MỘT VỤ XÁC ĐỊNH NHÂN DẠNG(A Case of Identity, 1891)

"Bạn thân mến", Sherlock Holmes nói trong lúc chúng tôi đang ngồi ở hai bên lò sưởi trong căn hộ trên phố Baker, "cuộc sống lạ lùng hơn rất nhiều so với bất cứ điều gì mà trí tuệ con người có thể nghĩ ra. Chúng ta không dám tiếp nhận những thứ vốn dĩ là tầm thường của sự hiện hữu. Nếu chúng ta có thể nắm tay nhau bay ra ngoài cửa sổ, lượn lờ bên trên thành phố rộng lớn này, nhẹ nhàng dỡ các mái nhà và lén nhòm vào những chuyện kì quặc đang diễn ra, những sự trùng hợp lạ kì, những ý đồ, những mục đích chồng chéo, những chuỗi sự kiện đáng kinh ngạc, đã xảy ra qua nhiều thế hệ và dẫn đến các kết quả outré nhất, thì văn chương hư cấu với sự rập khuôn và những đoạn kết mà ta đã biết thừa từ trước hết thảy đều trở nên nhạt nhẽo và vô vị."

"Thế nhưng tôi vẫn chưa đồng ý," tôi trả lời. "Thường thì những vụ án được làm sáng tỏ trên báo chí đều khá nhạt nhẽo và tầm thường. Trong các báo cáo của cảnh sát, thực tế vẫn bị đẩy đến những giới hạn tận cùng đấy thôi, tuy thế vẫn phải thừa nhận là kết quả không mấy hấp dẫn mà cũng chẳng có tính nghệ thuật."

"Ta cần phải chọn lọc và suy xét kĩ lưỡng thì mới tạo ra được hiệu ứng đậm chất hiện thực", Holmes nhận xét. "Đó là điều còn thiếu trong các báo cáo của cảnh sát vốn nhấn mạnh vào các tuyên bố tẻ nhạt của thẩm phán hơn là các chi tiết mà người quan sát cho là chứa đựng yếu tố cốt lõi của toàn bộ vấn đề. Tin tôi đi, chính những sự việc tầm thường lại là thứ bất thường nhất đấy."

Tôi mỉm cười và lắc đầu. "Tôi có thể hiểu được tại sao anh nghĩ thế", tôi nói. "Tất nhiên là ở vào vị trí của anh, một người tư vấn và giúp đỡ không chính thức bất cứ ai đang hoang mang, bối rối trên khắp ba châu lục, anh được tiếp xúc với tất cả những gì xa lạ và kì dị. Nhưng giờ thì..." tôi nhặt lấy tờ báo mới ra sáng nay đang nằm trên sàn nhà. "Chúng ta hãy kiểm nghiệm nó trong thực tế. Đây là cái tít đầu tiên mà tôi nhìn thấy: Sự tàn nhẫn của một người chồng đối với vợ mình, bài báo dài nửa cột nhưng khỏi cần đọc tôi cũng biết nội dung vì tất cả đều đã quá sức quen thuộc với tôi. Thể nào chẳng có chuyện ngoại tình, thói rượu chè, hành vi xô đẩy, đánh đập, nạn nhân bị bầm dập, người chị gái hay bà chủ nhà đầy thương cảm. Ngay cả nhà văn thô thiển nhất cũng không thể sáng tác ra thứ gì thô thiển đến thế."

"Kì thực ví dụ anh đưa ra lại gây bất lợi cho lí lẽ của anh", Hotmes nói, cầm lấy tờ báo và liếc mắt qua. "Đây là vụ li thân của vợ chồng nhà Dundas và khi chuyện xảy ra thì tôi có tham gia làm sáng tỏ một vài điểm nhỏ có liên quan, ông chồng là người ghét rượu, cũng không hề có người phụ nữ nào khác xen vào và vấn đề đáng than phiền là ông ta có thói quen kết thúc mỗi bữa ăn bằng cách tháo hàm răng giả của mình ra và ném mạnh vào vợ, hẳn anh cũng phải đồng ý là ít có người kể chuyện bình thường nào có thể tưởng tượng ra được hành động này. Bác sĩ à, dùng một nhúm thuốc lá bột nhé, và hãy thừa nhận là tôi đã hạ được anh trong cái ví dụ do chính anh chọn."

Anh chìa ra hộp thuốc lá cổ bằng vàng có gắn một viên thạch anh tím lớn ở giữa nắp, vẻ lộng lẫy của nó thật tương phản với cá tính xuề xòa và cuộc sống giản dị của anh, khiến tôi không khỏi thốt ra lời bình luận.

"À", anh nói, "tôi quên mất là mấy tuần vừa rồi không gặp anh. Đây là món quà nhỏ từ nhà vua xứ Bohemia để đền đáp sự giúp đỡ của tôi trong vụ thư từ của Irene Adler."

"Thế còn chiếc nhẫn thì sao?" Tôi hỏi, liếc nhìn vật lấp lánh khác thường đang tỏa sáng trên ngón tay anh.

"Đó là do hoàng tộc Hà Lan ban thưởng, nhưng vụ việc mà tôi giúp đỡ họ vô cùng tế nhị khiến tôi không thể tiết lộ, ngay cả với anh, người đã tử tế ghi chép lại một vài vụ án của tôi."

"Hiện giờ anh có đang xử lí vụ nào không?" Tôi hỏi với vẻ quan tâm.

"Khoảng mười hay mười hai vụ gì đó, nhưng không vụ nào hấp dẫn cả. Các vụ đó đều quan trọng, như anh biết đấy, nhưng lại không lí thú. Thật thế, tôi đã rút ra một điều, thường thì những vụ án không quan trọng mới cho ta cơ hội được quan sát cũng như phân tích nhanh mối quan hệ nhân quả, chính điều đó khiến cho ta có hứng điều tra. Những vụ phạm tội lớn hơn có khuynh hướng đơn giản hơn vì theo lệ thường, tội ác càng lớn thì động cơ lại càng rõ ràng. Những vụ như thế chẳng có gì hay ho cả, ngoại trừ một vụ khá là phức tạp mà người ta chuyển đến cho tôi từ Marseille. Tuy vậy, cũng có thể chỉ vài phút nữa thôi tôi sẽ có việc hay ho hơn để làm, vì người kia sẽ là thân chủ của tôi nếu như tôi không nhầm."

Anh đã nhổm dậy khỏi ghế và đang đứng giữa hai tấm rèm đã được vén lên, chăm chú nhìn xuống con phố xám mờ ảm đạm của thành phố London. Nhìn qua vai anh, tôi trông thấy một phụ nữ to béo đứng bên lề đường phía đối diện với chiếc khăn quàng lông thú dày nặng quấn quanh cổ và một chiếc lông chim lớn màu đỏ uốn quăn trên chiếc mũ rộng vành hơi nghiêng bên tai theo phong cách điệu đà của nữ công tước Devonshire. Từ bên dưới vành mũ rộng, cô ta liếc vội lên cánh cửa sổ nhà chúng tôi với vẻ lo lắng và do dự trong khi cứ dợm bước lại thôi, còn mấy ngón tay thì bồn chồn vân vê mấy cái cúc ở đôi găng. Đột nhiên, cô ta vội vã lao qua đường như thể một người bơi nhào từ trên bờ xuống nước, rồi chúng tôi nghe thấy tiếng chuông cửa vang lên lanh lảnh.

"Tôi đã từng thấy những biểu hiện thế này rồi", Holmes vừa nói vừa ném mẩu thuốc lá vào lò sưởi. "Cứ do dự bước tới bước lui mãi trên lề đường luôn có nghĩa là có một Affaire de coeur. Cô ta muốn hỏi ý kiến nhưng lại ngại vấn đề quá tế nhị. Quan sát ngay từ chỗ này, chúng ta cũng nhận ra được. Khi một người phụ nữ bị tình nhân xử tệ hết mức thì cô ta sẽ không còn do dự nữa mà dấu hiệu thường thấy là sẽ làm đứt dây chuông. Còn trường hợp này thì chúng ta có thể đoán là cô gái có vấn đề về tình cảm nhưng không giận dữ mà lại bối rối và đau khổ. Nhưng kìa, cô ta đã lên đến nơi để làm rõ những mối nghi ngờ của chúng ta rồi."

Khi anh nói đến đây thì có tiếng gõ cửa và cậu bé giúp việc bước vào, thông báo là có cô Mary Sutherland muốn gặp. Ngay lúc đó, từ phía sau thân hình nhỏ bé mặc bộ đồ đen của cậu, cô gái đã lù lù hiện ra như chiếc tàu buôn giương hết buồm theo sau một chiếc tàu hoa tiêu bé xíu. Sherlock Holmes đón tiếp cô ta với phong thái lịch sự, ung dung mà anh vốn thể hiện rất xuất sắc, sau khi đóng cửa lại và nghiêng người mời cô ta ngồi xuống ghế, anh quan sát cô ta trong một phút bằng phong thái lơ đãng đặc trưng.

"Cô có thấy rằng", anh hỏi. "Với bệnh cận thị thì việc đánh máy nhiều như thế là vất vả quá không?"

"Lúc đầu tôi cũng thấy khó khăn", cô ta trả lời, "nhưng giờ thì tôi đã biết vị trí của các con chữ mà không cần phải nhìn chúng nữa." Rồi, bất thình lình nhận ra ngụ ý sâu xa trong lời nói của anh, cô giật bắn người và ngước nhìn lên, khuôn mặt phúc hậu lộ rõ sự sợ hãi và ngạc nhiên. "Ông Holmes, hẳn ông đã nghe nói về tôi", cô kêu to, "nếu không, làm sao ông biết hết mọi chuyện?"

"Cô đừng bận tâm", Holmes cười đáp, "công việc của tôi là phải biết tất cả. Có thể là do tôi đã tự rèn luyện để nhìn thấy những điều mà người khác không chú ý đến. Nếu không thế thì tại sao cô phải đến gặp tôi để hỏi ý kiến chứ?"

"Thưa ông, tôi đến tìm ông vì biết đến ông qua lời kể của bà Etherege, ông đã dễ dàng tìm ra chồng bà ta trong khi cảnh sát và mọi người đều bỏ cuộc vì cho là ông ta đã chết. Ôi, ông Holmes, tôi ước gì ông cũng giúp được tôi như thế. Tôi không giàu có gì nhưng tôi được hưởng một trăm bảng mỗi năm, ngoài ra còn kiếm thêm chút ít từ công việc đánh máy, và tôi sẵn sàng chi đến đồng xu cuối cùng để biết được tin tức của anh Hosmer Angel."

"Tại sao cô lại đến tìm tôi với vẻ vội vã đến thế?" Sherlock Holmes hỏi, mấy ngón tay chụm vào nhau và hai mắt ngước lên trần nhà.

Một lần nữa, ánh mắt hốt hoảng lại hiện lên trên khuôn mặt có vẻ ngây ngô của cô Mary Sutherland. "Vâng, quả thật là tôi đã chạy ào ra khỏi nhà", cô cho biết, "vì tôi rất tức giận khi thấy vẻ dửng dưng của ông Windibank - cha tôi. Ông ta chẳng buồn đi báo cảnh sát mà cũng không đến gặp ông, rốt cuộc vì ông ta chẳng làm gì cả và cứ luôn miệng bảo rằng không có gì nguy hiểm nên tôi mới nổi điên lên và tự mình đi thẳng đến đây để gặp ông."

"Cha cô?" Holmes hỏi. "Chắc là cha dượng của cô, vì ông ta mang họ khác."

"Vâng, là cha dượng của tôi. Tôi gọi ông ta là cha, dẫu rằng nghe có vẻ hơi buồn cười, vì ông ta chỉ lớn hơn tôi có năm tuổi hai tháng."

"Và mẹ cô hãy còn sống chứ?"

"Ồ, vâng, mẹ tôi hãy còn sống và mạnh khỏe. Thưa ông Holmes, tôi không vừa lòng cho lắm khi bà tái giá quá sớm sau khi cha tôi mất và lấy một người trẻ hơn bà gần mười lăm tuổi. Cha tôi là thợ sửa ống nước ở đường Tottenham Court và ông để lại một cơ sở kinh doanh kha khá cho mẹ tôi quản lí cùng với ông Hardy, viên đốc công; thế nhưng khi ông Windibank xuất hiện thì ông ta buộc mẹ tôi phải bán cơ nghiệp đó đi vì ông ta rất độc đoán, dù ông ta chỉ là một nhân viên chào hàng rượu. Họ nhận được bốn ngàn bảy trăm bảng tiền giá trị thương hiệu và lợi nhuận, chẳng thấm vào đâu so với số tiền cha tôi có thể thu được nếu như ông còn sống."

Tôi cứ nghĩ Sherlock Holmes sẽ tỏ ra sốt ruột với cái kiểu kể chuyện dông dài và vụn vặt của cô ta, nhưng ngược lại, anh lắng nghe hết sức chăm chú.

"Món thu nhập khiêm tốn của cô", anh hỏi, "có phải là từ công việc kinh doanh đó không?"

"Ồ, không đâu, thưa ông. Đó là một khoản thu riêng do ông chú Ned ở Auckland để lại cho tôi. Đó là các trái phiếu của New Zealand, cho lãi 4,5%. Số vốn là hai ngàn năm trăm bảng, nhưng tôi chỉ có thể nhận lãi thôi."

"Câu chuyện của cô làm tôi hết sức thích thú", Holmes nói. "Và vì cô nhận được một số tiền lên đến cả trăm bảng mỗi năm, lại còn kiếm thêm được một khoản khác nữa, hẳn là đôi khi cô có đi du lịch và cho phép mình hưởng thụ về mọi mặt. Tôi tin rằng một phụ nữ độc thân có thể sống thoải mái với mức thu nhập khoảng sáu mươi bảng."

"Tôi có thể sống với mức thấp hơn thế nhiều, ông Holmes ạ, nhưng ông cũng hiểu rằng khi tôi còn sống với gia đình thì tôi không muốn mình là gánh nặng cho họ, vì vậy họ có quyền sử dụng số tiền đó chừng nào tôi còn sống chung. Tất nhiên là chỉ trong thời gian này thôi. Mỗi quý, ông Windibank đều rút tiền lãi của tôi và đưa cho mẹ tôi, còn tôi thì có thể sống khá ổn với món tiền công đánh máy. Người ta trả tôi hai xu mỗi trang giấy và tôi có thể đánh được từ mười lăm đến hai mươi trang một ngày."

"Cô đã mô tả cho tôi thấy rất rõ tình trạng của cô", Holmes nói. "Đây là người bạn của tôi, bác sĩ Watson, là người mà cô có thể nói chuyện thoải mái như với chính tôi vậy. Xin cô vui lòng kể cho chúng tôi nghe mối quan hệ giữa cô và anh Hosmer Angel."

Một màu ửng đỏ len lén hiện lên trên khuôn mặt cô Sutherland, và cô bồn chồn kéo diềm áo vét. "Tôi gặp anh ấy lần đầu ở buổi khiêu vũ dành cho các công nhân của công ty khí đốt", cô kể. "Họ vẫn thường gửi vé mời đến cha tôi hồi ông còn sống, sau đó thì họ vẫn còn nhớ đến chúng tôi và gửi vé mời đến mẹ tôi. Ông Windibank không muốn chúng tôi đến dự. Ông ta chẳng bao giờ chịu để cho chúng tôi đi đâu cả. Ông ta thậm chí còn nổi điên nếu tôi tỏ ý muốn tham dự một buổi tiệc chiêu đãi của lớp giáo lí ngày chủ nhật. Nhưng lần này thì tôi nhất định phải đi dự, và tôi đi thật; vì ông ta có quyền gì mà ngăn cản tôi? Ông ta nói rằng những người ở đó không đáng để chúng tôi quen biết, dù ở đó toàn là bạn bè của cha tôi. Rồi ông ta lại nói là tôi chẳng có bộ quần áo nào coi được, trong khi bộ váy nhung tím của tôi chẳng mấy khi được mặc đến. Cuối cùng, khi không còn lí do nào nữa, ông ta đi Pháp vì việc của công ty, còn chúng tôi cứ đi dự buổi khiêu vũ, gồm có mẹ tôi, tôi và ông Hardy, người đốc công trước đây của chúng tôi, và chính ở nơi đó tôi đã gặp gỡ anh Hosmer Angel."

"Tôi cho rằng", Holmes nói, "khi từ Pháp trở về, hẳn là ông Windibank rất bực bội vì cô đã đến dự buổi khiêu vũ."

"Ồ, thật may là ông ta rất vui vẻ về chuyện đó. Ông ta cười, tôi còn nhớ rõ, và nhún vai rồi nói rằng khó mà cản trở một phụ nữ làm điều gì vì rốt cuộc cô ta sẽ tìm ra cách để có được cái mình muốn thôi."

"Tôi hiểu. Vậy là trong buổi khiêu vũ dành cho nhân viên của công ty khí đốt, cô đã gặp, theo như tôi biết, một quý ông tên là Hosmer Angel."

"Vâng, thưa ông. Tôi gặp anh ấy vào đêm đó và hôm sau thì anh ấy gọi điện để hỏi xem chúng tôi về nhà có được an toàn không, và sau đó thì chúng tôi gặp anh ấy - nói cách khác, ông Holmes ạ, tôi gặp anh ấy hai lần để đi dạo, nhưng sau đó thì cha tôi trở về và anh Hosmer Angel không đến nhà tôi nữa."

"Anh ta không đến à?"

"Vâng, thì ông cũng biết là cha tôi không thích những chuyện như thế mà. Nếu có thể tránh được thì ông ta sẽ chẳng mời khách khứa gì cả, và ông ta thường nói là phụ nữ nên hài lòng với cuộc sống trong phạm vi gia đình của mình. Nhưng mặt khác, như tôi vẫn thường nói với mẹ tôi, muốn thế thì phụ nữ phải có gia đình riêng đã chứ, thế mà đến giờ tôi vẫn chưa có."

"Thế còn Hosmer Angel thì sao? Anh ta không tìm cách để gặp cô ư?"

"Vâng, vì cha tôi sắp sửa đi Pháp lần nữa trong một tuần nên anh Hosmer gửi thư nói rằng đợi ông ta đi rồi chúng tôi hẵng gặp nhau thì an toàn và hay hơn. Hiện giờ thì chúng tôi vẫn có thể trao đổi thư từ và anh ấy thường viết cho tôi mỗi ngày. Tôi nhận thư vào buổi sáng, do đó cha tôi không biết."

"Đến giờ thì cô đã hứa hôn với anh ta chưa?"

"Ồ, có chứ, ông Holmes. Chúng tôi đã đính ước với nhau sau lần đi dạo thứ nhất. Hosmer - à, anh Angel là nhân viên thu ngân của một văn phòng nằm trên phố Leadenhall, và..."

"Văn phòng gì vậy?"

"Đó chính là điều tệ nhất, ông Holmes ạ, tôi không biết."

"Thế, anh ta sống ở đâu?"

"Anh ấy ngủ tại chỗ làm."

"Và cô không biết địa chỉ của anh ta?"

"Không, tôi chỉ biết nó nằm ở phố Leadenhall."

"Thế thì cô ghi địa chỉ trên thư gửi đi như thế nào?"

"Đến bưu điện phố Leadenhall, hộp thư lưu. Anh ấy bảo rằng nếu tôi gửi thư đến văn phòng thì anh ấy sẽ bị tất cả các nhân viên khác trêu chọc về việc nhận thư của phụ nữ, vì thế tôi đề nghị là sẽ đánh máy giống như các bức thư của anh ấy, thế nhưng anh ấy không chịu, anh ấy nói rằng khi tôi viết thư thì anh ấy mới có cảm giác là những lá thư đó đến từ chính tay tôi, còn nếu thư được đánh máy thì anh ấy luôn cảm thấy như có cái máy đánh chữ xen vào giữa hai chúng tôi. Chi tiết này cho ông thấy anh ấy yêu mến tôi như thế nào, ông Holmes nhỉ, và anh ấy luôn để ý đến từng chi tiết nhỏ."

"Chi tiết đó mang rất nhiều ý nghĩa", Holmes nói. "Từ lâu tôi luôn tâm niệm rằng những điều vụn vặt là những điều vô cùng quan trọng. Cô còn nhớ những chi tiết vụn vặt nào khác về anh Hosmer Angel không?"

"Anh ấy là một người rất rụt rè, ông Holmes ạ. Anh ấy thích đi dạo với tôi vào buổi chiều tối hơn là ban ngày vì anh ấy nói rằng anh ấy không thích bị để ý. Anh ấy nhút nhát và lịch sự. Ngay cả giọng nói của anh ấy cũng nhẹ nhàng. Hồi nhỏ, anh ấy bị viêm amidan, anh ấy bảo với tôi như thế, và di chứng để lại là cổ họng anh ấy bị yếu đi, giọng nói cứ thì thào vì ngập ngừng. Anh ấy luôn ăn mặc tươm tất, gọn gàng và đơn giản, nhưng mắt anh ấy cũng kém như mắt tôi và anh ấy đeo một cặp kính râm để không bị chói."

"Được rồi, thế điều gì xảy ra khi ông Windibank, cha dượng của cô, quay lại Pháp?"

"Anh Hosmer Angel lại đến nhà và đề nghị chúng tôi nên cưới trước khi cha tôi trở về. Anh ấy rất thành khẩn và yêu cầu tôi đặt tay lên quyển Kinh Thánh để thề rằng cho dù có xảy ra chuyện gì đi nữa thì tôi vẫn luôn chung thủy với anh ấy. Mẹ tôi bảo rằng anh ấy làm thế là đúng và đó là dấu hiệu cho thấy tình cảm của anh ấy nồng nàn thế nào. Mẹ tôi rất quý anh ấy ngay từ buổi đầu và thậm chí còn thương yêu anh ấy hơn cả tôi. Rồi, khi hai người họ bàn về chuyện làm đám cưới cho chúng tôi ngay trong tuần, tôi bắt đầu hỏi về cha tôi nhưng cả hai đều bảo không cần quan tâm đến ông ta, chỉ cần báo cho ông ta biết sau và mẹ tôi nói rằng bà sẽ giải quyết mọi chuyện êm đẹp với ông ta. Tôi không thích cách giải quyết này cho lắm, ông Holmes ạ. Có vẻ buồn cười nếu tôi cần phải xin phép ông ta vì ông ta chỉ lớn hơn tôi có vài tuổi; nhưng tôi không muốn lén lút làm bất cứ chuyện gì, thế là tôi viết thư tới Bordeaux cho cha tôi, đó là nơi công ty của ông ta đặt văn phòng tại Pháp, nhưng lá thư bị gửi trả về vào đúng buổi sáng hôm đám cưới."

"Vậy là ông ta không nhận được lá thư đó?"

"Vâng, thưa ông, vì ông ta đã về Anh ngay trước khi nó đến."

"Chà! Thật không may. Vậy là hôn lễ của cô được dự định là sẽ cử hành vào ngày thứ sáu. Có tổ chức ở nhà thờ chứ?"

"Vâng, thưa ông, nhưng rất đơn giản. Đám cưới diễn ra tại nhà thờ St. Saviour's, gần khu King's Cross, sau đó chúng tôi sẽ dùng bữa điểm tâm tại khách sạn St. Pancras. Anh Hosmer đến đón chúng tôi trong một cỗ xe ngựa hai bánh, nhưng vì không đủ chỗ nên anh để hai mẹ con tôi ngồi trong cỗ xe đó, còn anh thì bước sang một cỗ xe bốn bánh, tình cờ lại là cỗ xe duy nhất trên phố. Chúng tôi đến nhà thờ trước, và khi cỗ xe bốn bánh chạy đến, chúng tôi đợi anh ấy bước ra nhưng mãi chẳng thấy đâu, thế rồi người xà ích bước xuống tìm kiếm thì phát hiện trong xe không có ai cả! Người xà ích nói là ông ta không thể nào tưởng tượng được điều gì đã xảy ra với anh ấy vì chính mắt ông ta đã nhìn thấy anh ấy bước lên xe. Đó là hôm thứ sáu vừa rồi, thưa ông Holmes, và kể từ hôm đó đến nay thì tôi chẳng hề trông thấy hay nghe được tin gì về anh ấy."

"Có vẻ như cô đã bị đối xử vô cùng tệ hại." Holmes nói.

"Ồ, không đâu, thưa ông! Anh ấy quá tốt và tử tế nên sẽ không bỏ rơi tôi như vậy đâu. Tại sao ư? Suốt buổi sáng hôm đó, anh ấy cứ luôn miệng bảo tôi rằng, nếu có điều gì xảy ra thì tôi phải luôn chung thủy với anh ấy; và nếu có chuyện gì bất ngờ chia rẽ hai chúng tôi thì tôi hãy luôn nhớ rằng tôi đã thề nguyền với anh ấy, và trước sau gì anh ấy cũng sẽ cùng tôi thực hiện lời thề. Nói chuyện như thế vào buổi sáng ngày cưới thì có vẻ kì lạ quá, nhưng những gì xảy ra sau đó đã đem lại cho chuyện đó một vài ý nghĩa."

"Tất nhiên rồi. Vậy, theo ý cô thì đã có một tai họa bất ngờ xảy đến với anh ta?"

"Vâng, đúng thế. Tôi tin là anh ấy đã đoán trước được một chuyện nguy hiểm, nếu không thì anh ấy đã không thế. Và tôi cho rằng điều mà anh ấy dự đoán đã xảy ra thật."

"Nhưng cô chẳng có ý niệm nào về điều đã xảy ra đó?"

"Không hề."

"Tôi muốn hỏi thêm một câu nữa. Mẹ cô đón nhận chuyện đó như thế nào?"

"Bà rất giận dữ và bảo tôi đừng bao giờ nói đến chuyện này nữa."

"Còn cha cô thì sao? Cô có kể cho ông ta nghe không?"

"Có, và có vẻ như ông ta nghĩ rằng điều gì đó đã xảy ra, rồi tôi sẽ nhận được tin tức của Hosmer thôi. Vì như ông ta nói thì có ai được lợi lộc gì nếu đưa tôi đến trước cửa nhà thờ rồi bỏ mặc tôi ở đó? Nếu anh ấy vay mượn tiền của tôi, hoặc nếu anh ấy đã cưới tôi và chuyển tiền của tôi sang cho anh ấy thì còn có lí, đằng này anh Hosmer rất sung túc và không bao giờ nhìn ngó đến một đồng shilling của tôi. Tuy vậy, điều gì đã xảy ra? Tại sao anh ấy không viết thư cho tôi? Ồ, chuyện này làm tôi muốn điên lên mỗi khi nghĩ đến và tôi không thể nào chợp mắt được mỗi đêm."

Cô ta lấy từ trong bao tay ra một chiếc khăn và bắt đầu khóc như mưa.

"Tôi sẽ xem qua trường hợp này của cô", Holmes vừa nói vừa động đậy, "và tôi chắc chắn chúng ta sẽ đạt được một kết quả rõ ràng. Hãy để tôi gánh giùm cô vấn đề này và đừng để tâm trí cô đắm chìm mãi về nó nữa. Quan trọng hơn hết là cô hãy cố gắng xóa bỏ anh Hosmer Angel đó ra khỏi kí ức vì anh ta đã biến mất khỏi cuộc đời cô."

"Vậy ông nghĩ rằng tôi sẽ không còn gặp lại anh ấy nữa sao?"

"Tôi e rằng không."

"Thế thì chuyện gì đã xảy ra với anh ấy?"

"Hãy để tôi làm sáng tỏ câu hỏi đó cho cô. Tôi cần một bản miêu tả chính xác nhân dạng của anh ta và bất cứ bức thư nào của anh ta mà cô còn giữ."

"Tôi đã cho đăng tìm kiếm anh ấy trên tờ Daily Chronicle ra hôm thứ bảy vừa rồi", cô ta đáp. "Đây là bản in nháp, còn đây là bốn bức thư của anh ấy."

"Cảm ơn cô. Thế còn địa chỉ của cô?"

"Số 31, quảng trường Lyon, Camberwell."

"Và cô chưa bao giờ biết địa chỉ của anh Angel, tôi biết. Cha cô làm việc ở đâu?"

"Ông ấy đi chào hàng cho Công ty Westhouse & Marbank, là hãng nhập khẩu rượu vang đỏ lớn ở phố Fenchurch."

"Cảm ơn cô. Cô đã trình bày rất rõ ràng. Cô cứ để lại những giấy tờ này ở đây và hãy nhớ lời khuyên mà tôi đã đưa ra. Hãy để toàn bộ sự việc trở thành một cuốn sách bị phong kín và đừng để nó ảnh hưởng đến cuộc đời cô."

"Ông tử tế quá, thưa ông Holmes, nhưng tôi không thể nào làm thế. Tôi sẽ chung thủy với anh Hosmer. Anh ấy sẽ thấy tôi luôn sẵn sàng khi nào anh ấy trở lại."

Cho dù đội một chiếc mũ trông ngớ ngẩn và mang bộ mặt ngây ngô, vị khách của chúng tôi vẫn bộc lộ nét cao cả qua lời cam kết giản dị ấy khiến chúng tôi sinh lòng kính trọng. Cô ta để lại bó giấy nhỏ trên mặt bàn trước khi đi nhưng vẫn hứa sẽ quay lại ngay khi được mời.

Sherlock Holmes ngồi lặng thinh đến vài phút, mấy ngón tay hãy còn chụm vào nhau, hai chân duỗi dài trước mặt và mắt nhìn chăm chú lên trần nhà. Rồi anh lấy từ trên giá xuống cái tẩu thuốc bằng gốm đen đã cũ và nhờn bóng mà anh coi là một nhà cố vấn, sau khi châm lửa, anh tựa người vào lưng ghế, đám khói xanh dày đặc cuộn tròn ở phía trước và một vẻ uể oải vô hạn hiện rõ trên mặt.

"Cô gái này quả là một trường hợp nghiên cứu rất lí thú", anh nhận xét. "Tôi thấy bản thân cô ta còn thú vị hơn cái vấn đề nhỏ nhặt của cô ta, mà nhân đây tôi xin nói luôn là cái vấn đề đó đã cũ rích rồi. Anh sẽ thấy nhiều trường hợp tương tự nếu anh tra cứu trong cuốn danh mục của tôi, ở Andover vào năm 1877 và một chuyện kiểu như vậy ở thành phố Hague của Hà Lan hồi năm ngoái. Ý tưởng thì cũ lắm rồi, tuy nhiên vẫn có một vài chi tiết mới mẻ đối với tôi. Thế nhưng điều đáng học hỏi nhất chính là bản thân cô ta."

"Có vẻ như anh đã đọc được khá nhiều điều từ cô ta trong khi tôi chẳng nhìn thấy gì cả," tôi nhận xét.

"Không phải là không nhìn thấy mà là không để ý thấy, Watson ạ. Anh không biết nên nhìn vào đâu, vì thế mà anh bỏ sót tất cả những điều chính yếu. Tôi không thể làm cho anh nhận thức được tầm quan trọng của các tay áo, sự gợi ý của móng tay cái, hoặc những vấn đề lớn có thể treo lủng lẳng trên một sợi dây giày. Nào, anh đã thu thập được những gì từ vẻ bề ngoài của cô ta? Hãy mô tả cho tôi nghe xem."

"Ừ, cô ta đội một chiếc mũ rộng vành màu xám đen có gắn một chiếc lông chim màu đỏ gạch. Chiếc áo vét của cô ta màu đen, đính những cườm đen và viền hạt trang trí nhỏ đen nhánh. Váy của cô ta màu nâu, hơi đậm hơn màu cà phê, cổ và hai cánh tay viền một ít nhung tím. Đôi găng của cô ta màu xám nhạt và bị sờn rách ở ngón trỏ tay phải. Tôi không quan sát đôi giày. Cô ta đeo đôi hoa tai tròn nhỏ bằng vàng và nhìn chung thì có vẻ khá giả nhưng kiểu cách ăn mặc hơi thiếu thẩm mĩ và xuề xòa."

Sherlock Holmes vỗ nhẹ hai tay vào nhau và cười tủm tỉm.

"Quả thật là anh đã tiến bộ đáng ngạc nhiên, Watson ạ. Thật vậy, anh đã quan sát rất tốt. Đúng là anh bỏ sót mọi thứ quan trọng nhưng đã nắm được phương pháp, và anh có con mắt tinh tường về màu sắc. Đừng bao giờ tin tưởng vào ấn tượng chung, anh bạn ạ, mà hãy tập trung vào các chi tiết. Nơi đầu tiên tôi chú ý ở một người phụ nữ luôn là tay áo. Còn ở đàn ông thì có lẽ tốt hơn là nên xem xét chỗ đầu gối quần trước. Như anh đã quan sát thấy, cô gái này có viền nhung ở hai cổ tay, đó là thứ chất liệu lưu lại dấu vết tốt nhất. Vết hằn ở phía trên hai cổ tay một chút, là chỗ mà người đánh máy tì vào bàn, hiển hiện rất rõ nét. May máy khi quay bằng tay, cũng để lại dấu vết tương tự nhưng chỉ ở bên tay trái và ở phía đối diện với ngón cái, chứ không nằm ngang phần cườm như trong trường hợp này. Sau đó, khi nhìn đến khuôn mặt và nhận thấy vết hằn của chiếc kính kẹp mũi ở hai bên mũi cô ta, tôi mới liều đưa ra nhận xét về chứng cận thị cũng như công việc đánh máy và có vẻ làm cho cô ta ngạc nhiên."

"Tôi cũng ngạc nhiên."

"Nhưng điều đó rõ rành rành mà. Thế rồi tôi rất ngạc nhiên và thích thú khi nhìn xuống và nhận thấy rằng, hai chiếc giày cô ta đang đi trông khá giống nhau nhưng lại cọc cạch; một chiếc có gắn một vật trang trí nhỏ ở mũi giày, còn chiếc kia là giày trơn. Một chiếc chỉ được cài ở hai nút dưới cùng, còn chiếc kia thì cài ở nút thứ nhất, thứ ba và thứ năm. Đấy, khi anh thấy một cô gái trẻ ăn mặc gọn gàng mà lại đi giày cọc cạch và chỉ cài nút phân nửa khi ra khỏi nhà thì chẳng cần suy luận to tát cũng khẳng định được là cô ta đã ra ngoài một cách vội vã."

"Còn gì nữa không?" Tôi thích thú hỏi tiếp vì tôi luôn rất có hứng thú với suy luận sắc bén của bạn mình.

"Tôi tình cờ nhận thấy là cô ta đã viết gì đó trước khi rời khỏi nhà nhưng là sau khi đã mặc quần áo chỉnh tề. Anh đã nhận ra chiếc găng tay bên phải của cô ta bị rách ở ngón trỏ, nhưng lại không để ý là cả chiếc găng lẫn ngón tay đều bị lấm mực tím. Cô ta đã viết vội vã và nhúng cây bút quá sâu, điều đó chắc chắn chỉ mới xảy ra vào sáng nay, nếu không thì vết mực đã chẳng hiện rõ trên ngón tay như thế. Tất cả những chi tiết này cũng khá thú vị, tuy là hơi sơ đẳng, nhưng tôi phải quay lại với công việc thôi, Watson. Anh vui lòng đọc bản mô tả anh Hosmer Angel trong mẩu tin tìm người được chứ?"

Tôi đưa bản in thử bé xíu ra trước ánh sáng.

"Một nam giới tên Hosmer Angel mất tích vào sáng ngày 14. Cao khoảng năm foot bảy; vóc dáng khỏe mạnh, nước da hơi tái, tóc đen rậm, hơi hói trên đỉnh đầu, có râu quai nón và ria mép đen, đeo kính râm, giọng nói hơi thều thào. Trước khi mất tích mặc áo choàng dài đến gối màu đen viền lụa, áo gilet đen với dây đồng hồ vàng kiểu Albert và quần len dày màu xám, chân đi ống bao mắt cá màu nâu bên ngoài đôi giày cao cổ có cạnh chun. Được biết đã từng làm việc cho một văn phòng ở phố Leadenhall. Ai biết xin thông báo..."

"Thế đủ rồi", Holmes nói. "Về phần mấy lá thư," anh nói tiếp, mắt liếc sơ về phía chúng, "chúng rất bình thường. Chúng chẳng nói lên điều gì về anh Angel, ngoại trừ việc có một lần anh ta trích dẫn lời của Balzac. Tuy vậy, có một điểm rất đặc biệt mà hẳn là anh đã chú ý đến."

"Chúng được đánh máy", tôi đưa ra nhận xét.

"Không chỉ thế, mà chữ kí cũng được đánh máy luôn. Anh hãy nhìn vào hai chữ 'Hosmer Angel' rất rõ ràng ở cuối thư. Có cả ngày tháng, anh thấy chứ, nhưng không ghi địa chỉ cụ thể mà chỉ đề phố Leadenhall, rất là mơ hồ. Chi tiết về chữ kí cũng cho ta thấy được nhiều điều."

"Vì cái gì?"

"Anh bạn thân mến, lẽ nào anh lại không nhận ra tầm quan trọng của nó trong vụ này?"

"Tôi chỉ đoán được rằng anh ta làm thế để có thể chối bỏ chữ kí của mình nếu như việc hủy bỏ hôn ước bị điều tra."

"Không phải thế. Nhưng dù sao tôi cũng sẽ viết hai bức thư để giải quyết vấn đề. Một bức sẽ được gửi đến một công ty ở khu City, bức kia thì gửi đến ông bố dượng của cô gái - ông Windibank - để mời ông ta đến đây gặp chúng ta lúc 6 giờ tối mai. Chúng ta nên làm việc với đại diện nam giới là người nhà đương sự. Giờ thì, bác sĩ, chúng ta không thể làm gì thêm nữa cho đến khi nhận được hồi âm của hai lá thư trên, vậy thì, tạm thời ta có thể xếp vấn đề nhỏ bé này lên kệ."

Tôi có rất nhiều lí do để tin tưởng vào khả năng suy luận tài tình và năng lực phi thường của bạn mình trong khi hành động, vậy nên tôi cảm thấy hẳn là anh phải có cơ sở vững chắc thì mới có được thái độ quả quyết và ung dung với vụ bí ẩn kì quặc mà anh được yêu cầu tìm hiểu này. Tôi biết anh chỉ thất bại một lần duy nhất trong vụ việc nhà vua xứ Bohemia và bức hình của cô Irene Adler; nhưng khi tôi xem lại vụ án kì quặc Dấu bộ tứ và những tình huống khác thường liên quan đến vụ Cuộc điều tra màu đỏ thì tôi lại thấy nếu có vụ nào anh không gỡ được thì đó hẳn phải là một vụ rối rắm kì lạ lắm.

Thế rồi tôi rời đi, anh vẫn đang bập từng hơi thuốc từ cái tẩu gốm đen của mình, tôi tin chắc rằng khi tôi quay lại vào tối hôm sau thì sẽ thấy anh đã nắm trong tay mọi manh mối để tìm ra chú rể mất tích của cô Mary Sutherland.

Một ca bệnh rất nặng đã chiếm trọn sự tập trung của tôi suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau tôi phải trực bên giường của bệnh nhân. Mãi đến gần 6 giờ chiều tôi mới được tự do để nhảy lên một cỗ xe đến phố Baker, lòng lo lắng mình sẽ đến quá trễ và không thể tham dự vào dénouement của vụ bí ẩn nho nhỏ này. Tuy nhiên, tôi thấy chỉ có một mình Sherlock Holmes trong nhà, anh đang nửa thức nửa ngủ, thân hình cao gầy co lại trong lòng chiếc ghế bành. Một dãy dài chai lọ và ống nghiệm với mùi hăng nồng của axít clohidric cho tôi biết anh đã dành trọn ngày cho công việc nghiên cứu hóa học quen thuộc.

"Sao, anh đã giải quyết xong rồi chứ?" Tôi hỏi khi bước vào nhà.

"Rồi. Đó là chất barit bisulphat."

"Không phải chuyện đó, vụ bí ẩn kìa!" Tôi kêu lên.

"Ồ, chuyện đó à! Tôi lại nghĩ về chất muối mà tôi đang nghiên cứu. Vì vấn đề đó thì chẳng bao giờ có gì là bí ẩn cả, tuy vậy, như tôi đã nói hôm qua, có một số chi tiết lí thú. Tôi e rằng điều trở ngại duy nhất là không có cơ sở pháp lí để đụng đến tên vô lại đó."

"Thế hắn là ai và hắn muốn gì khi bỏ rơi cô Sutherland?"

Câu hỏi vừa mới thốt ra và Holmes còn chưa kịp trả lời thì chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân nặng nề trong hành lang và tiếng gõ cửa.

"Đó là cha dượng của cô gái, ông James Windibank", Holmes nói. "Ông ta đã trả lời tôi là sẽ đến đây lúc 6 giờ. Mời vào!"

Người đàn ông bước vào có thân hình vạm vỡ, chiều cao trung bình, độ ngoài ba mươi tuổi, râu ria cạo nhẵn, nước da tai tái với cách nói chuyện nhẹ nhàng có vẻ giả dối và đôi mắt màu xám rất sắc bén. Ông ta liếc nhìn từng người chúng tôi vẻ dò hỏi rồi đặt cái mũ chóp cao bóng loáng lên mặt tủ, hơi nghiêng mình cúi chào rồi rụt rè ngồi xuống chiếc ghế gần nhất.

"Xin chào, ông James Windibank", Holmes cất tiếng. "Tôi nghĩ rằng bức thư đánh máy này là do ông thảo ra với nội dung bằng lòng đến gặp tôi lúc 6 giờ?"

"Vâng, thưa ông. Tôi e là mình đến hơi trễ, nhưng tôi không chủ động được, ông biết đấy. Tôi rất lấy làm tiếc về việc cô Sutherland đã làm phiền ông về cái việc vụn vặt này, tôi nghĩ rằng chuyện đó nên giải quyết trong nhà thì tốt hơn. Cô ta đến đây là chuyện ngoài ý muốn của tôi, thế nhưng đó là một cô gái bốc đồng và dễ bị kích động, có lẽ ông cũng nhận thấy thế, và không dễ gì mà ngăn cản một khi cô ta đã quyết làm. Tất nhiên là tôi không ngại ông lắm vì ông cũng không liên quan đến cảnh sát, nhưng cũng chẳng dễ chịu gì khi một chuyện không may trong gia đình bị đem lan truyền khắp nơi. Hơn nữa làm thế chỉ tổ phí công vô ích vì làm sao ông có thể tìm ra gã Hosmer Angel ấy được?"

"Trái lại", Holmes nhẹ nhàng đáp, "tôi có đủ lí do để tin tưởng rằng mình sẽ thành công trong việc vạch trần anh Hosmer Angel."

Windibank giật thót người và đánh rơi đôi găng tay. "Tôi rất mừng khi nghe thế." ông ta nói.

"Điều lạ lùng là", Holmes nhận xét, "một cái máy đánh chữ cũng có những đặc điểm riêng không thua gì chữ viết tay. Trừ phi đó là một cái máy hoàn toàn mới, ngoài ra thì không có hai cái máy đánh chữ nào cho ra những chữ giống nhau tuyệt đối. Một số chữ bị mòn nhiều hơn những chữ khác, và một số chỉ bị mòn ở một bên. Đây, ông sẽ quan sát thấy trong bức thư này của ông, thưa ông Windibank, tất cả những chữ e đều hơi mờ trên tổng thể và những chữ r thì hơi khuyết một chút ở đuôi. Ngoài ra còn có mười bốn đặc điểm khác nữa nhưng hai đặc điểm trên là rõ rệt nhất."

"Ở văn phòng, chúng tôi chỉ dùng cái máy đánh chữ này để thảo tất cả thư từ, và chắc chắn là nó đã hơi mòn", ông khách của chúng tôi trả lời, đồng thời liếc trộm về phía Holmes với đôi mắt nhỏ sáng rực.

"Và giờ thì tôi sẽ cho ông thấy một nghiên cứu thật sự thú vị, thưa ông Windibank", Holmes nói tiếp. "Tôi tính sắp tới sẽ viết một chuyên khảo về máy đánh chữ và mối liên hệ của nó với tội phạm. Tôi khá lưu tâm đến đề tài này. Trong tay tôi hiện đang có bốn bức thư dường như do người mất tích thảo ra. Chúng đều được đánh máy. Trong mỗi lá thư, không chỉ có những chữ e bị mờ và chữ r bị mất đuôi mà như ông sẽ thấy, nếu ông dùng đến chiếc kính lúp của tôi, còn có cả mười bốn đặc điểm khác mà tôi đã nhận thấy."

Windibank nhảy vọt ra khỏi ghế và chộp lấy cái mũ. "Ông Holmes, tôi không thể phí phạm thì giờ để nói mấy chuyện quái gở này", hắn nói. "Nếu ông có thể bắt được hắn thì cứ bắt và hãy báo cho tôi biết khi nào ông xong việc."

"Chắc chắn rồi", Holmes vừa nói vừa sải bước và xoay chìa khóa cửa. "Thế thì tôi xin thông báo với ông là tôi đã bắt được hắn!"

"Gì chứ? Ở đâu?"

Windibank kêu to, đôi môi tái nhợt đi và cặp mắt láo liên nhìn xung quanh như một con chuột đang nằm trong bẫy.

"Ồ, không được đâu, chắc chắn là không", Holmes ngọt ngào nói. "Không có cách nào thoát ra được đâu, ông Windibank. Chuyện đã quá rõ rồi, và ông đã đưa ra một lời khen tệ hại khi nói rằng tôi không thể giải đáp được một vấn đề đơn giản đến thế. Đúng vậy! Mời ông ngồi xuống và chúng ta sẽ cùng thảo luận đến nơi đến chốn."

Người khách của chúng tôi đổ sụp xuống ghế, mặt nhợt nhạt như xác chết và mồ hôi rịn ra bóng loáng trên trán. "Chuyện này... không thưa kiện gì được đâu", hắn lắp bắp.

"Tôi cũng e rằng pháp luật không giải quyết được. Nhưng giữa chúng ta với nhau, ông Windibank, đó là một trò gian trá tàn nhẫn, ích kỉ và hèn hạ nhất mà tôi từng thấy. Nào, hãy để tôi thuật lại diễn biến của sự việc và ông có thể bác bỏ nếu như tôi nói sai."

Gã đàn ông ngồi ủ rũ trên ghế, đầu gục xuống trước ngực như người bị giáng một đòn trí mạng. Holmes gác hai chân lên một góc trên mặt lò sưởi và ngả người ra sau, hai tay đút túi, anh bắt đầu nói, như với chính mình chứ không phải là với chúng tôi.

"Có một người đàn ông nọ cưới một người phụ nữ lớn tuổi hơn hắn rất nhiều chỉ vì tiền của bà ta", anh kể, "và hắn được sử dụng tiền của cô con gái chừng nào cô vẫn còn sống chung với họ. Đó là một món hời đáng kể đối với những người trong cuộc và việc mất đi số tiền đó sẽ là một sự thay đổi rất đáng sợ. Cần phải ra sức duy trì tình trạng đó. Cô con gái không những rất tốt bụng và tử tế mà còn giàu tình cảm và hay biểu lộ ra, vì thế dễ nhận thấy là với sự nết na cộng thêm món thu nhập nho nhỏ thì cô ta sẽ không ở vậy lâu. Tất nhiên, nếu cô ta kết hôn thì họ sẽ mất đi hàng trăm bảng mỗi năm, vậy người cha dượng phải làm gì để ngăn chặn điều đó? Ông ta chọn cách dễ thấy là giữ cô ta ở trong nhà và ngăn cấm cô ta tìm kiếm bạn bè cùng lứa tuổi. Nhưng rồi ông ta nhanh chóng nhận ra đó không phải là giải pháp lâu dài. Cô ta trở nên mạnh mẽ hơn, kiên quyết bảo vệ quyền lợi của mình và cuối cùng thì nói ra miệng ý định quả quyết sẽ tham dự một buổi khiêu vũ nào đó. Người cha dượng khôn ngoan của cô ta cần phải làm gì? Ông ta nghĩ ra một kế hoạch đáng khen về trí thông minh nhưng đáng trách về mặt tình cảm. Với sự đồng lõa và hỗ trợ của người vợ, ông ta tự cải trang, che giấu đôi mắt sắc bằng cặp kính râm, hóa trang khuôn mặt bằng một bộ ria và râu quai nón rậm rạp, hạ thấp giọng nói rõ ràng thành tiếng thì thào, cộng thêm một lợi thế an toàn là cô gái bị cận thị, ông ta đã xuất hiện dưới lốt chàng trai Hosmer Angel và gạt những chàng trai khác ra xa bằng cách tỏ tình với cô gái."

"Lúc đầu thì đó chỉ là một trò đùa thôi", ông khách của chúng tôi rên rỉ. "Chúng tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng cô ta lại say đắm đến thế."

"Không hẳn vậy. Dù sao đi nữa, cô gái trẻ rõ ràng đã rất say đắm và vì cứ đinh ninh rằng người cha dượng đang ở Pháp nên cô ta chẳng mảy may nghi ngờ về sự lừa đảo. Cô ta bị xiêu lòng bởi sự quan tâm của chàng trai và còn bị tác động thêm bởi sự ngưỡng mộ được bà mẹ thể hiện rất nhiệt tình. Thế rồi anh Angel bắt đầu ghé chơi nhà, vì rõ ràng là cần phải đẩy việc này đi xa hết mức để tạo được hiệu quả thực sự. Những buổi hẹn hò, tiếp đến là hứa hôn, nhằm dứt khoát ngăn chặn cô gái trao tình cảm cho bất cứ chàng trai nào khác. Thế nhưng sự dối trá đó không thể duy trì lâu dài. Những chuyến đi Pháp giả vờ khá là bất tiện. Rất dễ nhận thấy là cần phải kết thúc sự việc một cách kịch tính nhằm lưu lại ấn tượng vĩnh viễn trong tâm hồn cô gái trẻ và ngăn cô ta nhìn ngó đến bất cứ đối tượng cầu hôn nào khác trong tương lai, vì thế mới có những lời thề chung thủy trên Kinh Thánh cũng như những lời bóng gió về một điều gì đó có thể xảy ra ngay trong buổi sáng hôm đám cưới. James Windibank mong muốn cô Sutherland sẽ ràng buộc mình với Hosmer Angel, và vì không biết điều gì đã xảy ra với anh ta, bất luận thế nào, trong vòng mười năm tới, cô sẽ không quan tâm đến bất cứ người đàn ông nào khác. Lúc đưa cô gái đến cửa nhà thờ, vì không thể để sự việc diễn tiến xa hơn nữa, hắn đã biến mất một cách dễ dàng bằng cái mánh lới xưa cũ là bước lên một cỗ xe bốn bánh bằng cửa này và thoát ra bằng cửa bên kia. Tôi nghĩ diễn biến các sự kiện là như thế đấy, ông Windibank!"

Người khách của chúng tôi đã lấy lại chút tự tin trong lúc Holmes nói và ông ta nhổm dậy khỏi ghế với nụ cười nhếch mép trên khuôn mặt tai tái. "Có thể là như thế mà cũng có thể không phải vậy, ông Holmes ạ", hắn nói, "nhưng nếu ông sắc sảo đến thế thì hẳn là ông cũng đủ thông minh để biết rằng chính ông mới là người đang vi phạm pháp luật chứ không phải tôi. Ngay từ đầu tôi đã không làm điều gì khả dĩ bị kiện ra tòa, nhưng chừng nào ông còn khóa chặt cửa thì ông còn nguy cơ bị khởi tố vì tội tấn công và giam giữ người trái phép."

"Như ông đã nói, luật pháp không thể đụng đến ông", Holmes nói, anh mở khóa và giật tung cánh cửa ra, "tuy nhiên, không có người nào xứng đáng bị trừng phạt hơn ông. Nếu cô gái đó có một người anh hoặc một người bạn trai thì hẳn người đó sẽ quất một roi vào vai ông. Ái chà!" Anh nói tiếp, mặt đỏ bừng lên vì nụ cười nhạo báng chua cay trên mặt hắn, "tuy đây không phải là bổn phận của tôi đối với khách hàng, nhưng sẵn tiện có một ngọn roi ở đây, tôi nghĩ rằng tôi sẽ tự cho phép mình..." Anh bước nhanh hai bước với lấy cái roi ngựa nhưng tiếng bước chân khua lộp cộp dữ dội trên mấy bậc thang, tiếng cánh cửa nặng nề đóng sầm lại và từ cửa sổ, chúng tôi nhìn thấy James Windibank đang vắt giò lên cổ chạy xuống đường.

"Một tên vô lại máu lạnh!" Holmes nói rồi cười phá lên khi anh buông người trở lại chiếc ghế bành. "Hắn sẽ phạm tội ngày càng nghiêm trọng rồi thể nào cũng có ngày tội hắn đủ nặng và kết thúc ở giá treo cổ. Xét trên một số khía cạnh thì vụ này cũng không đến nỗi kém lí thú."

"Tôi vẫn chưa thể nhìn ra tất cả các bước suy luận của anh", tôi bình luận.

"À, tất nhiên rồi, điều dễ dàng nhận thấy ngay từ đầu là anh chàng Hosmer Angel hành động kì quặc như thế là có mục đích, và cũng rất rõ ràng là đối tượng duy nhất thực sự được hưởng lợi từ sự việc này, như chúng ta có thể thấy, chính là người cha dượng. Tiếp theo là đến chi tiết hai người đàn ông này chưa bao giờ xuất hiện cùng lúc, chính việc một người luôn luôn xuất hiện khi kẻ kia đi vắng đã nói lên rất nhiều điều. Cặp kính râm và giọng nói lạ lùng cũng thế, cả hai đều gợi ý đến một sự ngụy trang, cũng giống như bộ râu quai nón rậm rạp. Tất cả những mối nghi ngờ của tôi được khẳng định bởi hành động lập dị của hắn là dùng máy đánh chữ để kí tên, tất nhiên là từ đó mà tôi suy ra được rằng chữ viết của hắn phải rất quen thuộc với cô gái đến mức chỉ cần nhìn một vài chữ là cô ta có thể nhận ra ngay. Anh thấy đấy, tất cả các chi tiết riêng rẽ này, kết hợp với nhiều chi tiết nhỏ nhặt khác, đều chỉ về cùng một hướng."

"Anh đã xác minh chúng ra sao?"

"Một khi đã tìm ra gã đàn ông rồi thì việc kiểm chứng cũng trở nên dễ dàng. Tôi biết công ty hắn làm việc. Bản mô tả nhân dạng cũng đã có trong tay. Tôi bèn loại bỏ những thứ có thể ngụy trang - bộ râu quai nón, cặp kính, giọng nói - rồi gửi đến công ty hắn và hỏi họ bản mô tả này có khớp với nhân viên chào hàng nào của họ hay không. Tôi cũng đã lưu ý đến những đặc điểm riêng của cái máy đánh chữ, và tôi gửi tới địa chỉ công ty hắn một bức thư cho chính hắn, yêu cầu hắn đến đây. Quả như tôi dự đoán, thư hồi âm của hắn được đánh máy và để lộ những khiếm khuyết tuy không đáng kể nhưng lại rất đặc trưng. Tôi cũng nhận được một lá thư từ Westhouse & Marbank tại phố Fenchurch, xác nhận rằng bản mô tả khớp đến từng chi tiết với một trong các nhân viên của họ, James Windibank. Voilà tout."

"Thế còn cô Sutherland thì sao?"

"Nếu tôi kể cho cô ta nghe thì nhất định cô ta sẽ không tin. Hẳn là anh còn nhớ một câu châm ngôn Ba Tư: 'Bắt cọp con đã nguy hiểm, mà cướp đi ảo vọng của phụ nữ càng nguy hiểm.' Trong tác phẩm của Hafiz cũng như của Horace, hay trong kho tàng kiến thức của nhân loại, ta đều có thể tìm thấy những câu nói có ý nghĩa tương tự."

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip