Phần Ba: Từng Bước Một 14-16

14
WYLAN

Wylan đã không lên một chiếc tàu đáy bằng có kích thước như thế này kể từ khi cậu cố gắng rời khỏi Ketterdam sáu tháng trước. Thật khó mà không nhớ tới thảm hoạ đó vào lúc này, đặc biệt là khi những suy nghĩ về cha vẫn còn tươi mới trong đầu cậu. Nhưng chiếc tàu lần này khá khác biệt so với chiếc mà cậu đã lên vào đêm đó. Nó chạy tuyến chợ hai lượt mỗi ngày. Ở lượt đi, nó sẽ đầy ắp rau quả, gia súc, bất cứ thứ gì mà những người nông dân mang tới các khu chợ nằm rải rác trong thành. Hồi còn bé, Wylan cứ nghĩ mọi thứ hàng hoá đều phát xuất từ Ketterdam, nhưng rồi cậu mau chóng nhận ra rằng, mặc dù gần như cái thành này có thể có mọi thứ, chỉ một số ít trong đó được sản xuất tại chỗ. Những sản vật mang tính phương xa như xoài, thanh long, dứa đến từ Thuộc địa phương Nam. Đối với những thứ gần gũi hơn, họ dựa vào những nông trại nằm quanh Ketterdam.

Jesper và Wylan lên một chuyến tàu chiều về chật cứng người tị nạn vừa mới tới Ketterdam và những người lao động tìm kiếm một công việc đồng áng hơn là những công việc trong nhà máy ở nội thành. Đáng tiếc là hai người lên thuyền ở một bến khá xa về phía nam, nên tất cả các ghế đều đã có người ngồi. Mặt mũi Jesper sưng sỉa thấy rõ vì chuyện này.

“Sao chúng tôi không được đi tuyến Belendt?” Anh phàn nàn như thế chỉ vài giờ trước. “Nó chạy qua Olendaal. Tàu chợ bẩn và chẳng bao giờ có ghế ngồi.”

“Bởi vì hai cậu sẽ nổi bật quá nếu đi tuyến Belendt. Ở Ketterdam này, hai cậu chẳng có gì đặc biệt, trừ phi Jesper tròng lên người một trong những cái quần sáng màu của mình. Nhưng hãy cho tôi một lí do ngoài công việc đồng áng để một cậu nhóc người Shu và một anh chàng Zemeni đi thơ thẩn giữa miền quê.”

Wylan đã không ý thức được với khuôn mặt mới cậu sẽ trông đáng ngờ như thế nào ở ngoại thành. Nhưng cậu nhẹ cả người khi Kaz không muốn cậu lên tuyến Belendt. Nó có thể thoải mái hơn, nhưng những kí ức sẽ trở nên quá sức chịu đựng trong một cái ngày mà cậu sẽ được nhìn thấy nơi mẹ mình yên nghỉ.

“Jesper, giấu kín vũ khí và mở mắt cho to vào,” Kaz đã nói như thế. “Van Eck chắc đã cử người quan sát mọi tuyến giao thông chính, và chúng ta không có thời gian để làm giả giấy thông hành cho Wylan. Tôi sẽ đi lấy chất ăn mòn từ một trong những xưởng đóng tàu ở Imperjum. Ưu tiên hàng đầu của các cậu là tìm ra mỏ đá và lấy khoáng vật cần thiết để chế axit auric. Các cậu sẽ đi tới nhà thờ Thánh Hilde khi và chỉ khi có thời gian.”

Wylan nhận thấy cằm mình hếch lên, và cảm giác bướng bỉnh ngấm ngầm dâng lên trong lòng. “Tôi cần làm chuyện này. Tôi chưa bao giờ được đi thăm mộ mẹ. Tôi sẽ không rời Kerch khi chưa đến chào mẹ.”

“Tin tôi đi, cậu bận tâm chuyện đó hơn là mẹ cậu đấy.”

“Sao anh có thể nói như thế? Anh có nhớ đến cha mẹ anh chút nào hay không?”

“Mẹ tôi là Ketterdam. Bà đẻ tôi trên bến cảng. Còn cha tôi là lợi nhuận. Tôi vinh danh ông mỗi ngày. Quay về đây khi trời tối, nếu không thì đừng về nữa. Cả hai cậu. Tôi cần đồng đội, không cần những cục nợ sến súa.” Kaz đưa tiền lộ phí cho Wylan. “Hãy bảo đảm cậu là người dùng nó để mua vé. Tôi không muốn Jesper đảo qua sòng bạc làm vài ván đâu đấy.” “Cái bài ca này cũ rồi,” Jesper lẩm bẩm.

“Vậy thì học lời mới đi.”

Jesper chỉ lắc đầu, nhưng Wylan có thể nhận thấy câu nói của Kaz gây tác động như thế nào. Giờ đây, cậu đang nhìn Jesper dựa lưng vào lan can, mắt nhắm lại, mặt quay về phía ánh nắng mùa xuân yếu ớt.

“Anh không nghĩ chúng ta nên thận trọng hơn à?” Wylan hỏi trong khi khuôn mặt vẫn rụt vào cổ áo khoác. Họ đã kịp tránh được hai thị tuần trong tích tắc lúc lên thuyền.

“Chúng ta đã ở ngoại thành rồi. Thư giãn đi.”

Wylan liếc nhìn qua vai. “Tôi nghĩ họ có thể lục soát con thuyền đấy.”

Jesper mở một mắt ra và nói, “Để làm giao thông ách tắc à? Van Eck đã làm nhặng xị ở các hải cảng rồi. Nếu lão ta chặn thêm cả giao thông đường thuỷ thì mọi thứ sẽ loạn mất.”

“Tại sao?”

“Thử nhìn quanh mà xem. Các nông trại cần nông dân. Các nhà máy cần công nhân. Kerch sẽ không chấp nhận thêm phiền phức vì con trai của một lão nhà giàu, nhất là khi tiền của vẫn cần phải được làm ra.”

Wylan cố gắng thư giãn và cởi nút chiếc áo khoác dầy sụ mà Kaz đã đưa cho. “Anh ta lấy đâu ra các món quần áo và đồng phục nhỉ? Có phải anh ta có một tủ quần áo to đùng ở đâu đó không?”

“Lại đây.”

Wylan thận trọng nhích lại gần hơn. Jesper đưa tay lên cổ áo, kéo nó ra một chút để Wylan có thể quay đầu và nhìn loáng thoáng một mẩu ruy băng màu xanh gắn ở đó.

“Đây là cách các diễn viên đánh dấu phục trang của mình,” Jesper nói. “Cái này thuộc về… Josep Kikkert. Tôi từng xem anh ta diễn vở Gã điên bắt dâu. Không tồi.”

“Phục trang á?”

Jesper lật cổ áo trở lại, và khi làm động tác đó những ngón tay của anh lướt nhẹ trên gáy Wylan. “Phải. Kaz đã mở một lối đi bí mật vào kho phục trang của rạp Stadlied vài năm về trước. Đó là nơi anh ta có thể lấy nhiều thứ mình cần và tích trữ phần còn lại. Để anh ta không bao giờ bị tóm với một bộ đồng phục thị tuần hoặc chế phục gia nhân giả trong các cuộc bố ráp.”

Wylan nghĩ đó là một sự thận trọng cần thiết. Cậu nhìn ánh nắng phản chiếu trên mặt nước một lúc, rồi tập trung vào lan can và nói, “Cảm ơn vì đã đi cùng tôi hôm nay.”

“Kaz sẽ không để cậu đi một mình, với lại, tôi nợ cậu mà. Cậu đã đi cùng tôi đến gặp bố ở quận Đại học, và can thiệp khi ông bắt đầu chất vấn.”

“Tôi không thích nói dối.”

Jesper quay người lại, chống cùi chỏ lên lan can tàu và nhìn những triền cỏ mọc tràn xuống dòng kênh. “Vậy sao cậu lại làm như thế?”

Wylan không rõ tại sao cậu lại bịa ra câu chuyện điên rồ về việc rủ rê Jesper tham gia vào một vụ đầu tư thất bát. Thậm chí cậu còn không chắc mình sẽ nói gì khi mở miệng ra. Cậu chỉ không thể chịu nổi khi chứng kiến Jesper vốn luôn tự tin và tươi cười lại có nét mặt đó, cũng như sự pha trộn giữa hi vọng và sợ hãi trong ánh mắt của ông Colm Fahey khi ông chờ đợi một câu trả lời từ con trai mình. Nó làm cậu nhớ đến ánh mắt của cha mình, hồi ông vẫn còn tin rằng cậu có thể chạy chữa được. Cậu không muốn nhìn thấy biểu hiện trong ánh mắt của bố Jesper chuyển từ lo lắng thành đau đớn và tức giận.

Wylan nhún vai. “Tôi tập cứu anh. Cho quen.”

Jesper thốt lên một tiếng kêu nhỏ, khiến Wylan vội liếc nhìn qua vai một lần nữa, sợ rằng họ đã bị ai đó chú ý.

Nhưng trò đùa của Jesper không kéo dài. Anh đổi tư thế bên lan can, đưa bàn tay lên gáy nghịch nghịch vành mũ. Anh luôn chuyển động, tựa như một linh kiện đồng hồ dài thượt chạy bằng thứ năng lượng vô hình. Nhưng có điều đồng hồ rất đơn giản. Còn với Jesper thì cậu chỉ có thể đoán mò những chuyện anh làm.

Cuối cùng Jesper lên tiếng, “Lẽ ra hôm nay tôi đã đi gặp bố.”

“Vậy sao anh không đi?”

“Tôi không biết phải nói gì với ông ấy.”

“Anh không thể nói sự thật ư?”

“Cứ coi như là tôi muốn né tránh nó đi.”

Wylan lại nhìn mặt nước. Cậu đã bắt đầu nghĩ Jesper là người không biết sợ, nhưng có lẽ can đảm không đồng nghĩa với không sợ hãi. “Anh không thể chạy trốn chuyện này mãi được.”

“Để xem.”

Một nông trang khác trôi qua, không nhỉnh hơn một vệt trắng trong màn sương buổi sớm là bao, hoa loa kèn và tulip mọc rải rác trên cánh đồng phía trước nhà tựa như những chòm sao rời rạc. Jesper có thể tiếp tục chạy trốn. Nếu Kaz có thể tiếp tục làm nên những điều kì diệu thì Jesper cũng có thể luôn đi trước một bước.

“Ước gì tôi đã mua hoa cho mẹ,” Wylan nói. “Một thứ gì đó.”

“Chúng ta có thể mua trên đường,” Jesper nói. Wylan biết anh đang nắm lấy cơ hội đổi chủ đề câu chuyện bằng cả hai tay. “Cậu còn nhớ nhiều điều về mẹ không?”

Wylan lắc đầu. “Tôi chỉ nhớ những lọn tóc xoăn của bà. Đó là mái tóc màu vàng hung đẹp nhất trên đời.”

“Tóc cậu cũng thế,” Jesper nói. “Trước đây.”

Wylan cảm thấy hai má tự dưng nóng ran. Jesper chỉ đưa ra một nhận định thôi mà.

Cậu hắng giọng. “Mẹ thích nghệ thuật và âm nhạc. Tôi còn nhớ mình ngồi trên ghế đánh dương cầm với bà. Nhưng cũng có thể đó là một bảo mẫu.” Wylan nhún vai. “Rồi một hôm mẹ bị ốm và đi về vùng thôn quê dưỡng bệnh để phổi có thể hồi phục. Sau đó mẹ mất.”

“Còn đám tang thì thế nào?”

“Cha tôi nói bà đã được chôn cất tại bệnh viện, có vậy thôi. Chúng tôi ngừng nói chuyện về mẹ. Cha tôi bảo có day dứt với quá khứ cũng chẳng được gì. Tôi không biết nữa. Tôi nghĩ ông ta yêu mẹ tôi thực sự. Họ cãi nhau suốt, đôi khi là về tôi, nhưng tôi cũng nhớ họ cười đùa với nhau rất nhiều.”

“Tôi thật khó mà hình dung cha cậu cười, dù chỉ là nhếch môi. Trừ phi ông ta xoa tay hài lòng và cười vang trước một đồng vàng.”

“Ông ta không phải là một con quỷ.”

“Ông ta đã cố giết cậu.”

“Không, ông ta phá huỷ tàu của chúng ta. Việc giết tôi chỉ là một lợi ích đi kèm.” Điều đó không hoàn toàn là sự thật, tất nhiên rồi. Jesper không phải là người duy nhất cố đi trước những rắc rối của mình một bước.

“Ồ, thế thì cậu hoàn toàn đúng,” Jesper nói. “Không quỷ quyệt chút nào. Tôi tin chắc ông ta cũng có lí do để không cho cậu than khóc mẹ.”

Wylan rút một sợi vải tưa ra trên ống tay áo khoác. “Cũng không hoàn toàn là lỗi của ông. Cha tôi gần như lúc nào cũng tỏ ra âu sầu. Và xa cách. Cũng khoảng thời gian đó ông nhận ra tôi không… được như kì vọng.”

“Lúc đó cậu mấy tuổi?”

“Tám tuổi, hình như thế? Tôi đã che giấu chuyện đó rất giỏi.”

“Bằng cách nào?”

Nụ cười nhạt xuất hiện trên môi Wylan. “Ông ta đọc cho tôi, hoặc tôi nhờ một trong các bảo mẫu đọc, và tôi ghi nhớ tất cả. Tôi thậm chí biết khi nào phải ngừng và lật trang.”

“Cậu nhớ được nhiều tới cỡ nào?”

“Nhiều lắm. Tôi biến ngôn từ thành âm nhạc trong đầu mình, giống như các bài hát ấy. Thỉnh thoảng tôi vẫn còn làm như thế. Tôi chỉ việc nói rằng mình không thể giải mã được chữ viết tay của ai đó và bảo họ đọc thành tiếng, rồi tôi gắn chúng vào một giai điệu. Tôi có thể lưu giữ chúng trong đầu cho tới khi cần dùng.”

“Không chừng cậu có thể áp dụng kĩ năng này cho việc ghi nhớ các lá bài.”

“Có lẽ thế. Nhưng tôi sẽ không làm chuyện đó.”

“Phí cả năng khiếu.”

“Là anh nói vậy thôi.”

Jesper nhăn mặt. “Ngắm cảnh đi.”

Cũng không có gì nhiều để mà ngắm. Wylan nhận ra mình mệt mỏi đến thế nào. Cậu không quen với cuộc sống đầy sợ hãi với những khoảnh khắc âu lo cứ nối tiếp nhau như thế này.

Wylan nghĩ đến việc kể cho Jesper nghe đầu đuôi mọi chuyện. Liệu có nhẹ lòng được không nếu như toàn bộ câu chuyện nhục nhã này được phơi bầy? Có thể. Nhưng một phần trong cậu muốn Jesper và những người khác tiếp tục tin rằng cậu đã bỏ nhà ra đi để lập thân tại khu Barrel, rằng cậu đã chọn cuộc sống này.

Khi cậu bé Wylan lớn lên, cha cậu đã dần bộc lộ rõ ràng rằng cậu không có chỗ trong nhà của ông, nhất là sau đám cưới của ông và Alys. Nhưng ông dường như không biết phải làm gì với cậu. Ông bắt đầu dùng những lời lẽ ngày một hằn học hơn với con trai mình.

Con không thể đi học ở trường tư vì con không biết đọc.

Ta không thể cho con đi đâu đó học việc vì con có thể để lộ khiếm khuyết của mình.

Con giống như đồ ăn chóng hỏng vậy. Ta không thể cất con vào chỗ nào đó mà không làm nó thối um lên.

Thế rồi, sáu tháng trước, cha của Wylan cho gọi cậu tới thư phòng của mình. “Ta đã xin cho con một vị trí trong trường nhạc ở Belendt. Một thư kí riêng đã được thuê và sẽ gặp con tại trường. Anh ta sẽ phụ trách văn thư và những việc nằm ngoài khả năng của con. Đây là một sự phí phạm cả thời gian lẫn tiền bạc, nhưng với con thì ta phải chấp nhận những gì có thể chấp nhận được.”

“Trong bao lâu ạ?” Wylan đã hỏi như thế.

Cha cậu nhún vai. “Đủ lâu để người đời có thể quên việc ta từng có một đứa con trai. Ồ, đừng có nhìn ta với vẻ mặt tổn thương như thế, Wylan. Ta đang rất chân thành, chứ không hề tàn nhẫn. Đây là giải pháp tốt nhất cho hai ta. Con sẽ được miễn trừ một nhiệm vụ bất khả thi là đảm nhận vai trò quý tử của một thương gia, còn ta cũng tránh được cảm giác xấu hổ của việc chứng kiến con gồng mình làm chuyện đó.”

Ta đối xử với con đâu có khắc nghiệt hơn cuộc đời này. Đó là điệp khúc của cha cậu. Còn ai thẳng thắn hơn ông kia chứ? Ai thương cậu đủ nhiều để nói với cậu sự thật kia chứ? Wylan từng có những kỉ niệm vui vẻ khi được cha đọc cho nghe những câu chuyện u ám về các khu rừng phù thuỷ, hoặc những dòng sông biết nói. Jan Van Eck đã làm hết khả năng để chăm sóc con trai, và nếu ông thất bại thì đó là lỗi của cậu. Cha cậu có thể nói năng tàn nhẫn, nhưng ông không chỉ tự bảo vệ mình hay đế chế Van Eck, mà bảo vệ cả cậu nữa.

Và mọi thứ ông nói đều hợp lí một cách kinh khủng. Wylan không thể thừa kế cơ nghiệp của cha, bởi vì cậu sẽ dễ dàng bị người ta lừa gạt. Cậu không thể đi học đại học vì cậu sẽ trở thành mục tiêu của sự chế nhạo. Đây là giải pháp tốt nhất cho hai ta. Sự bực bội của cha cậu là một thứ không mấy dễ chịu, nhưng chính tư duy của ông khiến Wylan bị ám ảnh - cái giọng nói thực dụng, không thể bác bỏ vang lên trong đầu cậu mỗi khi cậu nghĩ tới việc thử một thứ gì mới, hoặc cố học đọc học viết một lần nữa.

Wylan đau đớn khi bị xua ra khỏi nhà, nhưng cậu vẫn có hi vọng. Cuộc sống ở Belendt nghe chừng rất tuyệt diệu. Cậu không biết nhiều về nó, ngoại trừ việc nó là đô thị cổ thứ hai của Kerch, và nằm trên bờ sông Droombeld. Nhưng cậu sẽ ở xa đám bạn bè và cộng sự kinh doanh của cha cậu. Van Eck là một cái họ khá phổ biến, và tại một nơi cách xa Ketterdam như thế, việc mang họ Van Eck sẽ không khiến cậu bị người ta nhòm ngó.

Cha của Wylan đã đưa cho cậu một phong thư niêm kín và ít tiền để đi đường. “Đây là giấy tiếp nhận của con, và chỗ tiền này đủ để con đi tới Belendt. Một khi đã đến đó, hãy để tay thư kí lo chuyện tiền nong. Một tài khoản đã được mở dưới tên con. Ta cũng đã thu xếp vài người đi cùng con trên chuyến tàu.”

Đôi má Wylan đỏ ửng vì nhục nhã. “Con có thể tự mình đi tới Belendt.”

“Con chưa bao giờ rời khỏi Ketterdam một mình, và đây không phải là lúc để bắt đầu làm điều đó. Miggson và Prior có việc cần lo liệu cho ta ở Belendt. Họ sẽ đưa con tới đó và giúp con ổn định chỗ ở. Hiểu chưa?”

Wylan đã hiểu. Cậu không đủ khả năng để một mình lên tàu rời khỏi Ketterdam.

Nhưng ở Belendt, mọi việc sẽ khác. Wylan đóng vào chiếc vali nhỏ vài bộ quần áo và những thứ mà cậu sẽ cần trước khi rương đồ của cậu được chuyển tới trường cùng với những tập nhạc yêu thích của cậu. Nếu cậu có thể đọc chữ giỏi như đọc nốt nhạc thì đã chẳng nên cớ sự. Khi cha của Wylan ngừng đọc sách cho cậu, âm nhạc là thứ mang đến những câu chuyện mới, chúng mở ra từ ngón tay cậu, và cậu đưa mình vào trong đó qua từng nốt nhạc được tấu lên. Wylan nhét cây sáo vào trong cái túi đeo chéo, phòng khi cậu muốn luyện tập một chút trên đường đi.

Wylan chia tay Alys một cách nhanh gọn và vụng về. Alys là một cô gái tốt, nhưng mọi vấn đề nằm ở đó - cô chỉ hơn cậu có vài tuổi. Wylan không hiểu làm thế nào cha mình có thể đi trên phố bên cạnh Alys mà không cảm thấy ngượng. Nhưng Alys dường như không phiền lòng về chuyện đó, có lẽ vì khi ở bên cô, cha cậu trở thành người đàn ông mà cậu từng biết khi còn nhỏ - tử tế, hào phóng, kiên nhẫn.

Ngay cả bây giờ, Wylan cũng không thể xác định thời điểm cậu biết mình đã bị cha từ bỏ. Mọi chuyện thay đổi một cách chậm rãi. Sự kiên nhẫn của Jan Van Eck đã lặng lẽ bay đi như lớp vàng lá dát trên sắt thô, và khi nó biến mất hẳn, cha cậu dường như trở thành một con người hoàn toàn khác, ít đẹp đẽ hơn nhiều.

“Tôi muốn nói lời từ biệt và chúc sức khoẻ dì,” Wylan đã nói như thế với Alys. Lúc đó cô ngồi trong phòng riêng, con chó sục nằm ngủ dưới chân.

“Cậu sẽ đi xa à?” Alys hỏi lại. Cô bắt gặp túi hành lí của Wylan khi ngước mắt lên khỏi chiếc kim khâu. Alys đang khâu mép rèm. Phụ nữ Kerch, kể cả những người khá giả, không nề hà những công việc tủn mủn như thêu thùa hay may vá. Việc thu vén nội trợ cho phép họ phụng sự Ghezen tốt hơn.

“Tôi sẽ tới trường nhạc ở Belendt.”

“Ồ, hay quá!” Alys reo lên. “Tôi nhớ thôn quê quá chừng. Cậu sẽ thoả thích tận hưởng không khí trong lành, và chắc chắn sẽ có nhiều bạn tốt.” Cô đặt kim xuống và hôn lên hai má Wylan. “Cậu có quay về vào các kì nghỉ không?”

“Có thể,” Wylan nói, mặc dù biết mình sẽ không làm điều đó. Cha cậu muốn cậu biến mất, vậy thì cậu sẽ biến mất.

“Lúc đó chúng ta sẽ làm bánh gừng,”Alys nói. “Cậu sẽ kể cho tôi nghe về những chuyến phiêu lưu của mình, và không lâu nữa chúng ta sẽ có một người bạn mới để chơi cùng.” Cô vỗ nhẹ lên bụng mình với một nụ cười hạnh phúc.

Wylan mất vài giây để hiểu ý nghĩa câu nói của Alys, và cậu chỉ đứng đó, tay nắm chặt chiếc vali, đầu gật gật, miệng mỉm cười một cách máy móc trong khi Alys nói tiếp về kế hoạch cho kì nghỉ lễ. Cô đã có thai. Chính vì vậy mà cha cậu muốn đẩy cậu đi. Jan Van Eck sắp có một người nối dõi khác, một người nối dõi thực thụ.

Wylan đã hết vai trò. Cậu sẽ biến mất khỏi Ketterdam, làm một cái nghề vặt vãnh tại đâu đó. Thời gian trôi qua, sẽ không ai nhướn mày thắc mắc khi đứa con của Alys được giao quyền lãnh đạo đế chế kinh doanh Van Eck. Đủ lâu để người đời có thể quên việc ta từng có một đứa con trai. Hoá ra đó không phải là một lời sỉ nhục bâng quơ.

Miggson và Prior xuất hiện đúng tám giờ để đưa Wylan lên thuyền. Không ai đến chào từ biệt, và khi cậu đi ngang qua thư phòng của cha, cánh cửa vẫn đóng kín. Cậu từ chối việc gõ cửa và cầu xin chút tình thương như con chó của Alys mỗi khi đòi chủ vuốt ve.

Người của cha cậu mặc đồ đen, màu ưa thích của các thương nhân. Họ không trao đổi nhiều với Wylan trong lúc đi tới bến tàu. Họ mua vé đi tuyến Belendt, và khi đã ở trên tàu, Miggson chúi mũi vào tờ báo, còn Prior ngả lưng trên ghế, mũ sụp xuống, mắt nhắm hờ. Wylan không biết anh ta đang ngủ hay đang nhìn mình như một con tắc kè ngái ngủ.

Vào giờ đó trên tàu rất vắng lặng. Người ta ngủ trong những cabin chật chội, hoặc ăn bữa tối mang theo - những khoanh thịt xông khói và bình giữ ấm cà phê nằm vắt vẻo trên đùi họ.

Không ngủ được, Wylan rời khỏi cabin nóng bức và bước lên mũi thuyền. Gió đông lạnh lẽo nồng nặc mùi tanh từ những lò mổ nằm ở ngoại vi Ketterdam. Nó khiến bụng cậu nôn nao, nhưng không lâu sau đó, những ánh đèn đô thị mờ dần, và họ tiến vào vùng thôn quê. Wylan lấy làm tiếc vì đã không đi chuyến ban ngày. Cậu muốn xem các cối xay gió lừng lững canh gác những cánh đồng, lũ cừu gặm cỏ trong bãi chăn. Cậu thở dài, rùng mình trong chiếc áo khoác, và chỉnh lại dây túi, cậu nên cố nghỉ ngơi một chút. Có lẽ cậu sẽ dậy sớm và ngắm mặt trời lên.

Khi Wylan quay người, Prior và Miggson đang đứng ngay sau lưng cậu.

“Tôi xin lỗi,” Wylan nói. “Tôi…” Đúng lúc đó đôi tay của Prior đã thít chặt cổ họng cậu.

Wylan thở hồng hộc - hay đúng hơn là cố gắng làm điều đó. Âm thanh phát ra từ miệng cậu chỉ là một tiếng khò khè. Cậu nắm lấy cổ tay của Prior, nhưng tay hắn ta cứng như sắt, lực bóp không hề giảm đi. Hắn ta đủ to lớn để nhấc bổng Wylan lên và ấn cậu vào lan can thuyền.

Nét mặt của Prior thản nhiên như không, thậm chí có phần chán chường, và Wylan chợt hiểu cậu sẽ không bao giờ tới được ngôi trường ở Belendt. Cha cậu chưa bao giờ thu xếp chuyện đó. Không có tay thư kí nào. Không có tài khoản nào mang tên cậu. Không ai chờ đón cậu. Mảnh giấy tiếp nhận trong túi cậu có lẽ chỉ là một mớ chữ vô nghĩa. Wylan thậm chí đã không tìm cách đọc nó. Cậu sẽ biến mất, đúng như mong muốn của cha, và ông đã thuê những người này để làm việc đó. Cha cậu, người từng đọc sách cho cậu ngủ, từng bưng cho cậu món trà cẩm quỳ pha mật ong khi cậu bị viêm phổi. Đủ lâu để người đời có thể quên việc ta từng có một đứa con trai, cha cậu sẽ gạch tên cậu khỏi sổ sách như một phép tính hỏng, một khoản bội chi có thể quên đi. Con số sẽ được chỉnh lại cho đúng.

Mắt Wylan tối sầm lại. Tai cậu như nghe thấy tiếng nhạc.

“Mấy người kia! Có chuyện gì vậy?”

Giọng nói tưởng như vọng đến từ một khoảng cách rất xa. Cú siết của Prior hơi lỏng ra. Ngón chân Wylan chạm vào boong tàu.

“Không có gì,” Miggson vừa nói vừa quay lại để đối mặt với người lạ. “Chúng tôi phát hiện thằng này đang nhòm ngó hành lí của hành khách thôi.”

Wylan phát ra một tiếng kêu tắc nghẹn.

“Vậy tôi… tôi đi báo thị tuần nhé? Có hai sĩ quan ở trong cabin.”

“Chúng tôi đã báo thuyền trưởng rồi,” Miggson đáp. “Chúng tôi sẽ giải thằng này tới trạm thị tuần ở điểm dừng kế tiếp.

“Thật mừng là các anh kịp thời đề cao cảnh giác.” Người đàn ông quay lưng bỏ đi.

Con tàu hơi tròng trành một chút. Wylan không đợi để xem chuyện gì sẽ diễn ra tiếp theo, cậu dùng hết sức bình sinh để đẩy Prior ra, rồi trước khi kịp hoảng sợ, cậu lao mình qua mạn tàu xuống dòng kênh bùn lầy.

Wylan bơi với toàn bộ sức lực huy động được. Cậu vẫn còn choáng váng, cổ họng thì đau khủng khiếp. Trong sự kinh hoàng của cậu, một tiếng ùm vang lên, cho biết một trong hai gã kia đã nhảy xuống nước để đuổi theo. Nếu Wylan xuất hiện ở đâu đó, còn sống, có lẽ Miggson và Prior sẽ không được nhận tiền công.

Cậu thay đổi kiểu bơi, tạo ra ít tiếng động nhất có thể, và cố buộc mình động não. Thay vì lao thẳng vào bờ như ý muốn của cơ thể lạnh cóng, cậu lặn xuống bên dưới một con tàu chợ và trồi lên ở phía bên kia, bơi theo nó, dùng nó làm vật che chắn. Sức nặng của chiếc túi đeo chéo làm vai cậu trì xuống, nhưng cậu không thể từ bỏ nó. Tài sản của mình, cậu nghĩ vơ vẩn trong đầu. Cây sáo của mình. Wylan bơi không ngừng, kể cả khi hơi thở trở nên rát buốt và chân tay bắt đầu tê dại. Cậu bắt mình tiến tới, để gia tăng khoảng cách hết mức có thể giữa cậu và hai tên sát nhân của cha.

Nhưng rồi sức lực cũng bắt đầu từ bỏ cậu, và Wylan nhận ra mình đang quẫy đạp nhiều hơn là bơi. Nếu không vào bờ, cậu sẽ chết đuối. Cậu lội tới một gầm cầu và rướn người trèo lên bờ, ướt đẫm và run rẩy trong cái lạnh băng giá. Cổ họng cậu nhức buốt mỗi khi nuốt, và tim cậu thắt lại mỗi khi nghe thấy tiếng sóng vỗ ì oạp, sợ rằng gã Prior kia đang đến để kết thúc công việc.

Wylan cần lên một kế hoạch nào đó, nhưng thật khó để suy nghĩ cho thấu đáo trong tình cảnh này. Cậu kiểm tra các túi quần. Vẫn còn vài đồng kruge mà cha cậu đã đưa được cất trong chỗ an toàn. Tiền dù bị ướt thì vẫn tiêu được. Nhưng cậu nên đi đâu bây giờ? Cậu không có đủ tiền để rời khỏi Ketterdam, và nếu cha cậu cử người truy lùng thì cậu sẽ dễ dàng bị tìm ra. Cần phải tới một nơi an toàn, một nơi mà cha cậu sẽ không nghĩ tới việc tìm cậu ở đó. Chân tay Wylan nặng như chì, cái lạnh đã nhường chỗ cho sự mệt mỏi. Cậu sợ rằng nếu nhắm mắt lại, cậu sẽ không có đủ ý chí để mở mắt ra nữa.

Cuối cùng, Wylan bắt đầu với việc đi bộ. Cậu đi lang thang theo hướng bắc, xuyên qua Ketterdam, tránh xa các lò mổ, ngang qua một khu dân cư yên bình nơi các tiểu thương sinh sống, và đi tiếp. Những đường phố trở nên cong queo và nhỏ hẹp hơn, cho tới khi nhà cửa hai bên dường như đổ nhào vào cậu. Bất chấp thời điểm khuya khoắt, vẫn còn những cửa hiệu sáng đèn. Tiếng nhạc vọng ra từ các quán cà phê xập xệ, và Wylan thoáng thấy những thân người quấn lấy nhau trong các ngõ hẻm.

“Bị ai nhúng nước hả nhóc?” Một ông già rụng răng cất tiếng hỏi cậu dưới mái hiên nhà mình.

“Qua đây, tao dìm cho!” Một phụ nữ ré lên từ trên cầu thang.

Cậu đang ở trong khu Barrel. Wylan sống cả đời tại Ketterdam, nhưng cậu chưa bao giờ tới đây. Cậu không được phép, và cũng chưa bao giờ có ý định làm điều đó. Cha cậu gọi Barrel là “hang ổ dơ dáy của sự trụy lạc và báng bổ”, là “nỗi nhục của Ketterdam”. Wylan biết nó là một mạng lưới chằng chịt những đường phố tối tăm và ngõ ngách bí hiểm. Một nơi mà cư dân tại chỗ cải trang để làm những chuyện thiếu đứng đắn, nơi khách ngoại quốc chen chân trên những trục đường chính để tìm kiếm những trò tiêu khiển bậy bạ, nơi người ta đến rồi đi như sóng triều. Một nơi hoàn hảo để biến mất.

Cho đến cái ngày mà lá thư đầu tiên của cha cậu xuất hiện.

***

Wylan giật mình nhận ra Jesper đang kéo tay áo cậu. “Đến nơi rồi, thiếu gia. Tỉnh táo lên nào.”

Wylan vội chạy theo anh. Họ xuống bến tầu không người tại Olendaal và đi dọc theo bờ đê đến một con đường làng vắng vẻ.

Jesper nhìn quanh. “Nơi này giống ở quê tôi. Đồng ruộng trải hết tầm mắt, im lặng chỉ bị phá vỡ bởi tiếng vù vù của những chú ong, không khí thì trong lành.” Anh rùng mình. “Ớn quá.”

Trong lúc họ bước đi, Jesper giúp Wylan hái những bông hoa dại ven đường. Khi họ ra đến đường cái, cậu đã có một bó hoa nhỏ tươm tất.

“Tôi tưởng chúng ta cần phải tìm đường đến mỏ đá?” Jesper hỏi.

Wylan ho húng hắng. “Không, chúng ta không cần phải làm thế. Một hiệu tạp hoá là được rồi.”

“Nhưng cậu đã nói với Kaz là khoáng vật đó…”

“Nó có mặt trong mọi loại sơn và men sứ. Tôi chỉ muốn tìm một cái cớ để đi tới Olendaal.”

“Wylan Van Eck, cậu đã nói dối Kaz Brekker.” Jesper đưa tay lên ôm ngực. “Và cậu không bị làm sao cả! Cậu dạy tôi được không?”

Wylan cảm thấy mãn nguyện một cách kì cục - cho tới khi cậu nghĩ đến việc bị Kaz phát hiện. Nó gần giống như lần đầu tiên cậu uống thử rượu brandy để rồi nôn thốc nôn tháo bữa tối vào đôi giày của mình.

Hai người tìm thấy một hiệu tạp hoá sau khi đi được nửa đoạn đường cái, và chỉ mất vài phút để mua được thứ mình cần. Khi Jesper và Wylan rời khỏi cửa hiệu, một ông già đang chất hàng lên xe ngựa vẫy tay với họ. “Hai cậu đang tìm việc làm hả?” Ông ta hỏi với giọng hoài nghi. “Trông hai cậu không có vẻ gì là phù hợp cho việc đồng áng cả.”

“Ông sẽ bất ngờ đấy,” Jesper đáp. “Chúng tôi đã được nhận vào làm việc ở gần Thánh Hilde.”

Wylan căng người chờ đợi, nhưng người đàn ông chỉ gật đầu. “Các cậu tu sửa nhà thương à?”

“Vâng,” Jesper đáp gọn bâng.

“Bạn cậu kiệm lời nhỉ,” ông ta nhận xét.

“Người Shu mà,” Jesper nhún vai đáp.

Ông già ậm ừ đồng tình rồi nói, “Nhảy lên đi. Tôi đi tới mỏ đá. Tôi có thể cho các cậu quá giang. Hoa để làm gì thế?”

“Cậu ta có một cô bồ ở gần Thánh Hilde.”

“Có bồ rồi cơ đấy.”

“Vâng. Gu chọn bạn gái của cậu ta kinh khủng lắm.” Wylan chỉ muốn đẩy Jesper khỏi chiếc xe ngựa.

Hai bên con đường bùn lầy hình như là những cánh đồng lúa mạch và lúa mì. Miền đất bằng phẳng thi thoảng được chấm phá bởi các kho thóc và cối xay gió. Chiếc xe đi rất nhanh. Hơi quá nhanh, Wylan thầm nghĩ khi chiếc xe chạy qua một cái rãnh trên đường và xóc mạnh, cậu xuýt xoa.

“Mưa đấy,” ông nông dân nói. “Người ta chưa kịp rải cát cho đường bằng phẳng.”

“Không sao ạ,” Jeper nháy mắt đáp khi chiếc xe một lần nữa sa vào các ổ gà trên đường. “Tôi cũng không cần giữ cái lá lách nguyên vẹn làm gì.”

“Tốt thôi!” Ông nông dân bật cười. “Càng tốt cho gan!”

Wylan bấu chặt vào thành xe, ước gì có thể đẩy Jesper khỏi xe và nhảy xuống luôn cùng anh. May mắn thay, sau khi chạy thêm khoảng một dặm nữa, chiếc xe giảm tốc độ rồi dừng lại trước hai cột đá đánh dấu một lối đi dài rải sỏi.

“Tôi chỉ đi được đến chỗ này thôi,” ông nông dân nói. “Chẳng bán chác gì ở trong kia được. Quá sức chịu đựng. Những khi gió thổi đúng chiều, các cậu có thể nghe thấy những tràng cười và tiếng la hét của bọn họ.”

Jesper và Wylan đưa mắt nhìn nhau.

“Ý ông là nơi này bị ma ám hay sao?” Jesper hỏi.

“Có lẽ thế.”

Hai người cảm ơn ông già và mừng rỡ nhảy xuống xe. “Sau khi đã xong việc ở đây, các cậu đi theo đường cái khoảng hai dặm nữa,” ông ta nói. “Tôi có hai mẫu đất cần cày bừa. Năm kruge mỗi ngày, và buổi tối các cậu có thể ngủ trong kho thóc thay vì nằm tơ hơ ngoài đồng.”

“Nghe có vẻ hấp dẫn,” Jesper vẫy tay đáp, nhưng ngay khi họ quay lưng đi vào trong lối đi rải sỏi, anh làu bàu với Wylan. “Chúng ta sẽ đi bộ về. Xương sườn tôi muốn gãy ra đây này.”

Sau khi chiếc xe khuất dạng, hai người cởi bỏ áo choàng và áo khoác

rồi nhét vào một bụi cây, phơi bày bộ trang phục màu đen mà Kaz bảo họ mặc bên trong. “Hãy bảo họ rằng các cậu được luật sư Cornells Smeet cử đến,” Kaz đã dặn như thế. “Rằng các cậu muốn bảo đảm rằng mộ phần được chăm sóc tử tế.”

“Tại sao?” Wylan thắc mắc.

“Bởi vì nếu cậu tuyên bố mình là con trai của Jan Van Eck, sẽ không có ai tin cậu.”

Hai bên lối đi trồng cây dương, và khi họ lên đến đỉnh đồi, một toà nhà xuất hiện trước mắt họ: ba tầng xây bằng đá trắng, với những bậc thềm duyên dáng dẫn lên một vòm cửa ra vào. Lối đi trước nhà được trải sỏi gọn ghẽ và trang trí bằng hàng thuỷ tùng thấp ở hai bên.

“Trông chẳng giống nhà thờ nhỉ,” Jesper nói.

“Chắc nó từng được dùng làm tu viện hoặc trường học,” Wylan đoán. Cậu lắng nghe tiếng sỏi kêu lạo xạo dưới gót giày. “Jesper này, anh có nhớ được gì nhiều về mẹ không?”

Wylan đã từng nhìn thấy nhiều kiểu cười của Jesper, nhưng nụ cười đang từ từ xuất hiện trên gương mặt anh lúc này rất khác, được anh giữ khư khư như một tay bài chiến thắng. Tất cả những gì anh nói chỉ là, “có. Mẹ đã dạy tôi bắn súng.”

Có hàng trăm câu hỏi mà Wylan muốn đặt ra, nhưng càng đến gần nhà thờ cậu càng khó nắm bắt các ý nghĩ trong đầu mình. Phía bên trái của toà nhà, cậu trông thấy một giàn tử đằng đang trổ hoa, mùi hương ngọt ngào của những chùm hoa tím nồng đượm trong bầu không khí mùa xuân. Xa hơn thảm cỏ một chút, chếch về bên phải, là một cánh cổng và hàng rào bằng sắt uốn bao quanh một nghĩa trang. Một tượng đá được đặt chính giữa khu đất - tượng phụ nữ, Wylan đoán, có lẽ là Thánh Hilde.

“Chắc là nghĩa trang đó,” Wylan lên tiếng, tay cậu nắm bó hoa chặt hơn. Mình đang làm gì ở đấy thế này? Lại câu hỏi đó, và bỗng nhiên cậu không có câu trả lời. Kaz đã nói đúng. Chuyện này thật ngu ngốc, sến sẩm. Đi xem một tấm bia mộ có tên mẹ cậu trên đó thì có gì hay ho kia chứ? Thậm chí cậu còn không đọc được nó. Nhưng họ đã đi cả quãng đường đến đây.

“Jesper…” Wylan vừa mở miệng thì một phụ nữ mặc đồ màu xám đẩy một chiếc xe cút kít chở đầy đất đi vòng qua góc nhà.

“Goed morgen,” chị ta cất tiếng chào họ. “Tôi có thể giúp được gì cho các cậu?”

“Buổi sáng tốt lành,” Jesper nói một cách trơn tru. “Chúng tôi đến đây từ văn phòng của luật sư Cornells Smeet.”

Người phụ nữ nhíu mày, và Wylan vội nói thêm, “Nhân danh ngài Uỷ viên hội đồng Jan Van Eck cao quý.”

Có vẻ như người phụ nữ không nhận ra sự run rẩy trong giọng nói của cậu, vì hàng lông mày kia đã giãn ra, chị ta mỉm cười. Đôi má của chị thật tròn trịa và hồng hào. “Tất nhiên rồi. Nhưng nói thật là tôi bị bất ngờ đấy. Ngài Van Eck luôn hào phóng với chúng tôi, nhưng hiếm khi nào chúng tôi được nghe tin tức của ông ấy. Mọi việc vẫn ổn cả chứ?” “Vâng!” Wylan đáp.

“Chỉ là quy trình mới thôi,” Jesper nói. “Thêm việc cho tất cả mọi người.”

“Không phải mọi chuyện luôn như thế sao?” Người phụ nữ lại mỉm cười đáp. “Tôi thấy cậu mang cả hoa tươi đến.”

Wylan nhìn xuống bó hoa của mình. Nom nó nhỏ nhoi và lộn xộn hơn

cậu nghĩ. “Chúng tôi… Vâng.”

Người phụ nữ chùi tay vào chiếc áo blouse nhàu nhĩ và nói, “Tôi sẽ đưa các cậu đến chỗ bà ấy.”

Nhưng thay vì đi về hướng nghĩa trang, chị ta quay trở vào nhà thờ. Jesper nhún vai, rồi cùng Wylan đi theo người phụ nữ. Trong lúc bước lên những bậc thềm đá, một cảm giác lành lạnh bỗng lướt qua sông lưng Wylan.

“Jesper,” cậu thì thào. “Cửa sổ có lắp chấn song.”

“Các tu sĩ hay lo xa chăng?” Jesper phỏng đoán, nhưng anh không cười.

Tiền sảnh thông suốt hai tầng nhà với mặt sàn lát gạch trắng điểm những bông hoa tulip tinh tế. Trông nơi này không giống với những nhà thờ mà Wylan từng thấy. Sự im lặng ở đây quá nặng nề, gần như khiến người ta nghẹt thở. Một bàn giấy lớn được đặt trong góc nhà, trên đó có một lọ hoa cắm những nhành tử đằng mà Wylan đã thấy ở phía bên ngoài. Cậu hít một hơi thật sâu. Mùi thơm thật dễ chịu.

Người phụ nữ mở khoá một cái tủ lớn, lục tìm trong đó ít phút, rồi lôi ra một tập hồ sơ dày.

“Đây rồi: Marya Hendriks. Như các cậu thấy đấy, mọi thứ đâu ra đó. Các cậu có thể xem qua nó trong khi chúng tôi rửa ráy cho bà ấy. Lần tới để tránh mất thời gian, các cậu nên báo cho chúng tôi biết trước khi đến.”

Wylan cảm thấy mồ hôi lạnh túa ra khắp người. Cậu chỉ có thể gật đầu.

Người phụ nữ lấy một chùm chìa khoá to từ trong tủ và mở một trong những cánh cửa màu xanh nhạt dẫn ra khỏi tiền sảnh. Wylan nghe thấy tiếng chìa khoá xoay trong ổ sau khi cánh cửa khép lại. Cậu đặt chỗ hoa dại xuống bàn. Các cuống hoa đã bị gãy hết. Cậu đã nắm chúng quá chặt.

“Đây là đâu?” Wylan hỏi. “Chị ta nói vậy là sao? Rửa ráy cho bà ấy?” Tim cậu đập cuồng loạn như một chiếc máy đánh nhịp bị cài đặt sai.

Jesper đang lật giở tập hồ sơ, mắt lướt nhanh qua các trang giấy.

Wylan nhìn qua vai anh, một cảm giác tuyệt vọng kinh khủng dâng lên trong lòng cậu. Chữ nghĩa trên trang giấy nom giống như những nét vẽ nguệch ngoạc, một đống chân rết đen ngòm. Cậu cố gắng hít thở. “Jesper, làm ơn,” cậu nài nỉ, giọng lạc hẳn đi. “Đọc cho tôi nghe với.”

“Tôi xin lỗi,” Jesper vội nói. “Tôi quên khuấy mất. Tôi…” Wylan không thể diễn giải được vẻ mặt của Jesper lúc này. Có sự buồn bã, hoang mang trong đó. “Wylan… tôi nghĩ rằng mẹ cậu còn sống.”

“Không thể nào.”

“Cha cậu đã yêu cầu nhốt bà ấy lại.”

Wylan lắc đầu. Không thể nào. “Mẹ ngã bệnh. Chứng viêm phổi…”

“Ông ta nêu rõ rằng bà ấy mắc chứng cuồng loạn, ảo giác, và hoang tưởng bức hại.”

“Mẹ không thể còn sống được. Ông ta… ông ta đã tái hôn. Còn Alys thì sao?”

“Tôi nghĩ ông ta đã cho tuyên bố mẹ cậu bị tâm thần để sử dụng nó làm cớ li dị. Đây không phải là nhà thờ, Wylan. Nó là nhà thương điên.”

Thánh Hilde. Cha cậu gửi tiền tới đây hằng năm, nhưng không phải để từ thiện. Để họ chăm sóc mẹ cậu. Để họ im lặng. Căn phòng bỗng quay cuồng trước mắt cậu.

Jesper kéo Wylan ngồi vào chiếc ghế ở phía sau bàn rồi ấn vào bả vai cậu, bắt cậu gập người tới trước. “Vùi đầu cậu vào giữa hai đầu gối, tập trung nhìn sàn nhà. Hít thở đi.”

Wylan cố ép mình tuần tự hít vào thở ra, mắt nhìn những bông hoa tulip xanh trên các vuông gạch trắng. “Cho tôi biết phần còn lại đi.”

Cậu cần phải bình tĩnh lại, nếu không họ sẽ nhận ra có chuyện không ổn.”

“Cho tôi biết phần còn lại.”

Jesper thở hắt ra và tiếp tục lật hồ sơ. “Khốn kiếp,” anh thốt lên sau đó ít phút. “Có một văn bản chuyển quyền sở hữu trong này. Bản sao.”

Wylan tiếp tục nhìn mặt sàn lát gạch. “Văn bản gì? Thế nghĩa là sao?”

Jesper đọc thành tiếng, “Tài liệu này, dưới sự chứng giám xuyên suốt của Ghezen và tuân theo những giao dịch dân sự trung thực nhất, được thông qua bởi toà án của Kerch và Hội đồng Thương buôn, ghi nhận việc chuyển giao toàn bộ tài sản, đất đai, và các cổ phần từ Marya Hendriks sang cho Jan Van Eck giám sát, đến khi Marya Hendriks đủ năng lực quản lí tài sản của mình trở lại.”

“Chuyển giao toàn bộ tài sản,” Wylan lặp lại. Tôi đang làm gì ở đây thế này? Tôi đang làm gì ở đây thế này? Mẹ đang làm gì ở đây?

Chìa khoá lại xoay trong ổ, cánh cửa xanh nhạt mở ra, và người phụ nữ mà bây giờ Wylan mới nhận ra là một y tá bước qua cửa, tay đưa lên vuốt phẳng lại tạp dề khoác trên người.

“Chúng tôi đã sẵn sàng,” chị ta nói. “Hôm nay bà ấy khá ngoan. Cậu có ổn không vậy?”

“Bạn tôi hơi bị choáng một chút. Dang nắng quá lâu sau nhiều giờ ru rú trong văn phòng luật sư Smeet. Phiền chị rót cho chúng tôi một cốc nước được không?”

“Tất nhiên là được!” Người y tá đáp. “Này, đúng là trông cậu nhợt nhạt thật đấy.”

Chị ta lại biến vào trong cửa sau khi thực hiện quy trình mở rồi khoá như ban nãy. Để bảo đảm các bệnh nhân không thể trốn ra ngoài.

Jesper khuỵu gối trước mặt Wylan và đặt tay lên vai cậu.

“Wylan, nghe tôi này. Cậu phải trấn tĩnh lại. Cậu có làm được không? Chúng ta có thể bỏ về. Tôi có thể nói với chị ta cậu không được khoẻ, hoặc tôi có thể vào trong đó một mình. Chúng ta có thể quay lại vào một dịp khác…”

Wylan hít một hơi thật sâu qua đường mũi. Cậu chưa thể tiêu hoá hết những gì đang diễn ra, chưa thể hiểu hết tầm vóc của chúng. Vậy thì từng thứ một. Đây là thủ thuật mà một gia sư đã dạy cho cậu để tránh bị trang sách nhấn chìm, cậu đã không thành công, nhất là khi có cha đứng sừng sững bên cạnh, nhưng cậu cũng áp dụng được nó cho những việc khác. Từng thứ một. Đứng dậy. Wylan đứng lên. Mày ổn. “Tôi ổn,” cậu nói. “Chúng ta sẽ không bỏ về.” Đó là điều duy nhất mà cậu chắc chắn.

Khi nữ y tá quay lại, cậu đón lấy cốc nước, cảm ơn chị ta, rồi uống cạn. Sau đó cậu và Jesper theo chị ta đi qua cánh cửa màu xanh. Cậu không đủ bình tĩnh để gom lại những bông hoa dại giập gãy vương vãi trên bàn. Từng thứ một.

Họ đi qua một lớp cửa khoá, một phòng tập. Từ đâu đó, cậu nghe thấy tiếng rên rỉ. Tại một gian phòng khách, hai người phụ nữ đang chơi thứ giống như cờ hiệp sĩ.

Mẹ mình đã chết rồi. Bà đã chết rồi. Nhưng không một phần nào trong cơ thể cậu tin vào điều đó nữa. Không hề nữa.

Cuối cùng nữ y tá dẫn họ tới một chái nhà ở cánh tây có vách kính, cho phép đón nhận sự ấm áp của ánh nắng chiều. Qua lớp kính, màu xanh của thảm cỏ hiện lên rõ mồn một, cùng với nghĩa trang ở cách đó một quãng. Đó là một gian phòng đẹp, sàn nhà không có vết bẩn. Một tấm toan với những nét phác thảo phong cảnh được dựng trên giá vẽ bên cạnh vách kính. Kí ức bỗng quay lại trong đầu Wylan: mẹ cậu ngồi bên giá vẽ trong khu vườn phía sau ngôi nhà tại Geldstraat, mùi dầu hạt lanh, những cây cọ sạch cắm trong một cái cốc, ánh mắt chăm chú xem xét đường nét của nhà thuyền và dòng kênh cạnh đó.

“Bà ấy vẽ,” Wylan buột miệng.

“Suốt ngày,” nữ y tá vui vẻ nói. “Marya của chúng tôi yêu nghệ thuật lắm.”

Một người phụ nữ đang ngồi trên xe lăn, đầu gục gặc như thể chống lại cơn buồn ngủ, những tấm chăn đã được phủ lên đôi vai gầy guộc. Khuôn mặt hằn rõ những nếp nhăn, mái tóc nâu hổ phách đã phai nhạt và điểm nhiều sợi bạc. Màu tóc của mình, Wylan nhận ra, nếu nó bị ánh nắng làm phai màu. Tự dưng cậu cảm thấy nhẹ nhõm. Người phụ nữ này rõ ràng quá lớn tuổi, không thể là mẹ cậu được. Nhưng rồi bà ngước cằm lên và mở mắt ra. Đôi mắt trong veo mầu nâu, không thay đổi, nguyên vẹn.

“Bà có khách đấy, Hendriks.”

Đôi môi của mẹ cậu mấp máy, nhưng Wylan không nghe được gì.

Bà nhìn họ với đôi mắt tinh anh. Rồi nét mặt bà thay đổi, trở nên mơ hồ và thắc mắc, khi sự chắc chắn tan biến. “Tôi có… tôi có biết các cậu không?”

Cổ họng Wylan đau nhói. Mẹ có nhận ra con nếu con vẫn mang nét mặt của con trai mẹ không? Cậu cố gắng lắc đầu.

“Chúng ta gặp… gặp nhau cách đây đã lâu,” cậu đáp. “Hồi tôi còn là một đứa trẻ.”

Bà ậm ừ và nhìn ra bãi cỏ.

Wylan tuyệt vọng quay sang Jesper. Cậu chưa sẵn sàng cho chuyện này. Mẹ cậu đã được mai táng từ lâu, đã tan thành cát bụi dưới lòng đất.

Thật nhẹ nhàng, Jesper dẫn Wylan lại gần chiếc xe lăn, đối diện với Marya. “Chúng ta có một tiếng đồng hồ trước khi phải quay về,” anh nói khẽ. “Nói chuyện với bà ấy đi.”

“Nói chuyện gì?”

“Còn nhớ những gì cậu đã nói với Kaz không? Chúng ta không biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đây. Đây là tất cả những gì ta có.” Anh đứng lên và tiến lại chỗ người y tá đang xếp lại những tuýp màu vẽ. “Thưa cô… Tôi thật xấu hổ vì chưa được biết quý danh của cô.”

Nữ y tá mỉm cười, đôi má tròn ửng đỏ như màu kẹo táo. “Betje.”

“Một cái tên quyến rũ, tương xứng với chủ nhân của nó. Ngài Smeet đã yêu cầu tôi khảo sát điều kiện phòng ốc ở nơi này. Phiền cô dẫn tôi đi một vòng được không?”

Nữ y tá ngần ngừ, mắt liếc nhìn Wylan.

“Chúng tôi sẽ không sao đâu,” Wylan cố rặn ra một câu nói với chất giọng trầm và đục quá mức đối với tai cậu. “Tôi chỉ đặt vài câu hỏi theo thủ tục. Quy trình mới mà.”

Nữ y tá nháy mắt với Jesper. “Vậy thì, tôi nghĩ chúng ta có thể đi xem nhanh một vòng.”

Wylan quan sát mẹ, tâm trí cậu giống như một bản hoà thanh của những hợp âm lạc điệu. Họ đã cắt tóc ngắn cho bà. Cậu cố hình dung bà trẻ hơn, trong chiếc áo dài bằng chất len màu đen tinh tế của một phu nhân, cổ áo có thắt dây màu trắng, những lọn tóc xoăn dày và sống động được cô hầu gái thắt bím rồi cuộn lại thành búi.

“Xin chào,” cậu gắng gượng cất tiếng.

“Cậu đến đây vì tiền của tôi à? Tôi không còn tiền đâu.” “Tôi cũng không còn,” Wylan đáp một cách yếu ớt.

Khuôn mặt bà không thân quen, nhưng có gì đó trong cái cách bà nghiêng đầu, trong dáng ngồi thẳng lưng. Như thể bà đang ngồi chơi dương cầm.

“Bà có thích âm nhạc không?” Wylan hỏi.

Bà gật đầu. “Có, nhưng ở đây ít được nghe lắm.”

Cậu rút cây sáo trong áo ra. Wylan đã đi cả ngày hôm nay với cây sáo cất nơi ngực áo như một bí mật, và nó vẫn còn ấm nhờ thân nhiệt cơ thể cậu. Cậu đã định thổi sáo trước mộ mẹ như một thằng ngốc. Chắc Kaz sẽ cười cậu ghê lắm.

Vài nốt nhạc đầu tiên khá run rẩy, nhưng rồi Wylan kiểm soát được hơi thở. Cậu tìm được giai điệu, một bài nhạc đơn giản, một trong những bài đầu tiên mà cậu học. Trong một thoáng, trông bà như thể đang cố nhớ xem mình đã từng nghe nó ở đâu. Rồi bà chỉ nhắm mắt lại và lắng nghe.

Khi cậu thổi xong, bà nói, “Thổi bài nào vui vẻ đi.”

Wylan bèn thổi một điệu dân vũ Kaelish, rồi một bài hò biển của Kerch, phù hợp với cây sáo hơn. Cậu thổi mọi bài nhớ được, ngoại trừ những bài buồn bã, sầu thảm. Bà không nói, mặc dù chốc chốc cậu lại thấy bà nhịp ngón chân theo điệu nhạc, và mấp máy môi như thể biết lời ca.

Cuối cùng, Wylan đặt cây sáo xuống đùi. “Bà ở đây bao lâu rồi?” Mẹ cậu im lặng.

Cậu nghiêng người tới trước, tìm kiếm một câu trả lời trong đôi mắt mông lung màu hạt phỉ. “Họ đã làm gì bà?”

Bà đặt một bàn tay dịu dàng lên má cậu. Lòng bàn tay của bà lạnh lẽo và khô khốc. “Họ đã làm gì cậu?” Wylan không rõ đó là một sự thách thức, hay bà chỉ lặp lại câu chữ của cậu.

Wylan cảm thấy cổ họng nghẹn ngào vì nước mắt, và cố gắng nuốt trôi chúng.

Cánh cửa phòng bật mở. “Thế nào, chuyến thăm tốt đẹp chứ?” Nữ y tá cất tiếng trong khi bước vào phòng.

Wylan vội nhét cây sáo trở vào trong áo. “Vâng,” cậu đáp. “Mọi thứ có vẻ ổn cả.”

“Hai cậu có vẻ hơi bị trẻ quá đối với loại công việc này đấy,” chị ta nói và khoe lúm đồng tiền với Jesper.

“Tôi cũng có thể nói điều tương tự với cô đấy,” anh đáp. “Nhưng cô thừa biết rồi mà, đám nhân viên mới toàn phải dính với những nhiệm vụ thấp kém nhất.”

“Các cậu sẽ sớm quay lại chứ?”

Jesper nháy mắt. “Ai mà biết được.” Anh gật đầu ra hiệu cho Wylan.

“Chúng ta cần phải bắt kịp chuyến tàu.”

“Bà chào đi chứ, Hendriks!” Nữ y tá giục.

Đôi môi của Marya mấp máy, nhưng lần này Wylan ở đủ gần để nghe thấy bà lẩm bẩm chữ gì. Van Eck.

***

Trên đường ra, nữ y tá tiếp tục nói chuyện liến thoắng với Jesper. Wylan đi phía sau hai người. Tim cậu nhói đau. Cha cậu đã làm gì mẹ cậu? Có phải bà thực sự hoá điên không? Hay ông ta đã mua chuộc để người có thẩm quyền tuyên bố điều đó? Ông ta có chuốc thuốc mẹ cậu hay không? Jesper liếc nhìn cậu một lần trong lúc nữ y tá thao thao bất tuyệt. Ánh mắt xám của anh đầy vẻ lo lắng.

Khi họ sắp ra đến cánh cửa màu xanh nhạt thì chị ta thốt lên, “Các cậu có muốn xem tranh vẽ của bà ấy không?” Wylan khựng lại. Cậu gật đầu.

“Tôi nghĩ đó sẽ là điều thú vị nhất,” Jesper đáp.

Người phụ nữ dẫn họ quay ngược lại một đoạn rồi mở cánh cửa của một tủ đồ.

Wylan cảm thấy đầu gối mình nhũn ra, và phải vịn vào tường để giữ thăng bằng. Nữ y tá không nhận ra điều đó - chị ta cứ tiếp tục nói không ngừng. “Màu vẽ rất đắt, tất nhiên rồi, nhưng có vẻ chúng làm bà ấy hạnh phúc. Đây chỉ là mớ tranh gần đây nhất thôi. Cứ mỗi sáu tháng chúng tôi lại phải vứt bớt đi. Không có đủ chỗ để cất chúng nữa.”

Wylan chỉ muốn hét lên. Tủ đồ lèn chặt những bức tranh phong cảnh, những góc khác nhau của khuôn viên bệnh viện, mặt hồ với ánh nắng và bóng tối, và chủ thể xuất hiện nhiều lần trên những bức tranh chính là khuôn mặt của một cậu bé với những lọn tóc hung đỏ cùng đôi mắt xanh nhạt.

Hẳn là Wylan đã phát ra âm thanh nào đó, vì nữ y tá quay lại nhìn cậu. “Ôi trời,” chị ta nói với Jesper, “bạn của cậu lại tái mét kìa. Có cần thuốc kích thích không?”

“Không, không,” Jesper đáp và quàng tay quanh người Wylan. “Nhưng chúng tôi thật sự cần phải lên đường. Chuyến thăm viếng cực kì tốt đẹp.”

Wylan không nhớ được gì trong lúc lần theo lối đi giữa hai hàng thuỷ tùng, tìm lại hai bộ áo choàng và mũ giấu sau gốc gây ở gần đường cái.

Khi đã đi được nửa đoạn đường tối bến thuyền, cậu mới có thể cất tiếng. “Bà ấy biết ông ta đã làm gì với mình. Bà ấy biết ông ta không có quyền lấy đi tiền bạc và cuộc đời của bà.” Van Eck, mẹ cậu đã nói như thế. Bà không phải là Marya Hendriks, mà là Marya Van Eck, một người vợ, người mẹ đã bị đánh cắp tên họ và gia sản. “Còn nhớ khi tôi nói ông ta không phải là một con quỷ không?”

Chân Wylan mềm nhũn ra, khiến cậu ngồi thịch xuống giữa đường, nhưng cậu không buồn quan tâm đến chuyện đó, vì những giọt nước mắt đang dâng lên, và cậu không tài nào ngăn chúng lại được. Chúng ùa vào lồng ngực cậu và trở thành những tiếng nức nở giật cục, xấu xí. Cậu không thích Jesper nhìn thấy mình khóc, nhưng không thể làm gì được với những giọt nước mắt, với tất cả chuyện này. Cậu vùi mặt vào hai cánh tay, ôm đầu như thể nếu ước muốn điều đó đủ mạnh, cậu sẽ có thể biến đi.

Cậu cảm thấy Jesper lay nhẹ cánh tay mình.

“Ổn rồi,” anh nói.

“Không, không ổn đâu.”

“Cậu nói đúng. Chuyện này thật thối tha, và tôi muốn trói cha cậu giữa một mảnh ruộng khô cằn, bỏ mặc lão ta cho bầy kền kền xử lí.”

Wylan lắc đầu. “Anh không hiểu đâu. Là do tôi. Tôi đã gây ra chuyện này. Ông ta muốn một người vợ mới. Ông ta muốn một người nối dõi.

Một người nối dõi thực sự, không phải một thằng khờ đến đánh vần cái tên mình cũng vất vả.” Cậu tám tuổi lúc mẹ bị đưa đi. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó là lúc cậu bị cha từ bỏ.

“Này,” Jesper lay nhẹ Wylan. “Này. Cha cậu có rất nhiều lựa chọn khác khi phát hiện ra cậu không thể đọc chữ. Ông ta có thể tuyên bố rằng cậu bị mù hoặc có vấn đề về mắt. Hoặc thậm chí ông ta chỉ cần hạnh phúc với việc có một cậu con trai thiên tài.”

“Tôi không phải thiên tài.”

“Cậu ngốc nghếch nhiều chỗ lắm, Wylan à, nhưng cậu không đần độn. Và nếu như tôi nghe thấy cậu tự gọi mình là thằng khờ một lần nữa, tôi sẽ nói với Matthias rằng cậu đã tìm cách hôn Nina. Với lưỡi.”

Wylan đưa ống tay áo chùi mũi. “Anh ta sẽ không bao giờ tin chuyện đó.”

“Vậy thì tôi sẽ nói với Nina rằng cậu tìm cách hôn Matthias. Với lưỡi.” Anh thở dài. “Nghe này, Wylan. Người bình thường không ai nhốt vợ vào nhà thương điên như thế cả. Họ không tước quyền thừa kế của con trai chỉ vì chúng không được như họ mong muốn. Cậu nghĩ bố tôi muốn có thứ rác rưởi giống như tôi lắm sao? Cậu không gây ra chuyện này. Nó xảy ra chỉ vì cha cậu là một kẻ bệnh hoạn trong bộ đồ sang trọng.”

Wylan ấn cạnh bàn tay vào đôi mắt sưng húp. “Tất cả những gì anh nói đều đúng, nhưng chúng không làm tôi cảm thấy khá hơn một chút nào.”

Jesper lại huých nhẹ vào vai Wylan. “Thế chuyện này thì sao? Kaz sẽ phá tan tành cuộc đời của cha cậu.”

Wylan định nói chuyện đó cũng vô ích, nhưng cậu ngần ngừ. Kaz Brekker là sinh vật tàn bạo nhất, hận thù nhiều nhất mà cậu từng gặp, và anh ta đã thề sẽ tiêu diệt Jan Van Eck. Ý nghĩ đó giống như dòng nước lạnh xối thẳng vào cảm giác vô dụng đầy nhục nhã mà cậu đã mang trong lòng từ rất lâu. Không gì có thể chỉnh sửa được chuyện này. Nhưng Kaz có thể phá nát cuộc đời của cha cậu. Và cậu sẽ giàu. Cậu sẽ có thể đưa mẹ ra khỏi chỗ này. Họ sẽ đi tới nơi nào đó ấm áp. Cậu có thể đỡ mẹ ngồi vào trước cây dương cầm, để mẹ chơi đàn, đưa mẹ tới nơi nào đó đầy những màu sắc tươi sáng và những âm thanh đẹp đẽ. Họ có thể đi Novyi Zem. Họ có thể đi bất kì đâu. Wylan ngẩng đầu lên và lau nước mắt. “Thật ra, nó giúp tôi khá nhiều đấy.”

Jesper nhoẻn cười. “Biết ngay mà. Nhưng nếu chúng ta không lên kịp chuyến tàu quay về Ketterdam thì sẽ không có đòn trừng phạt nào dành cho ông ta đâu.”

Wylan đứng dậy. Bỗng dưng cậu cảm thấy hăm hở muốn quay về, để giúp Kaz thực hiện kế hoạch, cậu đã đi tới Lâu Đài Băng một cách bất đắc dĩ. Cậu đã giúp Kaz một cách miễn cưỡng. Bởi vì từ đầu đến cuối, cậu vẫn tin rằng mình xứng đáng bị cha ruột khinh rẻ, và giờ đây cậu phải thừa nhận rằng ở đâu đó, trong một nơi sâu kín, cậu hi vọng vẫn có cách để giành lại sự chiếu cố của ông ta. Phải, cha cậu có thể giữ lấy nó và chống mắt lên xem nó sẽ mang lại cái gì cho ông ta khi Kaz Brekker xong việc.

“Đi thôi,” cậu nói. “Chúng ta đi vét sạch tiền của cha tôi nào.”

“Đó chẳng phải là tiền của cậu sao?”

“Ờ, vậy thì ta hãy đi cướp lại nó nào.”

Họ co chân chạy. “Tôi thích thế này,” Jesper nói. “Rất tốt cho gan!”

15
MATTHIAS

Một đám đông đã tụ tập lại bên ngoài tửu quán, bị thu hút bởi tiếng đổ vỡ và huyên náo. Zoya hạ Nina và Matthias xuống sàn nhà một cách không được nhẹ tay cho lắm, rồi cả ba nhanh chóng rời khỏi quán bằng cửa hậu, hộ tống bởi một nhóm nhỏ đàn ông vũ trang. Những người còn lại trong quán nghĩ ra mọi lời giải thích khả dĩ cho việc các mẩu xương bay qua khu chợ và phá nát cửa sổ quán. Matthias không dám chắc anh hiểu được sự việc. Không lẽ Nina có thể điều khiển mớ thành tích giả đó? Hay đó là một chuyện hoàn toàn khác? Và tại sao họ bị tấn công?

Anh tưởng họ sẽ chui ra một con hẻm, nhưng thay vào đó, mọi người lần theo những bậc cầu thang trông có vẻ cổ kính để đi xuống một đường hầm tối om. Con kênh cũ, anh nhận ra khi họ leo lên một con thuyền lướt đi êm ru trong bóng tối. Con kênh đã không bị lấp hoàn toàn khi người ta làm đường phía bên trên.

Họ đang di chuyển ngay dưới trục đường chính chạy ngang qua toà đại sứ.

Giây lát sau, Zoya đã dẫn họ leo lên một cầu thang sắt nhỏ hẹp để vào một gian phòng có trần thấp tới nỗi Matthias phải cúi gập người.

Nina nói gì đó với Zoya bằng tiếng Ravka rồi dịch câu trả lời của Zoya cho anh nghe. “Đây là một bán phòng. Khi toà đại sứ được xây dựng, họ đã tạo ra một sàn giả nằm cách sàn nhà nguyên thuỷ một mét hai. Vì nó được ẩn vào phần móng nên người ta gần như không thể biết được có một căn phòng dưới chân mình.”

“Ở đây không gian chỉ vừa nhỉnh hơn mức cần thiết để trườn bò.”

“Đúng vậy, nhưng các toà nhà của Ketterdam không có tầng hầm, do vậy sẽ không có ai nghĩ tới việc mò xuống dưới này.”

Có vẻ như đây là một sự cẩn trọng quá mức ở một nơi đáng lẽ mang tính trung lập. Nhưng có thể người Ravka buộc phải có những biện pháp để bảo vệ công dân. Vì những người như mình. Matthias từng là một thợ săn, một sát thủ, và từng tự hào vì làm tốt công việc đó.

Ít phút sau, họ bắt gặp một nhóm người đang túm tụm ở nơi mà Matthias nghĩ là vách tường phía đông, nếu sự định hướng của anh còn chính xác.

“Chúng ta đang ở bên dưới khu vườn của toà đại sứ,” Nina cho biết.

Anh gật đầu. Đây là nơi an toàn nhất để che giấu một nhóm người nếu không muốn bị xầm xì bàn tán khắp toà đại sứ. Có khoảng mười lăm người, đủ mọi lứa tuổi và màu da. Hình như họ có rất ít điểm chung ngoại trừ nét mặt lo lắng, nhưng Matthias biết tất cả bọn họ đều là Grisha. Họ không cần được Nina cảnh báo để đi tìm nơi ẩn nấp.

“Ít vậy thôi sao?” Matthias thắc mắc. Theo ước lượng của Nina thì tại Ketterdam có gần ba mươi Grisha.

“Có thể những người khác đã tự trốn đi, hoặc đang ẩn mình đâu đó.”

Hoặc có thể họ đã bị bắt. Nếu Nina không muốn nói ra khả năng đó thì Matthias cũng không.

Zoya dẫn họ qua một vòm cửa để tới một khu vực mà Matthias có thể đứng thẳng người trong sự nhẹ nhõm. Căn cứ theo hình dạng tròn của gian phòng, anh đoán họ đang ở bên dưới một bể chứa nước giả hoặc một nhà hóng mát trong vườn. Sự nhẹ nhõm của anh tan biến khi một trong những người đàn ông vũ trang đi cùng Zoya giơ ra một cặp còng, và Zoya chỉ tay về phía anh.

Ngay lập tức, Nina bước tới chắn trước mặt Matthias, cô và Zoya bắt đầu tranh cãi bằng những lời thì thầm quyết liệt.

Matthias thừa biết anh đang phải đối mặt với ai. Zoya Nazyalensky là một trong những phù thuỷ hùng mạnh nhất ở Ravka. Chị là một Tiết Khí Sư huyền thoại, một chiến binh đã từng phục vụ Hắc Y, sau đó là Tiết Dương Sư, và được phong là một thành viên trong Tam Đại Grisha của vua Nikolai. Giờ đây, sau khi tận mắt trải nghiệm năng lực của Zoya, anh không ngạc nhiên trước sự thăng tiến nhanh chóng của chị.

Hai người cãi cọ hoàn toàn bằng tiếng Ravka, và Matthias không hiểu một từ nào, nhưng sự khinh miệt trong giọng điệu của Zoya rất rõ ràng, cũng như những cử chỉ mạnh bạo mà chị ta dành cho anh. Matthias đã chuẩn bị để gầm lên rằng nếu phù thuỷ bão tố nhất quyết muốn còng tay anh thì chị ta có thể thử tự mình làm điều đó và đón nhận chuyện sẽ xảy ra, nhưng đúng lúc đó Nina giơ hai tay lên.

“Thôi,” cô nói bằng tiếng Kerch. “Matthias vẫn được tự do, và chúng ta tiếp tục nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ mọi người đều hiểu được. Anh ấy có quyền biết chuyện gì đang diễn ra.”

Đôi mắt Zoya nheo lại. Chị nhìn từ Matthias sang Nina, và rồi, với chất giọng Kerch nặng âm sắc, chị nói, “Nina Zenik, em vẫn là một binh sĩ của Hạ Quân, và tôi vẫn là chỉ huy của em. Em đang bất tuân thượng lệnh.”

“Vậy thì chỉ việc xích luôn cả em.”

“Đừng tưởng tôi không nghĩ tới khả năng đó.”

“Nina!” Tiếng hét vang lên từ một cô gái tóc đỏ vừa xuất hiện trong gian phòng tròn.

“Genya!” Nina thốt lên. Nhưng Matthias không cần phải được giới thiệu về nhân vật này. Khuôn mặt chị ta chằng chịt sẹo, một bên mắt được bịt bằng miếng lụa đỏ thêu hình mặt trời vàng toả ánh sáng. Genya Safin người Thợ May huyền thoại, giáo viên trước đây của Nina, và cũng là một thành viên khác của Tam Đại Grisha. Khi Matthias nhìn họ ôm nhau, anh cảm thấy không ổn. Anh tưởng đâu mình sẽ gặp một nhóm Grisha vô danh, những người phải tị nạn ở Ketterdam, bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm. Những người như Nina - chứ không phải người thuộc hàng ngũ các Grisha cao cấp của Ravka. Bản năng kêu gọi anh chiến đấu hoặc bỏ chạy khỏi nơi này nhanh nhất có thể, thay vì đứng trơ ra như một anh chàng hôn phu đi gặp phụ huynh của người yêu. Thế mà ở đây có cả những người bạn, người thầy của Nina. Đó là kẻ thù, một giọng nói vang lên trong đầu anh, và anh không chắc đó là giọng của chỉ huy Brum hay của chính mình.

Genya lùi lại, giơ tay vuốt một lọn tóc vương trên khuôn mặt Nina để quan sát cô kĩ hơn. “Nina, sao có thể có chuyện này được? Lần cuối cùng Zoya gặp em…”

“Thì con bé đã làm mình làm mẩy,” Zoya nói, “và vùng vằng rời khỏi khu trại với sự cẩn trọng của một con tuần lộc ương ngạnh.”

Trước sự ngạc nhiên của Matthias, Nina chỉ nhăn mặt như một đứa trẻ bị quở mắng. Hình như anh chưa bao giờ thấy cô xấu hổ trước đây.

“Chúng tôi tưởng em đã chết,” Genya thốt lên.

“Trông cũng quá bằng chết còn gì.”

“Trông con bé ổn mà.”

“Em đã biến mất,” Zoya rít lên với Nina. “Khi chúng tôi biết có người Fjerda ở gần đó, chúng tôi đã lo sợ điều tồi tệ nhất.

“Và nó đã xảy ra,” Nina đáp. “Ngoài ra còn nhiều điều tồi tệ khác nữa.” Cô nắm lấy bàn tay của Matthias. Nhưng giờ bọn em đã ở đây.”

Zoya lừ mắt nhìn hai bàn tay đang nắm của họ và khoanh tay lại. “Tôi hiểu rồi.”

Genya nhướn một bên lông mày nâu đỏ. “Ờ, nếu cậu ta là điều tồi tệ nhất thì…”

“Hai người làm gì ở đây?” Zoya tra hỏi. “Có phải em và gã Fjerda… đồng loã của em đang tìm cách rời khỏi Ketterdam?”

“Nếu vậy thì sao? Tại sao mọi người lại phục kích bọn em?”

“Những cuộc tấn công nhằm vào Grisha đang diễn ra khắp trong thành. Chúng tôi không biết hai người là ai, có thông đồng với bọn Shu hay không, chỉ biết hai người đã nói ra câu mật khẩu với người bán rong. Hiện giờ chúng tôi luôn cài sẵn lính tại tửu quán. Bất cứ ai đi tìm kiếm Grisha cũng là một mối đe doạ tiềm tàng.”

Căn cứ theo những gì Matthias đã thấy nơi các chiến binh người Shu, sự lo lắng của họ là có cơ sở.

“Chúng em đến để giúp đỡ,” Nina nói.

“Kiểu nào? Em không biết thế lực nào đang hoành hành ở đây đâu, Nina. Người Shu đã phát triển một loại thuốc…”

“Jurda parem.”

“Em biết gì biết về parem?”

Nina siết chặt bàn tay của Matthias, cô hít một hơi thật sâu.

“Em đã thấy tác dụng của nó. Trên chính… bản thân em.”

Con mắt độc nhất màu hổ phách của Genya mở to. “Ôi không, Nina. Em không làm điều đó.”

“Dĩ nhiên con bé đã làm,” Zoya nói. “Luôn luôn như thế! Nó lao vào rắc rối như thể đó là một bồn nước ấm. Có phải vì thế mà trông em như xác chết biết đi không? Sao em có thể liều mạng như vậy, Nina?”

“Trông em không giống như xác chết biết đi,” Nina phản đối, nhưng cô một lần nữa có vẻ mặt của một đứa trẻ bị phạt. Matthias không thể chịu nổi chuyện này.

“Cô ấy đã làm thế để cứu mạng chúng tôi,” anh lên tiếng. “Cô ấy đã làm dù biết điều đó đồng nghĩa với đưa mình vào sự đày đoạ, thậm chí là cái chết.”

“Khinh suất,” Zoya tuyên bố.

“Zoya,” Genya nói. “Chúng ta chưa biết hoàn cảnh nào…”

“Chúng ta biết con bé đã mất tích gần một năm ròng.” Chị trỏ một ngón tay buộc tội vào Nina. “Và giờ thì nó xuất hiện với một gã Fjerda theo sau, dềnh dàng như một chiến binh và sử dụng những kĩ thuật chiến đấu của drüskelle.” Zoya thò tay vào trong túi áo và rút ra một nắm xương. “Con bé đã tấn công người của chúng ta, bằng những mảnh xương này, Genya. Cô có từng nghe tới điều gì như thế này chưa?”

Genya quan sát chỗ xương, trước khi nhìn Nina. “Chuyện này là thật à?”

Nina mím môi. “Có lẽ thế?”

“Có lẽ,” Zoya lặp lại. “Thế mà cô còn bảo chúng ta nên tin tưởng con bé?”

Genya tỏ ra nao núng, nhưng vẫn đáp, “Tôi chỉ nói là chúng ta nên lắng nghe.”

“Được thôi,” Zoya nói. “Tôi đang dỏng tai và mở lòng đợi nghe đây. Giải khuây cho tôi đi, Nina Zenik.”

Matthias biết việc đối mặt với những người dẫn dắt mà mình thần tượng là như thế nào, trở lại làm một học sinh lo lắng muốn làm người khác hài lòng là như thế nào. Anh quay sang Nina và nói bằng tiếng Fjerda, “Đừng để họ làm em sợ. Em không còn là cô gái trước đây. Em không phải là một binh sĩ chỉ biết nghe lệnh.”

“Vậy sao em vẫn cảm thấy như chỉ muốn chui vào một cái góc nào đó để khóc?”

“Đây là một gian phòng tròn. Chẳng có cái góc nào cho em đâu.”

“Matthias…”

“Hãy nhớ những gì chúng ta đã trải qua. Hãy nhớ chúng ta tới đây vì mục đích gì.”

“Tôi tưởng chúng ta nói với nhau bằng tiếng Kerch,” Zoya lên tiếng.

Nina một lần nữa siết chặt bàn tay Matthias, rồi hếch cằm lên và nói, “Em đã bị các drüskelle bắt. Matthias đã giúp em trốn thoát. Nhưng anh ấy bị người Kerch bắt giữ. Em giúp anh ấy vượt ngục. Rồi em bị Jarl Brum bắt và Matthias giúp em thoát thân.” Matthias cảm thấy không thoải mái cho lắm trước việc cả hai người cứ thay phiên nhau bị bắt giữ.

“Jarl Brum sao?” Zoya kinh hãi hỏi lại.

Nina thở dài. “Năm vừa qua đúng là khổ ải. Em thề là em sẽ giải thích mọi chuyện với chị, và nếu chị quyết định rằng em nên bị cùm chân tay thả xuống sông Sokol thì em sẽ chấp thuận điều đó không một lời than vãn. Nhưng đêm nay bọn em đến đây vì em đã chứng kiến cuộc tấn công của bọn Kherguud ở Tây Stave. Em muốn giúp các Grisha rời khỏi Ketterdam trước khi bị người Shu tìm bắt.”

Zoya thấp hơn Nina, nhưng vẫn có thể nghênh mặt với cô khi đáp, “Thế em định giúp bằng cách nào?”

“Bọn em có một con tàu.”

Chuyện đó chưa hoàn toàn là sự thật, nhưng Matthias sẽ không bác bỏ nó.

Zoya phẩy tay. “Chúng tôi cũng có tàu. Nó bị kẹt ở ngoài khơi, cách bờ biển vài dặm. Hải cảng đã bị người Kerch và Hội đồng Thuỷ triều phong toả. Không một con tàu nước ngoài nào được ra vào cảng nếu không có sự cho phép của Hội đồng Thương buôn.”

Vậy là Kaz đã nói đúng. Van Eck đã dùng toàn bộ sức ảnh hưởng của mình để bảo đảm Kaz không thể đưa được Kuwei ra khỏi Ketterdam.

“Vâng,” Nina đáp. “Nhưng con tàu của bọn em thuộc về một thành viên của Hội đồng Thương buôn.”

Zoya và Genya đưa mắt nhìn nhau.

“Được rồi, Zenik,” Zoya lên tiếng. “Giờ thì tôi nghe em đây.”

***

Nina cung cấp một số chi tiết cho Zoya và Genya, nhưng Matthias nhận thấy cô không nhắc tới Kaz và giữ cho Lâu Đài Băng nằm ngoài câu chuyện.

Khi họ đi lên trên để thảo luận kế hoạch, Nina và Matthias bị bỏ lại cùng với hai lính canh có vũ trang tại lối vào của bể nước.

Matthias thì thầm bằng tiếng Fjerda, “Nếu các gián điệp Ravka làm ăn đàng hoàng, bạn bè của em sẽ biết chúng ta là những người đã giải cứu Kuwei.”

“Đừng có thì thào,” Nina đáp lại cùng bằng tiếng Fjerda. “Như thế sẽ chỉ làm lính canh nghi ngờ. Sau này em sẽ kể hết mọi chuyện với Zoya và Genya, nhưng anh có nhớ chúng ta đã muốn thủ tiêu cậu ta đến thế nào không? Em không rõ Zoya có cùng lựa chọn như vậy hay không. Chị ấy không cần phải biết người lên thuyền là ai cho đến khi nó cập cảng ở Os Kervo.”

An toàn trên đất Ravka. Mấy chữ đó làm ruột gan Matthias quặn lại. Anh rất muốn đưa Nina rời khỏi Ketterdam, nhưng viễn cảnh đi tới Ravka có vẻ không an toàn đối với anh.

Chắc Nina cũng cảm nhận được sự không thoải mái của Matthias, vì cô nói ngay, “Ravka là nơi an toàn nhất đối với Kuwei. Cậu ta cần sự bảo vệ của chúng em.”

“Vậy sự bảo vệ của Zoya Nazyalensky là như thế nào?”

“Chị ấy không tệ như vậy đâu.” Matthias đưa ánh mắt hoang mang nhìn Nina. “Thật ra, Zoya rất dữ dằn, nhưng chị ấy và chị Genya đã chứng kiến nhiều thương vong trong cuộc nội chiến. Em không tin họ muốn máu đổ thêm nữa.”

Matthias thầm mong đó là sự thật, nhưng ngay cả như thế anh cũng không chắc là nó có ý nghĩa. “Em còn nhớ những điều đã nói với anh chứ, Nina? Em ước gì vua Nikolai tiến quân lên phía bắc và quét sạch mọi thứ trên đường.”

“Lúc đó em nóng giận…”

“Em có quyền nóng giận. Tất cả chúng ta đều như vậy. Vấn đề là ở chỗ đó. Brum sẽ không dừng lại. Các drüskelle sẽ không dừng lại. Họ coi sứ mạng thần thánh của mình là tận diệt bọn em.” Đó cũng từng là sứ mạng của anh, và anh vẫn còn cảm thấy sự hoài nghi, sự thôi thúc của lòng hận thù. Anh tự nguyền rủa bản thân vì điều đó.

“Vậy thì chúng ta sẽ tìm cách làm họ thay đổi suy nghĩ. Tất cả bọn họ.” Cô nhìn anh một lúc. “Hôm nay anh sử dụng bom khói. Anh đã bảo Wylan chế tạo nó à?”

“Đúng,” Mattthias thừa nhận.

“Tại sao?”

Anh biết cô sẽ không thích nghe điều này. “Anh không rõ parem ảnh hưởng tới năng lực của em ở mức độ nào. Vì anh không cho em dùng thuốc, anh cần phải đủ khả năng bảo vệ em mà không làm em đau.”

“Và anh đã mang nó theo đề phòng trường hợp chúng ta gặp rắc rối?”

“Phải.”

“Với các Grisha.”

Anh gật đầu, chờ đợi lời mắng mỏ của cô. Nhưng tất cả những gì cô làm chỉ là nhìn anh với vẻ mặt trầm ngâm. Cô tiến lại gần. Matthias ngượng nghịu liếc nhìn các lính canh đang đứng phía bên kia cửa.

“Kệ họ đi,” cô nói. “Tại sao anh không hôn em, Matthias?”

“Đây không phải là lúc…”

“Có phải vì bản chất của em không? Có phải vì anh vẫn e sợ em không?”

“Không.”

Cô ngừng lại, và anh có thể thấy cô lúng túng với điều muốn nói ra. “Có phải vì cách cư xử của em trên tàu? Cách cư xử của em đêm hôm nọ… khi em cố bắt anh đưa nốt chỗ parem còn lại?”

“Sao em lại nghĩ như thế?”

“Anh luôn bảo em không biết xấu hổ là gì. Em nghĩ là… em xấu hổ.” Cô nhún vai. “Nó giống như mặc một chiếc áo không vừa với mình.”

“Nina, anh đã thề với em.”

“Nhưng…”

“Kẻ thù của em cũng là kẻ thù của anh, và anh sẽ cùng em chiến đấu chống lại mọi địch thủ, kể cả thứ ma dược đó.”

Nina lắc đầu như thể Matthias đang nói linh tinh. “Em không muốn anh ở bên em vì lời thề thốt đó, hoặc bởi vì anh cho rằng em cần anh bảo vệ, hoặc bởi vì anh nghĩ rằng anh nợ em một món nợ xương máu ngu ngốc nào đó.”

“Nina à…’’Anh nói, rồi khựng lại. “Nina, anh ở bên em vì em cho phép anh làm điều đó. Không có vinh dự nào lớn hơn việc được ở bên em.”

“Danh dự. Trách nhiệm. Em hiểu rồi.”

Matthias có thể chịu được tính khí nóng nảy của cô, nhưng sự thất vọng thì không. Anh chỉ biết thứ ngôn ngữ của chiến trận. Anh không có vốn từ cho chuyện này. “Việc gặp em đúng là một thảm hoạ.”

Cô nhướn mày. “Cảm ơn anh.”

Djel ơi, anh dở chuyện này khủng khiếp. Anh luống cuống nói tiếp, cố gắng làm cô hiểu. “Nhưng anh biết ơn thảm hoạ đó mỗi ngày. Anh cần một biến cố để lôi anh ra khỏi cuộc sống từng có. Em là một cơn địa chấn, một trận lở đất.”

“Em…” Cô chống nạnh và nói, “là một bông hoa mong manh.”

“Em không phải là một bông hoa, em là tất cả những đoá hoa đồng loạt

nở bừng trong khu rừng. Em là một ngọn sóng triều. Em là một đàn thú chạy loạn. Em thật choáng ngợp.”

“Thế anh thích cái gì?” Cô hỏi lại, mắt long lanh, một chút run rẩy xuất hiện trong giọng nói. “Một cô nàng Fjerda ăn mặc kín cổng cao tường sẵn sàng trầm mình trong nước lạnh mỗi khi quá háo hức một chuyện gì đó sao?”

“Đó không phải là ý anh muốn nói!”

Nina nhích lại gần Matthias. Một lần nữa, anh liếc mắt nhìn đám lính canh. Họ đang quay lưng lại, nhưng Matthias biết họ vẫn lắng nghe, cho dù anh với Nina đang nói chuyện bằng thứ ngôn ngữ nào.

“Anh sợ cái gì?” Cô thách thức. “Đừng có nhìn họ, Matthias. Nhìn em đây này.”

Và anh nhìn. Thật khó mà không nhìn cô. Anh thích thấy cô trong trang phục Fjerda, với chiếc áo khoác len ngắn và tà váy rộng. Cặp mắt màu lục của cô rực sáng, má cô ửng hồng, đôi môi hơi hé mở. Thật dễ dàng hình dung anh quỳ gối trước cô như một người sám hối, để bàn tay lướt nhẹ trên bắp chân trắng nõn, vén tà váy lên cao quá đầu gối, tới bắp đùi nóng ấm của cô. Và điều tệ hại nhất là anh biết cô sẽ cảm thấy khoan khoái như thế nào. Mọi tế bào của anh vẫn còn nhớ sự tiếp xúc với cơ thể cô vào cái đêm đầu tiên ở trại săn cá voi. “Anh… Không có điều gì anh thèm muốn hơn. Không có gì anh thèm muốn hơn là được choáng ngợp bởi em.”

“Nhưng anh lại không muốn hôn em?”

Anh hít vào thật chậm, cố gắng sắp xếp các suy nghĩ của mình. Chuyện này thật sai trái.

“Ở Fjerda…’’Anh lên tiếng.

“Chúng ta không phải đang ở Fjerda.”

Anh cần phải làm cho cô hiểu. “Ở Fjerda, anh sẽ phải xin phép bố mẹ em để được đi chơi với em.”

“Em không gặp bố mẹ từ hồi còn là một đứa trẻ.”

“Chúng ta sẽ bị kèm chặt. Anh sẽ phải dùng bữa tối với gia đình em ít nhất ba lần trước khi chúng ta được phép ở một mình với nhau.”

“Hiện giờ chúng ta đang ở một mình với nhau, Matthias.”

“Anh sẽ phải tặng quà cho em.”

Nina nghiêng đầu. “Anh nói tiếp đi.”

“Những đoá hồng đông, nếu anh đủ tiền mua, một chiếc lược bạc để em chải tóc.”

“Em không cần những cái đó.”

“Bánh táo với lớp kem ngọt.”

“Em tưởng drüskelle các anh không ăn đồ ngọt?” “Tất cả là để cho em,” Matthias đáp.

“Em đang lắng nghe anh đây.”

“Nụ hôn đầu tiên của chúng ta sẽ phải diễn ra trong một khu rừng tràn ngập ánh nắng, hoặc dưới một bầu trời sao sau một điệu dân vũ, chứ không thể trong một nhà mồ, hay một cái hầm có lính canh ngoài cửa.”

“Để em diễn xuôi lại như thế này nhé. Anh không hôn em, bởi vì bối cảnh không đủ lãng mạn?”

“Chuyện này không phải là vì sự lãng mạn. Một nụ hôn nghiêm chỉnh, một lời tỏ tình nghiêm túc. Những chuyện đó nên được thực hiện đúng cách.”

“Với những tên trộm lọc lõi sao?” Khoé miệng xinh đẹp của cô cong lên và trong một thoáng Matthias sợ cô sẽ cười anh, nhưng cô chỉ lắc đầu và nhích lại gần hơn. Cơ thể cô chỉ cách anh vừa vặn một tầm hơi thở. Nhu cầu xoá bỏ khoảng cách mỏng manh đó thật điên rồ.

“Ngày anh đến nhà em lần đầu để được làm cái trò tìm hiểu nghiêm túc này, em sẽ lùa anh vào góc bếp,” cô nói. “Nhưng anh hãy kể nhiều hơn về bọn con gái Fjerda đi.”

“Họ nói chuyện nhỏ nhẹ lắm. Họ không giở giọng tán tỉnh với mọi người đàn ông mình gặp.”

“Em còn tán cả phụ nữ ấy chứ.”

“Anh nghĩ em sẵn sàng cưa cẩm một cây chà là nếu nó làm em chú ý.”

“Nếu em làm thế, anh có thể đánh cược nó sẽ ưỡn thẳng và nghe lời. Anh ghen đấy à?”

“Luôn luôn.”

“Vậy cũng mừng. Anh đang nhìn cái gì đấy, Matthias?” Những âm trầm trong giọng nói của cô xuyên thẳng vào trong lòng anh.

Anh hướng mắt lên trần nhà, khẽ thì thầm đáp, “Không gì cả.”

“Matthias, anh đang cầu nguyện đấy à?”

“Có lẽ.”

“Để tự kiềm chế sao?” Cô ngọt ngào hỏi lại.

“Em đúng là phù thuỷ.”

“Em không mẫu mực.”

“Anh biết điều đó.” Biết một cách khổ sở, đau đáu, mê muội.

“Và em rất tiếc phải thông báo với anh, anh cũng chẳng chính trực gì đâu.”

Ánh mắt anh chiếu xuống cô. “Anh…”

“Anh đã phá vỡ bao nhiêu quy tắc kể từ khi gặp em rồi? Bao nhiêu luật lệ? Chúng chưa phải là cuối cùng. Sẽ không có gì khuôn phép nơi chúng ta,” cô nói. Cô đưa khuôn mặt lại gần anh. Gần đến nỗi họ gần như chạm nhau. “Trong cách chúng ta gặp nhau. Cuộc sống chúng ta lựa chọn, và cách chúng ta hôn nhau.”

Cô nhón gót, và dễ dàng làm sao, miệng cô áp vào môi anh. Nó chẳng phải một nụ hôn ra trò - chỉ là cú chạm nhanh và bất ngờ của đôi môi.

Trước khi cô kịp nghĩ đến việc dịch ra xa, anh đã ôm chầm lấy cô. Anh biết có lẽ mình đang làm sai mọi chuyện, nhưng anh không còn đầu óc nào để lo lắng điều đó, bởi vì cô đang ở trong vòng tay anh, đôi môi cô hé mở, hai bàn tay cô vít lấy gáy anh, và Djel lòng lành, lưỡi cô luồn vào trong miệng anh. Chẳng trách mà người Fjerda thận trọng đến thế về chuyện trai gái. Khi hôn Nina, cảm nhận những chiếc răng của cô ép vào môi anh, cơ thể cô nép sát vào anh, nghe tiếng rên khe khẽ mà cô phát ra trong cổ họng, anh đâu còn thiết làm điều gì khác nữa? Còn thiết đến ai nữa?

“Matthias,” Nina nói trong hơi thở đứt quãng, và họ lại hôn nhau lần nữa.

Cô ngọt ngào như cơn mưa đầu mùa, tươi tắn như những đồng cỏ mới mọc. Bàn tay anh ôm lấy lưng cô, lần theo thân hình đường cong sống lưng và sự nảy nở đầy đặn của cặp hông.

“Matthias,” cô nói dứt khoát hơn và gỡ mình ra.

Anh mở mắt, đoán chắc mình vừa phạm một sai lầm khủng khiếp nào đó. Nina đang cắn môi dưới - nó đỏ và sưng phồng lên. Nhưng cô mỉm cười, và đôi mắt cô ngời sáng.

“Anh làm gì sai à?”

“Không hề, chàng babink đáng yêu à, nhưng…”

Zoya hắng giọng. “Mừng là hai đứa tìm được cách giết thời gian trong khi chờ đợi.”

Sự kinh tởm lộ rõ trên khuôn mặt chị, nhưng Genya đứng ngay bên cạnh lại trông như sắp nổ tung vì vui sướng.

“Có lẽ anh nên hạ em xuống cái đã,” Nina đề xuất.

Thực tại ập vào đầu Matthias - những ánh mắt cảm thông của đám lính canh, Zoya và Genya trên ngưỡng cửa, và việc trong lúc anh hôn Nina với tất cả sự khao khát của cả năm trời dồn lại, anh đã nhấc bổng cô lên khỏi mặt đất.

Cảm giác xấu hổ ngập tràn trong anh. Người Fjerda nào lại đi làm một chuyện như thế này kia chứ? Thật nhẹ nhàng, anh nới lỏng vòng tay quanh cặp đùi tuyệt mĩ của Nina và để cô tuột xuống sàn.

“Không biết xấu hổ,” Nina thì thầm, và anh cảm thấy má mình ửng đỏ.

Zoya đảo mắt. “Chúng tôi phải thương thảo với một cặp thiếu niên yêu đương thắm thiết thế này đây.”

Matthias lại cảm thấy khuôn mặt anh nóng ran, nhưng Nina chỉ chỉnh lại bộ tóc giả và đáp, “Vậy là chị đã chấp nhận để chúng em hỗ trợ?”

Họ mất một khoảng thời gian ngắn để bàn thảo về công tác hậu cần của đêm tới. Vì việc quay lại tửu quán sẽ không an toàn cho Nina, một khi cô đã có thông tin về địa điểm và thời điểm lên con tàu của Van Eck, cô sẽ phải gửi một lời nhắn đến toà đại sứ - thông qua Inej, vì Bóng Ma là người có thể đến và đi mà không bị nhìn thấy. Nhóm người tị nạn phải tiếp tục ẩn mình lâu nhất có thể, trước khi được Genya và Zoya đưa tới hải cảng. “Hãy chuẩn bị chiến đấu,” Matthias nói. “Người Shu sẽ canh chừng khu vực này của Ketterdam. Họ chưa liều lĩnh tấn công vào đại sứ quán hoặc khu chợ, nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.”

“Chúng tôi sẽ sẵn sàng,” Zoya đáp, và trong ánh mắt chị, anh nhìn thấy ánh thép của một người chỉ huy bẩm sinh.

Trên đường rời khỏi đại sứ quán, Nina đi tìm người Độc Tâm Y mắt vàng đã tham gia phục kích họ ở tửu quán. Chị ta là người Shu, với mái tóc đen cắt ngắn, hông đeo một cặp rìu bạc nhỏ. Nina đã cho anh biết cô là Tâm Y duy nhất trong số các Grisha tị nạn và là viên chức ngoại giao của Ravka.

“Chị Tamar?” Nina dò hỏi. “Nếu bọn Kherguud đến, chị không được để mình bị bắt. Một Độc Tâm Y trong tay của người Shu và dưới ảnh hưởng của parem có thể làm cán cân nghiêng về chúng một cách chắc chắn. Chị không thể tưởng tượng nổi sức mạnh của loại thuốc này đâu.”

“Sẽ không ai bắt sống được tôi,” cô gái nói, và lấy từ trong túi ra một viên thuốc nhỏ màu vàng nhạt, để nó trên những ngón tay của mình.

“Thuốc độc ư?”

“Do chính tay Genya chế ra đấy. Chết ngay lập tức. Tất cả chúng tôi đều có chúng.” Tamar đưa một viên cho Nina. “Cầm lấy đi. Phòng khi hữu sự. Tôi còn viên khác.”

“Nina…” Matthias thốt lên.

Nhưng Nina không hề ngần ngại. Cô nhét viên thuốc vào túi váy trước khi anh kịp nói lời phản đối.

Họ rời khỏi khu sứ quán, tránh xa các sạp chợ và tửu quán, nơi lực lượng thị tuần đã kéo đến.

Matthias dặn mình cảnh giác và tập trung vào việc đưa cả hai bình an quay về Mạng Đen, nhưng anh không thể thôi nghĩ về viên thuốc màu vàng nhạt kia. Việc nhìn thấy nó đã khiến cho giấc mơ của anh trở lại sống động hơn bao giờ hết. Băng giá phương bắc, Nina mất tích, và anh bất lực trong việc cứu cô. Nó đã làm tan biến niềm vui vô bờ của nụ hôn trong anh.

Giấc mơ đã bắt đầu trên con tàu, khi Nina trải qua những cơn vật vã tồi tệ nhất vì thiếu parem. Cô như hoá điên vào đêm hôm đó, người quằn quại, quần áo ướt đẫm mồ hôi.

Anh không phải là một người tốt, cô đã hét lên như thế. Anh là một thằng lính thiện chiến, và buồn thay anh không hề biết phân biệt hai thứ đó. Sau đó cô khốn khổ khóc nấc lên, vật vã vì đói và vì hối hận. Em xin lỗi, cô nói. Em không có ý nói như thế. Anh biết mà. Giây lát sau cô nói thêm, Giá như anh giúp em. Đôi mắt tuyệt đẹp của cô đẫm lệ, làn da xanh xao của cô dường như bị phủ một lớp sương giá. Làm ơn đi, Matthias, em đau quá. Giúp em với. Anh sẽ làm bất cứ điều gì, đánh đổi bất cứ thứ gì để xoa dịu nỗi thống khổ của cô. Nhưng anh đã thề không đưa thêm parem cho cô. Anh đã thề không để cô trở thành nô lệ của thứ ma dược đó, và anh sẽ giữ lời, bằng mọi giá.

Anh không thể, em yêu à, anh đã thì thầm như thế trong lúc dấp một chiếc khăn ướt lên trán cô. Anh không thể đưa thêm parem cho em. Anh đã bảo họ khoá cửa phòng từ bên ngoài.

Trong một thoáng khuôn mặt cô biến đổi, đôi mắt cô nheo lại. Vậy thì phá tan cái cửa chết tiệt kia đi, đồ vô dụng.

Không.

Cô đã nhổ vào mặt anh.

Vài giờ sau, khi năng lượng đã giải phóng hết, Nina im lặng trở lại, rầu rĩ nhưng sáng suốt. Cô nằm nghiêng với mi mắt thâm tím, thở hổn hển đứt quãng, và nói, “Trò chuyện với em đi.”

“Về điều gì?”

“Về bất cứ điều gì. Nói cho em về isenulf đi.

Anh không ngạc nhiên khi cô biết về isenulf, những con sói trắng được nuôi nấng để chiến đấu bên cạnh các drüskelle. Chúng to lớn hơn những con sói thông thường, và mặc dù được huấn luyện để tuân lệnh chủ nhân, chúng không bao giờ từ bỏ sự hoang dã không thể thuần hoá, vốn làm chúng khác với loài chó nhà, họ hàng xa của chúng.

Thật khó khăn khi phải nghĩ về Fjerda, về quãng đời mà anh đã đoạn tuyệt, nhưng anh vẫn kể một cách hăm hở để làm cô khuây khoả.

“Có khi sói nhiều hơn drüskelle, có khi drüskelle đông đảo hơn sói. Lũ sói tự quyết định khi nào bắt cặp, ít bị ảnh hưởng bởi người phối giống.

Chúng quá bướng bỉnh cho chuyện đó.”

Nina mỉm cười, rồi nhăn nhó vì đau. “Kể tiếp đi,” cô thì thào.

“Có một gia tộc nuôi nấng isenulf qua nhiều thế hệ. Họ sống ở trên miền bắc xa xôi, gần Stenrink, Vòng Đá. Khi một lứa sói ra đời, bọn anh đi tới đó bằng xe trượt hoặc cuốc bộ, và mỗi drüskelle chọn một con sói con. Kể từ đó, bọn anh chịu trách nhiệm về nhau. Chiến đấu cạnh nhau, ngủ cùng nhau, khẩu phần của anh là khẩu phần của sói. Nhưng nó không phải là thú cưng của anh. Nó là một chiến binh như anh, một người anh em.”

Nina rùng mình, và Matthias cảm thấy sự xấu hổ dâng lên trong lòng.

Trong trận chiến với Grisha, isenulf có thể làm tình thế cân bằng trở lại đối với drüskelle. Chúng được huấn luyện để giúp sức họ và xé toạc cổ họng của kẻ tấn công. Sức mạnh của Độc Tâm Y dường như không tác động được tới muông thú. Một Grisha như Nina sẽ gần như bất lực trước sự tấn công của isenulf.

“Nếu có chuyện gì xảy ra với con sói thì sao?” Nina hỏi.

“Drüskelle có thể huấn luyện một con sói khác, nhưng đó là một mất mát khủng khiếp.”

“Thế chuyện gì xảy ra với con sói nếu drüskelle của nó bị chết?”

Matthias im lặng một lúc. Anh không muốn nghĩ tới chuyện này. Trass là con vật mà anh rất yêu thương.

“Chúng được thả về với thiên nhiên, nhưng chúng sẽ không bao giờ được bầy đàn chấp nhận.” Mà một con sói không có bầy đàn thì làm sao được? isenulf không thể sống đơn độc.

Các drüskelle khác tin rằng anh đã chết từ lúc nào? Có phải Brum là người đã đưa Trass lên miền băng giá phía bắc không? Hình ảnh con sói của anh bị bỏ lại một mình, hú gọi anh đến đưa nó về nhà, khiến anh đau nhói trong lồng ngực. Tựa hồ như có thứ gì trong đó đã vỡ và để lại một tiếng vọng. Tiếng rắc khô khốc của một cành cây bị tuyết đọng quá mức.

Như thể cảm nhận được nỗi buồn của anh, Nina mở mắt ra, màu xanh lục trong đôi mắt cô giống như một chồi lá sắp bung nở, thứ màu sắc đưa anh quay về với thực tại.

“Tên của nó là gì?”

“Trassel.”

Khoé miệng cô nhếch lên. “Chuyên gây rối.”

“Không ai muốn nó.”

“Nó bị còi à?”

“Không,” Matthias đáp. “Ngược lại là đằng khác.”

Phải mất hơn một tuần đi đường gian nan để tối được Vòng Đá. Matthias không thích thú với chuyến đi. Lúc đó anh mới mười hai tuổi, chân ướt chân ráo gia nhập đội ngũ drüskelle, và ngày nào cũng nghĩ tới việc bỏ về. Anh không ngại chuyện tập luyện. Những giờ chạy bộ và đấu võ giúp anh nguôi ngoai nỗi nhớ nhà. Anh muốn trở thành một sĩ quan. Anh muốn chiến đấu chống lại Grisha. Anh muốn có cơ hội vinh danh kí ức về bố mẹ và em gái. Drüskelle đã cho anh mục đích. Nhưng những cái khác thì sao? Những trò trêu chọc trong bữa ăn? Những lời khoa trương và tán gẫu rỗng tuếch? Chẳng được tích sự gì. Anh đã có một gia đình. Họ được chôn sâu dưới lòng đất, linh hồn họ đã về với Djel. Drüskelle chỉ là một phương tiện để đạt được mục đích.

Brum đã cảnh báo Matthias rằng anh sẽ không bao giờ trở thành một drüskelle thực sự nếu không học cách xem những thằng con trai khác như anh em của mình, nhưng Matthias không tin chuyện đó. Anh là người to con nhất, khoẻ nhất, nhanh nhất. Anh không cần được lòng mọi người để sống sót.

Anh đã đi chặn hậu đoàn xe trượt trong suốt hành trình, thu mình trong lớp áo lông, không nói chuyện với ai, và khi rốt cuộc họ cũng đến được Vòng Đá, anh lùi lại phía sau, ngần ngại, trong lúc các drüskelle khác chạy vào trong trang trại rộng lớn, la hét xô đẩy nhau, ai cũng muốn lao vào bầy sói con lông trắng với đôi mắt lạnh như băng đang ngoe nguẩy đuôi.

Sự thật là anh cực kì muốn có một chú sói con, nhưng anh biết số lượng sói có thể là không đủ cho tất cả mọi người. Người nuôi sói sẽ quyết định con nào dành cho ai, và những ai sẽ phải về nhà tay trắng.

Nhiều drüskelle đã kịp bắt chuyện với bà già, cố gắng thuyết phục bà.

“Bà thấy không? Con này thích cháu.”

“Nhìn này! Nhìn này! Cháu ra lệnh cho nó ngồi được rồi!”

Matthias biết mình nên cố gắng tỏ ra dễ gần và tỏ ra nỗ lực một chút, nhưng thay vào đó, anh chỉ lui về phía mấy cái chuồng ở cuối trang trại. Trong chiếc chuồng lưới thép nằm ở góc, anh bắt gặp một tia sáng màu vàng - ánh sáng phản chiếu từ một cặp mắt cảnh giác. Anh tiến lại gần hơn và thấy một con sói, không còn nhỏ, nhưng cũng chưa hoàn toàn trưởng thành. Nó sủa vang khi Matthias đến gần chuồng, lông cổ dựng lên, đầu hạ thấp, răng nhe ra. Con sói có một vết sẹo dài vắt ngang mõm. Vết sẹo chạy thẳng qua mắt phải và làm cho một phần mống mắt chuyển từ màu xanh lơ sang lốm đốm nâu.

“Đừng có dại mà chọn nó,” người nuôi sói lên tiếng.

Matthias không biết bà ta đã đến đứng phía sau lưng anh từ lúc nào. “Nó có nhìn được không?”

“Có, nhưng nó không thích con người.”

“Tại sao vậy?”

“Nó xổng chuồng lúc còn bé. Chạy được hai dặm trên băng tuyết. Bọn trẻ con tìm thấy và làm nó bị thương với một cái chai vỡ. Kể từ đó, nó không để cho bất kì ai lại gần mình, và trở nên quá lớn để có thể huấn luyện. Chắc phải kết liễu nó sớm thôi.”

“Hãy để cháu nhận nó.”

“Nó sẽ xé xác cậu thành từng mảnh ngay lập tức sau khi để cậu cho nó ăn. Lần sau chúng tôi sẽ có con khác cho cậu.”

Ngay khi người phụ nữ bỏ đi, Matthias mở cửa chuồng. Nhanh như

cắt, con sói lao vào cắn anh.

Matthias muốn hét lên khi hàm răng con thú bập vào cẳng tay mình. Anh ngã vật xuống đất, con sói chồm lên anh, cơn đau vượt qua mọi giới hạn mà anh từng biết tới. Nhưng anh không phát ra âm thanh nào. Anh nhìn thẳng vào mắt con sói trong lúc răng nó nhấn sâu hơn vào cơ tay của anh, tiếng gầm gừ phát ra từ lồng ngực con thú.

Matthias đoán hàm răng con thú đủ mạnh để bẻ gãy xương, nhưng anh không vật lộn, không la hét, cũng không cụp mắt xuống. Tao sẽ không làm đau mày, anh thề, ngay cả khi mày làm đau tao.

Một khoảnh khắc kéo dài trôi qua. Lại một khoảnh khắc kéo dài nữa. Matthias có thể cảm thấy máu thấm qua tay áo mình. Anh nghĩ mình sắp ngất đến nơi.

Thế rồi, thật chậm rãi, hàm răng của con sói nhả ra. Nó ngồi xuống, bộ lông trắng thấm đẫm máu Matthias, đầu nghiêng sang một bên. Con sói thở ra.

“Rất vui được gặp mày,” Matthias nói.

Anh thận trọng ngồi lên, dùng vạt áo băng cánh tay lại, sau đó anh và con sói của mình trong bộ dạng lấm máu quay trở lại chỗ những người mặc đồng phục xám khác đang chơi với bầy sói con.

“Con này là của tôi,” anh nói khi tất cả mọi người quay lại nhìn, và bà già lắc đầu. Rồi anh ngất đi.

Đêm đó, trên tàu, Matthias đã kể cho Nina nghe về Trassel, bản băng hung dữ của nó, vết sẹo của nó. Sau đó cô đã ngủ thiếp đi, và Matthias cũng cho phép mình chợp mắt. Băng tuyết đã đợi sẵn. Luồng gió sát nhân nhe răng ập tới, tiếng sói tru văng vẳng phía xa, và Nina hét gọi, nhưng Matthias không thể tìm thấy cô.

Kể từ đó, giấc mơ tái xuất hiện hằng đêm. Thật khó mà không coi nó như một điềm gở, và khi Nina bỏ viên thuốc màu vàng kia vào túi, anh có cảm giác như đang chứng kiến cơn cuồng phong ập tới: tiếng gió rít gào đầy tai anh, hơi lạnh luồn vào tận xương, và anh đoán chắc mình sẽ mất cô.

“Parem có thể sẽ không phát huy tác dụng với em nữa,” anh nói khi hai người quay trở lại đoạn kênh vắng vẻ nơi neo chiếc gondel.

“Gì cơ?”

“Năng lực của em đã biến đổi, không phải vậy sao?”

Nina loạng choạng. “Đúng.”

“Bởi vì parem?”

Giờ thì Nina dừng hẳn lại. “Sao anh lại hỏi em?”

Anh không muốn hỏi cô. Anh muốn hôn cô lần nữa. Nhưng anh chỉ đáp, “Nếu em bị bắt, biết đâu người Shu sẽ không thể dùng ma dược để khống chế em.”

“Hoặc biết đâu nó vẫn tồi tệ như trước.”

“Viên thuốc độc mà Tamar đưa cho em ấy…”

Nina đặt một bàn tay lên cánh tay anh. “Em sẽ không bị bắt, Matthias.”

“Nhưng nếu em bị…”

“Em không biết parem đã làm gì em. Em phải tin rằng các tác động sẽ mất đi theo thời gian.”

“Và nếu chúng không mất đi?”

“Chúng sẽ mất đi,” Nina nhíu mày đáp. “Em không thể sống như thế này. Nó giống như… chỉ còn một nửa con người em là bình thường. Mặc dù…”

“Mặc dù sao?” Matthias hỏi dồn.

“Bây giờ cơn đói thuốc không còn quá tệ nữa,” cô đáp như thể tự mình nhận ra điều đó. “Thật ra, em gần như không nghĩ đến parem từ sau cuộc đụng độ ở tửu quán.”

“Nhờ việc sử dụng năng lực mới à?”

“Có lẽ thế,” Nina đáp một cách dè dặt. “Và…” cô lại nhíu mày. Matthias nghe thấy một tiếng ùng ục khe khẽ.

“Bụng em sôi đấy à?”

“Phải.” Nina toét miệng cười. “Matthias, em đang đói ngấu đây này.”

Có khi nào rốt cuộc Nina cũng đã hồi phục? Hay là những gì cô làm ở tửu quán đã khiến sự thèm ăn quay trở lại? Anh không cần biết. Anh chỉ thấy mừng vì cô mỉm cười như thế. Anh nhấc bổng Nina và quay cô trong không khí.

“Nếu cứ làm thế này thì anh sẽ bị căng cơ đấy,” cô đáp với một nụ cười rạng rỡ nữa.

“Em nhẹ như lông hồng ấy mà.”

“Em không muốn thấy con chim mang bộ lông hồng đó. Giờ thì đi mua cho em một chồng bánh waffle cao gấp đôi anh. Em…”

Cô bỗng khựng lại, khuôn mặt biến sắc. “Thánh thần ơi!”

Matthias ngoái đầu nhìn theo ánh mắt Nina và bắt gặp đôi mắt của chính anh. Một tờ cáo thị đã được dán lên bức tường, với hình vẽ phác hoạ chính xác đến phát sợ khuôn mặt của anh. Bên trên và bên dưới nó là một từ duy nhất, được viết bằng nhiều thứ tiếng khác nhau: TRUY NÃ.

Nina giật phăng tờ giấy khỏi bức tường. “Anh lẽ ra đã chết rồi mà.”

“Chắc ai đó đã yêu cầu kiểm tra xác của Muzzen trước khi anh ta được

hoả táng.” Có thể là người Fjerda. Cũng có thể là người nào đó của nhà tù. Matthias không đọc được những chữ tiếng Kerch được in ở phía dưới cùng của tờ cáo thị, nhưng anh có thể nhận ra tên của mình và con số. “Năm mươi ngàn kruge. Bọn họ treo thưởng cho việc bắt giữ anh.”

“Không phải,” Nina đáp. Cô chỉ tay vào dòng chữ bên dưới con số và dịch, “Truy nã: Matthias Helvar. Sống hoặc chết. Họ treo thưởng cho cái đầu của anh đó.”

16
JESPER

Khi Nina và Matthias bước vào nhà mồ, Jesper chỉ muốn đứng bật dậy và khiêu vũ với cả hai người. Anh đã mất cả giờ đồng hồ cố gắng giải thích cho Kuwei làm thế nào họ đến được đại sứ quán, và anh bắt đầu có cảm giác mơ hồ rằng cậu nhóc đang giả ngu. Cũng có thể cậu ta chỉ thích thú trước những động tác nực cười của anh.

“Anh lặp lại câu cuối được không?” Kuwei nói và chồm người tới trước, hơi quá gần với Jesper.

“Nina,” anh thốt lên. “Cô có thể giúp bôi trơn cuộc đối thoại này được không?”

“Tạ ơn các thánh,” Inej lên tiếng, bỏ lại công việc dang dở trên bàn cùng Wylan và Kaz. Ba người đang lắp ráp đống dây thép và bánh răng mà Kaz đã xoáy được từ đoàn xiếc Zirkoa. Suốt hai tiếng vừa qua, Wylan đã thực hiện nhiều chỉnh sửa để bảo đảm an toàn cho Inej, bằng cách lắp những cái móc có từ tính giúp bám chắc vào thành kim loại của xi-lô.

“Sao anh cứ nhìn cậu ta vậy?” Kuwei hỏi. “Tôi cũng giống hệt như cậu ta mà. Anh nhìn tôi đây này.”

“Tôi đâu có nhìn cậu ta,” Jesper phản đối. “Tôi chỉ… giám sát công việc của họ.” Kuwei lên được con tàu đó sớm chừng nào tốt chừng ấy. Cái nhà mồ này bắt đầu cho cảm giác chật chội rồi.

“Chị có liên lạc được với những người tị nạn không?” Inej vừa hỏi vừa

vẫy Nina lại gần bàn và dọn một chỗ cho chị ngồi.

“Mọi chuyện diễn ra rất suôn sẻ,” Nina đáp. “Ngoại trừ việc làm vỡ vài cái cửa sổ và suýt nữa bị ăn đạn.”

Kaz ngước mắt lên khỏi chiếc bàn, khuôn mặt tỏ ra quan tâm.

“Có biến ở Tiểu Ravka à?” Jesper hỏi.

“Không có gì mà chúng tôi không thể xử lí được,” Nina đáp. “Làm ơn nói cho tôi biết ở đây có gì đó để ăn hay không.” “Chị đói á?” Inej hỏi lại.

Mọi người tròn mắt nhìn Nina. Cô nghiêng mình thi lễ. “Phải, phải, Nina Zenik này đang đói. Giờ thì có ai cho tôi đồ ăn trước khi tôi buộc phải nấu một trong mấy người không?”

“Đừng có vớ vẩn,” Jesper đáp. “Cô đâu có biết nấu ăn.”

Inej lục lọi trong đống thức ăn còn lại và đặt trước mặt Nina bữa ăn nghèo nàn gồm cá tuyết muối, thịt khô cùng vài cái bánh quy đã cũ.

“Chuyện gì đã xảy ra tại tửu quán?” Kaz hỏi.

“Người tị nạn đang trốn trong đại sứ quán,” Matthias đáp. “Chúng tôi đã gặp…”

“Thủ lĩnh của họ,” Nina cắt ngang. “Họ sẽ chờ hiệu lệnh từ chúng ta.” Cô tọng hai chiếc bánh quy vào miệng. “Mấy cái này kinh quá.” “Từ từ thôi,” Matthias nói. “Em sẽ bị nghẹn mất.” “Cũng đáng mà,” Nina đáp và cố gắng nuốt.

“Mấy cái bánh quy á?”

“Em đang vờ như chúng là bánh nướng. Khi nào thì tàu đi?”

“Bọn em đã tìm được một chuyến tàu chở mật đường nhổ neo đi Os

Kervo vào mười một giờ đêm nay,” Inej đáp. “Specht đang lo liệu giấy tờ.”

“Tốt,” Nina nói, đoạn lôi một mẩu giấy từ trong túi ra và vuốt phẳng nó trên bàn. Phác hoạ chân dung Matthias giương mắt nhìn họ. “Chúng ta cần phải rời khỏi nơi này càng sớm càng tốt.”

“Khỉ thật,” Jesper nói. “Kaz và Wylan vẫn đang dẫn đầu.” Anh giơ tay chỉ chỗ họ đã dán những tờ cáo thị truy nã còn lại: Jesper, Kaz và Inej đều hiện diện trên đó. Van Eck chưa dám bêu mặt Kuwei Yul-Bo trên các bức tường của Ketterdam, nhưng vẫn tiếp tục lấy cớ tìm kiếm con trai, do vậy có một cáo thị treo thưởng cho ai đưa Wylan Van Eck về nhà nguyên lành. Chỉ thiếu mỗi Nina. Cô chưa từng gặp mặt Van Eck, và mặc dù cô có liên hệ với băng Cặn Bã, có thể lão ta không biết về sự tham gia của cô.

Matthias xem xét các cáo thị. “Một trăm ngàn kruge!”Anh trợn tròn mắt nhìn Kaz. “Cậu làm gì xứng với cái giá đó!”

Một nụ cười nhạt xuất hiện trên môi Kaz. “Thị trường quyết định mà.”

“Thế tôi thì sao,” Jesper nói. “Họ treo giá tôi có ba mươi ngàn.”

“Mạng sống của các anh đang bị treo giá,” Wylan thốt lên. “Sao các anh có thể hành động như thể đây chỉ là một sự thi thố?”

“Cậu đang ngồi trong một nấm mồ, thiếu gia à. Chúng ta sẽ hành động ở nơi cần hành động.”

“Có lẽ tất cả chúng ta nên đi Ravka,” Nina nói, đoạn gõ ngón tay lên cáo thị truy nã Inej. “Ở lại đây em sẽ không an toàn.” “Một ý tưởng không tồi,” Kaz đáp.

Inej liếc nhanh sang Kaz. “Anh sẽ đi Ravka sao?”

“Không đời nào. Tôi sẽ ẩn mình ở đây. Tôi muốn tận mắt nhìn thấy sự sụp đổ của Van Eck khi mọi chuyện kết thúc.”

“Nhưng em có thể đi,” Nina nói với Inej. “Còn cậu, Jesper? Chúng ta có thể đưa bố cậu đi cùng.”

Jesper nghĩ tới bố lúc này đang mắc kẹt trong một căn phòng sang trọng nào đó tại Geldrenner và có lẽ đang mài mòn thảm trải sàn bằng những bước chân đi tới đi lui của ông. Mới có hai ngày trôi qua kể từ khi anh nhìn thấy tấm lưng rộng của bố biến mất giữa những nấm mộ khi Rotty đưa ông rời đảo Mạng Đen, vậy mà anh tưởng như đã rất lâu rồi. Kể từ lúc đó, anh đã suýt mất mạng vì bọn săn lùng Grisha và bị người ta treo giá cho cái đầu của mình. Nhưng nếu họ hoàn tất công việc đêm nay, bố anh sẽ không cần phải biết tới những chuyện ấy.

“Không đời nào,” Jesper đáp. “Tôi muốn bố tôi nhận lại tiền nhanh nhất có thể và quay về Novyi Zem. Tôi sẽ không ngủ ngon chừng nào ông chưa về đến nông trại bình yên vô sự. Chúng tôi sẽ ẩn náu tại khách sạn cho tới khi Van Eck bị hạ uy tín và thị trường đường đảo lộn.

“Còn em, Inej?” Nina hỏi.

Mọi người đều nhìn sang phía Bóng Ma, ngoại trừ Jesper. Anh quan sát Kaz, tò mò muốn biết anh ta sẽ phản ứng như thế nào trước viễn cảnh Inej rời khỏi Ketterdam. Nhưng nét mặt Kaz không thể giải thích nổi, như thể anh đang chờ nghe xem bữa tối sẽ được dọn lúc nào.

Inej lắc đầu. “Nếu tới Ravka thì em sẽ đi trên con thuyền của em, được lèo lái bởi thuỷ thủ đoàn của em.”

Jesper nhướn mày. “Cô trở thành sói biển từ khi nào vậy? Người tỉnh táo ai lại muốn ăn dầm nằm dề trên một con tàu kia chứ?”

Inej mỉm cười. “Tôi vẫn nghe nói Ketterdam làm người ta phát rồ.”

Kaz rút đồng hồ trong túi ra xem. “Chúng ta sẽ hành động lúc tám giờ.

Van Eck tập hợp Hội đồng Thương buôn ở nhà lão ta tối nay.”

“Anh có nghĩ họ sẽ huy động thêm nguồn lực để tìm kiếm Wylan không?” Nina hỏi.

“Có thể. Nhưng điều đó không còn là mối bận tâm của chúng ta nữa. Sự ồn ào chộn rộn của kẻ đến người đi sẽ giúp Wylan và tôi lấy trộm con dấu trong két sắt. Cùng lúc đó, Nina và Inej sẽ tấn công vào Bãi Ngọt, vệ quân liên tục đi tuần quanh khu tháp xi-lô, bọn họ mất khoảng mười hai phút để hoàn tất một vòng hàng rào. Nhưng họ luôn để lại ai đó canh cổng, thế nên mọi người hãy khôn khéo khi tìm cách tiếp cận.” Anh đặt một cái lọ có nút đậy lên bàn. “Đây là chiết xuất cà phê. Kuwei, Nina, Jesper, tôi muốn mọi người bôi nó lên mình thật nhiều. Nếu quả thực bọn Shu có thể đánh hơi được mùi của Grisha, thứ này sẽ xua chúng đi.” “Cà phê?” Kuwei hỏi lại, tay mở nút cái lọ và hít hà.

“Giỏi,” Jesper nói. “Bọn tôi từng buôn lậu jurda và rải cà phê xay lên trên để qua mặt lũ chó của bọn thị tuần. Làm mũi chúng bị loạn mùi.”

Nina cầm lấy cái lọ rồi bôi chiết xuất cà phê vào phía sau vành tai và cổ tay. “Mong rằng mũi của bọn Kherguud cũng vận hành giống như thế.”

“Đám người tị nạn của cô tốt hơn nên chuẩn bị sẵn sàng,” Kaz đáp. “Họ có bao nhiêu người?”

“Ít hơn chúng ta tưởng. Mười lăm và… hừm… vài người của đại sứ quán. Tổng cộng mười bảy người.”

“Cộng thêm cô, Matthias, Wylan và Kuwei. Hai mươi mốt. Specht sẽ làm giả giấy tờ theo thông tin này.”

“Tôi không đi đâu,” Wylan lên tiếng.

Jesper quắp các ngón tay lại để chúng khỏi múa may lung tung. “Không

á?”

“Tôi sẽ không để cho cha tống khứ mình ra khỏi cái thành này một lần nữa.”

“Sao mọi người nhất quyết ở lại cái chốn bần cùng này đến vậy nhỉ?” Nina lẩm bẩm.

Jesper ngửa ghế ra sau một chút và quan sát Kaz. Anh ta không tỏ ra ngạc nhiên khi Wylan muốn ở lại Ketterdam. “Anh đã biết,” anh nói sau khi lắp ghép các chi tiết với nhau. “Anh đã biết mẹ của Wylan còn sống.” “Mẹ của Wylan còn sống sao?” Nina hỏi lại.

“Thế tôi để cho hai người đi Olendaal vì lí do gì?” Kaz nói.

Wylan chớp chớp mắt. “Vậy là anh biết tôi nói dối về vụ mỏ quặng.”

Jesper cảm thấy cơn giận bùng lên. Kaz làm gì anh cũng được, nhưng Wylan không giống như những người còn lại trong nhóm. Mặc dù có người cha tồi tệ, cậu nhóc đã không để cho hoàn cảnh sống hay cái thành phố này làm mất đi sự tử tế trong cậu. Wylan vẫn còn tin rằng người ta có thể sống đúng đắn. Anh trỏ ngón tay vào Kaz. “Anh không nên để cho cậu ấy đi tới Thánh Hilde mà không hề hay biết tí gì như vậy. Thật tàn nhẫn.”

“Việc đó cần thiết.”

Wylan siết nắm đấm lại. “Tại sao?”

“Bởi vì cậu vẫn chưa nhận ra bản chất thực sự của cha cậu.”

“Anh có thể nói cho tôi nghe.”

“Cậu giận dữ. Giận dữ rồi sẽ qua. Tôi cần cậu phẫn uất.”

Wylan khoanh tay lại. “Vậy thì anh toại nguyện rồi đấy.”

Kaz đè tay lên cây gậy chống của mình. “Muộn rồi, mọi người làm ơn bớt tội nghiệp Wylan đi và tập trung vào nhiệm vụ trong tay. Matthias, Jesper và Kuwei sẽ lên đường tới đại sứ quán vào lúc chín giờ rưỡi. Ba người sẽ tiếp cận từ con kênh. Jesper, cậu cao, da nâu, và đáng ngờ…”

“Những thứ đồng nghĩa với ngon nghẻ.”

“Và điều đó có nghĩa là cậu phải thận trọng gấp đôi.”

“Đó là cái giá phải trả cho sự vĩ đại.”

“Cố mà tiếp nhận chuyện này một cách nghiêm túc đi,” Kaz nói với giọng khàn đặc. Có phải đó là mối quan ngại thực sự? Jesper cố gắng không nghĩ vẩn vơ xem sự lo lắng đó dành cho phi vụ hay dành cho mình. “Di chuyển mau lẹ và đừng đưa mọi người tới bến cảng trước mười giờ. Điểm hẹn của chúng ta sẽ là Cảng số Ba, cầu tàu mười lăm. Con tàu có tên là Verrhader. Nó đi lại giữa Kerch và Ravka nhiều lần trong năm.” Kaz đứng dậy. “Hãy khôn khéo và khẽ khàng. Tất cả sẽ đổ bể nếu Van Eck biết được.”

“Và giữ an toàn,” Inej nói thêm. “Tôi muốn ăn mừng với tất cả mọi người khi con tàu đó rời cảng.”

Jesper cũng muốn điều đó. Anh muốn thấy mọi người bình an vô sự sau đêm nay. Anh giơ tay lên. “Sẽ có champagne chứ?”

Nina ăn nốt cái bánh quy cuối cùng rồi mút ngón tay. “Tôi sẽ ở đó, và tôi sẽ quậy tưng.”

Sau đó, mọi người không còn gì khác để làm ngoài gói ghém nốt đồ đạc. Không có màn chia tay lâm li nào cả.

Jesper rảo bước tới chỗ cái bàn nơi Wylan đang cất đồ vào túi xách và vờ như tìm kiếm một thứ cần dùng giữa đống bản đồ tài liệu.

Anh ngần ngừ, rồi nói, “Cậu có thể ở với bố con tôi. Nếu cậu muốn. Tại khách sạn. Nếu cậu cần một nơi ẩn náu trong khi chờ mọi chuyện qua đi.”

“Thật sao?”

“Thật,” Jesper đáp với một cái nhún vai gượng gạo. “Inej và Kaz nữa. Chúng ta có thể ở cùng nhau cho tới khi nhận được thứ xứng đáng với mình.”

“Sau đó thì sao? Khi món nợ của bố anh được trả hết, anh sẽ quay về Novyi Zem chứ?”

“Có lẽ thế.”

Wylan chờ đợi. Jesper không có câu trả lời nào cho cậu. Nếu quay về nông trại, anh sẽ tránh xa những cám dỗ của Ketterdam và Barrel. Nhưng có thể anh sẽ tìm một rắc rối khác để đâm đầu vào. Và số tiền quá lớn. Ngay cả sau khi trả dứt nợ, vẫn còn một khoản hơn ba triệu kruge. Anh nhún vai đáp. “Kaz là người lên kế hoạch.”

“Tất nhiên rồi,” Wylan nói, nhưng Jesper có thể nhìn thấy sự thất vọng trên khuôn mặt cậu.

“Tôi đoán cậu đã vạch xong con đường tương lai cho mình?”

“Không. Tôi chỉ biết mình sẽ đưa mẹ ra khỏi chỗ đó và tìm cách làm lại cuộc đời cho hai mẹ con.” Wylan hất hàm về phía mấy tờ cáo thị trên tường. “Đây có phải là điều anh thực sự muốn không? Trở thành tội phạm ấy? Hết cuộc thanh toán này tới màn hỗn chiến khác, những lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc?”

“Nói thật nhé?” Jesper biết Wylan có lẽ sẽ không thích điều anh sắp nói ra.

“Đến giờ rồi,” Kaz lên tiếng từ trên ngưỡng cửa.

“Phải, đây là điều tôi muốn,” Jesper đáp. Wylan quàng túi lên vai, và Jesper bất giác đưa tay chỉnh lại chỗ xoắn trên quai đeo. Anh không bỏ tay ra. “Nhưng nó không phải là tất cả những gì tôi muốn.

“Đi thôi,” Kaz gọi.

“Tôi sẽ dùng chính cái gậy chống đó đập cho anh biết tay. Jesper buông tay. “Không đổ lệ.”

“Không quan tài,” Wylan đáp khẽ. Rồi cậu và Kaz biến qua ngưỡng cửa.

Tiếp theo là Nina và Inej. Nina đã biến vào trong một lối đi để thay bộ đồ Fjerda nực cười trước khi khoác lên người chiếc quần dài tiện lợi, áo choàng và áo thụng - toàn bộ là kiểu dáng và chất liệu của Ravka. Cô đã dẫn Matthias theo cùng. Sau đó nhiều phút cô xuất hiện trở lại với trang phục xộc xệch và khuôn mặt ửng hồng.

“Không quên nhiệm vụ chứ hả?” Jesper buột miệng hỏi.

“Tôi đang dạy Matthias thế nào là vui thú. Anh ấy là một học sinh tuyệt vời. Rất chuyên tâm vào bài học.” “Nina…” Matthias cảnh báo.

“Nhưng thái độ còn chưa ổn. Vẫn còn nhiều thứ cần cải thiện.”

Inej dứ cái lọ tinh chất cà phê về phía Jesper. “Đêm nay cẩn trọng nhé,

Jes.”

“Chuyện đó tôi cũng giỏi chẳng kém Matthias học vui thú đâu.” “Tôi không hề tệ nhé,” Matthias hậm hực.

“Ờ.”

Anh còn nhiều điều muốn nói thêm với mọi người, chủ yếu là Inej, nhưng không phải trước mặt những người còn lại. Có lẽ là không bao giờ. Anh nợ Inej một lời xin lỗi. Sự bất cẩn của anh đã làm họ bị phục kích tại Cảng số Năm trước khi lên đường tới Lâu Đài Băng và Inej suýt mất mạng. Nhưng anh phải xin lỗi cho chuyện đó như thế nào đây? Xin lỗi vì đã làm cô suýt bị đâm chết. Có ai muốn ăn bánh waffle không?

Trước khi Jesper kịp suy nghĩ thêm thì Inej đã đặt một nụ hôn lên má anh, Nina giơ ngón tay thối về phía mấy tấm cáo thị, rồi Jesper thấy mình ngồi chờ chín hồi chuông rưỡi trong nhà mồ với Kuwei lầm lì và Matthias bồn chồn đi qua đi lại.

Kuwei bắt đầu sắp xếp lại mấy cuốn sổ trong túi.

Jesper ngồi vào bàn. “Cậu có cần toàn bộ chỗ sổ đó không?”

“Cần chứ,” Kuwei đáp. “Anh có đi Ravka bao giờ chưa?”

Thằng nhóc tội nghiệp đang sợ kìa, Jesper nghĩ thầm. “Chưa, nhưng cậu sẽ có Nina và Matthias đi cùng.”

Kuwei liếc nhìn Matthias và lẩm bẩm. “Anh ta khó tính lắm.”

Jesper bật cười. “Tôi không thể nói anh ta là người vui tính, nhưng anh ta cũng có vài phẩm chất tốt đẹp.

“Tôi nghe được đấy, Fahey,” Matthias làu bàu.

“Tốt. Tôi ghét phải hét toáng lên lắm.”

“Cậu không thấy lo một chút nào cho những người kia sao?”

“Tất nhiên là có chứ. Nhưng chúng ta lớn cả rồi, và không còn thời gian để lo lắng nữa. Giờ là lúc vui vẻ,” Jesper vỗ vỗ mấy khẩu súng và đáp. “Hành động thôi.”

“Hoặc là chết,” Matthias lẩm bẩm. “Cũng như tôi, cậu thừa biết tình trạng của Nina không được tốt.”

“Đêm nay cô ấy không cần phải có phong độ tốt nhất. Điều cốt yếu của kế hoạch này là tránh đánh đấm, trời ạ.”

Matthias ngừng đi tới đi lui và ngồi vào bàn, đối diện với Jesper. “Chuyện gì đã xảy ra ở ngôi nhà bên hồ?”

Jesper vuốt phẳng một góc bản đồ. “Tôi cũng không rõ, nhưng tôi nghĩ Nina đã làm nghẹt thở một gã bằng một đám mây bụi.”

“Tôi không hiểu,” Matthias nói. “Một đám mây bụi? Hôm nay cô ấy đã điều khiển được những mảnh xương - điều cô ấy chưa từng làm trước khi dùng parem. Hình như Nina nghĩ rằng sự thay đổi đó chỉ có tính tức thời, do tác dụng tồn dư của thuốc, nhưng…” Anh quay sang hỏi Kuwei. “Theo cậu, parem có thể biến đổi được năng lực của một Grisha hay không? Làm nó khác đi? Hoặc phá huỷ nó?”

Kuwei nghịch nghịch cái khoá của chiếc ba lô đi đường. “Có thể. Cô ấy đã vượt qua sự thiếu thuốc. Chuyện đó khá hiếm, và chúng tôi chưa biết nhiều về parem, cũng như về năng lực của Grisha.”

“Chưa mổ xẻ họ đủ nhiều để hiểu hết à?” Câu nói bật ra khỏi miệng Jesper trước khi anh kịp cân nhắc. Anh biết nói như thế thật bất công. Chính Kuwei và cha cậu ta cũng là Grisha, và cả hai đều không ở vào vị trí có thể ngăn cản người Shu thí nghiệm trên đồng loại của họ.

“Anh giận tôi đấy à?” Kuwei hỏi lại.

Jesper mỉm cười. “Tôi không phải loại người nóng tính.”

“Ồ, có chứ,” Matthias nói. “Nóng tính và nhát cáy.”

Jesper gườm mắt với anh chàng Fjerda to xác. “Anh nói cái gì?” “Jesper rất can đảm,” Kuwei phản bác.

“Cảm ơn sự ghi nhận của cậu,” Jesper duỗi dài đôi chân rồi bắt chéo chúng. “Anh có gì cần nói à, Matthias?”

“Tại sao cậu không đi Ravka?”

“Bố tôi…”

“Bố cậu có thể đi cùng chúng tôi đêm nay. Và nếu cậu lo lắng cho ông ấy đến thế thì sao cậu không tới khách sạn?”

“Tôi không thấy chuyện đó có liên quan gì với anh.”

“Tôi thì biết cảm giác xấu hổ về con người mình, về những gì bản thân đã làm như thế nào.”

“Có thật anh muốn khơi chuyện này lên không vậy, thợ săn phù thuỷ? Tôi không xấu hổ. Tôi thận trọng. Nhờ những người như anh và cái đám drüskelle bạn anh, mà thế giới này trở nên nguy hiểm đối với những người như chúng tôi. Nó luôn như thế, và không có vẻ gì là sẽ khá lên.”

Kuwei vươn người nắm lấy bàn tay Jesper, khẩn khoản. “Hiểu mà. Làm ơn đi. Những gì bọn tôi đã làm, những gì mà cha tôi đã làm… Chúng tôi đã cố làm cho tình hình khá lên, cố làm ra cách để các Grisha có thể…” Cậu ta phác một cử chỉ như thể đang ấn thứ gì đó xuống.

“Có thể triệt tiêu năng lực của họ?” Matthias ướm lời.

“Phải. Chính xác là thế. Để ẩn mình dễ dàng hơn. Nếu các Grisha không sử dụng năng lực, họ sẽ trở nên ốm yếu, lão hoá, dễ mệt mỏi, mất cảm giác ngon miệng. Đó là một cách để người Shu xác định những Grisha đang cố che giấu thân phận.”

“Tôi đâu có sử dụng năng lực của mình,” Jesper nói. “Thế nhưng…” Anh giơ mấy ngón tay lên để liệt kê. “Thứ nhất: Tôi dám chắc mình có thể ăn cả một cái máng đầy bánh waffle rưới xi rô táo và gọi thêm cái nữa sau đó ít phút. Thứ hai: Thiếu sức sống chưa bao giờ là vấn đề tôi gặp phải.

Thứ ba: Tôi chưa từng đau ốm một ngày nào trong đời.”

“Thật không?” Matthias hỏi lại. “Có nhiều kiểu bệnh tật lắm đấy.”

Jesper đặt tay lên báng súng. Rõ ràng đêm nay tay Fjerda này nghĩ linh tinh hơi nhiều.

Kuwei mở ba lô và lấy ra một lon jurda thông thường, thứ có thể được mua ở mọi cửa tiệm tạp hoá của Ketterdam. “Jurda là một chất kích thích, chống lại sự mệt mỏi một cách hữu hiệu. Cha tôi nghĩ… ông ấy đã nghĩ nó là giải pháp giúp đỡ cho những người giống như chúng tôi. Nếu ông tìm được công thức đúng, nó sẽ cho phép các Grisha duy trì sức khoẻ trong lúc che giấu năng lực của mình.”

“Nhưng hoá ra không phải như vậy, đúng không?” Jesper nói. Hình như anh hơi giận dữ.

“Các thử nghiệm không diễn ra theo dự tính. Ai đó trong nhóm nghiên cứu đã không giữ mồm giữ miệng. Lãnh đạo của chúng tôi đã phát hiện ra và nhìn thấy một định hướng khác cho parem.” Kuwei lắc đầu, chỉ tay vào túi hành lí. “Giờ thì tôi chỉ biết cố nhớ lại những thử nghiệm của cha.”

“Đó là những gì cậu hí hoáy trong mấy cuốn sổ à?”

“Tôi còn viết nhật kí nữa.”

“Chắc là hay ho lắm. Ngày thứ nhất: ngồi trong nhà mồ. Ngày thứ hai: tiếp tục ngồi trong nhà mồ.”

Matthias phớt lờ Jesper và hỏi, “Cậu có thu được thành công nào không?”

Kuwei nhíu mày. “Một số. Tôi nghĩ thế. Với một phòng thí nghiệm và các nhà khoa học thực thụ thì kết quả sẽ tốt hơn. Tôi không phải là cha tôi. Ông ấy là một Sáng Chế Gia. Tôi là Tiết Hoả Sư. Đây không phải là việc mà tôi thành thạo.”

“Thế cậu thành thạo chuyện gì?” Jesper hỏi.

Kuwei nhìn anh với ánh mắt ngờ vực, rồi nhíu mày. “Tôi chưa có cơ hội tìm ra. Chúng tôi sống một cuộc đời rất đáng sợ tại Shu Han. Nó chưa bao giờ là nhà.”

Đó chắc chắn là một điều mà Jesper có thể hiểu được. Anh cầm lon jurda lên và mở nắp. Chất lượng tốt. Những bông hoa khô gần như nguyên vẹn với màu cam rực rỡ toả mùi thơm ngòn ngọt.

“Cậu nghĩ nếu có một phòng thí nghiệm cùng vài Sáng Chế Gia vây quanh thì cậu có thể làm lại các thử nghiệm của cha mình và bằng cách nào đó tìm được thuốc giải ư?”

“Tôi hi vọng thế,” Kuwei đáp.

“Nó sẽ hoạt động như thế nào?”

“Nó có thanh lọc parem khỏi cơ thể không?” Matthias hỏi.

“Có. Rút hết parem ra,” Kuwei đáp. “Nhưng ngay cả khi chúng ta thành công, làm sao đưa nó vào được?”

“Cậu sẽ phải tiếp cận đủ gần để tiêm nó vào, hoặc bắt người ta nuốt nó,” Matthias nói.

“Và tiêu tùng trong lúc làm điều đó,” Jesper đế vào.

Anh nhón lấy một bông jurda. Rồi ai đó sẽ tìm được cách tự tạo ra phiên bản jurda parem cho mình, và khi họ làm điều đó, chỉ một bông hoa nhỏ này cũng sẽ đáng giá cả gia tài. Khi nhìn kĩ các cánh hoa, anh có thể thấy chúng phân ra thành những mảnh nhỏ hơn. Không hẳn là anh nhìn thấy, nó giống như cảm nhận được những phần nhỏ vật chất cấu thành khác nhau thì đúng hơn.

Anh đặt bông hoa vào lon. Hồi còn bé, khi nằm trên những cánh đồng của bố, anh đã phát hiện mình có thể rút màu khỏi hoa jurda, từng cánh một. Vào một buổi chiều nhàm chán, anh đã tẩy trắng cỏ thành một từ bậy bạ trên bãi chăn gia súc phía tây. Những chữ cái in hoa. Bố anh bực lắm, nhưng ông cũng tỏ ra sợ hãi nữa. Ông rầy la anh tới khản tiếng, rồi chỉ ngồi đó, nhìn con trai trân trối, đôi bàn tay bấu chặt li trà để khỏi run rẩy. Lúc đầu, Jesper tưởng đâu ông giận vì cái từ bậy bạ kia, nhưng hoá ra không phải thế.

“Jes,” cuối cùng ông nói. “Con không bao giờ được làm chuyện này nữa. Hứa với bố đi. Mẹ con cũng có năng lực như vậy. Nó chỉ làm con khổ thôi.”

“Con hứa,” Jesper nói luôn để dàn xếp mọi chuyện, chưa hết bàng hoàng khi chứng kiến một người điềm đạm như bố mình nổi đoá như vậy. Nhưng tất cả những gì anh nghĩ lúc đó là, Mẹ đâu có vẻ gì khổ sở đâu.

Thật ra, mẹ anh dường như tìm thấy niềm vui trong mọi chuyện. Bà là người Zemeni, với làn da nâu sẫm căng bóng, và cao đến nỗi bố anh phải ngửa đầu nếu muốn nhìn vào mắt vợ. Trước khi Jesper đủ lớn để phụ việc ngoài đồng cho bố, anh được ở nhà với mẹ. Luôn có đồ cần giặt, thức ăn cần nấu, củi cần chẻ, và Jesper rất thích giúp mẹ.

“Đất đai của em thế nào?” Mẹ anh luôn hỏi như thế khi bố anh đi làm đồng về, và sau này Jesper biết trang trại đứng tên mẹ. Đó là món quà cưới của bố anh, người đã phải tán tỉnh Aditi Hilli gần cả năm trời mới được người đẹp mở lời.

“Đương hoa,” bố anh vừa đáp vừa hôn lên má vợ. “Cũng giống như em ấy, tình yêu của anh.”

Bố của Jesper luôn hứa chơi với anh và dạy anh đẽo gọt vào buổi tối, nhưng trăm lần như một, ông Colm ăn xong bữa tối là lăn đùng ra ngủ bên cạnh bếp lửa, đôi ủng chưa kịp tháo vẫn còn dính màu cam của hoa jurda ở đế. Jesper cùng mẹ tháo chúng khỏi chân bố, rồi đắp cho ông một cái chăn và làm nốt việc nhà. Hai mẹ con dọn dẹp bàn, gỡ quần áo khỏi dây phơi, rồi Aditi cho Jesper đi ngủ. Dù mẹ có bận đến đâu, dù có bao nhiêu con thú cần lột da hoặc rá rổ cần sửa lại, bà dường như vẫn có một nguồn năng lượng vô tận giống như Jesper, và luôn có thời gian để kể một câu chuyện hoặc ngân nga một bài hát trước khi anh ngủ.

Mẹ của Jesper là người đã dạy anh cưỡi ngựa, gắn mồi câu, làm cá, vặt lông chim, đánh lửa bằng hai thanh gỗ, và pha một tách trà đúng điệu. Bà cũng dạy anh bắn súng, đầu tiên là với một khẩu súng hơi không khác mấy so với đồ chơi trẻ con, sau đó là súng ngắn và súng trường. “Ai cũng có thể bắn,” mẹ đã bảo anh như thế. “Nhưng không phải người nào cũng nhắm bắn được.” Bà dạy anh ngắm xa, cách theo dấu con thú trong bụi rậm, những hiệu ứng đánh lừa mà ánh sáng gây ra cho mắt, lầm sao để canh chỉnh theo sức gió, bắn súng khi đang chạy hoặc cưỡi ngựa. Chẳng có gì mà bà không thể làm được.

Ngoài ra còn có cả những bài học bí mật nữa. Thỉnh thoảng, khi họ về nhà muộn và mẹ cần nấu bữa tối thật nhanh, mẹ làm nước sôi mà không cần nhóm bếp, làm bánh mì nở chỉ bằng cách nhìn vào nó. Jesper đã thấy bà xử lí các vết bẩn trên quần áo chỉ bằng cách vuốt nhẹ. Bà cũng tự làm thuốc súng bằng cách chiết xuất diêm tiêu từ một cái lòng hồ khô cạn ở gần nơi họ sống. “Sao lại phải trả tiền cho một thứ mà mẹ tự làm còn tốt hơn kia chứ?” Bà nói với Jesper như thế. “Nhưng con đừng có kể chuyện này với bố nhé?” Khi Jesper hỏi lí do, bà chỉ đáp, “Bởi vì bố đã có đủ chuyện để lo lắng, mẹ không thích mỗi khi bố lo lắng cho mẹ.” Nhưng bố vẫn lo, nhất là khi một trong những người bạn Zemeni của mẹ đến gõ cửa nhà họ để tìm kiếm sự giúp đỡ hoặc nhờ mẹ hàn gắn cái gì đó.

“Em tưởng bọn săn nô lệ không tìm đến đây được à?” Một đêm nọ bố đã hỏi như thế trong lúc rảo bước tới lui giữa căn nhà nhỏ, còn Jesper cuộn mình trong mền giả vờ ngủ để nghe lỏm câu chuyện. “Nếu tin đồn lan truyền về một Grisha đang sống ở đây…”

“Chữ đó,” bà Aditi phẩy tay duyên dáng, “đâu phải là em. Em không thể sống khác với bản thân, và nếu năng lực của em có thể giúp người, thì bổn phận của em là sử dụng nó.”

“Vậy con trai của chúng ta thì sao? Em có nợ nó điều gì không? Bổn phận đầu tiên của em là sống an toàn để bố con anh không mất em.”

Nhưng mẹ của Jesper chỉ đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt ông Colm, thật dịu dàng, thật ân cần, với tất cả tình yêu lấp lánh trong mắt. “Em sẽ là loại mẹ gì trong mắt con nếu như em giấu nhẹm năng lực của mình và để cho sự sợ hãi dẫn lối? Anh đã biết em là người như thế nào khi anh ngỏ lời với em rồi đấy, Colm. Bây giờ anh đừng bảo em phải hạ mình xuống.”

Và thế là sự giận dữ của bố Jesper cũng tiêu tan. “Anh biết. Anh chỉ không chịu nổi ý nghĩ bị mất em.”

Mẹ anh bật cười rồi hôn ông. “Vậy thì anh hãy giữ em ở bên,” bà nói với một cái nháy mắt. Và cuộc tranh cãi kết thúc. Cho đến lần tiếp theo.

Hoá ra bố của Jesper đã nhầm. Họ không mất bà Aditi vào tay bọn săn nô lệ.

Một đêm nọ, anh bật dậy khi nghe thấy nhiều tiếng nói, và từ bên dưới tấm mền, anh thấy mẹ khoác áo choàng lên người, bên ngoài chiếc áo ngủ, đội mũ rồi đi ủng. Lúc đó Jesper bảy tuổi, còn khá nhỏ, nhưng đủ lớn để biết phần lớn những mẩu đối thoại hấp dẫn diễn ra sau khi mình đã lên giường. Một người đàn ông Zemeni đứng trên ngưỡng cửa trong bộ quần áo cưỡi ngựa bụi bặm, và ông Colm lên tiếng, “Đang đêm hôm khuya khoắt, chuyện này có thể đợi đến sáng mai mà.”

“Nếu người đang gặp nạn là Jes thì anh có nói như vậy không?” Mẹ anh hỏi.

“Aditi…”

Mẹ hôn má bố, rồi đặt tay lên người Jesper và hỏi, “Thỏ con của mẹ thức hay ngủ?”

“Ngủ ạ,” anh đáp.

“Vậy là con đang nói mơ rồi.” Bà dém lại tấm mền, rồi hôn lên má và trán Jesper. “Ngủ đi nào, thỏ con, sáng mai mẹ sẽ về.”

Nhưng ngày hôm sau mẹ anh không quay về, và khi có tiếng gõ cửa vang lên vào ngày hôm sau nữa, người gõ không phải là mẹ anh, mà là người đàn ông Zemeni nọ.

Ông Colm ôm con trai vào lòng và bước ra cửa ngay. Ông đội mũ cho Jesper rồi ấn anh ngồi lên yên ngựa đằng trước mình, sau đó thúc ngựa phi nước đại. Người đàn ông bụi bặm cưỡi một con ngựa còn bụi bặm hơn, và họ đi theo ông ta qua nhiều dặm để tới một ngôi nhà màu trắng nằm cạnh một cánh đồng jurda. Nó đẹp hơn căn nhà nhỏ của họ, với hai tầng lầu và cửa sổ có lắp kính.

Người phụ nữ đứng chờ trên ngưỡng cửa tròn trịa hơn mẹ của Jesper, nhưng cao gần bằng, với mái tóc được tết thành những bím tóc dày. Bà ta vẫy họ vào trong nhà và nói, “Bà ấy đang ở trên gác.”

Trong những năm sau đó, khi Jesper xâu chuỗi lại chuyện đã xảy ra vào cái ngày khủng khiếp ấy, anh chỉ nhớ được rất ít chi tiết: ván sàn của ngôi nhà trắng được đánh bóng khiến anh có cảm giác như sờ vào lụa, đôi mắt của người phụ nữ đẫy đà, và bé gái - một đứa trẻ lớn hơn anh vài tuổi, với mái tóc tết giống hệt mẹ. Cô bé đã uống nước từ một cái giếng được đào quá gần một khu mỏ. Lẽ ra nó phải bị bít ván, nhưng thay vào đó người ta chỉ tháo cái xô đi. Trục tời vẫn còn đó, cùng với sợi dây thừng cũ. Bé gái cùng bạn bè đã dùng hộp đựng đồ ăn trưa để lấy thứ nước mát lạnh và trong vắt như sớm mai lên uống. Đêm đó cả ba đứa trẻ đều ngã bệnh. Hai đứa đã qua đời, nhưng mẹ của Jesper đã cứu được cô bé gái con của người phụ nữ đẫy đà.

Bà Aditi đã đến bên giường cô bé, ngửi cái hộp đựng đồ ăn trưa bằng kim loại, rồi đặt tay lên làn da hâm hấp sốt của cô bé. Vào trưa ngày hôm sau, cơn sốt đã chấm dứt, và màu vàng nơi tròng mắt của cô bé đã biến đi. Tối hôm đó, cô bé đã ngồi dậy và đòi ăn. Bà Aditi mỉm cười được một lần với cô bé trước khi ngã quỵ.

“Bà ấy đã thiếu cẩn trọng khi rút chất độc ra,” người đàn ông bụi bặm nói. “Bà ấy đã hấp thu nó quá nhiều. Tôi đã từng thấy điều đó trước đây với các zowa.” Zowa. Nó có nghĩa đơn giản lả “người được trời phú”. Đó là chữ mà mẹ của Jesper dùng thay cho Grisha. Chúng ta là zowa, bà đã nói như thế với Jesper khi làm một bông hoa nở bung chỉ bằng một cái búng tay. Con và mẹ.

Nhưng lúc đó họ không có ai để gọi đến cứu mẹ Jesper. Anh không rõ vì sao. Nếu bà tỉnh táo, nếu bà khoẻ hơn, có lẽ bà đã có thể tự chữa lành bản thân. Nhưng bà đã rơi vào hôn mê, hơi thở bà trở nên càng lúc càng nặng nhọc.

Jesper đã ngủ thiếp đi, má anh áp vào lòng bàn tay của mẹ, chắc mẩm rằng mẹ sẽ tỉnh lại bất cứ lúc nào, vuốt má anh và nói, “Con làm gì ở đây vậy, thỏ con?” Nhưng thay vào đó, anh tỉnh giấc trong tiếng nức nở của bố.

Họ đưa bà Aditi về trang trại và chôn cất bà dưới một cây anh đào đã bắt đầu nở hoa. Đối với Jesper, nó quá đẹp cho một ngày bi thương như vậy, và ngay cả bây giờ, khi nhìn những bông hoa màu hồng phớt trong một tủ kính bày hàng hoặc được thêu trên chiếc váy lụa của một cô gái, anh vẫn còn buồn. Chúng làm anh nhớ đến mùi đất mới đào, cơn gió vi vu thổi qua những cánh đồng, và chất giọng trầm run rẩy của bố anh hát một khúc ca cô độc, một bài hát tiếng Kaelish mà Jesper không hiểu.

Khi ông Colm hát xong, khi những nốt nhạc cuối cùng đã tan biến vào tán cây anh đào, Jesper hỏi bố, “Mẹ có phải là phù thuỷ không, bố?”

Ông Colm đặt một bàn tay lốm đốm vết tàn nhang lên vai cậu con trai và kéo lại gần. “Bà ấy là một nữ hoàng, Jes à,” ông đáp. “Bà ấy là nữ hoàng của bố con mình.”

Tối đó Jesper đã nấu bữa tối cho hai người. Anh làm cháy bánh quy và cho quá nhiều nước vào súp, nhưng bố anh ăn sạch sẽ. Rồi ông đọc cho anh nghe một quyển sách về các vị thánh của Kaelish cho đến khi ngọn lửa lụi dần, và nỗi đau trong lòng Jesper đủ dịu lại để cậu có thể ngủ thiếp đi. Kể từ đó cuộc sống của hai bố con diễn ra như thế. Họ chăm sóc nhau, làm đồng, thu hoạch và sấy hoa jurda vào mùa hè, cố gắng làm cho trang trại sinh lời. Tại sao như vậy lại còn chưa đủ?

Mặc dù vậy, Jesper vẫn biết nó sẽ không bao giờ là đủ. Anh không bao giờ có thể quay lại cuộc sống ấy. Anh không được sinh ra cho nó. Nếu mẹ anh còn sống, chắc bà đã dạy anh cách kiềm chế sự chộn rộn của mình. Lẽ ra bà đã chỉ cho anh cách sử dụng năng lực của mình thay vì che giấu nó. Có lẽ anh đã đi Ravka để trở thành một binh sĩ hoàng gia. Hoặc có lẽ anh vẫn ra nông nỗi này.

Jesper lau vết bột hoa jurda bám trên đầu ngón tay rồi đậy nắp cái lon

lại.

“Người Zemeni không chỉ dùng hoa,” anh nói. “Tôi còn nhớ mẹ tôi đã ngâm cuống hoa jurda vào sữa dê. Bà đã cho tôi uống nó khi tôi đi làm đồng.”

“Để làm gì?” Matthias hỏi.

“Để trung hoà hiệu ứng của việc hít phấn hoa jurda suốt cả ngày. Nó quá mạnh đối với cơ thể của một đứa trẻ, và không ai muốn tôi tăng động hơn vốn dĩ.”

“Cuống hoa á?” Kuwei hỏi lại. “Hầu hết mọi người đều vứt bỏ chúng.”

“Cuống hoa có chứa một loại nhựa thơm mà người Zemeni dùng để làm thuốc mỡ. Họ xoa chúng vào lợi và lỗ mũi của những đứa trẻ khi đốt jurda.” Jesper nhịp nhịp ngón tay trên cái lon thiếc, trong đầu bỗng nảy ra một ý nghĩ. Có khi nào thuốc giải cho jurda parem lại nằm chính trong cây jurda không? Anh không phải là một nhà hoá học, anh không tư duy giống như Wylan, và chưa bao giờ được huấn luyện để làm một Sáng Chế Gia thực thụ. Nhưng anh là con trai của mẹ anh. “Sẽ thế nào nếu một phiên bản của loại nhựa thơm đó có thể trung hoà hiệu ứng của jurda parem! Nhưng vẫn cần một cách để đưa nó vào…”

Đúng lúc đó cửa sổ vỡ tan. Jesper rút súng trong nháy mắt, trong lúc Matthias ấn đầu Kuwei xuống và tì súng trường lên vai. Họ dịch dần tới bức tường và Jesper đưa mắt quan sát qua lớp kính ghép màu bị vỡ. Trong bóng tối của nghĩa địa, cậu thấy những ngọn đèn lồng giơ cao, soi tỏ những hình bóng hẳn là con người - rất nhiều người.

“Trừ phi đêm nay ma quỷ sống dậy,” anh nói, “chúng ta có người bầu bạn rồi.”

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #sixofcrows