NUÔI CON BẰNG INTERNET: CÓ CÁCH NÀO GIÚP CON BẠN TRỞ THÀNH TỔNG THỐNG MỸ?

Người lớn, rốt cuộc kỳ vọng điều gì ở những đứa trẻ, đến mức sẵn sàng thử mọi thứ để khiến chúng trở nên tốt hơn?

1. Nghịch lý về sự quan tâm

Một người mẹ trong lúc cho con bú đã phát hiện bản thân có vết sưng đỏ ở vùng nách. Hơi bất ngờ, cô lôi điện thoại ra, mở Google và gõ từ khóa: “hạch ở nách”. Chưa tới nửa giây, công cụ tìm kiếm lớn nhất thế giới đã đem về hơn 160.000 kết quả. Và cũng chưa tới nửa giây, những nguyên nhân như viêm da, nhiễm trùng hay dị ứng đã dễ dàng bị bỏ qua. Thứ duy nhất còn đọng lại trong đầu người mẹ lúc này là cụm từ “cảnh giác ung thư vú”. Suốt 3 tiếng sau đó, người mẹ trẻ lục lọi khắp nơi trên Internet, khai bệnh cho Bác sĩ Google, và ngày càng tin là mình đang mắc phải căn bệnh quái ác.

Thực ra, đó có thể chỉ là vết côn trùng đốt.

Tiến sĩ Guido Zuccon thuộc Đại học Công nghệ Queensland chỉ ra rằng các công cụ tìm kiếm lớn đã đưa ra nhiều thông tin không liên quan có thể dẫn đến việc tự chẩn đoán và tự chữa trị sai lầm, cuối cùng dẫn đến tình trạng tồi tệ hơn. Số lượng người tra cứu thông tin bệnh tật trên Google rất lớn, chiếm đến 5% trong tổng số hàng trăm tỷ lượt tìm kiếm mỗi tháng. Tuy nhiên, trong trang kết quả đầu tiên, chỉ một nửa có nội dung liên quan đến việc tự chẩn đoán và chỉ 3/10 kết quả hữu ích [1]. Đây là đối với kết quả tiếng Anh, vốn có chất lượng cao hơn tình hình các trang tiếng Việt hiện tại.

Ngay cả khi bạn chưa vội tin vào những lời khuyên sai lầm, rất có thể bạn đã khiến tình hình của mình trở nên tệ hơn. Có hiện tượng gọi là Cyberchondria, một dạng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) do căng thẳng leo thang vì tìm kiếm thông tin sức khỏe trên mạng [2].

Thời đại Internet mang đến cho chúng ta khả năng truy cập và tiếp cận thông tin gần như vô hạn. Nhiều phụ huynh có con nhỏ xem đây là nơi khả dĩ nhất để tìm kiếm lời khuyên trong nuôi dạy con, nhất là khi họ dần không còn tin vào lời ông bà nữa.

Trong bối cảnh thông tin dạy con tìm được trên Google phần lớn là rác rưởi (bài dịch vụng về, bài SEO để hút lượt truy cập, báo lá cải, lợi dụng tiếp thị bệnh viện tư/nhà trẻ/phòng khám/bán hàng…) và nhiều phụ huynh trẻ tuổi không được trang bị kiến thức sàng lọc thông tin, việc tin tưởng lời khuyên từ internet thực sự lợi bất cập hại.

Với những người có điều kiện đầy đủ (tôi tin rằng phần lớn những người có khả năng truy cập internet không quá thiếu thốn), nếu bạn thực sự quan tâm đến sức khỏe của bản thân và con mình đến vậy, chi bằng đến bệnh viện, gặp chuyên gia để được tư vấn?

2. Sự văn minh nửa mùa và những trào lưu nuôi con phương Tây bị bóp méo

Internet bản thân nó không đem lại sự tiến bộ, chỉ là phương tiện để quá trình này diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ hơn. Do đó, ở một khía cạnh khác, chính internet là công cụ để lan truyền sự ngu ngốc. Các bà mẹ bỉm sữa thay vì tụ tập rỉ tai nhau những lời khuyên dân gian như cách đây 20 năm, ngày nay tụ tập trên internet để chia sẻ cách nuôi con phản khoa học.

Sự khác biệt nằm ở chỗ nhóm sau này nghĩ rằng thế là văn minh, và mọi thứ trên internet đều đúng đắn - như thế này thì nguy hiểm hơn.

Sinh thuận tự nhiên (liên sinh) là một trong những trào lưu được nhắc đến khá nhiều trong giới mẹ bỉm sữa Việt Nam thời gian qua; trào lưu này đã xuất hiện ở phương Tây từ năm 1974. Phương thức này được phát triển thông qua việc quan sát cách sinh con của loài tinh tinh. Với cách thức sinh con này, nhau thai sau khi sinh không bị cắt bỏ ngay mà vẫn được giữ nguyên, kết nối với trẻ qua dây rốn cho đến khi tự rụng đi sau 3-10 ngày [3]. Điều này hoàn toàn trái ngược với các thực hành chính thống về kẹp cuống rốn và cắt bỏ nhau thai ngay sau khi sinh của y khoa hiện đại.

Những người thực hành liên sinh tin rằng “phương pháp” này sẽ mang lại nhiều lợi ích: tăng cường lưu thông máu và dưỡng chất từ nhau thai sang cho bé, giảm thiểu thương tổn rốn hay thậm chí cho rằng đây là cách thức tự nhiên nhất để đưa bé đến thế giới và nhau thai sẽ kết nối đứa bé với thế giới tâm linh. Tiếc thay, những nghiên cứu về liên sinh vẫn còn quá ít ỏi để cho ra những kết luận tương tự [4] - ngoại trừ việc tâm linh liên thông nhảm nhí khoa học chắc chắn chẳng bao giờ bàn tới.

Khi nhau thai đã rời khỏi cơ thể người mẹ, quá trình tuần hoàn máu cũng dừng lại. Sẽ không còn bất kỳ hoạt động trao đổi chất hay lưu thông nào khác diễn ra, ngoại trừ việc phân hủy và thối rữa dần của một khối mô chết. Nếu cứ để nguyên trong thời gian dài, các vi khuẩn từ nhau thai đang phân hủy sẽ truyền sang cho bé thông qua cuống rốn [5].

Liên sinh tuy bắt nguồn từ phương Tây, nhưng không quá phổ biến và nhiều ca chết người liên tục xuất hiện trên báo chí như ở Việt Nam (link báo dưới comment). Giới chuyên gia trên thế giới mới chỉ ghi nhận một vài trường hợp thực nghiệm về liên sinh, trong đó có trường hợp trẻ mắc viêm gan sơ sinh tự phát [6]. Ở một nghiên cứu khác trên 3 trẻ liên sinh, trường hợp nhẹ nhất mắc bệnh vàng da nghiêm trọng. Ca thứ hai phải được chăm sóc y tế đặc biệt trong tình trạng nguy cấp vì hạ đường huyết và tỉ lệ phần trăm tế bào hồng cầu cao bất thường - do nhiễm trùng máu và vi khuẩn xâm nhập van tim.

Và ở ca thứ ba, đứa bé bị nhiễm trùng cuống rốn và thành bụng xung quanh trong hai ngày đầu đời. Omphalitis, hay nhiễm trùng rốn là một loại nhiễm trùng rất nguy hiểm vì có thể dễ dàng lan sang các mạch rốn và gây nhiễm trùng hệ thống, tỷ lệ tử vong lên tới 15%. May mắn, bé đã được chữa trị kịp thời sau đó [7]. Từ những trường hợp này, các chuyên gia tại những nước có nền y học phát triển bậc nhất chỉ dám đưa ra kết luận rằng đây là phương pháp sinh nở thay thế không được khuyến khích [8].

Tư tưởng “thuận tự nhiên” không chỉ dừng lại ở quá trình sinh nở, nhiều bà mẹ còn muốn con mình không phải dùng đến bất cứ một can thiệp “phi tự nhiên” nào khác: không tiêm vaccine phòng bệnh, không uống thuốc chữa bệnh, không đi bệnh viện. Họ cho rằng những việc này khiến đứa trẻ của họ yếu đi hoặc bị vấy bẩn.

Đi cùng với phương pháp liên sinh, nhiều người tỏ ra ca tụng thái quá công dụng thần thánh của sữa mẹ, cho rằng nó có thể chữa được nhiều bệnh ở trẻ nhỏ. Cá biệt ở Việt Nam, từng có trường hợp tin rằng sữa mẹ có chứa hàm lượng tế bào gốc cao giúp bé có khả năng mọc lại đốt ngón tay [9].

Tôi không biết rốt cuộc “tự nhiên” là gì, và vì sao nó được nhiều người ca tụng thế. Trong khi nhà bạn ở, quần áo bạn mặc hay thậm chí thức ăn bạn tiêu thụ là thành quả nhân tạo. Vì sao những người thích tự nhiên không lên rừng sống?

Một trào lưu cũng “tự nhiên” không kém là việc để cho trẻ khóc đến khi tự nín và quay lại giấc ngủ (cry it out). Phương pháp này thậm chí còn có lịch sử lâu đời hơn cả liên sinh, được các bác sĩ nhi khoa đề ra từ những năm 1880 [10]. Nhiều bố mẹ xem đây là cách giúp trẻ nhanh chóng học được cách tự xoa dịu bản thân và sẽ tự đi ngủ mà không cần đến sự hiện diện hay dỗ dành của phụ huynh.

Thực ra phương pháp này ra đời trong bối cảnh y học vừa phát hiện ra vi khuẩn, do đó cần hạn chế tối đa việc đụng chạm để tránh truyền bệnh cho con trẻ [11]. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, phương pháp này dấy lên tranh cãi. Nhiều chuyên gia cho rằng việc để mặc trẻ khóc có thể gây ra nhiều tác hại tiêu cực về mặt tâm lý và cả những hệ lụy về sức khỏe của bé.

Trước tiên, cần hiểu rằng việc tiếp xúc vật lý có vai trò rất quan trọng trong việc nuôi dưỡng trẻ. Do đó việc chia tách, cô lập trẻ khỏi người nuôi dưỡng nhiều khả năng sẽ dẫn đến các rối loạn cơ thể [12]. Thứ hai, khóc là một hành vi tự nhiên để trẻ nhỏ biểu đạt một nhu cầu nào đó cần được đáp ứng tức thời. Để mặc trẻ khóc cũng đồng nghĩa với việc phớt lờ những nhu cầu này của trẻ, và có thể gây ra những hậu quả dài hạn sau này, thậm chí là ảnh hưởng đến khả năng tự lập của trẻ [13]. Cuối cùng, cảm giác an toàn và sự gắn kết giữa trẻ và bố mẹ có thể mất dần nếu cứ để mặc trẻ khóc [14].

Nếu bạn để trẻ tự khóc tự nín, chi bằng hãy để luôn đứa bé ấy tự ăn, tự thay bỉm và tự sống luôn cuộc đời của mình. Việc để mặc trẻ khóc sẽ khiến chúng cảm thấy cực kỳ căng thẳng. Nếu sự căng thẳng này kéo dài cùng lúc với quá trình phát triển não bộ vốn diễn ra rất nhanh ở trẻ sơ sinh, nó sẽ để lại những tác động tiêu cực như rối loạn phản ứng căng thẳng (disordered stress reactivity), phá hoại khả năng tự điều chỉnh bản thân (self-regulation) và lòng tin. Ở phía ngược lại, nó còn tác động đến sự nhạy cảm của bố mẹ đối với trẻ [15].

3. Từ nuôi con theo kiểu “tàu nhanh” cho đến sống một cuộc đời “tàu nhanh”

Nếu không vì tin rằng con mình sẽ có sức khỏe tốt hơn, thông minh hơn hay thậm chí “năng lực đặc biệt” nào đó, tôi không nghĩ còn bất kỳ lý do nào để các bậc phụ huynh sẵn sàng bỏ qua những phương pháp an toàn phổ biến.

Thật ra đây là điều ai cũng muốn, và nên muốn. Chúng ta ai cũng muốn mình trở nên thông minh, xinh đẹp, giàu có và lấy đó làm động lực phấn đấu. Nhưng không phải ai cũng sinh ra và có sẵn những điều ấy, thậm chí không có khả năng, điều kiện để cố gắng đạt được chúng. Do đó, phần lớn trông đợi vào những cách “tàu nhanh” khác để đạt được mục tiêu.

Tôi chưa bao giờ nghĩ họ ngu. Họ chỉ lười biếng lại mơ mộng quá nhiều, không muốn làm nhưng vẫn muốn ăn.

Tin rằng việc lượm nhặt thông tin từ internet và google có thể giúp con mình thông minh, khỏe mạnh hơn quả thật ngây thơ. Như đã nói ở phần đầu, nếu bạn thật sự quan tâm đến bản thân và con cái của mình đến thế, sao không cố gắng trở nên giỏi giang, giàu có để giúp chúng có cuộc đời dễ dàng hơn, lại trông chờ vào mẹo vặt tàu nhanh?

Vì muốn giàu, nhiều người theo đa cấp, tin lời bọn lừa đảo để học những khóa làm giàu cấp tốc. Sau khi không những không giàu lại còn bị lừa, đam mê giàu sang trở thành kỳ vọng áp đặt lên con cái. Vì không biết cách nào để dạy con mình làm giàu (vì mình có biết cách đâu?), nên chỉ còn cách hi vọng vào cách “cheat” như “dạy con theo phương Tây”, sinh con thuận tự nhiên, không tiêm vaccine... những thứ kiểu kiểu thế.

Bỏ đi bạn ơi, mãi mãi không giàu được đâu bạn ơi. Cuộc đời đâu dễ ăn thế, bạn cũng biết mà.

Quay cóp để có điểm cao không khiến thông minh hơn, hack/cheat khi chơi game không giúp chơi game giỏi hơn - chúng chỉ nuôi dưỡng sự ảo tưởng của riêng bản thân chúng ta thôi.

Nhiều người suy nghĩ đơn giản rằng “dạy con theo kiểu phương Tây sẽ giúp chúng có tư duy tiến bộ của Tây và cuộc sống tốt hơn”. Suy nghĩ này ngây thơ vì thế giới quá phức tạp còn bạn quá nhỏ bé, số phận của bạn phụ thuộc vào môi trường sống, những người xung quanh và quy luật kinh tế - chính trị - xã hội. Cách khả dĩ và an toàn nhất để giàu là học để biết cách đưa bản thân lên vùng có khả năng tiếp cận với điều kiện tốt hơn.

Nhân tiện, để được như phương Tây, ngoài những đặc điểm tốt đẹp về tư duy mở, bạn cũng cần chấp nhận những thứ như quyền tự do ngôn luận thái quá, dân chủ cực đoan, chối bỏ truyền thống và quan hệ gia đình mờ nhạt. Tất cả những điều tốt - xấu luôn đi chung gói và tác động lẫn nhau một cách tinh vi. Có cái này phải bỏ cái kia.

Mong tìm ra được cách để con mình vừa có những đặc tính tốt nhất của phương Tây, vừa có những đặc tính tốt nhất của châu Á - chỉ qua một vài phương pháp giáo dục - không khác gì giấc mơ vô thực.

Theo quan điểm cá nhân của tôi, đảm bảo sức khỏe thể chất và tinh thần tốt nhất cho lũ trẻ là tất cả những gì chúng ta có thể và nên làm. Riêng việc này đã đủ phức tạp và cần theo hệ thống và bạn phải học. Chẳng có cách “tàu nhanh” nào cả. Mơ ước con mình trở thành dạng thực thể vĩ đại nào đó có lẽ chỉ là cách để ta cứu rỗi cuộc đời vốn thất bại của mình.

Những đứa trẻ có bố mẹ anti-vaxx có lẽ sẽ rất khó xử khi bạn bè ở trường hỏi rằng vì sao hay đau ốm thế.

Đó là trong trường hợp chúng may mắn có thể sống sót đến lúc đi học.

#MonsterBox
___________

AMERICAN PARENTING STYLE IS NOT TURNING YOUR CHILDREN US PRESIDENTS.

What on earth do parents expect at their children, to “better” them at all costs?

1. The caring paradox

A mother breast-feeding her child discovered a red bump in her armpits. Taken aback, she turned to her phone, googling: "armpit lymph nodes". Within half a second, the world's largest search engine handed her in over 160,000 results. It took her as much time to pass over any dermatitis, infection or allergy cause. At that time, the only thing still born in the mother’s mind was purely "vigilant for breast cancer". The young mother, thereupon, splurged the next 3 hours scouring the Internet, seeking Dr.G’s advice, conjecturing that she’d caught a fatal disease.

It eventually turned out merely an insect bite.

Dr. Guido Zuccon, Queensland University of Technology, argues that major search engines have yielded irrelevant information, breeding erroneous self-diagnosis and self-maltreatment, and eventually exacerbating one’s health condition. We’ve all too often turned to Google for disease information, so intermittently that they’ve made up 5% of the total monthly global searches. Nevertheless, results revealed that, only about three of the first 10 results were highly useful for self-diagnosis and only half of the top 10 were somewhat relevant to the self-diagnosis of the medical condition [1].

Still, given your discrediting the wrong advice, you might have yourselves exacerbated your own situation. There’s since popped up the so-called Cyberchondria, the unfounded escalated concerns from scouring the Internet for two-bit pieces of health information (OCD) [2].

The dawn of the Internet has granted us with bottomless access to information. In this manner, young parents have reckoned with it as the most “pushover” place to ever seek parenting advice, notably when they start losing faith in the old sayings.

Given the junk pieces of information all too often found on Google (ill-translated articles, “clickbait” SEO posts, tabloids, in a high attempt to market affiliated hospitals / kindergartens / clinics / sales ...) and ill-informed young parents, Internet’s advice has turned out fueling the fire.

Those having internet access might, to all appearances, be not that down-and-out, should you cherish your own/your children’s health, why have you hardly reached out to experts for advice instead?

2. The half-baked dogma and distorted Western parenting trends

The Internet itself is not getting this civilization further. It's rather purely a tool, a precursor to this. Thus, to a certain extent, it’s as much an efficacious tool for dullness to reign.

Breast-feeding mothers, instead of rattling on the old advice as what their mothers did, have ganged up on the internet, sharing anti-scientific child-rearing methods.

They’ve, however, proclaimed this civilized. So is every Internet thing.

Lotus birth, a briskly emerging trend; has actually popped up among Western societies since 1974. It had formerly been developed from chimpanzee birth observations, wherein the postpartum placenta would be kept instead of removed. The child would, thus, stay connected to the umbilical cord until it self-lost (after 3-10 days) [3]. Which goes violently against the modern mainstream postpartum umbilical cord clamping and placental ablation practices.

Devoted followers of such a method count on it to “pay off”: boosting blood circulation and nutrients from placenta, belittling umbilical cord injuries, proclaiming it the most natural paved way to “descend”, thus hooking him up to the spirit world. Dismally enough, the number of studies conducted on lotus birth has since been meagre. Scientists could, therefore, hardly ever reach any of those conclusions [4] - let alone the spiritual things they’d never reckon with.

Once the placenta gets exposed to the outer environment, the blood circulation process as well stops. Neither metabolic nor circulatory activity would manifest, except for the little by little fallen apart and as much decayed dead tissue mass. Once having remained connected to the infant for a long enough time, the decaying placenta’s bacteria would, beyond doubt, get passed through the umbilical cord [5].

Originated from the West, lotus birth could hardly ever thrive and breed and cease infants to exist as it’s flourishing in Vietnam (newspaper links in the comment section). Even the experts around the globe have conducted a desperately modest number of empirical experiments. Among which was an infant with idiopathic neonatal hepatitis [6].
Also, among other three lotus-born infants, the least grievous case still ran into severe jaundice. Another required special, emergent medical care due to hypoglycemia and an abnormally copious amount of red blood cells; as a result of blood infection and bacteria passed into the heart valve.

The last case has it that the infant caught omphalitis and got his surrounding abdominal wall infected for the first two days he “descended”. Omphalitis, or umbilical infection, is an extremely grave infection since it can effortlessly spread to the umbilical vessels and cause systemic infection. It bred a mortality rate of up to 15%. In the nick of time, he was still saved afterwards [7].

From these, experts, even in the most medicine-advanced countries, could conclude that it is an alternative, albeit ill-favored [8].

The "lotus" dogma does hardly stop at birth. Mothers even crave their children’s not resorting to any other "artificial" intervention: neither vaccination, medical nor hospital treatment.

These things, as far as they could concern, impair their precious children, eventually turning them “unholy”.

Going hand in hand with this “lotus birth” method has been the overpraise of breast milk, which, accordingly can seemingly cure a number of infant diseases. Strikingly, a Vietnamese once conjectured that breast milk contains a level of stem cells high enough to regrow the infant’s knuckles [9].

The term "natural" and its bigots seem rather bewildering to me, since the home we’re in, the clothes we’re putting on, or even the food we’re chewing are “artificial”. Whilst on the subject, why wouldn’t these “natural” bigots live naturally, in the wild?

Another as much "natural" trend is leaving children crying it out. Which has even a more “triumphal” history than the aforementioned lotus birth, pediatrician-proposed by the 1880s [10]. Parents have since set it down as a way for children to quickly learn how to soothe themselves, thus, going back to sleep on their own, without parents’ comforting presence.

This method was de facto born given the context of the recent discovered bacteria. It, thus, argued that this was to downplay body contacts that might have, in all likelihood, transmitted diseases to children [11]. Not until recently has this sparked controversy, since leaving children crying it out might breed negative psychological effects and later health impairments.

Above all, physical contacts are critical in raising children. Therefore, a child split and drawn apart from his caregivers would, to all appearances, run into physical disorders [12]. It’s not to mention that crying is pretty much an instinct among infants to voice their craving immediate response. Turning a blind eye to such a need can thereupon breed long-term disorders, and even a downturned self-reliance [13]. Last but not least, the secure feeling and children-parent interconnection might as well die away as the infants are left crying [14].

Once having left your children cry it out, why not let him eat on his own, self-changing diapers and living his own life. Cry-it-out miserably distresses the babies. Given the ever-evolving brain development in the newborn, such a persistence might exert negative impacts, to illustrate, disordered stress reactivity, impaired self-regulation and deteriorated trust.

On the other side, this as well rocks parents’ sensitivity towards their own children [15].

3. To “live fast die young” lives

Setting aside better health, prudence or even "special energy", there’s hardly any reason to ignore conventional innoxious methods.

Which is indeed what we all crave so badly. We should. To all appearances, we’re all longing for prudence, beauty, wealth and as much driven by these motivations. Still, not everyone is born gifted with [one of] those. Some are even without the capability or in no condition to achieve these lofty goals. They’ve, thus, all too often turned to other "quick bites".

They’re by no mean dull, at least as far as I’m concerned. They’re rather sluggish daydreamers, who crave “no pain but gains”.

Scouring two-bit pieces of information on the internet to gain your children intelligence and health is by all means wide-eyed. As aforementioned, given your cherishing yourself and your children, why not take on your best versions, get sharp and well-heeled to catalyze those, instead of counting on some “quick bite” tips?

Give in your “illusionary dogma”. You’re forevermore not your well-heeled version, my dear. We all know horribly well life’s not that straightforward.

Cheating for a high score does hardly leverage your intellectual levels, inasmuch as game hacking / cheats does rarely polish your skills. They’re, in all likelihood, only giving grounds for your own illusions.

Straightforwardly enough, many have proclaimed that "taking on the Western parenting style will gain their children the ‘Westerner’ progressive thinking ability and a better life". Which is as much wide-eyed since this world is convoluted and we’re merely lilliputians. Our fates are contingent to the environment we’re inhabiting, the society we’re thriving in and the economic - social - political order reigning it. What we’d better crave is to bring ourselves to a dizzier height, wherein our descendants could effortlessly get exposed to better living conditions.

To get more “Western”, let alone open-mindedness, you’d have to learn to put up with excessive freedom of speech, extreme democracy, tradition turn-down and faint family bonds. Good and evil are always intermingled and one way or another impact each other.

As far as I’m concerned, securing our children’s physical and mental health is what we’re capable of, and should ever do. As regards the already-sophisticated-systematic things, there exist no “quick bite” solution, let alone other perplexing, entangled problems. Daydreaming turning your children into “supernatural entities”, to all appearances, is purely a self-deceived saving grace to our already shrinking ship.

Anti-vaccinated children might faze upon being asked of their physical impairments.

Given their successful “hold-on-the-bare-surviving-line” until school.
#MonsterBox

- Artist: NoA.
- Trans:Heinous.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #science