BẢN HIỆP ƯỚC HẢI QUÂN(The Naval Treaty, 1893)

Tháng 7 ngay sau hôn lễ của tôi trở nên đáng nhớ nhờ ba vụ án thú vị mà tôi được vinh dự tham gia cùng Sherlock Holmes. Trong các ghi chép của mình, tôi ghi lại chúng dưới các tựa: Vết máu thứ hai, Bản hiệp ước hải quân, và Viên thuyền trưởng mệt mỏi. Tuy nhiên, vụ đầu tiên trong số này liên quan đến những vấn đề hết sức quan trọng và dính líu tới nhiều gia tộc hàng đầu vương quốc Anh nên trong nhiều năm tới, tôi chưa thể công bố. Thế nhưng trong tất cả các vụ án mà Holmes đã tham gia, không vụ nào minh họa rõ giá trị các phương pháp phân tích của anh hoặc gây ấn tượng sâu sắc cho những người cộng tác với anh bằng vụ đó. Tôi vẫn còn nhớ gần như nguyên văn bản báo cáo trong đó anh trình bày những thông tin chính xác của vụ án với ông Dubuque của Sở Cảnh sát Paris và Fritz von Waldbaum, chuyên gia nổi tiếng của thành phố Dantzig, cả hai người này đã phí hoài công sức cho những chi tiết mà sau này đã được chứng minh chỉ là ngoài lề. Tuy nhiên, may ra phải sang thế kỉ sau mới có thể an toàn thuật lại câu chuyện đó. Trong khi chờ đợi, tôi chuyển sang vụ án thứ nhì trong danh sách trên, vốn cũng mang tầm quan trọng quốc gia và đáng chú ý bởi một số tình tiết khiến cho nó đặc biệt.

Thời đi học tôi chơi thân với một cậu tên là Percy Phelps, học trên tôi hai lớp nhưng bằng tuổi tôi. Đó là một nam sinh rất thông minh, luôn giành mọi giải thưởng của trường và khép lại bảng thành tích thời phổ thông khi đoạt học bổng cho phép cậu tiếp tục con đường học vấn vẻ vang của mình ở Cambridge. Tôi vẫn còn nhớ là cậu ta có họ hàng với những người có địa vị cực cao trong xã hội, và ngay từ khi còn là những thằng nhóc chúng tôi đã biết rằng cậu ruột của Phelps là thượng nghị sĩ Holdhurst, một chính khách nổi tiếng của đảng Bảo thủ. Ở trường học thì mối quan hệ màu mè này chẳng đem lại lợi ích gì cho cậu. Ngược lại, chúng tôi còn thấy thích thú khi đuổi theo cậu ta trong sân và dùng gậy cricket phang vào ống quyển cậu ta. Nhưng khi ra đời mọi chuyện lại khác hẳn. Nghe đâu với năng lực của mình cùng với quan hệ sẵn có, cậu ta đã kiếm được một chỗ tốt ở bộ Ngoại giao và rồi tôi cũng quên bẵng cậu ta đi cho đến khi lá thư sau nhắc tôi nhớ lại:

Briarbrae, Woking

WATSON THÂN MẾN!

Tôi tin chắc rằng anh hãy còn nhớ Phelps "Nòng nọc", người bạn học đã lên lớp năm khi anh còn học lớp ba. Có thể là anh cũng đã biết rằng nhờ vào ảnh hưởng của người cậu mà tôi có được một công việc rất tốt ở bộ Ngoại giao, ở đó tôi đã được tin tưởng và trọng vọng trước khi một tai họa kinh khủng bất thình lình giáng xuống đã hủy hoại sự nghiệp của tôi.

Viết ra đây những chi tiết cặn kẽ của sự kiện kinh hoàng ấy e là vô ích. Nếu anh chấp nhận lời thỉnh cầu của tôi, tôi sẽ đành phải kể cho anh nghe. Tôi mới hồi phục sau cơn viêm não kéo dài chín tuần lễ và trong người hãy còn rất yếu. Anh có thể mời ông Holmes bạn anh đến gặp tôi được không? Tôi muốn được nghe ý kiến của ông ấy về vụ này, mặc dù các nhà chức trách đã khẳng định với tôi rằng không thể làm gì hơn được nữa. Xin hãy cố mời ông ta xuống đây và càng sớm càng tốt. Mỗi phút với tôi dài như cả một giờ khi phải sống trong trạng thái căng thẳng khủng khiếp này. Xin anh hãy giải thích cho ông ấy rằng sở dĩ tôi không nhờ đến sự tư vấn của ông ấy sớm hơn chẳng phải vì tôi không đánh giá cao tài năng của ông ấy mà do tôi bị mất trí từ khi tai họa đó giáng xuống. Giờ thì tôi đã tỉnh táo trở lại dù vẫn không dám suy nghĩ nhiều về chuyện đó vì sợ bệnh tái phát. Tôi vẫn còn rất yếu, đến nỗi phải đọc thư này cho người khác viết hộ như anh thấy. Xin hãy cố mời ông ta đến đây.

Bạn học cũ của anh,

PERCY PHELPS

Có điều gì đó khiến tôi mủi lòng khi đọc lá thư này, một điều gì đó rất đáng thương trong những lời nhờ vả lặp đi lặp lại rằng hãy cố mời được Holmes. Vì quá xúc động nên dù việc có khó mấy đi nữa chắc tôi cũng gắng sức thực hiện, nhưng tất nhiên tôi biết rõ rằng Holmes rất ham mê công việc của mình nên anh luôn sẵn sàng giúp đỡ khi thân chủ cần đến. Vợ tôi cũng nhất trí rằng nên báo cho anh biết ngay đừng để lỡ một phút giây nào. Thế là chưa đầy một tiếng sau bữa điểm tâm, tôi đã có mặt trong căn hộ cũ ở phố Baker.

Holmes đang ngồi bên chiếc bàn nhỏ, vẫn mặc áo choàng ngủ và cặm cụi với một nghiên cứu hóa học. Một chiếc bình cổ cong to đang sôi sùng sục trên ngọn lửa xanh của đèn Bunsen và những giọt chất lỏng được chưng cất đang ngưng tụ trong cái bình đong hai lít. Bạn tôi không nhìn lên khi tôi bước vào và nhận thấy việc nghiên cứu của anh hẳn là rất quan trọng nên tôi ngồi vào chiếc ghế bành, chờ đợi. Anh cầm một cái ống nhỏ dung dịch bằng thủy tinh nhúng vào từng chiếc bình, hút ra từ mỗi nơi một vài giọt rồi cuối cùng đem tới bàn một cái ống nghiệm chứa dung dịch. Bên tay phải anh cầm một mẩu giấy quỳ.

"Anh đến đúng lúc lắm, Watson", anh nói. "Nếu mẩu giấy này vẫn giữ nguyên màu xanh thì tốt. Còn nếu nó chuyển sang màu đỏ thì tức là đã có một mạng người mất đi." Anh nhúng mẩu giấy đó vào trong ống nghiệm và ngay lập tức nó chuyển sang màu đỏ sẫm mờ đục. "Hừm! Tôi vẫn nghi thế mà!" Anh kêu lên. "Tôi sẽ quay lại với anh ngay, Watson ạ. Tôi nhét thuốc lá trong chiếc giày mềm Ba Tư ấy". Anh quay trở lại bàn làm việc và thảo vài bức điện rồi trao cho cậu bé giúp việc. Sau đó anh buông mình xuống chiếc ghế đối diện và co hai đầu gối lại cho đến khi mấy ngón tay đan vòng lấy hai ống quyển dài khẳng khiu.

"Chỉ là một án mạng vặt vãnh thông thường", anh cho biết. "Tôi đoán rằng anh đem đến thứ gì đó hay ho hơn. Anh là cánh chim báo bão của những vụ án đấy, Watson ạ. Chuyện gì thế?"

Tôi đưa cho anh bức thư và anh đọc nó với sự tập trung cao độ. "Không cho chúng ta biết nhiều lắm nhỉ?" Anh nhận xét khi trao lá thư lại cho tôi.

"Gần như chẳng có gì."

"Thế nhưng nét chữ lại rất đáng chú ý."

"Nhưng đó không phải là chữ viết của anh ấy."

"Đúng thế. Là chữ của một phụ nữ."

"Của đàn ông chứ", tôi cãi lại.

"Không phải, là nét chữ của một phụ nữ, và là một phụ nữ có cá tính hiếm có. Anh xem, khi bắt đầu điều tra thì việc biết được khách hàng của mình có quan hệ gắn bó với ai đó có cá tính khác thường, dù tốt hay xấu, cũng mang lại chút thuận lợi. Vụ này khiến tôi hứng thú rồi. Nếu anh đã sẵn sàng thì chúng ta sẽ khởi hành đi Woking ngay để gặp nhà ngoại giao đang gặp hoạn nạn và người phụ nữ viết thư."

Chúng tôi khá may mắn khi bắt kịp chuyến tàu sớm ở ga Waterloo và chỉ chưa đầy một giờ sau đã đứng giữa những rặng linh sam và bụi thạch nam ở Woking. Briarbrae là một tòa nhà lớn nằm tách biệt trên một khu đất rộng chỉ cách nhà ga có vài phút đi bộ. Sau khi đã trao danh thiếp, chúng tôi được đưa vào một phòng khách bài trí thanh lịch và chỉ vài phút sau, một người đàn ông khá to béo tiếp đón chúng tôi hết sức nồng hậu. Trông ông ta có lẽ gần bốn mươi nhưng đôi gò má hồng hào và cặp mắt thật vui vẻ gây cho ta ấn tượng về một cậu bé bụ bẫm và tinh nghịch.

"Tôi rất mừng khi thấy các ông đã đến", ông ta nói và thân mật bắt tay chúng tôi. "Percy liên tục hỏi về các ông suốt buổi sáng, ôi, anh chàng tội nghiệp, giờ cậu ta đành bấu víu lấy mọi phương cách có thể giúp mình! Cha mẹ cậu ta nhờ tôi ra đón các ông vì cứ nhắc đến việc đó là họ lại đau lòng."

"Chúng tôi vẫn chưa biết gì cả", Holmes nhận xét. "Tôi đoán rằng ông không phải là người trong gia đình."

Người chúng tôi mới gặp trông có vẻ ngạc nhiên, rồi ông ta đưa mắt nhìn xuống và bật cười.

"Chắc chắn là ông đã trông thấy hai chữ J.H trên mặt dây chuyền của tôi", ông ta nói. "Tôi đã thoáng nghĩ rằng không biết làm sao mà ông lại đoán tài thế. Joseph Harrison là tên tôi và vì Percy sắp cưới cô em gái Annie của tôi nên tôi cũng có chút quan hệ. Ông sẽ gặp em gái tôi ở trong phòng cậu ta vì nó tự tay chăm sóc cậu ấy suốt hai tháng nay. Có lẽ chúng ta nên đến đó ngay vì tôi biết rằng cậu ta sốt ruột lắm rồi."

Chúng tôi được dẫn vào căn phòng nằm cũng tầng với phòng khách. Cách bài trí của nó nửa giống phòng khách nửa giống phòng ngủ, khắp các góc đều có hoa được bày biện trang nhã. Một người đàn ông trẻ tuổi trông rất xanh xao và tiều tụy đang nằm trên chiếc trường kỉ đặt gần ô cửa sổ mở, từ đó thoảng vào hương thơm nồng nàn của khu vườn và bầu không khí mùa hè êm dịu. Một cô gái đang ngồi bên cạnh anh ta và đứng dậy khi thấy chúng tôi bước vào.

"Hay là để em ra ngoài nhé, Percy?" Cô gái hỏi.

Người đàn ông nắm lấy tay cô để giữ lại và cất tiếng chào thân mật. "Anh khỏe chứ, Watson? Dưới bộ ria kia thì tôi chẳng thể nào nhận ra anh và tôi chắc là anh không chuẩn bị chửi thề tôi. Còn ông đây thì tôi đoán hẳn là người bạn lừng danh của anh, ông Sherlock Holmes?"

Tôi giới thiệu ngắn gọn rồi cả hai chúng tôi cùng ngồi xuống. Người đàn ông to béo đã ra ngoài nhưng cô em gái của ông ta hãy còn ngồi lại, bàn tay cô đặt trong tay người bệnh. Đó là một cô gái rất ưa nhìn, hơi thấp và có phần tròn trịa nhưng có nước da màu ôliu rất đẹp, đôi mắt to thẫm màu của người Ý và mái tóc dày đen như mun. Những sắc màu ấy tương phản với khuôn mặt trắng xanh của người đàn ông, càng làm cho anh ta có vẻ hốc hác và mệt mỏi.

"Tôi sẽ không làm phí thì giờ của ông đâu", anh ta nói và nhổm người ngồi dậy trên trường kỉ. "Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề chứ không dông dài gì cả. Ông Holmes ạ, tôi từng là một người hạnh phúc và thành công, nhưng ngay trước khi thành hôn thì một tai họa khủng khiếp đột ngột xảy ra làm sụp đổ mọi triển vọng trong đời tôi. Có lẽ anh bạn Watson đã kể cho ông nghe, tôi làm việc trong bộ Ngoại giao và nhờ vào ảnh hưởng của cậu tôi, thượng nghị sĩ Holdhurst, tôi nhanh chóng được thăng tiến lên một vị trí quan trọng. Khi cậu tôi được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ Ngoại giao của chính quyền hiện nay, ông đã tín nhiệm giao cho tôi vài nhiệm vụ cơ mật và vì tôi luôn hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụ ấy nên cuối cùng ông hoàn toàn tin tưởng vào năng lực và tài ứng xử của tôi. Gần mười tuần trước - chính xác hơn là vào ngày 23 tháng 5 - ông gọi tôi vào phòng riêng và sau khi khen ngợi tôi đã hoàn thành tốt đẹp công việc được giao, ông cho biết sẽ giao cho tôi thực hiện một nhiệm vụ cơ mật mới.

'Đây', ông nói và lấy từ trên bàn một cuộn giấy màu xám, 'đây là bản gốc của hiệp ước bí mật giữa Anh và Ý mà cậu rất tiếc phải nói rằng đã có vài lời đồn đại về nó trên mặt báo. Vấn đề cực kì hệ trọng là không được để nó bị rò rỉ thêm nữa. Sứ quán Pháp và Nga sẵn sàng chi một món tiền khổng lồ để biết được nội dung của tài liệu này. Nếu không nhất thiết phải sao nó ra thì không bao giờ cậu để nó rời khỏi đây. Trong phòng làm việc của cháu có bàn viết chứ?'

'Vâng, có thưa cậu.'

'Vậy thì cháu hãy cầm lấy bản hiệp ước này, cất nó vào ngăn bàn và khóa kĩ lại. Cậu sẽ báo cho phép cháu ở lại sau khi những người khác đã ra về để cháu có thể thong thả sao nó ra mà không sợ bị ai nhìn ngó. Khi đã chép xong, cháu hãy cất cả bản chính lẫn bản sao vào ngăn kéo, khóa lại và nộp chúng cho cậu vào sáng mai.'

Tôi cầm lấy cuộn giấy và..."

"Xin thứ lỗi một lát", Holmes chặn lại. "Trong lúc nói chuyện thì chỉ có hai người thôi chứ?"

"Hoàn toàn chỉ có hai cậu cháu tôi."

"Trong một căn phòng rộng?"

"Mỗi chiều ba mươi foot."

"Hai người ở ngay giữa phòng chứ?"

"Vâng, khoảng giữa phòng."

"Và hạ giọng khi nói chuyện?"

"Giọng nói của cậu tôi lúc nào cũng rất nhỏ. Tôi thì hầu như chẳng nói gì."

"Cảm ơn ông", Holmes nói và nhắm mắt lại, "xin vui lòng kể tiếp."

"Tôi làm theo đúng những gì ông dặn và đợi cho đến khi những nhân viên khác đã ra về. Chỉ còn lại một người trong phòng tôi, Charles Gorot, có vài việc dở dang cần phải làm cho xong nên lúc tôi ra ngoài ăn tối, chỉ còn mình anh ta ở đó. Khi tôi quay lại, anh ta đã về. Tôi nóng lòng muốn làm gấp cho xong việc vì tôi biết anh Joseph - tức là ông Harrison mà ông vừa mới gặp lúc nãy - cũng đang ở London và sẽ đón chuyến tàu 11 giờ để về Woking và tôi cũng muốn đi chuyến tàu ấy.

Khi xem xét bản hiệp ước thì ngay lập tức tôi nhận ra rằng nó có tầm quan trọng lớn lao mà lẽ ra cậu tôi phải nhấn mạnh hơn khi giao nhiệm vụ cho tôi. Không cần đi sâu vào chi tiết, tôi có thể nói rằng tài liệu này xác lập vị trí của Anh đối với phe Liên minh và dự báo chính sách mà đất nước này theo đuổi trong trường hợp hạm đội Pháp khống chế hoàn toàn hạm đội Ý ở vùng Địa Trung Hải. Bản hiệp ước này hoàn toàn chỉ đề cập đến những vấn đề thuộc về hải quân. Ở cuối văn bản là chữ kí của những quan chức cao cấp. Tôi liếc sơ qua rồi bắt tay vào nhiệm vụ sao chép. Đó là một tài liệu rất dài bằng tiếng Pháp gồm có hai mươi sáu điều khoản. Tôi cố gắng chép thật nhanh nhưng đến 9 giờ tối mới chỉ xong được chín điều và xem ra chẳng còn hi vọng bắt tàu về. Tôi cảm thấy buồn ngủ và đầu óc mụ mẫm, một phần là do bữa tối và cũng do làm việc suốt cả ngày dài. Một tách cà phê sẽ giúp cho đầu óc tôi tỉnh táo lại. Đêm nào người gác cửa cũng ở lại trong căn phòng nhỏ dưới chân cầu thang và vẫn thường pha cà phê bằng chiếc đèn cồn của ông ta cho các viên chức làm việc ngoài giờ. Vì thế tôi bấm chuông gọi ông ta lên. Tôi rất ngạc nhiên khi người bước vào lại là một phụ nữ lớn tuổi to béo, mặt thô kệch, đeo tạp dề. Bà ta cho biết mình là vợ của người gác cửa và làm tạp vụ ở đây, tôi bảo bà ta pha một tách cà phê.

Tôi chép thêm hai điều khoản nữa và lại cảm thấy buồn ngủ hơn bao giờ hết, tôi đứng dậy và đi lại trong phòng cho dãn gân cốt. Chưa thấy tách cà phê đâu cả, và tôi tự hỏi vì sao mà chậm trễ đến thế. Tôi mở cửa phòng và đi ra hành lang xem thế nào. Có một hành lang thẳng được thắp sáng lờ mờ từ phòng làm việc của tôi và cũng là lối ra duy nhất của phòng này. Cuối hành lang ấy là một cầu thang cong đi xuống hành lang tầng dưới thông với phòng của người gác cổng. Giữa cầu thang này là một chiếu nghỉ thông với một hành lang phụ ở bên tay phải. Hành lang thứ nhì này thông với một cầu thang nhỏ dẫn ra cửa hông dành cho những người phục vụ và cũng là lối đi tắt mà các nhân viên vẫn hay dùng khi vào từ phía phố Charles. Đây là sơ đồ vẽ phác nơi này!"

"Cảm ơn ông. Tôi nghĩ là mình đã nắm được", Sherlock Holmes nói.

"Và đây là điểm quan trọng nhất mà ông cần lưu ý. Tôi đi xuống cầu thang rồi bước theo hành lang trệt và nhìn thấy người gác cổng đang ngủ say sưa trong căn phòng nhỏ của ông ta, trong khi ấm nước đang sôi sùng sục trên đèn cồn. Tôi nhấc ấm nước ra và thổi tắt ngọn đèn vì nước trong ấm đã trào xuống nền nhà. Sau đó tôi đưa tay ra chuẩn bị đánh thức người gác cổng hãy còn đang ngủ li bì thì chợt cái chuông treo phía trên đầu ông ta reo inh ỏi và ông ta giật mình thức dậy.

'Ông Phelps, thưa ông!' Ông ta nói và bối rối nhìn tôi.

'Tôi xuống đây để xem cà phê của tôi đã pha xong chưa.'

'Tôi đang đun nước thì chợt ngủ thiếp đi, thưa ông.' Ông ta nhìn tôi rồi ngước lên nhìn cái chuông vẫn còn đang đung đưa với vẻ ngạc nhiên càng lúc càng hiện rõ hơn trên mặt.

'Nếu ông đứng đây vậy ai đã kéo chuông?' Ông ta hỏi.

'Chuông!' Tôi kêu lên. 'Chuông nào?'

'Đây là cái chuông của phòng ông vừa làm việc đó.'

Tưởng như có một bàn tay lạnh buốt áp vào tim tôi. Vậy là có ai đó ở trong phòng, nơi bản hiệp ước vô cùng quan trọng còn nằm trên bàn. Tôi phóng như điên lên cầu thang và chạy dọc theo hành lang. Không có ai ở đó cả, ông Holmes ạ. Cũng không có ai trong phòng. Tất cả mọi thứ đều giống hệt như khi tôi bước ra, chỉ trừ có xấp tài liệu được giao phó cho tôi trước đó nằm trên bàn mà lúc ấy đã bị lấy đi. Bản sao thì còn đó nhưng bản chính đã biến mất."

Holmes ngồi thẳng dậy và xoa hai tay vào nhau. Tôi có thể thấy là vụ này đã chiếm trọn tâm trí anh. "Xin hãy cho biết lúc đó ông làm gì?" Anh khẽ hỏi.

"Ngay lập tức tôi nhận ra rằng kẻ trộm phải đi lên đây bằng cầu thang từ cửa hông. Nếu không thì chắc chắn là tôi đã trông thấy hắn."

"Ông không nghĩ rằng hắn đã nấp trong phòng từ trước, hoặc trong hành lang mà như ông vừa tả là chỉ sáng lờ mờ?"

"Điều này là hoàn toàn không thể. Đến một con chuột cũng không sao trốn được cả ở trong phòng hay ngoài hành lang. Không có một chỗ nào để nấp hết."

"Cảm ơn ông. Xin hãy kể tiếp."

"Thấy mặt tôi tái xanh, người gác cổng biết rằng đã có chuyện gì nghiêm trọng nên cũng theo tôi lên cầu thang. Cả hai chúng tôi cùng chạy theo hành lang và phóng xuống cầu thang dốc dẫn ra phố Charles. Phía cuối cầu thang là cánh cửa đã đóng nhưng không khóa. Chúng tôi mở tung cửa và chạy ra ngoài. Tôi còn nhớ rõ là khi đó tôi nghe thấy ba tiếng chuông đồng hồ từ một căn nhà bên cạnh. Lúc đó là 10 giờ kém 15."

"Chi tiết này vô cùng quan trọng", Holmes nói và ghi lên cổ tay áo sơmi.

"Bầu trời đêm rất tối và đang có một cơn mưa nhẹ ấm áp. Không có bóng người nào trên phố Charles, nhưng như thường lệ, ở phía Whitehall vẫn vô cùng đông đúc. Chúng tôi vội vã chạy dọc theo hè phố, đầu cứ để trần như thế và khi đến góc phố phía xa thì gặp một viên cảnh sát đứng đó.

'Vừa mới xảy ra một vụ trộm', tôi hổn hển nói. 'Một tài liệu rất có giá trị đã bị đánh cắp khỏi bộ Ngoại giao. Ông có thấy ai đi ngang qua đây không?'

'Tôi đã đứng đây được mười lăm phút, thưa ông,' anh ta đáp, 'trong khoảng thời gian đó chỉ có một người đi ngang qua - một phụ nữ cao và lớn tuổi, đầu quàng khăn hoa.'

'À, đó chính là bà nhà tôi', người gác cổng kêu lên, 'ông không còn trông thấy ai khác sao?'

'Không ai cả.'

'Thế thì chắc chắn là tên trộm đã chạy phía kia', ông ta kêu lên và kéo mạnh tay áo tôi. Nhưng tôi không tin, và vì ông ta cố tình lôi tôi đi nên tôi lại càng nghi ngờ.

'Người phụ nữ đó đi về hướng nào?' Tôi hét lên.

'Tôi không rõ, thưa ông. Tôi chỉ nhận thấy bà ta đi ngang qua nhưng lúc đó tôi không có lí do gì đặc biệt để quan sát bà ta. Có vẻ như bà ta rất vội vã.'

'Đã được bao lâu rồi?'

'À, cũng không lâu lắm đâu.'

'Độ trong vòng năm phút?'

'Xem nào, có lẽ là không quá năm phút.'

'Ông đang phí phạm thời gian, thưa ông, và từng phút lúc này đều rất quý giá,' người gác cổng kêu lên, 'tôi xin thề là bà nhà tôi không có liên quan gì đến việc này và ta hãy đi đến đầu phố đằng kia. Được, nếu ông không đi, tôi sẽ đi.'

Nói xong ông ta lao về phía kia. Nhưng tôi đã đuổi theo ông ta ngay và nắm tay áo ông ta.

'Nhà ông ở đâu?' Tôi hỏi.

'Số 16 ngõ Ivy, Brixton,' ông ta đáp. 'Nhưng ông đừng để bị lạc hướng, ông Phelps. Hãy đi đến cuối phố kia xem có nghe ngóng được gì không.'

Làm theo đề nghị của ông ta cũng chẳng mất gì nên cùng với người cảnh sát, chúng tôi vội vã chạy xuống cuối phố, có điều chỉ thấy xe cộ đầy đường, nhiều người qua lại nhưng ai cũng vội vã tìm chỗ trú mưa trong một đêm ướt át thế này. Chẳng có ai nhàn rỗi để có thể cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Sau đó chúng tôi quay trở lại văn phòng và lục soát cầu thang cùng hành lang nhưng chẳng tìm thấy gì. Hành lang dẫn đến phòng tôi có một tấm trải sàn màu kem nên rất dễ nhìn thấy các dấu vết. Chúng tôi kiểm tra rất kĩ nhưng không hề thấy một dấu chân nào."

"Trời mưa suốt cả tối hôm đó?"

"Từ lúc 7 giờ trở đi."

"Vậy thì làm sao người phụ nữ đó đi vào phòng lúc khoảng 9 giờ mà giày dính bùn của bà ta không để lại dấu vết?"

"Tôi mừng vì ông đã nhận ra vấn đề. Lúc đó tôi cũng nghĩ đến điều này. Nhưng những người tạp dịch có thói quen cởi giày ra ở phòng người gác cổng và đi dép vải vào."

"Rất rõ ràng. Không có dấu chân dù là đêm đó trời mưa. Chuỗi sự kiện này chắc chắn là vô cùng thú vị. Sau đó các ông làm gì?"

"Chúng tôi đã lục soát cả căn phòng. Không thể có một cánh cửa bí mật và các cửa sổ thì cách mặt đất đến ba mươi foot, cả hai đều được cài lại từ bên trong. Sàn nhà có trải thảm nên loại trừ khả năng có cửa lật ở dưới, còn trần nhà thì được quét vôi màu trắng bình thường. Tôi dám lấy mạng mình ra mà đánh cá rằng cái kẻ đã đánh cắp tài liệu của tôi chỉ có thể đi vào phòng bằng cửa chính."

"Thế ống khói thì sao?"

"Chúng tôi không dùng lò sưởi có ống khói. Sợi dây chuông thì được treo vào sợi dây thép ngay bên phải bàn giấy của tôi. Ai muốn giật dây chuông phải đi đến sát bàn tôi. Nhưng tại sao tên trộm lại muốn rung chuông? Đây quả là một bí mật không thể nào giải thích được."

"Tất nhiên là chi tiết này rất bất thường. Thế rồi sau đó ông làm gì? Ông kiểm tra căn phòng, tôi đoán thế, để xem kẻ đột nhập có để lại dấu vết nào không - một mẩu xì gà hay một cái bao tay bị đánh rơi, một cái cặp tóc hay một món đồ lặt vặt nào khác?"

"Không hề có bất cứ thứ gì."

"Không có mùi gì sao?"

"Chúng tôi chưa từng nghĩ đến điều này."

"À, một chút mùi khói thuốc cũng rất có giá trị đối với chúng ta trong một vụ điều tra như thế này."

"Bản thân tôi thì không bao giờ hút thuốc nên tôi nghĩ rằng nếu có mùi khói thuốc trong phòng thì tôi đã nhận ra ngay. Hoàn toàn không có chút dấu vết nào cả. Sự việc rõ ràng duy nhất là vợ của người gác cổng - bà Tangey - đã vội vã rời khỏi hiện trường. Ông chồng không đưa ra được lời giải thích nào, mà chỉ nói rằng bà ta thường về nhà vào giờ đó. Viên cảnh sát và tôi đồng ý rằng thượng sách là phải tóm ngay trước khi bà ta kịp tẩu tán mớ tài liệu, nếu như quả thật bà ta có chúng trong tay. Lúc đó Sở Cảnh sát London cũng đã được thông báo, thám tử Forbes đã đến ngay và dốc sức điều tra. Chúng tôi thuê một cỗ xe ngựa hai bánh và nửa giờ sau đã đến địa chỉ mà người gác cổng cung cấp. Một cô gái trẻ nhận mình là con gái út của bà Tangey ra mở cửa. Mẹ cô ta vẫn chưa về và chúng tôi được đưa vào phòng khách đợi. Khoảng mười phút sau thì có tiếng gõ cửa và lúc đó chúng tôi đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng mà tôi vẫn tự trách mình. Chúng tôi không tự ra mở cửa mà lại để cho cô gái làm việc ấy. Chúng tôi nghe thấy cô ta nói: 'Mẹ ơi, có hai ông đang ở trong nhà đợi gặp mẹ', rồi ngay sau đó là tiếng bước chân vội vã chạy dọc hành lang. Ông Forbes đẩy tung cửa ra và cả hai chúng tôi chạy vào phòng sau hay nhà bếp gì đó, nhưng người phụ nữ đó đã ở đấy trước chúng tôi. Bà ấy giương mắt nhìn chúng tôi chòng chọc với vẻ thách thức và rồi, khi nhận ra tôi thì vẻ kinh ngạc tột độ hiện rõ trên mặt bà ta.

'Ủa, ông Phelps ở văn phòng đó sao!' Bà ta kêu lên.

'Sao, thế bà nghĩ chúng tôi là ai mà lại bỏ chạy như thế?' Người đi cùng với tôi hỏi.

'Tôi cứ nghĩ các ông là những người thu nợ', bà ta đáp, 'vì chúng tôi đang gặp rắc rối với một người bán hàng.'

'Nói thế không được đâu', Forbes trả lời. 'Chúng tôi có đủ lí do để tin rằng bà đã lấy đi một tài liệu quan trọng của bộ Ngoại giao và bà chạy vào đây để giấu nó. Bà phải đi với chúng tôi đến Sở Cảnh sát London để khám xét.'

Bà ta phản đối và chống cự nhưng vô ích. Một cỗ xe ngựa bốn bánh được điều đến và cả ba chúng tôi lên xe. Trước đó chúng tôi đã lục soát căn bếp, đặc biệt là cái bếp lò để xem xấp giấy có bị hủy lúc bà ta chỉ có một mình trong bếp hay không. Thế nhưng, chẳng tìm thấy chút dấu vết nào của tàn tro hay những mảnh giấy vụn. Khi chúng tôi đến Sở Cảnh sát London thì bà ta được giao ngay cho một nhân viên nữ để khám xét. Tôi nóng lòng hết mức chờ đợi kết quả cho đến khi cô nhân viên bước ra cùng với bản báo cáo. Không tìm thấy dấu vết nào của tập tài liệu.

Bấy giờ, lần đầu tiên nỗi lo sợ kinh hoàng về những gì xảy ra mới ập đến cùng với toàn bộ sức nặng của nó. Trước đấy tôi vẫn còn hành động và điều đó giúp tôi bớt suy nghĩ. Tôi đã rất tự tin là sẽ sớm đoạt lại được bản hiệp ước và không dám nghĩ đến hậu quả sẽ ra sao nếu không tìm thấy nó. Nhưng đến lúc ấy thì chẳng thể làm gì hơn được nữa và tôi mới có thời gian để nhận ra tình thế của mình. Thật khủng khiếp. Anh Watson đây có thể cho ông biết khi còn đi học tôi vốn nhút nhát và nhạy cảm. Đó là bản tính của tôi. Tôi nghĩ đến cậu tôi và các vị trong chính phủ, về nỗi ô nhục mà tôi sẽ đem lại cho ông, cho chính tôi và cho tất cả những người liên quan đến tôi. Cho dù tôi là nạn nhân của một sự cố bất thường đi nữa nhưng làm sao có thể lấy lí do gặp sự cố để bao biện cho một việc có nguy cơ làm đổ bể công vụ ngoại giao. Tôi đã mất hết, mất hết trong hổ thẹn và vô vọng. Tôi không còn biết mình đã làm gì. Tôi đoán hẳn là mình đã làm ầm cả lên. Tôi nhớ lờ mờ là một nhóm cảnh sát xúm lại quanh tôi và gắng sức làm cho tôi bình tĩnh lại. Một trong số họ đã đưa tôi ra ga Waterloo và đứng đợi cho đến khi thấy tôi lên chuyến tàu về Woking. Chắc anh ta đã đi cùng đến tận nơi nếu như không có bác sĩ Ferrier ở gần nhà tôi cũng đi chuyến tàu ấy. Ông bác sĩ đã rất tử tế nhận chăm sóc tôi và may mà có ông ấy vì ở ga tàu tôi đã bị một cơn co giật và trước khi về đến nhà, tôi gần như phát điên.

Ông có thể hình dung được cảnh tượng ở đây ra sao khi mọi người bị dựng dậy lúc ông bác sĩ bấm chuông và thấy tôi trong tình trạng như thế. Annie tội nghiệp đây và mẹ tôi đều tan nát cõi lòng. Bác sĩ Ferrier có nghe viên thanh tra nói qua lúc ở nhà ga nên cũng giải thích sơ việc đã xảy ra, song câu chuyện của ông cũng không giải quyết được vấn đề. Mọi người đều nhận thấy rõ là tôi sẽ phải ở đây lâu dài để điều trị cho nên anh Joseph đã phải dọn khỏi căn phòng ngủ ấm cúng này và nó biến thành phòng bệnh của tôi. Tại đây tôi đã nằm hơn chín tuần trong tình trạng mất trí và cuồng loạn vì chứng viêm não, ông Holmes ạ. Nếu như không có sự chăm sóc của Annie và bác sĩ, hẳn là giờ này tôi không còn nói chuyện được với ông. Nàng chăm sóc tôi ban ngày và một người y tá được thuê đến trông nom tôi vào ban đêm, vì trong những cơn điên dại tôi có thể làm bất cứ điều gì. Dần dần trí óc của tôi cũng bình thường trở lại nhưng phải đến ba ngày vừa rồi thì trí nhớ mới phục hồi hoàn toàn. Có những lúc tôi ước sao nó đừng phục hồi. Việc đầu tiên tôi làm là gửi một bức điện cho ông Forbes là người thụ lí vụ này. Ông ta đến và khẳng định với tôi rằng dù đã thực hiện đủ mọi biện pháp nhưng vẫn chưa phát hiện được dấu vết nào. Người gác cổng và vợ ông ta đã được kiểm tra kĩ mọi mặt mà vấn đề vẫn chẳng sáng tỏ thêm chút nào. Do đó cảnh sát dồn nghi ngờ lên anh chàng Gorot trẻ tuổi, hẳn ông còn nhớ tối hôm đó anh ta là người đã ở lại văn phòng để làm thêm giờ. Việc ở lại trễ và cái tên gốc Pháp chính là hai điểm có thể khiến anh ta bị nghi ngờ, nhưng thực ra thì tôi đã đợi đến khi anh ta về rồi mới bắt đầu công việc và tuy có gốc Huguenotnhưng về mặt tình cảm và truyền thống, anh ta hoàn toàn Anh giống như tôi và ông vậy. Xét bất cứ mặt nào cũng không tìm ra được một điểm gì để nghi ngờ anh ta, và vì thế mà vấn đề bị tắc ở đó, ông Holmes ạ, ông là tia hi vọng cuối cùng của tôi. Nếu ông cũng thất bại thì danh dự và sự nghiệp của tôi sẽ tiêu tan vĩnh viễn."

Người bệnh lại ngả người xuống tấm nệm vì mệt mỏi sau khi kể lại cả câu chuyện dài, trong khi cô gái cho anh ta uống một cốc chứa thứ thuốc kích thích gì đó. Holmes lặng lẽ ngồi yên, đầu ngả ra sau và hai mắt nhắm nghiền, thái độ của anh dễ khiến người lạ tưởng là thờ ơ nhưng tôi biết đó là dấu hiệu của sự tập trung suy nghĩ cao độ.

"Lời kể của ông rất rõ ràng", mãi sau anh mới lên tiếng, "tôi không cần phải hỏi gì nhiều nữa, nhưng có một câu cực kì quan trọng. Ông có cho ai biết là mình thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này không?"

"Tôi chẳng cho ai biết cả."

"Chẳng hạn như cô Harrison đây, ông cũng không nói chứ?"

"Không. Từ khi nhận được lệnh và làm việc ấy tôi chưa hề quay về Woking."

"Và không tình cờ gặp người thân nào của ông?"

"Không."

"Trong những người đó có ai biết các lối đi ở chỗ làm của ông không?"

"Ồ, có chứ, tất cả đều đã từng vào đó."

"Vậy, nếu ông không nói với bất cứ ai về bản hiệp ước thì tất nhiên những câu hỏi này quả là thừa."

"Tôi chẳng nói gì cả."

"Ông có biết gì về người gác cổng không?"

"Không, tôi chỉ biết rằng ông ta là một cựu quân nhân."

"Thuộc trung đoàn nào?"

"Ồ, tôi có nghe nói đó là trung đoàn Coldstream Guards."

"Cảm ơn ông. Chắc chắn tôi có thể thu thập thêm chi tiết từ ông Forbes. Các nhà chức trách rất giỏi thu thập thông tin, có điều là ít khi họ tận dụng được chúng. Đóa hoa kia mới đáng yêu làm sao!"

Anh bước qua chỗ kê trường kỉ để đến bên cửa sổ đang mở, cầm lên một cành hoa mười giờ ngả rạp xuống và nhìn ngắm sự pha trộn hài hòa của hai màu xanh đỏ. Đối với tôi thì đây là một nét mới mẻ trong tính cách của anh vì chưa bao giờ tôi thấy anh tỏ ra quan tâm sâu sắc đến các tạo vật thiên nhiên.

"Không có lĩnh vực nào cần sự suy luận như tôn giáo", anh nói trong khi tựa lưng vào cánh cửa chớp. "Một nhà tư duy có thể xây dựng tôn giáo thành một loại hình khoa học chính xác. Theo tôi thì dường như bằng chứng cao nhất về lòng tốt của Thượng Đế là những bông hoa. Tất cả những thứ khác ta có như sức mạnh, dục vọng, thực phẩm đều thực sự cần thiết cho sự sinh tồn của con người thuở ban sơ. Những bông mười giờ này đây lại là một phần thưởng. Mùi hương và màu sắc của nó tô điểm cho đời, chứ không phải là điều kiện cần cho đời sống. Chỉ có lòng tốt mới ban thưởng, cho nên tôi nhắc lại là cứ trông vào những đóa hoa thì ta còn nhiều hi vọng."

Trong khi Holmes thuyết giảng thì Percy Phelps cùng cô gái nhìn anh với vẻ ngạc nhiên và trên mặt cả hai hiện lên vẻ thất vọng rõ mồn một. Anh đã đắm chìm vào cơn mơ màng với bông hoa mười giờ trên tay. Cơn mơ mộng ấy kéo dài vài phút cho đến khi cô gái chen vào.

"Ông thấy có hi vọng giải được bí ẩn này không, thưa ông Holmes?" Cô hỏi với đôi chút khó chịu.

"Ồ, bí ẩn này hả?" Anh trả lời như vừa sực tỉnh trước hiện thực. "Xem nào, nếu bảo rằng đây không phải là một vụ rất khó hiểu thì thật là phi lí, nhưng tôi hứa với cô là tôi sẽ điều tra và báo cho cô biết những điểm đáng chú ý."

"Thế ông đã thấy có dấu hiệu nào chưa?"

"Quý vị đã cung cấp cho tôi được bảy dấu hiệu, nhưng tất nhiên là tôi còn phải kiểm tra trước khi khẳng định giá trị của chúng."

"Ông cỏ nghi ngờ người nào đó chăng?"

"Tôi đang nghi ngờ chính mình.."

"Sao chứ?"

"Vì đã đi đến kết luận quá vội vã."

"Vậy ông hãy trở về London và kiểm tra lại các kết luận của mình đi."

"Lời khuyên của cô rất hay, thưa cô Harrison", Holmes đáp và đứng dậy. "Watson này, tôi nghĩ rằng mình chẳng thể làm gì hơn được. Đừng nuôi những hi vọng hão huyền, ông Phelps ạ. Vụ này rất rối rắm."

"Chừng nào chưa gặp lại ông, tôi còn sẽ nóng ruột lắm", người viên chức ngoại giao kêu lên.

"Vâng, ngày mai tôi sẽ trở lại trên chuyến tàu cùng giờ này dù rất có thể sẽ không đem lại được cho ông tin tức tốt lành cho lắm."

"Cầu Chúa phù hộ cho ông vì đã hứa sẽ quay lại", thân chủ của chúng tôi cao giọng nói. "Nó đem lại cho tôi nguồn sinh lực khi biết rằng điều gì đó đang được tiến hành. Nhân tiện, tôi cho ông biết rằng tôi có nhận được một bức thư từ thượng nghị sĩ Holdhurst."

"Thế à! Ông ta nói sao?"

"Lời thư lạnh lùng nhưng không khắc nghiệt. Tôi dám chắc rằng đó là nhờ cơn bệnh trầm trọng của tôi mà ông nhẹ bớt đi. Ông lặp lại là vấn đề này vô cùng quan trọng và thêm rằng sẽ không có quyết định gì về tương lai của tôi - tất nhiên điều đó hàm ý về việc tôi bị sa thải - cho đến khi sức khỏe của tôi được hồi phục và tôi có cơ hội để sửa chữa sai lầm của mình."

"Tốt, ông ấy là người biết điều và tử tế," Holmes nói. "Đi nào, Watson, vì chúng ta hãy còn nhiều công việc phải làm cho cả ngày ở London."

Ông Joseph Harrison đưa chúng tôi ra ga và chúng tôi nhanh chóng lên chuyến tàu Portsmouth để lao về thành phố. Holmes chìm trong suy tư và chỉ lên tiếng khi chúng tôi đi qua ga đầu mối Clapham.

"Thật là vui khi trở về London bằng tuyến đường sắt trên cao vì ta có thể nhìn xuống những ngôi nhà như thế này."

Tôi cho rằng anh đang nói đùa vì quang cảnh bên ngoài trông khá nhếch nhác, nhưng anh đã nhanh chóng giải thích câu nói của mình.

"Anh hãy nhìn những tòa nhà to lớn, tách biệt, vượt hẳn lên những mái ngói kia, chúng tựa như những hòn đảo gạch giữa một đại dương xám xịt."

"Đó là các trường nội trú."

"Là những ngọn hải đăng, bạn ạ! Những tín hiệu của tương lai! Những quả nang chứa đựng hàng trăm hạt giống tươi sáng bên trong, một Anh quốc của tương lai thông minh, tốt đẹp hơn sẽ vươn lên từ đó. Tôi cho rằng ông Phelps không uống rượu chứ?"

"Tôi nghĩ là không."

"Tôi cũng nghĩ thế, nhưng ta phải xét đến mọi khả năng. Anh chàng tội nghiệp đó đã chìm sâu quá rồi và vấn đề là liệu ta có đủ khả năng để đưa được anh ta vào bờ hay không. Anh nghĩ sao về cô Harrison?"

"Một cô gái có cá tính mạnh mẽ."

"Phải, nhưng cô ta là một người tốt, nếu như tôi không lầm. Cô ta và anh trai là con của một quản đốc nhà máy sản xuất đồ sắt ở đâu đó trên hạt Northumberland. Ông Phelps phải lòng cô ta trong chuyến du lịch mùa đông vừa rồi và cô ta xuống đây để ra mắt gia đình anh ta, còn ông anh đi theo hộ tống. Sau đó tai họa xảy ra và cô ta ở lại để chăm sóc người yêu trong khi ông anh Joseph thấy sống ở đó khá dễ chịu nên cũng ở lại. Anh thấy đấy, tôi đã hỏi riêng được một số điều. Mà hôm nay hẳn là một ngày để hỏi đây."

"Phòng khám của tôi..." Tôi lên tiếng.

"Ồ, nếu anh thấy những bệnh nhân của mình thú vị hơn là việc điều tra của tôi thì...", Holmes nói, hơi có vẻ khó chịu.

"Tôi vừa định nói là phòng khám của tôi vẫn ổn trong một hoặc hai ngày tới vì lúc này đang là thời điểm vắng khách nhất trong năm."

"Tuyệt vời", anh nói và trở lại trạng thái vui vẻ. "Thế thì ta sẽ cùng nhau điều tra vụ này. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên bắt đầu bằng việc đến gặp Forbes. Có thể ông ta sẽ cho biết tất cả những chi tiết mà ta đang cần trước khi quyết định nên tiếp cận vụ này từ hướng nào."

"Sao anh bảo đã có manh mối?"

"Ừ, thì chúng ta đã có được một số nhưng chỉ có thể kiểm tra giá trị của chúng bằng những bước điều tra tiếp theo. Vụ án khó lần theo nhất là vụ án không có động cơ. Vụ này thì không phải như vậy. Ai có lợi trong chuyện này? Là ông đại sứ Pháp, là đại sứ Nga, và bất kì kẻ nào có thể bán được tài liệu đó cho một trong hai người đó, lại còn thượng nghị sĩ Holdhurst."

"Thượng nghị sĩ Holdhurst sao?"

"Cũng có khả năng một chính khách ở vào vị thế không tiếc gì khi một tài liệu như thế vô tình bị tiêu hủy."

"Nhưng làm sao có thể là một chính khách có lí lịch danh giá như thượng nghị sĩ Holdhurst chứ?"

"Đó là một khả năng và chúng ta chưa thể loại ra được. Hôm nay chúng ta sẽ gặp ông nghị sĩ cao quý ấy xem ông ta có thể cho chúng ta biết được điều gì. Đồng thời tôi cũng đã bắt đầu tìm kiếm thông tin."

"Đã?"

"Phải, lúc còn ở nhà ga Woking tôi đã gửi điện đến tất cả các tòa soạn báo ra buổi chiều tại London. Bản tin này sẽ xuất hiện trên tất cả các báo."

Anh chìa ra một mảnh giấy xé từ một cuốn sổ tay. Trên mảnh giấy có ghi nguệch ngoạc bằng bút chì như sau: Thưởng 10 bảng cho ai biết số xe của cỗ xe ngựa đã thả một người khách xuống trước hoặc gần cổng bộ Ngoại giao trên phố Charles vào lúc 10 giờ kém 15, tối 23 tháng 5. Liên lạc số 221B, phố Baker.

"Anh tin là tên trộm đến bằng xe ngựa?"

"Không phải thế thì cũng chẳng hại gì. Nhưng nếu ông Phelps không lầm khi nói rằng không có chỗ nấp nào ở cả trong văn phòng lẫn bên ngoài hành lang, thì kẻ ấy phải đến từ bên ngoài. Nếu hắn đi vào từ phía ngoài trong một đêm mưa như thế mà không để lại một dấu chân ướt nào trên tấm vải sơn đã kiểm tra chỉ vài phút sau khi hắn đi qua thì có nhiều khả năng là hắn đến bằng xe ngựa. Vâng, tôi nghĩ rằng suy luận về một cỗ xe của ta là khá chắc chắn."

"Nghe có vẻ hợp lí đấy."

"Đó là một trong những manh mối mà tôi đã nói đến. Có thể nó sẽ cho ta biết điều gì đó. Và tiếp theo, tất nhiên rồi, còn cái chuông nữa - đây là nét đặc biệt nhất trong vụ này. Tại sao cái chuông lại reo lên? Có phải tên trộm muốn tỏ ra là mình can đảm không? Hay là có ai đó đi cùng với hắn đã rung chuông để ngăn vụ trộm? Hay đó chỉ là sự chẳng may? Hay là..." Anh lại rơi vào trạng thái suy tư cao độ và trầm lặng trước đó, nhưng vì đã quen với từng tâm trạng của anh, nên tôi cảm thấy có lẽ một khả năng mới vừa chợt lóe lên trong đầu anh.

Chúng tôi đến ga cuối lúc 3 giờ 20 và sau bữa ăn trưa gấp gáp tại quầy giải khát ở ga, chúng tôi đi ngay đến Sở Cảnh sát London. Holmes đã gửi điện cho Forbes và anh ta đang đợi chúng tôi - đó là một người thấp nhỏ, có vẻ tinh ranh và sắc sảo nhưng không hề tỏ ra hòa nhã chút nào. Thái độ của anh ta đối với chúng tôi rất lạnh lùng, đặc biệt là khi nghe nói đến mục đích của cuộc gặp mặt.

"Tôi từng nghe nói đến các phương pháp của ông, ông Holmes ạ", anh ta nói một cách chua cay. "Ông không ngần ngại sử dụng những thông tín mà cảnh sát cung cấp rồi sau đó cố gắng tự phá án và làm cho họ phải mất mặt."

"Ngược lại", Holmes đáp, "trong số năm mươi ba vụ vừa rồi, tên tôi chỉ xuất hiện trong bốn vụ và cảnh sát được hưởng hoàn toàn danh tiếng trong bốn mươi chín vụ kia. Tôi không trách ông vì không biết điều đó, ông hãy còn trẻ và chưa có nhiều kinh nghiệm, nhưng nếu ông muốn thăng tiến trong những nhiệm vụ mới thì hãy hợp tác và đừng đối đầu với tôi."

"Tôi rất vui nếu có được một vài lời khuyên", viên thanh tra nói và thay đổi thái độ. "Cho đến giờ tôi vẫn chưa có chút công trạng nào trong vụ này."

"Ông đã tiến hành những bước nào rồi?"

"Tôi đã theo dõi ông gác cổng Tangey. Ông ta xuất ngũ với một nhân thân trong sạch và chúng tôi cũng không thể tìm thấy điều gì để nghi ngờ ông ta. Thế nhưng bà vợ thì rất tệ. Tôi cho rằng bà ta biết nhiều hơn những gì mình nói."

"Ông đã theo dõi bà ta chưa?"

"Chúng tôi đã cho một nhân viên nữ theo dõi bà ta. Bà Tangey có thói rượu chè, người của chúng tôi đã từng ngồi với bà ta hai lần lúc bà ta đang cao hứng, nhưng cô ấy chẳng moi được chút gì từ bà ta."

"Tôi được biết là những người thu nợ đã đến nhà họ phải không?"

"Vâng, nhưng họ đã trả nợ xong hết rồi."

"Tiền đâu mà họ có?"

"Không có gì bất ổn. Ông chồng đã đến kì nhận lương. Không có dấu hiệu gì cho thấy họ dư dả mấy."

"Thế bà ta giải thích thế nào về việc xuất hiện khi ông Phelps rung chuông gọi cà phê?"

"Bà ta nói rằng vì ông chồng mệt quá nên muốn đỡ cho ông ta."

"À, điều này hoàn toàn phù hợp với việc một lát sau ông ta bị bắt gặp đang ngủ trên ghế. Không có điều gì bất lợi cho họ ngoại trừ tính cách của bà vợ. Ông có hỏi vì sao mà bà ta lại gấp rút bỏ đi vào tối hôm đó không? Vẻ vội vàng của bà ta khiến cho viên cảnh sát phải chú ý."

"Bà ta làm muộn hơn mọi ngày và muốn về nhà ngay."

"Ông có vạch cho bà ta thấy là ông cùng với ông Phelps bắt đầu đi sau bà ta ít nhất hai mươi phút vậy mà lại đến nhà sớm hơn?"

"Bà ta giải thích là do xe ngựa công cộng và xe ngựa thuê riêng nhanh chậm khác nhau."

"Thế bà ta có nói rõ vì sao khi vừa về đến nhà là bà ta chạy ngay ra sau bếp không?"

"Bởi vì bà ta cất tiền ở đó để dành trả cho những người thu nợ."

"Ít ra thì bà ta có đủ lí lẽ để giải đáp mọi nghi vấn. Ông có hỏi là khi rời khỏi bộ Ngoại giao bà ta có gặp người nào hoặc trông thấy ai đang lảng vảng trên phố Charles hay không?"

"Bà ta chẳng nhìn thấy ai ngoại trừ viên cảnh sát."

"Tốt, có vẻ như ông đã thẩm vấn bà ta khá kĩ lưỡng. Ngoài ra ông còn làm gì nữa?"

"Chúng tôi theo dõi nhân viên Gorot suốt chín tuần qua nhưng chẳng có kết quả gì. Chúng tôi không thể đưa ra chứng cứ gì để buộc tội ông ta."

"Còn gì nữa không?"

"Chúng tôi còn gì để mà tiếp tục nữa - không có bất kì bằng chứng nào."

"Ông nghĩ gì về tiếng chuông reo?"

"Thú thật là tôi chịu thua. Cho dù kẻ đó là ai đi nữa thì hắn cũng rất bạo gan mới dám đi vào phòng và rung chuông như thế."

"Đúng thế, điều đó rất là quái lạ. Cảm ơn ông rất nhiều vì đã cho biết các thông tin. Nếu tôi có thể trao tên trộm đó cho ông thì ông sẽ sớm nhận được tin. Ta đi nào, Watson."

"Giờ thì chúng ta đi đâu?" Tôi hỏi khi đã ra khỏi văn phòng.

"Chúng ta sắp sửa phỏng vấn thượng nghị sĩ Holdhurst, bộ trưởng và thủ tướng tương lai của Anh quốc."

Chúng tôi may mắn vì thượng nghị sĩ Holdhurst hãy còn trong văn phòng của ông ta ở phố Downing và sau khi danh thiếp của Holmes được trình lên, chúng tôi được đưa vào ngay lập tức. Vị chính khách tiếp đón chúng tôi với cung cách lịch sự cổ điển đặc trưng của mình và mời chúng tôi ngồi vào hai chiếc ghế bành sang trọng kê hai bên lò sưởi, ông đứng giữa chúng tôi, dáng người cao, thanh nhã, khuôn mặt sắc sảo và trầm tư, mái tóc quăn sớm nhuốm bạc, dường như ông là đại diện của một kiểu người hiếm gặp, một quý tộc đích thực.

"Tôi đã nghe danh ông nhiều, thưa ông Holmes", ông ta mỉm cười nói. "Và tất nhiên là tôi không thể nào làm ra vẻ chẳng hay biết gì về mục đích của chuyến viếng thăm. Trong tòa nhà này chỉ có một sự việc duy nhất có thể khiến ông quan tâm. Nhưng tôi xin phép được hỏi là ông đang làm việc cho ai?"

"Cho ông Percy Phelps", Holmes đáp.

"À, đứa cháu bất hạnh của tôi! Chắc ông cũng hiểu rằng chính vì mối quan hệ họ hàng của chúng tôi mà tôi càng không được phép che chở cho anh ta. Tôi e là sự cố này chắc chắn sẽ gây tổn hại to lớn cho sự nghiệp của anh ta."

"Nhưng nếu tìm thấy tập tài liệu đó thì sao?"

"À, tất nhiên là sự việc sẽ khác đi."

"Tôi có một vài câu hỏi muốn được đặt ra với ngài, thưa thượng nghị sĩ Holdhurst."

"Tôi rất vui lòng cung cấp cho ông bất cứ thông tin nào trong quyền hạn của mình."

"Có phải là ngài đã ban chỉ thị sao chép lại tập tài liệu đó trong chính căn phòng này?"

"Đúng thế."

"Thế thì khó có ai có thể nghe được cuộc đối thoại đó?"

"Chắc chắn thế."

"Có bao giờ ngài đề cập với ai về ý định giao cho người nào sao chép bản hiệp ước không?"

"Không bao giờ."

"Ngài chắc chứ?"

"Tuyệt đối."

"Vâng, vì ngài không bao giờ tiết lộ và ông Phelps cũng không bao giờ nói ra, đồng thời không có một người nào khác biết gì về chuyện này, nên sự có mặt của tên trộm trong văn phòng là hoàn toàn tình cờ. Hắn thấy cơ hội và chộp lấy."

Nhà chính khách mỉm cười nói. "Quả là ông đã mở rộng tầm mắt cho tôi."

Holmes cân nhắc giây lát. "Còn một điểm nữa rất quan trọng mà tôi mong được thảo luận với ngài", anh nói. "Theo như tôi được biết, ngài lo rằng một khi bản hiệp ước bị tiết lộ thì sẽ kéo theo những hậu quả rất trầm trọng."

Khuôn mặt biểu cảm của nhà chính trị thoáng sa sẩm. "Vô cùng nghiêm trọng, thật vậy."

"Và đã có gì xảy ra chưa?"

"Chưa."

"Nếu như bản hiệp ước ấy đã lọt vào tay, giả dụ như bộ Ngoại giao Pháp hoặc Nga, thì hẳn là ngài đã nhận được tin báo?"

"Đúng vậy", vị thượng nghị sĩ đáp, mặt nhăn nhó.

"Vì đã gần mười tuần trôi qua mà ngài vẫn chưa nghe thấy tin tức gì nên ta có thể cho rằng vì một lí do nào đó mà bản hiệp ước vẫn chưa đến tay họ."

Ông ta nhún vai. "Chúng ta khó có thể tin rằng tên trộm đánh cắp bản hiệp ước chỉ để đóng khung và treo nó lên, ông Holmes ạ."

"Có thể là hắn đang đợi để được giá cao hơn."

"Nếu hắn đợi lâu hơn chút nữa thì sẽ chẳng được gì. Chỉ vài tháng nữa là bản hiệp ước sẽ không còn bí mật nữa."

"Đó là điều quan trọng nhất", Holmes nói. "Tất nhiên là ta cũng có thể đưa ra giả thuyết là tên trộm đột nhiên ngã bệnh..."

"Một cơn viêm não, chẳng hạn?" Nhà chính khách hỏi, liếc nhanh sang Holmes.

"Tôi không định nói thế", Holmes điềm tĩnh nói. "Giờ thì, thưa ngài thượng nghị sĩ Holdhurst, chúng tôi đã chiếm khá nhiều thì giờ quý báu của ngài rồi, chúng tôi xin chúc ngài một ngày tốt lành."

"Chúc ông thành công trong cuộc điều tra, bất kể ai là thủ phạm", nhà quý tộc đáp lại khi ông ta cúi chào chúng tôi ở cửa.

"Ông ta là người tốt", Holmes nhận xét khi chúng tôi đi ra đường Whitehall. "Nhưng ông ta phải chật vật duy trì địa vị của mình, ông ta chẳng giàu có gì và phải tiếp đón nhiều khách khứa. Hẳn là anh nhận thấy đôi giày của ông ta đã phải thay đế. Giờ thì, Watson, tôi không cản trở anh quay về phòng khám nữa, tôi cũng không còn việc gì trong ngày hôm nay trừ phi nhận được hồi âm cho mẩu tin đăng báo về chiếc xe ngựa. Nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu ngày mai anh chịu đi cùng tôi đến Woking, cũng cùng giờ tàu hôm nay."

Vì thế sáng hôm sau tôi gặp lại anh và chúng tôi cùng đi tàu xuống Woking. Anh cho biết vẫn chưa nhận được tin tức nào từ mẩu tin đăng báo và vụ này cũng chưa sáng tỏ thêm chút nào. Mỗi khi quyết tâm, anh có vẻ mặt hoàn toàn bất động như thổ dân da đỏ và từ diện mạo đó tôi không thể nào đoán được anh có hài lòng với diễn tiến của vụ án hay không. Theo như tôi nhớ thì trong khi nói chuyện, anh có nhắc tới hệ thống nhận dạng Bertillon và anh bày tỏ sự ngưỡng mộ nhiệt thành đối với nhà nghiên cứu người Pháp này. Khi gặp lại, thân chủ của chúng tôi đã khỏe hơn nhiều dù vẫn cần vị hôn thê tận tụy của anh chăm sóc. Khi chúng tôi bước vào, anh ta liền đứng lên khỏi trường kỉ và đón chào chúng tôi mà không có vẻ mệt nhọc. "Có tin gì mới không?" Anh ta nôn nóng hỏi.

"Như đã dự đoán, bản báo cáo của tôi không có gì tích cực", Holmes nói. "Tôi đã gặp ông Forbes, cả người cậu của ông nữa, và đã tìm kiếm thông tin theo một, hai hướng có thể đem đến một kết quả."

"Ông không nản chứ?"

"Hoàn toàn không."

"Chúa phù hộ ông vì câu nói đó!" Cô Harrison kêu to. "Nếu chúng ta cứ giữ được lòng can đảm và sự kiên nhẫn thì nhất định sự thật sẽ hiện ra."

"Về phía chúng tôi thì có nhiều thứ hơn để kể cho các ông nghe", Phelps cho biết và ngồi xuống trường kỉ.

"Tôi cũng nghĩ thế."

"Vâng, đêm qua nhà tôi vừa xảy ra chuyện, và đó có thể là một sự việc nghiêm trọng." Khi nói vẻ mặt anh ta trở nên lo lắng và đôi mắt ánh lên vẻ gì đó gần như sợ hãi. "Ông biết không", anh kể, "tôi đã bắt đầu tin rằng mình là trung tâm của một âm mưu đáng sợ mà chẳng hay biết gì và có kẻ đang nhắm đến mạng sống cũng như danh dự của tôi."

"Thế à!" Holmes kêu lên.

"Chuyện này nghe thật khó tin vì tôi nghĩ mình chẳng có kẻ thù nào trên đời. Tuy nhiên, từ sự kiện xảy ra đêm qua tôi không thể đưa ra kết luận nào khác."

"Xin hãy kể tôi nghe."

"Ông phải biết rằng tối hôm qua là đêm đầu tiên tôi ngủ mà không có y tá trong phòng. Tôi đã khỏe hơn nhiều nên nghĩ rằng mình có thể ngủ một mình. Tuy nhiên tôi có thắp một ngọn đèn ngủ. Thế rồi, vào khoảng 2 giờ sáng khi đang mơ màng thì thình lình tôi bị đánh thức bởi một âm thanh nhỏ. Nó giống như tiếng chuột gặm gỗ và tôi nghĩ thế nên cứ nằm lặng yên một lúc. Thế rồi tiếng động ấy lớn dần lên và thình lình từ phía cửa sổ vang lên tiếng kim loại va vào nhau đến cách một cái. Tôi ngạc nhiên ngồi dậy. Không còn nghi ngờ gì nữa. Những âm thanh lúc đầu là do ai đó đang cố lách một dụng cụ qua khe cửa kính và tiếng động thứ nhì là do cái then cửa sổ bị đẩy ra. Không có tiếng động nào trong khoảng mười phút, tựa như kẻ đó đang đợi xem tôi có bị đánh thức hay không. Sau đó tôi nghe thấy một tiếng cọt kẹt nhẹ khi cánh cửa sổ từ từ mở ra. Tôi không thể chịu thêm được nữa vì thần kinh của tôi lúc này không còn được như trước. Tôi nhảy ra khỏi giường và giật tung mấy cánh cửa chớp. Một người đàn ông đang lom khom bên cửa sổ. Tôi chỉ có thể thoáng thấy vì hắn chuồn đi nhanh như chớp. Hắn mặc một loại áo choàng dài kéo cổ áo che đến ngang mặt. Tôi chỉ dám chắc một điều là hắn có cầm trong tay một loại vũ khí nào đó trông giống như một con dao dài. Tôi trông thấy rõ ràng nó lóe lên khi hắn quay đầu bỏ chạy."

"Cực kì đáng quan tâm", Holmes nói. "Xin hãy kể tiếp sau đó ông làm gì?"

"Nếu mà tôi mạnh khỏe hơn thì đã lao qua cửa sổ đuổi theo hắn. Ngay lúc ấy, tôi rung chuông và đánh thức cả nhà dậy. Cũng phải mất một lúc vì chuông reo trong bếp còn các gia nhân thì ngủ cả trên lầu. Thế là tôi kêu to lên và Joseph nghe thấy, chạy xuống rồi anh ấy đánh thức những người khác. Joseph và người giữ ngựa tìm thấy những dấu chân trên luống đất bên ngoài cửa sổ nhưng thời tiết độ này quá khô ráo nên họ cũng chẳng hi vọng là sẽ lần theo được dấu vết đó qua bãi cỏ. Tuy nhiên, họ cho tôi biết là ở phía trên hàng rào gỗ ven đường có dấu hiệu như ai đó đã trèo qua và làm cho thanh chắn hàng rào phía trên bị gãy. Tôi vẫn chưa khai báo với cảnh sát địa phương vì nghĩ nên hỏi ý ông trước."

Có vẻ như câu chuyện do thân chủ chúng tôi kể đã có tác động đặc biệt lên Sherlock Holmes. Anh bật dậy khỏi ghế và đi lại trong phòng với vẻ phấn khích không thể kiểm soát

"Họa vô đơn chí", Phelps mỉm cười nói, dù rõ ràng là sự kiện đó phần nào khiến anh bàng hoàng.

"Chắc chắn là ông đã gặp khá nhiều xui xẻo", Holmes nói. "Ông có thể đi quanh nhà cùng tôi được không?"

"Ồ, được chứ, tôi cũng nên hưởng chút nắng trời. Joseph sẽ cùng đi."

"Cả em nữa", cô Harrison lên tiếng.

"Tôi e rằng không được", Holmes lắc đầu nói. "Tôi cho rằng mình phải yêu cầu cô ngồi yên ở đây."

Cô gái trẻ ngồi lại vào ghế với vẻ bực bội. Anh trai cô thì nhập bọn với chúng tôi và cả bốn người cùng đi. Chúng tôi vòng ra bãi cỏ để tới phía ngoài cửa sổ phòng Phelps, có những vết chân trên luống đất như anh ta nói, nhưng chẳng giúp được gì vì chúng rất mờ. Holmes cúi nhìn thoáng qua rồi nhún vai. "Tôi không nghĩ ai đó có thể phán đoán được gì từ những dấu vết này", anh nói. "Chúng ta hãy đi quanh nhà xem thử vì sao tên trộm lại chọn đúng căn phòng này. Tôi cứ nghĩ rằng những cửa sổ rộng ở phòng khách và phòng ăn thì dễ lọt vào nhà hơn."

"Những phòng đó dễ bị nhìn thấy từ ngoài đường hơn", ông Joseph Harrison nêu ý kiến.

"À phải, tất nhiên rồi! Ở đây có một cánh cửa mà hắn nên cạy thử. Cửa này dẫn đi đâu vậy?"

"Đây là lối vào bên hông nhà dành cho những người giao hàng. Tất nhiên là ban đêm thì nó được khóa lại."

"Trước đây đã lần nào nhà ông bị trộm chưa?"

"Chưa bao giờ", thân chủ của chúng tôi cho biết.

"Trong nhà ông có đồ dùng vàng bạc hay thứ gì có thể hấp dẫn bọn trộm không?"

"Chẳng có thứ gì đáng giá."

Holmes tản bộ quanh nhà, hai tay đút túi với vẻ lơ đãng khác thường. "Nhân tiện", anh nói với ông Joseph Harrison, "tôi được biết là ông đã tìm thấy chỗ nơi tên trộm trèo qua hàng rào. Xin hãy đưa chúng tôi đến đó xem."

Người đàn ông phốp pháp dẫn chúng tôi đến chỗ có thanh chắn hàng rào bị gãy. Một mảnh gỗ nhỏ hãy còn lủng lẳng. Holmes giật nó ra và xem xét kĩ lưỡng.

"Ông có nghĩ rằng nó mới bị gãy đêm qua không? Trông có vẻ khá cũ rồi, đúng không?"

"Vâng, có thể lắm."

"Không thấy có dấu vết của kẻ nào nhảy qua ở phía bên kia. Thôi, tôi cho rằng ta chẳng thu thập được gì ở đây. Ta hãy quay lại phòng ngủ và bàn về vấn đề này."

Percy Phelps bước đi rất chậm và vịn vào tay người anh vợ tương lai. Holmes đi nhanh qua bãi cỏ, tôi và anh đến bên cửa sổ đang mở của căn phòng ngủ trước hai người kia khá lâu.

"Cô Harrison", Holmes nói với vẻ hết sức nghiêm trọng, "cô phải ở nguyên trong phòng cả ngày. Không được rời khỏi đây vì bất cứ lí do gì. Điều này vô cùng quan trọng."

"Chắc chắn rồi, nếu ông muốn thế, thưa ông Holmes." Cô gái trả lời với vẻ ngạc nhiên.

"Khi nào cô đi ngủ thì khóa cửa phòng này lại từ bên ngoài và giữ chìa khóa. Hứa với tôi nhé."

"Nhưng còn anh Percy?"

"Ông ta sẽ đi London với chúng tôi."

"Và tôi sẽ ở lại đây sao?"

"Ta làm thế là vì ông ấy. Cô có thể giúp ông ấy. Mau đi! Hãy hứa với tôi!" Cô gái gật nhanh để tỏ ý tán thành ngay khi hai người kia đi đến.

"Sao em cứ ngồi ủ rũ trong đó thế, Annie?" Người anh trai cô kêu lên. "Hãy ra ngoài trời đi."

"Thôi, cảm ơn anh, Joseph. Em hơi bị nhức đầu mà trong này lại vô cùng mát mẻ và dễ chịu."

"Giờ thì ông định thế nào, hở ông Holmes?" Thân chủ của chúng tôi hỏi.

"Thế này, trong khi điều tra vụ việc lặt vặt này chúng ta không được lơ là việc chính. Nếu như ông có thể đi cùng với chúng tôi lên London thì tốt quá."

"Ngay bây giờ sao?"

"Ngay khi nào ông thấy thuận tiện cho mình là được. Một giờ nữa nhé."

"Tôi thấy trong người đã khá khỏe rồi nên, nếu tôi có thể giúp được gì thì tôi xin sẵn lòng."

"Rất nhiều là khác."

"Có lẽ là ông muốn tôi ngủ lại ở đó đêm nay?"

"Tôi đang định đề nghị như thế."

"Được, nếu như người bạn đêm khuya của tôi lại đến thăm tối nay thì hắn sẽ thấy là con chim đã vỗ cánh bay mất. Tất cả chúng tôi đều tuân theo sự chỉ đạo của ông, ông Holmes ạ và ông phải nêu thật chính xác những gì ông muốn chúng tôi thực hiện. Có lẽ ông cũng muốn để anh Joseph đi cùng để chăm sóc tôi chứ?"

"Ồ, không đâu, anh Watson bạn tôi là bác sĩ, ông biết đấy, và anh ấy sẽ trông nom ông. Chúng ta sẽ dùng bữa trưa tại đây, nếu ông cho phép, sau đó cả ba chúng ta sẽ khởi hành đi London."

Mọi thứ được sắp xếp như gợi ý của Holmes và cô Harrison cáo lỗi mọi người vì không rời khỏi phòng để ăn trưa, do tuân theo đúng lời dặn của anh. Mục đích của việc đó là gì thì tôi không hiểu nổi, trừ phi là để tách cô gái này ra khỏi Phelps, trong khi đó anh này lại hào hứng vì đã khỏe mạnh trở lại và vì sắp được hành động, nên vui vẻ dùng bữa trưa với chúng tôi trong phòng ăn. Thế nhưng, Holmes còn làm chúng tôi ngạc nhiên hơn vì sau khi đi cùng đến nhà ga và nhìn chúng tôi lên tàu, anh lại thản nhiên thông báo rằng anh không có ý định rời khỏi Woking.

"Có một vài điểm mà tôi muốn được làm rõ trước khi đi", anh nói. "Sự vắng mặt của ông, ông Phelps ạ, về khía cạnh nào đó sẽ hỗ trợ cho tôi. Anh Watson này, khi về đến London, xin anh cùng với ông Phelps vui lòng đi xe ngay về phố Baker và ở đó với ông ấy cho đến khi tôi gặp lại hai người. Thật may vì hai người vốn là bạn cùng trường nên chắc là sẽ có nhiều điều để kể cho nhau nghe. Đêm hay ông Phelps có thể nghỉ ở cái phòng ngủ trống và tôi sẽ gặp lại hai người vào bữa điểm tâm, vì có một chuyến tàu sẽ đưa tôi trở về ga Waterloo lúc 8 giờ sáng mai."

"Nhưng còn việc điều tra của chúng ta ở London thì sao?" Phelps buồn rầu hỏi.

"Cái đó để mai. Tôi nghĩ rằng lúc này tôi ở lại đây thì có lợi hơn."

"Ông có thể báo cho gia đình tôi ở Briarbrae biết rằng tôi hi vọng sẽ về vào tối mai", Phelps kêu to khi chúng tôi bắt đầu rời khỏi sân ga.

"Tôi không định trở lại Briarbrae", Holmes đáp và vui vẻ vẫy tay chào khi tàu chúng tôi lao nhanh khỏi nhà ga.

Trên suốt chặng đường Phelps và tôi bàn tán với nhau về chuyện này nhưng chẳng ai có thể nghĩ ra được lí do thỏa đáng cho tình tiết mới mẻ ấy.

"Tôi đoán rằng ông ta muốn tìm một vài đầu mối về vụ trộm đêm qua, nếu như đó là một tên trộm. Riêng tôi thì tôi không tin rằng đó là một tên trộm bình thường."

"Thế ý anh thế nào?"

"Dù anh có cho là do thần kinh tôi yếu hay không thì nói thật tôi vẫn tin là có những mưu đồ chính trị sâu xa đang diễn ra quanh tôi và, vì lí do nào đó mà tôi chưa hiểu ra, những kẻ tham gia đang nhắm vào tính mạng tôi. Dẫu nghe có vẻ hơi cường điệu và lố bịch nhưng hãy xem các sự kiện! Tại sao tên trộm lại cố tình đột nhập vào nhà qua cửa sổ phòng ngủ mà hầu như chẳng hi vọng quơ được thứ gì, và tại sao hắn lại cầm theo một con dao dài?"

"Anh có chắc rằng đó không phải là một cái nạy cửa đấy chứ?"

"Ồ, không, đó là một con dao. Tôi trông thấy lưỡi dao lóe sáng lên rất rõ."

"Nhưng vì cái quái gì mà anh lại bị thù oán đến thế?"

"Ấy, đó mới là vấn đề."

"Được, nếu Holmes cũng nghĩ như thế thì điều đó giải thích cho hành động của anh ấy, phải không nào? Cứ cho rằng ý kiến của anh là đúng đi, nếu anh ấy tóm được cái gã đã đe dọa anh đêm qua thì anh ấy sẽ còn phải đi thêm một đoạn dài nữa để tìm ra ai đã lấy trộm bản hiệp ước hải quân. Thật là vô lí nếu cho rằng anh có đến hai kẻ thù, một tên thì đánh cắp còn tên kia thì đe dọa sinh mạng của anh."

"Nhưng Holmes nói rằng ông ta không trở lại Briarbrae."

"Tôi biết anh ấy cũng khá lâu", tôi nói, "nhưng chưa bao giờ tôi thấy anh ấy làm gì mà không có nguyên nhân chính đáng."

Và cứ thế, cuộc đối thoại của chúng tôi trôi sang những đề tài khác.

***

Hôm đó là một ngày mệt mỏi đối với tôi. Phelps hãy còn yếu sau cơn bệnh kéo dài và tai họa đã gặp khiến anh ta hay than vãn và căng thẳng. Tôi cố gắng làm cho anh ta quan tâm đến Afghanistan, Ấn Độ và những vấn đề xã hội hay bất cứ điều gì có thể giúp anh quên bớt nhưng vô ích. Lúc nào anh ta cũng quay trở lại chuyện bản hiệp ước bị mất, cứ băn khoăn tự hỏi rồi phỏng đoán Holmes đang làm gì, thượng nghị sĩ Holdhurst đang ứng phó ra sao và các tin tức gì chờ đợi chúng tôi sáng mai. Đến đêm thì sự căng thẳng của anh ta đã hoàn toàn biến thành đau khổ.

"Anh hoàn toàn tin tưởng ông Holmes chứ?" Anh ta hỏi tôi.

"Tôi từng chứng kiến anh ấy làm được một số việc xuất sắc."

"Nhưng có bao giờ ông ta làm sáng tỏ được vụ nào mờ mịt như thế này chưa?"

"Ồ, có chứ! Tôi biết anh ấy từng giải quyết những vấn đề còn ít manh mối hơn vụ của anh."

"Nhưng không vụ nào dính líu đến đại sự như thế này phải không?"

"Tôi không rõ. Theo như tôi được biết thì anh ấy từng thay mặt ba hoàng gia Âu châu điều tra những vụ vô cùng quan trọng."

"Nhưng anh biết rõ ông ấy, Watson ạ. Còn với tôi, ông ấy bí hiểm đến nỗi tôi chẳng hiểu gì. Anh có nghĩ là ông ấy có hi vọng nào không? Anh có cho rằng ông ấy cũng tin là sẽ giải quyết thành công vụ này không?"

"Anh ấy chẳng nói gì cả."

"Thế là dấu hiệu xấu rồi."

"Ngược lại thì đúng hơn, tôi nhận thấy khi sự vụ chệch hướng, anh ấy mới thường huyên thuyên dông dài. Còn khi đang lần theo một dấu vết và chưa hoàn toàn chắc chắn đó là hướng đi đúng thì anh ấy bao giờ cũng lầm lì nhất. Nào, bạn thân mến, cứ tự làm mình lo lắng thế này thì cũng không thể cải thiện được tình hình, hãy để tôi đưa anh lên giường nghỉ ngơi khỏe khoắn mà đón đợi bất cứ chuyện gì xảy ra vào sáng mai."

Cuối cùng thì tôi cũng thuyết phục được anh ta nghe theo lời khuyên của mình dù tôi biết với dáng vẻ bồn chồn như thế thì cũng chẳng mấy hi vọng anh ta sẽ chợp mắt được. Thật vậy, tâm trạng của anh ta là thứ lây nhiễm, vì chính tôi cũng trằn trọc suốt nửa đêm, nghiền ngẫm mãi về sự việc kì lạ này và nghĩ ra đến hàng trăm giả thuyết nhưng càng nghĩ lại càng vô lí. Tại sao Holmes ở lại Woking? Tại sao anh yêu cầu cô Harrison phải ở lại phòng bệnh suốt cả ngày? Vì sao anh thận trọng đến mức không thông báo cho những người ở Briarbrae biết anh định ở lại gần chỗ họ? Tôi cứ vắt óc suy nghĩ mãi đến lúc thiếp đi trong khi cố tìm ra lời giải thích thỏa đáng cho tất cả các dữ kiện này.

Khi tôi thức dậy là 7 giờ sáng. Ngay lập tức, tôi đi thẳng sang phòng của Phelps và thấy anh ta phờ phạc sau cả đêm thức trắng. Câu hỏi đầu tiên của anh ta là Holmes trở về chưa.

"Một khi đã hứa thì chắc chắn là anh ấy sẽ về đây", tôi đáp, "không sớm mà cũng không muộn chút nào."

Và quả đúng như lời tôi nói vì chỉ sau 8 giờ một chút, một cỗ xe ngựa hai bánh lao nhanh đến trước cửa và bạn tôi bước ra khỏi xe. Từ cửa sổ nhìn ra, chúng tôi thấy bàn tay trái của anh quấn băng và mặt anh thì đượm vẻ u ám và xanh xao. Anh bước vào nhà và chỉ một lúc sau đã lên cầu thang.

"Trông ông ấy giống như người bại trận", Phelps kêu lên.

Tôi buộc phải công nhận là anh ta nói đúng. "Cuối cùng thì", tôi nói, "có lẽ manh mối của vụ việc nằm ở đây, tại thành phố này."

Phelps rên rỉ. "Tôi không biết cái manh mối ấy trông nó ra sao", anh ta nói, "nhưng tôi đã đặt biết bao hi vọng vào chuyến trở về của ông ấy. Chắc chắn là hôm qua bàn tay ông ấy đâu có bị băng bó thế này. Chuyện gì đã xảy ra chứ?"

"Anh không bị thương chứ, Holmes?" Tôi lên tiếng hỏi khi bạn mình bước vào phòng.

"Chậc, chỉ là xây xát do tôi vụng về thôi mà", anh trả lời và gật đầu chào chúng tôi. "Vụ của ông, ông Phelps ạ, chắc chắn là một trong những vụ mờ mịt nhất tôi từng điều tra."

"Tôi e rằng nó vượt quá khả năng của ông."

"Đây quả là một kinh nghiệm đáng chú ý nhất."

"Tay anh băng bó thế kia chắc là có chuyện mạo hiểm", tôi nói. "Sao anh không kể cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra?"

"Để sau bữa điểm tâm đã, Watson thân mến. Nên nhớ rằng sáng nay tôi vừa hít không khí Surrey suốt ba mươi dặm. Tôi cho rằng chưa có hồi âm cho mẩu tin tìm người xà ích phải không? Được thôi, ta không thể kì vọng là lần nào cũng ghi điểm được."

Bàn ăn đã được dọn và ngay khi tôi vừa định rung chuông thì bà Hudson đã đem trà và cà phê vào. Chỉ vài phút sau bà bưng vào ba đĩa đồ ăn đậy nắp và cả ba chúng tôi cùng bước lại bàn, Holmes bụng đói cồn cào, tôi thì tò mò còn Phelps đang vô cùng chán nản.

"Bà Hudson rất biết tận dụng cơ hội", Holmes nói khi mở nắp vung đậy đĩa gà nấu cà ri. "Tài nấu ăn của bà còn có phần hạn chế nhưng cũng như các phụ nữ Scotland khác, bà biết một bữa điểm tâm ngon là như thế nào. Đĩa chỗ anh là món gì vậy, Watson?"

"Giăm bông và trứng", tôi đáp.

"Ngon đấy, ông muốn dùng món gì nào, ông Phelps. Gà nấu cà ri hay là trứng, hay là ông muốn tự lấy đồ ăn?"

"Cảm ơn ông. Tôi không thể ăn được cái gì cả", Phelps đáp.

"Ôi, thôi nào! Hãy dùng thử món trước mặt ông."

"Cảm ơn. Tôi thật sự không muốn ăn."

"Được, thế thì," Holmes nói, mắt ánh lên tinh quái, "tôi nghĩ rằng ông không phản đối việc lấy giúp tôi chứ?"

Phelps nhấc cái nắp đậy trên đĩa và ngay lập tức anh ta thốt lên một tiếng kêu rồi ngồi sững ra, mặt trắng không thua gì cái đĩa mà mắt anh đang chăm chú nhìn vào. Một cuộn giấy nhỏ màu xám xanh đang nằm ngang giữa đĩa. Anh ta chộp lấy nó, hai mắt nhìn như muốn nuốt lấy cuộn giấy rồi nhảy múa như điên khắp phòng, sau đó anh nhét nó vào ngực và hét ầm lên vì vui sướng. Cuối cùng, anh ta buông người rơi phịch xuống ghế, rũ rượi và kiệt sức vì xúc động khiến chúng tôi phải rót rượu mạnh vào họng để giữ cho anh ta khỏi ngất.

"Nào! Nào!" Holmes dỗ dành và vỗ nhẹ lên vai anh ta. "Thật là có lỗi khi làm cho ông bất ngờ thế này, nhưng anh Watson đây sẽ cho ông biết là tôi chẳng bao giờ nhịn được thói gây kịch tính."

Phelps chộp lấy bàn tay của Holmes và hôn lên đó. "Cầu Chúa phù hộ cho ông!" Anh ta kêu to. "Ông đã cứu vãn danh dự của tôi."

"Thì danh dự của tôi cũng lâm nguy, ông biết đấy", Holmes nói. "Tôi cam đoan với ông rằng đối với tôi việc thất bại trong một vụ án cũng khó chịu không thua gì cảm giác của ông khi mắc phải sai lầm trong lúc thực thi nhiệm vụ."

Phelps nhét tập tài liệu quý giá vào tận túi trong cùng của chiếc áo choàng. "Tôi không dám cản trở bữa điểm tâm của ông nữa, tuy nhiên tôi đang hết sức nóng lòng muốn biết làm thế nào ông đã thu hồi được bản hiệp ước và nó đã ở đâu."

Sherlock Holmes nhấp một ngụm cà phê rồi quay sang dồn sự quan tâm vào đĩa trứng giăm bông. Sau đó anh đứng lên, châm một tẩu thuốc và thoải mái ngồi vào ghế.

"Trước tiên tôi sẽ kể ông nghe tôi đã làm gì trước và sau đó sẽ đến phần tôi lấy lại bản hiệp ước như thế nào", anh nói. "Sau khi chia tay với ông ở sân ga, tôi làm một chuyến cuốc bộ rất thú vị băng qua vùng Surrey phong cảnh tuyệt đẹp tới một ngồi làng xinh xắn tên là Ripley, ở đó tôi uống trà trong quán rồi cẩn thận châm đầy rượu vào chiếc bình dẹt và nhét mấy miếng sandwich vào túi áo. Tôi ở đó đến xế chiều mới quay trở lại Woking và về đến con đường cái chạy qua Briarbrae khi mặt trời vừa lặn. Tôi đợi đến khi con đường không còn ai - mà tôi nghĩ chẳng lúc nào nó đông đúc cả - rồi trèo qua hàng rào để vào vườn."

"Chắc chắn là cổng để mở kia mà!" Phelps thốt lên.

"Phải, nhưng trong những chuyện này thì tôi lại có sở thích kì cục. Tôi đã chọn chỗ có ba cây linh sam và trèo qua đoạn rào phía sau để người trong nhà khó có thể nhìn thấy. Tôi khom người chạy ra những bụi cây ở phía ngoài mấy cây linh sam rồi bò từ bụi này sang bụi khác - bằng chứng hãy còn lưu lại trên hai đầu gối quần bẩn thỉu này đây - cho đến khi tới được đám đỗ quyên ngay đối diện cửa sổ phòng ông. Tôi ngồi xuống và chờ đợi sự việc diễn biến. Rèm cửa trong phòng ông chưa hạ xuống và tôi có thể nhìn thấy cô Harrison đang ngồi đọc sách cạnh bàn. Đến 10 giờ 15 thì cô ta gấp sách lại, đóng cửa chớp và lui vào. Tôi nghe tiếng cô ấy đóng cửa phòng và cảm thấy khá chắc chắn là cô ấy đã xoay chìa khóa cửa lại."

"Chìa khóa à?" Phelps thốt lên.

"Phải, tôi đã dặn cô Harrison về việc khóa cửa từ bên ngoài và cầm chìa khóa theo khi đi ngủ. Cô ấy đã thực hiện các yêu cầu của tôi đúng từng chút một và nếu không có sự hợp tác của cô ấy thì chắc chắn rằng giờ này ông cũng không có được xấp giấy kia trong túi áo. Rồi cô ấy rời đi và đèn cũng tắt theo, chỉ còn mình tôi ngồi trong bụi đỗ quyên. Đêm qua trời đẹp nhưng thức khuya thì cũng rất mệt mỏi. Tất nhiên trong đó cũng có sự phấn khích của một thợ săn nằm bên dòng nước đợi con mồi lớn. Tuy nhiên, quãng thời gian đó rất dài, anh Watson ạ - dài gần bằng thời gian anh và tôi cùng đợi bên trong căn phòng chết chóc khi chúng ta điều tra vụ Dải băng lốm đốm. Lúc ấy cứ mười lăm phút thì chuông nhà thờ Woking lại vang lên và tôi cho là phải mấy hồi mới dứt. Thế rồi, đợi mãi đến khoảng 2 giờ sáng, tôi cũng nghe thấy một tiếng động nhỏ của một cái then bị kéo ra và tiếng lạch xạch mở khóa. Ngay sau đó, cánh cửa lối đi dành cho gia nhân bật mở và ông Joseph Harrison bước ra ngoài ánh trăng."

"Joseph sao?" Phelps buột miệng kêu lên.

"Hắn để đầu trần nhưng có khoác một chiếc áo choàng đen trên vai để khi có động là kịp thời che mặt. Hắn đi rón rén bên dưới bóng bức tường và khi đến bên cửa sổ thì hắn lách con dao lưỡi dài qua khung cửa kính và đẩy then ra. Sau đó hắn mở cánh cửa rồi lách dao vào qua khe hở của hai cánh cửa chớp phía trong, đẩy thanh cài lên và xô chúng mở ra. Từ chỗ nấp tôi nhìn thấy rất rõ bên trong phòng và từng cử động của hắn. Hắn thắp hai ngọn nến đặt ở phía trên mặt lò sưởi rồi bắt đầu lật góc thảm cạnh cửa ra vào lên. Ngay sau đó hắn khom người xuống tháo ra một mảnh ván vuông vốn được để rời giúp thợ sửa chỗ nối của các ống dẫn khí đốt. Và trên thực tế, nó che cái ống chữ T dẫn vào đường ống cung cấp khí đốt cho nhà bếp ở dưới. Hắn lấy một cuộn giấy nhỏ ra khỏi chỗ giấu đó, ấn mảnh ván trở lại, phủ tấm thảm lên như trước, thổi tắt hai ngọn nến rồi bước thẳng vào tôi, vì tôi đã đứng sẵn ở bên ngoài cửa sổ để đón hắn.

Hắn ác độc hơn tôi tưởng, ông Joseph ấy. Hắn cầm dao lao vào tôi và tôi phải cho hắn đo đất đến hai lần, rồi bị hắn cứa cho một nhát ở mấy đốt ngón tay trước khi khống chế được hắn. Hắn nhìn tôi đầy sát khí bằng con mắt lành lặn còn lại sau khi kết thúc cuộc ẩu đả, nhưng rồi cũng chịu cân nhắc và bằng lòng giao tập tài liệu. Sau khi lấy được xấp giấy, tôi bèn để cho hắn đi nhưng đã đánh điện tường thuật toàn bộ cho ông Forbes lúc sáng nay. Nếu ông ta nhanh chân bắt kịp con chim thì cũng tốt. Nhưng nếu như cái tổ đã trống từ trước khi ông ta đến, và tôi ngờ là như thế, thế lại càng tốt hơn cho chính phủ. Tôi cho rằng thượng nghị sĩ Holdhurst và cả ông Percy Phelps đều mong là vụ việc này đừng bao giờ đến tay tòa vi cảnh."

"Lạy Chúa!" Thân chủ của chúng tôi hổn hển nói. "Ông nói rằng trong suốt mười tuần lễ đau khổ dài đằng đẵng, tập giấy bị đánh cắp vẫn nằm trong chính căn phòng đó cùng với tôi?"

"Đúng thế."

"Và anh Joseph! Joseph là một kẻ bất lương và là một tên trộm!"

"Hừm! Tôi e rằng bản chất của Joseph xấu xa và nham hiểm hơn vẻ bề ngoài của hắn. Từ những gì tôi nghe hắn khai lúc sáng nay, tôi suy ra rằng hắn đã thua lỗ nặng khi chơi chứng khoán và giờ thì hắn sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để gỡ lại chút tài sản. Là một con người cực kì ích kỉ, khi thời cơ xuất hiện thì hắn ra tay ngay mà chẳng đếm xỉa gì đến hạnh phúc của em gái mình hay là danh dự của ông."

Percy Phelps dựa hẳn ra sau ghế. "Đầu óc tôi quay cuồng", anh ta nói. "Lời ông nói khiến tôi bàng hoàng."

"Khó khăn chính trong vụ của ông", Holmes nhận xét theo kiểu thuyết giảng của anh, "nằm ở chỗ nó có quá nhiều bằng chứng. Cái trọng yếu lại bị các cái không liên quan che khuất. Trong tất cả các dữ kiện được đưa ra, chúng ta phải chọn ra chỉ những dữ kiện nào mà chúng ta cho là quan trọng và sau đó ghép nối chúng lại theo trình tự để tái dựng lại chuỗi sự kiện rất lạ lùng này. Tôi đã bắt đầu nghi ngờ Joseph từ chi tiết ông định về nhà với hắn ta trong đêm đó vì rất có thể là trên đường đi hắn đã ghé lại văn phòng của ông vì biết khá rõ bộ Ngoại giao. Khi tôi nghe kể đến chỗ có kẻ nóng lòng muốn lẻn vào phòng ngủ là nơi mà ngoài Joseph ra không còn ai khác có thể cất giấu thứ gì đó - bởi ông có cho chúng tôi biết là Joseph đã phải dọn ra ngoài khi ông được ông bác sĩ đưa về nhà thì những nghi ngờ của tôi đã được khẳng định, đặc biệt khi vụ trộm được thực hiện trong đêm đầu tiên y tá vắng mặt cho thấy là kẻ đột nhập đó phải biết rõ mọi động thái trong nhà."

"Tôi mới thật mù quáng làm sao!"

"Diễn biến của vụ này mà tôi đã làm sáng tỏ như sau: Joseph Harrison đã vào văn phòng qua cửa ở phố Charles và vì đã rõ đường nên hắn ta đi thẳng vào phòng của ông ngay sau khi ông rời đi. Không trông thấy ai trong phòng nên hắn lập tức rung chuông và ngay lúc đó tập tài liệu trên bàn đập vào mắt hắn. Chỉ liếc sơ qua là hắn biết vận may đã đem lại cho hắn một tài liệu quốc gia vô cùng giá trị và ngay lập tức hắn đã nhét xấp giấy đó vào trong túi rồi bỏ đi. Chắc ông hãy còn nhớ, khi người gác cổng ngái ngủ nhắc ông để ý tới cái chuông thì vài phút đã trôi qua và khoảng thời gian đó vừa đủ cho tên trộm trốn thoát. Hắn đi về Woking bằng chuyến tàu đầu tiên, rồi sau khi xem xét món chiến lợi phẩm và chắc chắn rằng đây thực sự là một thứ hết sức giá trị, hắn bèn giấu vào một nơi mà hắn cho là rất an toàn với ý định sẽ lấy nó ra sau một vài ngày rồi đem đến đại sứ quán Pháp hoặc bất cứ nơi nào mà hắn nghĩ là sẽ bán được giá cao. Thế rồi ông đột ngột trở về. Không hề được báo trước, hắn phải dọn ra khỏi phòng và kể từ đó trong phòng lúc nào cũng có mặt ít nhất hai người nên việc lấy lại báu vật của hắn bị ngăn trở. Tình huống này khiến hắn phát điên. Nhưng cuối cùng thì hắn cũng thấy có cơ hội. Hắn cố gắng lẻn vào phòng nhưng lại bị cản trở vì ông thức giấc. Hẳn là ông còn nhớ đêm đó không giống như mọi lần, ông đã bỏ qua liều thuốc thường ngày."

"Tôi còn nhớ."

"Tôi cho rằng hắn đã bỏ thêm gì đó vào thuốc và việc ông mê man bất tỉnh là cơ hội của hắn. Nhưng đương nhiên là nếu có cơ hội khác thì hắn sẽ lại tìm cách lọt vào. Và việc ông lên London chính là dịp như thế. Tôi dặn cô Harrison ở trong phòng suốt ngày để cho hắn không thể ra tay trước chúng ta. Kế đến, sau khi làm cho hắn tưởng rằng hiện trường hoàn toàn trống vắng, tôi bèn đứng rình như đã nói. Vốn đã biết là xấp tài liệu có thể được để trong phòng nhưng tôi không muốn tháo tung cả ván sàn lẫn nẹp gỗ để tìm. Vì vậy, để tránh sự khó nhọc đó, tôi đã để cho hắn tự tay lấy xấp tài liệu ra khỏi chỗ giấu. Có điểm nào tôi trình bày chưa được rõ ràng không?"

"Tại sao lần đầu tiên hắn ta lại phải tìm cách đột nhập vào phòng qua cửa sổ", tôi hỏi, "trong khi hắn có thể đi vào bằng cửa chính?"

"Để đến cửa chính thì hắn phải đi qua bảy phòng ngủ. Ngoài ra, bằng lối cửa sổ hắn có thể dễ dàng thoát ra ngoài bãi cỏ. Còn điều gì nữa không?"

"Ông có nghĩ rằng", Phelps hỏi, "hắn định giết người không? Hay con dao chỉ là một dụng cụ thôi?"

"Cũng có thể", Holmes nhún vai trả lời. "Tôi chỉ có thể chắc rằng Joseph Harrison là một người mà tôi không bao giờ tin có lòng nhân từ."

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip