tế, chính Giáo sư Sayce mới là người không ngủ được. Suốt đêm, ông không chợp mắt được vì tiếng ngáy của Spencer!
Để có một đêm ngon giấc thì yêu cầu đầu tiên là chúng ta phải có được cảm giác an toàn. Hãy tin rằng có một quyền lực nào đó sẽ che chở ta cho đến tận sáng ngày mai. Tiến sĩ Thomas Hyslop thuộc viện cứu tế Creat West Riding đã nhấn mạnh điều đó trong một bài phát biểu trước Hiệp hội Y Khoa Anh. Ông nói: “Sau nhiều năm nghiên cứu, tôi đã phát hiện ra một trong những tác nhân có thể khiến bạn dễ ngủ nhất – đó là cầu nguyện. Tôi nói điều này hoàn toàn trên cương vị của một người nghiên cứu y học”.
Jeanette MacDonald đã kể cho tôi nghe rằng khi chán nãn, lo lắng hay khó ngủ, bà luôn tìm cách lấy lại cảm giác yên tâm bằng việc đọc lại Chương XXIII của Kinh Thánh: “Chúa Trời là đấng chăn dắt của con; con sẽ không đòi hỏi. Người đưa con nằm xuống một thảm cỏ xanh mướt; Người dẫn con đến bên dòng nước mát lành…”.
Nếu bạn không có một tín đồ và phải làm việc vất vả, hãy học cách thư giãn bằng biện pháp thể chất. Tiến sĩ David Harold Fink, tác giả cuốn Release from Nervous Tension (Thoát khỏi căng thẳng thần kinh) đã chỉ rằng cách tốt nhất để thư giãn là nói chuyện với cơ thể của mình. Theo ông, ngôn ngữ là chìa khóa đến với giấc ngủ; và nếu bạn bị mất ngủ thì nguyên nhân là do chính bạn đã tự ám ảnh rằng mình sẽ không ngủ được. Giải pháp trong trường hợp này là bạn hãy tự thôi miên chính mình, hãy thuyết phục cơ thể: “Nào, hãy thả lỏng và thư giãn…”. Chúng ta đều biết rằng tinh thần và các dây thần kinh không thể thư giãn nổi nếu các cơ bắp vẫn đang căng lên – vậy nếu muốn ngủ được, chúng ta phải bắt đầu bằng việc thư giãn cơ bắp. Tiến sĩ Fink khuyên rằng nên đặt một chiếc đệm dưới gối để giảm độ căng thẳng của cơ chân, và kê tay lên một cái gối nhỏ cùng mới mục đích tương tự. Hiệu quả của việc này đã được kiểm nghiệm trong thực tế. Sau đó, bằng việc ngầm truyền lệnh thư giãn đến quai hàm, mắt, chân và tay, cuối cùng chúng ta sẽ đi vào giấc ngủ trước khi kịp nhận thức được quá trình ấy. Tôi đã thử rồi, và tôi thấy đúng như thế.
Một trong những cách tốt nhất giúp chữa trị chứng mất ngủ là khiến cơ thể bạn mệt lử bằng những hoạt động thể chất như làm vườn, bơi lội, chơi tennis, chơi golf, trượt tuyết hay đơn giản là những việc khiến bạn phải hao tốn sức lực. Đó chính là những gì Theodore Dreiser đã làm. Khi còn là một nhà văn trẻ sống chật vật, ông thường hay lo lắng về chứng mất ngủ của mình nên đã nhận một công việc chân tay tại Trung tâm đường sắt New York; và sau một ngày vặn những con ốc trên đường ray và xúc sỏi bằng xẻng, ông đã quá mệt đến nỗi không thức nổi để chờ bữa tối.
Nếu chúng ta đang mệt, cơ thể sẽ tự bắt ta phải ngủ, ngay cả khi ta đang bước đi. Đó chính là trường hợp của tôi. Hồi tôi 13 tuổi, cha tôi có lần cho tôi cùng theo ông đưa lợn đã vỗ béo đến bán ở Saint Joe, Missouri. Ngày đó, tôi chưa từng đến một thị trấn nào có hơn 4.000 người, nên khi đặt chân đến Saint Joe – một thành phố với 60.000 dân – tôi đã rất háo hức. Lần đầu tiên tôi thấy những tòa nhà 6 tầng cao chọc trời – và điều kỳ diệu nhất trong số những điều lạ lẫm ở thành phố là chiếc xe điện. Bây giờ nhắm mắt lại, tôi vẫn có thể hình dung được chiếc xe ấy với những âm thanh leng keng của nó. Sau một ngày sôi động và kỳ thú nhất đời mình ở thành phố, tôi theo cha bắt tàu ngay về Avenwood, Missouri. Đến ga đã là 3 giờ sáng, chúng tôi phải cuốc bộ thêm gần 7 cây số mới về được trang trại. Và đây là điều đáng nói: Tôi quá mệt đến nỗi vừa bước đi vừa ngủ, mà lại còn có thể mơ được giấc ngủ đó.
Khi hoàn toàn kiệt sức, con người vẫn có thể ngủ được ngay giữa trời sấm sét đùng đùng hay giữa bom đạn hiểm nguy của chiến tranh. Tiến sĩ Foster Kennedy, nhà thần kinh học nổi tiếng, kể với tôi rằng suốt thời gian quân đội Anh rút quân vào năm 1918, ông đã chứng kiến rất nhiều người lính kiệt sức đến nỗi nằm ngay trên đất và ngủ say như chết. Thậm chí ngay cả khi bị ông dùng tay nâng mí mắt lên, họ vẫn ngủ như thường. Ông nói mình còn để ý thấy rằng con người của những người này luôn hướng lên trên và không hề động đậy. Ông nói: “Từ từ, cứ mỗi lần khó ngủ, tôi lại ngước con người lên, và tôi đã nhận ra rằng sau vài giây, tôi bắt đầu ngáp và buồn ngủ. Đó là một phản ứng tự nhiên mà tôi không thể điều khiển được”.
Chưa và cũng chẳng có ai tự tử bằng cách nhịn ngủ cả. Khi buồn ngủ là tự nhiên phải ngủ, dù ý chí của chúng ta có mạnh đến đâu. Chúng ta có thể nhịn ăn, nhịn uống lâu hơn là nhịn ngủ.
Nhân nói chuyện tự tử, tôi chợt nhớ tới một trường hợp mà bác sĩ Henry C.Link từng miêu tả trong cuốn sách có tên The Rediscovery of Man (Tái Khám phá Con người) của ông. Bác sĩ Link là phó chủ tịch Hiệp hội Tâm lý học, từng tiếp xúc với rất nhiều người đang trong tâm trạng lo lắng và chán nản. Trong chương “Vượt qua Nỗi sợ hãi và lo lắng”, ông kể về việc điều trị cho một bệnh nhân khăng khăng đòi tự tử. Nhận thấy việc tranh cãi chỉ làm vấn đề tệ hơn nên bác sĩ Link đã nói với người này: “Nếu anh cứ muốn tự tử, ít nhất hãy làm việc đó một cách anh hùng. Hãy chạy quanh khu nhà cho đến khi đứt hơi mà chết”.
Bệnh nhân này đã làm theo, không phải một mà nhiều lần, và lần nào cũng cảm thấy tinh thần khá hơn; nếu không thì cơ bắp cũng dễ chịu hơn. Đến đêm thứ ba, đúng như dự định ban đầu của bác sĩ Link – anh ta quá kiệt sức) và cơ thể cũng được thư giãn) đến nỗi lăn ra ngủ say như chết. Sau đó, anh ta tham gia một câu lạc bộ thể hình và bắt đầu thi đấu thể thao. Chẳng bao lâu, anh ta đã cảm thấy rất thoải mái và cứ muốn sống mãi!
Vậy, để không còn phải lo lắng về chứng mất ngủ, bạn hãy làm theo 5 quy tắc sau:
1. Nếu không ngủ được, hãy học theo Samuel Untermyer: Ngồi dậy và làm việc hay đọc sách cho đến khi cảm thấy buồn ngủ.
2. Nhớ rằng chưa co ai chết vì thiếu ngủ. Lo lắng về chứng mất ngủ thường gây ra những hậu quả còn tệ hại hơn bản thân căn bệnh này.
3. Thử cầu nguyện – hay đọc chương XXIII của Kinh thánh, giống như Jeanette MacDonald đã làm.
4. Thả lỏng cơ thể.
5. Tập thể dục. Hãy làm cho cơ thể bạn mệt đến mức không thể thức được nữa.
Để không phải khổ sở vì căn bệnh mất ngủ, hãy nhớ Nguyên tắc 6:
KHÔNG NÊN LO LẮNG VỀ SỰ MẤT NGỦ. CHÍNH SỰ LO LẮNG VỀ CHỨNG MẤT NGỦ MỚI HỦY HOẠI SỨC KHỎE CỦA BẠN – CHỨ KHÔNG PHẢI CHỨNG MẤT NGỦ.
---//---
TÓM TẮT PHẦN SÁU
6 CÁCH TRÁNH MỆT MỎI VÀ LO LẮNG, ĐỒNG THỜI NÂNG CAO TINH THẦN VÀ SỨC LỰC.
NGUYÊN TẮC 1
Nghỉ ngơi trước khi bị mệt
NGUYÊN TẮC 2
Học cách thư giãn khi đang làm việc
NGUYÊN TẮC 3
Học cách thư giãn khi ở nhà.
NGUYÊN TẮC 4
Áp dụng bốn thói quen trong lúc làm việc
1. Dọn sạch tất cả giấy tờ trên bàn, trừ những thứ liên quan đến vấn đề đang giải quyết.
2. Xử lý mọi việc theo thứ tự quan trọng.
3. Khi gặp vấn đề nảy sinh, hãy giải quyết luôn nếu thấy có đầy đủ các yếu tố cần thiết để đưa ra quyết định.
4. Học cách tổ chức, ủy quyền và giám sát công việc
NGUYÊN TẮC 5
Nhiệt tình với công việc
NGUYÊN TẮC 6
Không nên lo lắng về sự mất ngủ. Chính sự lo lắng về chứng mất ngủ mới hủy hoại sức khỏe của bạn – chứ không phải chứng mất ngủ.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip