VIÊN THẠCH LỰU XANH(The Blue Carbuncle, 1892)
Vào buổi sáng sau lễ Giáng sinh hai ngày, tôi ghé thăm anh bạn Sherlock Holmes với ý định chúc mừng anh nhân dịp lễ. Anh mặc áo choàng ngủ màu đỏ tía, nằm dài trên trường kỉ, một cái giá để tẩu thuốc nằm trong tầm với ở phía bên phải và một chồng báo buổi sáng nhàu nát, rõ ràng vừa mới đọc xong, nằm ngay sát người. Bên cạnh trường kỉ có một cái ghế gỗ và trên góc lưng ghế có một chiếc mũ nỉ cứng rất bẩn thỉu đã sờn rách và nứt rạn vài chỗ. Một cái kính lúp và một chiếc kẹp nằm trên mặt ghế cho thấy chiếc mũ được treo lên như thế nhằm mục đích quan sát.
"Anh đang bận", tôi lên tiếng, "có lẽ tôi đã quấy rầy anh."
"Không hề gì. Tôi rất mừng khi có một người bạn để có thể cùng bàn bạc về những kết quả. Vấn đề này vô cùng bình thường", anh chĩa ngón cái về phía chiếc mũ cũ kĩ, "nhưng lại có những điểm khá lí thú và thậm chí còn dạy cho ta một vài điều."
Không đợi mời, tôi ngồi xuống chiếc ghế bành và hơ hai bàn tay trước ngọn lửa đang reo tí tách, vì sương giá lạnh buốt bắt đầu buông và những tinh thể băng đã kết dày trên cửa sổ. Tôi nhận xét, "tôi đoán rằng vật trông có vẻ giản dị này có liên quan đến một câu chuyện chết chóc, và nó chính là manh mối dẫn dắt anh tìm ra lời giải cho một vụ án bí ẩn và trừng phạt một tội ác nào đó."
"Không phải đâu. Chẳng có tội ác nào cả", Sherlock Holmes đáp và cười phá lên. "Chỉ là một sự việc nho nhỏ kì dị sẽ xảy ra khi có đến bốn triệu con người chen chúc nhau trong một không gian vài dặm vuông thôi. Giữa những hành động và phản ứng của một đám đông người dày đặc như thế, mọi chuỗi kết hợp các sự kiện đều có thể xảy ra, từ đó nảy sinh nhiều vấn đề nho nhỏ có thể rất ấn tượng và kì dị mà không hề dính líu đến tội ác. Chúng ta đã có kinh nghiệm về những trường hợp như thế."
"Nhiều là đằng khác", tôi nhận xét. "Trong số sáu vụ gần đây nhất mà tôi ghi chép lại thì có đến ba vụ hoàn toàn không vi phạm pháp luật."
"Chính xác. Chắc anh muốn nói đến việc tôi tìm cách lấy lại các giấy tờ từ tay Irene Adler, vụ việc kì quặc của cô Mary Sutherland và việc làm táo bạo của gã đàn ông méo miệng. Đấy, tôi chắc chắn rằng vấn đề nhỏ mọn này rồi cũng sẽ thuộc loại vô thưởng vô phạt như thế. Anh biết Peterson, người gác cổng chứ?"
"Biết."
"Món chiến lợi phẩm này chính là của anh ta."
"Đây là mũ của anh ta?"
"Không, không phải thế, anh ta tìm thấy nó. Chủ sở hữu của chiếc mũ này là ai thì vẫn còn chưa rõ. Tôi mong anh đừng nhìn nó như một cái mũ quả dưa tơi tả, mà hãy coi nó như một vấn đề trí tuệ. Và trước tiên là nó đã đến đây như thế nào. Nó xuất hiện vào buổi sáng hôm Giáng sinh cùng với một con ngỗng béo ngon lành mà giờ này chắc là đang được quay trong lò lửa nhà Peterson. Sự thể là thế này: Khoảng 4 giờ sáng hôm Giáng sinh, Peterson, người mà anh biết là rất lương thiện, đi xuôi đường Tottenham Court về nhà sau một cuộc chè chén say sưa. Dưới ánh đèn khí, anh ta nhìn thấy trước mặt có một người đàn ông khá cao đang lảo đảo bước đi với một con ngỗng trắng nằm vắt trên vai. Khi anh ta đến góc phố Goodge thì thấy người đàn ông lạ mặt này đang cãi nhau với một đám du côn. Một đứa trong đám đánh văng chiếc mũ của ông ta, ông ta giơ gậy lên để phòng vệ và vì lỡ quơ nó cao quá đầu nên đã đập trúng tấm kính của cửa tiệm phía sau lưng. Peterson lao lên phía trước để bảo vệ người lạ trước đám côn đồ; nhưng do sợ hãi vì đã làm vỡ tấm kính và trông thấy một người mặc đồng phục có vẻ giống cảnh sát đang lao nhanh về phía mình nên người đàn ông này đã đánh rơi con ngỗng, bỏ chạy mất hút vào trong những con phố nhỏ rối rắm phía sau đường Tottenham Court. Đám du đãng cũng bỏ trốn khi nhìn thấy Peterson, vì vậy anh ta bị bỏ lại giữa bãi chiến trường cùng những chiến lợi phẩm gồm chiếc mũ méo mó này và một con ngỗng Giáng sinh không chê vào đâu được."
"Hẳn là anh ta phải đem trả lại cho chủ nhân của chúng chứ?"
"Anh bạn thân mến, vấn đề nằm ở chỗ đó. Quả thật là có một tấm thẻ nhỏ in mấy chữ 'Dành tặng bà Henry Baker' đeo ở chân trái con ngỗng, và trong lớp lót của chiếc mũ cũng có mấy chữ viết tắt H.B, rất rõ ràng, nhưng trong thành phố của chúng ta có đến hàng ngàn người mang họ Baker và hàng trăm người có tên Henry Baker, thật không dễ mà đem trả lại những thứ bị mất này cho bất cứ ai trong số họ."
"Thế sau đó Peterson đã làm gì?"
"Anh ta đem cả chiếc mũ lẫn con ngỗng đến chỗ tôi vào buổi sáng Giáng sinh vì anh ta biết rằng tôi quan tâm đến cả những vấn đề nhỏ nhặt nhất. Con ngỗng được chúng tôi giữ lại cho đến tận sáng nay, khi mà tuy trời khá lạnh nhưng đã xuất hiện những dấu hiệu cho thấy phải ăn thịt nó ngay chứ không thể chần chừ thêm nữa. Người vớ được nó đã đem hóa kiếp rồi, còn tôi vẫn giữ chiếc mũ của một quý ông vô danh đã đánh mất nó trong đêm Giáng sinh."
"Ông ta có đăng thông báo không?"
"Không."
"Vậy anh đã tìm ra dấu vết gì để nhận dạng người đó hay chưa?"
"Vô số thứ mà ta có thể suy luận ra."
"Từ chiếc mũ này?"
"Đúng thế."
"Anh có đùa không đấy? Anh biết được gì từ chiếc mũ nỉ cũ kĩ tả tơi này?"
"Đây là kính lúp của tôi. Anh đã biết phương pháp làm việc của tôi rồi đấy. Anh thử xem, tự mình có thể rút ra được gì về tính cách của người đã đội chiếc mũ này?"
Tôi cầm cái vật tả tơi đó trong tay và lật đi lật lại với đôi chút thương xót. Đó là một chiếc mũ màu đen, kiểu dáng tròn rất bình thường, cứng và đã xơ mòn lắm rồi. Trước đây thì lớp lụa lót có màu đỏ nhưng giờ đã bạc phếch. Không thấy tên của nhà sản xuất nhưng như Holmes đã nhận xét, có những chữ viết tắt H.B nguệch ngoạc ở một bên. Vành mũ được đục lỗ để xỏ dây nhưng sợi dây bằng cao su đã bị mất. Nhìn chung, chiếc mũ đã sờn rách, rất bẩn thỉu và còn bị thủng vài chỗ, dù có vẻ như người chủ đã cố gắng che giấu những mảng bạc màu bằng cách bôi mực lên.
"Tôi chẳng thấy gì cả", tôi nói rồi trao chiếc mũ lại cho anh bạn.
"Ngược lại đấy, Watson, anh có thể nhìn thấy mọi thứ. Tuy nhiên anh đã quên không suy luận từ những gì anh trông thấy. Anh không đủ can đảm để rút ra kết luận."
"Vậy xin anh hãy nói cho tôi nghe anh đã rút ra được gì từ chiếc mũ này?"
Anh giơ nó lên và chăm chú nhìn với lối quan sát rất đặc biệt mà chỉ anh mới có. "Có thể là nó không gợi lên nhiều thứ như ta hi vọng", anh nhận định, "tuy vậy vẫn có vài kết luận rất dễ nhận thấy và một vài điều khác chí ít cũng có xác suất đúng là rất cao. Nhìn qua cũng thấy người này hiển nhiên là rất thông minh, và trong vòng ba năm trở lại đây đã có lúc ông ta khá giàu có, dù giờ đây ông ta đã rơi vào vận mạt. Ông ta là người lo xa, nhưng giờ thì kém hơn trước rồi, từ đó chỉ ra sự sa sút tinh thần, xét thêm sự giảm sút về của cải, điều này cho ta thấy dường như có một ảnh hưởng xấu nào đó đã tác động đến ông ta, có thể là rượu chè. Đó có lẽ là nguyên do dẫn đến sự thực hiển nhiên là người vợ đã không còn yêu thương ông ta nữa."
"Trời đất, Holmes ơi!"
"Tuy vậy, ông ta hãy còn giữ được đôi chút tự trọng", bạn tôi cứ tiếp tục nói, chẳng thèm đếm xỉa đến sự phản đối của tôi. "Ông ta là người chỉ thích ở trong nhà, rất ít khi ra ngoài, hoàn toàn không màng đến chuyện luyện tập thể thao, đang ở độ tuổi trung niên, mái tóc điểm bạc được cắt ngắn trong vài ngày gần đây và dùng một loại kem có mùi chanh để vuốt tóc. Đây là những dữ kiện tương đối rõ ràng có thể suy ra từ chiếc mũ. Còn nữa, rất có thể nhà ông ta không dùng khí đốt."
"Chắc chắn là anh đang đùa cợt, Holmes."
"Không hề. Lẽ nào tôi đã cho anh những kết quả như thế mà anh vẫn chưa hiểu tôi đã suy luận bằng cách nào?"
"Tôi biết mình không được thông minh, phải thú nhận rằng tôi không thể nào theo kịp suy luận của anh. Ví dụ như, làm sao mà anh suy ra được rằng người đàn ông đó thông minh?"
Holmes trả lời bằng cách ấn mạnh chiếc mũ lên đầu mình. Nó sụp xuống quá trán, tới tận sống mũi. "Đó là vấn đề dung tích", anh nói. "Một người đàn ông với bộ não to thế này thì phải có gì đó ở bên trong chứ."
"Thế còn chuyện gia cảnh bị sa sút?"
"Cái mũ này đã có từ cách đây ba năm. Kiểu mũ cổ vành phẳng và uốn cong ở mép thế này là rất mốt vào lúc đó. Đây là một chiếc mũ có chất lượng rất tốt. Hãy nhìn dải lụa gân này và lớp lót thượng hạng xem. Nếu người này có thể mua được một chiếc mũ đắt tiền như thế từ ba năm trước mà đến giờ vẫn chưa mua chiếc nào khác thì nhất định là cuộc đời của ông ta đã xuống dốc."
"Được, khá rõ ràng rồi đấy, chắc chắn rồi. Nhưng còn chuyện phòng xa và sự sa sút tinh thần?"
Sherlock Holmes cười ngất. "Tính lo xa thể hiện ở đây", anh vừa nói vừa đặt ngón tay lên cái lỗ tròn nhỏ và cái móc của sợi dây buộc mũ. "Người ta chẳng bao giờ bán những thứ này kèm theo mũ. Nếu người này đặt làm thêm như thế thì đó là dấu hiệu của tính lo xa vì ông ta đã cố gắng đề phòng bị gió thổi bay. Nhưng vì chúng ta thấy là sợi dây buộc mũ đã bị đứt và ông ta không buồn thay sợi khác vào, rõ ràng là giờ ông ta đã bớt thận trọng hơn, đó là bằng chứng hiển nhiên của sự xuống dốc về bản chất. Mặt khác, ông ta cố gắng che giấu một số vết bẩn trên lớp nỉ bằng cách bôi mực lên, đó là dấu hiệu cho thấy ông ta chưa hoàn toàn mất đi lòng tự tôn."
"Lí lẽ của anh rất hợp lí."
"Những điểm khác nữa như là ông ta thuộc độ tuổi trung niên, mái tóc của ông ta đã chớm bạc và mới cắt gần đây hay ông ta sử dụng kem vuốt tóc có mùi chanh, tất cả đều được suy luận ra khi nhìn kĩ phần dưới của lớp lót. Kính lúp đã soi được rất nhiều ngọn tóc được cắt gọn bằng kéo của thợ cắt tóc. Chúng có vẻ khá dính và dậy mùi kem vuốt tóc hương chanh. Anh sẽ thấy lớp bụi này không phải là loại bụi xám có sạn ở ngoài đường mà là bụi mịn, màu nâu ở trong nhà, nghĩa là nó đã được treo trong nhà suốt, còn những vết ẩm ở bên trong là bằng chứng cho việc chủ nhân của nó rất dễ đổ mồ hôi, và vì thế, ông ta khó có thể là người năng rèn luyện thân thể."
"Nhưng còn vợ ông ta, anh nói rằng bà ấy không còn yêu ông ta nữa."
"Đã nhiều tuần rồi cái mũ này chưa được chải. Watson thân mến, khi tôi trông thấy anh với lớp bụi tích tụ cả tuần lễ trên chiếc mũ anh đội và nếu vợ anh để anh ra đường trong tình trạng như thế thì tôi e rằng anh đã không còn được vợ quan tâm."
"Nhưng biết đâu ông ta độc thân?"
"Không, ông ta ôm một con ngỗng về để dàn hòa với bà vợ. Hãy nhớ đến tấm thẻ gắn ở chân con ngỗng."
"Cái gì anh cũng tìm ra được lời giải. Nhưng làm thế nào mà anh suy ra được là nhà ông ta không dùng khí đốt?"
"Nếu bị lấm một, hai vết mỡ nến thì có thể là tình cờ nhưng khi nhìn thấy không dưới năm vết thì tôi cho rằng nhiều khả năng là người này thường xuyên phải tiếp xúc với nó - như là đi lên cầu thang vào ban đêm một tay cầm mũ, một tay cầm nến. Dẫu sao đi nữa ông ta sẽ chẳng bao giờ bị dây vết mỡ từ đèn thắp bằng khí đốt. Anh đã hài lòng rồi chứ?"
"Vâng, thật là tài tình", tôi vừa cười vừa nói, "nhưng như anh vừa nói, không có tội ác nào và cũng không có tổn thất nào ngoại trừ một con ngỗng bị mất, vậy tất cả những suy luận này chỉ làm phí sức của anh thôi."
Sherlock Holmes vừa mở miệng định trả lời thì cánh cửa chợt mở tung, và Peterson, người gác cổng, lao vào căn hộ, hai má đỏ bừng, khuôn mặt sững sờ vì kinh ngạc.
"Con ngỗng, ông Holmes này! Con ngỗng, thưa ông!" Anh ta thở hổn hển.
"Gì vậy? Nó ra sao rồi? Nó sống lại và vỗ cánh bay mất qua cửa sổ bếp nhà anh chăng?" Holmes quay người lại trên chiếc ghế dài để nhìn rõ hơn khuôn mặt kích động của anh ta.
"Hãy nhìn đây, thưa ông! Xem vợ tôi đã tìm thấy gì trong diều của nó." Anh ta chìa tay ra, để lộ một viên đá xanh lấp lánh rực rỡ giữa lòng bàn tay, tuy kích cỡ viên đá nhỏ hơn một hạt đậu nhưng tinh khiết và rất sáng đến độ nó tỏa ánh lấp lánh như một đốm điện trong lòng bàn tay anh ta.
Sherlock Holmes bật dậy với một tiếng huýt sáo. "Ái chà, Peterson này", anh nói, "đây đúng là một kho báu! Hẳn là anh cũng biết mình đã tìm ra vật gì chứ?"
"Thưa ông, chắc là một viên kim cương? Một viên đá quý. Nó cắt thủy tinh ngọt cứ như là bột mài kính vậy."
"Không chỉ là một viên đá quý thông thường. Nó chính là viên đá quý có một không hai đấy!"
"Không phải là viên thạch lựu xanh của nữ bá tước Morcar chứ?" Tôi thốt lên.
"Chính là nó. Tôi gần như thuộc nằm lòng kích thước và hình dáng của viên ngọc này vì dạo gần đây, ngày nào tôi cũng thấy thông báo về nó đăng trên tờ Times. Đó là viên ngọc độc nhất vô nhị, và giá trị của nó chỉ có thể phỏng đoán, thế nhưng món tiền thưởng một ngàn bảng chắc chắn là không dưới hai mươi phần trăm giá trị của nó trên thị trường."
"Một ngàn bảng! Lạy Chúa nhân từ!" Người gác cửa ngồi phịch xuống một cái ghế và trân trối nhìn bọn tôi từ người này sang người nọ.
"Đó là món tiền thưởng, và tôi còn có cơ sở để biết thêm rằng vì những lí do quan trọng liên quan đến tình cảm ẩn sau viên ngọc này mà nữ bá tước sẵn sàng cho đi phân nửa gia sản của mình nếu bà có thể tìm lại được nó."
"Nếu như tôi nhớ không lầm thì nó đã bị mất ở khách sạn Cosmopolitan", tôi nhận xét.
"Chính xác là thế, vào ngày 22 tháng 12, chỉ mới năm ngày trước. John Horner, một người thợ sửa ống nước, đã bị kết tội đánh cắp hộp đựng nữ trang của bà bá tước. Bằng chứng buộc tội anh ta vững chắc đến nỗi vụ việc này đã được chuyển đến tòa đại hình. Tôi tin là có một bản tường thuật về vụ này ở đây." Anh lục lọi trong đống báo, liếc nhìn ngày tháng cho đến khi cuối cùng cũng vuốt phẳng một tờ, gấp đôi nó lại và đọc lên đoạn sau:
Vụ mất trộm đồ trang sức ở khách sạn Cosmopolitan.
John Horner, 26 tuổi, thợ sửa ống nước, đã bị đưa ra tòa vào ngày 22 tháng này với lời cáo buộc đánh cắp viên đá quý rất giá trị - viên thạch lựu xanh - từ hộp nữ trang của nữ bá tước Morcar. James Ryder, trưởng nhóm phục vụ của khách sạn khai rằng anh ta đã đưa Horner lên phòng trang điểm của nữ bá tước Morcar vào ngày xảy ra vụ trộm để hắn hàn lại thanh sắt thứ nhì bị lung lay của vỉ lò sưởi. Anh ta ở trong phòng cùng với Horner một lúc nhưng rồi được gọi đi. Khi quay trở lại thì anh ta thấy Horner đã biến mất, cái tủ có ngăn kéo bị mở tung và cái tráp bằng da dê thuộc trong đó, sau này được tiết lộ là nơi nữ bá tước thường để các món trang sức của mình, thì nằm trống trơn trên mặt bàn phấn. Ryder liền báo động ngay lập tức và Horner bị bắt vào buổi tối cùng ngày; nhưng viên đá thì không thể nào tìm thấy cả trên người hắn cũng như trong căn phòng hắn ở. Cô Catherine Cusack, người hầu gái của nữ bá tước, cũng khai rằng cô có nghe thấy tiếng kêu hoảng hốt của Ryder khi phát hiện ra vụ mất cắp. Cô đã chạy ào vào phòng và trông thấy cảnh tượng đúng như lời mô tả của nhân chứng cuối cùng. Thanh tra Bradstreet, phụ trách khu B, đã dựa vào lời khai này để bắt giữ Horner, hắn chống cự điên cuồng và nhất mực quả quyết là hắn vô tội với những lời lẽ hùng hồn nhất. Do nghi phạm đã có một tiền án trộm cắp, thẩm phán tòa sơ thẩm đã từ chối tuyên án mà chuyển vụ này sang tòa đại hình. Trong quá trình xét xử, Horner đã có dấu hiệu bị xúc động mạnh, hắn đã ngất xỉu khi nghe kết luận và được đưa ra khỏi tòa.
"Hừm! Chẳng còn gì để nói về tòa án vi cảnh", Holmes đăm chiêu nói khi quẳng tờ báo sang một bên. "Lúc này, vấn đề chúng ta phải giải quyết là chuỗi sự kiện dẫn dắt từ hộp nữ trang bị lục lọi đến diều của con ngỗng ở đường Tottenham Court. Anh thấy đấy, Watson, những suy diễn nho nhỏ của chúng ta bỗng nhiên lại trở nên quan trọng hơn rất nhiều và còn có liên quan đến tội phạm nữa. Đây là viên ngọc; nó được lấy ra từ con ngỗng và con ngỗng là của ông Henry Baker, chủ nhân của cái mũ tả tơi và mang tất cả những đặc điểm mà tôi đã kể ra đến nỗi làm anh phát chán. Vậy thì bây giờ ta phải quyết tâm cao độ để tìm kiếm cho được quý ông này và tìm hiểu rõ ràng xem ông ta dự phần như thế nào trong câu chuyện bí ẩn này. Để làm được việc ấy, trước tiên chúng ta phải thử biện pháp đơn giản nhất là đăng một mẩu thông báo trên tất cả các báo ra vào buổi chiều tối, nhưng phải không gây ra bất kì sự ngờ vực nào. Nếu cách này thất bại thì tôi sẽ dùng đến những phương pháp khác."
"Anh sẽ viết gì trong thông báo đó?"
"Đưa hộ tôi cây bút chì và mảnh giấy kia. Đây, thế này: Tìm thấy ở góc đường Goodge một con ngỗng và một cái mũ nỉ màu đen. Ông Henry Baker có thể liên hệ vào lúc 6 giờ 30 tại số nhà 221B phố Baker để nhận lại. Rất rõ ràng và súc tích nhé."
"Đúng vậy. Nhưng liệu ông ta có đọc được nó không?"
"Ông ta chắc chắn sẽ để tâm theo dõi tất cả các báo, vì với một người nghèo thì mất mát như thế là khá nặng. Rõ ràng ông ta rất sợ hãi lúc lỡ tay làm vỡ tấm kính và khi Peterson chạy đến thì ông ta chẳng nghĩ ra được cách nào hơn là cắm đầu bỏ chạy, nhưng sau đó ắt hẳn ông ta sẽ rất hối hận vì đã quá hoảng sợ mà đánh rơi con ngỗng. Vả lại, việc nêu tên ông ta trong thông báo sẽ khiến cho ông ta phải đọc nó vì tất cả những ai quen biết ông ta đều sẽ báo cho ông ta biết. Đây, anh Peterson, anh hãy nhanh chân chạy đến văn phòng quảng cáo và cho đăng mẩu tin này trên các báo ra buổi chiều tối nhé."
"Những báo nào, thưa ông?"
"Ồ, báo Globe, Star, Pall Mall, St. James's Gazette, Evening News, Standard, Echo và bất cứ tờ báo nào khác mà anh nghĩ ra."
"Rõ rồi, thưa ông. Thế còn viên đá quý này?"
"À, phải, tôi sẽ giữ nó. Cảm ơn anh. Còn nữa, Peterson, trên đường quay lại, anh nhớ mua một con ngỗng và để nó ở đây cho tôi, vì chúng ta phải trả một con ngỗng cho người đàn ông nọ thay cho con mà nhà anh đang nhâm nhi."
Khi người gác cổng đã đi khuất, Holmes lấy viên đá quý ra và giơ lên trước ngọn đèn. "Thật là một vật đẹp đẽ", anh nói. "Hãy xem nó lấp lánh và rực rỡ làm sao. Tất nhiên nó chính là trọng tâm và tiêu điểm của tội ác. Mọi viên đá quý đều thế cả. Chúng là những miếng mồi của quỷ sứ dụ người ta lầm đường lạc lối. Với những viên đá quý lớn và cổ xưa hơn thì mỗi mặt đá quý tượng trưng cho một tội ác đẫm máu. Viên đá này chưa đến hai mươi năm tuổi. Nó được tìm thấy trên bờ sông Hạ Môn ở miền Nam Trung Quốc và nó nổi bật vì hội đủ mọi đặc tính của một viên thạch lựu ngoại trừ đặc điểm là có sắc xanh thay vì đỏ như hồng ngọc. Mặc dù độ tuổi hãy còn non nhưng lai lịch của nó cũng đầy tăm tối. Đã từng có hai vụ giết người, một vụ tạt axít, một vụ tự tử và vài vụ cướp bóc xảy ra chỉ vì viên than kết tinh có trọng lượng bốn mươi grain này. Ai dám nghĩ rằng một món đồ chơi đẹp đẽ thế này lại là vật đưa lối dẫn đường người ta đến giá treo cổ và nhà tù kia chứ? Tôi sẽ cho viên đá này vào trong két sắt ngay bây giờ và gửi vài chữ cho bà bá tước để báo tin là chúng ta đã tìm được nó."
"Anh có nghĩ rằng gã Horner này vô tội không?"
"Tôi chưa thể nói được."
"Còn một người nữa, Henry Baker, anh có cho rằng ông ta có liên quan đến vụ việc này không?"
"Tôi nghĩ rằng, nhiều khả năng Henry Baker là một người hoàn toàn vô tội, ông ta không biết con ngỗng mà mình đang mang lại có giá trị hơn cả một con ngỗng đúc bằng vàng khối. Tuy nhiên, tôi sẽ xác định điều này bằng một thử nghiệm rất đơn giản nếu mẩu thông báo của chúng ta được hồi đáp."
"Và anh chẳng thể làm gì từ giờ cho đến lúc đó?"
"Ừ."
"Vậy thì tôi sẽ tiếp tục đi thăm bệnh. Nhưng tối nay tôi sẽ quay lại đúng giờ anh đã dặn, vì tôi rất muốn xem anh giải quyết vụ việc rắc rối này ra sao."
"Rất vui được gặp lại anh. Tôi sẽ dùng bữa tối lúc 7 giờ. Có món chim dẽ đấy, tôi nghĩ vậy. Nhân sự kiện vừa mới xảy ra, có lẽ tôi cũng nên dặn bà Hudson kiểm tra diều của con chim dẽ xem sao."
Tôi bị một bệnh nhân giữ chân nên hơn 6 giờ 30 một chút mới quay lại phố Baker. Khi gần đến căn nhà thì tôi trông thấy một người đàn ông cao ráo đội mũ nồi Scotland và mặc áo khoác cài khuy lên tận cằm đang đứng đợi ở bên ngoài trong vầng sáng hình bán nguyệt hắt ra từ khung cửa sổ hình quạt. Cánh cửa mở ra khi tôi vừa bước đến và cả hai chúng tôi cùng được mời vào căn phòng của Holmes.
"Xin chào ông Henry Baker, nếu tôi không nhầm", anh đứng lên khỏi chiếc ghế bành và đón người khách với vẻ ung dung, hòa nhã mà anh luôn thể hiện rất dễ dàng. "Mời ông ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh lò sưởi, thưa ông Baker. Tối nay lạnh quá và tôi nhận thấy rằng tuần hoàn máu của ông hợp với mùa hè hơn là mùa đông. À, Watson này, anh đến đúng lúc lắm. Có phải đây là chiếc mũ của ông không, ông Baker?"
"Vâng, thưa ông, đây chắc chắn là mũ của tôi." Ông ta là một người to lớn, vai tròn, đầu khá to, khuôn mặt đầy đặn ánh lên nét thông minh và chòm râu nhọn màu nâu đã lốm đốm bạc. Một vết ửng đỏ hiện lên ở mũi và hai gò má, còn bàn tay dài hơn người bình thường của ông ta thì khẽ run, gợi cho tôi nhớ lại sự phỏng đoán của Holmes về những thói quen của ông ta. Chiếc áo khoác màu đen đã bạc màu dài tới gối được cài nút cẩn thận, cổ áo dựng lên, hai cổ tay gầy gò thò ra ngoài tay áo khoác mà không thấy cổ tay áo sơmi đâu cả. Ông ta nói bằng giọng hơi ngắt quãng và chậm rãi, dùng từ cẩn trọng và tạo ấn tượng về một người có học thức và trí tuệ nhưng số phận lại không may.
"Chúng tôi đã giữ những thứ này trong vài ngày", Holmes nói, "vì chúng tôi cứ chờ xem có thông báo nào từ phía ông kèm theo địa chỉ không. Tôi không rõ vì sao ông lại không cho rao tìm."
Người khách khẽ cười với vẻ ngượng ngùng. "Độ này tôi không còn dư dả tiền bạc như trước", ông ta nói. "Tôi cũng chắc mẩm rằng bọn du côn tấn công tôi đã đem cả chiếc mũ lẫn con ngỗng đi. Tôi không muốn phải chi tiền để thử làm một việc vô vọng là tìm kiếm hai món đó."
"Tất nhiên rồi. À, nhân tiện nói về con ngỗng, chúng tôi buộc phải ăn thịt nó rồi."
"Ăn thịt nó!" Ông khách nhổm nửa người khỏi chiếc ghế, vẻ kích động.
"Phải, nếu chúng tôi không ăn thì nó cũng hỏng mất. Nhưng tôi cho rằng con ngỗng đang nằm trên cái tủ kia nặng tương đương và hoàn toàn tươi sống cũng sẽ đáp ứng được yêu cầu của ông."
"Ồ, chắc chắn rồi", ông Baker đáp và thở phào nhẹ nhõm.
"Tất nhiên là chúng tôi hãy còn giữ lại bộ lông, hai cái chân và diều của con ngỗng trước, nếu như ông muốn..."
Ông ta vui vẻ cười phá lên. "Những thứ đó có thể dùng làm kỉ vật cho chuyến phiêu lưu của tôi", ông ta đáp, "nhưng ngoài ra thì tôi chẳng thấy ba cái thứ disiecta membra của anh bạn gia cầm quá cố kia có ích gì cho tôi. Không, thưa ông, nếu ông cho phép, tôi xin tập trung sự chú ý vào con ngỗng ngon tuyệt mà tôi trông thấy đang nằm trên đầu tủ kia."
Sherlock Holmes đưa mắt liếc nhanh về phía tôi kèm theo một cái nhún vai kín đáo. "Vậy thì, đây là cái mũ của ông, và đây là con ngỗng của ông", anh nói. "Nhân tiện, nếu không phiền, xin ông vui lòng cho biết là ông đã mua con ngỗng trước ở đâu? Tôi cũng khá thích gia cầm và hiếm khi được thấy một con ngỗng nào béo tốt như thế."
"Được chứ, thưa ông", ông Baker nói trong lúc đứng dậy và cắp vật sở hữu mới có được vào dưới nách. "Trong đám chúng tôi có người thường lui tới quán rượu Alpha, gần viện bảo tàng - chúng tôi có mặt suốt ngày ở viện bảo tàng, ông hiểu chứ? Năm nay ông chủ quán tốt bụng tên Windigate đã lập ra câu lạc bộ ngỗng, nếu góp vào đó vài xu mỗi tuần thì mỗi người chúng tôi sẽ được một con ngỗng vào dịp Giáng sinh. Tôi đã đóng tiền đều đặn và phần cuối câu chuyện thì như ông đã biết. Tôi vô cùng cảm kích, thưa ông, vì mũ nồi Scotland chẳng phù hợp chút nào với độ tuổi cũng như vẻ nghiêm trang của tôi." Với vẻ khoa trương rất khôi hài, ông ta long trọng cúi đầu chào chúng tôi rồi sải bước ra về.
"Phần ông Henry Baker thế là xong", Holmes nói sau khi đóng cửa. "Rõ ràng là ông ta không biết gì về vụ này. Anh đã đói chưa, Watson?"
"Cũng chưa đói lắm."
"Thế thì tôi đề nghị là chúng ta hãy hoãn bữa tối lại và lần theo đầu mối mới này trong khi nó hãy còn nóng hổi."
"Hoàn toàn đồng ý."
Đêm đó trời lạnh cắt da vì thế chúng tôi mặc áo choàng dài và quấn khăn kín cổ. Bên ngoài, những vì sao lạnh lẽo tỏa sáng trên bầu trời không một gợn mây và hơi thở của khách qua đường phả ra như khói từ nhiều khẩu súng lục vừa nhả đạn. Bước chân của chúng tôi vang lên mạnh mẽ và giòn giã trên đường đi qua khu Thầy Thuốc tại phố Wimpole, phố Harley rồi phố Wigmore để đến phố Oxford. Trong vòng mười lăm phút chúng tôi đã đến được quán Alpha ở Bloomsbury, đó là một tiệm rượu nhỏ nằm ở góc một trong những con phố dẫn đến khu Holbom. Holmes đẩy cửa quầy bar kín đáo và gọi người chủ quán đeo tạp dề trắng có khuôn mặt hồng hào cho hai li bia.
"Bia của ông hẳn là tuyệt lắm nếu chất lượng cũng được như mấy con ngỗng của ông", anh nói.
"Ngỗng của tôi!" Ông chủ tiệm rượu có vẻ ngạc nhiên.
"Phải. Cách đây nửa giờ tôi mới nói chuyện với ông Henry Baker, một thành viên trong câu lạc bộ ngỗng của ông."
"À! Phải rồi, tôi hiểu rồi. Nhưng thưa ông, đấy không phải là ngỗng của chúng tôi."
"Vậy à? Thế thì là của ai?"
"Là thế này, tôi đã mua hai tá của một người lái buôn ở Covent Garden."
"Ra thế! Tôi có biết vài người ở đó. Là ai vậy?"
"Tên anh ta là Breckinridge."
"Ồ! Tôi lại không biết anh ta. Nào, xin chúc sức khỏe ông chủ và chúc gia đình ông thịnh vượng. Chúc ngủ ngon."
"Giờ ta đến chỗ ông Breckinridge", anh nói tiếp và cài lại khuy áo choàng khi chúng tôi bước ra ngoài trời giá rét. "Watson này, phải nói rằng dù ở đầu dây này ta có một vật khá tầm thường là con ngỗng nhưng ở đầu dây kia chính là một người rất có thể sẽ bị kết tội bảy năm tù khổ sai trừ phi chúng ta có thể chứng minh được sự vô tội của anh ta. Cũng có thể kết quả cuộc điều tra của chúng ta lại khẳng định rằng anh ta có tội; nhưng dù sao thì chúng ta cũng đã có được một đường dây điều tra mà cảnh sát đã bỏ sót và một cơ hội hiếm có đang nằm trong tay ta. Bất kể khó khăn gian khổ thế nào, hãy đi theo nó đến cùng. Hướng về phía nam, bước đều, bước!"
Chúng tôi băng qua khu Holborn, đi xuống phố Endell và vượt qua một dãy nhà ổ chuột ngoằn ngoèo để đến chợ Covent Garden. Một trong những cửa tiệm lớn nhất có tên Breckinridge và chủ tiệm là một người có bộ mặt dài như mặt ngựa, đầy vẻ tinh ranh với bộ râu quai nón được xén tỉa gọn gàng đang giúp một thằng bé đóng cánh cửa chớp.
"Xin chào ông. Tối nay lạnh quá nhỉ", Holmes lên tiếng.
Người lái buôn gật đầu và ném ánh mắt dò xét về phía bạn đồng hành của tôi.
"Ngỗng của ông chắc là đã bán hết rồi, phải không?" Holmes nói tiếp và chỉ tay về phía những phiến đá cẩm thạch trống trơn.
"Nếu sáng mai ông quay lại thì đến năm trăm con cũng có ngay."
"Thế thì trễ quá!"
"Bên cửa tiệm có ngọn đèn khí đốt kia hãy còn một mớ đấy."
"Ấy nhưng người ta lại giới thiệu cho tôi cửa tiệm của ông."
"Ai thế?"
"Chủ quán rượu Alpha."
"À, phải, tôi đã gửi cho ông ta hai tá."
"Chỗ ấy ngon đấy. Ông mua ở đâu vậy?"
Tôi kinh ngạc khi thấy ông chủ tiệm nổi cáu trước câu hỏi đó. "Này, ông kia", ông ta kêu lên, đầu ngẩng cao và hai tay chống nạnh, "ông muốn gì đây? Nói thẳng ra xem."
"Thì tôi đã nói khá rõ rồi còn gì. Tôi muốn biết ai đã bán cho ông những con ngỗng mà ông bán lại cho quán Alpha."
"À, tôi không nói đấy. Sao nào?"
"Ôi, cũng chẳng sao, nhưng tôi không hiểu tại sao ông lại nổi nóng đến thế chỉ vì một chuyện cỏn con."
"Nổi nóng à? Ông cũng sẽ nổi nóng như thế nếu cứ bị quấy rầy như tôi. Khi tôi đã trả tiền đầy đủ cho một món hàng tốt thì coi như xong; đằng này lại còn hỏi han, 'Này, ngỗng đâu hết rồi?' rồi lại 'ông bán ngỗng cho ai đấy?' với cả 'ông bán ngỗng được bao nhiêu tiền?' Làm gì mà nhặng xị cả lên, ai nghe lại tưởng trên đời chỉ có bấy nhiêu ngỗng không bằng."
"Ra thế, tôi thì chẳng có liên quan gì đến lũ người cứ thích tra hỏi vớ vẩn", Holmes lơ đễnh nói. "Nếu ông không thích nói thì thôi không cá cược gì nữa. Nhưng nói về gia cầm thì tôi luôn giữ ý kiến của mình, tôi dám cá năm bảng là con ngỗng tôi vừa ăn là ngỗng quê."
"Thế thì ông thua mất năm bảng rồi, nó được nuôi ở thành phố", ông lái buôn gắt gỏng.
"Không thể nào."
"Tôi bảo thế đấy!"
"Tôi vẫn không tin."
"Ông nghĩ là ông rành về gia cầm hơn tôi, kẻ đã bán ngỗng từ khi còn bé chắc? Nói cho ông biết, tất cả số ngỗng bán cho quán Alpha đều được nuôi ở thành phố."
"Còn lâu tôi mới tin."
"Đánh cược nhé?"
"Ông chỉ tốn tiền vô ích thôi vì tôi biết chắc là mình đúng. Nhưng tôi sẽ bỏ ra một đồng sovereign để dạy cho ông bớt cứng đầu."
Ông chủ tiệm cười đắc ý. "Đem mấy cuốn sổ đến đây, Bill", ông ta ra lệnh.
Cậu bé đem đến một quyển sổ nhỏ mỏng dính và một quyển sổ to dính đầy dầu mỡ ở gáy, rồi đặt cả hai quyển dưới ngọn đèn treo.
"Đây xin mời quý ông kiêu ngạo", ông lái buôn nói. "Tôi tưởng đã hết ngỗng rồi, ai ngờ hãy còn một con trong tiệm. Ông thấy quyển sổ nhỏ này chứ?"
"Thì sao?"
"Đây là danh sách những người giao ngỗng cho tôi. Ông thấy rồi chứ? Đây, trên trang này là những mối ở nông thôn và những con số nằm sau tên của họ là số trang có ghi tên của họ trong cuốn sổ to. Đây nhé, ông thấy trang viết bằng mực đỏ kia chứ? Đó là danh sách những nhà cung cấp ở thành phố. Đây, nhìn cái tên thứ ba này xem. Cứ đọc nó lên cho tôi nghe."
"Bà Oakshott, 117 đường Brixton - 249", Holmes đọc.
"Đúng thế. Giờ thì quay sang cuốn sổ to."
Holmes lật đến trang được chỉ. "Đây rồi - Bà Oakshott, 117 đường Brixton, nhà cung cấp trứng và gia cầm."
"Đấy, tiếp theo, hàng cuối cùng có ghi gì nào?"
"Ngày 22 tháng 12. Hai mươi tư con ngỗng với giá bảy shilling sáu xu."
"Đúng rồi đó. Còn hàng bên dưới?"
"Bán cho ông Windigate ở quán Alpha với giá mười hai shilling."
"Giờ thì ông nói sao?"
Sherlock Holmes tỏ vẻ rất khó chịu. Anh móc từ trong túi ra một đồng sovereign, ném lên mặt quầy hàng rồi quay ngoắt đi như thể bực bội đến nỗi không nói được tiếng nào. Sau khi đi được vài yard, anh dừng lại dưới một cột đèn rồi cười vui vẻ mà không phát ra tiếng, vốn là kiểu rất riêng của anh.
"Nếu anh gặp một người có bộ râu quai nón cắt tỉa kiểu như thế với một tờ pink 'un thò ra khỏi túi áo thì đảm bảo là anh sẽ dễ dàng khai thác được hắn ta bằng một vụ đánh cược", anh nói. "Tôi dám chắc cho dù có đặt một trăm bảng xuống trước mặt hắn thì hắn cũng không cung cấp đầy đủ thông tin bằng cái ý tưởng dụ cho hắn tin rằng hắn đang thắng tôi trong một vụ cá cược. Watson này, tôi cho rằng chúng ta đã gần đến đoạn kết của cuộc truy lùng rồi, và chỉ còn một điểm duy nhất cần phải quyết định là nên tiếp tục đến gặp bà Oakshott ngay tối nay hay là để dành việc đó sang ngày mai. Theo những gì cái gã thô lỗ đó nói thì rõ ràng ngoài chúng ta ra, còn có những người khác cũng đang nóng lòng về vụ này, và tôi sẽ..."
Lời nhận xét của anh đột nhiên bị cắt ngang bởi tiếng ồn ào rất to vang lên từ cửa tiệm mà chúng tôi vừa đi khỏi. Khi quay lại nhìn, chúng tôi trông thấy một gã mặt chuột nhỏ con đứng giữa quãng ánh sáng màu vàng chiếu xuống từ ngọn đèn đang đu đưa qua lại, trong khi đó Breckinridge - ông chủ tiệm - đang đứng giữa khung cửa của gian hàng và hung tợn dứ dứ nắm đấm về phía con người khúm núm kia.
"Ta đã chán ngấy lũ mi và mấy con ngỗng rồi", ông ta gào lên. "Mong sao tất cả đều bị quỷ bắt hết đi. Nếu mi còn đến đây quấy rầy ta với câu chuyện ngu xuẩn ấy nữa thì ta sẽ thả chó ra đấy. Cứ đưa bà Oakshott đến đây và ta sẽ trả lời bà ta, nhưng chuyện đó thì dính dáng gì đến mi? Ta có mua ngỗng của mi không?"
"Không, nhưng dẫu sao thì một con trong số đó cũng là của tôi", người đàn ông nhỏ con rên rỉ.
"Được, thế thì đi mà hỏi bà Oakshott."
"Bà ta bảo tôi đến gặp ông."
"Vậy thì cứ đi hỏi hoàng đế xứ Proosia ấy, ta đếch quan tâm. Ta đã chán ngấy chuyện đó rồi. Đi khỏi đây ngay!" Ông ta lao ra khỏi cửa một cách hung dữ và con người đến hỏi chuyện kia chuồn thẳng vào bóng đêm.
"A! Có lẽ chuyện này sẽ giúp ta khỏi phải đến phố Brixton nữa", Holmes thì thầm. "Đi với tôi nào, để xem chúng ta có thể biết thêm được gì từ gã này." Chúng tôi sải bước qua những đám người rải rác đang la cà quanh những cửa tiệm đèn đóm sáng choang, anh bạn tôi nhanh chóng bắt kịp người đàn ông thấp bé và chạm vào vai hắn. Hắn quay phắt lại và trong ánh sáng của ngọn đèn khí đốt, tôi có thể thấy mặt hắn chẳng còn chút huyết sắc nào.
"Ông là ai? Ông muốn gì?" Hắn hỏi với giọng run run.
"Xin ông thứ lỗi", Holmes ôn tồn đáp, "nhưng tôi tình cờ nghe được những câu mà ông vừa hỏi chủ tiệm. Tôi nghĩ rằng mình có thể giúp được ông."
"Ông ư? Nhưng ông là ai? Làm sao ông lại biết chuyện đó?"
"Tôi tên là Sherlock Holmes. Công việc của tôi đòi hỏi phải tìm hiểu rõ những điều mà người khác không biết."
"Nhưng làm sao ông biết gì được!"
"Xin lỗi ông, tôi biết tất cả. Ông đang cố gắng lần theo dấu vết của những con ngỗng đã được bà Oakshott bán cho một người lái buôn tên là Breckinridge, sau đó ông này lại bán chúng cho ông Windigate ở quán Alpha và ông Windigate lại giao chúng cho một câu lạc bộ mà ông Henry Baker là một thành viên."
"Ồ, thưa ông, ông chính là người mà tôi đang cần gặp", người đàn ông thấp bé kêu lên, hai bàn tay với ra và mấy ngón tay hơi run run. "Tôi không thể nói hết cho ông biết rằng tôi quan tâm đến việc đó như thế nào."
Sherlock Holmes vẫy một cỗ xe ngựa bốn bánh đang phóng qua, "Nếu vậy chúng ta hãy bàn luận về việc này trong một căn phòng ấm áp thì hơn là giữa cái chợ lộng gió thế này", anh nói. "Nhưng trước khi chúng ta khởi hành, xin ông vui lòng cho biết tôi đang có hân hạnh được giúp ai đây?"
Người đàn ông do dự một lúc rồi nói. "Tên tôi là John Robinson", anh ta đáp mà mắt liếc nhìn đi nơi khác.
"Không, tôi muốn biết tên thật kia", Holmes nhẹ nhàng nói. "Bàn chuyện công việc bằng một cái tên giả thì lúc nào cũng cảm thấy lúng túng."
Một vệt đỏ hiện lên trên hai gò má trắng nhợt của người lạ. "Thế thì..." anh ta nói, "tên thật của tôi là James Ryder."
"Đúng vậy. Ông là trưởng nhóm phục vụ của khách sạn Cosmopolitan. Xin hãy vui lòng bước lên xe và tôi sẽ kể cho ông nghe những gì ông muốn biết."
Người đàn ông thấp bé lần lượt nhìn từng người chúng tôi với ánh mắt nửa sợ hãi, nửa hi vọng như một người chưa biết mình sắp sửa nhận được một vận may bất ngờ hay lại là một tai họa. Rồi anh ta bước lên xe và ba mươi phút sau chúng tôi đã quay lại căn phòng khách ở phố Baker. Suốt dọc đường, chúng tôi chẳng ai nói với ai câu nào nhưng hơi thở rất mỏng manh của người đồng hành mới, cùng hai bàn tay anh ta hết đan vào nhau lại gỡ ra đã tiết lộ tâm trạng căng thẳng bồn chồn của anh ta.
"Đã về đến nhà rồi!" Holmes phấn khởi reo lên khi chúng tôi lần lượt vào phòng. "Giữa thời tiết thế này mà được ngồi bên lò sưởi thì thật là tuyệt. Hẳn là ông rét lắm, ông Ryder. Xin mời ngồi vào chiếc ghế mây này. Tôi chỉ còn phải xỏ chân vào đôi dép đi trong nhà nữa là đã sẵn sàng để giải quyết vấn đề nho nhỏ mà ông đang quan tâm. Nào, chắc là ông muốn biết về tình trạng hiện giờ của mấy con ngỗng đó?"
"Vâng, thưa ông."
"Hay đúng hơn là về con ngỗng đó. Tôi cho rằng ông chỉ quan tâm đến một con thôi, là cái con màu trắng có một vệt đen vạch ngang qua đuôi."
Ryder rùng mình vì xúc động, "ôi, thưa ông", anh ta kêu lên, "ông có thể cho tôi biết nó đã đi tới đâu không?"
"Nó đã đến đây."
"Ở đây?"
"Đúng vậy, và là một con ngỗng rất khác thường. Tôi không hề ngạc nhiên nếu ông quan tâm đến nó. Sau khi chết, nó còn đẻ được một quả trứng, một quả trứng màu xanh nhỏ xíu sáng lấp lánh và tuyệt đẹp mà chưa ai từng thấy. Tôi hãy còn giữ nó trong bảo tàng của mình."
Người khách của chúng tôi lảo đảo mấy bước và dùng tay phải bấu chặt lấy mặt lò sưởi. Holmes mở cái két và lấy ra viên ngọc màu xanh lấp lánh như một ngôi sao với những tia sáng lạnh lẽo, rực rỡ tỏa thành nhiều điểm lung linh. Ryder đứng nhìn trân trân vào viên đá quý với vẻ mặt u buồn, chưa biết nên nhận hay từ chối.
"Trò chơi đã kết thúc rồi, ông Ryder", Holmes bình thản nói. "Cố mà đứng cho vững kẻo lại ngã vào lò sưởi đấy! Giúp hắn ngồi vào ghế đi, Watson. Hắn có gan làm mà không có gan chịu. Phiền anh lấy cho hắn một chút rượu mạnh. Đấy! Giờ thì trông hắn đã ra hồn người được một chút. Rõ là đồ hèn!"
Hắn loạng choạng mất một lúc, gần như ngã quỵ, nhưng rồi hớp rượu mạnh đã đem lại chút khí sắc trên hai gò má hắn, và hắn ngồi xuống, nhìn chăm chú vào người cáo buộc mình bằng đôi mắt kinh hoàng.
"Tôi đã nắm trong tay hầu hết mọi mắt xích và đầy đủ bằng chứng mà tôi có thể sẽ cần đến, vì thế ông chỉ cần nói rất ít thôi. Tuy vậy, bấy nhiêu đó cũng cần được làm sáng tỏ để khép lại vụ này. Ryder, ông đã nghe nói về viên thạch lựu xanh của nữ bá tước Morcar phải không?"
"Catherine Cusack đã kể cho tôi nghe về nó", hắn nói bằng giọng run lập cập.
"Tôi biết, đó là cô hầu của bà bá tước. Và việc trở nên giàu có một cách dễ dàng quá hấp dẫn ông, cũng như nó đã từng hấp dẫn nhiều người có phẩm cách tốt đẹp hơn cả ông; thế nhưng những biện pháp mà ông thực hiện không được cẩn thận cho lắm. Mà theo tôi thấy thì ông có tố chất của một kẻ bất lương đấy, Ryder. Ông biết rằng Horner, anh thợ sửa ống nước, trước đây từng dính líu đến vụ gì đó tương tự và người ta sẽ càng dễ dàng nghi ngờ anh ta. Thế rồi, ông đã làm gì? Ông đã tiến hành vài bước chuẩn bị nho nhỏ trong phòng của nữ bá tước - chính ông và kẻ đồng lõa, cô nàng Cusack - rồi ông thu xếp sao cho anh ta được gọi tới. Sau khi anh ta đi thì ông lục lọi cái hộp nữ trang và bấm chuông báo động rồi làm cho con người bất hạnh đó bị bắt giam. Sau đó, ông..."
Đột nhiên Ryder buông phịch người xuống tấm thảm và níu chặt lấy đầu gối bạn tôi. "Vì Chúa, xin hãy thương xót!" Hắn gào lên, "xin hãy nghĩ đến cha tôi! Xin hãy thương hại mẹ tôi! Họ sẽ tan nát cõi lòng mất. Trước đây tôi chưa hề làm điều gì bậy bạ! Và tôi sẽ không bao giờ tái phạm nữa. Tôi xin thề. Tôi sẽ thề trước Kinh Thánh, ôi, xin ông đừng đưa tôi ra tòa. Vì Chúa, xin đừng làm điều đó!"
"Hãy trở lại ghế của ông đi!" Holmes lạnh lùng nói. "Giờ thì ông quỳ lạy và van xin mới dễ dàng làm sao, nhưng trước đó ông có để tâm gì đến anh thợ Horner khốn khổ bị đưa ra tòa vì một tội lỗi mà anh ta chẳng hề hay biết đâu."
"Tôi sẽ biến mất, thưa ông Holmes. Tôi sẽ rời khỏi nước Anh. Khi đó thì lời buộc tội anh ta sẽ trở nên vô hiệu."
"Hừm! Ta sẽ bàn về điều đó sau. Giờ thì ông hãy giải thích tường tận cho chúng tôi nghe về sự việc xảy ra tiếp theo. Làm thế nào mà viên ngọc lại lọt vào bụng con ngỗng và nó bị đưa ra chợ bán ra sao? Hãy kể hết sự thật vì chỉ có sự trung thực mới đem lại cho ông tia hi vọng được an toàn."
Ryder lè lưỡi liếm đôi môi khô khốc. "Tôi sẽ kể cho ông nghe đúng như những gì đã diễn ra, thưa ông." hắn nói. "Khi Horner bị bắt, tôi cho rằng tốt nhất là phải chuồn đi cùng với viên đá ngay lập tức vì tôi không biết khi nào thì cảnh sát nghĩ đến việc lục soát người tôi và tìm kiếm trong phòng tôi. Trong khách sạn không có chỗ nào an toàn cả. Tôi bèn ra ngoài, giả vờ như đang giải quyết công việc và đi về phía nhà chị tôi. Chị ấy lấy một người tên là Oakshott và sống ở đường Brixton, ở đó chị ấy vỗ béo gia cầm để đem ra chợ bán. Trên đường đi, nhìn thấy bất cứ ai tôi cũng tưởng là cảnh sát hay thám tử, và dù đêm đó trời rất lạnh, mồ hôi cứ túa ra khắp mặt tôi trước khi tôi đến được đường Brixton. Chị tôi hỏi có chuyện gì mà trông tôi xanh xao thế, nhưng tôi chỉ trả lời là do quá căng thẳng về vụ mất cắp nữ trang ở khách sạn rồi đi ra sân sau để hút một tẩu thuốc và suy nghĩ xem nên làm gì là tốt nhất.
Tôi có một người bạn tên là Maudsley, đó là một kẻ sa ngã vừa mới hết hạn tù ở Pentonville. Một ngày nọ, hắn gặp tôi và kể về những mánh khóe của bọn trộm cùng với cách bọn chúng tống đi những món đồ đã trộm được. Tôi biết hắn sẽ thành thật với tôi vì tôi có biết vài điều về hắn, thế là tôi quyết định sẽ đi thẳng đến Kilburn là nơi hắn sinh sống và thổ lộ hết với hắn. Hắn sẽ chỉ cho tôi cách đổi viên đá lấy tiền. Nhưng làm thế nào để đến được chỗ hắn một cách an toàn? Tôi nghĩ đến sự căng thẳng tột độ mà mình đã trải qua trên đường từ khách sạn đến nhà chị gái. Tôi có thể bị bắt và lục soát bất cứ lúc nào mà viên đá thì vẫn còn nằm trong túi chiếc áo khoác tôi đang mặc. Lúc đó tôi đang tựa người vào tường và nhìn ngắm mấy con ngỗng đang lạch bạch đi quanh chân mình và đột nhiên một ý nghĩ vụt lóe lên trong đầu tôi, chỉ cho tôi cách để che mắt ngay cả viên thám tử giỏi giang nhất.
Trước đó vài tuần chị tôi có nói rằng tôi có thể chọn một con trong bầy ngỗng của chị để làm quà Giáng sinh và tôi biết chị luôn giữ lời hứa. Tôi định chọn ra một con ngỗng và đem viên ngọc nằm trong bụng nó đến Kilburn. Trong sân có một cái chuông nhỏ và tôi lùa một con trong đàn ra phía sau chuồng - đó là một con ngỗng to đẹp, lông trắng, đuôi có một vạch đen. Tôi chộp lấy con ngỗng và cạy cho nó hé mỏ ra. Tôi ấn mạnh viên đá vào sâu trong cổ họng nó đến hết tầm ngón tay. Con ngỗng nuốt đánh ực một cái và tôi cảm thấy viên đá trôi qua họng rồi xuống đến diều của nó. Nhưng đột nhiên con vật vỗ cánh phành phạch, vùng vẫy chống cự và chị tôi chạy ra sân để xem chuyện gì đang xảy ra. Khi tôi quay lại nói chuyện với chị thì nó tuột khỏi tay tôi và đập cánh bay đến nhập hội với những con kia.
'Chú đang làm gì với con ngỗng đó thế hả Jem?' Chị tôi hỏi.
Tôi đáp, 'À, có lần chị bảo là sẽ cho em một con vào lễ Giáng sinh và em đang xem con nào béo nhất!'
'Ồ', chị nói, 'anh chị đã chọn riêng cho chú một con rồi - con ngỗng của Jem, bọn chị đặt tên cho nó như thế. Đó là cái con to béo có bộ lông trắng ở tít đằng kia kìa. Có tất cả hai mươi sáu con, một con cho chú và một con cho bọn chị, còn lại hai mươi bốn con để đem ra chợ bán.'
'Cảm ơn chị, Maggie', tôi nói, 'nhưng nếu chị thấy con nào cũng như con nào thì em thích cái con mà em vừa cầm trong tay hơn.'
'Con kia nặng hơn những ba pound cơ', chị tôi thốt lên, 'và bọn chị đã nhồi nó để dành riêng cho chú đấy.'
'Không sao. Em sẽ lấy con lúc nãy, em bắt nó đây', tôi nói.
'Ừ, thì tùy chú,' chị tôi nói, có vẻ hơi bực bội. 'Chú muốn con nào đây?'
'Cái con lông trắng có vạch đen ở đuôi kia, ngay chính giữa đàn ấy!'
'Được rồi! Giết nó đi rồi đem về.'
Thế là tôi làm theo lời chị tôi, ông Holmes ạ, và đem con ngỗng đến tận Kilburn. Tôi kể cho bạn tôi nghe những gì mình đã làm vì hắn là người mà tôi có thể dễ dàng chia sẻ những chuyện như thế. Hắn cười sằng sặc rồi chúng tôi lấy một con dao và mổ bụng con ngỗng ra. Tim tôi như tan thành nước vì chẳng thấy dấu vết của viên đá đâu cả và tôi biết mình đã phạm sai lầm ghê gớm. Tôi bỏ con ngỗng lại, hối hả chạy về nhà chị tôi và lao vụt ra sân sau. Không còn con ngỗng nào ở đó nữa.
'Chúng đâu hết cả rồi, chị Maggie?' Tôi gào lên.
'Đến chỗ cửa tiệm rồi, Jem.'
'Tiệm nào?'
'Tiệm của ông Breckinridge ở chợ Covent Garden.'
'Nhưng còn một con nữa cũng có vạch đen ở đuôi,' tôi hỏi, 'giống cái con mà em đã chọn phải không?'
'Phải đấy, Jem. Có tất cả hai con có vạch đen ở đuôi, đến chị cũng không thể nào phân biệt được chúng.'
Vậy là mọi chuyện đã rõ và tôi lấy hết sức chạy thật nhanh đến gặp tay lái buôn Breckinridge; thế nhưng hắn ta đã bán cả bầy cùng một lúc và không thèm nói cho tôi biết là đã bán chúng đi đâu. Lúc tối nay, chính tai ông cũng đã nghe hắn nói rồi đấy. Hắn cứ luôn miệng nói với tôi bằng cái giọng ấy. Chị tôi thì nghĩ rằng tôi sắp điên. Có đôi khi tôi cũng nghĩ chắc là mình điên thật. Còn bây giờ... tôi đã là một tên trộm thật sự, dù rằng tôi chưa hề chạm được đến sự giàu sang mà vì nó tôi đã bán mất thanh danh của mình. Ôi, xin Chúa cứu giúp con! Chúa hãy rủ lòng thương con!" Hắn bỗng òa khóc nức nở, vùi mặt vào hai bàn tay.
Im lặng kéo dài mất một lúc, chỉ còn nghe thấy tiếng thở nặng nề của hắn và tiếng Sherlock Holmes đều đặn gõ mấy ngón tay lên cạnh bàn. Thế rồi bạn tôi đứng dậy và mở rộng cửa.
"Đi đi!" Anh bảo.
"Sao ạ, thưa ông? Ôi, cầu Chúa phù hộ cho ông!"
"Không nói nữa. Đi ngay!"
Và không cần phải nói thêm lời nào nữa. Vì chúng tôi đã nghe thấy tiếng chân bước hối hả xuống cầu thang, tiếng cánh cửa đóng sầm lại và tiếng giày khua nhanh dưới mặt đường.
"Watson này", Holmes nói khi vươn tay ra để với lấy cái tẩu thuốc bằng gốm, "rốt cuộc thì tôi cũng không phải là người được cảnh sát thuê để bổ khuyết cho những thiếu sót của họ. Nếu như Horner gặp nguy hiểm thì lại là chuyện khác; nhưng gã này sẽ không ra làm chứng buộc tội anh ta đâu và thế là vụ án sẽ khép lại. Tôi có cảm giác mình đang giảm nhẹ một trọng tội, thế nhưng cũng có thể tôi đang cứu vớt một linh hồn. Gã này rồi đây sẽ không phạm thêm lỗi lầm nào nữa; hắn quá hoảng sợ mà. Nếu giờ ta tống giam hắn thì sẽ biến hắn thành một kẻ vào tù ra khám suốt đời. Ngoài ra, đây cũng là khoảng thời gian để dung thứ. Sự tình cờ đã xếp đặt trên đường ta đi một vấn đề vô cùng kì lạ và quái dị, và lời giải cho vấn đề đó cũng chính là phần thưởng. Bác sĩ này, nếu anh vui lòng bấm chuông hộ tôi, chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc khám xét mới trong đó nhân vật chính cũng sẽ là một con vật có cánh."
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip