Xuân Trường An (2)

Từ "vũ trụ" mà Không Hải thường nhắc đến đã có từ thời kỳ này. Cả "vũ" và "trụ" đều là nhũng từ dùng để chỉ một vật che chở khổng lồ, nói cách khác là mái nhà. Ngoài ra, trong sách Thi tử thời Chiến quốc có viết: "Bốn phương trên dưới là vũ, từ xưa đến nay là trụ."

"Bốn phương trên dưới", tức là không gian vậy. "Từ xưa đến nay" là nói đến quá khứ, hiện tại, tương lai, tức là thời gian vậy.

Quan niệm coi vũ trụ, mà theo cách nói ngày nay là không-thời gian, đã xuất hiện ở Trung Quốc cổ đại, sớm hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.

"Đi cùng cậu, tớ bắt đầu có cảm giác như ở đâu cũng giống nhau vậy." Dật Thế nói.

"Ở đâu là ở đâu?"

"Ở Oa quốc cũng thế mà ở Đường quốc này cũng vậy."

"Thế hả."

"Nhưng dù như nhau hay thế nào đi chăng nữa, thì chắc hẳn là ông ấy đã rất mong được quay trở về, Không Hải nhỉ."

"Cậu đang nói đến hòa thượng Vĩnh Trung đấy à?"

"Phải rồi." Dật Thế đáp.

Không Hải và Dật Thế đang trên đường trở về từ Tây Minh Tự.

Mùng chín tháng Hai.

Mai là ngày mà sứ đoàn do Đằng Nguyên Cát Dã Ma Lữ dẫn đầu sẽ rời Trường An để về Nhật Bản. Theo dự định thì lẽ ra sứ đoàn đã xuất phát trước đó ít lâu, nhưng vì có sự tình, nên việc khởi hành bị chậm lại.

Sự tình ở đây là nói đến cái chết của đương kim hoàng đế Đức Tông. Đức Tông băng vào ngày Quý Tị tháng Chạp năm Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt, tức ngày hai mươi ba tháng Một, thọ sáu mươi tư tuổi. Ba ngày sau, thái tử Lý Tụng khi ấy bốn mươi lăm tuổi lên ngôi. Tuy nhiên, tân hoàng đế vì bị đột quỵ từ tháng Tám năm ngoái, nên bị liệt, không nói năng gì được.

Sau khi bọn Không Hải đến Trường An năm ngoái, đã làm lễ yết kiến vào ngày hai mươi lăm tháng Mười hai. Lúc ấy, cả Không Hải lẫn Dật Thế đều đã tận mắt nhìn thấy hai cha con họ, những kẻ bất hạnh.

Lễ yết kiến là để dành cho đoàn Khiển Đường sứ Nhật Bản và sứ đoàn Nam Chiếu, Thổ Phồn đến Trường An cùng một thời điểm, tuy nhiên cơ thể Đức Tông khi đó chỉ nhìn qua cũng biết là đã lâm bạo bệnh.

Thái tử lúc ấy ở trong tình trạng nếu không có ngưòi dìu thì không thể đi lại được. Ông ta cũng không nói câu nào.

Cát Dã Ma Lữ cũng đã vài lần nhắc đến chuyện hoàng đế Đức Tông chẳng bao lâu nữa sẽ chết vì bệnh, nhưng có vẻ không nghĩ rằng chuyện đó lại xảy ra ngay khi mình còn ở Đường. Vậy mà nó đã xảy ra.

Trong hoàn cảnh ấy, cho dù là sứ giả ngoại bang thì cũng phải để trở. Cát Dã Ma Lữ mặc mũ áo thô để tỏ lòng thương tiếc trước cái chết của hoàng đế Đức Tông, đứng chống gậy ở Thừa Thiên Môn. Không Hải cũng có mặt trong hàng người đó.

Vì chuyện này mà ngày khởi hành phải rời lại đến mùng mười tháng Hai. Tức là ngày mai. Sau khi đoàn Khiển Đường sứ về nước, Không Hải và Dật Thế, những người còn lưu lại, sẽ không thể ở mãi tại Hồng Lô khách quán nằm trong Tuyên Dương Phường, vốn là nơi nghỉ chân của sứ đoàn.

Lưu học tăng Không Hải sẽ phải chuyển đến Tây Minh Tự thuộc Diên Khang Phường, đây là nơi lưu trú chính thức do triều đình nhà Đường sắp xếp.

Chỉ còn hôm nay nữa là sứ đoàn khởi hành, Không Hải cùng với Dật Thế gói ghém đồ đạc, rồi mướn người chở bằng xe ngựa đến Tây Minh Tự. Dật Thế vẫn chưa được sắp xếp nơi ở, nên sẽ tá túc ít lâu ở chỗ Không Hải.

Tuyên Dương Phường, nơi bọn Không Hải lưu trú trong quãng thòi gian vừa rồi, nằm ở phía Đông con phố chính chia Trường An thành hai nửa Đông-Tây là phố Chu Tước, tức là về mạn phố Đông. Còn Diên Khang Phường nơi có Tây Minh Tự thì nằm ở phía Tây, tức là về mạn phố Tây. Hai nơi cách nhau chừng một dặm ba, tức gần một cây số. Sau khi hạ hành lý và cho xe ngựa về trước, Không Hải cùng Dật Thế quyết định đi bộ về Tuyên Dương Phường.

Cuộc nói chuyện về vũ trụ, về Mạn Đà La, diễn ra trên quãng đường ấy. Và Dật Thế hình như vừa nhớ đến việc của Vĩnh Trung.

Vĩnh Trung... một nhà sư Nhật Bản vượt biển sang Đường ba mươi năm trước. Thời ấy còn chưa có thuyền chuyên chở Khiển Đường sứ nên Vĩnh Trung đã phải vượt biển trên một thuyền buôn. Hơn nữa, không phải năm nào cũng có thuyền chở Khiển Đường sứ qua lại. Kỳ thực, đoàn thuyền chở bọn Không Hải là chuyến đầu tiên sau hai mươi tư, hai mươi lăm năm gián đoạn.

Nơi mà Vĩnh Trung, người lưu học tăng ấy sinh sống trong suốt ba mươi năm ở Trường An này chính là Tây Minh Tự. Và căn phòng mà Không Hải dọn tới, cũng chính là nơi trú ngụ của Vĩnh Trung trong ba mươi năm qua.

Cách đây ít lâu, Vĩnh Trung có đến đón Không Hải và Dật Thế rồi dẫn đi thăm khắp một lượt Tây Minh Tự.

Đây là lần thứ hai Dật Thế gặp Vĩnh Trung, còn Không Hải thì đã nhiều lần tới thăm Vĩnh Trung ở Tây Minh Tự.

Sau khi dẫn Không Hải, người chủ mới, vào căn phòng đã dọn dẹp sạch sẽ, Vĩnh Trung nhìn lại nơi mình từng sống suốt ba mươi năm, bùi ngùi nói: "Ba mươi năm thật là dài..."

Kể về ba mươi năm trước, khi ấy triều đình Nhật Bản vẫn còn đang ở Nara và Không Hải vừa mới chào đời. Người báo cho Vĩnh Trung biết kinh đô đã dời về Hei'an chính là Không Hải.

Mùi cơ thể Vĩnh Trung dường như đã thấm vào từng ngóc ngách căn phòng.

"Giờ đây người quen của ta ở đây đã nhiều hơn hẳn ở Nhật Bản, vả lại ta cũng hiểu rõ tính khí của họ. Chỉ có điều..."

Vĩnh Trung ngừng lời, ngắm nghía căn phòng với ánh mắt tràn đầy yêu thương.

"Chỉ có điều, ta vẫn muốn về đất nước ấy."

"Nhất định thầy sẽ về được. Trước hè năm nay là thầy có thể đặt chân lên đất Nhật rồi."

Nghe Không Hải nói vậy, Vĩnh Trung đưa tay chặm nơi khóe mắt.

"Ta cảm thấy một nửa của ba mươi năm ấy là quãng thời gian vô ích. Nếu là bây giờ, ta nghĩ chỉ cần mười lăm năm là ta có thể thu lượm được những thứ ta đang có để mang về Nhật Bản." Nói đoạn, Vĩnh Trung nhìn Không Hải, "Cậu bảo sang đây để học Mật đúng không nhỉ?"

"Đúng thế ạ."

"Nếu học Mật, thì có lẽ không ai hơn hòa thượng Huệ Quả ở Thanh Long Tự." Vĩnh Trung nói.

"Tôi cũng nghe nhiều người nói vậy."

"Họ nói đúng đấy, nhưng mà..." Như để nhấn mạnh một điều gì quan trọng, Vĩnh Trung đưa mắt sang Không Hải. "Ở đất nước này, nếu được mời đến thay vì tự mình tìm đến, mọi chuyện sẽ tiến triển nhanh hơn rất nhiều. Kể cả là học Mật cũng vậy. Giả sử cậu có được thư tiến cử của ai đó mà đem đến và dẫu có gặp được hòa thượng Huệ Quả, thì trong ba năm đầu cậu vẫn chỉ làm chân sai vặt mà thôi. Sang năm thứ ba cậu mới được gọi lên cho tụng một hai bài kinh, và rồi sẽ phải mất thêm mười đến mười lăm năm nữa mới được ban quán đỉnh."

Tiếng Phạn là abhiseka, tức là nghi thức nhập môn trong Mật giáo.

"Dạ."

"Cậu bảo định ở lại đây hai mươi năm, nhưng nếu được hòa thượng Huệ Quả gọi đến thì, tất nhiên còn tùy thuộc khả năng của cậu, chắc chỉ năm đến bảy năm là xong thôi."

"Vậy mà có người nói rằng sẽ học xong trong vòng một năm."

"Ồ!"

"Một tăng sinh tên là Tối Trừng."

"Ra vậy. Ta từng nghe nói rằng trong đoàn Khiển Đường sứ lần này có một tăng sinh không đến Trường An mà tới thẳng Thiên Thai, hình như đúng là cái tên đó..."

"Đúng vậy đấy ạ."

"Nhưng một năm thì lại gấp gáp quá."

"Nếu là lái buôn đến để mua kinh sách, thì một năm cũng là khoảng thời gian khả dĩ chấp nhận ạ."

"Thật là một ý kiến nghiêm khắc. Thế còn cậu thì sao?"

"Nếu Tối Trừng là lái buôn, thì tôi sẽ là kẻ cắp."

"Cậu nói hay lắm."

"Tôi nghe nói ở Tây Minh Tự này có người có mối thâm giao với Thanh Long Tự của hòa thượng Huệ Quả..."

"Ái chà chà, cậu còn biết đến thế cơ à. Vậy thì có lẽ là nói đến Chí Minh và Đàm Thắng rồi. Hôm nay bọn họ đều có ở chùa, để tôi giới thiệu cậu nhé."

"Dạ chưa ạ. Chưa đến lúc đó. Chỉ cần thầy nói lại với họ rằng hình như có một nhà sư tên là Không Hải từ Nhật Bản sang muốn trộm Mật đem về, như vậy là đủ."

"Nói với họ rằng cậu sang đây để trộm Mật đem về thật đấy hả?"

"Vâng ạ."

"Thêm nữa, về chuyện hòa thượng Huệ Quả, cậu có nghe gì không?"

"Nghe gì ạ?"

"Như là chuyện hòa thượng Huệ Quả bị bệnh."

"Về chuyện này, tôi có nghe phong thanh, nhưng bệnh tình có nặng không ạ?"

"Trong năm nay thì chưa hề gì, nhưng e rằng năm năm như ta nói ban nãy thì không cầm cự nổi."

"Nghĩa là ngay cả một người ở cực đỉnh của Mật pháp cũng phải tuân theo luật trời phải không ạ?"

"Đúng vậy, vì ngay cả đấng Thích tôn cũng không khác được..."

"Vâng."

"Ngài Bất Không là người truyền Mật cho ngài Huệ Quả, rồi ngài Kim Cang Trí là người truyền Mật cho ngài Bất Không, cũng đều không còn ở cõi này."

"Thực tình thì tôi sinh ra vào đúng ngày Bất Không Bồ Tát nhập diệt."

"Ồ, thật vậy hả?"

"Đúng vậy ạ."

"Mà cũng đúng thôi."

"Về chuyện gì ạ?"

"Dẫu có đạt đến cực đỉnh của Mật pháp thì rốt cùng cũng vẫn phải chết mà thôi."

"May quá."

"Hả...?" Có vẻ như bị bất ngờ trước câu nói của Không Hải, Vĩnh Trung chỉ kịp bật ra một tiếng tỏ ý chưa hiểu.

"Quả thực, chết... luôn gây ra một cảm giác rạo rực. Vì phải chết nên mới có Phật, nên mới có Mật. Còn nếu muốn tìm phép bất tử, thì đã có Huyền đạo. Nhưng dẫu học Huyền đạo, thì chết vẫn cứ chết mà thôi."

Huyền đạo, tức là chỉ phép tu tiên vậy.

"Lái buôn cũng chết. Môn đồ Phật pháp cũng chết. Ăn mày cũng chết. Môn đồ Mật giáo cũng chết. Đạo sĩ cũng chết. Đến cả đế vương rồi cũng chết..." Không Hải kể ra một cách thích thú.

"Sẽ chết cả." Không để Vĩnh Trung kịp đáp, Không Hải bình thản nói chặn trước: "Thật đã đời."

"Ồ."

"Vì thế mới có Phật pháp, mới có Mật giáo."

Nghe xong câu nói ấy, Vĩnh Trung nhìn như không muốn dời mắt khỏi Không Hải.

"Cậu quả là một con người kỳ lạ." Vĩnh Trung bảo Không Hải.

Trong lúc nói chuyện với Không Hải, lời lẽ của Vĩnh Trung dường như dần trở nên kính cẩn hơn.

"Được nói chuyện với một ngưòi như cậu, tôi bỗng thấy tiếc vì ngày mai đã phải trở về Nhật Bản. Giá mà có thể ở lại đất nước này để được trò chuyện nhiều hon, nhưng dẫu sao tôi vẫn phải về..." Vĩnh Trung bùi ngùi nói với Không Hải.

"Dẫu sao vẫn phải về ư?" Dật Thế vừa đi vừa nhẩm lại những lời của Vĩnh Trung khi ấy.

"Bọn mình sẽ phải ở lại đây hai mươi năm..."

Dường như phải đến lúc này Dật Thế mới bắt đầu suy nghĩ về khoảng thời gian hai mươi năm tới ở Trường An.

"Có lẽ chẳng cần đến hai mươi năm đâu." Không Hải nói.

"Nhưng Không Hải ơi, cho dù cậu lĩnh hội được Mật giáo trong vòng năm năm như lời hòa thượng Vĩnh Trung nói, thì hai mươi năm vẫn sẽ là hai mươi năm thôi. Chúng ta sang đây với lời hứa như vậy mà. Chúng ta đâu thể tự mình quyết định được là năm năm hay bao lâu."

"Hà hà."

"Dù cho quyết định sẽ về sau năm năm nữa, thì liệu thuyền chở Khiển Đường sứ từ Nhật Bản có sang đúng dịp ấy không? Tớ ngờ rằng thậm chí đến hai mươi năm sau cũng chưa chắc đã có thuyền sang ấy chứ."

"Tớ biết chứ." Không Hải bước đi nhẹ tênh như gió.

"Tớ đã gieo sẵn hạt rồi, chắc sẽ sớm có mầm tốt thôi." Không Hải như đang nói một mình.

"Cậu nói gieo hạt nghĩa là sao?"

"Cậu hãy chờ đến lúc nảy mầm."

"Chậc!" Dật Thế lấy chân đá viên sỏi như một đứa trẻ. "Chẳng phải là phương tri lão ám thôi ư?"

Dật Thế lẩm bẩm một câu thơ, đại ý rằng: Tự lúc nào đã biết mình bắt đầu già.

"Trong bài thơ ban nãy hả?" Không Hải hỏi.

Bài thơ ban nãy là ý nói đến bài thơ mà Vĩnh Trưng đưa cho xem sau khi vãn chuyện.

"Kể ra mới nhớ, Tây Minh Tự vốn là một nơi nổi tiếng về mẫu đơn phải không ạ?" Người nói câu ấy với Vĩnh Trung là Không Hải.

"Mẫu đơn ở đây thì tuyệt hảo." Vĩnh Trung đáp.

Hoa mẫu đơn ở Tây Minh Tự thường nở muộn hơn so với những địa điểm nổi tiếng về mẫu đơn khác của Trường An. Bởi thế khi đến mùa hoa, nơi đây sẽ vô cùng tấp nập. Rất nhiều văn nhân, mặc khách Trường An thường tới đây vịnh thơ, vẽ tranh.

"Hình như cậu cũng vịnh thơ phải không?"

"Dạ không, nói là vịnh thơ thì hơi quá."

"Đừng nói vậy, nhiều người khen cậu là bậc văn hay chữ tốt lắm đấy. Nếu cậu hứng thú, ta muốn cho cậu xem cái này..."

"Gì vậy ạ?"

"Có một tập quyển chép lại các bài thơ đề vịnh của những người tới chơi Tây Minh Tự này..."

"Vậy thì xin cho tôi xem ngay."

Thế là Vĩnh Trung bèn đứng lên mang tập thơ đến. Trong đó có một bài thơ mà Dật Thế vừa nhắc tới một câu.

"Bài này đề năm ngoái."

Không Hải và Dật Thế cùng xem bài thơ đó.

Tựa đề bài thơ là: Tây Minh Tự mẫu đơn hoa thời, ức Nguyên Cửu.

Tiền niên đề danh xứ

Kim nhật khán hoa lai

Nhất tác vân hương lại

Tam kiến mẫu đơn khai

Khởi độc hoa kham tích

Phương tri lão ám thôi

Hà huống tầm hoa bạn

Đông Đô khứ vị hồi

Cự tri hồng phương trắc

Xuân tận tứ du tai!

(Dịch thơ:

Nhớ Nguyên Cửu khi mẫu đơn nở ở Tây Minh Tự

Chỗ đề thơ năm ngoái

Nay lại tới xem hoa

Từ làm vân hương lại

Mẫu đơn đã ba mùa

Thưởng một mình thấy tiếc

Biết rằng thôi sắp già

Hỡi đâu người cùng ngắm

Đông Đô vẫn chưa về

Hay chăng bên hoa thắm

Tôi buồn vì xuân qua!)

Chỉ một chức lại viên trong Bí thư sảnh (cơ quan phụ trách văn thư trong triều)

Bên dưới tựa đề là tên tác giả: "Bạch Lạc Thiên tác".

Bạch Lạc Thiên là tự. Tên thật là Bạch Cư Dị.


Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip