Phần Hai: Những Ông Hoàng Bà Chúa 13-16

13
NINA

Nina giận điên khi biết được Genya chẳng những chỉnh sửa cho Wylan mà còn cả Kaz, thế nhưng cô lại không được chứng kiến.

Kaz đã để cho Thợ May nổi tiếng chỉnh lại cái mũi, làm con mắt giảm sưng để anh có thể nhìn được, và xử lí một vài thương tổn trầm trọng nhất trên cơ thể. Nhưng anh chỉ cho phép có thế.

“Tại sao?” Nina thốt lên. “Chị ấy có thể…”

“Chị ta không biết phải dừng lại ở đâu,” Kaz đáp.

Nina đâm ngờ rằng Genya đã đề nghị chỉnh lại cái chân của Kaz. “Ồ, trông anh giống như thằng giang hồ tởm nhất khu Barrel vậy,” Nina nói. “Ít nhất anh nên để cho chị ấy xoá sạch các chỗ bầm tím còn lại.”

“Tôi là thằng giang hồ tởm nhất Barrel mà. Và nếu trông tôi không giống như vừa quần nhau với mười đứa thuộc hạ lì lợm nhất của Per Haskell thì sẽ không ai tin chuyện đó. Giờ thì bắt tay vào việc thôi, cô không thể mở tiệc nếu không gửi thư mời.”

Nina chẳng hề mong ngóng đến buổi tiệc này, nhưng sáng hôm sau, thông tin xuất hiện trên mọi tờ nhật báo, được dán lên mọi cây cột ở lối vào phía đông và phía tây của Sàn giao dịch, lại còn được đính lên cửa ra vào của Toà thị chính.

Nó được viết đơn giản như sau:

Kuwei Yul-Bo, con trai của Bo Yul-Bayur, Hoá học sĩ trưởng của Bhez

Ju, hiện đang rảnh rỗi và sẽ cung cấp giao kèo làm việc của mình cho thị trường cùng bàn tay của Ghezen định đoạt. Xin mời những người muốn mua tham gia vào một buổi đấu giá miễn phí và công bằng, tuân theo luật pháp của Kerch, các quy định của Hội đồng Thương buôn và sự giám sát của Hội đồng Thuỷ triều, tại nhà thờ Barter sau bốn ngày kể từ hôm nay. Các bên sẽ nhóm họp vào giữa trưa. Vinh danh Ghezen và nền thương mại trong tay Ngài.

Ketterdam vốn đã ầm ĩ do lệnh giới nghiêm và chặn đường. Giờ thì tin đồn lan truyền khắp các tiệm cà phê và tửu quán, được biến tấu rồi khuếch đại thêm từ các phòng khách ở Geldstraat cho tới các nhà thổ ở Barrel. Theo những thành viên của băng Cặn Bã mới, mọi người đang rất háo hức trước những thông tin về Kuwei Yul-Bo kì bí, và cuộc đấu giá cậu ta đã được liên hệ với vụ tấn công lạ lùng tại Tây Stave, trong đó những chiến binh có cánh đã gần như san phẳng hai nhà chứa. Inej đích thân quan sát toà đại sứ Shu Han và cho biết những người đưa tin đến rồi đi suốt buổi sáng, ngài đại sứ cũng đùng đùng đi tới bến cảng để yêu cầu Hội đồng Thuỷ triều giải phóng một trong những con tàu đang nằm phơi bụng của họ.

“Ông ta muốn có được một Sáng Chế Gia để họ có thể tạo ra vàng,” Jesper nói.

“Đáng tiếc là các hải cảng đã bị phong toả,” Kaz đáp.

Toà thị chính đã bị đóng cửa không cho dân chúng ra vào, và nghe nói Hội đồng Thương buôn đang họp khẩn để quyết định xem có cho phép phiên đấu giá diễn ra hay không. Đây là một phép thử: Họ sẽ tôn trọng luật lệ của Ketterdam, hay họ sẽ phá luật và tìm cách nào đó để chối bỏ quyền của Kuwei, căn cứ trên những nghi ngờ đối với cậu?

Trên đỉnh tháp đồng hồ, Nina chờ đợi những người còn lại trong khi quan sát cửa đông của Sàn giao dịch. Đúng giữa trưa, một người đàn ông mặc bộ áo đen của thương gia tiến đến gần vòm cổng, mang theo một chồng giấy. Đám đông ùa đến tranh giành những tờ rơi trên tay anh ta.

“Tội nghiệp Karl Dryden,” Kaz lên tiếng. Rõ ràng vì là thành viên trẻ tuổi nhất Hội đồng nên anh ta bị dính với công việc này.

Ít phút sau, Inej lao vào phòng khách sạn với một tờ rơi nắm trong tay. Thật không thể tin nổi. Nina đã nhìn thẳng xuống đám đông vây quanh Dryden mà không hề trông thấy cô.

“Bọn họ đã phê chuẩn phiên đấu giá,” Inej nói và đưa tờ giấy cho Kaz. Anh chuyền nó cho cả nhóm.

Nội dung của tờ rơi chỉ vỏn vẹn như sau: Phù hợp với luật pháp của Kerch, Hội đồng Thương buôn Ketterdam chấp nhận đại diện cho Kuwei Yul-Bo trong phiên đấu giá giao kèo làm việc của cậu. Vinh danh Ghezen và nền thương mại trong tay Ngài.

Jesper thở phào và đưa mắt nhìn bố mình, ông đang chăm chỉ nghiên cứu các báo cáo thị trường và kịch bản mà Nina đã soạn thảo cùng với

Kaz. “May là họ đã đồng ý.”

Inej đặt một tay lên cánh tay anh. “Giờ anh đổi ý vẫn chưa muộn đâu.”

“Muộn rồi,” Jesper đáp. “Muộn từ lâu lắm rồi.”

Nina không nói gì. Cô quý ông Colm và Jesper, nhưng cuộc đấu giá này là cơ hội tốt nhất mà họ có để đưa Kuwei tới Ravka và cứu mạng các Grisha.

“Thương gia là những mục tiêu hoàn hảo,” Kaz nói. “Bọn họ giàu có và ma lanh. Điều đó khiến họ dễ bị qua mặt hơn.”

“Sao lại thế?” Wylan thắc mắc.

“Người giàu muốn tin rằng họ xứng đáng với từng xu kiếm được, nên họ quên mất mình nợ thần may mắn điều gì. Người ma lanh luôn tìm kiếm những lỗ hổng. Họ muốn có cơ hội lách luật.”

“Vậy thì mục tiêu khó lừa gạt nhất là ai nào?” Nina vặn vẹo.

“Những người trung thực là mục tiêu khó khăn nhất,” Kaz đáp. “Ơn trời, họ luôn hiếm có khó tìm.” Anh gõ lên mặt kính đồng hồ, chỉ tay về phía Karl Dryden, người lúc này vẫn đang đứng ở Sàn giao dịch, cầm mũ phe phẩy quạt cho mát sau khi đám đông đã tản ra. “Dryden thừa hưởng gia tài của bố anh ta. Kể từ đó, anh ta là một nhà đầu tư quá nhát tay nên không thể làm tài sản của mình tăng lên đáng kể. Anh ta chỉ mong có một cơ hội để chứng tỏ bản thân với các thành viên khác của Hội đồng Thương buôn. Chúng ta sẽ cho anh ta một dịp may.”

“Chúng ta còn biết gì thêm về anh ta?” Nina hỏi.

Kaz gần như mỉm cười. “Anh ta được đại diện bởi ông bạn yêu chó quý hoá của chúng ta, Cornells Smeet.”

•••

Từ lần theo dõi trước đó, họ đã biết luật sư Cornells Smeet có những cậu chạy việc suốt ngày cầm hồ sơ chạy tới chạy lui giữa ông ta và khách hàng, xin những chữ kí cần thiết và chuyển các thông tin quan trọng. Đội đưa tin này được trả công hậu hĩnh đến mức người ta không thể mua chuộc được, nhất là nếu như một trong số họ thuộc nhóm nhỏ những người trung thực trên kia.

Theo cách nào đó, họ phải cảm ơn Van Eck vì đã giúp Kaz giăng bẫy

dễ dàng hơn. Trong bộ đồng phục thị tuần, Anika và Pim đã chặn tốp nhân viên đưa tin của Smeet, nhưng không bắt phạt gì mà chỉ yêu cầu xem danh tính và lục soát túi. Các giấy tờ mật được niêm phong không phải là mục tiêu của họ. Họ chỉ cần rắc một ít vụn bánh để thu hút anh chàng Karl Dryden.

“Đôi khi một tên trộm lọc lõi không chỉ lấy đi,” Kaz nói. “Hắn còn để lại thứ gì đó phía sau.”

Cùng với Specht, Wylan chế ra một con dấu dùng để áp lên mặt sau của một bì thư niêm kín. Nó sẽ tạo ra ấn tượng rằng cái phong bì đã thấm mực từ một tài liệu khác, như thể người thư kí bất cẩn đã đặt nó lên một tờ giấy chưa kịp ráo. Khi người đưa thư chuyển nó cho Dryden, nếu tò mò một chút thì anh ta sẽ đọc những con chữ đó. Và anh ta sẽ phát hiện ra một điều rất thú vị - bức thư được viết bởi một khách hàng khác của Smeet. Tên của vị khách hàng này không thể đọc được, nhưng nội dung thư nêu rõ một câu hỏi dành cho luật sư: Ông ta có biết một lão nông tên là Johannus Rietveld, chủ tịch một liên doanh những người Kerch và Zemeni chuyên trồng jurda hay không? Người này đang hội họp tại khách sạn Geldrenner với một nhóm các nhà đầu tư có chọn lọc. Có thể nào kết nối với lão nông đó được không?

Trước khi cuộc đấu giá Kuwei được công bố, thông tin trên có vẻ chẳng quan trọng mấy. Nhưng sau đó, nó trở thành mấu chốt có thể giúp người ta kiếm được cả gia tài.

Trước khi giăng bẫy bằng lá thư giả, Kaz đã thu xếp cho ông Colm dùng bữa tại nhà hàng lộng lẫy màu tím với một số người trong giới thương gia và ngân hàng của Kerch. Ông Colm luôn giữ khoảng cách với các khách trọ khác, thoả sức gọi món, và luôn hạ giọng khi nói chuyện với các vị khách của mình. Nội dung của các mẩu đối thoại khá vô hại - những báo cáo mùa vụ và chỉ số lợi nhuận - nhưng không ai trong nhà hàng biết điều đó. Mọi thứ diễn ra ngay dưới mắt các nhân viên khách sạn, nên khi các thành viên của Hội đồng Thương buôn đến hỏi han về ngài Rietveld, họ sẽ nhận được những câu trả lời mà Kaz mong muốn.

Nina có mặt trong tất cả những cuộc gặp gỡ đó, cô đóng vai người trợ lí đa ngôn ngữ của ngài Rietveld, một Độc Tâm Y đang tìm việc làm sau vụ phá hoại Nhà Hồng Bạch. Dù đã bôi đầy chiết xuất cà phê để đánh lừa khứu giác của bọn Kherguud, cô vẫn cảm thấy mình quá lộ liễu khi ngồi đó, trong nhà hàng của khách sạn. Kaz đã cắt cử các thành viên băng Cặn Bã liên tục quan sát những con phố xung quanh khách sạn để phát hiện dấu vết của đám chiến binh người Shu. Không ai quên rằng bọn chúng đang truy lùng các Grisha, và Nina là một mục tiêu hấp dẫn nếu chúng phát hiện ra các cuộc gặp gỡ. Việc tóm giữ một Độc Tâm Y mà chúng có thể chuốc parem sẽ cho phép bọn chúng thay đổi cục diện buổi đấu giá, đồng thời vô hiệu hoá Hội đồng Thuỷ Triều. Tuy vậy, Nina vẫn cảm thấy khá tin tưởng rằng những thương gia biết đến sự hiện diện của ngài Rietveld tại khách sạn sẽ giữ kín chuyện này. Kaz đã giảng giải rất kĩ cho cô về sức mạnh của lòng tham, và những người này luôn muốn mình độc chiếm món lợi.

Nina đánh giá cao sự chăm chút mà Kaz đã dành cho diện mạo của ông Colm. Ông vẫn ăn mặc như một nông dân, nhưng anh đã thực hiện một số nâng cấp tinh tế - áo khoác đẹp hơn, đôi giày được đánh bóng, kẹp cà vạt bằng bạc gắn một viên thạch anh tím thô nho nhỏ. Đó là những dấu hiệu của sự giàu có mà các thương gia sẽ để ý và đánh giá cao - không một thứ gì quá loè loẹt hay phô trương, không một điểm nào có thể gây nghi ngờ.

Các thương gia cũng giống như đa phần mọi người, họ muốn tin rằng mình là những người nắm thế chủ động.

Về phần Nina, Genya đã tặng cho cô một bộ kefta đỏ rực trong bộ sưu tập của chị, và họ đã thay đổi hết các họa tiết thêu, biến tấu chúng từ màu xanh sang màu đen. Genya và cô không mặc cùng cỡ áo, nhưng họ đã tháo chỉ để may thêm một ít vải. Thật khác lạ khi được mặc một chiếc kefta thực thụ sau chừng ấy thời gian. Chiếc mà Nina mặc ở Nhà Hồng Bạch chỉ là món phục trang rẻ tiền dùng để gây ấn tượng cho đám khách làng chơi. Còn chiếc này là đồ thật, được mặc bởi binh sĩ của Hạ Quân, làm từ lụa nguyên chất nhuộm thứ màu đỏ mà chỉ có các Sáng Chế Gia mới tạo ra được. Bây giờ cô có được quyền mặc một thứ như thế nữa hay không?

Khi Matthias nhìn thấy cô, anh cứng người lại trên ngưỡng cửa, đôi mắt xanh hiện rõ sự bàng hoàng. Họ đã đứng đó trong im lặng, cho đến khi anh lên tiếng: “Trông em rất đẹp.”

“Ý anh là trông em giống như kẻ thù.”

“Cả hai điều đó đều đúng.” Rồi anh dang rộng vòng tay đón cô.

Nina từng căng thẳng vì ông Colm giữ vai trò chủ chốt trong phi vụ này. Ông rõ ràng là một người nghiệp dư, và trong vài cuộc gặp đầu tiên với những ông chủ nhà băng hoặc nhân viên tư vấn, sắc mặt ông xanh gần bằng bát súp đậu của mình. Nhưng rồi theo thời gian, sự tự tin của ông lớn dần, và Nina bắt đầu cảm thấy khấp khởi hi vọng.

Tuy vậy, vẫn không có thành viên nào của Hội đồng Thương buôn tìm đến để gặp gỡ Johannus Rietveld. Có lẽ Dryden chưa hề nhìn thấy dấu vết của tài liệu giả, hoặc quyết định không hành động. Hoặc là Kaz đã đánh giá quá cao lòng tham của anh ta.

Thế rồi, khi chỉ còn bốn mươi tám giờ nữa là tới buổi đấu giá, Johannus Rietveld nhận được một lá thư từ Karl Dryden thông báo rằng anh ta muốn gặp ông vào cùng ngày và hi vọng được thảo luận về những vấn đề làm ăn có thể có lợi cho đôi bên. Jesper cố gắng trấn an sự căng thẳng của bố, trong lúc Kaz ra các chỉ dẫn cho Anika và Pim. Nếu muốn câu được Dryden, họ phải bảo đảm rằng những con cá lớn khác cũng quan tâm đến miếng mồi. Nina và ông Colm trải qua các cuộc gặp gỡ vào buổi sáng tại nhà hàng như thường lệ, và cô phải nỗ lực hết sức để làm ông bình tĩnh.

Đúng mười một giờ, cô thấy hai người đàn ông mặc bộ đồ thương gia màu đen bước vào nhà hàng. Họ không dừng lại để hỏi xem cần phải tìm ông Johannus Rietveld ở đâu, mà đi thẳng tới bàn của ông - dấu hiệu rõ nét của việc họ đã quan sát và thu thập thông tin về ông.

“Họ đây rồi,” Nina thì thào với ông Colm, và lập tức hối tiếc khi ông ngồi thẳng lại và bắt đầu ngọ nguậy trên ghế.

Cô nắm tay ông. “Nhìn cháu đây này,” có nói. “Hỏi cháu về thời tiết đi.”

“Sao lại thời tiết?” Ông hỏi, mồ hôi vã ra trên trán.

“Bác có thể hỏi cháu về kiểu giày mới nhất nếu bác thích thế hơn. Cháu chỉ đang tìm cách làm cho bác tỏ ra tự nhiên.” Cô cũng đang cố gắng giữ nguyên nhịp tim của chính mình, một việc mà ngày trước cô có nhắm mắt cũng làm được, bởi lẽ cô đã nhận ra người đàn ông đi cùng Dryden. Chính là Jan Van Eck.

Hai người đàn ông tiến đến bàn của họ, và bỏ mũ ra.

“Ngài Rietveld?”

“Vâng?” Ông Colm cao giọng. Khởi đầu không ổn rồi. Nina đá khẽ nhất có thể vào chân ông dưới bàn. Ông ho húng hắng. “Có chuyện gì vậy, các ngài?”

Trong quá trình chuẩn bị, Kaz đã nhất quyết ép Nina học thuộc mọi màu sắc và biểu tượng của các gia tộc trong Hội đồng Thương buôn, nên cô nhận ra ngay những chiếc kẹp cà vạt của hai người - nhánh lúa mì bằng vàng quấn dải băng men xanh của dòng họ Dryden, và vòng nguyệt quế đỏ của dòng họ Van Eck. Ngay cả không có chiếc kẹp cà vạt, cô cũng nhận ra sự giống nhau giữa Jan Van Eck và Wylan. Cô quan sát cái trán hơi hói của ông ta. Wylan tội nghiệp có lẽ sắp phải đầu tư vào mấy món thuốc bổ huyết rồi.

Dryden hắng giọng một cách trịnh trọng. “Tôi là Karl Dryden, còn đây là ngài Jan Van Eck đáng kính.”

“Ngài Dryden!” Ông Colm thốt lên với một sự ngạc nhiên hơi quá lố. “Tôi đã nhận được lời nhắn của ngài. Đáng tiếc là ngày hôm nay tôi đã kín lịch.”

“Tôi tự hỏi liệu chúng ta có thể nói chuyện vài phút được không?

“Chúng tôi không muốn làm mất thời gian của ngài,” Van Eck nói với một nụ cười quyến rũ bất ngờ. “Cũng như của chúng tôi.”

“Tốt thôi,” bố của Jesper đáp, thể hiện một sự miễn cưỡng tương đối thuyết phục. “Mời các ngài ngồi.”

“Cảm ơn ngài,” Van Eck nở một nụ cười khác. “Theo chúng tôi biết, ngài đại diện cho một liên doanh những người trồng jurda.”

Ông Colm nhìn quanh như thể lo ngại bị người khác nghe thấy. “Cũng có thể. Làm thế nào các ngài có được thông tin này?”

“Tôi e rằng mình không được quyền tiết lộ.”

“Ngài ấy đang che giấu gì đó,” Nina lên tiếng.

Dryden và Van Eck cùng nhíu mày một lượt.

“Tôi biết thông tin từ thuyền trưởng của chiếc tàu đã đưa ngài tới đây,” Van Eck đáp.

“Ngài ấy đang nói dối,” Nina nhận xét.

“Làm sao cô biết được?” Dryden bực bội hỏi.

“Tôi là Grisha,” Nina nói với một cái phẩy tay. “Không có bí mật nào lọt qua được tầm nắm bắt của tôi.” Cô tận hưởng một chút thích thú với bản thân.

Môi dưới của Dryden biến mất khi anh ta căng thẳng hút nó vào trong, còn Van Eck thì nói với giọng miễn cưỡng, “Cũng có thể một số thông tin nhạy cảm đã đến tai chúng tôi thông qua văn phòng của luật sư Cornells

Smeet.”

“Tôi hiểu rồi,” ông Colm đáp với vẻ mặt sa sầm.

Nina chỉ muốn vỗ tay. Giờ thì hai gã thương gia đã rơi vào thế chống đỡ.

“Chúng tôi quan tâm đến việc tham gia vào danh sách đầu tư của ngài,” Van Eck nói.

“Tôi không cần thêm nhà đầu tư nào nữa.”

“Sao có thể thế được?” Dryden hỏi. “Ngài mới chỉ đến đây chưa được một tuần.”

“Tình hình đã thay đổi. Tôi không hoàn toàn hiểu được chuyện này, nhưng đã có một cuộc tranh giành nguồn cung jurda.”

Lúc này Van Eck chồm hẳn người tới trước, mắt nheo lại. “Thú vị đây, ngài Rietveld. Làm thế nào ngài lại xuất hiện ở Ketterdam vào một thời điểm trùng hợp đến thế? Sao bây giờ ngài lại quyết định khởi động một liên doanh những người trồng jurda?”

Phòng ngự ghê thật. Nhưng Kaz đã chuẩn bị rất kĩ cho ông Colm.

“Nếu các ngài cần biết thì vài tháng trước, có một người đã bắt đầu mua lại các trang trại trồng jurda ở ngoại ô Cofton, nhưng không ai xác định được danh tính của người này. Một số người trong chúng tôi cho rằng đang có một mưu đồ gì đó, nên chúng tôi quyết định không bán cho ông ta, mà thay vào đó lập ra doanh nghiệp của chúng tôi.”

“Một người mua ẩn danh à?” Dryden tò mò hỏi lại. Van Eck tỏ vẻ hơi khó chịu.

“Phải,” Nina đáp. “Ngài Rietveld và các đối tác đã không thành công trong việc tìm hiểu danh tính của người đó. Nhưng biết đâu các ngài đây sẽ may mắn hơn. Nghe nói ông ta là người Kerch.”

Van Eck thu người lại trên chiếc ghế. Làn da tái của lão ta nhuốm màu xanh vỏ vẹm. Tình thế lại xoay chuyển một lần nữa. Điều cuối cùng mà Van Eck muốn là người khác điều tra về kẻ đã mua lại những cánh đồng jurda kia. Nina khẽ huých ông Colm. Họ càng tỏ ra ít quan tâm tới tiền của Hội đồng, Hội đồng lại càng muốn dâng nó cho họ.

“Thật ra,” ông Colm nói tiếp, “nếu các ngài xác định được người này, các ngài có thể tham gia vào kế hoạch của ông ta. Có lẽ ông ta vẫn đang tìm người đầu tư.”

“Không,” Van Eck đáp với giọng hơi xẵng. “Nói cho cùng, ngài đang ở đây rồi, và ngài có thể đại diện cho lợi ích của chúng tôi. Sao lại phải phí thời gian và công sức vào những cuộc điều tra vô nghĩa? Mỗi người đều có quyền mưu cầu lợi ích ở nơi mà anh ta tìm thấy nó.”

“Quả vậy,” Dryden nói, “rất có thể nhà đầu tư đó đã đánh hơi được tình hình rắc rối hiện tại với phía Shu…”

Van Eck ném cho anh ta một cái nhìn cảnh cáo. Rõ ràng lão không muốn công chuyện của Hội đồng bị rò rỉ một cách dễ dãi như vậy. Dryden vội vàng ngậm miệng.

Nhưng rồi Van Eck chắp hai bàn tay lại và nói, “Thu thập thông tin cũng có ích. Tôi sẽ đích thân điều tra về người mua kia.”

“Vậy thì có lẽ chúng ta không cần hành động quá sớm,” Dryden nhận định.

Đúng là nhát cáy, Nina nghĩ bụng. Cô liếc nhìn dấu hiệu của Anika từ ngoài hành lang. “Ngài Rietveld, cuộc gặp sắp tới của ngài? Cô liếc mắt đầy hàm ý ra hành lang, nơi Rotty - cực kì bảnh bao trong trang phục đen của thương gia - đang dẫn một nhóm người đi vào nhà hàng.

Van Eck và Dryden nháy nhau khi trông thấy Jellen Radmakker, một trong những nhà đầu tư giàu có nhất của Kerch, đang đi qua hành lang. Sự thật là ngay khi yêu cầu gặp mặt của Dryden được gửi đến, một số nhà đầu tư cũng được mời tới tham gia một buổi trình bày về tương lai dầu mỏ của Novyi Zem, vốn không có liên quan gì với nhân vật hư cấu Johannus Rietveld. Tất nhiên là Van Eck và Dryden không biết chuyện đó. Điều quan trọng là họ phải tin rằng mình có thể mất đi cơ hội đầu tư. Nina cũng khá tiếc vì cô sẽ không có dịp nghe Jesper ba hoa về thị trường tài nguyên trong suốt một tiếng đồng hồ.

Nina đá một cú nữa vào chân ông Colm dưới bàn.

“Vâng,” ông vội nói. “Tôi phải đi rồi, thưa các ngài. Rất vui vì được g…”

“Giá cổ phần là bao nhiêu?” Dryden hỏi luôn.

“Tôi e rằng ở vào thời điểm muộn màng thế này, tôi không thể nhận thêm…”

“Nếu chúng tôi cùng tham gia thì sao?” Van Eck hỏi.

“Cùng tham gia?”

“Hội đồng Thương buôn tin rằng giá của jurda sẽ sớm thay đổi. Cho tới dạo gần đây, chúng tôi vẫn còn bị bó buộc bởi vai trò công bộc của dân chúng. Nhưng buổi đấu giá sắp tới đã cởi trói để chúng tôi theo đuổi những vụ đầu tư mới.”

“Như vậy có hợp pháp không?” Ông Colm hỏi, trán nhăn lại để thể hiện sự quan ngại vô cùng sâu sắc.

“Nhất định rồi. Chúng tôi bị cấm tác động đến kết quả đấu giá, nhưng việc đầu tư vào quỹ của ngài hoàn toàn nằm trong khuôn khổ luật pháp và có lợi cho cả đôi bên.”

“Tôi hiểu việc đầu tư có thể có lợi cho các ngài, nhưng…”

“Ngài chỉ tiếp xúc với những nhà đầu tư riêng lẻ. Nếu như Hội đồng Thương buôn trở thành nhà đầu tư chính của ngài thì sao? Nếu như quỹ đầu tư chỉ dành chỗ cho chúng tôi thì sao? Hội đồng đại diện cho mười ba gia tộc lâu đời và có địa vị nhất của Kerch, với công việc kinh doanh phát đạt, nguồn vốn dồi dào. Những chủ trang trại trong liên doanh của ngài sẽ không tìm được đối tác nào tốt hơn đâu.”

“Tôi… tôi không biết,” ông Colm nói. “Chuyện này rõ ràng rất hấp dẫn, nhưng tôi cần một sự đảm bảo nghiêm túc, nếu chúng tôi tự chuốc lấy rủi ro theo cách này. Nếu Hội đồng rút lại, chúng tôi sẽ mất hết các nhà đầu tư.”

Dryden xù lông nhím. “Không một thành viên nào của Hội đồng được vi phạm hợp đồng, chúng tôi tham gia với con dấu của mình, và mọi chuyện sẽ được chứng kiến bởi một thẩm phán do ngài lựa chọn.”

Nina gần như có thể thấy rõ các bánh răng đang quay tít trong đầu Van Eck. Không nghi ngờ gì nữa, đã có những nhà nông từ chối bán ruộng đất ở Novyi Zem. Giờ đây lão ta có cơ hội kiểm soát không chỉ những cánh đồng jurda đã mua được, mà cả một phần đáng kể của những cái lão thâu tóm thất bại. Nina cũng tự hỏi với số tiền mà Ketterdam tiêu tốn cho việc tìm kiếm con trai lão, Van Eck hẳn đang chịu áp lực trong việc mang lại cho Hội đồng một cơ hội đầu tư tốt.

“Hãy cho chúng tôi bốn mươi tám tiếng…” Van Eek mở lời.

Vẻ mặt ông Colm đầy tiếc nuối, “Tôi e rằng tôi phải kết thúc công việc của mình ở đây trong đêm nay. Tôi đã mua vé rồi.”

“Các hải cảng đã bị đóng,” Van Eck nói. “Ngài sẽ không đi đâu được.”

Cái quắc mắt lạnh người mà bố của Jesper dành cho Van Eck khiến

Nina sởn gai ốc. “Tôi cảm thấy mình đang bị chèn ép quá, thưa ngài Van Eck, và tôi không thích điều này.”

Van Eck cầm cự trước ánh mắt của ông Colm trong vài giây. Nhưng rồi lòng tham của lão đã thắng.

“Hai mươi tư giờ,” Van Eck nói.

Ông Colm giả vờ ngần ngại. “Hai mươi tư giờ. Nhưng tôi không hứa gì đâu đấy. Tôi phải làm những gì tốt nhất cho liên doanh của mình.”

“Tất nhiên,” Van Eck nói khi họ đứng dậy và bắt tay. Chúng tôi chỉ yêu cầu ngài khoan đưa ra quyết định cuối cùng cho tới khi chúng tôi có cơ hội trình bày về việc này với Hội đồng. Tôi nghĩ ngài sẽ thấy đề xuất của chúng tôi rất hào phóng.”

Ông Colm đưa mắt nhìn theo hướng mà Radmakker đã đi. “Tôi nghĩ mình có thể làm được. Chúc các ngài một ngày thuận lợi.”

Khi Nina quay người đi theo ông ra khỏi nhà hàng, Van Eck bỗng lên tiếng, “Cô Zenik này.”

“Vâng?”

“Tôi nghe nói cô từng làm việc ở Nhà Hồng Bạch.” Môi lão hơi cong lên, như thể nói ra cái tên của một nhà thổ cũng là một hành vi đồi trụy.

“Vâng.”

“Tôi nghe nói người Độc Tâm Y ở đó thỉnh thoảng vẫn cộng tác với

Kaz Brekker.”

“Tôi từng làm việc này việc nọ cho Brekker trước đây,” Nina thừa nhận luôn. Tốt nhất là ra đòn. Cô bắt tay Van Eck và mỉm cười khi thấy toàn thân lão dường như co rúm lại. “Nhưng hãy tin tôi, nếu tôi biết anh ta đã đưa con trai ngài đi đâu thì tôi sẽ báo ngay với cơ quan chức năng.”

Van Eck cứng người. Rõ ràng lão không muốn lái câu chuyện theo hướng đó. “ Tôi… cám ơn cô.”

“Tôi không thể hình dung được nỗi đau mà ngài đang phải trải qua. Làm thế nào Brekker lại đụng tới con trai ngài được?” Nina nói tiếp. “Tôi cứ tưởng hệ thống an ninh của ngài…”

“Wylan lúc đó không có ở nhà.”

“Không sao?”

“Con trai tôi đang học nhạc ở Belendt.”

“Thế các giáo viên của cậu ấy nói gì về vụ bắt cóc?”

“Tôi…” Van Eck ngần ngại nhìn Dryden. “Họ cũng rất bàng hoàng.”

“Chắc là cậu ấy đã giao du với những người không tốt?”

“Chắc thế.”

“Tôi hi vọng cậu ấy không dây vào Kaz Brekker,” Nina nhún vai.

“Wylan sẽ không…”

“Tất nhiên là không rồi,” Nina vừa nói vừa vuốt lại cổ tay áo kefta và bắt đầu đi khỏi nhà hàng. “Chỉ có kẻ ngu mới làm thế.”

14
KAZ

Nina rất mệt, Kaz có thể thấy rõ điều đó. Tất cả bọn họ đều mệt mỏi.

Ngay cả anh cũng không có lựa chọn nào khác ngoài nghỉ ngơi sau cuộc ẩu đả. Cơ thể anh đã ngừng nghe lời anh. Anh đã vượt qua một giới hạn vô hình và tắt ngấm. Anh không nhớ mình đã ngủ thiếp đi. Anh không mơ. Một tích tắc trước anh còn đang nằm nghỉ trong căn phòng ngủ nhỏ nhất của dãy phòng hạng sang, xem lại các chi tiết của kế hoạch, tích tắc sau anh đã ở trong bóng tối, hoảng loạn, không biết mình đang ở đâu và làm thế nào lại đến đây.

Khi với tay bật đèn, anh cảm thấy đau nhói. Phải chịu đựng những cái chạm nhẹ của Genya khi chị xem xét các vết thương của anh đúng là khổ sở thật, nhưng lẽ ra anh nên để cho bà chị Thợ May ấy chữa cho mình thêm chút nữa. Anh vẫn còn một đêm dài trước mắt, và kế hoạch đấu giá không giống với bất kì cái gì anh từng làm trước đây.

Thời còn ở trong băng Cặn Bã, Kaz từng nghe và chứng kiến nhiều chuyện, nhưng cuộc đối thoại với Sturmhond ở trong phòng tắm nắng đã vượt qua tất cả những chuyện đó.

Họ đi qua các chi tiết của kế hoạch, những gì họ cần Genya làm, dự kiến của Kaz về kết cục của phiên đấu giá. Anh muốn Sturmhond bắt đầu tham gia ở mức năm mươi triệu và đoán người Shu sẽ phản công bằng những bước giá khoảng chục triệu hoặc hơn. Anh cần bảo đảm sự tham gia của phía Ravka. Một khi cuộc đấu giá được loan báo thì phải tiến hành thôi. Không thể có đường lùi được nữa.

Tay thuyền trưởng khá thận trọng, anh ta hỏi dồn về việc nhóm của Kaz được thuê làm vụ Lâu Đài Băng ra sao, cũng như việc làm thế nào họ tìm ra và giải thoát Kuwei. Kaz cung cấp đủ lượng thông tin để thuyết phục Sturmhond rằng Kuwei chính là con trai của Bo Yul-Bayur, nhưng anh không việc gì phải tiết lộ cụ thể đường đi nước bước cũng như những năng lực thực sự của các thành viên trong nhóm. Ai mà biết được, nhỡ đâu Sturmhond có thứ gì đấy mà một ngày nào đó anh muốn đánh cắp thì sao.

Cuối cùng, Sturmhond vuốt phẳng lại vạt áo choàng màu xanh két của mình và nói, “Thôi được, Brekker, rõ ràng là cậu chỉ làm việc với các sự thật nửa vời và những lời nói dối lộ liễu, nên cậu chính là người phù hợp cho vụ này.”

“Chỉ có một chuyện này,” Kaz nói, xem xét cái mũi gãy và mái tóc đỏ của tay thuyền trưởng. “Trước khi chúng ta cùng dắt tay nhau nhảy khỏi vách đá, tôi muốn biết chính xác người mà tôi đang hợp tác là ai.”

Sturmhond nhướn mày. “Chúng ta chưa từng rong ruổi cùng nhau, cũng chưa từng xẻ áo cho nhau, nhưng tôi nghĩ hai ta đã được giới thiệu với nhau một cách đủ văn minh.”

“Thực ra anh là ai, thuyền trưởng?”

“Đây có phải là một câu hỏi sống còn không?”

“Không một tên trộm nào ăn nói như anh.”

“Cậu nên suy nghĩ cởi mở hơn.”

“Tôi biết con trai của một người giàu có trông như thế nào, và tôi không tin có vị vua nào lại cử một tay thuyền trưởng tầm thường đi xử lí vụ việc nhạy cảm này.”

“Tầm thường,” Sturmhond chế nhạo. “Cậu có được học về chính trị không vậy?”

“Tôi biết cách thương lượng. Anh là ai? Chúng tôi cần được biết sự thật, hoặc nhóm của tôi sẽ rút lui.”

“Sao cậu dám chắc điều đó là khả thi, Brekker? Tôi đã biết kế hoạch của cậu. Tôi đi cùng với hai Grisha huyền thoại nhất thế giới, và tôi chiến đấu cũng không tệ đâu nhé.”

“Còn tôi là thằng giang hồ cống rãnh đã đưa Kuwei Yul-Bo sống sót thoát khỏi Lâu Đài Băng. Hãy nói cho tôi biết anh có bao nhiêu cơ may trước tôi.” Nhóm của anh không thể cạnh tranh lại người Ravka về khoản quần áo và tước hiệu, nhưng Kaz biết mình sẽ đặt cược vào đâu nếu còn tiền.

Sturmhond chắp tay lại sau lưng, và Kaz nhận thấy một sự thay đổi rất nhỏ trong cung cách của anh ta. Đôi mắt Sturmhond không còn ánh lên tia thích thú, lúc này chúng có một sức nặng bất ngờ. Anh ta không thể là một thuyền trưởng tầm thường.

“Xem nào,” Sturmhond lên tiếng, mắt nhìn xuống phố phường Ketterdam bên dưới, “theo giả thiết, tất nhiên rồi, vua Ravka có mạng lưới gián điệp cài sâu trong Kerch, Fjerda và Shu Han, ngài biết một cách chính xác tầm quan trọng của Kuwei Yul-Bo đối với vận mệnh vương quốc mình. Cứ coi như nhà vua không tin tưởng người nào cho cuộc thương lượng ngoại trừ bản thân mình, nhưng ngài cũng biết sẽ nguy hiểm đến thế nào nếu vi hành một cách chính danh trong khi Ravka vẫn còn chưa hết rối ren, bản thân ngài lại không có người nối dõi và sự kế tục vương triều Lantsov chưa hề được bảo đảm.”

“Vậy là theo giả thiết,” Kaz nói, “người ta có thể phải gọi anh là bệ hạ.”

“Hoặc một loạt những danh xưng mĩ miều khác. Theo giả thiết.” Sturmhond nhìn Kaz với ánh mắt thăm dò. “Nhưng làm thế nào cậu biết tôi không phải là người mà tôi xưng danh, Brekker?”

Kaz nhún vai. “Anh nói tiếng Kerch như thể đó là tiếng mẹ đẻ - một thứ bản ngữ phong phú. Anh không ăn nói như một kẻ giao du với đám thuỷ thủ và giang hồ tứ xứ.”

Tay thuyền trưởng hơi nghiêng người, hoàn toàn tập trung vào Kaz. Sự xuề xoà của anh ta đã biến mất, giờ đây trông anh ta như một người có thể điều khiển cả đạo quân. “Cậu Brekker,” anh ta nói. “Hay là Kaz, tôi xin mạn phép gọi cậu như vậy nhé? Tôi đang ở vào một tình thế nhạy cảm. Tôi là vị vua cai quản một quốc gia có ngân khố rỗng tuếch, lưỡng đầu thọ địch. Bên cạnh đấy cũng tồn tại những thế lực bên trong nước tôi có thể tranh thủ sự vắng mặt của tôi để tranh giành quyền lực.”

“Anh đang nói rằng anh sẽ là một con tin tuyệt hảo.”

“Tôi đồ rằng khoản tiền chuộc tôi sẽ ít hơn nhiều so với cái giá dành cho Kuwei. Thật đấy, nó làm tổn thương sâu sắc đến lòng tự trọng của tôi.”

“Trông anh chẳng có vẻ gì là tổn thương cả,” Kaz nói.

“Tôi đã tạo ra Sturmhond hồi còn trẻ, và danh tiếng của anh ta vẫn còn phục vụ tốt cho tôi. Tôi không thể đấu giá Kuwei dưới danh nghĩa nhà vua Ravka. Tôi hi vọng kế hoạch của cậu sẽ diễn ra như cậu hình dung. Nhưng nếu nó không diễn ra như thế, đó sẽ là một thất bại đáng xấu hổ cả về mặt ngoại giao lẫn chiến lược. Tôi tham gia đấu giá với danh nghĩa Sturmhond, hoặc không tham gia. Nếu nó là vấn đề thì…”

Kaz đặt tay lên cây gậy chống. “Chỉ cần anh không tìm cách lừa tôi thì

anh tham gia với danh nghĩa bà tiên Istamere tôi cũng mặc.”

“Thật hay khi có các lựa chọn được để ngỏ.” Sturmhond lại nhìn ra thành phố. “Vụ này có thể nào thành công được không, cậu Brekker? Hay tôi đang liều lĩnh với vận mệnh của Ravka và giới Grisha khi tin tưởng vào danh dự cũng như năng lực của một thằng nhóc lẻo mép?”

“Cả hai đều đúng phần nào,” Kaz đáp. “Anh đang liều lĩnh với một đất nước. Chúng tôi đang liều lĩnh với sinh mạng của mình. Có vẻ công bằng.”

Nhà vua Ravka chìa tay ra. “Thoả thuận nhé?”

“Thoả thuận.”

Họ bắt tay nhau.

“Giá mà các hiệp ước có thể được kí kết nhanh chóng như thế này,” Sturmhond nói, cung cách thuyền trưởng đã lại quay về như thể anh ta vừa đeo một chiếc mặt nạ mua ở Tây Stave. “Tôi sẽ đi uống và tắm táp một chút. Người ta chỉ có thể chấp nhận chừng này bùn đất và bụi bẩn là cùng. Như một người kháng chiến từng nói với một hoàng tử, nó không tốt cho làn da.” Anh ta ra vẻ như phủi thứ bụi vô hình trên vạt áo rồi bước ra khỏi phòng tắm nắng.

Kaz vuốt tóc và xốc lại áo xống. Thật khó mà tin một thằng giang hồ cống rãnh lại mới thoả thuận với một nhà vua. Anh nghĩ đến cái mũi gãy đã mang lại cho tay thuyền trưởng diện mạo của một người từng nhiều phen chinh chiến. Theo những gì Kaz biết thì nhà vua của Ravka đúng là đã từng vào sinh ra tử, nhưng chắc hẳn anh ta cũng đã cho Thợ May chỉnh sửa các đường nét khuôn mặt. Thật khó mà ẩn danh khi mặt bạn nằm chình ình trên tờ tiền. Nói cho cùng, cho dù có là vua hay không, Sturmhond cũng là một kẻ lừa đảo thượng hạng, nên tất cả những gì quan trọng lúc này là anh ta và người của anh ta hoàn thành phần việc của mình.

Kaz xem đồng hồ - đã quá nửa đêm, muộn hơn anh muốn. Anh đi tìm Nina, và bị bất ngờ khi thấy Jesper đứng chờ ngoài hành lang.

“Chuyện gì vậy?” Kaz hỏi, trong đầu lập tức nghĩ đến những thứ có thể sai hỏng trong lúc anh đang ngủ.

“Không có gì,” Jesper đáp. “Hay là không nhiều hơn thường lệ.”

“Vậy cậu muốn gì?”

Jesper nuốt nước bọt rồi nói, “Matthias đã đưa hết chỗ parem còn lại cho anh, đúng không?”

“Thì sao?”

“Nếu có chuyện gì xảy ra… người Shu sẽ xuất hiện ở buổi đấu giá, có thể cả bọn Kherguud nữa. Vụ này quá nguy hiểm. Tôi không thể bỏ mặc bố tôi được. Tôi cần parem, như một giải pháp an toàn.”

Kaz đưa mắt dò xét Jesper hồi lâu. “Không.”

“Chết tiệt. Tại sao không chứ?”

Một câu hỏi hợp lí. Đưa parem cho Jesper sẽ là một nước cờ thông minh, một nước đi thuận tiện.

“Bố cậu thương cậu hơn bất kì mảnh đất nào…”

“Nhưng…”

“Tôi sẽ không để cậu biến mình thành kẻ tử vì đạo đâu, Jes. Nếu một trong số chúng ta nằm xuống, tất cả chúng ta sẽ cùng nằm xuống.”

“Đây là lựa chọn của tôi.”

“Nhưng hình như tôi mới là người có quyền quyết định.”

Kaz bỏ đi về phía phòng khách. Anh không muốn tranh cãi với Jesper, nhất là khi không hoàn toàn chắc chắn vì sao mình lại từ chối ngay lập tức. “Jordie là ai?”

Kaz khựng lại. Anh biết câu hỏi sẽ đến, nhưng việc nghe thấy cái tên của anh trai mình vẫn quá đỗi khó khăn với anh. “Một người mà tôi đã tin tưởng.” Anh liếc qua vai và bắt gặp đôi mắt xám của Jesper. “Một người mà tôi đã từng không muốn đánh mất.”

Kaz tìm thấy Nina và Matthias đang ngủ trên sô pha trong phòng khách tím. Tại sao hai thành viên to xác nhất nhóm lại chọn cái chỗ chật hẹp nhất để nằm ngủ, anh không hiểu nổi. Anh lấy cây gậy chọc vào người Nina. Không buồn mở mắt, cô tìm cách hất nó đi.

“Thức dậy và tươi tỉnh lên nào.”

“Biến đi,” cô nói, rồi vùi mặt vào ngực Matthias.

“Đi thôi, Zenik. Người chết còn chờ được, chứ tôi thì không.”

Cuối cùng cô nhỏm dậy và xỏ giày. Cô đã thay bộ kefta bằng áo khoác và quần dài từng mặc trong vụ Bãi Ngọt. Matthias quan sát mọi cử chỉ của cô, nhưng không yêu cầu đi theo hai người. Anh biết sự hiện diện của mình chỉ càng làm tăng rủi ro cho họ.

Inej xuất hiện trên ngưỡng cửa, và họ im lặng đi tới thang máy. Lệnh giới nghiêm đang được áp dụng trên các đường phố Ketterdam, nhưng không còn cách nào khác. Họ sẽ phải trông cậy vào vận may và khả năng trinh sát dò đường của Inej để tránh các tốp thị tuần.

Họ rời khách sạn bằng cửa sau và đi về phía khu vực công xưởng của Ketterdam. Họ rảo bước chậm rãi, vòng vèo qua các chốt chặn, chốc chốc lại dừng trong lúc Inej biến đi trước khi xuất hiện trở lại, ra hiệu cho họ chờ đợi hoặc đổi lộ trình, và lại mất hút.

Cuối cùng họ cũng đến được nhà xác, một công trình bằng đá xám không có gì đặc biệt nằm ở rìa của khu vực kho bãi. Phía trước nhà xác có một khu vườn từ lâu không ai lui tới. Chỉ có thi thể của người giàu được mang tới đây để chuẩn bị cho việc vận chuyển và mai táng phía ngoài thành phố. Nó không phải là đống xác người trên đảo Tử Thần, nhưng Kaz vẫn có cảm giác như anh đang bước vào một cơn ác mộng. Anh nghĩ đến giọng nói của Inej vang vọng trên lớp đá trắng. Tiếp tục đi.

Nhà xác vắng tanh, cánh cổng sắt được khoá chặt. Kaz phá khoá và ngoái đầu quan sát những cái bóng di động trong khu vườn rậm rạp. Anh không thể trông thấy Inej, nhưng anh biết cô đang ở đó. Cô sẽ canh chừng lối vào trong lúc họ hoàn tất công việc.

Bên trong nhà xác lạnh ngắt, mọi thứ chỉ được chiếu sáng bằng một ngọn đèn tử thi với ánh lửa xanh lam. Có một phòng hậu sự, và phía sau nó là một gian phòng bằng đá rộng, với những dãy tủ nhiều ngăn xếp thành hàng, đủ lớn để chứa xác. Toàn bộ nơi này bốc mùi tử khí.

Anh nghĩ đến mạch đập nơi cổ Inej, sự ấm áp của làn da cô khi anh áp môi vào. Anh cố gạt bỏ ỷ nghĩ đó. Anh không muốn kí ức đó gắn với căn phòng thối rữa này.

Kaz chưa bao giờ quên được nỗi kinh hoàng của cái đêm ở cảng Ketterdam, kí ức về thi thể của anh trai mà anh ôm chặt trong lúc tự nhắc mình đạp chân mạnh hơn nữa, hít thở thêm nữa, giữ nổi cơ thể, để sống sót. Anh đã vào được bờ, và dành cả đời để trả mối thù đó. Nhưng cơn ác mộng của anh không chịu biến mất. Kaz cứ tưởng nó sẽ thoái lui một cách dễ dàng. Anh sẽ không cần đắn đo trước khi bắt tay người khác hoặc đi vào những khu vực chật hẹp. Nhưng không, mọi chuyện trở nên tồi tệ đến nỗi anh không thể chạm vào ai đó trên phố mà không mường tượng ra mình đang ở ngoài cảng, trên đảo Tử Thần, vây quanh là những xác người, hoặc đang bơi dưới nước, bấu víu vào da thịt trơn tuột của Jordie để khỏi chết chìm.

Tình hình đã đi xa đến mức nguy hiểm. Có lần Gorka quá chén ở Thiên Đường Xanh, Kaz và Ấm Trà đã phải đưa anh ta về nhà. Họ dìu anh ta qua sáu khối phố, cơ thể Gorka ngả nghiêng, hết áp làn da hôi hám vào Kaz rồi lại dựa vào Ấm Trà, giải phóng anh trong chốc lát - mặc dù anh vẫn có thể cảm thấy cánh tay lông lá của anh ta đè lên gáy mình.

Sau đó, Ấm Trà bắt gặp Kaz co quắp trong phòng tắm, người run lẩy bẩy và ướt đẫm mồ hôi. Anh giả vờ rằng mình bị trúng thực, răng anh đánh lập cập trong lúc chèn chân vào cánh cửa để cho Ấm Trà đi ra ngoài. Anh không thể chạm vào anh ta, nếu không muốn mất trí hoàn toàn.

Ngay hôm sau, anh mua cho mình đôi găng tay đầu tiên - cái thứ rẻ tiền màu đen luôn bị thôi màu mỗi khi gặp nước. Yếu đuối là vấn đề sinh tử tại Barrel. Người ta có thể đánh hơi thấy nó nơi bạn giống như ngửi thấy máu vậy, và nếu Kaz muốn hạ gục Pekka Rollins, anh không thể cho phép mình run lẩy bẩy trên sàn phòng tắm thêm một lần nào nữa.

Kaz không bao giờ giải đáp thắc mắc về đôi găng tay, không bao giờ đáp trả những lời chế nhạo. Anh cứ đeo chúng hết ngày này qua ngày khác, chỉ cởi ra khi ở một mình. Anh tự nhủ rằng đây chỉ là biện pháp tạm thời, và nó không ngăn được anh làm chủ các trò tiểu xảo, học xào và chia bài thậm chí còn khéo hơn cả khi không đeo găng. Đôi găng giúp anh cách nước, giúp cho anh khỏi chết chìm khi những kí ức đêm đó đe dọa kéo anh xuống. Khi đeo găng vào, anh có cảm giác như được vũ trang tốt hơn cả một con dao hay khẩu súng, cho tới khi anh gặp Imogen.

Lúc đó anh mười bốn tuổi, chưa phải là phó tướng của Per Haskell, nhưng đang tạo dựng tên tuổi qua từng trận đánh và phi vụ. Imogen mới đến Barrel, lớn hơn anh một tuổi. Con nhỏ đã chán những trò ăn cắp vặt mà nó tiến hành cùng một băng nhóm nhỏ ở Zierfoort. Kể từ khi đến Ketterdam, nó loanh quanh trong hai khu Stave, làm những công việc lặt vặt và tìm cách len lỏi vào một trong các băng nhóm của Barrel. Kaz lần đầu trông thấy Imogen lúc nó phang chai vào đầu một thằng Chim Cắt táy máy tay chân. Lần thứ hai là khi Per Haskell bảo Kaz đi ghi cược cho các trận đấu võ đài mùa xuân. Con nhỏ đầy tàn nhang, răng cửa bị hở, nhưng có thể đứng vững giữa một cuộc ẩu đả.

Một đêm nọ, khi họ đang đứng cạnh võ đài trống vắng để đếm lại số tiền kiếm được, con bé đã chạm vào ống tay áo của anh, và khi anh ngẩng lên, nó chậm rãi mỉm cười, môi mím lại để anh không thấy kẽ hở giữa hai chiếc răng cửa.

Sau đó, khi nằm trên chiếc nệm cứng quèo trong phòng ngủ chung ở Thanh Gỗ, Kaz nhìn lên trần nhà bị thấm dột, nghĩ đến cái cách mà Imogen mỉm cười với mình, nghĩ tới chiếc quần dài trễ cạp trên hông nó. Con nhỏ có dáng đi xiên, như thể luôn tiếp cận mọi thứ ở một góc chéo. Anh thích thế. Anh thích nó.

Cơ thể con người chẳng có gì là bí mật tại Barrel. Không gian chật chội, và người ta đón nhận lạc thú ở nơi tìm thấy nó.

Những thằng con trai khác trong băng Cặn Bã cứ liên tục khoe về những cuộc chinh phục của mình. Kaz chẳng nói gì. May mắn là anh không nói gì trong hầu như mọi chuyện, nên cũng không sao. Nhưng anh biết những điều người ta chờ đợi anh nói, những thứ đáng lẽ anh phải mong muốn. Anh muốn chứ, trong những khoảnh khắc, trong thoáng chốc - một cô gái băng qua đường trong chiếc váy màu xanh ngọc hờ hững khoe bờ vai trần, một vũ công di chuyển như ngọn lửa trong một buổi biểu diễn tại Đông Stave, tiếng cười của Imogen như thể anh vừa kể câu chuyện hài hước nhất trên đời khi mà anh chẳng nói năng gì mấy.

Anh co tay lại trong chiếc găng, lắng nghe những thằng cùng phòng ngáy vang. Mình có thể vượt qua chuyện này, anh tự nhủ. Anh mạnh hơn sự bệnh hoạn này, mạnh hơn lực kéo của nước. Anh không gặp khó khăn gì khi nghiên cứu hoạt động của một sòng bài, anh từng làm điều đó. Khi anh quyết định tự học về tài chính, anh cũng làm chủ được nó. Kaz nghĩ đến nụ cười chậm rãi, mím môi của Imogen và ra một quyết định. Anh sẽ chinh phục điểm yếu này theo cùng cách mà anh đã chinh phục mọi thứ trên con đường của mình.

Anh bắt đầu từ những động thái mà không ai để ý. Chia bài cho một ván bài cào mà không mang găng. Ngủ một đêm với đôi găng nhét dưới gối. Thế rồi, khi Per Haskell cử anh và Ấm Trà đi đánh dằn mặt thằng ranh Beni vì thiếu nợ không trả, Kaz đã chờ cho đến khi dồn được nó vào một con hẻm và Ấm Trà bảo anh khoá chặt tay nó để tuột đôi găng ra, như một phép thử dễ dàng.

Ngay khi tiếp xúc với cổ tay của Beni, cảm giác ghê tởm chụp lên anh. Nhưng Kaz đã chuẩn bị và đương đầu với nó, phớt lờ những giọt mồ hôi lạnh trong lúc bẻ quặt khuỷu tay của Beni ra sau lưng. Kaz ép mình dùng thân người kẹp chặt cơ thể gã, trong lúc Ấm Trà nhắc lại từng điều khoản trong món nợ của gã với Per Haskell, kết thúc mỗi mục bằng một cú đấm vào mặt hoặc vào bụng Beni.

Mình ổn mà, Kaz lự nhú, Mình có thể xử lí chuyện này. Thế rồi nước dâng lên.

Lần này những ngọn sóng cao như các chóp đỉnh của nhà thờ Barter, tóm lấy anh và lôi anh xuống, với sức nặng mà anh không thể thoát khỏi.

Trong tay anh lại là cơ thể đang phân hủy trương phình của Jordie. Kaz xô nó ra, thở hổn hển lấy hơi.

Sự việc tiếp theo mà Kaz ý thức được là anh đang dựa người vào một bức tường gạch. Ấm Trà quát mắng anh vì đã để xổng mất Beni. Bầu trời xám xịt trên đầu anh, mùi hôi hám của con hẻm tràn ngập lỗ mũi anh, trộn lẫn giữa mùi rác rưởi và nước tiểu.

“Cái chó gì vậy, Brekker?” Ấm Trà hét lên, khuôn mặt vằn đỏ vì nộ khí, mũi như muốn bốc khói theo cách đáng lẽ rất tức cười. “Mày vừa thả nó ra đó! Nếu nó có dao thì sao hả?”

Kaz chỉ lơ mơ ghi nhận điều đó. Beni gần như không chạm vào anh, nhưng không hiểu sao, khi không có đôi găng tay, mọi chuyện tệ hại hơn nhiều. Sự tiếp xúc của da thịt, cái mềm mại của một cơ thể khác ở sát gần cơ thể anh.

“Mày có đang nghe tao nói không đấy, hả thằng nhãi?” Ấm Trà túm áo Kaz, các đốt ngón tay lướt qua cổ anh, khiến một đợt sóng kinh tởm khác ập vào anh. Hắn lay anh cho đến khi răng anh va vào nhau lập cập.

Ấm Trà đã trút vào Kaz trận đòn mà hắn định dành cho Beni. Rồi bỏ mặc anh nằm hấp hối trong con hẻm. Bạn không thể mềm yếu hoặc bị sao nhãng trong lúc tiến hành một phi vụ. Khi mà đồng đội đang trông chờ ở bạn. Kaz co tay lại trong đôi găng, nhưng không tung cú đấm nào hết.

Anh mất gần một giờ để lết ra khỏi con hẻm, và nhiều tuần lễ để xây dựng lại danh tiếng bị tổn hại. Mọi vấp váp ở Barrel đều có thể dẫn tới một cú ngã chí mạng. Anh đi tìm Beni để khiến gã phải ao ước rằng người đánh mình là Ấm Trà. Anh đeo găng và không tháo ra, Anh tàn nhẫn và đánh mạnh gấp đôi. Anh không còn bận tâm đến việc tỏ ra bình thường, cứ để cho mọi người thấy sự điên loạn trong anh và để họ đoán nốt phần còn lại. Ai đến quá gần, anh tung cú đấm. Ai dám đặt tay lên người anh, anh bẻ cổ tay, một bên, hai bên, rồi cả quai hàm. Tay Nhám, họ gọi anh như thế. Con chó dại của Haskell. Cơn cuồng nộ trong anh bùng cháy, và anh học cách coi khinh những người phàn nàn, van xin, những kẻ cam chịu. Để tao dạy cho mày biết đau là thế nào, anh sẽ nói như vậy, rồi vẽ một bức tranh bằng nắm đấm.

Tại võ đài, lần tiếp theo Imogen đặt tay lên ống tay áo của Kaz, anh đã nhìn thẳng vào mắt con bé cho đến khi nụ cười mím môi đó tan biến. Con bé buông tay. Và nhìn đi chỗ khác. Anh tiếp tục đếm tiền.

Lúc này, Kaz gõ cây gậy chống xuống sàn nhà xác.

“Ta kết thúc chuyện này thôi,” anh nói với Nina và nghe thấy giọng mình vang vọng một cách ồn ào quá mức trên mặt đá lạnh lẽo. Anh muốn ra khỏi chỗ này càng nhanh càng tốt.

Bắt đầu ở hai phía đối diện với nhau, họ quan sát ngày tháng trên các ngăn tủ, tìm một thi thể trong tình trạng phân huỷ phù hợp. Ngay cả việc nghĩ tới chuyện này cũng làm cho ngực Kaz thắt lại. Nó giống như một tiếng thét đang tích tụ. Nhưng đầu óc anh đã ấp ủ kế hoạch này, biết rằng nó sẽ dẫn anh tới đây.

“Đây rồi,” Nina nói.

Kaz băng qua gian phòng tiến đến chỗ cô. Đứng trước ngăn tủ, không ai trong hai người muốn mở nó ra. Kaz biết cả hai người bọn họ đều đã từng nhìn thấy hàng đống tử thi. Bạn không thể kiếm sống trên đường phố khu Barrel hoặc chiến đấu trong hàng ngũ Hạ Quân mà chưa từng chạm mặt cái chết. Nhưng đây lại là chuyện khác. Đây là sự phân huỷ sau cái chết.

Cuối cùng, Kaz móc đầu quạ của cây gậy chống vào tay nắm và kéo.

Ngăn tủ nặng hơn anh tưởng, nhưng nó mở ra một cách trơn tru. Anh đứng yên.

“Chúng ta có chắc đây là ý hay không vậy?” Nina hỏi.

“Tôi luôn chào đón nếu cô có ý tưởng hay hơn,” Kaz đáp.

Nina thở dài, rồi kéo tấm vải khỏi thi thể. Cảnh tượng khiến Kaz nghĩ tới một con rắn đang lột da.

Người đàn ông ở độ tuổi trung niên, đôi môi đã đen thẫm vì sự phân huỷ.

Hồi còn bé, Kaz từng nín thở mỗi khi đi qua một nghĩa địa, chắc mẩm rằng nếu mở miệng thì một thứ gì rất kinh khủng sẽ chui vào. Căn phòng chao nghiêng. Anh cố gắng hít thở, buộc mình quay lại với thực tại. Anh xoè các ngón tay đeo găng, cảm nhận lớp da căng lên, và nắm chặt cây gậy chống trong lòng bàn tay.

“Tôi tự hỏi ông ta đã chết như thế nào,” Nina thì thầm trong khi quan sát những nếp da xám ngoét của khuôn mặt người chết.

“Một mình,” Kaz đáp, mắt nhìn những đầu ngón tay của ông ta. Có cái gì đó đã gặm chúng. Lũ chuột cống hẳn đã phát hiện ra ông ta trước khi người ta tìm thấy. Hoặc là một trong những con vật nuôi của ông ta. Kaz lấy trong túi ra cái hộp thuỷ tinh đậy kín mà anh đã nẫng của Genya. “Lấy những gì cô cần đi.”

•••

Đứng trên tháp đồng hồ khách sạn, Kaz quan sát những người trong nhóm. Thành phố vẫn đang chìm trong bóng tối, nhưng bình minh sẽ sớm ló dạng và họ sẽ đi theo những lộ trình tách biệt: Wylan và ông Colm tới một tiệm bánh không người để chờ phiên đấu giá bắt đầu. Nina đi đến khu Barrel với một số nhiệm vụ cần làm. Inej vào vị trí trên mái nhà thờ Barter.

Về phần mình, Kaz sẽ bước xuống quảng trường phía trước Sàn giao dịch cùng với Matthias và Kuwei. Ở đó họ sẽ được một tốp thị tuần hộ tống vào trong nhà thờ. Kaz tự hỏi Van Eck sẽ cảm thấy như thế nào khi các sĩ quan của mình lại đi bảo vệ một thằng khốn khu Barrel.

Anh cảm thấy là chính mình nhiều hơn so với nhiều ngày vừa qua. Vụ mai phục ở nhà của Van Eck đã làm anh chao đảo. Anh không sẵn sàng cho việc Pekka Rollins tham gia vào chuyện này. Anh chưa chuẩn bị cho sự nhục nhã mà nó gây ra, cho sự quay lại mạnh mẽ của những kí ức về Jordie.

Em đã phụ lòng anh. Giọng nói của anh trai anh vang lên, lớn hơn bao giờ hết. Em đã để cho lão qua mặt một lần nữa.

Kaz đã gọi Jesper bằng tên của anh trai mình. Một sơ sẩy tệ hại. Nhưng có lẽ anh muốn trừng phạt cả hai. Lúc này Kaz đã lớn hơn Jordie lúc anh ấy đầu hàng bệnh dịch Thị Nữ. Giờ đây anh có thể nhìn lại và thấy sự kiêu hãnh của anh trai mình, khát vọng thành công nhanh chóng của anh ấy. Anh đã phụ lòng em, Jordie. Anh lớn hơn. Anh đáng lẽ phải là đứa khôn ngoan.

Anh nghĩ tới câu hỏi của Inej. Không ai bảo vệ các anh sao? Anh nhớ Jordie ngồi bên cạnh mình trên chiếc cầu, còn sống và tươi cười, nhớ hình ảnh phản chiếu của chân họ trên mặt nước bên dưới, nhớ sự ấm áp của tách sôcôla nóng trong đôi tay đeo găng. Đáng lẽ chúng ta phải chăm sóc lẫn nhau.

Họ từng là hai cậu bé nhà nông mất bố, lạc lõng trong cái thành Ketterdam này. Thế nên Pekka mới lừa được họ. Không chỉ là sự cám dỗ của đồng tiền. Lão ta đã cho họ một gia đình mới. Một bà vợ giả hiệu làm món hutspot, một đứa con gái giả hiệu để Kaz chơi cùng. Pekka Rollins đã dụ hai anh em bằng ngọn lửa ấm áp và sự hứa hẹn về một cuộc sống mà họ đã bị mất.

Và đó là thứ huỷ diệt bạn: ước mơ về một điều mà bạn không bao giờ có được.

Anh điểm lại những khuôn mặt mà mình đã chiến đấu bên cạnh và đổ máu cùng. Anh từng nói dối họ, và cũng từng bị lừa dối. Anh từng đưa họ vào địa ngục và lôi họ trở ra.

Kaz đặt bàn tay lên cây gậy chống, lưng quay về phía thành phố.

“Chúng ta đều muốn những thứ khác biệt từ ngày hôm nay. Tự do, sự cứu rỗi…”

“Tiền bạc,” Jesper đề xuất.

“Nhiều tiền. Có rất nhiều người tìm cách cản đường chúng ta. Van Eck. Hội đồng Thương buôn. Pekka Rollins và đàn em của lão. Một vài quốc gia khác, và hầu hết những người trong cái thành phố bị thánh thần ruồng bỏ này.”

“Đáng lẽ đây phải là một lời động viên chứ?” Nina thắc mắc.

“Họ không biết chúng ta là ai. Không thực sự biết. Họ không biết những gì ta đã làm, những điều ta đã thực hiện cùng nhau. Kaz gõ cây gậy chống xuống sàn. “Thế nên ta hãy cho họ thấy họ đã chọn sai người để tuyên chiến như thế nào.

15
WYLAN

Tôi đang làm gì ở đấy thế này?

Cúi người trên chậu rửa, Wylan vã nước lạnh lên mặt. Sau vài giờ nữa, cuộc đấu giá sẽ bắt đầu. Họ sẽ rời khỏi phòng khách sạn trước khi bình minh ló dạng. Nếu có bất kì ai tới tìm Johannus Rietveld sau phiên đấu giá thì sẽ thấy ông đã ra đi từ lâu rồi.

Cậu nhìn lần cuối hình ảnh mình trong chiếc gương mạ vàng. Khuôn mặt đang nhìn cậu đã quen thuộc trở lại, nhưng thực sự thì cậu ta là ai? Một tên tội phạm? Một kẻ đào tẩu? Một thằng nhóc với kiến thức về chất nổ ở mức tạm được - hoặc trên mức tạm được?

Tôi là con trai của Marya Hendriks.

Cậu nghĩ tới mẹ mình, bị bỏ rơi cùng với đứa con khiếm khuyết của bà. Lúc đó bà có còn đủ trẻ để sinh một đứa con nối dõi thực thụ không? Lúc đó cha cậu có biết rằng một ngày nào đấy ông ta sẽ tự tay phủi sạch sự tồn tại của Wylan trên đời không?

Tôi đang làm gì ở đấy thế này?

Nhưng cậu đã biết câu trả lời. Chỉ cậu mới có thể thấy cha mình bị trừng trị cho những gì ông ta đã làm. Chỉ cậu mới có thế thấy mẹ mình được giải thoát.

Wylan xem xét hình ảnh mình trong gương. Đôi mắt của cha. Những lọn tóc xoăn của mẹ. Cũng hay khi được làm người khác trong một khoảng thời gian, để quên đi cậu là một người mang họ Van Eck. Nhưng cậu không muốn lẩn tránh nữa. Cậu đã trốn chạy suốt từ khi bị những ngón tay của Prior siết chặt cổ họng. Chuyện này cũng có thể đã bắt đầu từ trước đó, vào cái buổi chiều cậu ngồi trong nhà ăn hoặc cuộn mình trên bậu cửa sổ, sau lớp rèm, hi vọng mọi người quên phứt mình đi, bà vú em bỏ về nhà mình, và người gia sư không bao giờ đến.

Cha cậu đã muốn con trai mình biến mất. Ông ta muốn cậu biến mất theo cái cách mà ông ta đã làm mẹ cậu biến mất, và trong một khoảng thời gian dài, Wylan cũng muốn như vậy. Nhưng chuyện đó đã thay đổi khi cậu đặt chân đến khu Barrel, khi cậu có công việc đầu tiên, khi cậu gặp gỡ Jesper, Kaz và Inej, khi cậu bắt đầu nhận ra mình có giá trị.

Jan Van Eck sẽ không được thoả nguyện. Cậu sẽ không đi đâu hết.

“Tôi ở đây vì mẹ,” cậu nói với tấm gương soi.

Cậu trai với đôi má hồng trong gương chẳng tỏ ra bị ấn tượng chút nào.

•••

Mặt trời chỉ vừa ló dạng thì Pim đã dẫn Wylan và ông Colm rời cửa hậu của khách sạn, len qua một loạt những ngã rẽ lắt léo để tới quảng trường phía trước sàn giao dịch. Thường thì tiệm bánh trên phố Beurstraat đã hoạt động vào giờ này để chuẩn bị phục vụ các nhà môi giới và thương nhân trên đường tới sàn giao dịch. Nhưng phiên đấu giá sắp diễn ra đã làm đảo lộn việc kinh doanh thường lệ, và ông chủ tiệm bánh quyết định đóng cửa tiệm, chắc là để giành lấy một chỗ ngồi xem tận mắt buổi đấu giá.

Suốt một lúc lâu họ đứng trước cửa tiệm bánh, trên quảng trường vắng tanh, trong khi Pim loay hoay với ổ khoá. Wylan nhận ra mình đã quen với sự khéo léo của Kaz mỗi khi phá khoá đột nhập nơi nào đó. Cánh cửa mở ra với tiếng leng keng hơi ồn ào quá, và ba người bước vào trong.

“Không đổ lệ,” Pim nói. Anh quay trở ra trước cả khi Wylan kịp đáp.

Các khay bánh đều trống rỗng, nhưng mùi bánh mì ngọt ngào vẫn vương vấn trong tiệm. Wylan và ông Colm ngồi xuống sàn nhà, tựa lưng vào dãy kệ, cố gắng thu xếp tư thế thoải mái cho mình. Kaz đã cho họ những chỉ dẫn rất kĩ lưỡng, và Wylan không có ý định phớt lờ chúng. Không một ai được phép nhìn thấy Johannus Rietveld tại thành phố này nữa, và Wylan biết chính xác cha cậu sẽ làm gì với cậu nếu tìm thấy con trai mình lảng vảng trên đường phố Ketterdam.

Họ ngồi im lặng trong nhiều giờ. Ông Colm ngủ gà gật. Wylan ngâm nga một giai điệu mà cậu có trong đầu dạo gần đây. Nó sẽ cần một bộ gõ, một thứ gì đó có âm thanh lạch tạch tạch như loạt súng bắn.

Wylan thận trọng nhòm qua cửa sổ và thấy vài người đã đi tới nhà thờ Barter, những con sáo đá bay trên quảng trường, và đằng kia, cách họ vài trăm mét, là lối vào của Sàn giao dịch. Cậu không cần phải căng mắt ra đọc những chữ được khắc trên vòm cổng. Cậu đã nghe cha mình nhắc lại vô số lần. Enjent, Voorhent, Almhent. Siêng năng, Chính trực, Thịnh vượng. Jan Van Eck đã làm tốt được hai trong ba cái đó.

Wylan không nhận ra ông Colm đã thức cho tới khi ông lên tiếng. “Điều gì đã khiến cậu nói dối để bao che cho con trai tôi trong nhà mồ hôm nọ?”

Wylan hạ người ngồi xuống sàn trở lại. Cậu cẩn thận lựa chọn từ ngữ. “Cháu nghĩ cháu biết việc làm hỏng mọi thứ là như thế nào.”

Ông Colm thỏ dài. “Jesper sai nhiều cái lắm. Nó bất cẩn, ngu ngốc, và

đùa cợt những thứ không nên đùa, nhưng mà…” Wylan chờ đợi ông nói tiếp. “Điều mà bác đang cố nói là, thằng bé thực sự là một rắc rối, rối tinh rối mù. Nhưng nó đáng giá.”

“Cháu…”

“Và nó như vậy là do lỗi của bác. Bác đã cố gắng bảo vệ nó, nhưng có lẽ bác đã chất lên vai nó một thứ gì đó còn tệ hại hơn những nguy hiểm mà bác thấy lởn vởn ngoài kia.” Ngay cả trong ánh sáng sớm mai nhợt nhạt luồn qua cửa kính hiệu bánh, Wylan cũng có thể trông thấy sự mệt mỏi trên gương mặt ông Colm. “Bác đã phạm sai lầm lớn.”

Wylan dùng ngón tay vạch một đường trên sàn nhà. “Bác đã cho anh ấy một người để tựa nhờ. Bất kể những gì anh ấy đã làm, hoặc làm hỏng, cháu nghĩ rằng chuyện đó lớn hơn những sai lầm lớn của bác.”

“Cháu thấy không? Đó là lí do nó thích cháu. Bác biết, bác biết, đây không phải việc của bác, và bác không rõ thằng bé có phải là lựa chọn tốt đối với cháu hay không. Có lẽ nó chỉ mang lại cho cháu hàng đống chuyện đau đầu. Nhưng bác nghĩ cháu là lựa chọn tốt đối với nó.”

Khuôn mặt Wylan nóng bừng. Cậu biết ông Colm yêu quý con trai mình đến mức nào, cậu đã thấy điều đó trong từng cử chỉ của ông. Thật ý nghĩa khi ông cho rằng cậu đủ tốt với con trai ông.

Một tiếng động vang lên từ chỗ gần cửa giao hàng, khiến hai bác cháu lặng người.

Wylan nhỏm dậy, tim đập thình thịch. “Bác nhớ nhé,” cậu thì thào với ông Colm. “Không được ra mặt.”

Wylan đi qua chỗ mấy cái lò nướng để tới cửa sau của tiệm bánh. Mùi hương ở đây mạnh hơn, bóng tối mịt mùng hơn, nhưng căn phòng trống không. Báo động giả.

“Không…”

Cánh cửa giao hàng bật mỏ. Những bàn tay chộp lấy Wylan từ phía sau. Đầu cậu bị lôi ngược lại, miệng bị banh ra để nhét giẻ vào. Một cái túi nhanh chóng trùm qua đầu cậu.

“Ê, thiếu gia,” một chất giọng trầm mà Wylan không nhận ra vang lên. “Sẵn sàng gặp lại bố mày chưa?”

Chúng bẻ quặt cánh tay cậu ra sau, và Wylan bị lôi qua cửa giao hàng của tiệm bánh. Cậu loạng choạng, gần như không bước đi được, không nhìn thấy gì và cũng không định hướng được. Cậu ngã xuống, đầu gối đập vào đá đau điếng, trước khi bị lôi dậy.

“Đừng có bắt bọn tao phải vác mày lên, thiếu gia. Tiền công không bao gồm chuyện đó.”

“Lối này,” một giọng con gái vang lên. “Pekka đang ở mặt nam của nhà thờ.”

“Đứng lại,” một giọng nói khác cất lên. “Tụi bay có gì đó?”

Giọng nói này có tính chất mệnh lệnh trong đó. Thị tuần, Wylan nghĩ bụng.

“Một người mà ngài Uỷ viên hội đồng Van Eck sẽ rất vui sướng khi được gặp.”

“Có phải nó ở trong băng của Kaz Brekker không?”

“Ngậm miệng lại và chạy đi báo ông ta rằng Kim Sư có một món quà chờ ông ta tại nhà nguyện quân sự.”

Wylan nghe thấy tiếng đám đông ở cách đó không xa. Có phải họ đang ở gần nhà thờ không? Giây lát sau, cậu bị kéo mạnh tới trước, và âm thanh thay đổi. Họ đã vào trong nhà. Không khí lạnh hơn, ánh sáng tối đi. Cậu bị lôi lên một đợt cầu thang nữa, ống chân đập vào bậc thang đau điếng, trước khi chúng ấn cậu vào một cái ghế và trói tay cậu sau lưng.

Wylan nghe thấy tiếng bước chân đi lên cầu thang, và tiếng cánh cửa mở ra.

“Bọn tôi đã bắt được nó,” chất giọng trầm ban nãy vang lên.

“Ở đâu?” Tim Wylan hụt mất một nhịp. Đọc đi nào, Wylan. Một đứa bé bằng nửa tuổi con đã có thể đọc cái này mà không cần gắng sức. Cậu nghĩ mình đã sẵn sàng cho chuyện này.

“Brekker giấu nó trong một tiệm bánh cách đây vài khối nhà.”

“Làm sao bọn mày tìm thấy nó được?”

“Pekka đã cắt cử bọn tôi lùng sục trong khu này, đoán rằng Brekker có thể giở trò gì đó ở cuộc đấu giá.”

“Để sỉ nhục ta, chắc chắn rồi,” Jan Van Eck nói.

Cái túi được giật phăng khỏi đầu Wylan, và cậu nhìn thẳng vào khuôn mặt của cha mình.

Van Eck lắc đầu. “Mỗi lần ta nghĩ con không thể làm ta thất vọng hơn nữa, thì con lại chứng minh rằng ta đã sai.”

Họ đang ở trong một nhà nguyện nhỏ có trần dạng vòm. Những bức tranh sơn dầu trên tường thể hiện các trận đánh và hàng đống vũ khí. Có lẽ nhà nguyện này được quyên bởi một gia tộc chuyên sản xuất vũ khí.

Trong vài ngày qua, Wylan đã nghiên cứu sơ đồ của nhà thờ Barter, cậu cùng Inej vẽ lại các khe mái và hốc tường, thảo ra từng gian nhà thờ ứng với những ngón tay dài của bàn tay Ghezen. Cậu biết chính xác mình đang ở đâu - một trong những nhà nguyện nằm phía cuối ngón út của Ghezen. Sàn nhà được trải thảm, cánh cửa duy nhất dẫn ra cầu thang, và cửa sổ duy nhất trổ ra mái nhà. Ngay cả nếu như không bị bịt miệng, cậu cũng không nghĩ có ai khác ngoài những bức tranh kia nghe được tiếng kêu cứu của mình. Phía sau lưng cha cậu có hai người nữa: một đứa con gái mặc quần sọc, mái tóc vàng cạo nửa đầu, và một thằng nhóc đô con mặc quần kẻ ô với dây đeo quần. Cả hai đều mang dải băng tay màu tím, cho thấy chúng được thị tuần cho phép hành động. Cả hai đều có hình xăm của băng Kim Sư.

Thằng nhóc cười nhe răng. “Ông có muốn tôi mời Pekka tới không?” Nó hỏi Van Eck.

“Không cần.Ta muốn ông ta theo sát công cuộc chuẩn bị cho buổi đấu giá. Đây là chuyện ta muốn tự mình xử lí.” Van Eek cúi xuống. “Nghe này, nhóc. Bóng Ma đã bị bắt gặp đi cùng với một thành viên của Tam Đại Grisha. Ta biết Brekker đang hợp tác với phía Ravka. Dù có khiếm khuyết thế nào, con vẫn mang dòng máu của ta. Hãy nói cho ta biết kế hoạch của Brekker, và ta sẽ cử người chăm sóc con. Con sẽ được nhận trợ cấp. Con có thể sống thoải mái ở đâu đó. Ta sẽ tháo băng bịt miệng cho con. Nếu con la hét, ta sẽ để cho người của Pekka làm bất cứ điều gì chúng muốn với con, hiểu chưa?”

Wylan gật đầu. Cha cậu giật miếng giẻ ra khỏi miệng cậu.

Wylan đưa lưỡi liếm môi rồi nhổ vào mặt cha mình.

Van Eck rút từ trong túi ra một chiếc khăn tay trắng muốt có thêu tên viết tắt và viền bằng những chiếc lá nguyệt quế màu đỏ. “Sự đáp trả thích hợp của một thằng bé không biết đọc chữ.” Ông ta lau chỗ nước bọt dính trên mặt. “Ta nói lại như thế này vậy. Hãy nói cho ta biết Brekker đang âm mưu gì với phía Ravka, và ta sẽ để cho mày sống.

“Theo cách mà ông đã để cho mẹ tôi sống á?”

Cú khựng của cha cậu gần như không thể nhận thấy, giống như một con rối bị giật dây chỉ một lần rồi thôi.

Van Eck gấp chiếc khăn bẩn hai lượt, rồi cất nó đi. Ông gật đầu với hai đứa kia. “Làm bất cứ điều gì bọn mày muốn. Buổi đấu giá sẽ diễn ra trong một giờ tới, và ta muốn có câu trả lời trước đó.”

“Dựng nó dậy,” thằng nhóc đô con nói với đứa con gái. Con nhỏ lôi Wylan đứng lên, và thằng nhóc rút từ trong túi ra một cặp tay gấu bằng đồng. “Nó sẽ không còn xinh xẻo sau chuyện này đâu.”

“Ai quan tâm chứ?” Van Eck đáp với một cái nhún vai. “Chỉ cần bảo đảm bọn mày giữ cho nó tỉnh. Ta cần thông tin.”

Thằng nhóc ngó Wylan bằng ánh mắt nghi ngờ. “Mày có chắc là mày muốn làm theo cách này không, thiếu gia?”

Wylan huy động toàn bộ sự can đảm mà cậu đã học được từ Nina, ý chí học được từ Matthias, sự tập trung từ Kaz, dũng khí từ Inej và hi vọng rồ dại, bất cẩn học được từ Jesper, niềm tin rằng bất luận ra sao, bằng cách nào đó họ cũng sẽ thắng. “Tao sẽ không khai đâu,” cậu đáp.

Cú đấm đầu tiên làm gãy hai xương sườn của Wylan. Cú đấm thứ hai khiến cậu ho ra máu.

“Có lẽ chúng ta nên bẻ các ngón tay để mày không thể chơi cây sáo quỷ quái đó nữa,” Van Eck đề nghị.

Mình ở đây là vì mẹ, Wylan tự nhủ. Mình ở đây là vì mẹ.

Nhưng rốt cuộc, cậu không phải là Nina hay Matthias hay Kaz hay Inej hay Jesper. Cậu chỉ là Wylan Van Eck. Cậu đã khai tất tần tật với chúng.

16
INEJ

Vào trong nhà thờ Barter không phải là nhiệm vụ dễ dàng vào buổi sáng hôm nay. Do vị trí gần Sàn giao dịch và kênh Beurs, mái nhà thờ không tiếp giáp với bất kì mái nhà nào khác, và lối vào của nó đã được canh gác bởi vệ quân khi Inej đến nơi. Nhưng cô là Bóng Ma; cô được sinh ra để tìm những nơi bí mật, những ngóc ngách và khe hở mà không ai ngờ đến.

Không một món vũ khí nào được phép mang vào nhà tho trong buổi đấu giá, nên khẩu súng trường của Jesper hiện đang nằm trên lưng Inej. Cô kín đáo chờ đợi cho tới khi trông thấy một tốp thị tuần đẩy chiếc xe chất đầy gỗ tiến về phía một trong những cánh cửa đôi đồ sộ của nhà thờ. Cô đoán họ đang chuẩn bị lập một chướng ngại vật cho sân khấu hoặc các gian hình ngón tay của nhà thờ. Inej chờ cho đến khi chiếc xe dừng lại, rồi nhét mũ trùm vào trong áo để nó không bị quét đất. Cô bám vào trục xe, cơ thể gần như chạm vào lớp đá lát, rồi để cho bọn họ đẩy mình dọc theo lối đi chính điện. Trước khi họ tới bàn thờ, cô thả người lăn vào các hàng ghế, suýt nữa bị bánh xe cán phải.

Áp bụng vào mặt sàn lạnh ngắt, Inej bò ngang qua nhà thờ, rồi chờ thời cơ ở cuối lối đi và lao tới nấp sau một trong những cây cột trụ của vòm cuốn phía tây. Cô di chuyển từ cây cột này sang cây cột khác, trước khi lách mình vào gian nhà thờ dẫn tới các nhà nguyện của ngón cái. Một lần nữa cô chuyển sang bò trườn để dùng những dãy ghế trong nhà thờ che chắn cho mình. Cô không biết các vệ quân đang đi tuần ở chỗ nào, và cô không muốn bị bắt khi đang đi lang thang trong nhà thờ.

Inej tiến đến nhà nguyện thứ nhất, sau đó cô theo cầu thang đi lên nhà nguyện màu cam ở bên trên. Bàn thờ của nó được dát vàng, nhưng hình dáng lại giống như những thùng đựng cam và các loại trái cây ngoại lai khác. Tâm điểm là bức tranh sơn dầu của DeKappel miêu tả cảnh một gia đình thương gia mặc đồ đen tụ tập trong bàn tay của Ghezen, được treo lơ lửng trên một bụi chanh.

Inej leo lên bàn thờ rồi phóng lên vòm trần của nhà thờ, gần như treo ngược người khi bám trên đó. Khi đã trèo lên đến đỉnh vòm, cô ấn lưng vào cái vòm nhỏ nằm chính giữa vòm trần lớn. Mặc dù không nghĩ mình có thể bị nghe thấy từ đây, cô vẫn đợi cho đến khi tiếng kéo cửa và gõ búa vang lên để đưa chân đạp vào một trong những ô cửa sổ cấp ánh sáng cho nhà nguyện. Sau cú đạp thứ hai, kính cửa sổ bị rạn và vỡ ra bên ngoài. Inej dùng ống tay áo để bảo vệ bàn tay trong lúc gạt bỏ chỗ mảnh kính lởm chởm còn lại, trước khi đưa cơ thể ra bên ngoài, trên đỉnh của mái vòm. Cô buộc một sợi dây thừng vào cửa sổ rồi trượt xuống mái của gian nhà thờ, nơi cô để lại khẩu súng trường của Jesper. Cô không muốn nó làm mình mất thăng bằng.

Lúc này, Inej đang đứng trên đỉnh ngón tay cái của Ghezen. Màn sương buổi sáng đã bắt đầu tan đi, và cô có thể cảm thấy ngày hôm nay sẽ nóng. Cô men theo ngón tay cái quay trở lại khu vực mái dốc đầy tháp nhọn của chính điện và lại bắt đầu leo lên.

Đây là phần cao nhất của nhà thờ, nhưng Inej đã quen với nó, và điều đó khiến cô di chuyển dễ hơn. Trong tất cả các mái nhà của Ketterdam, thánh đường này là nơi cô thích hơn cả. Cô không có lí do chính đáng nào để nghiên cứu hình dạng của nó. Có rất nhiều chỗ khác cho phép cô quan sát Sàn giao dịch hoặc kênh Beurs, nhưng cô luôn chọn nhà thờ Barter. Những chóp nhọn của nó có thể được trông thấy từ gần như bất kì nơi đâu trong Rotterdam. Lớp mái bằng đồng ngả màu xanh qua năm tháng được điểm xuyết bằng những tháp nhọn có hoạ tiết trang trí kim loại tạo ra đầy những chỗ bám tay lẫn nơi ẩn mình tuyệt vời. Nó giống như một xứ cổ tích với hai màu xám và xanh mà không ai trong thành phố ngó ngàng tới.

Kẻ đi dây mạo hiểm trong cô từng mường tượng chuyện căng một sợi dây giữa hai chóp nhọn cao nhất của nhà thờ. Ai dám thách thức tử thần nào? Tôi. Có lẽ Kerch sẽ coi việc biểu diễn xiếc trên nóc các nhà thờ là hành vi báng bổ. Trừ phi cô tổ chức bán vé, tất nhiên rồi.

Inej nhét những khối chất nổ mà Kaz mô tả là “vật bảo đảm của họ tại các vị trí mà cô và Wylan đã nhất trí với nhau trong lúc phác thảo sơ đồ nhà thờ. Chỉ có đầu óc của Kaz mới coi sự hỗn loạn là an toàn. Những vụ nổ được tính toán sao cho thật ồn ào nhưng ít gây thiệt hại. Tuy vậy, nếu tình hình có gì đó bất ổn và họ cần một sự đánh lạc hướng thì chúng sẽ phát huy tác dụng.

Sau khi xong việc, cô vào vị trí quan sát tại một trong những cái hốc trang trí bằng kim loại nhìn bao quát bên trên hậu điện và gian chính của ngôi thánh đường. Tại đây, tầm nhìn toàn cảnh buổi đấu giá của cô sẽ chỉ bị ngăn trở bởi những thanh gỗ rộng và lớp lưới kim loại giữa chúng, có những lần cô đã đến đây để nghe tiếng nhạc phát ra từ cây đàn ống, hoặc những giọng hát cất cao trong các bản thánh ca. Tít cao phía trên thành phố, những thanh âm phát ra từ cây đàn vang vọng trên lớp đá khiến cô có cảm giác mình ở gần các thánh hơn.

Câu trúc âm thanh của nhà thờ tốt đến nỗi Inej có thể nghe rõ từng lời thuyết giáo nếu muốn, nhưng cô bỏ qua phần đó của các buổi lễ. Ghezen không phải là vị thánh của cô, và cô hoàn toàn không muốn được dạy dỗ việc làm thế nào phụng sự ngài tốt hơn. Cô cũng chẳng thích bàn thờ Ghezen - một khối đá phẳng không chút duyên dáng nằm ở trung tâm của nhà thờ. Một số người gọi nó là Đệ Nhất Lò Rèn, số khác gọi nó là cối, nhưng ngày hôm nay nó sẽ được sử dụng làm nơi đấu giá. Điều này khiến cho bụng dạ Inej sôi lên. Cô lẽ ra là một người làm việc theo hợp đồng, đến Kerch hoàn toàn tự nguyện. Đó là những gì được ghi trong giấy tờ. Chúng không hề kể lại chuyện cô bị bắt cóc như thế nào, nỗi kinh hoàng của cô trong hầm tàu nô lệ ra sao, sự nhục nhã của cô dưới bàn tay của Dì Heleen, cũng như cuộc sống địa ngục của cô tại Vườn Thú. Kerch được xây dựng trên cơ sở thương mại, nhưng bao nhiêu phần của những cuộc mua bán đó có đối tượng là con người? Một mục sư của Ghezen có thể đứng tại bàn thờ kia và lên án việc chiếm hữu nô lệ, nhưng có bao nhiêu phần của cái thành phố này được xây dựng từ tiền thuế mà các nhà chứa đã đóng? Bao nhiêu thành viên của giáo đoàn bóc lột các cô cậu bé gần như không biết tiếng Kerch, những người phải cọ sàn và giặt giũ để đổi lấy từng xu lẻ trả cho một món nợ dường như không bao giờ giảm bớt?

Nếu Inej có được phần tiền của mình, nếu cô có được con tàu, cô sẽ góp phần thay đổi toàn bộ chuyện đó. Nếu cô sống sót qua hôm nay. Cô hình dung tất cả mọi người trong nhóm - Kaz, Nina, Matthias, Jesper, Wylan, Kuwei, người có quá ít tiếng nói trong cuộc đời mình - vắt vẻo bên nhau trên một sợi dây thăng bằng, mạng sống của họ được gắn chặt với nhau bởi niềm hi vọng và sự tin tưởng dành cho nhau. Pekka có thể đang lảng vảng trong nhà thờ bên dưới, và cô ngờ rằng Dunyasha cũng đang ở đâu đây. Cô gọi con nhỏ trong bộ đồ màu ngà và hổ phách đó là cái bóng của mình, nhưng biết đâu nó cũng là một dấu hiệu, một sự nhắc nhở rằng Inej không sinh ra cho một cuộc đời như thế này. Dẫu vậy, thật khó để không xem cái thành phố này như là nhà của cô, còn Dunyasha là kẻ xâm nhập.

Lúc này Inej đang quan sát các vệ quân đi kiểm tra mọi ngóc ngách và các nhà nguyện của nhà thờ một lần cuối cùng. Cô biết bọn họ có thể cử vài sĩ quan can đảm lên tuần tra mái nhà, nhưng ở trên này có đầy chỗ nấp, và nếu cần, cô chỉ việc chui trở vào trong mái vòm của nhà nguyện ngón cái để chờ bọn họ đi khỏi.

Các vệ quân bắt đầu đứng vào vị trí. Inej có thể nghe thấy người đội trưởng ra chỉ thị về những vị trí mà các thành viên của Hội đồng Thương buôn sẽ ngồi trên sân khấu. Cô thấy thầy lang học sĩ đã được đưa tới để kiểm tra sức khoẻ của Kuwei, và một vệ quân đang đẩy chiếc bục đấu giá vào chỗ. Cô khó chịu khi thấy vài thành viên băng Kim Sư đang rảo bước trên các lối đi bên cạnh vệ quân. Chúng ưỡn ngực, tận hưởng uy quyền mới của mình, vung vẩy cánh tay cột dải băng thị tuần màu tím và cười cợt với nhau. Các thị tuần đích thực có vẻ không mấy hài lòng, và Inej có thể trông thấy ít nhất hai thành viên của Hội đồng Thương buôn quan sát cảnh tượng với ánh mắt lo ngại. Họ có đang tự hỏi liệu mình sẽ nhận được nhiều hơn những gì bỏ ra khi cho phép một đám du côn Barrel được trao quyền như vậy hay không? Van Eck là người khởi xướng cái trò này cùng với Pekka Rollins, nhưng Inej không nghĩ rằng ông vua của Barrel sẽ để lão ta chỉ đạo mình lâu.

Cô đưa mắt rà soát chân trời, toàn bộ không gian ra tới hải cảng và những ngọn tháp đá đen. Nina đã đúng về Hội đồng Thuỷ triều. Có vẻ như họ thích náu mình trong các tháp canh hơn. Mặc dù vậy, bởi danh tính của họ là một bí mật, Inej nghĩ rằng ngay lúc này có thể họ đang ngồi trong nhà thờ cũng nên. Cô nhìn về phía khu Barrel, hi vọng Nina được an toàn và không bị phát hiện, rằng sự xuất hiện đông đảo của thị tuần tại nhà thờ sẽ đồng nghĩa với việc chị di chuyển dễ dàng hơn trên phố.

Đến đầu giờ chiều, các hàng ghế trong nhà thờ bắt đầu được lấp đầy bởi những người hiếu kì - các tiểu thương trong bộ trang phục vải len thô, những người pha trò và vệ sĩ vừa từ hai khu Stave tới trong những bộ đồ Barrel đỏm dáng nhất, nhiều tốp thương gia phục sức đen tuyền, một số đi cùng những bà vợ có khuôn mặt tái mét lúc lắc trên cổ áo trắng phau, mái tóc tết quấn vòng quanh đầu.

Xuất hiện tiếp theo là những viên chức ngoại giao Fjerda. Họ mặc trang phục hai màu trắng và bạc, được hộ tống bởi các drüskelle vận đồng phục đen, tất cả đều có mái tóc và làn da ánh vàng. Nội tầm vóc của họ thôi cũng đủ khiến người khác vị nể. Inej đoán Matthias phải biết một số trong những người này. Anh đã từng đứng chung hàng ngũ với họ. Anh cảm thấy thế nào khi gặp lại họ dưới cái mác kẻ phản bội?

Phái đoàn Novyi Zem tiếp nối với những bao súng trống rỗng ở hông, bị buộc phải bỏ lại vũ khí ngoài cửa. Họ cũng cao như các drüskelle, nhưng mảnh dẻ và săn chắc hơn, một số có làn da màu đồng giống cô, số khác da lại nâu sậm giống Jesper, vài người có cái đầu cạo trọc, số khác lại sở hữu mái tóc tết dày và thắt bím cầu kì. Kia rồi, lẫn trong hai hàng người cuối cùng, Inej nhận ra Jesper. Lần đầu tiên anh không phải là người cao nhất trong đám đông, và với chiếc cổ áo hồ cứng dựng cao quanh cằm cùng cái mũ sùm sụp che tai, anh gần như không thể bị nhận diện. Inej hi vọng thế.

Khi phái đoàn Ravka xuất hiện, tiếng rì rầm trong nhà thờ trở nên ồn ào hơn hẳn. Đám đông tiểu thương, thương gia và dân Barrel đang bàn tán gì về sự xuất hiện của các phái đoàn quốc tế?

Một người đàn ông mặc chiếc áo choàng dài màu xanh két dẫn đầu phái đoàn Ravka, vây quanh anh ta là đông đảo những người lính Ravka trong bộ quân phục màu xanh lơ. Đây chắc hẳn là Sturmhond huyền thoại. Anh ta tuyệt đối tự tin với Zoya Nazyalensky và Genya Safin hộ tống hai bên. Những sải bước của Sturmhond khoan thai và thoải mái, như thể đang đi dạo trên con tàu của mình, có lẽ cô nên gặp gỡ những người Ravka khi có cơ hội. Cô sẽ học được những gì trong một tháng đi cùng thuỷ thủ đoàn của Sturmhond nhỉ?

Người Fjerda đứng dậy, và Inej tưởng đâu một trận đánh sẽ nổ ra khi các drüskelle đối đầu với nhóm binh sĩ Ravka, nhưng hai thành viên của Hội đồng Thương buôn đã mau mắn lao tới cùng với một tốp thị tuần.

“Kerch là vùng đất trung lập,” một trong hai thương gia cao giọng nhắc nhở họ một cách căng thẳng. “Chúng ta ở đây để kinh doanh, không phải để gây chiến.”

“Bất kì ai vi phạm sự thiêng liêng của nhà thờ Barter đều không được phép tham gia đấu giá,” người còn lại nhấn mạnh, vạt áo đen bay lật phật.

“Tại sao vị vua yếu đuối của các người lại đưa một tên hải tặc bẩn thỉu đến dự buổi đấu giá này?” Đại sứ Fjerda gằn giọng, tiếng ông ta vang vọng khắp nhà thờ.

“Thuyền trưởng,” Sturmhond chỉnh lại. “Tôi đoán ngài ấy nghĩ rằng vẻ đẹp trai của tôi sẽ là một ưu thế. Việc anh đến từ đâu không quan trọng, đúng không?”

“Một con công nực cười, nồng nặc mùi hôi của bọn Grisha.”

Sturmhond nhăn mũi hít hà. “Tôi khá ngạc nhiên vì anh có thể ngửi được bất cứ thứ gì trên lớp băng thối rữa và sau những cuộc hôn nhân cận huyết đấy.”

Ngài đại sứ đỏ mặt tía tai lên, khiến một trong những người đi cùng phải vội kéo ông ta ra xa.

Inej đảo mắt. Họ còn tệ hơn hai ông trùm Barrel đối đầu nhau tại khu Stave.

Giận dữ và ồn ào, hai phái đoàn Fjerda và Ravka ngồi vào vị trí đối diện nhau qua lối đi, trong lúc phái đoàn Đảo Wandering bước vào một cách khá lặng lẽ. Tuy vậy, chỉ vài giây sau mọi người lại đứng hết cả dậy khi ai đó la lớn: “Người Shu kìa!”

Mọi ánh mắt đổ dồn về phía những cánh cửa đồ sộ của ngôi thánh đường khi đoàn Shu Han ùa vào trong bộ đồng phục màu xanh olive điểm vàng, cùng một làn sóng những tấm băng rôn đỏ có hình ngựa và chìa khoá. Những nét mặt lạnh tanh trong lúc họ diễu qua lối đi và dừng lại khi ông đại sư Shu Han đôi co kịch liệt về việc phái đoàn nước mình không được bố trí ngồi ở phía trên, cũng như việc hai nước Ravka và Fjerda được ưu ái quá mức khi ngồi gần sân khấu. Bọn Kherguud có đang đi lẫn trong số họ không? Inej ngước nhìn bầu trời mùa xuân nhợt nhạt, cô không thích bị quắp khỏi vị trí quan sát bởi một chiến binh có cánh nào đó.

Cuối cùng thì Van Eck cũng bước xuống lối đi từ chỗ mà ông ta đã kín đáo đứng quan sát nãy giờ và quát lớn, “Nếu muốn ngồi hàng đầu, lẽ ra các ngài nên bỏ qua màn xuất hiện rình rang và đến đúng giờ.”

Phái đoàn Shu Han và người Kerch đấu khẩu qua lại một lúc lâu cho tới khi rốt cuộc đám người Shu cũng vào ngồi vị trí của mình. Những người còn lại trong nhà thờ xôn xao bàn tán và ngó nghiêng đồn đoán. Hầu hết trong số họ không biết Kuwei có giá trị như thế nào hoặc chỉ nghe đồn về một loại thuốc có tên jurda parem, thế nên họ rất thắc mắc về lí do vì sao một thiếu niên người Shu lại lôi kéo được những người đấu giá tầm cỡ thế này. Số ít các vị thương gia ngồi ở hàng đầu với ý định tham gia đấu giá đang trao đổi với nhau những cái nhún vai và lắc đầu ngán ngẩm. Rõ ràng ván bài này không dành cho những tay chơi tầm thường.

Chuông nhà thờ bắt đầu điểm ba hồi, tiếp ngay sau hồi chuông vọng tới từ tháp đồng hồ của khách sạn Geldrenner. Im lặng bao trùm. Hội đồng Thương buôn tề tựu đông đủ trên sân khấu, và rồi Inej thấy mọi cái đầu trong nhà thờ quay lại. Cánh cửa đôi vĩ đại mở ra, Kuwei bước vào, được hộ vệ bởi Kaz và Matthias cùng một tốp thị tuần có vũ trang. Matthias chỉ mặc bộ đồ tiểu thương đơn giản, nhưng trông anh vẫn đầy khí chất của một chiến sĩ trong đoàn diễu binh, với con mắt bầm đen và đôi môi rách, Kaz trông nhàu nhĩ hơn thường lệ, bất chấp bộ trang phục đen ấn tượng mà anh khoác trên người.

Tiếng la hét lập tức vang lên. Thật khó mà xác định được bên nào đang gây ồn ào nhất. Những tên tội phạm bị truy nã nhất của Ketterdam đang sải bước trên lối đi trung tâm của nhà thờ Barter. Ngay khi trông thấy Kaz, băng Kim Sư đứng rải rác trong thánh đường bắt đầu la ó. Matthias cũng mau chóng bị các huynh đệ drüskelle nhận ra. Họ đang ném vào anh những từ ngữ mà Inej đoán là lời xỉ vả trong tiếng Fjerda.

Tính bất khả xâm phạm của phiên đấu giá sẽ bảo vệ Kaz và Matthias, nhưng chỉ cho đến khi nhát búa định đoạt vang lên. Dẫu vậy, cả hai người tỏ ra không mấy quan ngại. Họ bước đi với tấm lưng thẳng và mắt nhìn về phía trước. Kuwei được kèm cặp một cách an toàn giữa hai người.

Kuwei thì lại đang có một màn thể hiện kém cỏi hơn. Người Shu la hét lặp đi lặp lại một từ duy nhất, sheyao, sheyao, và dù nó có nghĩa là gì đi nữa thì Kuwei dường như càng lúc càng thu mình lại theo mỗi tiếng gào.

Người điều hành đấu giá của thành phố tiến đến sân khấu và vào chỗ đứng sau cái bục cạnh bàn thờ. Đó là Jellen Radmakker, một trong những nhà đầu tư mà họ đã mời tới buổi trình bày phỉnh phờ của Jesper về tương lai của dầu mỏ. Sau những cuộc điều tra mà cô đã làm cho Kaz, Inej biết ông ta cực kì trung thực, một người đàn ông tận tụy không có người thân nào, ngoại trừ một người chị vô cùng ngoan đạo đang ngày ngày cọ sàn cho các toà nhà công cộng để phụng sự Ghezen. Radmakker có nước da tái xanh, đôi lông mày rậm màu cam và một cái lưng gù tạo cho ông ta vẻ ngoài của một con tôm lớn.

Inej đưa mắt quan sát các chóp nhọn nhấp nhô của nhà thờ cùng phần mái của các gian ngón tay toả ra từ lòng bàn tay Ghezen. Vẫn không có lực lượng tuần tra nào xuất hiện trên mái nhà. Chuyện này gần như là sự xúc phạm với cô. Nhưng có thể Pekka Rollins và Jan Van Eck có một thứ khác dành cho cô.

Radmakker gõ ba nhát búa bực bội. “Trật tự,” ông nói lớn. Sự ồn ào trong nhà thờ giảm xuống thành những tiếng xầm xì bất mãn.

Kuwei, Kaz và Matthias leo lên sân khấu và vào vị trí bên cạnh bục đấu giá. Kaz và Matthias che chắn bớt một phần cho Kuwei vẫn còn đang run rẩy.

Radmakker chờ cho đến khi mọi người hoàn toàn im lặng, chỉ khi đó ông mới bắt đầu lần lượt đọc các quy định đấu giá, rồi đến các điều khoản trong giao kèo phục vụ của Kuwei. Inej liếc nhìn Van Eck. Lão cảm thấy như thế nào khi ở gần giải thưởng mà mình đã tìm kiếm bấy lâu đến thế? Nét mặt Van Eck đầy háo hức và tự mãn. Lão đã bắt đầu tính toán các nước đi kế tiếp, Inej hiểu ra. Miễn sao phía Ravka không đấu giá thành công - mà làm thế nào họ thắng được, với ngân khố gần như cạn kiệt - Van Eck sẽ đạt được ước muốn của mình: bí mật về jurda parem được công khai cho cả thế giới. Giá của jurda sẽ tăng đến mức không tưởng, và nhờ những cổ phần bí mật cùng với sự đầu tư vào liên doanh trồng jurda do ông Johannus Rietveld đứng đầu, lão sẽ giàu nứt đố đổ vách.

Radmakker vẫy tay gọi một thầy lang học sĩ có cái đầu hói nhẵn. Ông ta bắt mạch cho Kuwei, đo chiều cao, nghe tim phổi, kiểm tra răng và lưỡi cậu. Đó là một cảnh tượng tức cười, gần giống với kí ức của Inej về lần bị lột trần cho Dì Heleen khám xét trên boong của con tàu nô lệ ngày trước.

Thầy lang đã kết thúc công việc và đóng túi đồ nghề lại.

“Mời ngài tuyên bố,” Radmakker nói.

“Sức khoẻ của cậu bé rất tốt.”

Radmakker quay sang nói với Kuwei. “Cậu có tự nguyện đồng ý tuân theo các quy định và kết quả của phiên đấu giá này hay không?” Nếu Kuwei có trả lời thì Inej cũng không nghe được gì.

“Nói to lên, cậu bé?

Kuwei cố gắng một lần nữa. “Tôi đồng ý.”

“Vậy thì chúng ta bắt đầu thôi.”

Thầy lang rời sân khấu và Radmakker nhấc búa lên. “Kuwei Yul-Bo tự nguyện đồng ý với quy trình đấu giá và qua đó rao bán sự phục vụ của mình với một mức giá công bằng, dưới sự hướng dẫn của bàn tay Ghezen. Mọi giá đấu đều được tính bằng kruge. Người đấu giá phải giữ im lặng những khi không ra giá. Mọi can thiệp vào cuộc đấu giá này, mọi giá dấu không trung thực sẽ bị trừng trị thích đáng theo quy định của Kerch. Mức giá khởi điểm là một triệu kruge.” Ông dừng lời. “Nhân danh Ghezen, cuộc đấu giá bắt đầu.”

Thế là chuyện đó diễn ra, một tràng ồn ào những con số mà Inej không kịp theo dõi, những mức giá leo thang cao dần qua từng tiếng gõ búa và lời nhắc lại của Radmakker.

“Năm triệu kruge,” đại sứ Shu Han hét lên.

“Năm triệu,” Radmakker lặp lại. “Có ai trả sáu triệu không?” “Sáu,” người Fjerda đáp trả.

Giọng Radmakker vang vọng trên các vách tường của nhà thờ như tiếng súng nổ. Sturmhond chờ đợi cho người Fjerda và người Shu đấu giá qua lại, phía Novyi Zem cũng thỉnh thoảng rón rén nâng giá lên một chút, cố gắng kìm hãm đà tăng giá. Phái đoàn Đảo Wandering ngồi yên lặng quan sát trên những hàng ghế của mình. Inej tự hỏi họ biết được đến đâu, và họ không muốn hay đơn giản là không thể đấu giá.

Lúc này mọi người đã đứng cả dậy, không thể ngồi yên trên ghế được nữa. Hôm nay là một ngày ấm áp, nhưng những hoạt động trong nhà thờ dường như càng làm cho nhiệt độ tăng cao hơn. Inej có thể thấy mọi người phe phẩy quạt, ngay đến các thành viên của Hội đồng Thương buôn, nom như một bầy chim ác là, cũng bắt đầu chấm mồ hôi trán.

Khi mức giá đấu chạm ngưỡng bốn mươi kruge, Sturmhond rốt cuộc cũng giơ tay.

“Năm mươi triệu kruge,” anh ta tuyên bố. Cả nhà thờ lặng ngắt.

Ngay cả Radmakker cũng khựng lại, cung cách lạnh lùng hơi dao động trước khi ông nói, “Năm mươi triệu kruge từ phái đoàn Ravka.” Các thành viên của Hội đồng Thương buôn đưa tay che miệng thì thầm gì đó với nhau, chắc là đang phấn khích với khoản tiền hoa hồng mà họ sẽ kiếm được từ phiên đấu giá.

“Tôi có nghe thấy đề nghị nào khác không?” Radmakker hỏi.

Nhóm người Shu thảo luận với nhau. Phía Fjerda cũng thế, mặc dù có vẻ như họ cãi vã nhiều hơn là bàn bạc. Người Zemeni hình như đang chờ xem điều gì xảy ra tiếp theo.

“Sáu mươi triệu kruge,” phía Shu Han tuyên bố.

Bước giá được nâng lên mười triệu. Đúng như Kaz đã lường trước.

Người Fjerda đưa ra đề nghị tiếp theo ở mức sáu mươi triệu hai trăm ngàn. Có thể thấy nó ảnh hưởng như thế nào đến sự kiêu hãnh của họ khi đưa ra bước giá nhỏ như vậy, nhưng phái đoàn Novyi Zem cũng rất muốn hạ nhiệt. Họ đưa ra mức sáu mươi triệu năm trăm ngàn.

Nhịp điệu của buổi đấu giá thay đổi, các mức giá tăng lên chậm rãi hơn, lừng khừng bên dưới con số sáu mươi hai triệu cho tới khi cột mốc đó đạt được, và người Shu bắt đầu tỏ ra nôn nóng.

“Bảy mươi triệu kruge,” ông đại sứ Shu Han lên tiếng.

“Tám mươi triệu,” Sturmhond ra giá.

“Chín mươi triệu.” Lúc này thì người Shu chẳng buồn chờ Radmakker nữa.

Từ trên chỗ quan sát của mình, Inej có thể thấy gương mặt tái mét và đầy kinh hãi của Kuwei. Những con số đã tăng lên quá cao, quá nhanh.

“Chín mươi mốt triệu,” Sturmhond tuyên bố, tìm cách kìm hãm đà tăng giá một cách muộn màng.

Như thể đã quá mệt mỏi với cuộc đấu, ông đại sứ Shu Han bước tới trước và gầm lên, “Một trăm mười triệu kruge.”

“Một trăm mười triệu kruge từ phái đoàn Shu Han,” Radmakker hét to, sự trầm tĩnh của ông đã bị số tiền hất văng. “Tôi có nghe thấy đề nghị nào khác không?”

Nhà thờ Barter im lặng như thể những người dự khán vừa nhất loạt cúi đầu cầu nguyện.

Sturmhond cười khan và nhún vai. “Một trăm hai mươi triệu kruge” Inej cắn môi mạnh đến bật máu.

Uỳnh. Cánh cửa đôi đổ sộ bật mở. Một cơn sóng triều lao qua cửa, ập vào thánh đường, tung bọt giữa các hàng ghế, rồi tan biến thành một đám mây hơi nước. Âm thanh rì rầm phấn khích của đám đông biến thành những tiếng la hét kinh ngạc.

Mười lăm bóng người khoác áo choàng xanh ùa vào trong nhà thờ, áo của họ tung bay như thể được thổi bởi một luồng gió vô hình, khuôn mặt họ bị hơi sương làm mờ đi.

Một số người kêu đòi vũ khí của mình, số khấc níu chặt lấy nhau và hét lên. Inej trông thấy một thương gia cúi xuống, hối hả quạt mát cho bà vợ bất tỉnh nhân sự của mình.

Nhóm người kia lướt tới trước trên lối đi, trang phục của họ dập dềnh như những làn sóng chậm rãi.

“Chúng tôi là Hội đồng Thuỷ triều,” nhân vật khoác áo choàng xanh đi đầu lên tiếng. Đó là một giọng phụ nữ, trầm và uy quyền. Hơi nước che phủ hoàn toàn khuôn mặt bà ta, nó dịch chuyển bên dưới chiếc mũ trùm như một cái mặt nạ liên tục thay hình đổi dạng. “Cuộc đấu giá này là một trò bịp bợm.”

Những lời thì thầm kinh ngạc cất lên trong đám đông.

Inej nghe thấy Radmakker kêu gọi trật tự, rồi cô né sang trái theo bản năng khi một tiếng rít khẽ vang lên. Một lưỡi thép nhỏ, xoay tròn bay vèo qua, xé rách ống tay áo của cô rồi văng đi trên mái nhà bằng đồng.

“Đó là một lời cảnh báo,” Dunyasha lên tiếng. Con nhỏ đang vắt vẻo trên phần hoạ tiết trang trí kim loại của một cái chóp nhọn ở cách Inej chừng mười mét, chiếc mũ trùm mầu ngà bao quanh khuôn mặt nó sáng lên như lớp tuyết dưới ánh nắng chiều. “Ta sẽ nhìn thẳng vào mắt ngươi khi tiễn ngươi xuống địa ngục.”

Inej với tay tới bộ dao. Cô buộc phải đáp trả cái bóng của mình.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #sixofcrows