CHƯƠNG 3 VĂN HỌC
1. VĂN HỌC DÂN GIAN1.1 Thi pháp văn học dân gian1.1.1 Khái niệm
Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu xem ý kiến của ông Chu Xuân Diên như một định nghĩa. Theo ông Chu Xuân Diên, "Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ những đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ thật miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người".
1.1.2 Thi pháp ca dao1.1.2.1 Ca dao là gì?
Ca dao là lời thơ trữ tình dân gian, thường có sự kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người.
1.1.2.2 Kết cấu ca dao (theo Đỗ Đình Trị)
- Kết cấu vòng tròn: Là những chi tiết, hình ảnh được lựa chọn trong văn bản ca dao. Những hình ảnh, từ ngữ cuối cùng trong câu cuối cùng của bài ca dao bắt vần lại với từ, ngữ cuối cùng trong câu đầu. do vậy bài ca dao sẽ được diễn xướng liên tục. lối kết cấu này thường xuất hiện ở trong đồng dao. VD, "Con kiến mà leo cành đa, Leo phải cành cụt leo ra, leo vào, Con khến mà leo cành đào, Leo phải cành cụt leo vào leo ra,..." Hay "Làm thơ mà dán cây bàng, Thiên hạ không biết nói nàng với ta, Làm thơ mà dán cây đa, Thiên hạ không biết nói ta với nàng, ...".
- Kết cấu tầng bậc: Là những chi tiết, hình ảnh được lựa chọn trong văn bản ca dao có tầng, có bậc, các chi tiết sắp xếp thu hẹp, hoặc mở rộng dần ý nghĩa. Có nhiều kiểu tầng bậc xa đến gần, chung đến riêng, bóng gió đến cụ thể, ngoài vào trong, ... Ví dụ: "Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương/ Nhớ ai dãi gió, dầm sương/ Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao". Kiểu kết cấu này thường xuất hiện trong các bài ca dao tỏ tình. Đây là lối nói xa xôi, bóng gió đến cụ thể.
- Kết cấu đối lập: Trong một bài ca dao tác giả nêu lên 2 yếu tố A và B nhưng 2 yếu tố này lại đối lập nhau nhằm thể hiện nội dung muốn nói. Kiểu kết cấu này rất phổ biến trong ca dao Việt Nam. Ví dụ: "Giàu sang nhiều kẻ tới nhà, Khó khăn nên nỗi ruột rà xa nhau".
- Kết cấu đối đáp:
Trong những bài ca dao có hình thức hỏi-đáp. Đó là những lời nhân vật trữ tình đặt câu hỏi rồi lại tự mình trả lời. Những hình thức hỏi-đáp ấy nằm trong một chỉnh thể ca dao. Ví dụ "Bây giờ mận mới hỏi đào...".
- Kết cấu láy: Trong những bài ca dao có yếu tố được lặp đi, lặp lại nhiều lần để tập trung vào một ý nào đó. Ví dụ: "Chiều chiều em đứng em trông, Trông non non ngất, trông sông sông dài, Trông mây mây kéo ngang trời, Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa".
- Kết cấu liệt kê:
Kiểu này thường xuất hiện trong những bài ca dao có tính chất miêu tả, tự sự một vấn đề nào đó. Khi biểu cảm người ta ít sử dụng kiểu liệt kê. Ví dụ: "Anh đã nói với em/ Như rựa chém xuống đá/ Như rạ chém xuống đất/ Như mật rót vào tai/ Bây chừ anh đã nghe ai, Bỏ em giữa chốn thuyền chài khổ chưa!"
- Kết cấu lửng:
Bài ca dao không nói hết ý mà bỏ lửng giữa chừng. Thông thường một cặp lục – bát, có hai dòng thơ nhưng ở đây tác giả dân gian chỉ dùng một câu lục mà không hát tiếp câu bát. Ví dụ, "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh, nước biếc như tranh họa đồ/ Ai vô xứ Nghệ thì vô...".
1.1.2.3 Không gian nghệ thuật ca dao
Không gian nghệ thuật vừa là một nội dung được phản ánh trong ca dao vừa là một phương tiện nghệ thuật tham gia vào tổ chức văn bản ca dao. Không gian nghệ thuật trong ca dao có những lớp không gian như sau:
- Không gian hiện thực khách quan: là những hình ảnh của cảnh vật quen thuộc, gần gũi mang đặc trưng của mọi làng quê Việt Nam. Đó là cổng làng, ngôi đình, cây đa, bến nước, lũy tre, ghe thuyền, sông, núi, thác ghềnh, ... "Buồn trông co nhện chăng tơ/ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai/..." hay bài "Trèo lên cây bưởi hái hoa/ Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân/ ..."
- Không gian tâm lí: là không gian được tác giả dân gian cảm nhận bằng tâm trạng của mình. Hay nói cách khác là không gian được đo, đếm bằng tâm trạng của tác giả. "Ước gì sông rộng một gang/ Bắc cầu giải yếm cho nàng sang chơi".
- Không gian địa lí – tự hào: là địa danh, tên sông, tên đất, ... xuất hiện trong ca dao nhưng không chỉ nói dến địa danh mà boa giờ cũng gắn kết địa danh với một đặc điểm nổi bật nào đó của địa danh ấy nhằm giới thiệu cảnh quan, sản vật, con người, ... của nơi ấy hay những bất trắc nhằm cảnh báo. "Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba".
- Không gian thề nguyền: Khi thề nguyền trong ca dao thường dùng những yếu tố hiện thực khách quan như: trời, núi, sông, biển, ... bởi vì, đây là những hiện tượng khách quan dường như vĩnh hằng, bất biến, có tính bền vững, nổi bật, khó thay đổi. "Bao giờ cạn lạch Đồng Nai/ Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền" hay "Bao giờ núi Ngự hết cây/ Sông Hương hết nước đó với đây hết tình": ...
- Không gian đối lập: Khi trong một bài ca dao có hai yếu tố không gian mang những đặc điểm trái ngược nhau được đặt bên cạnh nhau nhằm thể hiện nội dung đối kháng hoặc trắc trở, éo le trong quan hệ tình cảm đôi lứa.
+ "Gần nhà xa ngõ nên khó đi thăm/ Hẹn sang mười bốn, sao rằm chưa sang"
+ "Tìm en như thể tìm chim/ Chim bay bể Bắc anh tìm bể Nam"
- Không gian xã hội: là không gian dung chứa những quan hệ của nhân vật trữ tình trong xã hội. Chiều không gian nghệ thuật được xác định bởi:
+ Điểm nhìn của chủ thể. Hướng nhìn của chủ thể thường thông qua những từ ngữ chỉ phương hướng hoặc thông qua việc miêu tả vật thể được nhìn, ngắm,....
+ Khi tác giả dân gian mượn không gian mượn không gian rộng lớn dể miêu tả thì bao giờ những bài ca dao ấy cũng đầy bất trắc, éo le.
+ Kho sử dụng không gian cao rộng mà tươi sáng thì đó là những bài ca vui tươi và ngược lại.
1.1.2.4 Thời gian nghệ thuật của ca dao
- Thời gian nghệ thuật trong ca dao phần lớn là thời gian hiện tại – thời gian diễn xướng. Trong ca dao, có hai bộ phận có và không có từ biểu thị thời gian:
+ Bộ phận ca dao có từ biểu thị thời gian: trong bộ phận này thường xuất hiện một số trạng ngữ chỉ thời gian hiện tại như: Hôm qua, hôm nay, bây giờ, sáng, trưa, chiều, một mai, khi xưa, hôm qua, đêm qua, ... "Bây giờ ta gặp nhau đây/ Như con cá cạn gặp ngày trời mưa", "Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều", "Hôm qua tát nước đầu đình/ Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen,..."
+ Bộ phận ca dao không có từ biểu thị thời gian: "Đi mô cho thiếp theo cùng/ Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam". Thời gian diễn xướng bài ca dao chính là thời gian nghệ thuật, là thời gian hiện tại.
- Thời gian tâm lí trong ca dao: Là thời gian được đo đếm, cảm nhận bằng chính tâm trạng của tác giả. "Xa mình, ông trời nắng tôi nói mưa/ Canh ba tôi nói sáng, trời trưa tôi nói chiều"; "Tìm em đã tám hôm nay/ Hôm qua là tám, hôm nay là mười".
- Thời gian đối lập: Để tạo sự đối lập về thời gian, tác giả thường dùng các cặp từ: Khi xưa - bây giờ, khi đi - khi về, nào khi - bây giờ, xưa kia - bây giờ, ... "Khi xưa một hẹn thì nên/ Bây giờ chín hẹn anh quên cả mười".
- Thời gian thề nguyền: Những con số trên trong ca dao không phải là những con số chính xác mà là những đại lượng thời gian có tính ước lệ.
+ Công thức miêu tả thời gian "Trăm năm": "Trăm năm dẫu lỗi hẹn hò/ Cây đa bến cũ con đò vẫn đưa", ...
+ Công thức miêu tả thời gian "đêm khuya": Những bài ca dao bắt đầu bằng "đêm khuya", "đêm năm canh", "đêm nằm, "đêm qua",... nhân vật trữ tình ở trong tâm trạng sầu muộn, hoàn cảnh cô đơn, trong ngóng, chờ đợi, buồn bã: "Đó có đôi ăn rồi lại ngủ, Đây có một mình thức đủ năm canh".
+ Công thức miêu tả thời gian "đêm trăng thanh":
Trăng thanh, trăng tỏ, trăng tròn, trăng rằm,... là những hình ảnh chỉ thời khắc đêm mới đến, trăng mới lên. Kết hợp với nó là không gian thơ mộng, rạng rỡ, thanh mát, tất cả gợi cho con người bao điều mơ ước cần bộc bạch, giải bày, ngỏ ý trao lời với nhau: "- Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng/ Tre non nửa lá đan sàng nên chăng/ - Đan sàng thiếp cũng xin vâng/ Tre vừa đủ lá non chăng hỡi chàng".
+ Công thức miêu tả thời gian "chiều chiều": "Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Trông về que mẹ ruột đau chín chiều"; Chiều chiều mây phủ Sơn Trà/ Lòng ta thương bạn nước mắt và lộn cơm".
1.1.2.5 Mô típ của ca dao
- Em như, Thân em như...
- Chiều chiều,...
- Thân cò,...
1.1.2.6 Ngôn ngữ và thể thơ ca dao
- Ngôn ngữ ca dao là ngôn ngữ thuần Việt, đời thường nên nó có tính chất bình dân, mộc mạc, giản dị, dễ hiểu: "Thò tay mà ngắt ngọn ngò/ Thương em đứt ruột giả đò làm ngơ".
- Ngôn ngữ ca dao là một thứ ngôn ngữ bóng bẩy, mượt mà, nhuần nhụy trong việc diễn đạt tình và ý. "Gánh cực mà đổ lên non/ Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo", hay "Lấy chồng từ thủa hồi thu/ Mắc chi ra bến ngồi ru nỗi buồn",...
- Lối so sánh ví von, giàu hình ảnh.
- Thể thơ: Ca dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau, thể lục bát rất phổ biến.
1.1.3 Thi pháp truyện cổ tích1.1.3.1 Cốt truyện cổ tích
- Cốt truyện là hệ thống những biến cố, hành động, những sự kiện,...tạo thành những bộ phận quan trọng của câu chuyện nhằm chuyển tải nội dung của câu chuyện. Những biến cố đó là những sự kiện bất thường được chia làm 6 phần:
Giới thiệu: là phần mở đầu ở đây chưa có biến cố, xung đột xảy ra
Phần thắt nút: Thường là một biến cố quan trọng. Đây là nút mở đầu cho chuỗi biến cố sẽ xảy ra ở phần sau
Phần phát triển: là phần trung tâm của câu chuyện. Phần này là chuỗi biến cố xảy ra theo trục thời gian, các biến cố có mức độ tăng dần đến một biến cố căng thẳng, quyết liệt nhất.
Phần đỉnh điểm: (còn gọi là cao trào) Đây là phần giải quyết mâu thuẫn, xung đột.
Phần kết thúc: (còn gọi là phần mở nút) Đây là phần giải quyết số phận của nhân vật.
Phần vĩ thanh: là phần bài học được rút ra từ câu chuyện.
- Truyện cổ tích cũng có đầy đủ 6 phần cơ bản của cốt truyện như đã nêu trên. Truyện cổ tích thường ngắn gọn, đơn giản, ít tình tiết, biến cố. Vì vậy, cốt truyện cổ tích thường đơn giản, sơ lược, khuôn mẫu. Cốt truyện cổ tích thường xây dựng trên cơ sở cuộc đời của nhân vật Chính diện. Những xung đột tạo nên biến cố trong cốt truyện cổ tích có thể xảy ra trong phạm vi gia đình, xã hội nhưng cũng có khi chuyển từ phạm vi gia đình ra ngoài xã hội. Những biến cố ấy có mức độ đơn giản đến phức tạp, có khi chuyến sang gây cấn, quyết liệt.
1.1.3.2 Thời gian nghệ thuật truyện cổ tích
- Thời gian nghệ thuật truyện cổ tích là lớp thời gian quá khứ có tính chất phím chỉ thể hiện rõ nhất là cụm từ mở đầu truyện: "Ngày xưa, ..." hay "Ngày xửa, ngày xưa,.....". Điều này khác với truyền thuyết là thời gian được xác định cụ thể. Đó là thời gian của lịch sử.
- Thời gian trong truyện cổ tích có thể nhanh hoặc chậm tùy theo nhịp điệu trần thuật về những biến cố đã được lựa chọ, xắp xếp của người kể chuyện. do vậy không có sự quy đảo về thời gian. Nhân vật được giới thiệu là được tác giả dân gian đạt vào trục đối kháng, mâu thuẫn và cứ thế trôi theo dòng sự kiện ấy, không cảm nhận thời gian theo cảm xúc chủ quan. Vì thế, nhân vật của truyện cổ tích khi đứng trước những biến cố có những hành động cụ thể, không quay lại để hồi tưởng, băn khoăn, không ưu tư, suy nghĩ,... không có biểu hiện của tâm trạng. Ví dụ trong truyện "Tấm Cám", cô Tấm có rất nhiều lần đã khóc. Nhưng việc "khóc" của cô Tấm không phải nằm trong một tâm trạng gì cả mà đó chỉ là một hành động "khóc" như mọi hành động khác trong truyện mà thôi. Cũng chính vì thế mà trong truyện cổ tích không bao giờ có thời gian "Tâm lí" (tâm trạng). Và khi câu chuyện kết thúc là khi hành động đối kháng được giải quyết./.
1.1.3.3 Không gian nghệ thuật truyện cổ tích
- Không gian nghệ thuật truyện Cổ tích là không gian định lượng, không xác định, mơ hồ và phiếm chỉ: "tại một làng nọ", "vùng đất kia", "nhà kia", ... Không gian này làm cho truyện cổ tích gần gũi, thân thuộc với người nghe, làm cho người nghe dễ đồng cảm với nhân vật bất hạnh trong câu chuyện.
- Truyện cổ tích còn có một lớp không gian nữa đó là lớp không gian thần kì , kì ảo – không gian không cản trở. Không gian này tạo sự hấp dẫn, li kì, cuốn hút.
- Trong truyện cổ tích hai lớp không gian hiện thực và không gian thần kì đan xen lẫn nhau. Nhân vật cổ tích đi về giữa hai lớp không gian ấy, giữa hai cõi mơ và thực. nó không hoàn toàn là hiện thực và cũng không hoàn toàn là mơ. Chuyện của cổ tích luôn chuyển hóa linh hoạt giữa mơ và thực, thực và mơ. Từ những yếu tố không gian nghệ thuật cổ tích đã nêu, ta có thể khẳng định: không gian nghệ thuật cổ tích không có không gian tâm lí (tâm trạng).
1.1.3.4 Nhân vật truyện cổ tích
- Nhân vật trong truyện cổ tích rất đa dạng, phong phú và sinh động. Nó phản ánh hầu như toàn bộ mọi hạng người, mọi loại nghề nghiệp trong xã hội. Nhân vật cổ tích còn là nhân vật của các quan hệ gia đình, thân tộc, xã hội. Nhân vật xuất hiện trong cổ tích bao giờ cũng nêu lên những mâu thuẫn trong quan hệ xã hội, quan hệ gia đình,...
- Nhân vật trong truyện cổ tích được phân tuyến và chia làm hai tuyến nhân vật chính đó là: tuyến nhân vật chính diện và tuyến nhân vật phản diện. hai tuyến nhân vật này tiêu biểu cho hai lực lượng chính trị đối lập nhau trong xã hội đó là: thống trị - bị trị; Thiện- Ác; Cao cả - Thấp hèn; Tốt – Xấu,...
- Nhân vật trong truyện cổ tích còn là nhân vật cực tuyến. Nhân vật cổ tích thường được đẩy đến cực điểm của một tính chất nào đó. Thường thì rất tốt, rất thiện hoặc rất ác, rất xấu,... Việc xây dựng nhân vật cực tuyến còn được xem là một thủ pháp nghệ thuật. đó là nhân vật được phóng đại, hư cấu theo tình cảm yêu hay ghét mãnh liệt và chủ quan của tác giả dân gian.
- Nhân vật trong truyện cổ tích còn là loại nhân vật chức năng. Loại nhân vật này là kiểu nhân vật phổ biến của cổ tích thần kì. Đó là những nhân vật có đặc điểm phẩm chất cố định không thay đổi từ đầu cho đến cuối truyện, không có đời sống nội tâm, sự tồn tại và hành động của nhân vật chỉ nhằm thực hiện một số chức năng nhất định nào đó.
- Nhân vật trong truyện cổ tích nhất là cổ tích thần kì, con người gần như không già đi, không ốm đau, không thất bại trước một thế lực phản diện nào,... thậm chí họ còn có thể biến hóa vào thế giới của muôn loài.
1.1.4 Thi pháp truyền thuyết1.1.4.1 Hiện thực và tưởng tượng trong truyền thuyết
- Hiện thực trong truyền thuyết là hiện thực xã hội loài người nhưng được nhìn bó hẹp trong phạm vi từ bộ tộc cho đến bộ lạc rồi tiến dần lên xã hội có nhà nước chuyên chế. Bộ phận truyền thuyết nói về sự xây dựng quốc gia phong kiến, sự tranh chấp giữa các bộ lạc và sự xâm lấn giữa các quốc gia là bộ phận có yếu tố hiện thực cao hơn, yếu tố hoang đườn[g huyền thoại giảm đi rõ rệt. Bộ phận truyền thuyết này thường ca ngợi công tích của vị lãnh tụ bộ lạc và những người anh hùng chiến trận. Yếu tố thần thánh trong nhân vật anh hùng là sự suy tôn cá nhân có tài có công với cộng đồng.
- Truyền thuyết lịch sử là sự tái tạo lịch sử trên cơ sở cái cốt lõi lịch sử rồi tiến hành sắp xếp lại để dựng lên tầm vóc của sự kiện và nhân vật, đưa thêm vào đó những gì mà tâm tình, thái độ của nhân dân đối với đối tượng phản ánh.
- Không những thế, truyền thuyết dân gian còn gắn vào nhân vật những yếu tố thần kỳ lấp lánh...Những yếu tố ấy không có thực ngoài đời nhưng có thực trong tâm tình của dân gian đối với lịch sử.
1.1.4.2 Cốt truyện truyền thuyết
- Nếu thần thoại, cốt truyện chỉ xoay quanh một nhân vật thì cốt truyện truyền thuyết lại xoay quanh nhiều nhân vật, thậm chí có truyện có hai hệ thống nhân vật đối lập nhau như truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy: Một bên là An Dương Vương, Mỵ Châu, thần Kim Quy; một bên là Triệu Đà, Trọng Thủy, con tinh Gà Trắng. Như vậy cốt truyện của truyền thuyết phức tạp, đa dạng hơn thần thoại.
- Cốt truyện truyền thuyết thường theo ba đoạn đời nhân vật chính: Đoạn đời thứ nhất kể về hoàn cảnh và thân thế của nhân vật chính bao gồm một số mô típ. Mô típ sự thụ thai kỳ lạ của mẹ người anh hùng do quan hệ bí ẩn, bất thường với một hiện tượng, một sự vật nào đó. Mô típ về tướng lạ có từ khi lọt lòng như gan bàn chân có ba sợi lông trắng, có nốt ruồi đỏ trong vành tai, trên trán có ba đường chỉ ngang, tay dài quá gối,...Mô típ về sự biểu hiện khác thường, hơn người khi còn trẻ như: nâng cối đá lên cao, tay không giét cọp dữ, nhảy cao và xa khác thường, có phép lạ, không nói không cười, có chí lớn... Mô típ về hoàn cảnh xã hội: loạn lạc liên miên, giặc ngoại xâm sắp xâm lược hoặc đang thống trị hà khắc, triều đình mục nát, dân chúng lầm than... Mô típ xuất thân của nhân vật chính hoặc là con nhà nghèo đã qua thử thách cuộc đời hoặc là con nhà nòi có truyền thống thượng võ, yêu nước thương nòi, gia đình mang mối thù với giặc ngoại xâm... Đoạn đời thứ hai là quá trình hoạt động của nhân vật chính. Phần này kể lại hành động, chiến công, kì tích của nhân vật chính với nhiều tình huống thăng trầm, gian nguy, thất bại rồi thành công. Đoạn đời thứ ba là sự kết thúc của nhân vật chính. Có nhiều mô típ về giai đoạn này như mô típ về sự hoá thân, thăng hoa của nhân vật (Thánh Gióng bay lên trời, An Dương Vương theo rùa vàng xuống biển),..
1.1.4.3 Đặc trưng nhân vật truyền thuyết
- Nhân vật chính của truyền thuyết chủ yếu là người và một số nhân vật là bán thần. Ngoài nhân vật chính còn có những nhân vật phụ. Nhân vật phụ rất đa dạng, có nhân vật là người, nhân vật là thần.
- Về nhân vật, rất nhiều là anh hùng văn hoá, nhân vật anh hùng lịch sử: Nhân vật là con người như Hùng Vương, Thánh Gióng, An Dương Vương, Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi...Trong số nhân vật là con người, chỉ có Thánh Gióng mang đậm màu sắc huyền thoại, còn lại các nhân vật khác đều là nhân vật có thật trong lịch sử. Nhân vật huyền thoại Thánh Gióng mang trong mình sức mạnh thần linh, còn nhân vật lịch sử bản thân không mang sức mạnh thần linh nhưng được thần linh trợ giúp như An Dương Vương, Lê Lợi...
- Hai biện pháp song hành trong việc xây dựng nhân vật truyền thuyết là thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên và thần thánh hóa các hoạt động của con người. Thần thánh hóa các hiện tượng tự nhiên trong việc xây dựng nhân vật phụ như thần Kim Quy trong truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy, vật thần như Ngựa sắt trong truyền thuyết "Thánh Gióng"... Thần thánh hóa nhân vật bằng cách bao quanh nhân vật chính những yếu tố hoang đường, kỳ diệu. An Dương Vương, Lê Lợi không có yếu tố của thần thánh nhưng được các lực lượng thần thánh giúp đỡ như thần Kim Quy, Long Quân... Đây là xu hướng chủ đạo trong truyền thuyết. Nhân vật xây dựng theo cách này có nhân tính, nhân cách rõ hơn loại nhân vật được xây dựng theo cách thứ nhất. Phần lớn, nhân vật truyền thuyết được xây dựng theo một chu trình, kết cấu theo công thức sau: Lai lịch (bao gồm sinh đẻ thần kỳ và hình dáng dị thường) > Tài đức và sự nghiệp > Cái chết thần kỳ. Nếu có thần tích thì có hiển linh: âm phù > gia phong, sắc phong của triều đình phong kiến.
1.1.3.4 Đặc trưng ngôn ngữ truyền thuyết
- Nhân vật thần thoại được kể với một ngôn ngữ hồn nhiên, mộc mạc, nhân vật không có lý lịch rõ ràng như nhân vật truyền thuyết. Nhân vật truyền thuyết cũng gọi là thần thánh nhưng đó là sự tôn xưng của nhân dân và chính quyền phong kiến đối với nhân vật anh hùng còn thần trong thần thoại là hình ảnh của lực lượng tự nhiên.
- Đặc trưng ngôn ngữ truyền thuyết bắt nguồn từ đặc điểm lời kể truyền thuyết. Đặc điểm tiêu biểu của lời kể truyền thuyết là ngôn ngữ cô động, ít miêu tả, chủ yếu chỉ thuật lại hành động của nhân vật, chú ý kể những chi tiết về hoàn cảnh xuất thân của nhân vật, bối cảnh của câu chuyện, những lời thoại nhân vật một cách cô động. Những lời thoại nhân vật được chú ý kể là lời thể hiện khí khái, lòng nhiệt huyết của nhân vật đối với đất nước trong hoàn cảnh lâm nguy như lời của Thánh Gióng nói với sứ giả vua Hùng, lời khảng khái của bà Triệu: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi qua Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tỳ thiếp người".
1.1.3.5 Không gian truyền thuyết
- Không gian truyền thuyết là không gian đời thường, không gian chiến trường và không gian xã hội, đất nước, khác với thần thoại chủ yếu là không gian vũ trụ, không gian thiên nhiên. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy vừa có không gian đất nước bao quát một vùng đất vừa có không gian đời thường trong phạm vi gia đình Vua, vừa có không gian chiến trường. Không gian truyền thuyết gắn liền với các địa danh, di tích cụ thể như làng Phù Đổng, huyện Quế Võ, Trân Sơn, núi Sóc Sơn (Truyền thuyết Thánh Gióng), Phong Khê, núi Thất Diệu, Dạ Sơn (Truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy), Thanh Hóa, Lam Sơn, hồ Tả Vọng (Sự tích Hồ Gươm)...Những địa danh di tích ấy đều gắn liền với sự nghiệp của nhân vật truyền thuyết.
1.1.3.6 Thời gian truyền thuyết
- Thời gian truyền thuyết là thời gian lịch sử, thời gian thời đại, triều đại nó được xác định cụ thể hơn so với thời gian thần thoại. Câu chuyện xảy ra có khi kéo dài nhiều triều đại như truyền thuyết "Họ Hồng Bàng", một triều đại như truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy kể từ khi ông vua này mở mang bờ cõi, xây thành cho đến khi thất bại.
- Thời gian của truyền thuyết không ghi rõ thời điểm, ngày tháng, câu chuyện xảy ra bao lâu. Nhân vật trong truyền thuyết xác định được thời gian sinh thành và kết thúc. Nhân vật truyền thuyết là bất tử, nhưng có lý lịch rõ ràng, trải qua các bước đường của cuộc đời như Thánh Gióng, bước đường sự nghiệp như An Dương Vương, Lê Lợi, Hai bà Trưng, Bà Triệu...Nhân vật thần thoại không có tuổi thì nhân vật truyền thuyết có tuổi mặc dù truyện không nêu rõ bao nhiêu năm, chỉ trừ Lạc Long Quân, Âu Cơ, Sơn Tinh, Thủy Tinh là các nhân vật theo phong cách thần thoại nên không có tuổi.
1.2 Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học viết
- Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học Việt Nam chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học Việt Nam mới bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.
- Văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có tác động trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học viết cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.
+ Về phương diện nội dung, văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn của mọi thời đại những quan niệm xã hội, đạo đức của nhân dân lao động, của các dân tộc. Ngoài ra, nó còn cung cấp những tri thức hữu ích về tự nhiên xã hội, góp phần quan trọng về sự hình thành nhân cách con người. Nó bảo tồn, phát huy những truyền thồng tốt đẹp của dân tộc như: truyền thống yêu nước, tinh thần hướng thiện, trọng nhân nghĩa, giàu tình thương,... Biểu hiện rõ nhất là ở đề tài, nguồn cảm hứng, tư tưởng nhân ái, tình cảm lạc quan, yêu đời, tình yêu thiên nhiên, đất nước, tình yêu con người,...
+ Về phương diện nghệ thuật, văn học dân gian cung cấp cho các nhà văn một kho tàng các truyền thống nghệ thuật dân tộc, từ ngôn ngữ đến các hình thức thơ ca, các phương pháp xây dựng nhân vật, hình ảnh, cách nói, các biện pháp tu từ, thể loại, chất liệu dân gian,...
++ Ngôn ngữ văn học dân gian mang đậm tính triết lí, giàu chất thơ song hình thức biểu đạt lại gần gũi, dễ hiểu. Người dân lao động thường dùng những cách nói trong giao tiếp hàng ngày để diễn đạt tư tưởng, tình cảm cũng như đúc kết kinh nghiệm sống.
Ví dụ: Truyền thống lấy lá trầu để làm ngôn ngữ bày tỏ tình cảm
- "Bắc thang lên hái ngọn trầu vàng
Trầu em cao số muộn màng anh thương".
- "Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào ?
Cau xanh nhá với trầu vàng,
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi."
Trong văn học dân gian phần lớn là cảnh thiên nhiên hay sinh hoạt rất quen thuộc với người bình dân. Trong cuộc sống hàng ngày, người dân lao động rất thân thuộc với mái đình, cây đa, bến nước,... vì vậy, trong tình yêu đôi lứa, trong nỗi nhớ quê hương,... người lao động đã tái hiện lại những không gian thân thuộc ấy trong lời ca của mình:
- "Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao".
(Ca dao)
++ Các hình thức lặp lại là đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu trong ca dao: lặp lại kết cấu, hình ảnh, lặp lại dòng thơ mở đầu hoặc một từ, một cụm từ,...
- "Vì thuyền, vì bến, vì sông
Vì hoa nên bận cánh ong đi về."
- "Còn non còn nước còn trời
Còn cô bán rượu còn người say sưa."
- "Yêu nhau mấy núi cũng trèo
Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua."
(Ca dao)
++ Văn học dân gian thường sử dụng các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, nhân hoá,... để giúp hình dung một cách cụ thể thông qua những hình ảnh quen thuộc như : hạt mưa, tấm lụa đào, cái giếng, cây đa, bến nước, con thuyền, con đò,...
- "Thuyền về có nhớ bến chăng ?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền".
- "Trúc dặn dò mai, bến dặn dò thuyền
Nghe ai quyến rũ bỏ lời nguyền của anh"
(Ca dao)
++ Hơn 90% số bài ca dao sử dụng thể thơ lục bát hoặc lục bát biến thể. Trong ca dao còn có thể thơ khác, như: song thất lục bát, vãn bốn, vãn năm. Nguyễn Du đã rất thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc với tác phẩm "Truyện Kiều". Ngoài, còn có một số tác phẩm văn học viết cũng được sử dụng thể thơ dân tộc này : "Lục Vân Tiên" (Nguyễn Đình Chiểu), "Lỡ bước sang ngang" (Nguyễn Bính),....
++ Các nhà thơ đã sử dụng rất linh hoạt chất liệu dân gian vào tác phẩm của mình:
- "Tay ai thì lại làm nuôi miệng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non."
(Nguyễn Trãi)
Gợi liên tưởng tới 2 câu tục ngữ: "Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ", "Miệng ăn núi lở".
Như vậy, trong quá trình phát triển, hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng cho văn học viết tiếp thu. Trái lại, văn học viết có tác động trở lại làm văn học dân gian thêm phong phú, đa dạng.
1.3 Tinh thần nhân văn qua một số truyện cổ dân gian Việt Nam (thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện thơ, cổ tích, truyện cười) trong chương trình Ngữ văn 101.3.1 Nhân văn là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại 1.3.1.1 Khái niệm nhân văn và tính nhân văn trong văn học
- Thuật ngữ "Nhân văn" cần được hiểu theo ý nghĩa của từng từ tố: "Nhân" là người, ý nói mang các đặc trưng con người, bản chất con người, "văn" là vẻ đẹp văn hóa, văn minh. "Nhân văn" có thể hiểu là những giá trị đẹp đẽ của con người.
- Một tác phẩm văn học có tính nhân văn là tác phẩm văn học thể hiện con người với những nét đẹp của nó đặc biệt là những giá trị tinh thần như trí tuệ, tâm hồn tình cảm, phẩm cách... Tác phẩm đó hướng đến khẳng định, đề cao vẻ đẹp của con người.
1.3.1.2 Tinh thần nhân văn là tư tưởng xuyên suốt của loại hình truyện cổ dân gian Việt Nam với những biểu hiện phong phú
a) Khát vọng chinh phục, chế ngự thiên nhiên, giải thích tự nhiên
Đó là mong ước, khao khát cháy bỏng của muôn đời, đặc biệt là con người ở thời kì cổ đại. Trong buổi bình minh của lịch sử loài người, cuộc đối thoại đầu tiên giữa con người với vũ trụ chứa đầy sự bí ẩn. Và nhu cầu được lí giải tự nhiên, dẫn đến khát vọng chính phục, chế ngự thiên nhiên là điều dễ hiểu. Các tác phẩm Thần trụ trời, Sơn Tinh Thủy Tinh, Mai An Tiêm, Sử thi Đăm San, Đẻ đất đẻ nước.. đã thể hiện khát vọng đó của con người.
b) Khát vọng độc lập tự cường
- Khát vọng độc lập tự cường là khát vọng của con người Việt Nam ở mọi thời đại. Bắt nguồn từ lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử chống giặc ngoại xâm nên đó là khát vọng được cháy lên từ hiện thực cuộc sống. Khát vọng một đất nước độc lập tự cường, đất đai sạch bóng quân thù, bờ cõi được mở mang, quốc gia phát triển thịnh vượng sẽ là tiền đề mang tới cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho con người. Đó là khát vọng lớn lao thể hiện giá trị nhân văn cao đẹp.
- Đến với truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy... khát vọng đó của con người được thể hiện mãnh liệt hơn bao giờ hết. Là một vị Vua đứng đầu nhà nước Âu lạc, An Dương Vương ấp ủ trong mình khát vọng độc lập tự cường. Để biến ước mơ ấy trở thành hiện thực nhà Vua cho dời đô từ vùng rừng núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng Cổ Loa. Truyền thuyết chỉ kể lại một câu đơn giản như vậy nhưng đó là cả một sự nghiệp "dời non lấp bể" của một dân tộc ở buổi bình minh , là bước chuyển mình to lớn từ nhận thức khát vọng thành hành động việc làm. Cổ Loa là nơi đồng bằng đắc địa, đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào phù hợp với việc trồng lúa nước, lại có giao thông thuận lợi. Dời đô về nơi ấy, Nhà Vua đã gửi gắm vào mảnh đất ấy những hạt mầm sinh sôi, những ước vọng cho nhân dân một cuộc sống no đủ, xã tắc cường thịnh. Đó không chỉ là khát vọng của nhà Vua mà còn là khát vọng của toàn thể dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước, bảo toàn nền độc lập tự cường.
- Nhưng để thực hiện khát vọng ấy không hề đơn giản. Mục đích càng lớn lao thì con đường đến đích càng lắm chông gai. Dời đô về Cổ Loa nghĩa là tự phơi mình giữa đồng bằng, thách thức kẻ thù. Thấy được mối đe dọa đó, An Dương Vương cho xây thành đắp lũy. Việc xây thành khó khăn, xây lại đổ. Yếu tố kì ảo xuất hiện, hình ảnh cụ già bí ẩn và thần Kim Quy giúp An Dương Vương xây thành chế nỏ là những yếu tố không có thật xuất hiện như một minh chứng cho sự đồng tình của thần linh đối với khát vọng độc lập tự cường của dân tộc. Hình ảnh nỏ thần chính là sự thần thánh hóa và bí mật của vũ khí là kết tinh của trí thông minh và nghệ thuật giữ nước của cha ông. Như cây gậy sắt của Thánh Gióng, nỏ thần với những mũi tên bách phát bách trúng khiến quân Triệu Đà thua, Âu lạc chấm dứt cảnh binh đao, ca khúc thái bình. Đó là mong ước ngàn đời quốc gia được độc lập, yên bình đối với một dân tộc nhiều giặc dã.
- Không dừng lại ở đó, dân gian kể tiếp bi kịch nước mất, nhà tan, tình yêu tan vỡ. Khát khao về một dân tộc độc lập khiến ta quý trọng nền độc lập bao nhiêu càng lên án trước những hành động dù vô tình làm mất nước của hai cha con An Dương Vương. Rùa Vàng là hiện thân cho thái độ của nhân dân. Lời thét lớn của Rùa vàng " Kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó" chính là sự phê phán gay gắt dành cho Mị Châu xuất phát từ tình yêu nước, lòng thiết tha với nền độc lập dân tộc.
- Khát vọng độc lập tự cường là khát vọng chưa bao giờ ngừng nung nấu trong trái tim những người dân đất Việt. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là câu chuyện về một quá trình dựng nước, giữ nước đầy vất vả khó khăn và bi kịch nước mất nhà tan, tình yêu tan vỡ ấy khiến ta biết trân trọng nền độc lập, biết căm ghét chiến tranh, lên án những kẻ vô tình hại nước. Câu chuyện là bài học đắt giá về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng đừng để xảy ra bi kịch như Mị Châu vì tình riêng mà quên đi trách nhiệm của một nàng công chúa. Yêu nước thôi là chưa đủ, để biến khát vọng tự cường độc lập thành hiện thực mãi mãi, mỗi người dân còn phải biết bảo vệ nền độc lập, hết mình xây dựng đất nước. Đó cũng là bức thông điệp mà dân gian ta gửi gắm cho người đọc. Thông điệp xanh ấy được viết nên từ cảm hứng nhân văn cao đẹp - vì con người.
c) Ngợi ca tình nghĩa đạo lí con người
- Đăm San chiến thắng Mtao Mxây là bắt nguồn từ danh dự của một người anh hùng khi bị kẻ thù lăng nhục, nhưng sự quyết chiến ấy còn được tạo nên từ nghĩa tình chung thủy với vợ là Hơ Nhí, bằng nghĩa tình sâu nặng với buôn làng. Chàng đã làm tròn đạo lí của một người chồng, làm vẹn nghĩa với một người tù trưởng khi sự bình yên của buôn làng mình bị uy hiếp. Lời ngợi ca người anh hùng còn được cất lên khi chàng có nghĩa cử vô cùng cao đẹp với dân làng của Mtao Mxây, chàng đã kêu gọi tha thiết, chân thành họ hãy đi theo mình. Hành động ấy không chỉ thể hiện tấm lòng bao dung của Đăm Săn mà còn làm sáng lên đạo lí : "thương người như thể thương thân" trong con người lẫy lừng ấy. Và rồi Đăm Săn được thưởng công không chỉ là buôn làng của mình ngày càng thịnh vượng, giàu có mà chàng còn trở thành một tù trưởng tiếng tăm lẫy lừng, được mọi người kính nể.
d) Khát vọng công lí
Niềm mơ ước cái thiện thắng cái ác và mơ ước về hạnh phúc của nhân dân lao động Việt Nam xưa là niềm mơ ước không bao giờ vơi cạn, đó là biểu hiện tha thiết về khát vọng công lí trong cuộc đời trăm đắng ngàn cay này.
- Truyện cổ tích Tấm Cám đã nói lên khát vọng ấy thật thấm thía và sâu sắc hơn bao giờ hết. Thân phận con côi, những giọt nước mắt tủi hờn sau những lần bị đầy đọa, ức hiếp là minh chứng cho sự đau khổ tưởng như không bao giờ chấm dứt của cuộc đời Tấm, nhưng với cái nhìn công bằng, nhân ái, nhân dân ta đã đứng về phía những con người bất hạnh, làm sáng lên khao khát được sống hạnh phúc, làm dịu đi những đắng cay chua chát của đời họ. Nhân dân đã để cho ông Bụt đến bên cô gái nghèo, xuất hiện mỗi lần Tấm khóc, an ủi nâng đỡ mỗi khi Tấm gặp khó khăn. Cùng với Bụt là con gà, con chim sẻ - những con vật thần kì đã trợ giúp cho Tấm trên con đường đi đến hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân ta mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa. Niềm mơ ước không chỉ thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời mà cháy bỏng khát vọng công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.
- Khát vọng công lí trong Tấm Cám còn được thể hiện cao hơn nữa khi nhân dân đã thổi một sức sống mãnh liệt cho nhân vật, để Tấm tự giành và giữ lấy hạnh phúc của mình và thực hiện " oán thì trả oán, ân thì trả ân" đến tận cùng. Cuộc chiến đấu giữa Tấm và mẹ con dì ghẻ gian nan, quyết liệt nhưng cuối cùng Tấm đã chiến thắng. Đó là chiến thắng tất yếu của cái thiện. Kết thúc có hậu của câu chuyện hay là bức tranh đẹp đẽ về một xã hội lí tưởng mà con người ngàn đời mong ước khát khao.
- Nếu Tấm được trở về cung làm hoàng hậu, mẹ con Cám bị trừng trị thích đáng thì Ngô và Cải (Nhưng nó phải bằng hai mày) vẫn cứ phải sống trong vòng đời luẩn quẩn bất công. Không có ông Bụt, bà Tiên đứng ra phán xử công bằng của họ, chỉ có một tên quan nhơ bẩn, quen ăn tiền lo lót của dân. Bằng tiếng cười đả kích, bằng cái nhìn sắc sảo, dân gian đã bóc trần bản chất vô lại của thầy Lí. Tạo nên tiếng cười, dân gian đã tố cáo phê phán quan lại xưa kia từ đó thể hiện ước mơ đưọc sống công bằng, hạnh phúc trong một xã hội luôn có những người " cầm cân nảy mực".
e) Cái nhìn khoan dung đối với con người
- Sự khoan dung , độ lượng, cái nhìn thông cảm, nhân ái của nhân dân ta cũng là biểu hiện đẹp đẽ thể hiện tinh thần nhân văn sâu sắc trong truyện cổ dân gian. Trở lại với truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy mới thấy hết vẻ đẹp tinh thần cao quý đó của người xưa.
- Hai cha con An Dương Vương vì chủ quan, mất cảnh giác đã trực tiếp làm tiêu vong sự nghiệp của mình và đưa Âu lạc đến diệt vong. Đó là bài học cay đắng về thái độ mất cảnh giác đó đối với kẻ thù. Lời kết tội đánh thép của nhân dân ta gửi trong câu nói của Rùa vàng "kẻ nào ngồi sau ngựa chính là giặc đó", hành động An Dương Vương "tuốt gươm chém Mị Châu" cho thấy thái độ nghiêm khắc, dứt khoát của nhân dân ta đã đứng về phía công lí và quyền lợi dân tộc để xứ án. Tuy nhiên, với tấm lòng khoan dung nhân ái, biết ơn người anh hùng An Dương Vương đã từng có công lớn trong sự nghiệp dựng nước, dân gian đã mĩ lệ hóa, bất tử hóa cái chết của An Dương Vương, đã sáng tạo nên hình tượng đẹp "ngọc trai – nước giếng" để bày tỏ sự xót thương, cảm thông với Mị Châu và Trọng Thủy.
1.4. Luyện tập1.4.1. Đề 1
Bàn về văn học dân gian, nhà văn Gorki nói: "Rất cần nêu lên rằng, trong văn học dân gian hoàn toàn không có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan mặc dầu những người sáng tác văn học dân gian sống trong nhọc nhằn, cực khổ. Tập thể dường như vẫn có ý thức về tính bất diệt của mình và tin rằng mình sẽ chiến thắng tất cả những lực lượng thù địch". Bằng những hiểu biết về truyện cổ tích Việt Nam, hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.
1.4.1.1 Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vấn đề cần nghị luận.
1.4.1.2 Thân bài
a) Giải thích nhận định
- Tác giả của văn học dân gian là nhân dân lao động, những con người luôn sống trong nhọc nhằn, cực khổ, luôn thua thiệt và chịu nhiều bất công.
- Trong tác phẩm, họ kể lại câu chuyện để nói về cuộc đời của mình, của tầng lớp mình.
- Tuy vậy, cách nhìn, cách nghĩ của họ trong tác phẩm thì luôn ánh lên niềm tin, niềm lạc quan mãnh liệt về sự chiến thắng của cái đẹp, điều thiện đối với cái xấu, cái ác.
b) Chứng minh:
- Hoàn cảnh sống của nhân dân trong các câu chuyện cổ tích:
+ Truyện cổ tích ra đời trong hoàn cảnh xã hội quá độ từ chế độ công xã nguyên thuỷ sang chế độ phong kiến và phát triển mạnh trong xã hội phong kiến. Đó là chế độ xã hội nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nhiều mối quan hệ phức tạp, trong đó nổi lên là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa giai cấp thống thống trị và bị trị. Sự phân chia giai cấp và mâu thuẫn đó thể hiện ở sự phân tuyến của nhân vật.
+ Qua truyện cổ tích, tác giả dân gian nói về cuộc sống cực khổ, nhọc nhằn, luôn chịu cảnh bất công của giai cấp mình.
++ Họ bị bóc lột sức lao động (Cây tre trăm đốt).
++ Họ bị lừa gạt (Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây tre trăm đốt).
++ Họ bị đối xử bất công, bị khinh rẻ, chịu nhiều thua thiệt (Cây khế, Sọ Dừa, Lấy vợ cóc...).
++ Cuộc sống nghèo khổ, khốn cùng (Chử Đồng Tử).
- Truyện cổ tích không hề có bóng dáng của chủ nghĩa bi quan, mà luôn tin vào tập thể, tin vào sự chiến thắng của lẽ phải, điều thiện.
+ Trong đói nghèo, thiếu ăn, họ mơ về sự no ấm, đủ đầy (nồi cơm của Thạch Sanh, lâu đài của Chử Đồng Tử, đảo vàng trong Cây khế...).
+ Trong cảnh sống bất công, họ mơ về sự công bằng, dân chủ (Cây khế, Cây tre trăm đốt).
+ Họ tin vào sức mạnh của tình yêu có thể vượt qua những hố sâu ngăn cách về địa vị: chàng trai nghèo lấy được công chúa, cô gái nghèo lấy được vua.
+ Họ tin vào sức sống bất diệt của mình: cô Tấm chết đi sống lại nhiều lần, mỗi lần sống lại lại trở nên mạnh mẽ hơn; Sọ Dừa cởi bỏ lốt quái dị trở thành chàng trai khôi ngô.
+ Họ tin vào khả năng của mình sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu (Sọ Dừa, Lấy vợ cóc).
+ Sự xuất hiện của Tiên, Bụt cũng là ước mơ, niềm tin của nhân dân lao động về sức mạnh của lẽ phải, công lí và điều thiện.
+ Cách kết thúc có hậu của các truyện cổ tích thần kì chính là sự thể hiện niềm tin đạo đức, sự khẳng định lạc quan: ở hiền gặp lành, ác giả ác báo.
c) Bình luận
- Truyện cổ tích ra đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều bất công. Tác giả dân gian không ngần ngại khi phơi bày thực trạng khốn cùng trong cuộc sống của mình. Song truyện cổ tích không hề gây cảm giác bi thương, bi luỵ bởi tinh thần lạc quan thấm đẫm trong các tác phẩm.
- Tinh thần lạc quan chính là sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt lên hoàn cảnh sống bất công, ngặt nghèo. Đây là giá trị nhân văn sâu sắc của truyện cổ tích.
d) Mở rộng
Những bài học rút ra từ truyện cổ tích trên không chỉ là từ truyện cổ tích mà nó thực sự có ý nghĩa trong đời sống của chúng ta. Hãy luôn nhắc nhở bản thân mỗi khi làm điều gì đó, hay luôn luôn vui vẻ và sống hết mình. Mọi thứ phải đến rồi cũng sẽ đến khi chúng ta không ngừng cố gắng.
1.4.1.3 Kết bài
Đánh giá và khẳng định sự đúng đắn của ý kiến.
1.4.2 Đề 2
Lời thơ dân gian không những sẽ bước đầu cho ta làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia mà đồng thời sẽ còn giúp ta học được những cách nói năng tài tình chính xác. Theo tôi, đối với một người Việt Nam mà thiếu những kiến thức này thì có thể xem như là thiếu một trong những điều cơ bản (Hoài Thanh, "Một vài suy nghĩ về ca dao", Báo Văn nghệ, số 1,2-1-1982). Qua một số bài ca dao đã học, đã đọc, anh (chị) hãy giải thích và làm sáng tỏ ý kiến trên.
1.4.2.1 Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu ý kiến
1.4.2.2 Thân bài
a) Giải thích ý kiến của Hoài Thanh
- "Lời thơ dân gian":
+ Trong văn học dân gian có rất nhiều thể loại tập trung thể hiện đời sống của người dân xưa. Trong đó, ca dao là thể loại trữ tình bằng văn vần, diễn tả đòi sống nội tâm của con người. Nói cách khác, ca dao là thơ trữ tình dân gian truyền thống.
+ Lời thơ dân gian là nói đến ca dao
- "Làm quen với tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa kia":
+ Ca dao là tiếng nói tâm hồn sâu lắng, tha thiết của đồng bào ta xưa kia.
+ Trong ca dao, tất cả những nỗi niềm cảm xúc của nhân dân ta đều được bộc lộ. Đó là tiếng nói của tình yêu đôi lứa, là những lời than thân trách phận, là tiếng cười vừa hài hước, vừa sâu cay, là mơ ước, là hi vọng, chờ đợi...
+ Đọc và tìm hiểu ca dao, người đọc sẽ cảm nhận được tất cả những cung bậc cảm xúc đó trong đời sống tinh thần của người xưa.
- Học được cách nói năng tài tình, chính xác:
+ Trong văn học dân gian cũng như trong ca dao ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu là lời ăn tiếng nói hằng ngày giản dị, nôm na của những người lao động.
+ Song cách nói năng ấy không phải không tài tình chính xác. Đó là cách nói xa vời, bay bổng khi thể hiện một tình yêu thầm kín, là cách nói đầy hình ảnh khi bộc bạch tâm trạng xót xa cho thân phận nghèo, là cách nói hóm hỉnh khi giễu cợt, đả kích...
+ Cách nói năng đó đã giúp người đọc ca dao có thêm những kinh nghiệm quý báu trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
- "Thiếu một trong những điều cơ bản:
+ Điều cơ bản: điều cốt lõi, không thể không có.
+ Văn học dân gian Việt Nam nói chung và ca dao Việt Nam nói riêng là kho tàng quý báu chứa đựng những nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc Việt Nam, là cội nguồn của sự hình thành và phát triển đời sống tinh thần của mỗi con người Việt Nam.
+ Đến với văn học dân gian, đến với ca dao, mỗi người Việt Nam sẽ được đến với đời sống của chính ông cha, tổ tiên mình. Đó là nền tảng cơ bản cho sự phát triển mỗi nhân cách.
- Nội dung của cả ý kiến: Hoài Thanh khẳng định: Ca dao Việt Nam không chỉ giúp mỗi người Việt Nam hiểu được đời sống tinh thần phong phú, đẹp đẽ của cha ông mình xưa kia mà còn giúp họ có thêm những cách nói năng giản dị mà chính xác, tài tình khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Đó là những kiến thức cốt lõi không thể thiếu để mỗi con người Việt Nam tự phát triển mình.
c) Làm sáng tỏ ý kiến
- Ca dao thể hiện tâm tư tình cảm của đồng bào ta xưa:
+ Tình yêu thiên nhiên.
+ Tình cảm gia đình: tình cảm của con cái đối với cha mẹ, tình cảm vợ chồng, tình cảm anh em...
+ Tình yêu đôi lứa: Khát vọng hạnh phúc, hôn nhân. Nỗi nhớ nhung da diết. Tấm lòng thuỷ chung, son sắt
+ Tiếng nói than thân: Xót xa cho thân phận người phụ nữ phải sống phụ thuộc, không được quyết định hạnh phúc của mình. Lo lắng hạnh phúc tan vỡ do những rào cản của xã hội và sự mong manh của tình yêu. Đau đớn trước thân phận nhỏ mọn và khát vọng một tâm hồn trong sạch, cao đẹp
+ Tiếng cười hài hước: cười để giải trí; cười để chế giễu, tố cáo (Với từng biểu hiện, học sinh đưa dẫn chứng phân tích và chứng minh)
- Ca dao giúp học được cách nói năng tài tình, chính xác:
+ Tài tình:
+ Ngôn ngữ trong ca dao vốn giản dị, mộc mạc, đời thường nhưng " cũng rất tinh tế, giàu hình ảnh.
+ Hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi: dải lụa đào, cầu dải yếm, mười tay...
+ Biện pháp tu từ nghệ thuật: so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp, đối...
- Chính xác: Ngôn ngữ phù hợp, hiệu quả trong việc diễn tả những cung bậc khác nhau của tâm tư, tình cảm:
+ Ca dao tình yêu: Ngôn ngữ nhẹ nhàng, bay bổng, đầy tâm trạng.
+ Ca dao than thân: Ngôn ngữ lắng đọng, day dứt.
+ Ca dao hài hước: Ngôn ngữ hóm hỉnh, giễu cợt, đả kích với việc tạo ra những hình ảnh đối lập, gây cười.
(Với từng biểu hiện, học sinh đưa dẫn chứng phân tích và chứng minh)
d) Mở rộng
- Khi tiếp nhận ca dao, chúng ta phải trân quý đời sống tinh thần phong phú, đẹp đẽ của cha ông mình xưa kia.
- Trong giao tiếp, phải cố gắng rèn luyện những cách nói năng giản dị mà chính xác, tài tình khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc.
1.4.2.3 Kết bài
Đánh giá chung: Ý kiến đánh giá của Hoài Thanh vừa nêu được những nét đẹp của ca dao vừa khẳng định được ý nghĩa của ca dao trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ ý kiến đó, người đọc càng thêm yêu quý, trân trọng kho tàng ca dao và có cái nhìn đúng đắn về vị trí của nó trong văn học dân tộc và trong đời sống.
1.4.3 Đề 3
Không chú trọng tính chính xác như các văn bản lịch sử, truyền thuyết đã phản ánh lịch sử một cách độc đáo: những câu chuyện trong lịch sử dựng nước, giữ nước của cha ông ta được khúc xạ qua lời kể của nhiều thế hệ để rồi kết tinh thành những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường. (Ngữ văn 10, Tập 1, NXB Giáo Dục, 2017, tr. 39)
Anh/ chị hiểu nhận định trên như thế nào? Bằng cảm nhận Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy để làm sáng tỏ vấn đề.
1.4.3.1 Mở bài
Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
1.4.3.2 Thân bài
a) Giải thích nhận định
- Truyền thuyết là tác phẩm tự sự dân gian kể về sự kiện và nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử) phần lớn theo xu hướng lý tưởng hóa, qua đó thể hiện sự ngưỡng mộ và tôn vinh của nhân dân đối với những người có công với đất nước, dân tộc hoặc cộng đồng dân cư của một vùng.
- Hình tượng nghệ thuật là các khách thể đời sống được người nghệ sĩ tái hiện một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật.
- Ý kiến đề cập đến đặc trưng của thể loại truyền thuyết. Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo: Không phản ánh lịch sử một cách chính xác, khô khan, đơn giản như các văn bản lịch sử; đằng sau việc phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử là thái độ, tình cảm, cách đánh giá của nhân dân đối với nhân vật và sự kiện lịch sử. Đó là lịch sử được phản chiếu qua lăng kính nghệ thuật của nhân dân, có chức năng nhận thức và thẩm mĩ to lớn.
- Như vậy, cốt lõi hiện thực và yếu tố hư cấu, tưởng tượng là đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết.
+ Cốt lõi lịch sử: Nếu truyện cổ tích kể về những điều không có thật, không thể xẩy ra trong thực tế thì truyền thuyết kể về các sự kiện lịch sử đã xẩy ra trong quấ khứ. Nhân vật cổ tích là hư cấu còn nhân vật truyền thuyết do chính lịch sử tạo ra, tuy không phải nhân vật hư cấu nhưng cũng không phải bản sao của lịch sử. Nhân dân đã lựa chọn những nhân vật mang ý nghĩa biểu trưng cho lịch sử khái quát của dân tộc (Thánh Gióng, Sơn Tinh) hoặc những nhân vật có thật trong lịch sử, vừa phản ánh lịch sử vừa lý tưởng hóa nhân vật để từ đó gửi gắm thái độ, tình cảm của nhân dân.
+ Yếu tố hư cấu: Hư cấu là vận dụng trí tưởng tượng để sáng tạo nên những nhân vật, những câu chuyện, những tác phẩm nhằm phản ánh cuộc sống và thực hiện những mục đích nghệ thuật nhất định. Hư cấu trong văn học dân gian là hư cấu kỳ ảo. Nếu như hư cấu kỳ ảo trong truyện cổ tích nhằm thực hiện giấc mơ công lý, triết lý sống ở hiền gặp lành thì hư cấu kỳ ảo trong truyền thuyết nhằm để giải thích các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử, thông thường để ngợi ca.
- Nhờ yếu tố hư cấu kỳ ảo, những câu chuyện lịch sử trở nên sinh động, hấp dẫn. Nó là sản phẩm của trí tượng tưởng, là đôi cánh của nghệ thuật giúp cho hình tượng trở nên lung linh, rực rỡ và thiêng liêng. Nó cũng phản ánh thái độ, tình cảm của nhân dân đối với các sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử. Vì vậy, hình tượng nghệ thuật trong truyền thuyết nhuốm màu sắc thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường.
b) Cảm nhận Truyện An Dương và My Châu Trọng Thủy để làm sáng tỏ nhận định
- Cốt lõi lịch sử: Truyện An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy không phải là lịch sử chính xác mà là sáng tác văn học dân gian về lịch sử. Truyện chứa đựng cốt lõi lịch sử: Nước Âu Lạc vào thời An Dương Vương đã được dựng lên, có thành cao hào sâu, vũ khí đủ mạnh để chiến thắng cuộc xâm lược của Triệu Đà nhưng về sau đã bị rơi vào tay kẻ thù.
- Yếu tố hư cấu kỳ ảo:
+ Cụ già từ phương đông lại báo tin về sứ Thanh giang – Rùa Vàng giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa là nhân vật kỳ ảo, nhằm đề cao tính chất đúng đắn của việc xây thành đắp lũy. Hành động đó của nhà vua được cả thần và người ủng hộ.
+ Nỏ thần làm bằng vuốt rùa, bắn một phát chết hàng vạn tên giặc chính là yếu tố kỳ ảo nhằm thần thánh hóa sức mạnh của vũ khí trong tay người Âu Lạc và khẳng định tinh thần cảnh giác, chuẩn bị chống giặc ngoài của An Dương Vương.
+ Máu Mị Châu chảy xuống biển thành ngọc là yếu tố kì ảo minh chứng cho tấm lòng trong trắng mà bị lừa dối của nàng. Hình ảnh đó phần nào thanh minh cho sự vô tình gây tội của Mị Châu và thể hiện thái độ cảm thông, thương xót, bao dung của nhân dân đối với nàng.
+ An Dương Vương cầm sừng tê theo Rùa Vàng đi xuống biển là yếu tố kì ảo thể hiện thái độ và tình cảm của nhân dân đối với An Dương Vương. Nhân dân thương tiếc vị vua anh dũng của mình nên không muốn ông chết. Chi tiết lòng biển bao dung đón người anh hùng trở về đã thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của họ.
- Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy kể lại câu chuyện lịch sử ấy bằng những hình tượng nghệ thuật đặc sắc, nhuốm màu thần kì mà vẫn thấm đẫm cảm xúc đời thường:
+ Hình tượng nhân vật Rùa Vàng, nhân vật An Dương Vương, nhân vật Mị Châu – Trọng Thủy... Đó là những hình tượng nhân vật chứa đầy mâu thuẫn và những mâu thuẫn ấy vừa thuộc về cá nhân vừa phản ánh được những mâu thuẫn gay gắt giữa dân tộc ta với kẻ thù xâm lược.
+ Đó là những hình tượng nghệ thuật đặc sắc có sự kết hợp giữa cốt lõi lịch sử và yếu tố tưởng tượng, hư cấu.
c) Bình luận
- Truyền thuyết phản ánh lịch sử một cách độc đáo: Kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố lịch sử với yếu tố hư cấu kỳ ảo để phản ánh quan điểm đánh giá, thái độ và tình cảm của nhân dân về các sự kiện lịch sử và các nhân vật lịch sử.
- Từ những hình tượng nghệ thuật đặc sắc trong Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy, nhân dân ta muốn rút ra và truyền lại cho các thế hệ sau bài học lịch sử về ý thức đề cao cảnh giác với âm mưu của kẻ thù xâm lược trong công cuộc giữ nước. Bài học ấy vấn còn hết sức có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay.
- Cách phản ánh lịch sử độc đáo của thể loại truyền thuyết đem đến bài học cho sáng tạo và tiếp nhận văn học: Nhà văn cần nhào nặn từ chất liệu hiện thực sáng tạo nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo, vừa có giá trị thẩm mĩ to lớn, vừa có ý nghĩa nhận thức, giáo dục sâu sắc; người tiếp nhận truyền thuyết cần hiểu đúng đặc trưng thể loại, ý nghĩa của những hư cấu nghệ thuật để từ đó trân trọng những di sản nghệ thuật của cha ông ta để lại.
d) Mở rộng
Khi tiếp nhận thể loại truyền thuyết, người tiếp nhận cần phải thấy được:
- Truyền thuyết gắn với những sự kiện lịch sử quan trọng, nên trước khi đi sâu vào văn bản truyến thuyết phải tìm hiểu về giai đoạn lịch sử đó, và nhìn thấy được tầm quan trọng của những sự kiện lịch sử đó trong tiến trình lịch sử dân tộc
- Cách đánh giá sự kiện lịch sử, nhân vật trong truyền thuyết là cách đánh giá đã được khúc xạ qua cảm quan cộng đồng, qua thái độ tình cảm của nhân dân lúc đó. Cách xây dựng nhân vật đã được huyền thoại hóa ( bởi hào quang lung linh của niềm ngưỡng mộ chân thành). Đây chính là yếu tố tạo nên vẻ đẹp của truyền thuyết, khiến cho nhân vật của truyền thuyết tồn tại trong dân gian đôi khi khác với chính sử. Nên tìm hiểu truyền thuyết là tìm về cách cảm cách nghĩ, thái độ tình cảm của nhân dân gửi gắm trong câu chuyện chứ không nên là đánh giá nhân vật theo cách cảm cách nghĩ của người hiện đại. Bởi đây chính điểm khác biệt của một văn bản truyền thuyết với văn bản lịch sử, và cũng từ cảm quan cộng đồng ấy đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của truyền thuyết.
- Nhân vật trong truyền thuyết là những nhân vật anh hùng có công lớn với cộng đồng. Nên đây là những nhân vật được thờ phụng, thường có vị trí rất cao trong đời sống tâm linh của người Việt. Thế giới của họ là những thế giới của những tôn ti, trật tự, khoảng cách của người đọc với nhân vật là lòng ngưỡng mộ thành kính vô bờ. Nên những nhân vật này cho dù là có công lớn với dân tộc, hay có tội như nhân vật An Dương Vương trong truyền thuyết này, bao giờ cũng được phủ bởi một lớp hào quang, huyền thoại qua lời kể của nhân dân. (Và để hiểu vẻ đẹp của truyền thuyết cùng với nhân vật truyền thuyết ta cũng phải lưu ý đến nơi phát tích của truyền thuyết và nơi thờ phụng các nhân vật trong truyền thuyết)
1.4.3.3 Kết bài
Đánh giá về ý kiến.
2 VĂN HỌC TRUNG ĐẠI2. 1 Đặc trưng thi pháp văn học trung đại Việt Nam
2.1.1 Hệ thống ước lệ thẩm mỹ cổ điển
2.1.1.1 Ước lệ trong văn học nói chung
- Trong đời sống xã hội, ước lệ là một qui ước có tính cộng đồng. Ước lệ là một tín hiệu riêng của một cộng đồng khi cảm nhận thực tại, làm cho sự vật và hiện tượng hiện lên đúng với chiều kích qui ước và đúng với cách hiểu của cả cộng đồng.
- Văn học nghệ thuật mọi thời, mọi dân tộc bao giờ cũng có tính ước lệ. Bởi lẽ, văn học không là phiên bản thu nhỏ của hiện thực đời sống, nhưng bắt nguồn từ mảnh đất thực tại, thanh lọc thực tại qua cái nhìn nghệ thuật của nhà văn, lăng kính thẩm mỹ của thời đại. Có điều, ước lệ trong văn học là ước lệ thẩm mỹ có tính qui ước của các nhà văn trong một thời đại, một dòng văn học nhất định.
2.1.1.2 Ước lệ trong văn học trung đại Việt Nam
- Ước lệ, một đặc trưng thi pháp:
+ Văn học trung đại, ước lệ được nhà văn sử dụng triệt để, nghiêm túc và phổ biến. Các nhà văn bao giờ cũng cảm thụ và diễn đạt thế giới bằng hệ thống nghệ thuật ước lệ. Ước lệ đã trở thành một đặc trưng thi pháp của văn học.
+ Đặc trưng thi pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến và cảm quan thẩm mỹ của tầng lớp nghệ sĩ Hán học.
- Ước lệ bao gồm ba tính chất:
+ Tính uyên bác và cách điệu hóa cao độ:
++ Không phải ngẫu nhiên văn học chính thống thời phong kiến được mênh danh là văn chương bác học (Văn học dân gian gọi là văn học bình dân). Gọi như thế, văn chương mang trong mình nó tính bác học. Người sáng tác phải bác học và người tiếp nhận cũng rất bác học. Bởi đây là loại văn chương phòng khách, trà dư tưủ hậu.
++ Văn chưong chính thống thời phong kiến mang tính qui phạm từ góc độ sáng tác đến thưởng thức. Giới văn học hẹp, chỉ quanh quẩn trong tầng lớp trí thức Hán học tài hoa, tao nhân mặc khách. Trường hợp Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là một thí dụ tiêu biểu. Độc giả của Nguyễn Khuyến là Dương Khuê, nên khi bạn văn mất, nhà thơ như muốn gác bút:
"Câu thơ nghĩ đắn đo không viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?"
Sáng tác trong môi trường ấy, tất nhiên uyên bác có ý nghĩa thẩm mỹ. Người sáng tác cũng như người tiếp nhận đều phải thông thuộc kính sử, điển cố, điển tích; phải có vốn thi liệu, văn liệu phong phú học tập được từ những áng văn bất hủ của người xưa. Văn chương càng uyên bác càng có sức hấp dẫn lớn, có tính nghệ thuật cao.
"Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngóai còn cười gió Đông"
(Nguyễn Du)
Hay:
"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân gìau đủ khắp đòi phương."
(Nguyễn Trãi)
++ Văn chương của tao nhân mặc khách, nên có khuynh hướng lý tưởng hóa, "văn chương hóa", các nhà văn thời ấy muốn tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng khác với thế giới đời thường. Cho nên, thế giới nghệ thuật của các trang văn thời này luôn được các nhà văn cách điệu hóa cao độ. Hình tượng nghệ thuật càng cách điệu hóa càng đẹp. Quan niệm này đã làm nấy sinh thái độ xem thường văn xuôi, trong thơ ca. Trong cái nhìn của các nhà văn và độc giả văn học thời phong kiến, văn xuôi gần với đời sống thực tại, ít được cách điệu hóa; thơ mới là thứ ngôn ngữ giàu tính cách điệu. Con người trong văn chương phải đẹp một cách lý tưởng: tóc mây, mày liễu, mặt hoa, tay tiên, gót sen, vóc hạc,... Cử chỉ, đi đứng, ăn nói tựa như đang sống trong thế giới của nghệ thuật sân khấu:
"Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Chàng Vương quen mặt ra chào
Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa"
(Nguyễn Du)
Thiên nhiên đi vào văn chương cũng phải thật sang quý và đẹp như mai, cúc, tùng, bách, liễu,...
"Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn"
(Bà Huyện Thanh Quan)
Nhìn chung, văn chương thời ấy không chú ý tả thực. Tả thực nếu có, chỉ dùng cho những nhân vật phản diện phàm tục như Mã giám sinh, Sở Khanh, Tú bà; Bùi Kiệm, Trịnh Hâm:
"Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn chi cao lớn đẫy đà lám sao?"
(Nguyễn Du)
"Con người Bùi Kiệm máu dê
Ngồi thề lê mặt như sề thịt trâu!"
(Nguyễn Đình Chiểu)
Người ta quan niệm con người không hòan thiện, hòan mỹ bằng tạo hóa, không tài hoa bằng hóa công. Vì thế, những gì cần lý tưởng hóa đều phải được so sánh với thiên nhiên, thiên nhiên trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Con những tiểu nhân chỉ có thể so sánh với xác của chúng, mới tả thực.
- Tính sùng cổ:
+ Do quan niệm thời gian phi tuyến tính, nên trong văn chương cổ của dân tộc ta, các nhà văn luôn có xu hướng tìm về quá khứ. Họ lấy quá khứ làm chuẩn mực cho cái đẹp, lẽ phải, đạo đức. Chân lý quá khứ là chân lý có sức sáng tỏa muôn đời. Vì thế, văn chương thường lấy tiền đề là lý lẽ và kinh nghiệm của cổ nhân, của lịch sử xa xưa
+ Văn học vì vậy mà đầy rẫy những điển tích, điển cố. Mẫu mực của văn chương cũng như vậy. Thơ ca không ai có thể vượt qua những thi thánh, thi thần như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,...
+ Chính vì vậy, các nhà văn đời sau thường "tập cổ" vay mượn văn liệu, thi tứ, hình ảnh nghệ thuật của các nhà thơ, nhà văn đời trước mà không bị đanh giá là "Đạo văn". Ngược lại, họ được đánh giá là một cây bút đạo đức, sang trọng; tác phẩm của họ rất giàu gía trị.
- Tính phi ngã:
+ Thời phong kiến, ý thức cá nhân chưa có điều kiện phát triển. Con người chưa bao giờ "sống là mình". Con người chỉ sống với không gian mà không sống cùng thời gian.
Con người được nhìn nhận, đánh giá trên cơ sở của tầng lớp, giai cấp, dòng tộc, địa vị xã hội. Con người chỉ phân thành hai loại: quân tử và tiểu nhân.
+ Chính điều kiện xã hội ấy đã sinh ra hệ thống ước lệ trong văn chương, một ước lệ nghệ thuật có tính phi ngã. Nhà văn cảm thụ và diễn tả thiên nhiên không bằng cái nhìn hữu ngã và bằng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu do cá nhân mình sáng tạo.
+ Tuy nhiên, nói văn học trung đại có tính phi ngã không có nghĩa trong tác phẩm văn chương không có dấu ấn bản ngã của người nghệ sĩ. Bởi lao động nghệ thuật là một họat động sáng tạo; văn học chân chính không chấp nhận công thức, phi ngã. Trong văn học thời trung đại của dân tộc ta, các cây bút lớn đều khẳng định tư tưởng, cá tính và tài nghệ độc đáo của họ. Tiến trình văn học đã khẳng định điều đó. Chúng ta không thể phủ nhận cá tính sáng tạo của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Tản Đà,... Chỉ có điều, do tính qui phạm nên sự khác biệt trong tư tưởng và phong cách nghệ thuật của các cây bút ấy chỉ là những biến thức khác nhau của sự vận dụng những chuẩn mực chung của cộng đồng văn hóa bấy giờ mà thôi.
2.1.2 Thiên nhiên trong văn học trung đại
2.1.2.1 Thiên nhiên có địa vị danh dự trong văn chương
- Đi vào vũ trụ văn chương của cha ông xưa, người đọc như được sống giữa thế giới tạo vật thiên nhiên non nước hữu tình vừa tịch lặng vừa hòanh tráng. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn trung đại hình như không thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện mạo, linh hồn của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và tư tưởng triết học phương Đông của các nghệ sĩ Nho học này.
- Riêng thi ca, thơ tức cảnh cũng như tranh sơn thủy chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong đời sống văn nghệ thời phong kiến.
+ Hiện tượng này có thể bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời trung đại. Thời ấy con người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác thiên nhiên bằng bàn tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình, xã hội của cư dân của nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước.
+ Hiện tượng nghệ thuật này cũng có thể nẩy sinh từ hệ triết học phương Đông: con người hòa đồng với vạn vật, tạo vật và con người tương sinh trong thế giới này. Và cũng có thể xuất phát từ đời sống văn hóa tín ngưỡng Tô-tem hay tín ngưỡng phồn thực phương Đông.
2.1.2.2 Cảm thụ thiên nhiên trong văn chương trung đại
- Vì những căn cứ trên, thiên nhiên không tách khỏi con người như một khách thể trong văn chương. con người cảm thụ thiên nhiên như là một chủ thể. Con người đã gán cho thiên nhiên những phẩm chất, thuộc tính của chính mình. Thiên nhiên chưa được khám phá với những giá trị tự thân, chưa thực sự là đối tượng hiện thực của văn học. Người ta tìm đến với thiên nhiên và xem thiên nhiên như là một tư liệu để để ngụ tình hay giáo huấn đạo đức một cách không tự giác.
"Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Điều này khác với văn chương hiện đại. Văn chương hiện đại tôn trọng sự sống riêng của tạo vật thiên nhiên. Thiên nhiên được miêu tả như là một khách thể.
- Từ tư tưỏng và quan niệm trên, văn chương trung đại đã miêu tả thiên nhiên theo một bút pháp đặc biệt: không tả hình xác của tạo vật mà gợi tả linh hồn của thiên nhiên. Thiên nhiên trở thành ý niệm tượng trưng, dấu hiệu tượng trưng, chứa đựng những cảm giác, cái không thấy của con người. Thiên nhiên là nơi gởi gắm những tư tưởng, tình cảm hay triết lý của con người.
"Xuân đến trăm hoa nở
Xuân đi trăm hoa rụng
...
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai"
(Mãn Giác Thiền sư)
+ Thiên nhiên có linh hồn nên cũng sang hèn, quân tử tiểu nhân như con người. Các nhà thơ xưa không chấp nhận cái thấp hèn, những sự vật tầm thường nên thiên nhiên trong thơ họ luôn là những tạo vật cao sang. Các nhà thơ bầu bạn hay tri âm tri kỷ với thiên tao nhã, sang trọng như: "Sơn thủy yên hoa tuyết nguyệt phong" (Hồ Chí Minh). Họ tự ví mình như cốt cách phong độ của "Mai, lan, cúc, trúc" hay "Tùng, cúc, trúc, mai".
"Quét trúc bước qua lòng suối
Thưởng mai về đạp bóng trăng"
(Nguyễn Trãi)
Hay:
"Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai là bạn cũ hạc là người thân"
(Nguyễn Du)
+ Họ đối lập thiên nhiên tao nhã với thiên nhiên phàm tục, tầm thường cũng là để đối lập họ với những kẻ tiểu nhân, phàm phu đắc thế:
"Phượng những tiếc cao diều hãy lượn
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi"
(Nguyễn Trãi)
- Do cảm thụ thiên nhiên như vậy, nên văn thơ có hai đặc tính:
+ Thiên nhiên được cảm nhận và tái hiện một cách tinh vi như muốn khám phá linh hồn ẩn kín, bí mật của tạo vật.
"Ngủ dậy ngó song mây
Xuân về vẫn chửa hay
Song song đôi bướm trắng
Phấp phới sấn hoa bay."
(Xuân hiểu - Trần Nhân Tông)
+Thiên nhiên trong thơ thường được phối màu thanh đạm, đường nét thanh tao; nhưng thấm chất sống ngồn ngộn tươi rói như thiên nhiên trong cuộc sống đời thường.
"Đồng bằng nhô núi biếc
Hình thế tựa diều bay
Cầu vắt qua khe nước
Chùa nằm tít đỉnh mây"
(Đề núi cánh diều - Lê Quý Đôn)
+ Thiên nhiên luôn được tái hiện bằng cảm xúc dạt dào, tình cảm lắng sâu của người làm thơ. Những vần thơ đã trích là một thí dụ. Đọc những vầng thơ của Trần Nhân Tông, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác, ta như nghe thấy hơi thở nhịp điệu tâm hồn của các thi nhân ấy. Thơ của các thi nhân ấy là tâm hồn sáng láng, nhân cách cao cả, phong thái tự tại của chính họ giữa chốn đời bụi bặm này.
2.1.3 Một thế giới nghệ thuật phi thời gian
2.1.3.1 Quan niệm thời gian
- Con người thời cổ đại và trung đại chưa xem thời gian và không gian như những phạm trù trừu tượng. Thời ấy, người ta cảm nhận thời gian bằng sự trực cảm, bằng những tín hiệu không gian, bằng sự vận động của thiên nhiên và sự sống của con người. Bước đi của thời gian được theo dõi bằng thời tiết bốn mùa, bằng thời vụ nông tang, bằng sen tàn, cúc nở, bằng oanh vàng liễu biếc hay tiếng Đỗ quyên kêu.
"Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu
Hỏi ngày về ước nẻo quyên ca."
(Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn)
- Từ kinh nghiệm trực cảm, người xưa có hai nhận thức về thời gian:
+ Quan sát cận cảnh hằng ngày, nhận thức thời gian tuyến tính một đi không trở lại. Thời gian tuyến tính vận động mau lẹ, đầy hình ảnh, đầy màu sắc cụ thể và giàu chất sống. Thời gian tuyến tính là thời gian của thế giới phàm tục
+ Quan sát thế giới từ xa, nhận thức thời gian tuần hòan qua sự tuần hòan của vũ trụ. Đây là quan niệm thời gian chu kỷ, thời gian quay tròn không đi mất, động mà tĩnh, ngưng đọng, phi thời gian. Thời gian chu kỷ là thời gian của cõi trời, cõi tiên, của thế giới thanh cao bất tử.
Trong hai quan niệm thời gian này, người xưa chủ yếu hướng về thời gian chu kỷ, họ cho rằng thời gian tuyến tính phục tùng thời gian chu kỷ. Vì vậy, cảnh trong thơ xưa nhìn chung là cảnh ngưng đọng, phi thời gian, màu sắc đạm bạc giàu ý nghĩa biểu tượng triết lý hơn là hiện thực.
2.1.3.2 Thời gian nghệ thuật
- Trong truyện cổ, do cảm giác thời gian tuyến tính và chu kỷ song hành, nên cốt truyện thường có mô-típ: con người từ cõi trần lên cõi tiên, rồi từ cõi tiên trở lại cõi trần, từ thời gian tuyến tính đi lên thời gian chu ky rồi quay về thời gian tuyến tính. Truyện Từ Thức lên tiên sống với thế giới phi thời gian, sau đó trở về lại cõi trần và thấy trăm năm đã trôi qua.
-Trong thơ ca cổ điển, các nhà thơ cũng cấu tứ theo hai ý niệm thời gian như thế:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hòang hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng bay mất từ xưa
Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
(Hoàng Hạc lâu - Thôi Hiệu)
Trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm thời gian chu kỷ ngưng đọng biểu đạt lối sống nhàn tản, bất hòa với cõi nhân gian thế thái:
"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao"
Hoặc:
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời gian hầu như tĩnh tại đồng hiện, con người như đóng khung trong thời gian lắm sắc màu lòe lọet, nhịp điệu trì trệ ấy mà cảm nghe sự bất lực của một kẻ sĩ vong quốc:
"Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe"
(Thu ẩm)
2.1.4 Quan niệm con người trong văn chương trung đại
2.1.4.1 Con người vũ trụ
- Thời trung đại, con người và TN tạo vật được nhìn nhận là một khối thống nhất. Con người là một tiểu vũ trụ luôn tìm về hội nhập cùng đại vũ trụ. Con người vì thế luôn quan hệ với vũ trụ.
+ Chính quan niệm này đã chi phối quan niệm nghệ thuật về con người trong văn chương: con người vũ trụ.
+Con người vũ trụ thể hiện qua một thi đề phổ biến của thơ trữ tình: con người giao cảm, đối diện đàm tâm với tạo vật vũ trụ, có kích thước vũ trụ.
++ Con người khi gặp oan khuất, chỉ có trời đất thấu hiểu.
"Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này"
(Chinh phụ ngâm - Đặng Trần Côn)
++ Khi thề nguyền keo sơn gắn bó thì lấy núi sông chứng giám lòng thành thủy chung. Khi xử thế thì lánh đục tìm trong, vong bần lạc đạo, con người tìm về chốn lâm tuyền, cùng bầu bạn với gió trăng. Khi nhập thế thì rồng mây gặp hội.
++ Tầm vóc con người được đo theo chiều kích sông núi:
"Múa giáo non song trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu"
(Thuật Hoài - Phạm Ngũ Lão)
++ Người đẹp là người sánh ngang với sự hòan mỹ của vũ trụ và khiến trời đất cũng ghét ghen:
"Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh"
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
- Con người vũ trụ luôn ứng xử theo quy luật tuần hòan của vũ trụ, âm dương tiêu trưởng. Tư tưỏng đó là thiên mệnh. Thấm nhuần tư tưởng trên, nên người quân tử "xuất xư", "hành tàng" một cách ung dung thanh thản: gặp tai biến không lo sợ sầu não, gặp vận may không vui mừng đắc chí. Họ luôn sống theo khái niệm "Thời", theo qui luật: bĩ tắc thái, cùng tắc thông. Trong văn chương xưa, ta thường thấy hình ảnh con người sống theo đạo trời, bước đi cùng tạo hóa. Họ khoan thai, ung dung, hòa mình vào thiên nhiên; thậm chí muốn nhập hẳn vào vũ trụ:
"Trên đồi có thông
Muôn dặm biếc mông lung
Ta thảnh thơi nằm ngủ bên trong"
(Nguyễn Trãi)
2.1.4.2 Con người đạo đức
- Thời cổ-trung đại, Người ta chưa phân biệt được tâm và vật. người ta gán tâm cho vật. Vạn vật khách quan đều có tính chủ thể. Thời gian, không gian đều có xấu tốt, độc lành. Tòan bộ xã hội được nhìn nhận trong một hệ thống tôn giáo - đạo đức nhất định tùy theo từng khu vực văn hóa.
-Văn chương theo đấy mà phản ánh xã hội không phải ở bình diện khách quan mà chủ yếu theo quan niệm đạo đức, luân lý. Nhân loại phân hóa thành hai cực đạo đức và phi đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết cũng phân hóa thành hai tuyến: thiện và ác, chính và tà, trung và nịnh, quân tử và tiểu nhân. Chủ đề đạo đức, khuynh hướng giáo huấn có tính phổ biến đối với các loại tiêu thuyết, cổ tích thời trung đại:
"Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình"
(Nguyễn Đình Chiểu)
- Văn chương không nhằm mục đích nhận thức hiện thực mà chỉ để chuyên chở đạo lý, đấu tranh cho đạo lý. Chức năng giáo dục của văn học được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, Các truyện Nôm đều kết thúc có hậu. Văn chương gần như minh họa cho đạo đức, khẳng định triết lý: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ; khuyên con người tích thiện, hành thiện.
"Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
(Nguyễn Du)
- Nhìn chung, con người trung đại quan niệm thế giới có tính chất lưỡng nguyên. Họ cho rằng, cõi trần gian tội lỗi và cõi trời cao cả thánh thiện. Hướng về cao cả, thánh thiện; nên văn chương thường thiên về cái đẹp phi vật chất, phi tính dục, phi thân xác. Hình tượng văn học chủ yếu được xây dựng bằng thị giác, thính gíác. Hình tượng vị giác, nhất là xúc gíac bị xem là thô tục, phi mỹ học.
2.1.4.3 Con người phi cá nhân
- Trong văn học thời trung đại, con người cá nhân chưa được quan niệm rạch ròi và xây dựng thành một hình tượng nghệ thuật. Đây là một vấn đề có cơ sở xã hội của nó. Xã hội phong kiến, về phương diện kinh tế, không dựa trên nền tảng cá nhân. Do vậy, con người chưa được nhìn nhận như một cá nhân cá thể ý thức. Giá trị cá nhân không được xem xét từ bản thân phẩm chất cá nhân mà ở vai trò của cá nhân trong mối quan hệ giai tầng.
- Chính vì thế, trong văn chương, từ ứng xử đến tâm tư; từ tình yêu đôi lứa đến tình yêu nước,... tất cả đều theo một chuẩn mực chung của đẳng cấp.
+ Nhân vât trong các truyện Nôm đều là những nhân vật sắm vai, nghĩa là họ diễn các vai trò mà xã hội giao cho với những nghi thức áp đặt bên ngoài.
+ Tình yêu cũng đầy nghi thức. Tình yêu kị sĩ, tình yêu của giai nhân tài tử đều có những nghi thức riêng.
- Như vậy, thời phong kiến trung đại, con người cá nhân chưa được giải phóng về nhiều phương diện. Con người sống đồng trục, đồng dạng về tư tưởng tình cảm. Con người xuất hiện trong văn chương với mối quan hệ tình và nghĩa; nhưng không có màu săc cá nhân.
- Từ đó, những thủ pháp nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm cũng giống nhau. Các nhà văn thường sử dụng hành vi bên ngoài và những dấu hiệu thân xác để diễn tả tâm tư nhân vật. Trần Hưng Đạo giận quân xâm lược thì "nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa". Kiều Nguyệt Nga thủy chung với Lục Vân Tiên thì họa hình người mình yêu mà mang theo trên đường công Phiên. Thúy Kiều lo nghĩ, nhớ thương đến héo hon, sầu não thì "khi vò chín khúc, khi chau đôi mày".
2.1.4.4. Con người ý thức
- Những vấn đề quan niệm về con người trình bày ở trên là xét về đại thể, xét trong một giai đọan văn học từ thế kỉ X-đầu thế kỉ XVIII. Trong thực tiễn đời sống văn học, ở tác giả này, ở tác phẩm kia không phải là không có con người cá nhân ý thức về cái tôi của mình. Nhất là ở giai đọan cuối thế kỷ XVIII.
- Xã hội phong kiến Việt Nam cuối thế kỷ XVIII rơi vào tình trạng khủng hỏang sâu sắc. Mọi chân giá trị của xã hội bị đảo lộn hay băng hoại. Đây cũng là thời đại khởi nghĩa của nông dân. Chính từ điều kiện xã hội ấy, ý thức cá nhân bắt đầu trỗi dậy. Con người cá thể cảm thấy bị trói buộc nặng nề phi lý của đạo lý, của lễ giáo phong kiến, của hệ thống ước lệ thẩm mỹ phong kiến.
- Trong đời sống văn học, nhiều tác phẩm có tính chất phản phong xuất hiện như Cung óan ngâm khúc, Truyện Kiều; nhiều tác giả dõng dạc khẳng định cái tôi của mình như Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,...
+ Hồ Xuân Hưong để minh chứng cho điều đã nói ở trên. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đã đưa cái tôi của mình vào thơ, đã trưng ra cá tính nổi lọan trên những trang viết của mình. Hồ Xuân Hương đã làm vỡ tung hệ thống ước lệ nghiêm ngặt của văn học trung đại. Trong thơ Hồ Xuân Hương, những gì gọi là hiền nhân quân tử đều bị phàm tục hóa, đời thường hóa. Họ cũng chẳng sang quý gì mà cũng mỏi gối chồn chân, đã mỏi gối chồn chân nhưng vẫn cố trèo (Đèo Ba Dội), cũng:
"Trai đu gối hạc lom khom cật
Gái uốn lưng ong ngữa ngữa lòng"
(Đánh đu)
Hồ Xuân Hương đã lên tiếng đòi hỏi hạnh phúc cá nhân, hạnh phúc cho người phụ nữ "Làm lẽ". Nữ sĩ đã đem hạnh phúc ấy mà xô lệch cái thế giới nghệ thuật trang nghiêm, đạo mạo của các đấng, bậc Hán học; để khẳng định một chất nhân văn mới, một hình thức nghệ thuật mới cho thơ.
"Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi."
(Mời trầu)
Hồ Xuân Hương đã lấy trực cảm nghệ thuật mà khám phá và tái hiện tạo vật thế giới, xây dựng nên một vũ trụ thơ ca ngồn ngộn sắc màu, thanh âm, đường nét sống động, tươi rói sự sống. Đấy là một thế giới bộc lộ trọn vẹn tình cảm của nữ sĩ:
"Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mỏm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá ?
Thân này đâu đã chịu già tom!"
(Tự tình I)
- Cũng có thể thấy ở thơ Nguyễn Công trứ con người cá nhân ý thức. Nguyễn Công Trứ chủ trương hưởng lạc để khẳng định bản thể của cá nhân. Hưởng lạc là sự tự khẳng định cá nhân mình trong thời gian hữu hạn. Do vậy, ta hiểu vì sao nhà thơ không dùng khái niệm "Trăm năm" mà dùng "Ba vạn sáu nghìn ngày". Nhưng cần phải thấy rõ, hưởng lạc của Nguyễn Công Trứ nằm trong phạm vi thể hiện cái tài tình của cá nhân
"Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong"
(Bài ca ngất ngưỡng)
Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái riêng tư tự hào, tự cho là đủ. Tất cả tạo nên một con ngươi cá nhân trong thơ hài hòa, tự tin, phong lưu, tự do, đứng trên mọi sự tính tóan được mất khen chê. Đấy là bước phát triển cao nhấy của ý thức cá nhân mang nội dung phong phú, hài hòa trong văn học Việt Nam thời trung đại.
2.2 Thơ Đường
2.2.1 Đặc trưng mỹ học của thơ Đường
- Đặc trưng mỹ học của thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời.
+ Về cấu trúc, bài thơ thường gọn nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả. Do số câu, số chữ của một bài thơ được hạn định, nên các nhà thơ phải tìm tòi những tinh hoa của dân gian, kết hợp với điển cố lịch sử và từ hoa lệ của văn học thành văn.
+ Kết cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật.
- Trong cách cấu tứ, sự quy định niêm luật cho một thể thơ có thể hạn chế sự biểu đạt những tình cảm bay bổng, phóng khoáng, nhưng nó buộc phải sáng tạo ngôn ngữ hàm súc, cấu tứ chặt chẽ, cái "tôi" trữ tình thường hòa lẫn vào thiên nhiên và ngoại cảnh.
- Trong cách biểu hiện, ba yếu tố thi, nhạc, họa thường quấn quyện làm một.
- Trong cách cảm nhận, thơ Đuờng chú ý khám phá sự thống nhất, sự giao cảm mà trước hết là sự thống nhất giữa con người và thiên nhiên.
- Thơ Đường luật đúc kết những kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng chính là mâu thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hòa càng lớn.
- Thơ Đường có phong độ một tâm hồn Á Đông, gắn tâm tư tình cảm con người với thiên nhiên đất nước. Tình cảm biểu hiện trong thơ Đường thực muôn màu muôn vẻ, có khi bồng bột, bay bổng, có khi thâm trẩm, uẩn khúc quanh co. Có thể nói, nó như những dòng thác đổ dồn về một con sông lớn cuồn cuộn.
- Những nhà thơ Đường sử dụng đề tài hết sức rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử và cá nhân, đề tài về chiến tranh, đề tài về cuộc sống của những con người trong xã hội.
2.2.2 Tứ thơ Đường
2.2.2.1 Vài nét về tứ thơ
- "Gọi là tứ trước hết để phân biệt với ý. Trong một bài thơ có nhiều ý. Nhưng phải có một ý lớn bao trùm toàn bài. Ý bao trùm ấy có thể gọi là tứ. Vậy ý lớn với tứ khác nhau như thế nào? Gọi là tứ khi ý lớn ấy không thể hiện một cách bộc trực, trần trụi mà đã biến hoá trong những hình tượng nhiều tìm tòi sáng tạo mới lạ, gợi ra cho người đọc những liên tưởng thú vị, rộng rãi. Nói cách khác, một bài thơ có tứ là một bài thơ có tìm tòi, sáng tạo về mặt thể hiện ý toàn bài một cách mới lạ, thú vị. Tứ thơ mang đặc điểm cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ của nhà thơ. Tứ trong toàn bài có thể là hình tượng xuyên suốt toàn bài thơ". (Nguyễn Xuân Nam)
- Người ta có thể chia tứ thành hai loại: Loại tứ thiên về tạo hình và loại tứ thiên về dòng suy nghĩ liên tưởng. Thông thường các nhà thơ thể hiện một tứ lớn bằng cách sử dụng xen kẽ các biện pháp tạo hình và biện pháp biểu hiện nên khó có sự phân biệt rạch ròi.
2.2.2.2 Những mối quan hệ và tứ thơ Đường
- Các nhà thơ đời Đường khi khảo sát sự vật họ không chạy thẳng vào sự vật ấy mà phải tìm ra các mối quan hệ của sự vật ấy. Quan hệ này không phải có ngay được bằng giác quan mà nó đến với con người sau một quá trình suy nghĩ. Các nhà thơ Đường thường gợi mà không tả. Nhà thơ thường ít khi nói rõ, nói hết ý mình mà thường chỉ tạo nên các mối quan hệ để độc giả tự luận ra dụng ý của tác giả, để độc giả tự cảm nhận lấy theo đôi mắt và trái tim của mình từ những mối quan hệ đó.
- Các nhà thơ đời Đường thường đồng nhất các hiện tượng khách quan mà họ cho là mâu thuẫn. Đồng nhất các mặt đối lập là biện pháp tiêu biểu tạo nên đặc trưng của tứ thơ Đường. Trong thơ Đường, các nhà thơ đã tạo nên rất nhiều mối quan hệ mà chủ yếu là những mối quan hệ đối lập: quá khứ - hiện tại, mộng - thực, mất - còn, nữ - nam, đêm - ngày, tĩnh - động, chết - sống, biết - chưa biết, không gian - thời gian, cảnh - tình, nhỏ - lớn, hữu hạn - vô hạn, nguyên nhân - kết quả, âm - dương...
2.3 Cảm hứng yêu nước, nhân đạo và cảm hứng thế sự qua chương trình văn học trung đại lớp 10, 11
2.3.1 Cảm hứng yêu nước
2.3.1.1 Vài nét về cảm hứng yêu nước
- Yêu nước là trạng thái tình cảm xã hội mang tính phổ biến vốn có ở mọi quốc gia - dân tộc trên thế giới.
- Chủ nghĩa yêu nước không thuần túy chỉ là tư tưởng yêu nước, tình cảm yêu nước hay lòng yêu nước nói chung. Nó cũng không đồng nhất với tinh thần yêu nước, hay truyền thống yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chính là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý trí yêu nước và tình cảm yêu nước của con người, là sự phát triển ở trình độ cao của tư tưởng yêu nước, là tinh thần yêu nước đạt đến sự tự giác.
- Cảm hứng yêu nước trong văn học trung đại được thể hiện:
+ Yêu nước gắn với tư tưởng trung quân.
+ Tự hào dân tộc.
+ Khát vọng và quyết tâm cống hiến bảo vệ và xây dựng đất nước.
+ Yêu thiên nhiên, quê hương, xứ sở.
2.3.1.2 Biểu hiện của cảm hứng yêu nước qua thơ Đường Việt Nam
- Có thể nói, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam thể hiện trước hết ở lòng tự hào dân tộc. Chúng ta đã từng thấy dõng dạc vang lên trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt là tiếng nói đầutiên như âm vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do vua Nam làm chủ. Nước làcủa vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước:
"Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời"
(Nam quốc sơn hà)
Bài thơ hoàn toàn không có vũ khí binh đao mà kì lạ thay ta vẫn nhận ra tiếng quân reo, ngựa hí,... Sự liên tưởng nhiều tầng ấy phải chăng được gợi lên từ tiếng nói tự hào dân tộc của một con người giàu lòng yêu nước và tinh thần tự chủ. Ở đây, ý thức tinh thần độc lập, tự chủ khá rõ nét. Bài thơ xứng đáng là một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Nếu không có lòng tự hào dân tộc thì khó có thể viết ra được những câu thơ đầy hoành tráng như thế.
- Trong thơ trung đại, cảm hứng yêu nước còn thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâm lược. Chúng ta có thể nhận thấy rõ điều này qua thơ các thi sĩ thời Trần, thơ Nguyễn Trãi,...
+ Một trongnhững thành tựu quan trọng của thơ thời Trần là đã thể hiện được chủ nghĩa yêu nước, ý chí quật cường chống quân xâm lược của dân tộc ta. Chính cảm hứng này đã tạo ra "Hào khí Đông A" trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy vang lên hùng tráng mà tha thiết qua khúc ca khải hoàn Phò giá về kinh của Trần Quang Khải:
"Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu."
Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm với ngựa thét quân reo ngất trời tráng khí. Một trong hai trận ấy do đích thân Trần Quang Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tử nằm trong hệ thống chiến thắng mở màn có ý nghĩa chiến lược cho cuộc phản công thắng lợi, mạnh và nhanh, cường độ lớn và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng tráng, thiêng liêng.
+ Yêu nước, căm thù giặc tất yếu phải chiến đấu đến cùng cho lí tưởng ấy. Trong thơ trung đại ViệtNam dường như vẫn còn văng vẳng tiếng mài giáo dưới ánh trăng của Đặng Dung ( "Thù trả chưa xong đầu đã bạc/ Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày" - Cảm hoài), cái múa giáo đầy thách thức của Phạm Ngũ Lão. Sự mất còn của non sông đã đặt gánh nặng lên vai con người thời cuộc với thử thách nặng nề: giết giặc cứu nước. Vậy nên trong Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão đã xây dựng được hình tượng một con người tràn đầy khí thế, tầm vóc. Ở đó có cả sức mạnh củatướng sĩ ba quân trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, đồng thời đó cũng là sức mạnh của cả dân tộc. Từ suy ngẫm khái quát về tư thế, tầm vóc và sức mạnh của dân tộc chuyển sang suy ngẫm về bổn phận và trách nhiệm của cá nhân trước cộng đồng, Phạm Ngũ Lão đã có cách khơi khơi thật khéo léo: nếu đấng nam nhi còn vương nợ tức là chưa có công trạng gì với núi sông thì sẽhuống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Đúng là cái thẹn của một của một nhân cách lớn, cái xấu hổlớn lao rất đáng trân trọng của Phạm Ngũ Lão. Ông xấu hổ với bản thân, với cộng đồng nhất là vớimột nam nhi thời loạn. Đến như Gia Cát Lượng, một con người đã từng xuất thế để quên đi sự đờinhưng cũng dời liều cỏ giúp Lưu Bị chấn hưng nhà Hán thời Tam Quốc, còn với sĩ phu đời Trần,trước tình thế Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc há chỉ đứng nhìn và bình thản hay sao?
"Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu."
(Bùi Văn Nguyên dịch)
+ Đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của con người Việt Nam lại bật lênmạnh mẽ. Không thể cầm gươm tham gia nghĩa quân như các sĩ phu yêu nước khác, Nguyễn Đình Chiểu đã đánh giặc bằng ngòi bút:
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"
Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Mỗi bữa thấy,mỗi ngày trông kẻ thù trước mắt lấn thêm một bước, Đồ Chiểu đau đớn như bị cắt đi một phần máuthịt. Cảm hứng bao trùm bài chạy tây là sự xửng sốt, nỗi bàng hoàng, lo lắng cho vận nước nạn dân:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay...."
(Chạy giặc)
Cho nên tinh thần quyết chiến, quyết thắng không chỉ biểu hiện nơi trận mạc sa trường. Nó còn là lẽsống, một hạnh phúc được sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc. Tư thế của Đặng Dung là tư thế của một kẻ anh hùng, một chí trai thời loạn:
"Vai khiêng trái đất mong phù chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây..."
(Cảm hoài)
+ Trong thơ, chúng ta nhận thấy dường như còn có những nỗi buồn sâu kín của con người trước sự đổi thay của đất nước, những cảnh trớ trêu trong xã hội, nạn chiến tranh, cát cứ, xâm lựơc. Đó là trường hợp Sông lấp (Tú Xương), Hội Tây (Nguyễn Khuyến),... Nghe tiếng ếch vẳng bên tai mà Tú Xương giật mình. Cái giật mình của Tú Xương là cái giật mình chứa bao đau xót trước hiện thực phũ phàng. Đó là cái giật mình của lòng yêu nước của tinh thần dân tộc sâu kín được ấp ủ, nung nấu nhưng không có cách nào giải tỏa được:
"Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò"
(Sông lấp)
Còn với Nguyễn Khuyến, ông xót xa trước những trò lố lăng, xúc phạm đến danh dự dân tộc do thực dân Pháp bày ra. Bên Hội Tây đã thể hiện sâu sắc nỗi đau đó:
"Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu."
(Hội Tây)
- Không chỉ có vậy, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại còn thể hiện ở việc các nhà thơ ca ngợi cảnh đẹp của quê hương đất nước. Trong thơ, thiên nhiên đất nước Việt Nam hiện lên thật đẹp đẽ, tráng lệ giàu đường nét, màu sắc.
+ Với thơ thời Trần, qua cảnh trí thiên nhiên các thi sĩ đã gửi vào đó tình yêu quê hương đất nước của mình. Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ cũng đã viết nên những vầnthơ xúc động về tình yêu quê hương đất nước với những phong vị riêng của một vùng đồng bằng Bắc Bộ:
"Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về"
(Hứng trở về)
+ Kể cả một chiếc lá đỏ thưa, một cánh cò chao liệng, một tiếng chuông vẳng trong mây trời, một tiếngsáo, thuyền câu ngoài bến đậu...Tất cả đều trở thành nguồn thi hứng cho các thi sĩ thời Trần:
"Theo gió thuyền con nước lững lờ
Non xanh nước biếc nắng thu mơ
Thuyền chài tiếng sáo vờn lau lách
Trăng rụng sương giăng sóng nước mờ"
(Đi thuyền – Huyền Quang)
+ Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật huyền hồ đầy âm thanh, màu sắc. Xuân về mang theo sự tươi tốt với những làn mưa. Cỏ ở bến xanh như màu khói bao la bát ngát:
"Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời"
(Bến đò xuân đầu trại)
Như vậy cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam đã thể hiện ở nhiều khía cạnh phong phú và sâu sắc. Đất nước, dân tộc là nỗi niềm khắc khoải không nguôi trong tâm hồn con người Việt Namnói chung và các thi sĩ nói riêng. Vậy nên, ở mỗi nhà thơ có cách khai thác, cảm nhận khác nhau song lại là vẫn sự thống nhất và làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính cảm hứng ấy đã làmnên cái độc đáo riêng và giá trị của thơ Việt Nam thời trung đại.
2.3.2 Cảm hứng nhân đạo2.3.2.1 Vài nét về cảm hứng nhân đạo
- Chủ nghĩa nhân đạo còn gọi là chủ nghĩa nhân văn, là toàn bộ những tư tưởng quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.
- Cảm hứng nhân đạo là cảm hứng của tình thương con người theo từng giai đoạn, thời điểm. Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là tình yêu, lòng thương nhân loại. Bản chất của cảm hứng nhân đạo là chữ tâm đối với con người.
- Tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo là tác phẩm ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người với con người, đồng cảm, xót thương cho những số phận bi ai bị chà đạp, lên án tố cáo những thế lực thù địch, đồng thời cũng phải biết đồng tình với khát vọng và ước mơ của con người.
2.3.2.2 Nguyên nhân xuất hiện trào lưu chủ nghĩa nhân đạo trong văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
- Cơ sở xã hội: Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng. Các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực, tiêu diệt lẫn nhau. Cuộc sống của người dân vô cùng lầm than. Các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn diệt Trịnh – Nguyễn, đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh, thống nhất đất nước. Không lâu sau khi thành lập, triều đại Tây Sơn bị lật đổ. Nhà Nguyễn giành lại được chính quyền nhưng sự khủng hoảng của xã hội càng trầm trọng hơn. Lúc này số phận và quyền sống của con người bị đe dọa. Văn học trở thành tiếng nói chống chiến tranh phi nghĩa, đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.
- Cơ sở ý thức: Những biến động của xã hội dẫn đến sự khủng hoảng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến. Những cái gọi là "tam cương, ngũ thường" của đạo lý phong kiến lâu nay vẫn chi phối đời sống tinh thần của con người là giả dối, là trái với tự nhiên. Lúc này, như một điều tất yếu, văn học quan tâm đến số phận con người, đặc biệt là con người cá nhân, trở thành tiếng nói đòi quyền sống và hạnh phúc của mỗi cá nhân và đấu tranh để giải phóng con người ra khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Đó là nguồn gốc ý thức của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
- Xuất hiện nhiều tác giả lớn với nhiều tác phẩm có giá trị, tạo nên những thành tựu phong phú và rực rỡ chưa từng có trong lịch sử văn học nước ta: Truyện Kiều – Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều, Thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến...
2.3.2.3 Biểu hiện của cảm hứng nhân đạo
- Cảm hứng nhân đạo trong giai đoạn văn học này có nhiều biểu hiện phong phú và đa dạng:
+ Thương cảm trước bi kịch, đồng cảm trước khát vọng của con người.
+ Lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến đã trở nên hết sức thối nát và tàn bạo.
+ Ca ngợi, đề cao tài năng, phẩm chất tốt đẹp của con người; khẳng định con người cá nhân, đề cao bản lĩnh cá nhân. Điều đáng lưu ý là văn học không xuất phát từ những tiêu chuẩn của đạo lý phong kiến, mà từ sự phát hiện những phẩm chất và vẻ đẹp có tính chất trần thế, trần tục của con người, nhiều khi đối lập hẳn với quan điểm đạo đức phong kiến.
+ Biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo là đấu tranh để khẳng định quyền sống của con người, kể cả quyền sống vật chất và quyền sống tinh thần, đặc biệt là quyền sống và hạnh phúc của người phụ nữ.
- Những biểu hiện trên được thể hiện tập trung, rõ nét và mới mẻ hơn trong các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn 11:
+ Hướng vào quyền sống của con người, nhất là con người trần thế: Quyền sống hạnh phúc, khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi. (Tự tình II – Hồ Xuân Hương).
+ Ý thức về cá nhân đậm nét hơn: Quyền sống cá nhân, quyền hạnh phúc cá nhân, khẳng định tài năng, cá tính, bản lĩnh cá nhân (Tự tình II – Hồ Xuân Hương, Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ).
+ Đề cao truyền thống đạo lí nhân nghĩa của dân tộc: (Khóc Dương Khuê – Nguyễn Khuyến, Thương vợ – Trần Tế Xương).
+ Trong đó, vấn đề khẳng định quyền sống con người trở thành nội dung cốt lõi, xuyên suốt trong các tác phẩm giai đoạn văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Cùng với cảm hứng yêu nước, cảm hứng nhân đạo đã trở thành tư tưởng cốt lõi, nổi bật và xuyên suốt nền văn học trung đại nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Cảm hứng nhân đạo qua từng giai đoạn văn học có những biểu hiện khác nhau, làm phong phú, đa dạng hơn cho nền văn học dân tộc. Đó sẽ mãi là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà văn.
2.3.3 Cảm hứng thế sự
2.3.3.1 Vài nét về cảm hứng thế sự
Nói đến cảm hứng thế sự là nói đến cảm hứng về cuộc sống đời thường, về thế thái nhân tình, về con người của thực tại. Những tác phẩm mang cảm hứng thế sự chú ý khẳng định giá trị thẩm mĩ của cái đời thường, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quí trên hành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người
2.3.3.2 Biểu hiện của cảm hứng thế sự
- Biểu hiện rõ nét từ văn học cuối thời Trần (thế kỉ XIV). Khi triều đại nhà Trần suy thoái là lúc văn học hướng tới phản ánh hiện thực xã hội, phản ánh cuộc sống đau khổ của nhân dân.
- Cảm hứng thế sự trở thành nội dung lớn trong sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua những bài thơ viết về nhân tình thế thái.
- Văn học viết về thế sự phát triển trong hai thế kỉ XVIII và XIX; nhiều tác giả hướng tới hiện thực cuộc sống, hiện thực xã hội đương thời để ghi lại "những điều trông thấy". Lê Hữu Trác viết Thượng kinh kí sự, Phạm Đình Hổ viết Vũ trung tùy bút.
- Bức tranh về đời sống nông thôn trong thơ Nguyễn Khuyến, một xã hội thành thị trong thơ Tú Xương. Cảm hứng thế sự trong văn học trung đại đã góp phần tạo tiền đề cho sự ra đời của văn học hiện thực sau này.
2.4 Hình ảnh con người trong văn học trung đại Việt Nam
- Văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX đã chia ra làm hai dòng văn học riêng trong một dòng chung. Một dòng hướng về những chuẩn mực, hướng về những chủ đề, quan niệm mang tính công thức. Dòng này tạo nên kiểu văn học mang tính quan phương, cung đình, chủ yếu là tụng ca vua sáng tôi hiền, đề cao lễ nghĩa nhà Nho. Con người xuất hiện trong dòng văn học này, lẽ dĩ nhiên là con người cộng đồng, con người quân quốc... mang lí tưởng "trí quân trạch dân", mang khát vọng xây dựng một xã hội "Nghiêu Thuấn". Dòng thứ hai vượt thoát ra ngoài khuôn phép, luật lệ để những cảm xúc thật, những tình cảm thật được thăng hoa. Ở dòng thứ hai này, con người cá nhân có dịp bứt phá, quẫy đạp bằng một cái tôi tự do mạnh mẽ, phóng khoáng. Nếu lấy những quy tắc, điển phạm trong mỹ học phong kiến làm tâm thì có thể xem dòng văn học thứ nhất là dòng "văn học hướng tâm" và dòng văn học thứ hai là dòng "văn học ly tâm".
- Sự thể hiện con người trong văn học trung đại theo chiều "hướng tâm" hay "li tâm" gắn liền với cá tính sáng tạo của nhà văn, đồng thời gắn liền với sự vận động của lịch sử. Mỗi thời đại văn học với những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa riêng sẽ hình thành quan niệm nghệ thuật về con người của riêng thời đại ấy.
+ Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV là giai đoạn phục hưng và phát triển đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc. Giai đoạn này cũng là giai đoạn mà dân tộc ta không ngừng đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm phương Bắc để gìn giữ cõi bờ. Chính vì thế, cảm hứng chính trong văn học là cảm hứng yêu nước, con người được đề cao trong văn học là con người cộng đồng - con người "hướng tâm", tức là những con người sống theo những chuẩn mực đạo đức của cộng đồng (thời trung đại chuẩn mực ấy là đạo đức Nho giáo).
+ Từ thế kỉ XVI về sau, hiện thực trở nên phức tạp hơn rất nhiều, xã hội phong kiến rơi vào khủng hoảng, các thế lực phong kiến chém giết, tàn hại lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Vận mệnh, quyền sống của con người bị đặt bên bờ vực thẳm. Lúc này văn học nói lên tiếng nói của mình để bênh vực, ngợi ca, yêu thương, trân trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng yêu nước sang cảm hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con người cá nhân. Những con người có sự cựa quậy về cái tôi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo phong kiến, những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà Nho, cảm nhận được sự cô độc, bi thảm của cuộc đời đồng thời không ngừng khát khao về tình yêu và hạnh phúc.
- Hình ảnh con người được thể hiện qua văn học:
+ Con người sử thi:
Con người sử thi là hình ảnh những con người đại diện cho sức mạnh, bản lĩnh, phẩm chất của cả cộng đồng, dân tộc trong những thời điểm đặc biệt của lịch sử như thời chiến tranh vệ quốc hay giai đoạn trùng hưng đất nước. Đây là mẫu người lý tưởng mang tầm vóc thời đại, là những người "khổng lồ" mà qua đó ta nhìn thấy vẻ đẹp của cả một thời đại oanh liệt, hào hùng.
Trong bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, tác giả đã thể hiện sâu sắc hình ảnh con người sử thi qua hình tượng người tráng sĩ thời Trần với vẻ đẹp hùng tráng, hào sảng được thể hiện qua một thế đứng hiên ngang, lẫm liệt "Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy thu". Người tráng sĩ dù rong ruổi sa trường chưa lúc nào ngơi nghỉ mà vẫn tự nhận rằng chưa trả xong nợ công danh, vẫn cảm thấy "thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu". Nghĩa là con người ấy vẫn chưa tự bằng lòng với chính mình, vẫn thấy mình cống hiến chưa đủ, vẫn khao khát lập nhiều chiến công hơn nữa. Nỗi thẹn ấy vì thế là nỗi thẹn cao cả, nỗi thẹn làm nên nhân cách khiến hình tượng người tráng sĩ trở nên đẹp rạng rỡ, hào hùng.
Cuối thời Trần, khi non sông rơi vào tay giặc, hình ảnh con người sử thi lại được thể hiện sâu sắc qua vẻ đẹp bi tráng của người tráng sĩ trong bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung. Đó là hình ảnh một con người tuy lâm vào hoàn cảnh bế tắc nhưng nhiệt tình cứu nước vẫn sục sôi, hào khí vẫn lẫm liệt. Người tráng sĩ mang hoài bão lớn lao muốn giúp chúa xoay chuyển tình thế, khôi phục đất nước nhưng lại cảm thấy bất lực vì "việc đời còn rối bời mà ta đã già rồi". Ấy vậy mà khí phách, khát vọng của người anh hùng vẫn tỏa sáng ngay trong cảnh ngộ thất cơ, lỡ vận:
"Quốc thù vị báo đầu tiên bạch
Kỉ độ long tuyền đái nguyệt ma"
(Thù nước trả chưa xong mà đầu đã bạc
Bao đêm rồi ngồi mài gươm dưới bóng trăng).
Trong hai câu thơ, người anh hùng hiện lên tuyệt đẹp; lồng lộng, hiên ngang ngay cả khi rơi vào bi kịch. Nhiệt tình cứu nước không lúc nào suy giảm dù tóc trên đầu đã bạc vì sương gió chiến chinh.
+ Con người ưu ái:
Con người ưu ái là những con người nặng lòng với non sông đất nước, lúc nào cũng thường trực một tình yêu, một nỗi âu lo dành cho cuộc sống của nhân dân. Họ mang trong mình lý tưởng "trí quân trạch dân", khát khao xây dựng một xã hội thịnh trị, giúp cho cuộc sống nhân dân yên ổn, thanh bình. Và khi xã hội rơi vào loạn lạc, cuộc sống nhân dân lầm than, lòng họ nặng trĩu bao nhiêu xót xa, cay đắng.
Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thường xuyên bắt gặp hình ảnh một con người ưu ái, suốt đời âu lo cho vận mệnh của đất nước, cho hạnh phúc nhân dân. Nguyễn Trãi từng viết câu thơ nổi tiếng "bình sinh độc bão tiên ưu chí" (Hải khẩu dạ bạc hửu cảm). Ông nguyện trở thành người "lo thì lo trước thiên hạ, vui thì vui sau thiên hạ". Sở nguyện của đời ông là làm sao cho đất nước trị bình, cuộc sống nhân dân được hạnh phúc, ấm êm:
"Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương"
(Bảo kính cảnh giới 43).
Nỗi lòng ấy ông gọi là "lòng ưu ái", "lòng trung hiếu":
"Bui một tấc lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"
(Thuật hứng 24),
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông"
(Thuật hứng 5)
Từ hình ảnh con người ưu ái trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, ta nhìn thấy ở ông một nhân cách trong sáng, một tấm lòng cao đẹp, nói như Lê Thánh Tông "Ức Trai lòng dạ sáng sao Khuê".
- Con người tự phản tỉnh:
Phản tỉnh là tự thức tỉnh để nhìn lại, nhận thức lại, phán xét lại chính mình từ đó nhận ra sai lầm mà ăn năn, sám hối, từ đó hướng đến những giá trị cao đẹp hơn. Tinh thần phản tỉnh là một một biểu hiện nhân văn góp phần hình thành vẻ đẹp nhân cách của con người. Hình ảnh con người tự phản tỉnh ấy được thể hiện sâu sắc trong rất nhiều tác phẩm văn học trung đại.
Người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều ban đầu đặt rất nhiều niềm tin, hy vọng vào "đấng quân vương", mơ ước được sống một cuộc sống nhung lụa vàng son theo kiểu:
"Một ngày tựa mạn thuyền rồng
Còn hơn mãn kiếp ngồi trong thuyền chài"
Nàng mong muốn được sống giàu sang vinh hiển, khát vọng đạt được hạnh phúc tột đỉnh. Đối với nàng, cuộc sống đúng nghĩa phải là cuộc sống nơi lầu vàng gác tía, nàng coi thường cuộc sống thường dân:
"Lan mấy đóa lạc loài sơn dã
Uổng mùi hương vương giả lắm thay"
Thế nhưng khi bị thất sủng, phải đối mặt với một thực tại chua xót, bẽ bàng, đối mặt với bao nhiêu đau khổ, uất ức, nàng dần dần đánh mất niềm tin vào những thứ trước đây nàng tin tưởng. Giấc mộng lầu son giờ đổ vỡ, mọi ảo tưởng, ngộ nhận tiêu tan. Nàng bắt đầu phản tỉnh để nhận thức được rằng hóa ra những thứ mà trước đây nàng cho là tốt đẹp, cao quý lại là những thứ "mồi", thứ "bả". Nàng hiểu ra rằng hạnh phúc không phải được tạo nên từ lầu vàng điện ngọc, từ phù phiếm, xa hoa. Hạnh phúc chỉ đến từ tình yêu chân thành, chung thủy. Cuộc sống êm đẹp nhất là cuộc sống vui vẻ sum vầy, có chồng có vợ:
"Kìa điểu thú là loài vạn vật
Dẫu vô tri cũng biết đèo bòng
Có âm dương có vợ chồng
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê".
+ Con người cô đơn, lạc lõng:
Hình ảnh con người cô đơn, lạc lõng trong văn học trung đại thường xuất hiện khi xã hội phong kiến Việt Nam ở vào giai đoạn suy tàn. Mọi trật tự tôn ti sụp đổ, mọi giá trị lộn nhào. Lúc ấy con người, đặc biệt là những người trí thức vốn đặt niềm tin vào lý tưởng nhà Nho cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin một cách trầm trọng. Đó là hình ảnh một con người bơ vơ, lạc lõng, không biết trôi dạt về đâu trong thơ Lê Hữu Trác:
"Tìm đường về Hán chưa xong
Sang Tần là việc đã không nên rồi
Bể hồ trôi dạt đôi nơi
Cho người tráng chí ra người cuồng ngông"
(Hải Thượng Y tông tâm lĩnh)
Đó là con người mang nặng một nỗi bấn loạn khiến cõi lòng nhàu nhĩ, bi thương trong bài Tạp thi Nguyễn Du:
"Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên"
(Người tráng sĩ đầu bạc buồn ngẩng mặt nhìn trời
Hùng tâm, sinh kế cả hai đều mờ mịt cả)
Đó là một con người sụp đổ niềm tin, chán ngán trước tất cả trong thơ Nguyễn Công Trứ:
"Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo"
(Vịnh cây thông)
Hình ảnh con người cô đơn lạc lõng trong văn học trung đại cũng thường xuất hiện khi mà quyền sống, quyền được hưởng tình yêu, hạnh phúc của con người bị chà đạp. Lúc ấy, hạnh phúc đổ vỡ, tình duyên hẩm hiu, con người trở về với chính cõi lòng mình để nỗi cô đơn dâng trào trong tâm trạng.
Trong bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương, ta bắt gặp hình ảnh một người phụ nữ đơn độc, lẻ loi, trơ "cái hồng nhan" ra cùng tuế nguyệt. Nàng chìm sâu vào bị kịch với bao nhiêu tuyệt vọng, chán chường:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con"
Nàng Kiều trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng không ít lần rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng như vậy. Đó là sau khi tự mình trao duyên, trao tình yêu cho em, nàng trở về với chính cõi lòng mình để bao nhiêu buồn tủi, xót xa lan tỏa trong tâm hồn :
"Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"
Đó là giây phút nàng tỉnh rượu sau những "cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm", đối diện với một đêm khuya quạnh vắng, nỗi cô đơn như tan chảy trong sâu thẳm cõi lòng:
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa".
Nhìn lại toàn bộ tiến trình văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy một sự vận động không ngừng của quan niệm nghệ thuật về con người. Hình tượng con người trong văn học phát triển theo chiều hướng ngày càng mang bản sắc riêng, có sự dịch chuyển từ tuân thủ chuẩn mực đến sáng tạo trong thể hiện khiến hình tượng con người ngày càng trở nên phong phú và giàu sức hấp dẫn hơn. Sự đa dạng, phong phú trong sự thể hiện con người ấy đã góp phần tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc, tạo nên vẻ đẹp nhân văn lấp lánh trong nền văn học.
2.5 Tư tưởng nhân nghĩa trong thơ văn Nguyễn Trãi
Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một trí thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc. Hơn thế, Nguyễn Trãi còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Ông đã có công tổng kết, khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong điều kiện lịch sử – cụ thể của Việt Nam; từ đó, nâng tư duy của người Việt Nam lên một tầm cao mới. Thông qua các tác phẩm chủ yếu và tiêu biểu của ông, như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, chúng ta thấy tư tưởng Nguyễn Trãi đã phản ánh nhiều mặt của đời sống nước ta đương thời: về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá; về vai trò của nhân dân, về lý tưởng xã hội, v.v.. Những tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi không chỉ có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với xã hội đương thời, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc trong toàn bộ lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.
Suốt nhiều trăm năm qua, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi trên nhiều phương diện chính trị, văn hoá, văn học, nghệ thuật,... Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi vẫn còn là khá mới mẻ. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến tư tưởng nhân nghĩa – một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời và hoạt động cống hiến của nhà tư tưởng kiệt xuất này.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà chúng ta còn lưu giữ được thì chữ "nhân" đã được nhắc đến 59 lần và chữ "nghĩa" – 81 lần. Tổng cộng hai chữ "nhân", "nghĩa" được ông sử dụng đến 140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là "nhân nghĩa". Tất nhiên, ở đây cần nhấn mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với tư tưởng Khổng – Mạnh – nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: "việc nhân nghĩa cốt ở an dân", "dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội", "đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân". Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi "an dân" là mục đích của nhân nghĩa và "trừ bạo" là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ "bạo", tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho "hợp trời, thuận người", nên có thể lấy "yếu chống mạnh", lấy "ít địch nhiều", lấy "đại nghĩa thắng hung tàn", lấy "chí nhân thay cường bạo". Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho "càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong". Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử... đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu "phiền hà" dân. Với tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ "nhân nghĩa, an dân", phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. "Dân chúng" vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà có: "thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân". Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc. Ông viết: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày". Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược "tâm công" Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể hiện nét độc đáo riêng có ấy. "Tâm công" – đánh vào lòng người – sách lược đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. "Tâm công" tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân về nước. Tất nhiên, chiến lược "tâm công" ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm về cách đối xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức "hiếu sinh", sự "khoan dung" của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: "Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần". Theo Nguyễn Trãi: "Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân". Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: "Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa". "Tuyệt mối chiến tranh", "bảo toàn cả nước là trên hết" đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, "mở nền thái bình muôn thuở" bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: "nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời". Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài "kinh bang tế thế" và là một tư tưởng có sức sống "vang đến muôn đời".
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa, đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: "thánh tâm dục dữ dân hưu túc, văn trị chung tu chí thái bình" (lòng vua chỉ muốn dân yên nghỉ, xếp võ theo văn, nước trị bình) ; "vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền". Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là đất nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên vui với các nước khác. Có thể nói, lý tưởng chính trị – xã hội của Nguyễn Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: "người tài ở đời vốn không ít", nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách như học hành thi cử; hoặc tiến cử "văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì... tùy tài trao chức"; hoặc ứng cử "người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng quân nhỏ", "người hào kiệt náu ở nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính" phải tự mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia.
Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.
2.6 Ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du
Tác phẩm chính của Nguyễn Du ngoài Truyện Kiều - kiệt tác đỉnh cao của văn học Việt Nam - là 250 bài thơ chữ Hán. Bên cạnh đó các tác phẩm Chiêu hồn thập loại chúng sinh, Sinh tế Trường Lưu nhị nữ văn (Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu) cũng đều là những áng văn chương đặc sắc đậm đà chủ nghĩa nhân đạo. Mỗi tác phẩm văn chương đích thực là một giá trị độc đáo, bởi vậy việc khái quát những đặc điểm chung nào đó là công việc có ý nghĩa tương đối, đó là chưa nói đến khả năng (không khó xảy ra) khái quát sai lệch. Đối với chủ nghĩa nhân đạo của văn chương Nguyễn Du mà chỉ nói đến một đặc điểm nào đó, thực sự là việc bất đắc dĩ.
Một đặc điểm nổi bật và cũng là một trong những cống hiến của thi hào, là sự quan tâm đến thân phận của đông đảo chúng sinh với tinh thần thực tiễn.
Thuộc tính cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo (và các phạm trù gần gũi như chủ nghĩa nhân bản, chủ nghĩa nhân văn) là xuất phát từ con người và vì con người. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân mà các tôn giáo, các thời đại, các giai cấp, các dân tộc và các cá nhân nhận thức về chúng và hành động vì chúng không giống nhau. Bởi vậy, đi với các khái niệm này bao giờ cũng có các định ngữ để cá biệt hóa. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương Nguyễn Du cần được nhìn nhận trong các điều kiện lịch sử, xã hội và văn hóa của Việt Nam thế kỷ XVIII. Đương nhiên là góp phần làm nên khí hậu nhân văn của thời đại Nguyễn Du hay bất cứ thời đại nào khác còn có di sản của các thời đại trước đó để lại, vì nói như Ăngghen, các thế hệ đã qua đè nặng lên vai những thế hệ tiếp nối.
Có thể khẳng định trong suốt tiến trình văn học viết Việt Nam hơn mười một thế kỷ không có tác giả nào sánh được với Nguyễn Du ở việc viết về những nỗi đau khổ của con người. Nguyễn Du viết nhiều nhất, sâu sắc nhất về những nỗi khổ đau vật chất và tinh thần của nhiều loại người, không kể cùng dòng giống Lạc Hồng hay ngoại tộc. Trên "trái đất ba phần tư nước mắt" (Xuân Diệu) này, thời nào nơi đâu cũng đầy rẫy sự khổ. Thuộc tính của nghệ sĩ đích thực là luôn sẵn "mối từ tâm" (Truyện Kiều) nên nhạy cảm trước nỗi khổ đau của đồng loại. Tuy vậy, không phải ở bất cứ thời gian và không gian nào, nỗi khổ của kiếp người cũng trở thành một chủ đề trọng yếu của văn chương, thậm chí còn có thể biến thành tiếng nói lạc lõng, tuy xuất phát từ căn nguyên chính đáng. Nhiều bài trong tập thơ Cưu đài của Nguyễn Húc (nhà thơ Việt Nam thế kỷ XV) bộc lộ nỗi thương hoa tiếc nguyệt và sự bất đắc chí của một người tự thấy có tài mà không được dùng. Những điều này đều chính đáng nhưng thực sự tạo nên phản cảm khi mà giặc Minh đang "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống hầm tai vạ" (Bình Ngô đại cáo), khi mà không ít trí thức tài năng đang "nếm mật nằm gai" cứu nước, biến cây bút thành cây đao giết giặc ("Đao bút phải dùng tài đã vẹn" - Nguyễn Trãi).
Thế kỷ X đến thế kỷ XV là những thế kỷ đầu của thời kỳ độc lập. Vấn đề nổi bật của đương thời là số phận đất nước. Giai cấp phong kiến lúc này đang có vai trò tích cực, quyền lợi giai cấp thuận chiều với quyền lợi dân tộc. Từ thế kỷ XVI về sau, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu suy đồi, trong hoàn cảnh đó thân phận con người trở thành chủ đề hàng đầu của văn chương. Thể hiện chủ đề này ở thế kỷ XVI về thơ tác giả xuất sắc nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm và ở văn xuôi tác giả xuất sắc nhất là Nguyễn Dữ. Hai thế kỷ sau đến thời Nguyễn Du, trong hoàn cảnh mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp đều trở nên gay gắt, một bộ phận quý tộc và quan liêu thương nhân hóa, đồng tiền thực sự trở thành một thế lực mạnh mẽ và lạnh lùng... thì vấn đề quyền sống của con người được đặt ra cấp thiết. Nguyễn Du với nhãn quan sắc sảo và trái tim nhân ái đã tiếp nhận được yêu cầu đó và biểu hiện nó một cách nghệ thuật, khiến cho các vấn nạn nhân sinh đương thời có ý nghĩa phổ quát.
Điều thú vị là nhiều tác phẩm của Nguyễn Du đã hiển hiện những cứ liệu để cho người ta đối sánh (cứ như là thi hào đã biết hậu sinh sẽ làm điều này). Chiêu hồn thập loại chúng sinh của thi hào gợi nhớ đến Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Hoàng đế - thi sĩ Lê Thánh Tông (thế kỷ XV). Cũng đều viết về mười loại hồn nhưng cảm hứng chủ đạo của hai tác phẩm khác nhau. Lê Thánh Tông xuất phát từ cảm hứng chính trị, viết về người chết nhưng mục đích chính là biểu lộ sự đánh giá chính thống thời thịnh trị về các loại người trong xã hội đương thời. Tác phẩm của Nguyễn Du xuất phát từ cảm hứng nhân đạo đích thực nên được lưu hành cả trong nhà chùa. Không phải không có nguyên cớ mà nhà thơ Chế Lan Viên đã nhắc đến tác phẩm này như là tác phẩm tiêu biểu viết về quá khứ đầy đau khổ của Việt Nam:
"Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ,
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi."
Tập thơ chữ Hán Bắc hành tạp lục gồm 131 bài được Nguyễn Du viết khi dẫn đầu sứ Bộ nhà Nguyễn đi sứ Trung Quốc (2-1813 đến 4-1814). Tập thơ viết về ngót trăm nhân vật Trung Hoa trong số rất ít nhà thơ bắt gặp, còn phần lớn là những di tích bên con đường thiên lý gợi nhớ đến. Đa phần trong số đó là những con người có số phận không may mắn gợi cho nhà thơ bao nỗi thương xót, khiến cho cảm thương trở thành một cảm hứng chủ đạo của tập thơ đi sứ này.
Truyện Kiều lấy cốt truyện và nhân vật của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Thời trung đại cả ở phương Đông cả ở phương Tây có không ít trường hợp tương tự. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc thể loại tiểu thuyết chương hồi, một thể loại rất chú trọng chi tiết, sự kiện. Tác phẩm của Nguyễn Du là tiểu thuyết bằng thơ, có thế năng lớn hơn để bộc lộ chất trữ tình, sự tự biểu hiện cũng phong phú hơn (nên mới có chuyện có những nhà nghiên cứu đặt vấn đề tìm hiểu thái độ chính trị của Nguyễn Du qua nhân vật Từ Hải do ông sáng tạo). Tuy sử dụng chất liệu có sẵn nhưng tác phẩm Nguyễn Du không chỉ gián tiếp mà còn nhiều khi trực tiếp bày tỏ lòng thương xót của tác giả đối với các nhân vật khổ đau, bất hạnh.
Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hướng đến đông đảo chúng sinh quả là có gợi cho người ta nghĩ đến chủ nghĩa nhân đạo của nhà Phật. Ngoài ra trong nhiều tác phẩm quốc âm của mình, Nguyễn Du còn sử dụng nhiều phạm trù của Phật giáo. Tuy nhiên giữa hai giá trị này có những khác biệt lớn. Nhà Phật cho rằng con người khổ vì thất tình lục dục, nghĩa là nguyên nhân nỗi khổ nằm ngay trong chính bản thân con người. Còn trong tác phẩm của Nguyễn Du, nỗi khổ của con người từ phạm vi cộng đồng đến phạm vi cá thể đều có căn nguyên thực tế khách quan. Thúy Kiều khổ vì thằng bán tơ vu oan, vì quan xử kiện bất minh, vì tổng đốc trọng thần hèn hạ. Tiểu Thanh khổ vì vợ cả ghen với tuổi trẻ, nhan sắc và tài hoa của nàng. Người buôn bán nhỏ khổ vì miếng ăn mà phải bươn bả ngược xuôi đòn gánh tre chín dạn hai vai. Trăm họ khổ sở chết chóc vì những kẻ giãi thây trăm họ làm công một người. Ngay cả những lá ngọc cành vàng thì thân mệnh cũng như trứng để đầu đẳng: Một phen thay đổi sơn hà/ Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu... Chất liệu sống làm cơ sở xây dựng những hình tượng con người khổ đau trong văn chương Nguyễn Du không cần tìm đâu xa, mà đầy rẫy ở chính thời đại thi hào.
Một điều đặc biệt đối với Nguyễn Du là nỗi khổ của con người còn ở ngay chính bản thân nhà thơ và gia đình mình. Trong các tác giả văn chương Việt Nam thời trung đại thành danh, không ai sánh được với Nguyễn Du về những nỗi trầm luân. Nguyễn Du sinh ra trong gia đình trâm anh thế phiệt, hoàn cảnh đó cộng với tư chất thông minh khiến ông có vốn học vấn cao. Nguyễn Du vào đời lúc vua Lê chúa Trịnh đến bước suy tàn. Gia đình ông gắn bó với chế độ đó hiển nhiên cũng rơi vào cảnh sảy đàn, tan nghé. Nguyễn Du có ngày tháng gian khó ở quê vợ Thái Bình hay quê cha Hà Tĩnh. Về sau thế cuộc thay đổi, Nguyễn Du làm quan với nhà Nguyễn nhưng ông không xem đó là cơ hội để vinh thân phì gia. Nhà đông nhân khẩu cùng với bệnh tật của bản thân khiến cho tình thế thật đáng ái ngại như ông viết trong bài Ngẫu đề:
"Thập khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc,
Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông."
(Nhà mười miệng ăn đang kêu đói ở phía Bắc dãy Hoành Sơn.
Còn ta thì đau yếu nằm rụi ở phía Đông đế thành).
Sự khổ đau do thiếu đói, bệnh tật xảy ra với chính Nguyễn Du và gia đình khiến ông chỉ cần lấy đó làm chất liệu đã làm nên những bài thơ đầy xúc động.
Xã hội thời trung đại dù ở phương Đông hay phương Tây đều xây dựng trên sự bất bình đẳng ở các phương diện (giới, tôn giáo, quốc gia, chủng tộc, nghề nghiệp...) bởi vậy triết lý sống "đồng bệnh tương liên" (cùng bệnh thì thương nhau) đã thực sự có giá trị nhân đạo thực tiễn. Nguyễn Du tự xếp mình vào số những người có nỗi oan khuất lạ lùng (Phong vận kỳ oan ngã tự cư - Độc Tiểu Thanh ký), tâm thế đó khiến cho nhà thơ gần gũi cảm thông với biết bao sinh linh tài hoa mà chịu oan khuất (cảm hứng này tập trung trong Bắc hành tạp lục). Không dừng ở đó, từ sự nghiệm sinh của chính mình, Nguyễn Du đề xuất lẽ sống cao cả bất chấp thời gian và không gian: Thương nhau không do chỗ giống nhau (Tương liên bất tại đồng - Phượng Hoàng lộ thượng tảo hành). Quan niệm này luôn biểu lộ trong những hình tượng văn chương do ông sáng tạo, khiến độc giả từ những áng văn chương thấy được con người thi sĩ "tấm lòng thấu suốt nghìn đời, con mắt nhìn thâu sáu cõi".
2.7 Cái tôi trong văn học trung đại
"Cái tôi" trong quan niệm triết học và mỹ học của người phương Đông hầu như khác hẳn với "cái tôi" phương Tây. Người phương Tây tuyệt đối hóa "cái tôi", phân biệt "cái tôi-cá nhân" và "cái tôi- xã hội". Họ quan niệm rằng "con người phổ quát – ta" hoàn toàn chưa phải là "con người cá nhân – tôi". Thậm chí sau này trường phái triết học hiện sinh còn tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân tới mức không bao giờ chấp nhận cái ngoài tôi với những định đề kỳ lạ rằng, tự do của tôi là nô lệ kẻ khác và ngược lại, hoặc "địa ngục là tha nhân". Nó chỉ chấp nhận Ngã mà chống lại Tha. Quan niệm về "cái tôi" phương Đông khác hẳn vì nó hài hòa giữa Ngã và Tha, tôi vừa tồn tại trong tôi, vừa ở trong cái ngoài tôi và ngược lại. Con người chỉ thực sự là con người, là hiện hữu tôi nếu tôi đặt tôi bên cạnh tha nhân, nếu tôi đặt tôi trong những mối quan hệ sống còn với kẻ khác và với môi trường thiên nhiên như Marx nói : "Con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội". Người phương Đông không bao giờ tách cá nhân ra khỏi gia đình, xã hội, thậm chí không bao giờ tách cá nhân con người ra khỏi trời đất trong mối tương quan : thiên, địa, nhân. Cho nên "cái tôi" của phương Đông là một "cái tôi kép", vừa là tôi, vừa là ta, vừa là "tôi cá nhân", vừa là "tôi xã hội", không phải là "cái tôi" đơn lẻ, cái tôi tuyệt đối phi xã hội, phi quan hệ như phương Tây quan niệm.
Chính vì những lẽ trên, nên văn học phương Đông từ khởi thuỷ đã là nền văn học đầy tính bản ngã vì nó là nền văn học sinh ra từ con người, vì con người. Mệnh đề "Văn dĩ tải đạo" của Khổng Tử cần phải hiểu thông thoáng hơn, đa ngữ nghĩa hơn, chứ "Đạo" đây không chỉ là đạo lý mà còn bao hàm cả Chân Thiện Mỹ. Chúng tôi xin lấy vài ba thí dụ trong ca dao Việt Nam như : "Chàng ơi phụ thiếp làm chi / Thiếp là cơm nguôïi đỡ khi đói lòng", thì nhân vật "thiếp" kia không chỉ là một "con người phổ quát" mà còn là một " con người cá nhân", con người cụ thể đầy thân phận với đủ "cái tôi" tự ý thức. Hai câu ca dao khác : "Chính chuyên chết cũng ra ma / Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng" hoặc "Lẳng lơ chết cũng không mòn / Chính chuyên cũng chẳng sơn son mà thờ" là những câu ca dao phản kháng, đòi giải phóng, đòi quyền sống, quyền tự do yêu đương, quyền tự do tìm lạc thú, quyền làm người của phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ .
Thơ ca bác học Việt Nam khởi từ Lý-Trần qua Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát tới Tú Xương, Nguyễn Khuyến... bị ai đó dùng nội hàm văn học trung đại phương Tây để phi ngã hóa. Khi Dương Không Lộ thời Lý viết bài thơ tứ tuyệt "Ngôn hoài" là viết trong cảm hứng tuyệt vời bản ngã, đẩy cái tôi cá nhân lên chót vót đỉnh thiền với hai câu thơ cuối hay đến kinh ngạc như sau : "Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh / Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư " (Gặp dịp ta sẽ trèo thẳng lên ngọn núi cô độc cao ngất / Hét lên một tiếng hét dài làm lạnh toát cả càn khôn). Qua bài thơ thần diệu của Không Lộ thiền sư, chúng ta biết thêm rằng tiền nhân đã không chỉ lặn vào sâu thẳm nội tâm bản thể mình để đi tìm "cái tôi", mà còn hướng ra thái hư, thám hiểm vô biên để tìm kiếm bản ngã ngoài mình nữa.
Thơ chữ Hán và nhất là "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi quả là đại kiệt tác trong văn học Việt Nam. "Quốc âm thi tập" chính là bài ca tuyệt mỹ của tính bản ngã, của "cái tôi" thân phận Nguyễn Trãi hóa thân vào cuộc đời và tạo vật, là tấm lòng đau đáu, cô đơn của hồn thơ thiên tuế "Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay". Người ta dùng hệ quy chiếu phương Tây để đọc cổ nhân Việt Nam nên không thể tiếp nhận được tinh thần bản ngã của hai câu thơ hay vào loại nhất trong "Quốc âm thi tập" : "Nguyệt xuyên há dễ thấu lòng trúc / Nước chảy âu khôn xiết bóng non". Chỉ thấy ánh trăng và cây trúc, nước chảy và bóng núi, nào thấy "cái tôi" ở đâu ? Không, "cái tôi" đó nằm giữa hồn thơ, hồn người trong tận cùng gan ruột câu thơ và bàng bạc cả trong trời đất. Trăng sáng chiếm lĩnh cả vũ trụ, đâu đâu cũng phủ lên, trùm lên được mà sao chỉ có lòng trúc, ruột cây trúc là ánh trăng không thể soi thấu ? Nguyễn Trãi giấu hồn mình trong "lòng trúc thi ca" khiến vầng trăng thời đại không thể nào tiếp cận ; cũng như ông cha ta thường giấu "cái tôi" trong thơ ngoài tạo vật với thi pháp "thi tại ngôn ngoại". "Nước chảy đá mòn" nhưng với Nguyễn Trãi, nước chảy mãi vẫn không mòn được bóng núi. Bóng núi in xuống dòng sông nhẹ như không mà nước muôn đời chảy mãi vẫn không đẩy được, trôi được bóng núi – bóng thi ca kia. Câu thơ trên chỉ mượn trăng, mượn trúc, mượn bóng núi in trên nước chảy mà tỏ nỗi lòng nghìn thu Nguyễn Trãi với những suy tư sâu sắc tới vô cùng về thân phận làm người, sao lại bảo chúng thiếu vắng "cái tôi" cá nhân?
"Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm là khúc ngâm đoạn trường của "cái tôi" cá nhân người chinh phụ trải nỗi đau, trải niềm phản kháng, trải tiếng thét gào bản thể từ khuê phòng tới tận chiến trường đẫm máu. "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, thơ Hồ Xuân Hương... thảy đều là tiếng kêu thương đòi quyền được thể hiện "cái tôi" cá nhân, đòi quyền sống, quyền làm người của người đàn bà trong xã hội phong kiến. Nếu phủ nhận tính bản ngã trong thơ ca cổ dân tộc, cầm bằng như cố tình không công nhận tính nhân bản và tính nghệ thuật của những thiên tài thơ bậc nhất Việt Nam vậy ! Chúng tôi xin mượn lời nhà phê bình văn học kiệt xuất Viên Mai đời Thanh trong "Tùy viên thi thoại" bàn rất hay về "cái tôi" trong thơ làm lời kết : "Làm người thì không nên có cái tôi, có cái tôi thì hay mắc bệnh kiêu căng cậy tài. Cho nên Khổng Tử nói "không cố chấp", "không chỉ cho mình là đúng" vậy. Nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi. Không có cái tôi thì dễ mắc cái tệ cóp nhặt phô diễn..."
2.8 Luyện tập2.8.1 Đề 1
Bàn về nghệ thuật thư pháp, tác giả Chu Giang Phong trong bài đăng báo Lao động, xuân Kỷ Hợi – 2019, có viết: "Viết chữ là họa tâm mình trên giấy".
Công việc sáng tác văn chương cũng vậy. Hãy bàn luận và làm sáng tỏ qua những hiểu biết về văn thơ của hai bậc đại thi hào Nguyễn Trãi và Nguyễn Du
2.8.1.1 Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
2.8.1.2 Thân bài
a) Giải thích
- Câu nói của Chu Giang Phong về nghệ thuật thư pháp: Mỗi nét chữ như mang theo một mảnh tâm tư, tình cảm... Mỗi tác phẩm thư pháp như một bức tranh kí họa chân dung tâm hồn người nghệ sĩ...
- Trong sáng tác văn chương: mỗi con chữ là sự mã hóa một nỗi niềm riêng, kí thác một tâm sự, gửi gắm một tấc lòng... Chữ không chỉ là chữ mà là sự hiện hình của nhân cách, là sự cụ thể hóa những xúc cảm trừu tượng, vô hình trong sâu thẳm tâm hồn trắc ẩn của nhà văn...
- Về lí luận văn học: Nhà văn và tác phẩm văn học, nhà văn và hiện thực đời sống...
b) Phân tích và chứng minh
- Qua những áng thơ văn Nguyễn Trãi: Phân tích những bài thơ, câu thơ tiêu biểu trong: Bảo kính cảnh giới 43, Bình Ngô đại cáo,... để thấy: Ức Trai đã tự họa bằng ngôn từ văn chương chân dung một bậc thi nhân tài hoa, giàu rung cảm với tạo vật và thương muôn dân sâu sắc...
- Qua những áng thơ ca Nguyễn Du: Phân tích những câu thơ, những ngôn từ đặc sắc, những thi ảnh giàu sức gợi trong: Độc Tiểu Thanh kí, Văn tế thập loại chúng sinh, Truyện Kiều... để thấy chân dung bậc đại thi hào, một nhà nhân đạo chủ nghĩa từ trong cốt tủy với " tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời"...
- Qua những sáng tác của Hồ Xuân Hương: Phân tích những câu thơ, bài thơ tiêu biểu trong: Tự tình II, Mời trầu,... để thấy bức chân dung của nhà thơ: có cái tôi độc đóa, cá tính mạnh mẽ và khát vọng hạnh phúc, không gục ngã trước số phận,...
c) Đánh giá, bàn luận
Đánh giá ý kiến của Chu Giang Phong và đưa ra một vài ý kiến khác về quá trình sáng tạo nghệ thuật để bàn luận...
d) Mở rộng
- Để nhà văn "họa được tâm mình trên giấy" thì mỗi nhà văn phải có thiên lương thanh cao, phải ý thức được sứ mệnh của một nhà văn đối với văn chương và đối với cuộc đời.
- Về phía người tiếp nhận, khi tiếp nhận tác phẩm phải khám phá được bóng dáng của nhà văn trên trang viết, đặc biệt có niềm đồng cảm và trân trọng người nghệ sĩ.
2.7.1.3 Kết bài
Khẳng định và đánh giá giá trị của ý kiến.
2.8.2 Đề 2
Nhà thơ nổi tiếng người Đức H. Hai- nơ cho rằng: "Cuộc đời của nhà thơ, giá trị của nhà thơ không nên tìm ở đâu khác mà phải chính trong tác phẩm của họ".
Từ việc cảm nhận một số bài thơ trong chương trình Ngữ văn 10 THPT, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
2.8.2.1 Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
2.8.2.2 Thân bài
a) Giải thích
- Cuộc đời nhà thơ: hoàn cảnh sống, sự kiện, biến cố, đời sống tinh thần, tố chất tâm hồn riêng của nhà thơ.
- Giá trị của nhà thơ: những đóng góp sâu sắc và mới mẻ, những cống hiến có ý nghĩa khẳng định vị thế của nhà thơ. Giá trị của nhà thơ được thể hiện ở tầm vóc tư tưởng, ở chiều sâu tâm hồn và tài năng nghệ thuật.
- Ý kiến đã khẳng định mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm, trong đó nêu lên ý nghĩa của tác phẩm trong việc thể hiện cuộc đời và khẳng định giá trị của nhà thơ:
+ Tác phẩm là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ. Qua tác phẩm, người đọc có thể nhận ra tư tưởng, tình cảm, tài năng của người sáng tác. Tác phẩm khẳng định vị trí, diện mạo riêng của người nghệ sĩ.
+ Đặc trưng của thơ là sự tự thể hiện, bộc lộ trực tiếp thế giới tinh thần, đời sống tâm hồn của nhà thơ. Thơ là bức chân dung tinh thần tự họa, là nơi để thi sĩ trút gửi những tâm sự sâu kín, giải tỏa những cảm xúc sâu sắc và mãnh liệt khi chạm vào cuộc sống. Vì vậy, chính trong tác phẩm, người đọc có thể nhận ra được bóng dáng cuộc đời, hiểu được cách nhìn, cách cảm, lắng nghe được điệu hồn riêng của nhà thơ.
+ Mỗi bài thơ là kết quả của quá trình lao động nghệ thuật đầy khổ hạnh và nghiêm túc, tìm tòi và sáng tạo. Vì vậy, tác phẩm chính là căn cứ để đánh giá tài năng và tâm huyết của nhà thơ.
b) Phân tích và chứng minh
Chọn một số bài thơ (từ 02 bài trở lên) tiêu biểu, phù hợp để minh chứng cho yêu cầu của đề như: Cảnh Ngày hè của Nguyễn Trãi, Độc tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du, Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tự tình II của Hồ Xuân Hương... để làm sáng tỏ vai trò của tác phẩm trong việc thể hiện cuộc đời và giá trị của nhà thơ. Sự phân tích và cảm nhận tác phẩm thơ cần làm rõ các định hướng cơ bản sau:
- Nhận ra bóng dáng cuộc đời, con người nhà thơ in dấu trong tác phẩm.
- Hiểu và đánh giá được giá trị của nhà thơ được thể trong tác phẩm qua các phương diện như:
+ Chiều sâu tâm hồn, tầm vóc tư tưởng.
+ Tài năng nghệ thuật.
c) Đánh giá, bàn luận
Ý kiến của nhà thơ người Đức H. Hai- nơ là một quan niệm xác đáng khi khẳng định tác phẩm chính là xuất phát điểm khoa học và khách quan để thấu hiểu cuộc đời và đánh giá giá trị của người nhà thơ. Điều này không chỉ đúng trong lĩnh vực thơ ca mà còn đúng với các sáng tác văn học nói chung.
d) Mở rộng
- Nhà thơ nói riêng, người nghệ sĩ nói chung muốn có chỗ đứng, muốn thể hiện và khẳng định được mình phải sáng tác nên những tác phẩm có giá trị, in đậm dấu ấn cá nhân.
- Ý kiến cũng là một định hướng đầy ý nghĩa cho việc tiếp nhận thơ và đồng cảm, tri âm với nhà thơ.
2.8.2.3 Kết bài
Khẳng định và đánh giá giá trị của ý kiến.
2.8.3 Đề 3
Bàn về thơ, Chế Lan Viên cho rằng: "Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim." Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ qua bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi và Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) của Nguyễn Du.
2.8.3.1 Mở bài
Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề cần nghị luận.
2.8.3.2 Thân bài
a) Giải thích
– Thơ cần có hình: Thơ cần có hình ảnh (thiên nhiên, cuộc sống, con người...) để biểu hiện cảm xúc, tư tưởng của nhà thơ. Đây là phương diện hình thức thơ.
– Thơ cần có ý: (ý nghĩa nội dung, tư tưởng của thi phẩm); có tình (tình cảm, cảm xúc). Đây là phương diện nội dung thơ.
– Ý nghĩa câu nói: tác phẩm thơ cần có sự kết hợp hài hòa giữa hình, ý, tình (hình ảnh, tư tưởng, tình cảm, cảm xúc...). Hay nói cách khác, bài thơ cần kết hợp cả hai phương diện nội dung và hình thức.
b) Phân tích và chứng minh
* Lí giải tại sao thơ cần phải có hình, có ý, có tình?
- Đặc trưng của văn chương nói chung và thơ ca nói riêng là phản ánh, biểu đạt thông qua hình tượng nghệ thuật. Không có các hình tượng, thế giới tinh thần không thể biểu hiện cụ thể, nhà thơ không thể truyền dẫn thông điệp nội dung, tư tưởng, tình cảm một cách trọn vẹn, ấn tượng đến người đọc.
- Thơ ca thuộc phương thức trữ tình, thiên về biểu hiện thế giới chủ quan của con người bằng nhiều cách thức khác nhau nhằm biểu đạt những trạng thái tư tưởng, tình cảm và ý nghĩa phức tạp, đa dạng. Mỗi tác phẩm đều mang một ý nghĩa tư tưởng, thông điệp nhất định đòi hỏi người đọc phải căn cứ vào hình, ý, tình mới cảm nhận được.
- Biểu hiện, yêu cầu về hình, ý, tình trong thơ:
+ Hình ảnh (có thể là hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống, con người...) những hình ảnh đó phải chọn lọc, đặc sắc, có sức khái quát, chân thực, đa nghĩa, nhằm để lại ấn tượng, dấu ấn sâu sắc.
+ Ý, tình (tư tưởng, cảm xúc, tình cảm..) phải trong sáng, tiến bộ, có tính nhân văn, hướng con người tới các giá trị Chân – Thiện – Mĩ...
+ Cảm xúc trong thơ phải mãnh liệt, chân thành, nhà thơ phải lựa chọn được những hình ảnh phù hợp để biểu đạt nội dung tư tưởng, cảm xúc một cách tự nhiên, sâu sắc có sức lay động lớn lao.
=> Tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng chỉ hay khi có sự kết hợp hài hòa giữa hình, ý, tình (nội dung và hình thức).
* Phân tích Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi để chứng minh:
- Hình ảnh thơ: giản dị, đời thường, có sức tạo hình, biểu cảm, giàu ý nghĩa.
+ Nhiều hình ảnh thiên nhiên được Nguyễn Trãi miêu tả, hiện lên đa dạng: cây hòe, cây thạch lựu, đóa sen hồng, tiếng cầm ve... với đủ mầu sắc, âm thanh và hương vị của cuộc sống.
+ Hình ảnh thiên nhiên luôn có sự vận động, giàu sức sống (thể hiện các động từ mạnh: đùn đùn, phun, tiễn,...).
+ Hình ảnh về con người và cuộc sống: Lao xao chợ cá làng ngư phủ.
=> Nguyễn Trãi đã dựng lên bức tranh ngày hè sinh động, ấn tượng, giàu sức sống rất gần gũi, quen thuộc của nhiều vùng quê.
- Ý, tình của tác giả (vẻ đẹp tâm hồn):
+ Tình yêu và sự gắn bó với thiên nhiên: cây hòe, cây thạch lựu, đóa sen hồng, tiếng cầm ve...đi vào thơ Nguyễn Trãi một cách chân thực, tự nhiên.
+ Hình ảnh thiên nhiên được tác giả cảm nhận tinh tế, đa dạng, sinh động bằng nhiều giác quan (thị giác, thính giác, khứu giác...)
=> Tình yêu thiên nhiên và tâm hồn tinh tế, nhạy cảm cùng nhiều cung bậc cảm xúc của nhà thơ.
+ Tình yêu đời, yêu cuộc sống: Phải sống một cuộc sống thanh nhàn (bất đắc dĩ) nhưng tâm hồn nhà thơ không u ám mà vẫn rất yêu và gắn bó thiên nhiên, cuộc sống.
+ Tấm lòng thiết tha với dân với nước: Nguyễn Trãi luôn hướng tới cuộc sống của nhân dân, thấu hiểu cuộc sống vất vả, tần tảo của họ. Vì thế ông mong ước có được chiếc đàn của vua Ngu Thuấn để gảy lên khúc Nam phong nhằm đem lại cuộc sống no đủ, hạnh phúc cho nhân dân: "Dân giàu đủ khắp đòi phương".
=> Tâm hồn, nhân cách cao đẹp của Nguyễn Trãi "thân nhàn" mà "tâm không nhàn", "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ".
- Ý nghĩa tư tưởng của bài thơ giàu tính nhân văn: Sống lạc quan, yêu đời, gắn bó với thiên nhiên, sống có trách nhiệm với nhân dân, đất nước.
* Phân tích bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du để chứng minh:
- Hình ảnh giàu sức khái quát:
+ "Hoa uyển"- vườn hoa nơi Tây Hồ xưa đẹp đẽ nay trở thành bãi hoang, gò hoang, theo thời gian và sự bể dâu của cuộc đời, cái đẹp đã biến đổi dữ dội đến tàn tạ.
+ "Son phấn", "văn chương": hình ảnh ẩn dụ chỉ sắc đẹp, tài năng của nàng Tiểu Thanh – người con gái có vẻ đẹp hoàn thiện, xứng đáng được hưởng một cuộc sống hạnh phúc nhưng lại bị thực tế phũ phàng vùi dập, phải chịu số phận bất hạnh, đau thương ("mảnh giấy tàn", "chôn vẫn hận", "đốt còn vương").
- Ý và tình của nhà thơ:
+ Tác giả thể hiện sự đồng cảm, xót thương cho cuộc đời, số phận của Tiểu Thanh – một con người tài sắc, bạc mệnh ("Thổn thức bên song mảnh giấy tàn"). Khóc thương cho Tiểu Thanh là khóc thương cho vẻ đẹp nhân sinh bị vùi dập.
+ Bày tỏ sự bất bình trước những bất công, ngang trái ở đời, tố cáo những thế lực tàn ác đã chà đạp lên quyền sống con người, đặc biệt là người phụ nữ.
+ Kí thác những nỗi niềm tâm sự qua việc tự nhận mình là người cùng hội cùng thuyền với Tiểu Thanh với những người tài hoa bất hạnh. Luôn trăn trở với "nỗi hồn kim cổ" tự vận vào mình mà không sao lí giải được ("Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi/Cái án phong lưu khách tự mang").
+ Gắn lòng thương người bao la với nỗi thương mình và mong muốn nhận được sự đồng cảm, tri âm của người đời. ("Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng").
=> Thể hiện tình cảm chân thành, mãnh liệt, mối đồng cảm giữa một hồn thơ với một tình thơ.
- Ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm: Thể hiện tư tưởng nhân đạo, nhân văn cao cả, sâu sắc:
+ Tình cảm nhân đạo không dừng lại ở phạm vi quốc gia mà lan tỏa ra ngoài biên giới. Phía sau lòng thương cảm con người là sự tự thương mình của một trái tim âm ỉ và trăn trở với nỗi đau thời thế.
+ Mong muốn về một xã hội tự do, công bằng, nhân ái, con người được đối xử bình đẳng (đặc biệt là người phụ nữ).
c) Đánh giá, bàn luận
- Chính hình, ý, tình làm nên sức sống cho các tác phẩm trên. Mỗi tác phẩm thành công là sự kết hợp hài hòa của nội dung và hình thức.
- Nhận định là bài học cho bản thân khi tiếp nhận văn chương và sự trân trọng với những tác phẩm văn học, tài năng sáng tạo và tình cảm mà người nghệ sĩ gửi gắm.
d) Mở rộng
Quan niệm thơ của Chế Lan Viên rất đúng đắn, sâu sắc, có ý nghĩa không chỉ với người sáng tác mà với cả người tiếp nhận. Từ thấy đến nghĩ đến rung động là hành trình hình thành của tác phẩm thơ và cũng là hành trình đánh thức người đọc của thi phẩm.
- Bởi vậy, trong sáng tạo nghệ thuật mỗi nhà thơ phải có thực tài, thực tâm mới làm nên sự sống cho tác phẩm.
- Độc giả cũng phải mở lòng mình để cảm nhận sâu cái hay, cái đẹp của thi phẩm trên cả hai phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
2.8.3.3 Kết bài
Khẳng định và đánh giá giá trị của ý kiến.
3 VĂN HỌC HIỆN ĐẠI 1930 – 19453.1 Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 19453.1.1 Khái niệm
- Hiện đại hóa trong văn học là quá trình làm cho văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức của văn học phương Tây, có thể hội nhập với nền văn học hiện đại trên thế giới.
- Từ khái niệm trên, ta thấy hiện đại hóa như là phát triển các phẩm chất của tính hiện đại. Phẩm chất ở đây đặt trong phạm vi văn học. Như vậy, sự phát triển là giã từ quan niệm văn học trung đại, phát triển ý thức cá nhân, tinh thần tự do sáng tạo, ý thức lí tính, ý thức về dân chủ văn minh, sự giao lưu thế giới, văn học tự chủ, coi trọng giá trị thẩm mĩ.
3.1.2 Nội dung của hiện đại hóa văn học
- Nội dung hiện đại hóa văn học diễn ra trên mọi mặt, ở mọi phương diện. Trước hết là sự thay đổi quan niệm về văn học: từ văn chương chở đạo, thơ nói chí của thời kì văn học trung đại chuyển sang quan niệm văn chương như một hoạt động nghệ thuật đi tìm và sáng tạo cái đẹp; từ văn chương để "răn đời" sang văn chương để "hiểu đời", để nhận thức, khám phá hiện thực.
+ Văn học thời kì hiện đại đã tách ra khỏi các hoạt động trước tác khác, không còn tình trạng "văn, sử, triết bất phân" như trước nữa. Cũng từ đây, văn học thoát ra khỏi những quan niệm thẩm mĩ và hệ thống thi pháp của văn học trung đại (tính quy phạm chặt chẽ, hệ thống ước lệ tượng trưng dày đặc, tính chất sùng cổ, phi ngã...).
+ Quá trình hiện đại hóa văn học còn được thể hiện ở sự biến đổi của các thể loại văn học (thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn) và xuất hiện những thề loại văn học mới (kịch nói, phóng sự, phê bình văn học). Quá trình hiện đai hóa cũng gắn liền với hiện đại hóa ngôn ngữ văn học và việc sử dụng chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm.
- Về mặt chủ thể sáng tạo, quá trình hiện đại hóa văn học cũng dẫn tới sự thay đổi kiểu nhà văn: từ các nhà Nho sang kiểu nhà văn nghệ sĩ mang tính chuyên nghiệp; thay đổi về công chúng văn học: từ các tầng lớp nho sĩ sang các tầng lớp thị dân. Tóm lại, hiện đại hóa đã dỉễn ra trên mọi mặt của hoạt động văn học, làm biến đổi toàn diện và sâu sắc diện mạo nền văn học Việt Nam.
- Hiện đại hóa không chỉ là vấn đề hình thức mà còn là vấn đề nội dung văn học. Xã hội Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 đã đặt ra biết bao vấn đề đất nước, về cuộc sống, con người và nghệ thuật mà ở những thời kì trước đó chưa từng có, đòi hỏi văn học thời kì mới phải đáp ứng. Thành ra hiện đại hóa trước hết là chuyện nội dung, bao gồm tư tưởng, tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm,...của nhà văn trước hiện thực đời sống, con người và nghệ thuật.
- Chính nội dung tư tưởng đã tạo ra những đặc điểm, những dấu ấn riêng, đã tạo ra sự khác biệt của văn học từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 so với văn học thời kì trung đại. Chẳng hạn, cũng nói về đất nước, các nhà thơ thời kì trung đại không thể không gắn nước với vua, vì chủ nghĩa trung quân đã trở thành tư tưởne chung của thời đại. Còn thời kì văn học này, đất nước gắn liền với nhân dân: "Dân là dân nước, nước là nước dân" (Phan Bội Châu).
- Khi nói đến con người, văn học thời kì trung đại chủ yếu chỉ nói tới con người xã hội, con người công dân vì tinh thần phi ngã, vô ngã đã thành đặc trưng trong quan niệm của con người thời đại đó. Còn ở thời kì mới này, các nhà văn không chỉ nói tới con người xã hội, con người cá nhân mà còn nói tới con người trên tinh thần giai cấp, con người tự nhiên, con người cá nhân, con người với đời sống tâm linh.
3.1.3 Sản phẩm của hiện đại hoá văn học
- Về hệ thống đề tài:
+ Đề tài kháng chiến.
+ Đề tài lao động;
+ Đề tài con người: người lính, người nông dân nghèo, người trí thức tiểu tư sản nghèo,...
+ Đề tài thiên nhiên;
+ Đề tài tình yêu.
- Về chủ đề văn học mới:
+ Tinh thần dân chủ.
+ Tình yêu quê hương, đất nước; vẻ đẹp hào hùng, bi tráng của người chí sĩ cách mạng.
+ Quyền được sống vui, sống đẹp, được hưởng hạnh phúc của con người.
- Về hệ thống thể loại văn học mới:
+ Tiểu thuyết: "Ngọn cỏ gió đùa ", "Cay đắng mùi đời ", "Cha con nghĩa năng'' (Hồ Biểu Chánh), "Số đỏ", "Vỡ đê" (Vũ Trọng Phụng), "Tắt đèn", "Lều chõng", "Việc làng" (Ngô Tất Tố), "Sống mòn" (Nam Cao), cùng một số tác giả như: Nguyên Hồng, Tố Tâm, Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Ngọc Phách,...
+ Truyện ngắn: Các truyện ngắn hiện đại cùa Phạm Duy Tốn, Nguyền Bá Học, truyện ngắn trào phúng pha chút hài hước của Nguyễn Công Hoan, các truyện "không có chuyện" với những trang viết tinh tế đậm chất thơ của Thạch Lam ("Gió đầu mùa", "Nắng trong vườn", "Sợi tóc",...) và một số tác giả khác như: Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, Tô Hoài, Kim Lân, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển,...
+ Phóng sự: đây là một thể văn báo chí có tính tư liệu bao gồm những cây bút đáng chú ý như: Vũ Trọng Phụng với "Cạm bẫy người" (1933), "Kĩ nghệ lấy Tây" (1934), "Cơm thầy cơm cô" (1936), "Tam Lang" (Ngô Tất Tố), Lê Văn Hiến,... trong đó Vũ Trọng Phụng được coi là "ông vua phóng sự Bắc kì "Bút kí, tuỳ bút: được xem là "quân chủng" cơ động gọn nhẹ trong đội quân văn học hiện đại. Những tên tuổi nổi tiếng trong thể loại này như: Nguyễn Tuân, "Hà Nội băm sáu phố phường" (Thạch Lam), "Trường ca" (Xuân Diệu), "Cuộc sống"(Nguyên Hồng),...
+ Tiểu luận: tiêu biểu là tác phẩm "Theo dòng" – 1941 (Thạch Lam),...
+ Kịch: "Ông Tây An Nam" (Nam Xương), "Kim tiền" (Vi Huyền Đắc), Vũ Như Tô" (Nguyễn Huy Tưởng),...
+ Văn chính luận: được viết ra với mục đích đấu tranh chính trị nhằm tấn công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện những nhiệm vụ cách mạng qua những chặng đường lịch sử. Một số tác phẩm lớn kết tinh và hội tụ tinh thần dân tộc như: "Bản án chế độ thực dân Pháp ", "Tuyên ngôn Độc lập" (Hồ Chí Minh).
+ Thơ mới:
Bước đầu đã có sự phôi thai, chuyển mình theo hứng mới, hòa cùng sự chuyển động của thời đại. Trong làng Thơ mới người ta đã bắt đầu sốt sắng thêm. Năm 1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội khuyến học Sài Gòn hết sức tán dương Thơ mới. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ nhất có một cuộc diễn thuyết được đông đảo người nghe quan tâm theo dõi.
Những thi sĩ có danh đã ra đời: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Tản Đà, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... Trong bốn năm, những thi sĩ tên tuổi của đương thời Thơ mới đã cho ra đời rất nhiều bài thơ có giá trị, mang đậm chất hiện đại của đương thời Thơ mới. Và những bài thơ ấy không trống không kèn đã bênh vực một cách vững vàng cho Thơ mới, đưa Thơ mới phát triển và giờ đây trở thành một viên ngọc quý trong tiến trình phát triển của Văn học Việt Nam.
3.1.4 Ngôn ngữ văn học mới
- Văn học vận động theo hướng dân tộc hoá, đại chúng hoá.. Trên cơ sở đó, ngôn ngữ văn học ngày càng có sức diễn tả phong phú hơn, phân tích diễn tả tinh vi từ ý nghĩ, tình cảm, cảm xúc đến những cảm giác mơ hồ nhất trong đời sống nội tâm của nhân vật. Các nhà tiểu thuyết hiện thực gắn tiểu thuyết với hiện thực lớn của cuộc sống nhân dân. Ngôn ngữ tiểu thuyết được chắt lọc từ ngôn ngữ đời sống, có tính bình dân, giàu chất sống thực tế và nâng lên đến trình độ nghệ thuật.
- Ngôn ngữ truyện ngắn có sức diễn tả phong phú. Nổi trội như Nam Cao rất thành công với ngôn ngữ độc thoại, độc thoại nội tâm, ngôn ngữ tự nhiên sinh động, gắn với lời ăn tiếng nói của quần chúng như trong truyện ngắn "Trăng sáng", "Đời thừa",... hay ngôn ngữ mang đậm không khí cô xưa trong truyện ngan " Vang bóng một thời " củạ Nguyễn Tuân.
- Ngôn ngữ thơ không còn cộc lốc, ngớ ngẩn mà trở nên linh động, hoạt bát, giàu sức sống, uyển chuyển, tinh tế, phòng phú về từ vựng và giàu sức gợi, góp phần làm giàu tiếng Việt. Ngôn ngữ sắc bén trong các áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Ái Quốc. Chữ Quốc ngữ được phổ biến rộng rãi trong các bài viết báo chí, dịch thuật,...
3.1.5 Ý thức phong cách mới
Quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc đã thực sự hoàn thành ở chặng đường 1900-1945. Lúc này ý thức phong cách của người nghệ sĩ được phát triển một cách đầy đủ. Nó được hiểu hiện ở cá tính sáng tạo của người cầm bút. Những tác phẩm như "Tình già" (Phan Khôi), "Mua áo" (Đông Hồ), "Trăng sáng", "Đời thừa" (Nam Cao) có thể được xem là tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Được giải phóng kỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ của văn học trung đại, mỗi nhà thơ bằng giác quan của chính mình như lần đầu tiên khám phá ra thế giới bằng chính ý thức phong cách bắt nguồn từ cảm hứng khẳng định con người cá nhân.
3.1.6 Ý thức phong cách mới được thể hiện qua một số nghệ sĩ
- Tác giả Nam Cao:
+ Trong truyện ngắn "Trăng sáng" (1943): "Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ảnh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thế là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than". Truyện ngán '"Đời thừa" (1943), là tác phẩm"thật giá trị" thì phải có nội dung nhân đạo sâu sắc: "Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng tình thương, tình bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn".
+ Nhà văn đòi hỏi cao sự tìm tòi sáng tạo và lương tâm người cầm bút: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đứa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có".
+ Văn chương đòi hỏi phải có lương tâm cửa người cầm bút: "Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là bất lương rồi, nhưng cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện ". Trong tác phẩm "Đôi mắt" (1948) Nam Cao đã nêu một quan điểm của mình: "vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản". Đặc biệt ông luôn quan tâm đến đời sống tinh thần – con người bên trong của con người.
- Tác giả Nguyễn Tuân:
+ Ông được xem là nhà văn tài hoa, nghệ sĩ có phong cách nghệ thuật rất độc đáo. Nguyễn Tuân quan niệm đã là văn thì trước hết phài có một phong cách độc đáo, viết không giống ai, từ chủ dề, nhân vật, kết cấu, đến cách đặt câu dùng từ....
+ Trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có chất tài hoa, tài tử. Chất tài hoa này được thể hiện rất rõ khi ông đề cao những con người tài hoa, những người biết trân trọng cái tài, cái đẹp. Nguyễn Tuân luôn tiếp cận cảnh vật, sự việc và con người ở phương diện thâm mĩ.
+ Tính uyên bác thể hiện trong văn của ông. Đọc văn của Nguyễn Tuân, người đọc luôn được cung cấp những tri thức phong phú về văn hoá trên những lĩnh vực: Văn học, nghệ thuật, lịch sử, địa lí, hội hoạ, điêu khắc, điện ảnh...
+ Nguyễn Tuân học theo "Chủ nghĩa xê dịch", ông luôn thèm khát những điều mới lạ. Ông không thích những gì bằng phẳng, nhợt nhạt, yên ổn. Ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt. Nguyễn Tuân có phong cách tự do, "ngông", phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Điều này đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
- Tác giả Hồ Chí Minh:
+ Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh là một phong cách vừa nhất quán, vừa đa dạng. Tính nhất quán thể hiện rõ nhất ở nguyên tắc sáng tác, ở lối viết giản dị ngắn gọn mà linh hoạt, biến hoá, ở khả năng kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, ở khuynh hướng vận động luôn hướng về ánh sáng, sư sống và tương lai của tư tưởng và hình tượng nghệ thuật.
+ Tính đa dạng phong phú được thể hiện ở bút pháp, nội dung, kết cấu, ngôn từ, thủ pháp nghệ thuật... Ngay trong cùng một đề tài. Thậm chí cùng một tác phẩm, tính đa dạng và phong phú cũng được thể hiện rõ nét. Những tác phẩm của Hồ Chí Minh có phong cách đa dạng và thống nhất, kết hợp sâu sắc và nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại.
+ Dù sáng tác bằng thể loại nào, tác phẩm của Người cũng đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững. Văn chính luận của Hồ Chí Minh biểu lộ tư duy sắc sảo giàu trí thức văn hoá, gắn lí luận với thực tiễn, vận dụng hiệu quả những phương thức biểu hiện. Trong truyện và kí, ngòi bút của Người luôn chủ động và sáng tạo, khi là lối kể chân thực tạo không khí gần gũi, có khi là giọng điệu châm biến sắc sảo thâm thuý và tinh tể. Chất trí tuệ và tính hiện đại là những nét đặc sắc trong truyện ngắn của Người. Thơ ca Hồ Chí Minh cũng có phong cách đa dạng. Những bài cổ thi hảm súc uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật, những bài thơ hiện đại được Người vận dụng qua những thể loại phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
3.2 Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 – 19453.2.1 Vài nét về chủ nghĩa lãng mạn
- Chủ nghĩa lãng mạn vừa là trào lưu văn học, vừa là phương pháp sáng tác, mang một nội dung lịch sử xã hội-cụ thể, được hình thành ở sau năm 1789. Chủ nghĩa lãng mạn chia làm hai khuynh hướng: lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực, nhưng giữa chúng vẫn có mối liên hệ qua lại khá phức tạp.
+ Lãng mạn tiêu cực hoặc đưa con người thỏa hiệp với thực tại hoặc tô vẻ thực tại, hoặc tách con người ra khỏi thực tại đi vào thế giới nội tâm với những ý tưởng về những bí ẩn thiên định về cuộc đời, về ái tình, về cái tôi. Ðặc điểm của xu hướng lãng mạn là chủ nghĩa bi quan, chủ nghĩa thần bí, thái độ đối địch với lý trí, sự thoát li thực tại và quay về quá khứ (trung cổ),... Xu hướng này gọi là lãng mạn tiêu cực (hay lãng mạn bảo thủ phản động). Vì nó chống lại mọi sự tiến bộ của xã hội, quay lưng lại phong trào đấu tranh của nhân dân.
+ Lãng mạn tích cực: tìm thấy vào những năm 1810 - 1830 ở Châu Âu lúc mâu thuận sâu sắc giữa giai cấp tư sản với chế độ phong kiến. Cách mạng tư sản nổ ra ở các nước Châu Âu là muốn giải phóng nhân dân khỏi ách phong kiến nhưng cuộc sống của nhân dân vẫn phải sống ách nô lệ và sự kiểm soát của một chế độ mới. Các nhà lãng mạn tích cực phủ nhận thực tại xã hội, những sáng tác của họ phù hợp với lợi ích của nhân dân.
- Phân biệt giữa chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực:
+ Chủ nghĩa hiện thực thì nghiêng về phản ánh, chủ nghĩa lãng mạn nghiêng về bộc lộ.
+ Chủ nghĩa hiện thực thì thấy thế nào miêu tả thế ấy bằng phương pháp điển hình hóa. Chủ nghĩa lãng mạn cảm và suy nghĩ thế nào viết thế ấy.
+ Chủ nghĩa hiện thực nghiêng về xu hướng hướng ngoại. Chủ nghĩa lãng mạn lại nghiêng về xu hướng hướng nội. Một bên xem cuộc sống là đối tượng khách thể để miêu tả,một bên lấy cái Tôi làm trung tâm để thể hiện
+ Ở Việt Nam văn xuôi 1930 - 1945 rất khó phân biệt giữa hiện thực và lãng mạn. Những truyện ngắn của Thạch Lam, Trần Tiêu, yếu tố hiện thực lại nổi lên rất rõ. Có người cho rằng truyện ngắn Nhà mẹ Lê còn hiện thực hơn Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan và Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Tóm lại tác phẩm văn chương ít nhiều có chứa đựng yếu tố hiện thực và lãng mạn.
3.2.2 Thơ mới
3.2.2.1 Khái lược về phong trào thơ mới
-Thơ mới là cách gọi sáng tác phi cổ điển, chịu ảnh hưởng các phép tắc tu từ, thanh vận của thơ hiện đại . Trở thành một hiện tượng trong khu vực các nước đồng văn châu Á, thơ mới ra đời, phát triển dựa trên yêu cầu cấp thiết hiện đại hóa thi ca truyền thống.
- Đầu , diễn ra cuộc vận động đổi mới mạnh mẽ với sự xuất hiện làn sóng thơ mới với cá tính sáng tác độc đáo. Cuộc vận động đề xướng sử dụng các thể loại thơ mới, không tuân theo lối vần luật, niêm luật của các thể loại thơ cổ. Cuộc canh tân này đi vào lịch sử tên gọi phong trào thơ mới (1930 – 1945).
- Khuynh hướng chung của thơ mới là khuynh hướng lãng mạn, là lý tưởng thẩm mỹ cái "tôi" của tác giả, thẩm mỹ hóa cái cuộc sống rối ren, tơi bời của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến và là tâm trạng buồn sầu, ưu uất, lạc lõng giữa vòng đời. Cảm hứng sáng tác gắn liền với ý thức cá nhân; thơ mới là thơ của cái "tôi", một cái "tôi" chưa bao giờ được biết đến trong thơ cổ điển. Cái "tôi" bấy giờ không làm việc "tải đạo" nữa mà vượt lên những công thức ước lệ, khuôn khổ định sẵn.
- Tính khuynh hướng của nghệ thuật lãng mạn rất đa dạng, có khi lãng mạn, mộng mơ, ai ca, thần bí, anh hùng, triết học, cũng có khi lãng mạn anh hùng, lãng mạn công dân hay lãng mạn xã hội,... Nhưng nét bao trùm chủ nghĩa lãng mạn là mộng mơ. Các nhà thơ muốn thoát khỏi những điều kiện ngột ngạt của xã hội bảo hộ thời thơ mới bằng cách tưởng tượng, trốn vào trong cái thế giới vô cùng lý tưởng ấy. Đối với chủ nghĩa lãng mạn, chỉ có cái gì khác thường, khác người, khác đời, và sự đối lập giữa mộng và thực là đáng kể. Trong hoàn cảnh mất nước, sống giữa cái xã hội hủ lậu, ngột ngạt ấy thì sự đối lập là dễ hiểu.
- Buồn, cô đơn là tâm trạng của một cá thể thi nhân nhưng lại là nét chung của các nhà thơ trong trường phái này. Đây không phải là một hiện tượng lạ mà do những nguyên nhân khách quan chung. Họ không biết phải làm gì, phải đi theo hướng nào giữa cái xã hội tan tác ấy. Họ cũng không chấp nhận được cuộc sống tầm thường, tẻ nhạt như mọi người xung quanh. Do đó, họ cảm thấy lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội.
- Trong thơ mới có nhiều rạo rực, âu lo, có nhiều khát vọng một cách vội vã, căng thẳng, chính cái mới này đã quyết định sự ra đời của thơ mới.
3.2.2.2 Cái hay của thơ mới
a) Sự khẳng định "cái tôi"
- Trước hết, thơ mới thể hiện "cái tôi" cá nhân một cách rõ rệt. "Cái tôi" trong thơ mới có cái tinh tươm, tinh tường của nó và cái lớn muốn hòa vào đại dương, muốn đẩy xa không ngừng cả lớp sóng của cả trường giang. "Cái tôi" khi vừa mới phát hiện ra, nó đã đem lại cho ta nhiều giá trị mới. Nó thể hiện sự cách tân của thơ vì cuộc đời và lẽ sống. "Cái tôi" trong thơ mới xuất hiện gắn liền với từng lớp thị dân, gắn với nền văn minh công nghiệp, đó vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền văn hoá mới. Các nhà thơ mới đều có ý thức khẳng định mình như một thực thể duy nhất không lặp lại.
- Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,... Đến phong trào thơ mới, "cái tôi" ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.
- Ý thức về "cái tôi" đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện. "Cái tôi" với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra "trình làng" (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu - "nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới" (Hoài Thanh) lên tiếng trước:
"Tôi là con chim đến từ núi lạ,
Ngứa cổ hót chơi"
(Lời thơ vào tập gởi hương)
hay:
"Tôi là con nai bị chiều đánh lưới,
Không biết đi đâu, đứng sầu bóng tối"
(Khi chiều giăng lưới)
Có khi đại từ nhân xưng "tôi" chuyển thành "anh":
"Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh.
Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!
(Tương tư chiều)
Thảng hoặc có khi lại là "ta":
"Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất.
Không có chi bè bạn nổi cùng ta"
(Hy Mã Lạp sơn)
- Thơ mới đề cao "cái tôi" như một sự cố gắng cuối cùng để khẳng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào "văn mạch dân tộc", mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
b) Nỗi buồn cô đơn
- Trong bài Về cái buồn trong thơ mới, Hoài Chân cho rằng "Đúng là thơ mới buồn, buồn nhiều", "Cái buồn của thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thấy lối ra".
- "Cái tôi" trong thơ mới trốn vào nhiều nẻo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình ảnh:
"Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô"
(Lưu Trọng Lư)
- Với Chế Lan Viên đó là Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời (dân Hời tức là dân Chàm):
"Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi"
Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn "Xao xác gà trưa gáy não nùng" còn Xuân Diệu lại thấy "Tiếng gà gáy buồn nghe như máu ứa". Về điều này, Hoài Chân cho rằng "Xuân Diệu phải là người buồn nhiều, đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: "Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối. Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm".
- Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.
- Lưu Trọng Lư đã "mỉm cười trong thú đau thương". Đồng thời, các nhà thơ mới quan niệm rằng cô đơn, buồn chính là cái đẹp. Huy Cận đã từng bảo rằng "Cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn". Những quan niệm ấy có lẽ được khởi nguồn từ phương Tây khi nhà thơ Mĩ Edgar Allan Poe đã từng nói: "Giọng điệu buồn là giọng điệu thích hợp với thơ ca". Rõ ràng, khi quan niệm như vậy thì việc thể hiện thế giới tự nhiên cũng đồng thời cho việc bộc bạch tâm trạng. Huy Cận đã phải thốt lên:
"Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển"
(Mai sau)
- Cả một thiên cổ sầu ngìn năm dồn chất vào trong một tâm hồn thơ. Hoài Thanh đã nhận xét trong Thi nhân Việt Nam rằng: "Các cụ nhà ta khi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thì có cảm giác tội lỗi". Nhưng xã hội đã đổi mới rồi, "Một xã hội mới hình thành thay thế cho xã hội truyền thống. Một ý thức hệ mới đang hình thành thay cho ý thức hệ cố hữu. Một con người mới - dầu chưa phải là đa số quốc dân đang muốn hướng cuộc sống theo ý của họ. Những con người "ở nhà Tây, đội mũ Tây, đi giày Tây, mặc áo Tây...".
- Các nhà Thơ mới say sưa viết về những mối tình dang dở. Họ quan niệm:
"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở
Đời mất vui khi đã vẹn câu thề"
(Ngập ngừng - Hồ Dzếnh)
Vũ Hoàng Chương như mất hết cả niềm đam mê, khi:
"Em ơi lửa tắt bình khô cạn
Đời vắng em rồi say với ai?"
(Đời vắng em rồi)
Hàn Mặc Tử cũng "hoá dại khờ":
"Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi hóa dại khờ"
(Những giọt lệ)
- Chủ nghĩa lãng mạn thường viết về những đề tài thiên nhiên và tình yêu, hay thiên nhiên và tình yêu là đề tài rất phù hợp với các nhà thơ. Bởi vậy, Hoài Thanh đã từng khen hai câu thơ hay nhất trong nền thơ ca viết về đề tài mùa thu của Bích Khê: "Tôi đã gặp trong Tinh huyết những câu thơ hay vào bậc nhất trong thơ Việt Nam:
"Ô hay buồn vương cây ngô đồng.
Vàng rơi! Vàng rơi: thu mênh mông".
- Thơ mới nói chung thường thích những cảnh "sông dài trời rộng", những cảnh gợi cho người ta cảm giác bâng khuâng, man mác, cô đơn... Các nhà thơ mới thích những đêm trăng lạnh, những buổi chiều tà mà tiêu biểu là Huy Cận với bài Tràng giang:
"Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
c) Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu
- Ngay từ khi ra đời, thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ. Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc, âm thanh, tràn trề sự sống.
+ Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính:
"Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy"
(Mưa xuân)
+ Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:
"Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao.
Có cu gáy và bướm vàng nữa chứ"
(Đi giữa đường thơm - Huy Cận)
+ Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:
"Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành"
(Thu (I))
Tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam. Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới.
+ "Ông hoàng của thơ tình" Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:
"Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì"
(Vì sao?)
+ Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan Viên cảm nhận thân phận bằng nỗi cô đơn sầu não:
"Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau"
(Xuân)
- Nói chung, thơ mới thể hiện nỗ lực sáng tạo hình thức thơ ca. Có thể nói trong thơ mới, có nhiều câu thơ rất mới lạ so với thơ ca truyền thống. Cái mới ấy được biểu hiện trong cách thể hiện của các nhà thơ chịu ảnh hưởng bởi Baudelaire và trường phái tượng trưng Pháp, với những câu thơ đầy tính "nổi loạn" như:
"Ô kìa! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe"
(Bẽn lẽn - Hàn Mặc Tử)
Và đây là những câu thơ hoàn toàn mới lạ của Xuân Diệu:
"Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh"
(Đây mùa thu tới)
d) Một số đặc sắc về nghệ thuật
Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.
- Về thể loại, ban đầu thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn, thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông đồ (Vũ Đình Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)... Các nhà thơ Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, T.T.Kh chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v...
- Cách hiệp vần trong thơ mới rất phong phú, ít sử dụng một vần (độc vận) mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo một trật tự nhất định:
"Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
Mây bay... gió quyến, mây bay
Tiếng vi vút như khoan như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may"
(Tiếng trúc tuyệt vời - Thế Lữ)
- Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho thơ mới một nhạc điệu riêng. Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:
"Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi"
(Xuân Diệu)
hay:
"Ô hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! Vàng rơi: Thu mênh mông"
(Bích Khê)
- Ngoài việc sử dụng âm nhạc, thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt:
"Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!"
(Xuân Diệu)
- Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ thơ mới diễn ra khá rầm rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của "thơ cũ", thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu sắc:
"Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều"
(Xuân Diệu)
hay:
"Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi"
(Anh Thơ)
- Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bằng màu sắc hội họa của thơ mới. Đây là bức tranh Mùa xuân chín được Hàn Mặc Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh:
"Trong làn nắng ửng, khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang"
Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và thơ mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị,... Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng yêu nước:
"Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"
- Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu có thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho thơ mới sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,...
Trong bài "Thơ mới - cuộc nổi loạn ngôn từ", Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ thống ngôn từ thơ mới: "Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại". Đó là sự giao thoa tiếng Việt với thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp đối với phong trào thơ mới không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối với thơ mới là một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp Đông -Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của thơ mới.
Tổng kết về thơ mới, Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam đã khẳng định: "Không lấy một người so sánh với một người, hãy lấy thời đại so sánh với thời đại. Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu". Thơ mới tạo lập và chứa đựng nhiều nỗi niềm, là một phong trào thơ, một nền thơ, các nhà Thơ mới có quan điểm thẩm mĩ, có những cách thể hiện riêng được định hình thông qua các nhà thơ tiêu biểu, từ đó chi phối cả nền thơ.
3.2.3 Truyện ngắn lãng mạn 1930 – 19453.2.3.1 Mục đích và quan niệm sáng tác
Các nhân vật, tình huống, hình ảnh được nhà văn sáng tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu biểu hiện lí tưởng và tình cảm mãnh liệt của chính mình.
- Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm những giá trị cao đẹp trong những cảnh đời tầm thường, tăm tối; khám phá cái cao cả trong những số phận bị ruồng bỏ, chà đạp.
+ Thạch Lam trong Hai đứa trẻ: xúc động và trân trọng nhựng khát vọng được đổi đời, được sống hạnh phúc hơn của những con người bé nhỏ bị lãng quên ở phố huyện nghèo xưa
+ Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù: tìm thấy sự tỏa sáng của nhân cách người tử tù nơi ngục thất tăm tối; sự vuơn lên cái đẹp, cái thiên lương của một ngục quan trong nhà tù của xã hội phong kiến xấu xa, suy tàn .
- Nhân vật của văn học lãng mạn hành động theo sự tưởng tượng của cá nhân nhà văn thể hiện lí tưởng của tác giả. Trong Hai đứa trẻ, Liên và An tuy còn nhỏ đã phải thay mẹ trông coi quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống, hằng đêm bán hang xong lại cố thức đón chuyến tàu đêm đi qua phố huyện. Con tàu với những toa sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường và tiếng còi rít lên rầm rộ như mang theo cả một thế giới khác đối với cái phố huyện tăm tồi, tĩnh lặng, như thắp lên trong tâm hồn ngây thơ của em một khát vọng dẫu mơ hồ nhưng cũng đáng trân trọng. Nhà văn qua đó thể hiện khát vọng của những con người bé nhỏ bị lãng quên trong xã hội cũ .
- Văn học lãng mạn tự do biểu hiện tình cảm của cái tôi cá nhân. Các nhà văn lãng mạn thường tuyệt đối hóa vai trò của cái tôi cá nhân đặt chúng cao hơn thực tế khách quan đời sống để thể hiện khát vọng, lí tưởng của mình. Chữ người tử tù thể hiện quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân (cái đẹp gắn với văn hóa dân tộc, gắn với cái thiện, có sức cảm hóa cái xấu , cái ác và cái đẹp bất tử với đời).
3.2.3.2 Văn học lãng mạn thường được viết ra bởi cảm hứng lãng mạn
- Nhà văn thường hướng đến cái phi thường, có tính biệt lệ. Xây dựng những hình tượng con ngưởi vượt lên thực tại của đời sống, của hoàn cảnh, hướng tới một cái gì đó tốt đẹp và thánh thiện hơn hiện thực. Có khi đó chỉ là những khát vọng còn mơ hồ nhưng cũng đủ để niềm tin của con người có điểm tựa.
Trong Hai đứa trẻ, khát vọng chờ chuyến tàu đêm qua phố huyện nghèo của Liên và An chính là được viết dưới cảm hứng lãng mạn, bay bổng ấy. Hai chị em Liên đợi tùa không xuất phát từ nhu cầu vật chất (thức chờ tàu bán thêm hang) mà chúng đợi tàu vì trong đêm dài chán chường của phố huyện thì chuyến tàu đêm đi qua là một niềm vui lớn. Chúng chờ tàu bởi nhu cầu tinh thần. Con tàu mang đến cho phố huyện một luồng ánh sáng rực rỡ và âm thanh sôi động, nó xua đi một thế giới tĩnh lặng của phố huyện nghèo. Con tàu không chỉ đem lại một thế giới khác hẳn với cuộc sống tăm tối đói nghèo của phố huyện mà cùng với con tàu, hai chị em Liên và An như trở về với quá khứ tươi đẹp. Con tàu chạy tới từ Hà Nội, chạy tới từ tuổi thơ đã mất, như ánh hồi quang để hai đứa trẻ thấy lại quá khứ, đánh thức dậy một miền kí ức tuổi thơ trong hai đứa trẻ đáng thương này. Con tàu mang trong nó bao kí ức tuổi thơ thiêng liêng, con tàu đẹp như một giấc mơ, cân bằng lại phầ nđời không mấy niềm vui, hạnh phúc của phố huyện nghèo. Vì thế khi tàu đến, Liên và An đứng cả dậy, khi con tàu đi rồi, cả hai cũng lặng theo mơ tưởng.
- Lãng mạn nhưng vẫn kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của văn xuôi lãng mạn.
+ Cảnh cho chữ hiện ra cụ thể, chi tiết: Thời gian: nửa đêm; không gian: trại giam Tịnh Sơn; sự việc: diễn ra cụ thể giữa ba nhân vật giữa ba nhân vật: Huấn Cao, viên quản ngục, thầy thơ lại.
+ Cảnh hiện thực mà lại lãng mạn, gợi liên tưởng đến sự bất tử của cái đẹp: Ngọn đuốc rừng rực trong bóng đêm là biểu trưng cho ánh sáng, tài năng, khí phách, thiên lương. Mùi thơm của chậu vẽ và màu trắng tinh của tấm lụa bạch là biểu tượng cho vẻ đẹp của những tấm lòng và tài năng đang thăng hoa vào cõi vĩnh hằng.
Trong những đặc điểm chung thuộc về thi pháp, hai tác giả vẫn có phong cách riêng. Sự kết hợp hiện thực và lãng mạn rất riêng của Thạch Lam thể hiện rất rõ nét trong Hai đứa trẻ. Đó là kiểu truyện ngắn trữ tình, dường như không có cốt truyện mà vẫn tràn đầy không khí và tâm trạng. Thạch Lam là thành viên của Tự lực văn đoàn nhưng có một gương mặt rất riêng so với các nhà văn khác trong Tự lực văn đoàn. Nếu các tác giả của Tự lực văn đoàn thường hướng ngòi bút của mình về những con người thuộc tầng lớp trung lưu (nôm na là cành vàng lá ngọc) thì Thạch Lam lại dành sự quan tâm đối với những con người nhỏ bé, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội. Văn của Tự lực văn đoàn thường hướng về cái buồn lãng mạn, còn văn của Thạch Lam lại chất chứa nỗi đau hiện thực. Có thể gọi văn Thạch Lam "như một thứ hương hoàng lan được chưng cất từ những nỗi đau đời". Đặt ông cạnh Tự lực văn đoàn, chất hiện thực nổi lên rõ nét từ những trang viết. Đặt ông cạnh văn học phê phán lại thấy xúc động trước những mảnh đời nghèo khổ được nhà văn khắc họa với những ấn tượng, cảm giấc rất sâu khiến truyện ngắn Thạch Lam chứa một nỗi buồn man mác.
Còn với bút pháp và cảm xúc lãng mạn, thì cảnh thiên nhiên phố huyện mang một vẻ đẹp trữ tình thơ mộng. Giọng văn của Thạch Lam cũng giàu cảm xúc "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru báo hiệu một đêm mùa hạ êm như nhung. Đom đóm trên những cánh đồng bay lập lòe và trên trời, hang ngàn ngôi sao đang tranh nhau lấp lánh. Hoa bang rụng khe khẽ, mùi đất cát bốc lên âm ẩm cũng chứa đựng một cái nhìn rất riêng của nó. Tất cả đều được nhìn qua con mắt Thạch Lam. Với cảm xúc và bút pháp hiện thực thì cuộc sống nơi phố huyện lại nghèo khổ, xơ xác, tiêu điều, tăm tối bởi ngày tàn, chợ tàn và những kiếp người tàn, đến cả đổ vật được nói đến cũng nát tàn. Một cái quán ọp ẹp, một cái chõng sắp gãy, một manh chiếu rách, một cái đàn run lên bần bật,... Tất cả làm đậm lên một cuộc sống cứ lụi đi, tàn đi. Giong văn của TL cũng buồn thấm thía. Chất lãng mạn kết hợp với chất hiện thực khiến truyện của Thạch Lam đẹp như một bài thơ trữ tình đượm buồn.
3.2.3.3 Văn học lãng mạn thường dung thủ pháp tương phản, đối lập, thích khoa trương, phóng đại, dung ngôn ngữ giàu sức gợi
- Cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù là đoạn văn giàu kịch tính, Nguyễn Tuân dùng thành công nghệ thuật đối lập, tương phản.
+ Đối lập, tương phản ở cảnh.
Về không gian: chơi chữ là thú chơi tao nhã, thường chơi ở các thư phòng, những nơi đài các, sang trọng >< cảnh phòng giam "tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột phân gián."
Về thời gian: cảnh cho chữ không được diễn ra công khai mà lại lén lút vào ban đêm khi lính canh đã ngủ, đêm cuối cùng của tử tù Huấn Cao.
Không gian và thời gian đều tăm tối >< ánh sáng.
Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu
Mùi trắng tinh của tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ
Mùi thơm của chậu mực bốc lên
Sự sáng tạo ra cái đẹp: cái đẹp của nghệ thuật, của tài năng, của dũng khí và nhân cách
+ Đối lập về nhân vật: có sự thay bậc đổi ngôi:
Huấn Cao là kể tử tù nhưng hiện lên với phong thái ung dung, đĩnh đạc, đầy uy quyền, tượng trưng cho cái đẹp và phẩm giá của con người: "một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa bạch trắng tinh". Huấn Cao đang viết những con chữ cuối cùng cho đời, không đi vào cõi chết mà lại vào cõi bất tử bởi cái tài, khí phách của ông được người đời tôn kính, giữ gìn bằng tất cả thiên lương.
Viên quản ngục là người uy quyền nhất giờ "khúm núm" nhặt những đồng tiền cho Huấn Cao viết chữ. Đây không phải lả sự sợ sệt, luồn cúi mà là sự ngưỡng mộ, tôn vinh những con chữ cuối cùng của Huấn Cao. Những nét chữ tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành một đời của con người. Những nét chữ đó kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp của con người mà ông hằng ngưỡng mộ. Người nghệ sĩ tài hoa có thể bị hãm hại nhưng cái đep phi thường vẫn bất tử khi ở đời vẫn có thiên lương. Ánh sáng bó đuốc phải chăng là ánh sáng thiên lương tử tù đang chiếu lên để lay tỉnh ngục quan? Chi tiết ngục quan khúm núm, vái tử tù trong nước mắt nghẹn ngào, là những chi tiết tương phản thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật mãn nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ tâm hồn. Cái vái lạy một nhân cách hiếm có, cùng với lời thề danh dự. Có thể sau khi Huấn Cao thụ án chém thì cũng là lúc viên cai ngục rũ áo từ quan về quê nhà giữ thiên lương cho lành vững bởi "con người chỉ xứng đáng được thưởng thức cái đẹp khi giữ được thiên lương."
Thầy thơ lại là người tự do giờ "run run" bưng chậu mực giúp Huấn Cao viết chữ. Ông run run vì xúc động, trân trọng giờ phút thiêng liêng xưa nay chưa từng có này. Những từ Hán Việt cổ kính được dung nhuần nhuyện phù hợp với không khí cảnh tượng cho chữ, vừa góp phần tạo nên sự thiêng hóa nhân vật theo bút pháp lãng mạn.
- Sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng trong Hai đứa trẻ:
+ Khi chiều muộn, ánh sáng còn nhưng yếu ớt. Khi màn đên buông xuống bóng tối cứ lan dần, lấn dần từng con đường nhỏ, từng ngõ xóm để rồi nhấn chìm phố huyện trong bong đêm. "Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà lại càng sẫm đen hơn nữa.". Ám ảnh nhất là khi bóng tối xuất hiện như bức tường dày, cản âm thanh khiến "trống cầm canh ở huyện đánh lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa rồi chìm ngay vào bóng tối." Ánh sáng của phố huyện lúc này chỉ còn là khe sáng từ nhà ai hắt ra, hột sáng của những ngọn đèn tù mù vặn nhỏ, chấm sáng từ những chiến đèn ghi cuối toa tàu. Tất cả đều quá nhỏ nhoi, yếu ớt trước vũ trụ thăm thẳm trong bóng tối.
+ Nếu ví tác phẩm của Thạch Lam như một bài thơ, lại là bài thơ hay thì hẳng phải có "thi nhãn" , tức con mắt thơ tỏa sáng cả thế giới nghệ thuật. Đâu là con mắt thơ trong tác phẩm Hai đứa trẻ?
Đó là ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần, là chi tiết nghệ thuật giầu ý nghĩa. Ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí, ngọn đèn con của chị Tí, vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ngọn đèn con tù mù leo lét ấy chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ đó vừa là hình ảnh thực nhưng đồng thời gợi sự liên tưởng tới những kiếp người nhỏ bé bị lãng quên đang sống lay lắt trong đêm trường xã hội cũ. Những cư dân phố huyện kiếm sống trong đêm, mỗi người cần đem theo một ngọn đèn và chính họ cũng như những ngọn đèn leo lét.
Đó là Hình ảnh những ngôi sao lấp lánh, cũng được miêu tả nhiều lần. Trời bắt đầu vào đêm "vòm trời hàng ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh". Càng về khuya, "qua kẽ lá của cây bang, ngàn sao vẫn lấp lánh". Và khi con tầu đi qua, tiếng vang động nhỏ dần, mất dần trong bóng tối thì "sao trên trời vẫn lấp lánh". Sự tương phản giữa ánh sap lấp lánh trên trời với ánh đèn tù mù dưới mặt đất đã làm vút lên một niềm tin và một chất thơ lãng mạn. Điều đó cần thiết biết bao trong hoàn cảnh con người đang phải sống lay lắt trong bóng tối, trong nghèo khổ, lam lũ, tẻ nhạt và bế tắc.
+ Tương phản quá khứ, hiện tại (của Liên ), nhờ đó bộc lộ được chủ đề tác phẩm:
Hiện tại nghèo khổ: " Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại, Liên trông thấy động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó."
Quá khứ vui vẻ: "Liên nhớ lại khi ở Hà Nội,chịđược hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi bờ hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, kỷ niệm nhớ lại không rõ rệt, chỉ là một vùng sáng rực và lấp lánh. Hà Nội nhiều đèn quá! Từ khi nhà Liên dọn về đây, từ khi có cái cửa hàng này, đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với cái tối của quang cảnh phố chung quanh".
3.3 Văn học hiện thực 1930 – 19453.3.1 Đặc trưng điển hình hóa của chủ nghĩa hiện thực phê phán
- Điển hình thể hiện trên hai bình diện: tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình.
+ Điển hình là hình tượng đặc sắc, độc đáo được sinh động, hấp dẫn, khái quát được những nét bản chất nhất, quan trọng nhất của con người và đời sống.
+ Tính cách điển hình là sự thống nhất hài hòa cao độ giữa tính riêng sắc nét và tính chung có ý nghĩa khái quát cao, là "người lạ mà quen" (Bêlinxki).
- Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh của nhân vật được tái hiện vào trong tác phẩm, phản ánh được bản chất hoặc một vài khía cạnh bản chất trong những tình thế xã hội với một quan hệ giai cấp nhất định.
- Hoàn cảnh điển hình của chủ nghĩa hiện thực phê phán chủ yếu là hoàn cảnh xấu, hoàn cảnh bóp chết hạnh phúc của con người, làm biến dạng con người. Tính cách của các nhân vật trong chủ nghĩa hiện thực phê phán là tính cách chống đối lại hoàn cảnh đó, hoặc vùng vẫy chống lại hoàn cảnh nhưng đều bị hoàn cảnh làm cho thất bại, chưa ai có thể thành công trong việc cải tạo hoàn cảnh mà thường bị hoàn cảnh chi phối, lấn át. Các tác phẩm Tắt đèn, Bước đường cùng, Bỉ vỏ, Giông tố, Số đỏ, Chí Phèo, Sống mòn đã tạo ra được các hoàn cảnh điển hình nổi bật, tạo điều kiện cho các tính cách phát triển.
3.3.2 Những thành tựu nổi bật của văn học hiện thực 1930 – 19453.3.2.1 Thành tựu về nội dung
- Chủ nghĩa hiện thực phát triển trong khoảng mười lăm năm nhưng đã xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao... Tác phẩm của họ là những bức tranh đậm nét về đời sống xã hội đem lại giá trị nhận thức cao cho người đọc. Khi nhắc đến những tác phẩm: Bước đường cùng, Tắt đèn, Bỉ vỏ, Số đỏ, Chí Phèo... Nguyễn Khải đánh giá là những tác phẩm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học. Bức tranh xã hội lúc đó ảm đạm, nhiều bi kịch, nhiều tệ nạn xã hội, làng quê xơ xác, tiêu điều, người nông dân bị đẩy đến đường cùng để rồi liều lĩnh, biến chất, trở thành nạn nhân của xã hội. Ở thành thị, các phong trào do thực dân đề xướng như: "Âu hoá", "Vui vẻ trẻ trung", thi thể thao, cải cách y phục.... ngày càng lộ rõ chân tướng và tạo ra nhiều nghịch cảnh. Dòng văn học hiện thực phê phán đã phanh phui, bóc trần bộ mặt xã hội đó.
- Các nhà văn hiện thực, lớp trí thức mới vốn xuất thân từ tầng lớp trung lưu, thậm chí trong những gia đình nghèo, vất vả kiếm sống. Vì thế mà họ gần gũi, thấu hiểu và đứng về phía người lao động để miêu tả qua những trang viết.
- Về quan hệ giữa văn học và cuộc sống, Nam Cao đã có những luận điểm sâu sắc. Trong tác phẩm "Trăng sáng" nhân vật Điền đã đi từ quan điểm nghệ thuật lãng mạn đến quan điểm nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực: "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Còn trong "Đời thừa", qua nhân vật Hộ, Nam Cao khẳng định thiên chức nhà văn. Hộ hiểu rất rõ trách nhiệm của người cầm bút, Hộ có lương tâm nghề nghiệp nhưng vì miếng cơm manh áo mà anh phải đi ngược lại nhưng sau đó anh tự cảm thấy tủi nhục vì phải sống đời thừa.
3.3.2.2 Thành tựu nghệ thuật
- Văn học hiện thực 1930 – 1945 đã tạo dựng được những chân dung nhân vật có tầm khái quát cao, lại rất chân thực và sinh động, vừa mang ý nghĩa xã hội vừa có giá trị thẩm mĩ độc đáo, đó là nhân vật điển hình.
- Bên cạnh những thành công trong việc xây dựng điển hình sắc nét, văn học hiện thực phê phán còn đạt đến chiều sâu phân tích tâm lí nhân vật. Các nhà văn tiêu biểu như Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân...
- Nhà văn đạt tới thành công hơn cả ở nét nghệ thuật này là Nam Cao. Nhân vật trong truyện của ông có chiều sâu tâm trạng, có dòng tâm lí, có đối thoại nội tâm. Nhiều tác phẩm có cấu trúc tâm lí độc đáo như "Sống mòn", "Đời thừa", "Chí Phèo".
- Nhìn chung, các nhà văn hiện thực trong giai đoạn này đã hiểu rõ thiên chức của mình. Họ chủ động trên những trang viết, có vốn sống phong phú. Kiến thức rộng để có thể tạo được hiệu quả nghệ thuật cao nhất.
3.3.2.3 Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945
- Cảm hứng trào phúng được xem là chủ đạo trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, cảm hứng chủ đạo trong các sáng tác hai nhà văn này cũng có nét khác nhau.
+ Với Nguyễn Công Hoan, cảm hứng ấy là sự phê phán kịch liệt xã hội thực dân phong kiến đương thời với những sản phẩm thối nát của nó. Đồng thời là thái độ bênh vực những người nghèo khổ. Qua những truyện ngắn trào phúng của mình tác giả làm nổi bật thực trạng xã hội Việt Nam trước cách mạng xây dựng trên sự bóc lột của người giàu đối với người nghèo, phơi bày tất cả sự giả dối, những mâu thuẫn trớ trêu, nghịch cảnh phi đạo lí. Tiếng cười trào phúng đã đánh trúng vào bọn thực dân tư, tư sản và bọn nhà giàu ở thành thị, bọn cường hào ác bá ở nông thôn, bọn quan lại ở các phủ huyện. Ông đặc biệt căm ghét bọn quan lại ôm chân đế quốc để kiếm ăn trên lưng những kẻ nghèo hèn. Những truyện ngắn trào phúng có tính đả kích sâu cay của Nguyễn Công Hoan như: "Đồng hào có ma", "Tinh thần thể dục".
+ Dưới con mắt của nhà văn trào phúng bậc thầy Vũ Trọng Phụng, cuộc đời như một tấn bi hài kịch. Ở tiểu thuyết "Số đỏ", nghệ thuật trào phúng đã chứng tỏ ở Vũ Trọng Phụng một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một tài năng nghệ thuật độc đáo. Cảm hứng ấy chính là lòng căm thù mãnh liệt đối với bọn thực dân, quan lại, địa chủ, tư sản... những loại người đểu giả và lố lăng. Mặt khác, còn là niềm say mê khám phá các thói tật, các mặt xấu, những cái vô nghĩa lý đáng cười ở con người. Với tài nghệ bậc thầy Vũ Trọng Phụng đã làm bùng lên trên sân khấu đại hài kịch "Số đỏ" tiếng cười mỉa mai, hài hước, khi châm biếm, đả kích, khi căm phẫn hằn học cái xã hội bẩn thỉu, giả dối, vô luân. Có thể nói lòng căm thù chính là sức mạnh nghệ thuật của tài năng văn chương ở nhà văn mệnh yểu này.
+ Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 cùng với cảm hứng trào phúng còn có cảm hứng bi kịch cũng được xem là cảm hứng chủ đạo. Cảm hứng ấy thấm nhuần trong các sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao. Trong "Tắt đèn", nhà văn không chỉ quan tâm tới nỗi khổ lớn của người nông dân về mặt vật chất mà còn đặc biệt quan tâm tới nỗi khổ về tinh thần của họ.
Cảm hứng bi kịch thấm đẫm trong từng trang viết của nhà văn. Ngòi bút nhân đạo của Ngô Tất Tố tập trung thể hiện tấn bi kịch tâm hồn với những tình cảm phong phú, sâu sắc của chị Dậu, người phụ nữ giàu lòng vị tha, yêu chồng, thương con hết mực bị đẩy vào hoàn cảnh éo le. Để có tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi hoàn cảnh cùm trói chị đã dứt ruột bán đứa con mình. Không có nỗi đau nào lớn hơn như thế nhưng chị đã không thể làm khác. Cảm hứng bi kịch khiến Ngô Tất Tố đã xoáy sâu vào cảnh bán con...Chính lúc này chị Dậu mới phát hiện ra ở đứa con của mình đức tính mà lúc thường chưa bộc lộ hết. Còn cái Tí càng thương cha, càng quyến luyến lũ em, nó càng nhận ra tình thế không sao tránh khỏi bị đem bán của mình. Ban đầu nó van xin, khóc lóc rồi khi hiểu ra nó cắn răng chịu đựng, chấp nhận để mẹ bán cho nhà Nghị Quế. Tác giả đã sử dụng thủ pháp kéo căng thời gian nghệ thuật để làm dậy lên những tình cảm xót thương trong lòng người đọc.
Viết văn bằng sự tỉnh táo của lí trí và sự yêu thương tha thiết của trái tim, cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của Nam Cao là niềm khát khao đến cháy bỏng làm sao để con người được sống xứng đáng với hai chữ CON NGƯỜI. Đó là được sống lương thiện, được phát huy khả năng của loài người chứa đựng trong mỗi con người. Mong muốn này đã dẫn đến nỗi đau khôn nguôi trước tình trạng con người bị xúc phạm về nhân phẩm, bị huỷ hoại về nhân tính, bị bóp chết những ước mơ, bị đẩy vào tình trạng sống mòn, không lối thoát. Từ khát vọng về một cuộc sống có ý nghĩa mà dưới cái nhìn của Nam Cao nhân loại đang lâm vào tình trạng huỷ hoại về nhân tính, chết ngay khi đang sống. Cảm hứng chủ đạo này đã chi phối cả thế giới nhân vật trong sáng tác của nhà văn.
- Cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực 1930 – 1945 khá đa dạng. Trong sáng tác của mỗi nhà văn hiện thực, cảm hứng chủ đạo cũng có những tính chất, đặc điểm khác nhau. Tất cả đều hướng đến tập trung thể hiện bản chất thối nát, tính chất vô nhân đạo của xã hội Việt Nam trước cách mạng, thái độ phê phán xã hội dẫn tới yêu cầu khách quan phải thay đổi. Điều này cho thấy mặt tích cực, tiến bộ của trào lưu văn học này.
3.3.3 Biểu hiện cụ thể của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 19453.3.3.1 Bối cảnh xã hội Việt Nam giai đoạn 1930-1945
- Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt (Mâu thuẫn giữa thực dân phong kiến. Mâu thuẫn giữa phong kiến với tư sản. Mâu thuẫn giữa tư sản với thực dân.)
- Thực dân Pháp tăng cường bóc lột nhân dân, đàn áp cách mạng, đặc biệt từ sau năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đẩy mạnh đấu tranh giai cấp.
- Năm 1940, Nhật nhảy vào Đông Dương. Hai tên đế quốc Pháp – Nhật cùng ra sức vơ vét thóc gạo, thực phẩm, nguyên liệu dẫn đến nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945.
- Đời sống nhân dân ngày càng kiệt quệ:
+ Ở nông thôn: dân cày bị đày đọa bởi đủ thứ " tai trời , ách đất". Cảnh đói khát, bán vợ đợ con diễn ra thê thảm.
Cô thầy tham gia nhóm tải tài liệu miễn phí nhé
Quét mã Zalo nhận thêm các tài liệu:
+ Ở thành thị: công nhân viên chức bị sa thải, dân nghèo tăng nhanh về số lượng, sống cầu bơ cầu bất.
Hiện thực cuộc sống tối tăm trong những năm đau thương trước Cách mạng đã tác động đến các nhà văn. Các nhà văn cho ra đời các tác phẩm văn học vừa có giá trị hiện thực vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.
3.3.3.2 Những biểu hiện cụ thể
a) Giá trị nhân đạo trong tác phẩm "Chí Phèo"(Nam Cao)
- Trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã dành cho người nông dân mà ông từng gắn bó sâu nặng những tình cảm nhân đạo rất sâu sắc và rộng lớn.
+ Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở đây trước hết được biểu hiện ở chỗ đã khám phá ra nỗi khổ bị đày đọa, lăng nhục, bị cự tuyệt quyền làm người của người lao động lương thiện. Nam Cao bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đó.
+ Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo Nam Cao cất lên tiếng kêu cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương thiện: làm thế nào để cho con người được sống một cuộc sống xứng đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy; hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi nhân tính, hãy làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn.
- Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm "Chí Phèo" còn thể hiện qua thái độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi kịch đau thương cho người lao động (bọn thống trị độc ác; nhà tù thực dân; những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).
- Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của Nam Cao ở đây còn được thể hiện ở thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp của người nông dân. Cao hơn nữa, nhà văn còn khám phá ra phẩm chất lương thiện của họ ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u mê, cằn cỗi.
- Những vẻ đẹp ở Chí Phèo
+ Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện: Khoẻ mạnh về thể xác (anh canh điền khoẻ mạnh). Lành mạnh về tâm hồn:
+ "Một thằng hiền như đất".
+ Giàu lòng tự trọng, biết "không thích cái gì người ta khinh"; biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và cảm giác nhục dục thấp hèn. Những lần "bà ba, cái con quỷ cái" bắt hắn làm những việc không chính đáng "hắn thấy nhục, chứ yêu đương gì".
+ Hắn đã từng mơ ước rất bình dị: "Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", nuôi một con lợn để làm vốn liếng. "Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm".
+ Khi đã bị nhà tù và xã hội thực dân phong kiến biến Chí thành "con quỷ dữ làng Vũ Đại", nhưng dưới đáy sâu tâm hồn hắn vẫn lấp lánh ánh sáng nhân phẩm.
++ Khát khao tình yêu hạnh phúc lứa đôi: biết yêu thương, biết "say sưa", "rưng rưng" và "bẽn lẽn" nhận ra hương vị cháo hành "Trời ơi mới thơm làm sao!". Đó là hương vị của tình người, của tình yêu chân thành, của hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng. Chí Phèo muốn được sống với Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?". Và khi bị "cắt đứt mối tình", Chí biết tiếc, biết buồn, biết khóc và uất ức, giận dữ.
++ Khát khao được làm người lương thiện. Chí Phèo "muốn được làm người lương thiện"! "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao!". "Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng... của những người lương thiện". Điều đó đã có lúc khiến cho Chí Phèo hồi hộp hi vọng.
+ Có tinh thần phản kháng: Khi bị thị Nở cự tuyệt và nhận ra mọi nẻo đường trở lại xã hội loài người bị chặn đứng, Chí Phèo đã đến thẳng nhà Bá Kiến, vung lưỡi dao căm hờn lên giết chết Bá Kiến- kẻ thù khủng khiếp đã cướp cả nhân hình lẫn nhân tính của Chí để đòi quyền làm người lương thiện của mình. Sau đó, Chí Phèo đã tự sát vì tuyệt vọng, vì Chí không muốn sống tăm tối, tủi nhục như kiếp sống thú vật nữa.
Dựng lên một hình tượng người nông dân bị tha hoá, "một con quỷ dữ của làng Vũ Đại", Nam Cao không hề có ý bôi nhọ người nông dân, trái lại đã dõng dạc khẳng định nhân phẩm của họ, trong khi họ đã bị rách nát cả hình hài lẫn tâm hồn. Điều đó chứng tỏ con mắt nhân đạo của Nam Cao rất sâu sắc, mới mẻ và "tinh đời".
Những vẻ đẹp ở nhân vật Thị Nở
- Tư tưởng nhân đạo độc đáo và mới mẻ của Nam Cao trong tác phẩm Chí Phèo còn được biểu hiện ở việc phát hiện ra vẻ đẹp của nhân vật Thị Nở.
+ Dưới ngòi bút của Nam Cao, Thị Nở đã trở thành người phụ nữ rát giàu tình thương. Đằng sau cái bề ngoài xấu xí và tính khí "dở hơi" còn ẩn chứa một trái tim nhân hậu. Khi Chí Phèo bị ốm, Thị Nở đã chăm sóc tận tình... Với bàn tay dịu dàng, ấm nóng nhân tình của người phụ nữ, Thị đã mang đến cho Chí một bát cháo hành còn "bốc khói". Chính bát cháo hành ấm nóng tình người ấy đá đánh thức dậy nhân tính ở Chí Phèo.
+ Cũng như những người phụ nữ khác, Thị Nở rất khát khao tình yêu và hạnh phúc. Cuộc gặp gỡ của hai kẻ khốn khổ đã tạo nên sự đồng cảm và Thị Nở đã yêu Chí Phèo, ước ao được chung sống với Chí. Tình yêu đã làm cho người đàn bà "xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn" ấy biến đổi một cách kì diệu: "Trông Thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên". Phát hiện ra điều đó chứng tỏ cái nhìn nhân đạo của Nam Cao có chiều sâu hiếm có.
b) Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" (Thạch Lam)
- Giá trị nhân đạo thể hiện ở tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống ở phố huyện nghèo:
+ Ông xót xa trước cảnh nghèo đói của những con người nơi đây:
Những "đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ", "chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì đó có thể dùng được của các người bán hàng để lại".
Thương mẹ con chị Tí, ngày mò cua bắt tép; tối đến mới dọn hàng nước dưới gốc cây bàng. Cuộc sống của chị vất vả, mòn mỏi, quẩn quanh, leo lét như ngọn đèn của chị, ánh sáng chỉ đủ toả ra một vùng nhỏ mà thôi.
Thương bà cụ Thi xuất hiện với tiếng cười khanh khách, với dáng điệu đi lảo đảo, động tác uống rượu thì khác lạ "Cụ ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch".
Thương bác phở Siêu bán phở gánh. Thu nhập quá ít ỏi vì phở là món quà xa xỉ phẩm, hàng của bác thật ế ẩm.
Thương gia đình bác xẩm. Cuộc sống gia đình bác lay lắt như ngọn đèn trước gió. Gia tài của bác là chiếc đàn bầu và chiếc thau để xin tiền. Cuộc sống của bác bấp bênh. Cái đói, cái chết luôn kề cận.
Thương chị em Liên. Cuộc sống của chị em Liên cũng chẳng khá hơn cuộc sống của mọi người. Cửa hàng tạp hoá của chị em Liên "nhỏ xíu". Hàng hoá thì lèo tèo mà khách hàng là những người nghèo khó.
Ông cảm thương cho cuộc sống quẩn quanh, tẻ nhạt, tù túng của những con người nơi phố huyện nghèo.
- Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự phát hiện của Thạch Lam về những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo nơi phố huyện.
+ Họ là những người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nước dẫu chẳng bán được là bao. Hai chị em Liên thay mẹ trông coi gian hàng tạp hoá. Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,...
+ Họ là những người giàu lòng thương yêu. Liên thương những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ người ta bỏ lại lúc chợ tàn.
- Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự trân trọng của nhà văn trước những ước mơ của người dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
+ Ông trân trọng những hoài niệm, mơ ước của chị em Liên: Hai chị em mong ước được thấy ánh sáng của đoàn tàu, nhớ về quá khứ tươi đẹp khi gia đình còn sống ở Hà Nội. Đoàn tàu như đem đến cho hai chị em Liên "một chút thế giới khác".
+ Ông muốn thức tỉnh những con người ở phố huyện nghèo, hướng họ tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Tóm lại, các nhà văn hiện thực đã hướng ngòi bút về phía " những tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp lầm than", tấu lên bản nhạc buồn về cuộc đời của bao người bị áp bức, đồng thời khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất không gì có thể làm mất đi ở chính những con người đau khổ ấy. Đó chính là chiều sâu nhân đạo của các tác phẩm văn chương chân chính.
Các tác phẩm văn học hiện thực phê phán 1930 -1945 có giá trị nhân đạo lớn lao, góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền văn học dân tộc.
3.4 Luyện tập3.4.1 Đề 1
Quan niệm về thời gian và tuổi trẻ của Xuân Diệu trong " Vội vàng".
3.4.1.1 Mở bài
- Giới thiệu bài thơ "Vội Vàng"
- Quan niệm về thời gian và tuổi trẻ của Xuân Diệu
3.4.1.2 Thân bài
a) Quan niệm về thời gian
- Thời gian là tuyến tính một đi không trở lại:
+ Quan niệm về thời gian của Xuân Diệu là của một nhà thơ mới, khác với quan niệm thời gian của thơ cũ (quan niệm thời gian tuần hoàn, gắn cá thể với vũ trụ làm một, chỉ khi chết, hòa vào vũ trụ thì con người mới thực sự được sống).
+ Ông cho rằng thời gian của tuổi trẻ là quan trọng nhất nhưng rồi nó cũng sẽ trôi qua, ông thấu hiểu được quy luật nghiệt ngã của cuộc sông nên cảm thấy tiếc, thấy xót xa. Nên bởi vậy mà ông gửi đến triết lí: sống phải biết tận hưởng, biết quý trọng những giờ phút quý giá của tuổi trẻ để không phải ân hận xót xa, sông vội vàng, hối hả chạy đua với thời gian bởi thời gian tuổi trẻ một đi không trở lại. Từ thấu hiểu quy luật của thời gian, mà ông thấy lo lắng, tiếc, xót xa. Để từ đó có ý thức quý trọng từng khoảnh khắc, sống một cách nhiệt tình nhất để không lãng phí quãng thời gian đẹp nhất cuộc đời mỗi người là tuổi trẻ.
b) Quan điểm về tuổi trẻ mới mẻ mang triết lý nhân sinh sâu sắc
- Ông lấy tuồi trẻ làm thước đo thời gian:
+ Tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc đời mình (sinh mệnh cá thể) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi trẻ để làm thước đo. Tuổi trẻ một đi không trở lại "chẳng hai lần thắm lại" thì làm chi có sự tuần hoàn.
- Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể.
+ Thời gian được cảm nhận mới mẻ khi được miêu tả có mùi vị (từ cái vô hình thành cái hữu hình).
+ Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ đến "khắp sông núi" mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai.
3.4.1.3 Kết bài
- Bài thơ cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong cảm xúc biểu hiện. Một quan niệm nhản sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi trẻ. Cái tôi cá nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sông trong tình vêu – đó là những ý tưởng rất đẹp, vẻ đẹp của một hồn thơ lãng mạn – Vội vàng không nghĩa là sống gấp như ai đó đã nói.
- Vội vàng là một kiệt tác xuất sắc của VH hiện đại , thể hiện quan điển nhân sinh mới mẻ, sâu sắc, tiến bộ của Xuân Diệu: Phát hiện ra một thiên đường ngay trên mặt đất, từ đó tìm ra quy luật của thời gia và tuổi trẻ để đề xuất ra tâm thế sống vội vàng
- Quan điểm về thời gian và tuổi trẻ rất mới lại, đầy táo bạo, vừa mang tính triết lý, đối lập lại vừa có sự hài hòa.
3.4.2 Đề 2
Trong truyện ngắn Trăng sáng, Nam Cao viết:
"Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than..." và ở truyện ngắn Đời thừa ông cho rằng một tác phẩm có giá trị phải "chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình...Nó làm cho người gần người hơn".
Còn Vũ Trọng Phụng, khi đáp lời báo Ngày nay của Tự Lực văn đoàn, đã nói: "Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời".
Anh, chị hãy bình luận những ý kiến nêu trên.
3.4.2.1 Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
3.4.2.2 Thân bài
a) Giải thích
- Cuộc sống là một vườn hoa đầy màu sắc. Như những con ong cần mẫn đi tìm mật cho đời, nhà văn không chỉ đem đến cho người đọc một nội dung có tính thông điệp mà còn mong muốn tác phẩm của mình có sức mạnh làm rung động hàng triệu tâm hồn. Muốn thế phải làm cho người ta tin, mà chỉ tin được nhờ ở sự chân thực. Đó là lí do đơn giản để Nam Cao cho rằng nghệ thuật "không cần" và "không nên là ánh trăng lừa dối". Ánh trăng cao xa, huyền ảo và thơ mộng thật nhưng làm sao nó có thể lại là sự phản quang của cuộc đời chủ yếu là đói, rét, bệnh tật và bất công? Có người cho rằng cái đẹp là những gì ở bên trên cuộc sống và tác phẩm nghệ thuật chỉ là vẻ đẹp kì diệu của thế giới siêu thoát, thanh cao, là mở đầu và tận cùng của tất cả. Tác phẩm như vậy làm sao có thể rung động được tâm hồn người đọc; bởi lẽ cuộc sống siêu thoát ấy đâu có phải là cuộc sống của họ. Là một nhà văn hiện thực phê phán sống gần tầng lớp cùng đinh, Nam Cao hiểu sâu sắc thế nào là hiện thực đời sống, hiện thực của những ngày thuế thúc, trống dồn, những kiếp người méo mó, tội nghiệp, những cuộc sống mốc, mòn, mục, gỉ ra. Dù anh viết về ai, viết về cái gì thì cũng không nên, không thể quay lưng lại, lẩn tránh cái thực tế đau khổ và lầm than.
- Có bắt rễ vào hiện thực đời sống mà phải là sống thật, văn học mới bền vững và tồn tại được. M.Gorki cho rằng: "Người tạo nên tác phẩm là tác giả nhưng người quyết định số phận của tác phẩm lại là độc giả". Người đọc chỉ ủng hộ và tạo nên số phận tốt đẹp cho những tác phẩm chân chính một khi những tác phẩm ấy đề cập đến hiện thực đời sống đích thực là của họ. Bởi thế Vũ Trọng Phụng mới cho rằng tiểu thuyết là "sự thực ở đời" đến một tác phẩm có sức mạnh còn tuỳ thuộc vào một điều kiện hết sức quan trọng nữa, ấy là khả năng chiếm lĩnh cuộc sống một cách sâu xa của nhà văn. Chỉ có thể tạo nên giá trị của tác phẩm, một khi nghệ sĩ phải sống hết mình, biết nghĩ suy và trăn trở với những nỗi đau của thân phận con người, biết khơi lên từ cuộc sống những vấn đề mà nhiều người không nhìn thấy, biết góp phần kiến giải những hiện tượng xã hội,...bằng toàn bộ vốn liếng tri thức, tình cảm, niềm tin và dũng khí của mình, như A. Muytxê nói: Hãy đập vào tim anh, thiên tài là ở đó. Lênin nói, đại ý: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn-đó là con đường biện chứng của sự nhận thức hiện thực.
b) Bình luận, chứng minh
- Văn học góp bàn tay nhân ái của mình để góp phần cải tạo con người, cải tạo xã hội, một khi nó chứa đựng cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi.
+ Hiện thực trong văn học phải là muối của biển. Nó phải được gạn lọc từ hiện thực xô bồ của đời sống xã hội với biết bao hiện tượng đan cài, chồng chéo nhau giữa bao cái có nghĩa và vô nghĩa, tất yếu và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng. Nhà văn phải biết chọn lọc những cái gì tinh tuý nhất, cốt lõi nhất, cái thần của sự vật, mang tính khái quát và điển hình cao độ, để từ những phát hiện cụ thể ấy, người đọc thấy được những nét bản chất của đời sống, để có thể rút ra được những bài học về triết lí, đạo đức và nhân sinh. Văn học không sao chép thụ động những mảng tủn mủn, nhỏ nhặt của đời sống. Ngược lại, nhìn vào tác phẩm, ta thấy được bản chất cuộc đời ở một điểm sáng hội tụ, nó tiêu biểu và chân thực hơn cả trạng thái tự nhiên và hoàn tàon có thật ở cuộc sống ngoài đời. Người đọc thấy rõ đâu là mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thông qua những xung đột văn học trong tác phẩm. Và đó chính là thước đo giá trị và sự trường tồn của tác phẩm văn chương.
+ Bằng nghệ thuật của mình, văn học lắng đọng đến tận nơi sâu kín, tiềm ẩn trong con người. Những giọt nước mắt khóc thương cho cuộc đời đau khổ, cho mỗi số phận bị biến dạng,...sẽ làm cho tâm hồn người dân trong sạch hơn lên, tư tưởng và tâm hồn được nâng cao lên về chất, để có thể vượt qua những nhỏ nhặt, tầm thường của cái vị kỉ, để hoà nhập được với cuộc sống tâm hồn của đồn loại, đồng cảm với họ, cùng chiến đấu cho sự hoàn thiện của con người, làm cho người gần người hơn. Đó chính là chức năng nhân đạo hoá con người của tác phẩm nghệ thuật.
+ Đương nhiên văn học không chỉ nói đến những cái gì mạnh mẽ, lớn lao; không chỉ nói đến lạc quan, chiến thắng. Nó không né tránh việc biểu hiện những mất mát, hi sinh, những bi kịch của đời sống, sự đê tiện,ngu dốt và phản bội của con người trên tư cách công dân cũng như trong cuộc sống riêng tư: trong lao động và đấu tranh, trong quan hệ bạn bè, vợ chồng, trong tình yêu,...Trong quá trình biểu hiện như thế, nhà văn thông qua tác phẩm của mình, đấu tranh cho sự công bình, kêu gọi tình thương và lòng bác ái,...Chính những điều đó tạo nên giá trị của tác phẩm.
- Sáng tác của Nam Cao chứng tỏ khả năng lĩnh hội cuộc sống của nhà văn.
+ Ông không chỉ thấy cuộc sống đương thời là đói rét, là bệnh tật, mà còn thấy được thảm trạng sự tha hoá của con người, những cuộc đời bị méo mó, xiêu vẹo, biến dạng và cả những cuộc sống "sống mòn" hay chết mòn thì cũng chẳng khác gì nhau cả. từ cuộc đời của một Chí Phèo, một Thị Nở khái quát lên thành cả một "hiện tượng Chí Phèo", Nam Cao không chỉ nói lên nỗi đau đớn về thể xác của người nông dân, mà từ đây khơi lên lòng căm phẫn đối với những bất công và những thế lực gây tội ác, kêu gọi mọi người hãy đấu tranh để góp phần giữ lấy những tia sáng lương tri còn le lói, còn chưa tắt hẳn trong cuốc sống tinh thần của kiếp người bị tha hoá, để giữ cho con người không bị biến thành thú vật, để con người đúng là Người với ý nghĩa cao đẹp của nó.
+ Đương nhiên văn học có tính độc lập tương đối của nó. Hiện thực trong văn học và hiện thực ngoài cuộc đời không phải là hai bàn tay úp kít vào nhau mà đan cài vào nhau. Ở đây mọi sự đơn giản hoá và mô hình hoá, mọi sự áp đặt, mệnh lệnh, khiên cưỡng "đeo chân cho vừa giày" đều là những điểm nên tránh. Chúng ta phản bác những lập luận và sáng tác của những trường phái siêu thực, hiện sinh, cũng đồng thời phê phán cách biểu hiện của những tác phẩm cứ tưởng như được viết bằng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa nhưng thực chất không biểu hiện được cuộc sống, chỉ biết ca tụng một chiều, giấu giếm nỗi đau; những tác phẩm đã không nói được thực trạng của hiện thực đương thời, càng không thể có chức năng dự báo.
c) Đánh giá
- Ai-ma-tôp cho rằng: chân lí trong nghệ thuật không chỉ là sự phơi bày những thiếu sót và khó khăn, những mặt tốt của cuộc sống chúng ta; mà quan trọng hơn, tác phẩm nghệ thuật phải có khả năng thôi thúc con người suy tư sâu sắc, bắt con người phải xúc động tận đáy lòng.
- Văn học làm cho con người nhận rõ diện mạo của mình hơn, vạch rõ đâu là tốt, xấu, đâu là cao cả, thấp hèn, thấy hết để có thể tự điều chỉnh: "Hãy nhìn xem ngay tại đây, ngay tại chỗ này những gì mà con người còn chưa nhận ra vì một lí do nào đó" (Lời giới thiệu Đoạn đầu đài của Ai-ma-tôp).
d) Mở rộng
- Về phía người sáng tác.
- Về phía người tiếp nhận.
3.4.2.2 Kết bài
Nhiệm vụ của văn học, của những người sáng tạo ra tác phẩm thật nặng nề. Cuộc sống đang ngổn ngang, bề bộn và có nhiều điều khiển ta nhức nhối, trăn trở. Bởi vậy, chúng ta cần biết bao những tác phẩm văn học đích thực, những chính phẩm, góp tiếng nói cải tạo cuộc sống.
3.4.3 Đề bài 3
Có ý kiến cho rằng "Truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người". Hãy phân tích hai truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam và "Chí Phèo" của Nam Cao để làm sáng tỏ ý kiến trên.
3.4.3.1 Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
3.4.3.2 Thân bài
a) Giải thích
- Mỗi loại hình văn nghệ ra đời đều có những tác động riêng đến với con người. Mĩ thuật tạo ra cái đẹp từ những nét vẽ, mảng mầu, âm nhạc đem đến cái hay từ tiếng hát, lời ca. Kiến trúc, ấy gây ấn tượng bởi những thiết kế đến tinh vi... còn văn chương hay cụ thể hơn chính là chuyện đã "có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn". Điều đó khẳng định, chuyện phản ánh được hiện thực thời đại với những vấn đề nổi cộm, bức thiết nhất trên một phạm vi rộng. Không chỉ vậy, "chuyện còn đi sâu vào những mảnh đời cụ thể".
- Truyện phản ánh hiện thực nhưng thường không hời hợt, phó quát một cách chung chung, mà luôn hướng đến những mảnh đời, những số phận cụ thể để phản ánh hiện thực. Và ở chuyện còn mang một đặc trưng mà ít tìm thấy ở các thể loại khác, đó là hướng đến, "có những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người". Truyện thường đi sâu vào thế giới nội tâm để cảm nhận được hết mọi diễn biến trong tình cảm và nhận thức của con người, từ đó khái quát nên giá trị của tác phẩm và khẳng định tài năng của nhà văn. Như vậy, quan niệm về truyện của ý kiến trên đã nêu lên được vai trò cũng như yêu cầu quan trọng với nội dung truyện ngắn. Truyện ngắn là một thể loại ngắn gọn, dung lượng nhỏ nhưng chứa đựng một nội dung sâu rộng. Vì thế nhà văn cần biết nắm bắt, lựa chọn, phản ánh những vấn đề bản chất tiêu biểu, nhưng phải mang tính rộng lớn, phổ cập của hiện thực thông qua những số phận cụ thể, thậm chí cần đào sâu vào nội tâm để biến những trang văn thành trang đời.
- "Truyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người". Quan niệm trên hoàn toàn chính xác, bởi nó đã dựa trên cơ sở lý luận của truyện ngắn nói riêng và văn học nói chung. Chuyện thường hướng tới khắc họa một hiện tượng đời sống, một khoảnh khắc nhân sinh, hay một lát cắt hiện thực. Do vậy, chuyện thường có ít nhân vật để nhà văn đi sâu vào khám phá cụ thể. Kết cấu của truyện thường không phức tạp, có chuyện diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế và xoay quanh một tình huống có tính chất chủ đạo. Bởi vậy, tác giả có cơ hội đi sâu vào đời sống nội tâm con người để khám phá. Hơn nữa truyện chứa nhiều những chi tiết cô đúc, lối hành văn mang nhiều ẩn ý cũng góp phần giúp nó biểu thị được tâm lý con người. Truyện ngắn gọn, cô đọng nhưng thể loại truyện có những phẩm chất thẩm mỹ đặc trưng, tập trung vào khoảnh khắc mà ý nghĩa cuộc sống đậm đà nhất, ngắn gọn, hàm xúc mà có khả năng khái quát cao về hiện thực. Phản ánh được bê sâu của đời sống đề sâu tư tưởng và tấm lòng của nhà văn về sâu, về tài năng của người nghệ sĩ ngôn từ. Không chỉ vậy, quan niệm về chuyện trên còn dựa trên từ thiên chức văn học. Dù có những đặc trưng riêng nhưng chuyện vẫn phải hướng đến sứ mệnh của văn học, phản ánh hiện thực nói được những vấn đề nhức nhối của con người, trân trọng những mơ ước, khát vọng, trân trọng vẻ đẹp nội tâm ẩn sâu trong tâm hồn họ. Có thể nói, truyện ngắn "Hai Đứa Trẻ" của Thạch Lam và "Chí Phèo" của Nam Cao chính là hai tác phẩm thể hiện rõ cho đặc trưng của truyện, cũng như minh chứng cho quan niệm trên.
b) Bình luận, chứng minh
- Bàn về văn học Standal đã viết "văn học là tấm gương đời sống xã hội". Đúng như vậy! Một tác phẩm văn học chân chính luôn bắt nguồn từ hiện thực đời sống con người. Hiểu được quy luật đó, nên mặc dù là nhà văn lãng mạn hay hiện thực thì Thạch Lam và Nam Cao cùng đề cao yếu tố này trong quá trình sáng tác. Đến với truyện ngắn "Hai Đứa Trẻ" của Thạch Lam ta đã bắt gặp hình ảnh của một phố huyện, một miền đất, miền đời bị quên lãng. Trên cái nền khổ đau, nghèo đói lần lượt hiện ra những kiếp người sống lay lắt, mòn mỏi đến đáng sợ. Đó là chị Tý với gánh hàng nước, đó là bác siêu với những bát phở ế hàng, đó là bác Xẩm với tiếng đàn run lên bần bật, hay đó là chị em Liên với gian hàng ế khách... Kiếp sống của họ diễn ra đều đều, họ chỉ tồn tại chứ không phải là sống, họ như bị bắt sống chứ không phải tự nguyện để sống. Cuộc sống của họ như một màn kịch không có sự thay đổi, người thay đổi cảnh, ngày nào họ cũng hiện ra buồn bã, thiếu sức sống và lặp lại y nguyên hành động ngày hôm trước. Sống trong cái "ao đời phẳng lặng", đó đã có biết bao mơ ước, bao suy nghĩ bị dìm chết, con người dần dần cũng bị chai sạn, vô cảm dẫn đến lãng quên mịt mù trước cuộc đời.
Hãy đến với "Chí Phèo: của nhà văn Nam Cao, nhà văn phản ánh toàn diện bộ mặt ăn thịt người của xã hội thực dân, với những mối quan hệ trong làng Vũ Đại. Xã hội đó đã đẩy những người lao động chân chất, vào con đường lưu manh hóa dẫn đến bi kịch đau đớn, bị cự tuyệt quyền làm người. Đầu tiên là các mối quan hệ phức tạp ở cái đất "quần Ngư tranh thực". đứng đầu là cụ Bá Kiến, sau đó là bọn cường hào ác bá và cuối cùng là người dân nghèo khổ ấy, người dân bị những mối quan hệ chi phối. Khi cần lũ cường hào, Ác bá liên kết với nhau, áp bức trong làng, nhưng lúc không cần đến nhau thì "ngấm ngầm cho nhau ăn bàn". Đó là nguyên nhân dẫn đến nỗi khó khăn, nhọc nhằn của dân làng. Hơn nữa cậy quyền, cậy thế bọn người có thế lực tiêu biểu là cụ Bá Kiến đã đẩy người nông dân vào con đường lưu manh tha hóa mà tiêu biểu là Chí Phèo. Sinh ra vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên trong sự chăm sóc của dân làng Vũ Đại, Chí trở thành một người hiền lành và có lòng tự trọng cao. Nhưng chỉ vì một cơn ghen vô cớ, Chí Phèo đã bị bá kiến để vào tù. Sau 7, 8 năm ra tù, hắn dần dần là một kẻ lưu manh, một thằng răng đá, một con vật lạ, con quỷ dữ mà ai cũng xa lánh. Gặp Thị Nở khao khát hoàn lương nhưng cuối cùng bị từ chối hắn đau đớn, tự vẫn. Hiện thực cuộc sống trong Chí Phèo được Nam Cao phản ánh rất rõ, hình ảnh làng Vũ Đại chính là hình ảnh thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Đọc Chí Phèo, ta như được trở về với xã hội với số phận của những con người thời đó vậy.
- Chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, nhưng do hạn chế về dung lượng nên chuyện thường "đi sâu vào những mảnh đời cụ thể". Điều đó vừa giúp tư tưởng, chủ đề được sáng rõ, vừa thể hiện tấm lòng của nhà văn đối với con người. Đến với "hai đứa trẻ", Thạch Lam đã đi sâu khám phá cuộc sống con người, mà tiêu biểu là liên một đứa trẻ nghèo. Khi còn nhỏ Liên sống ở Hà Nội, dù không phải giàu có nhưng cũng được sung sướng "được đi chơi bờ Hồ, uống những cốc nước xanh đỏ". Đó là những kí ức đẹp đẽ của Liên mà cô không thể nào quên được. Nhưng do thầy mất việc Liên phải về một Phố huyện nghèo nàn để sinh sống. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc cuộc sống tuổi thơ sung sướng của Liên giờ đã chấm dứt. Cái nghèo đã cướp đi niềm vui và quyền lợi của một đứa trẻ như Liên. Cuộc sống cơm áo gạo tiền đã trói buộc tiên vào với những hàng tre, từ sáng sớm tới đêm khuya. Liên sống mòn mỏi, trông chờ, đợi đến một bát phở trong phố huyện nghèo cũng không dám mơ ước. Nhưng bên cạnh đó, Liên cũng là một đứa trẻ biết yêu thương, cảm động đối với cuộc sống của người khác, mặc dù mình chẳng khá giả gì. Tuy không được miêu tả nhiều như Liên nhưng những mảnh đời như chị tí, bác siêu, bác xẩm, Cụ Phi... cũng góp phần thể hiện được con mắt yêu thương của Thạch Lam.
- Còn đến với Chí Phèo của Nam Cao, những mảnh đời mà ông chú ý đến nhiều chính là người nông dân, với một cuộc sống nghèo khổ đến tận cùng. Nhưng ông khác đặc biệt ở chỗ, ông không đi quá sâu vào cuộc sống ấy, mà ông đi sâu vào quá trình tha hóa của Chí Phèo, là một ví dụ điển hình. Sinh ra bị bỏ rơi ở trước lò gạch cũ, được anh thả ống lươn nhặt về nuôi dưỡng. Chí lớn lên vì được dân làng Vũ Đại nuôi nấng. Tuy tuổi thơ bất hạnh, nhưng chí phèo không xấu xa mà còn rất chăm chỉ, hiền lành và giàu lòng tự trọng. Chỉ vì cơn ghen vô lý bác Kiến, đã đẩy Chí Phèo vào tù. Với sự nhào mặn của nhà tù, Chí Phèo trông khác hẳn. Bề ngoài nhìn như thằng rặng đá "cái đầu trọc lóc, cái răng cao trắng hơn, cái mặt đen mà rất cong cong...". Không chỉ thay đổi về nhân hình mà chí còn bị nhuộm đen về nhân tính. Hắn chìm trong những cơn say, từ đây hắn đã làm biết bao tội ác với những con người đã nuôi nấng hắn. Chí cứ vậy cho đến khi gặp Thị Nở. Thị đã dẫn Chí về với cuộc sống, nhưng do định kiến từ chối Chí Phèo tuyệt vọng giết chết kẻ thù của cuộc đời mình và cũng tự kết liễu đời mình. Cuộc đời của Chí Phèo là một mảnh đời cụ thể, nhưng đã bao quát được con đường mà những mảnh đời khác thường đi phải như Binh Chức, Năm Thọ... đó chính là cái Quý cái hay mà chỉ có thể loại truyện đó được.
- Mang trong mình những đặc trưng riêng nên chuyện còn có khả năng đi sâu vào "diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người". Đến với truyện ngắn, yếu tố này rất được chú trọng bởi "thước đo tài năng người nghệ sĩ chính là khả năng miêu tả tâm lí nhân vật". Đọc "hai đứa trẻ" của Thạch Lam. Người đọc dễ dàng nhận ra tâm trạng của nhân vật liên được tác giả chú trọng miêu tả rất chi tiết và tinh tế. Tâm trạng đó được biểu hiện trước hết ở cảnh ngày tàn. Trước những cảnh sác đất trời thay đổi, liên có tâm trạng buồn man mác "rồi mắt chị bóng tối ngập đày dần". Dường như Liên cảm nhận được cuộc sống đang chậm lại với những chuyển biến tinh tế của tạo hóa. Khi nhìn về con người, Liên động lòng thương những đứa trẻ con nhà nghèo, tuy sợ nhưng vẫn thấy tội cho Cụ Phi và biết chia sẻ với chị tí. Màn đêm buông xuống với sự chiến thắng của bóng tối, Liên dường như lại thấy buồn thấm thía. Thấy đứa những đứa trẻ con khác vui chơi liên thèm thuồng, Nhớ về ngày xưa. Từ chỗ buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn, giờ đây là những quan sát đợi chờ hoài niệm, nuối tiếc và khát khao nhưng đã hoàn toàn bị tàn lụi. Hiện tại và quá khứ như những đợt sóng vỗ vào tâm hồn, để rồi buồn hơn da giết hơn. Để an ủi mình Liên chỉ còn cách nhìn lên bầu trời với ông thần nông, con vịt trời, giải ngân hà... với thế giới cổ tích nhiệm mầu. Khi đoàn tàu đêm về, cũng là lúc tâm trạng của Liên được bộc lộ rõ nhất. Liên háo hức đợi chờ đoàn tàu như đợi chờ Phút Giao thừa thiêng liêng. Khi nhìn đoàn tàu, Liên không trả lời câu hỏi của em trong tâm hồn cô còn xúc động vẫn chưa lắng xuống "Liên lặng lẽ mơ tưởng Hà Nội xa xăm Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo". Những câu chữ gieo vui như nốt nhạc. Có thể trong phút giây ấy khát vọng đổi đời đã được đánh thức trong một tâm hồn còn vô tư ngây thơ "tàu đã đem đến một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên khác hẳn với ánh sáng ngọn đèn chỉ Tí và ánh lửa bác siêu". Dù biết Tàu hôm nay không đông, nhưng không sao miễn là họ ở Hà Nội về. Và khi tàu đi Liên vẫn còn đứng nhìn, "thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ".
- Nếu như "Hai đứa trẻ" là tâm trạng của Liên trước một thời khắc ngắn ngủi, thì chí phèo diễn ra rất rõ tâm trạng của Chí Phèo khi đã được Thị Nở dẫn về cuộc đời. Sau cái đêm say rượu, Ăn nằm với Thị Nở. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Chí Phèo giường như khác hẳn. Hắn cảm nhận được mọi diễn biến, mọi sắc thái bên ngoài cái túp lều ẩm thấp của hắn. Hắn nghe được tiếng chim hót, nghe được tiếng Anh thuyển chài đuổi cá trên sông, tiếng người đi chợ bán vải về. Hắn nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai. Hắn dường như đang sợ rượu, sợ chính mình và sợ tương lai của mình. Chí Phèo nghĩ đến cái đói, cái rét rồi ốm đau, nhưng còn đáng sợ hơn điều đó chính là cô độc. Và trong cơn suy nghĩ ấy thì chị nở chạy sang với liều thuốc giải cảm và giải rượu, bát cháo hành. Chí cảm động đến rưng rưng nước mắt và ăn cháo hành. Hắn nghĩ chắc những ai đã ăn mới biết cháo hành ngon. Đối với hắn, bát cháo hành đó còn là hương vị tình thương dẫn hắn về với quãng đời lương thiện. Hắn lại trở về với ước mơ ngày xưa, có một gia đình nho nhỏ "chồng cuốc mướn cày thuê vợ dệt vải". Chao ôi! đọc xong ta mới hiểu Chí Phèo tâm tình biết bao. Nhưng khi bị Thị Nở từ chối, lúc đầu không hiểu nhưng sau hắn nhận ra, Chí Phèo ôm mặt khóc rưng rức. Chí Phèo hiểu được bi kịch của cuộc đời mình. Hắn như cứ ngửi thấy hương cháo hành thoang thoảng, hắn tìm đến rượu mong quên đi mọi thứ, nhưng càng uống, càng tỉnh, càng tỉnh càng đau đớn, tuyệt vọng. Chỉ định tìm đến giết chết "con đĩ nở" và con "khọm già" nhà nó nhưng bước chân lại đưa chí đến nhà Bá Kiến. Chí Phèo rút dao giết lão Bá Kiến và cũng kết liễu luôn đời mình. Chính chân lý đã đưa Chí Phèo hiểu ra được cuộc đời mình, nên tuy Chí Phèo có chết cũng là minh chứng cho sự trở về với lương thiện, không muốn làm kiếp thú vật.
c) Đánh giá
Hai nhà văn, với hai phong cách và xu hướng khác nhau, nhưng Thạch Lam và Nam Cao đều thể hiện được những đặc trưng của truyện qua các sáng tác của mình. Quan niệm chuyện có khả năng phản ánh hiện thực rộng lớn, đi sâu vào những mảnh đời cụ thể và cả những diễn biến sâu xa trong tâm hồn con người, không chỉ nêu lên đặc trưng của truyện, mà còn đặt ra yêu cầu đối với người sáng tác và Tiếp nhận văn chương. Đối với người cầm bút, phải không ngừng mài dũa tài năng khổ luyện trong lao động chữ nghĩa, gắn bó sâu sắc với cuộc đời và con người. Đối với độc giả, để có thể tiếp nhận, khám phá được bề sâu của tác phẩm, độc giả phải sống hết mình với tác phẩm. Tích cực đồng sáng tạo cùng với nhà văn.
d) Mở rộng
- Về phái người sáng tác
- Về phía người tiếp nhận
3.4.3.3 Kết bài
Thanh Thảo đã từng cho rằng "văn chương giúp ta trải nghiệm cuộc sống ở những tầng và chiều sâu đáng kinh ngạc". Văn chương nói chung và thể loại truyện nói riêng của thật đã làm được điều đó. Bởi vì, nó đã phản ánh hiện thực đi sâu vào mảnh đời cụ thể và cả những chuyển biến sâu xa trong tâm hồn con người, từ đó thể hiện tấm lòng cao cả của mỗi nhà văn. Chính vì vậy nên "Hai đứa trẻ", của Thạch Lam và "Chí Phèo" của Nam Cao xứng đáng là hai truyện ngắn đặc sắc, sống mãi với thời gian, đến với bạn đọc cả hôm nay và mai sau.
3.4.4 Đề bài 4
Nhà phê bình văn học Nga Biêlinxki định nghĩa: điển hình nghệ thuật như là "một người lạ mặt quen biết".
Anh (chị) hiểu điều đó như thế nào? Bằng một số điển hình văn học trong các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 - 1945, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
3.4.4.1 Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vấn đề cần nghị luận
3.4.4.2 Thân bài
a) Giải thích vấn đề
- Ý nghĩa câu nói: Định nghĩa của Biêlinxki thực chất nêu lên nét chung và nét riêng, tính phổ quát và tính cá biệt của điển hình nói chung và điển hình văn học nói riêng.
+ "Người lạ mặt": là nét riêng ,nét cá biệt, nét độc đáo mà nhìn vào đó ta có thể phân biệt đươc với nhân vật khác- đó là "con người này"(Hêghen).
+ "Người lạ mặt" nhưng "quen biết" là do những nét chung, nét phổ quát của điển hình nghệ thuật. Điểm chung đó giúp ta nhận ra một loại người, một tầng lớp, một giai cấp, một dân tộc với những đặc điểm, phẩm chất đặc trưng.
b) Bình luận
- Điển hình nghệ thuật là hình ảnh chủ quan của hiện thực khách quan. Bước vào tác phẩm, hiện thực ấy mang đậm dấu ấn sáng tạo, qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Như vậy, do yêu cầu của tính riêng về phong cách cá nhân, mỗi điển hình nghệ thuật phải thể hiện được nét độc đáo, mới mẻ,từ nội dung đến hình thức, để phân biệt với hình tượng khác.
- Sự sáng tạo của người nghệ sĩ vô cùng quan trọng, song hình tượng nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo không phải chỉ để cho riêng mình, mà còn là để nói hộ người khác. Do đó, điển hình nghệ thuật bao giờcũng phải mang tính khái quát cao, nó phải phản ánh được đặc điểm, tâm lí, tính cách, tư tưởng và nguyện vọng của một tầng lớp xã hội, một giai cấp hay một loại người nào đó. Điển hình nghệ thuật là người "quen biết", khi mỗi người đều có thể thấy hình bóng mình trong đó.
- Điển hình nghệ thuật phải hài hoà giữa tính chung và tính riêng, cụ thể và khái quát, cá biệt và phổ quát. Nếu chỉ chú ý tính chung thì hình tượng mất đi tính sinh động, cụ thể, thủ tiêu cá tính sáng tạo của nhà văn, xoá nhoà phong cách riêng độc đáo của nhà văn. Ngược lại, nếu chỉ chú ý tính riêng thì hình tượng sẽ trở nên xa lạ, tính phổ quát sẽ mất, hình tượng sẽ thiếu sức truyền cảm, không tạo được sự đồng điệu, đồng cảm với bạn đọc.
c) Phân tích một số điển hình văn học để làm sáng tỏ vấn đề
Học sinh có thể chọn lựa phân tích một số điển hình văn học trong và ngoài nhà trường với các hình tượng thực sự là điển hình, có tính cá biệt nhưng cũng mang tầm khái quát cao. (Ví dụ: Chí Phèo, Bá Kiến ("Chí Phèo"- Nam Cao), Xuân Tóc Đỏ ("Số đỏ"-Vũ Trọng Phụng),..
d) Mở rộng
- Về phía người sáng tác
- Về phía người tiếp nhận
3.4.4.3 Kết bài
Đánh giá ý kiến
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip