tam ly tri lieu

TÂM LÝ TRỊ LIỆU LÀ GÌ? - ĐI TÌM MỘT ĐỊNH NGHĨA

BS NGUYỄN MINH TIẾN

Tâm lý trị liệu (psychotherapy) là một hệ thống các kỹ thuật được thực hiện nhằm cải thiện sức khỏe tinh thần, cải thiện các vấn đề cảm xúc và hành vi của các cá nhân – những người được gọi là “thân chủ”. Những vấn đề này thường khiến cho con người cảm thấy khó khăn trong việc tự quản lý cuộc sống và đạt đến các mục đích mong muốn của mình. Tâm lý trị liệu nhắm đến giải quyết các vấn đề này, thông qua một số những phương pháp và kỹ thuật khác nhau; và chúng được thực hiện bởi những người gọi là “nhà trị liệu” (những chuyên viên được đào tạo về tâm lý trị liệu).

Các cuộc trị liệu thường bao gồm một (hoặc vài) nhà trị liệu và một (hoặc nhiều) thân chủ. Họ gặp nhau để bàn bạc, trao đổi, phát hiện ra những vấn đề gì mà thân chủ đang gặp phải và tìm kiếm cách thức nào để giải quyết chúng. Do những đề tài được bàn bạc trong các buổi trị liệu thường có tính chất nhạy cảm, nhà trị liệu phải có trách nhiệm (thường được pháp luật qui định) tôn trọng tính riêng tư và sự bảo mật cho thân chủ của mình.

Tâm lý trị liệu là phương pháp chữa trị các vấn đề tâm lý chủ yếu bằng phương pháp sử dụng lời nói hoặc các công cụ giao tiếp khác giữa nhà trị liệu và thân chủ. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, những người làm tâm lý trị liệu phải được đào tạo, cấp bằng và cấp phép hành nghề. Nhà tâm lý trị liệu có thể xuất thân từ những chuyên ngành khác nhau: có thể là nhà tâm lý, bác sĩ tâm thần, nhà phân tâm, nhân viên xã hội, điều dưỡng viên tâm thần hoặc các chuyên viên khác đang làm việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe tinh thần.

Trong quyển

Tự Điển Bách Khoa Y Học Anh-Việt

xuất bản năm 2005 (Chủ biên: GS Ngô Gia Hy – NXB Y Học Tp.HCM) có định nghĩa về tâm lý trị liệu (còn gọi là tâm lý liệu pháp) như sau: “Điều trị các vấn đề tâm lý, cảm xúc bằng các phương pháp tâm lý. Trong tâm lý liệu pháp, bệnh nhân trò chuyện với nhà trị liệu về các triệu chứng và các vấn đề mà họ mắc phải và thiết lập mối quan hệ giữa bệnh nhân và nhà trị liệu. Mục đích của quá trình này là giúp bệnh nhân tìm hiểu chính họ, tạo nên một cái nhìn mới về các mối quan hệ trong quá khứ và hiện tại, thay đổi những hành vi đã định hình của người bệnh” (Sách đã dẫn

– tr.784).

Tâm lý trị liệu thực sự không phải là việc gì đó quá mới mẻ, xa lạ hoặc vượt quá tầm hiểu biết của tất cả chúng ta. Theo Alexander (Individual Psychotherapy; 1964):

Bất kỳ ai đang cố gắng cảm thông với một người bạn đang đau khổ hoặc cố trấn an một đứa trẻ đang hoảng sợ, thì cũng có thể xem người ấy đang thực hành tâm lý trị liệu. Người đó đang cố gắng vận dụng các phương thức tương tác về mặt tâm lý để bảo tồn trạng thái thăng bằng về mặt cảm xúc ở một người khác. Những cách thức thông thường này chủ yếu được dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác hơn là sự hiểu biết có tính khoa học. Khi bạn đang nói chuyện với ai đó đang có tâm trạng phiền muộn, bạn cũng có thể tự nhiên hiểu được tác dụng tốt của việc giúp cho người ấy giải tỏa cảm xúc. Với một người đang trong trạng thái hoảng sợ, quẫn trí, bạn cũng có thể (bằng sự hiểu biết có tính trực giác) mang đến cho người ấy sự hỗ trợ về mặt cảm xúc bằng những lời khuyên và một thái độ vững chãi để người ấy có thể tin tưởng nương tựa vào bạn. Bạn vốn cũng có thể đã biết rằng khi một người đang bị chìm ngập trong một tình huống có tính nguy hiểm, đáng sợ thì người ấy không thể sử dụng được lý trí của mình một cách hiệu quả, và bạn cần giúp anh ta ổn định bằng cách nâng đỡ về mặt tâm lý. Trong lúc nói chuyện với người ấy về hoàn cảnh khách quan mà anh ta đang đương đầu, bạn có thể cho anh ta ‘mượn’ công cụ lý trí của chính bạn để sử dụng. Khi làm tất cả những việc này, chúng ta đã thực hành một sự phối hợp giữa hai công việc có tính chất chữa trị, một là nâng đỡ (supportive), hai là thấu hiểu (insight).

Và Alexander đã định nghĩa tâm lý trị liệu “... không gì khác hơn ngoài việc áp dụng một cách có hệ thống, một cách có ý thức những phương pháp mà chúng ta áp dụng để ảnh hưởng lên những người sống xung quanh chúng ta trong cuộc sống thường ngày. Sự khác biệt quan trọng nhất là ở chỗ: nó không đơn thuần dựa trên những sự hiểu biết có tính trực giác mà thay vào đó là phải có sự thiết lập tốt các nguyên lý chung về tâm lý động học (psychodynamics)”. (Sđd. – tr.110).

Như vậy, khác với sự giúp đỡ từ một người thân quen thường gặp trong đời sống, “sự hỗ trợ trong tâm lý trị liệu được tiến hành bởi một nhà trị liệu được đào tạo chuyên nghiệp để có thể làm chức năng hỗ trợ người khác mà không nhất thiết phải trở nên gắn kết với thân chủ của mình về mặt đời sống riêng tư” (Goffman; 1962).

Tâm lý trị liệu, nói chung, nhắm đến việc làm tăng trưởng nhân cách một con người theo chiều hướng trưởng thành hơn, chín chắn hơn, và giúp người đó “tự hiện thực hóa bản thân mình”. Có thể tóm tắt một số mục tiêu chính của tâm lý trị liệu như sau:

1.

    

Gia tăng khả năng thấu hiểu bản thân của thân chủ

2.

    

Tìm kiếm giải pháp cho các xung đột

3.

    

Gia tăng sự tự chấp nhận bản thân của thân chủ

4.

    

Giúp thân chủ có những kỹ năng ứng phó hữu hiệu với những khó khăn

5.

    

Giúp thân chủ củng cố một cái Tôi vững mạnh, toàn vẹn và an toàn

James C. Coleman (Abnormal Psychology and Modern Life; 1950) nêu ra một số bước cơ bản trong tiến trình làm tâm lý trị liệu như sau:

-        

- Tạo một bầu không khí quan hệ có tính trị liệu

-        

- Giải tỏa cảm xúc của thân chủ

-        

- Tạo sự thấu hiểu nơi thân chủ

-        

- Giúp thân chủ định hình lại cảm xúc

-        

- Kết thúc trị liệu

Từ thời cổ đại, Hippocrates (ông tổ của y học phương Tây) đã từng kể ra ba loại công cụ chủ yếu mà một người thầy thuốc có thể sử dụng để chữa bệnh, đó là: cây cỏ, con dao và lời nói. Từ cây cỏ có thể chiết xuất ra các dược liệu, từ con dao có thể cắt bỏ đi những phần cơ thể bị bệnh mà không thể giữ lại được, và từ đó đã dần dần hình thành nên các chuyên ngành nội khoa và ngoại khoa trong y khoa hiện đại. Song chỉ khi có sự hình thành và phát triển của ngành tâm lý học hiện đại và ngành tâm thần học hiện đại, giá trị của việc sử dụng lời nói trong chữa bệnh mới được phát huy thành một phương pháp trị liệu thực sự khoa học. Phương thức trị liệu ấy được một số nhà tiên phong trong lĩnh vực này (như Sigmund Freud chẳng hạn) gọi là “talking cure” nghĩa là sự chữa trị bệnh bằng lời nói – mà về sau trở thành chuyên ngành tâm lý trị liệu với rất nhiều trường phái và khuynh hướng khác nhau.

Điều gì đã giúp tạo nên hiệu quả của phép chữa trị ấy? Nhiều yếu tố giúp tạo nên hiệu quả của tâm lý trị liệu đã được nghiên cứu và thừa nhận như bản chất mối quan hệ trị liệu (Goldstein; 1962), sự hữu dụng của lời nói (Bernstein; 1965), lòng tin của người bệnh (hoặc thân chủ) đối với nhà trị liệu (Frank; 1961). Tuy vậy, tác động thực sự của tâm lý trị liệu vẫn còn là điều gây nhiều tranh cãi mãi cho đến hiện nay. Liệu rằng các cách thức chữa trị bằng lời nói có thực sự chữa trị được các chứng rối loạn tâm trí?

Trong thực tế, việc tranh luận về hiệu quả của tâm lý trị liệu phần lớn xảy ra trong giới chuyên môn, ngay cả giữa những người thực hành tâm lý trị liệu thuộc các trường phái và xu hướng khác nhau. Nhưng có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu chúng ta xem xét tác động của tâm lý trị liệu từ góc nhìn và vị thế của người bệnh hoặc thân chủ. Thân chủ không “nhìn thấy” những học thuyết và lý luận của nhà trị liệu, mà “nhìn vào” hành vi và thái độ ứng xử của nhà trị liệu. Và vì thế việc ai là nhà trị liệu trở thành điều có khi còn quan trọng hơn cả việc nhà trị liệu áp dụng học thuyết nào, phương pháp nào... Thực vậy, nhà trị liệu là người ở vào vị thế có ảnh hưởng lên trên thân chủ, mà nếu không có sự ảnh hưởng này, việc trị liệu sẽ không còn giá trị. Do vậy tâm lý trị liệu có thể được xem là “nghệ thuật tạo sự khích lệ, và kế đó là sử dụng tầm ảnh hưởng của nhà trị liệu lên thân chủ của mình một cách thuần thục” (Micheal Franz Basch).

Mặt khác, người ta khó có thể xác định được hiệu quả của tâm lý trị liệu, mà thay vào đó chỉ có thể xem xét được hiệu năng của nó, tức là việc tâm lý trị liệu tạo khả năng để có thể đạt đến một kết quả mong muốn. Hay nói theo cách của Gregory Bateson: tâm lý trị liệu “cung cấp một sự khác biệt để tạo nên một sự khác biệt mới”. Nhà tâm lý trị liệu không giúp thay đổi những sự kiện trong thực tế khách quan, mà nhắm đến việc thay đổi những gì xảy ra trong thực tại chủ quan của người bệnh hoặc thân chủ. Nói một cách hình tượng thì “nhà trị liệu mang thân chủ đến một điểm mà ở đó họ không còn cảm thấy tuyệt vọng nữa” (Martin Seligman; 1975).

Có một sự mặc định trong việc hiểu rằng: nhà tâm lý trị liệu (psychotherapist) thì làm việc với những người bệnh, những người bị rối loạn chức năng của bộ máy tâm trí, còn các chuyên viên tư vấn (counselor) thì làm công việc giúp đỡ những người đang gặp các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tuy nhiên, cả hai công việc tư vấn và trị liệu tâm lý đều cùng chia sẻ chung những học thuyết, lý luận, kỹ năng và phương pháp. Theo Jessie Bernard (1969), “tư vấn tâm lý giúp con người của thân chủ trở lại hòa hợp với số phận của họ, điều chỉnh bản thân họ khi sống đối mặt với những thất bại và đau khổ. Nhưng nếu những thân chủ ấy có những ứng xử không tuân theo các chuẩn mực hoặc có những rối loạn tâm trí nghiêm trọng, thì việc giúp đỡ những thân chủ ấy sẽ thuộc trách nhiệm của nhà tâm lý trị liệu”.

Theo James Bugental, Ph.D.(www.psychotherapy.net):

Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn suy nghĩ. Đó không hẳn là việc chữa lành một căn bệnh. Đó không phải là sự hướng dẫn của một nhà thông thái. Đó không phải là sự chia sẻ giữa hai người bạn thân. Đó cũng không phải là một quá trình học hỏi những kiến thức.

Tâm lý trị liệu không liên quan đến những điều bạn suy nghĩ. Đó là sự làm việc trên cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó làm cho bạn chú ý đến cách thức mà bạn suy nghĩ. Nó phân biệt rõ giữa những điều bạn đang suy nghĩ đến và cách thức mà bạn thực hiện sự suy nghĩ ấy. Tâm lý trị liệu ít quan tâm đến việc tìm kiếm những nguyên nhân để giải thích những gì bạn đang làm, nó quan tâm đến việc khám phá ý nghĩa từ những việc mà bạn đang làm.

Tâm lý trị liệu không làm việc trên những điều bạn nghĩ. Nó liên quan đến cách thức mà bạn sống với những tình cảm của mình. Nó liên quan đến những quan điểm bạn áp dụng vào trong những mối quan hệ của bạn với những người xung quanh. Nó liên quan đến những điều bạn muốn đạt đến trong đời và cách thức mà bạn cố gắng để đạt đến những mục đích ấy. Nó liên quan đến các nguồn lực giúp đỡ để bạn có thể tìm thấy những tiềm năng thay đổi trong con người bạn.

Tâm lý trị liệu không liên quan đến điều bạn suy nghĩ là gì, nó liên quan đến cách thức mà bạn suy nghĩ...

MỐI QUAN HỆ HỖ TRỢ

BS NGUYỄN MINH TIẾN

Bài viết này cung cấp một sự mô tả về thế nào là những mối quan hệ hỗ trợ, kèm theo đó là một sự nhấn mạnh đặc biệt vào khía cạnh giao tiếp xảy ra trong các mối quan hệ ấy. Khi có được một cái nhìn tổng quát về các khía cạnh của một mối quan hệ hỗ trợ, bạn sẽ gia tăng được khả năng hiểu biết cũng như thực hành được những kỹ năng của một người hỗ trợ.

Thế nào là một mối quan hệ hỗ trợ?

Mục đích của việc thiết lập một mối quan hệ có tính hỗ trợ là nhằm đáp ứng các nhu cầu của người cần được hỗ trợ, chứ không phải theo các nhu cầu của người hỗ trợ. Trong quá trình tham vấn hoặc trị liệu tâm lý, người hỗ trợ (helper) là nhà tham vấn hoặc nhà trị liệu; người cần được hỗ trợ (helpee) là thân chủ hoặc bệnh nhân.

Mối quan hệ hỗ trợ là điều kiện cho phép mở rộng các giải pháp lựa chọn mà thân chủ có thể dựa vào đó để đảm nhận trách nhiệm của họ và thực hiện được quyết định của chính họ. Người hỗ trợ không đứng ra giải quyết thay vấn đề của thân chủ, và cũng không tìm cách cam đoan điều gì đó để làm an lòng thân chủ của mình.

Nhiệm vụ của một người hỗ trợ là giúp đỡ cho thân chủ để họ có thể tự giải quyết vấn đề của họ bằng cách khám phá, tìm hiểu và hành động. Mối quan hệ hỗ trợ không hàm ý phải làm một cái gì đó để thân chủ cảm thấy tốt hơn; nó liên quan đến việc cả hai người (người hỗ trợ và thân chủ) cùng làm việc với nhau và tìm kiếm giải pháp tối ưu để giải quyết vấn đề (sau khi đã xem xét tất cả các lựa chọn có thể có), và nếu khả thi thì tiến hành thực hiện giải pháp đó.

Mối quan hệ hỗ trợ sẽ có lợi ích cho thân chủ nếu nó là một tiến trình học tập qua lại (mutual learning process) giữa người hỗ trợ và thân chủ. Hiệu quả của mối quan hệ này tùy thuộc vào một số yếu tố sau:

·

        

Thân chủ có thể hiểu được những cảm xúc và hành vi ứng xử của người hỗ trợ, và có kỹ năng thông tin cho người hỗ trợ về sự hiểu biết này;

·

        

Người hỗ trợ có khả năng xác định và làm rõ các vấn đề của thân chủ;

·

        

Người hỗ trợ có khả năng áp dụng được những chiến lược hỗ trợ phù hợp để giúp gia tăng những khả năng của thân chủ trong việc tự khám phá và hiểu biết về bản thân họ, thực hiện quyết định và giải quyết vấn đề, tức là dẫn đến những hành động có tính sáng tạo về phần thân chủ.

Các loại quan hệ hỗ trợ

Có ba thể loại người hỗ trợ khác nhau: người hỗ trợ chuyên nghiệp (professional helpers), người hỗ trợ bán chuyên nghiệp (paraprofessional helpers) và người hỗ trợ không chuyên nghiệp (non-professional helpers). Tương ứng theo đó, cũng có thể chia các mối quan hệ hỗ trợ thành ba loại khác nhau, mặc dù tất cả đều giống nhau về quan niệm và các chiến lược hỗ trợ được áp dụng:

·

        

Quan hệ hỗ trợ chuyên nghiệp

: khi người hỗ trợ được huấn luyện sâu và chuyên biệt về tâm lý, hành vi con người, kỹ năng giao tiếp và giải quyết các vấn đề theo chuyên ngành của họ và có thể đáp ứng với kỳ vọng cần được giúp đỡ của thân chủ. Loại quan hệ này được thấy trong mối quan hệ giữa thầy thuốc-bệnh nhân, nhà tham vấn-thân chủ, nhân viên xã hội-thân chủ, nhà trị liệu tâm lý-thân chủ...

·

        

Quan hệ hỗ trợ bán chuyên nghiệp

: khi người hỗ trợ nhận được sự huấn luyện chính thức nhưng ngắn hạn về các lĩnh vực nếu trên. Có thể gặp trong trường hợp quan hệ giữa nhân viên tuyển dụng-người xin việc, nhân viên tiếp cận đường phố-thanh thiếu niên...

·

        

Quan hệ hỗ trợ không chuyên nghiệp

: khi người hỗ trợ không nhận được sự huấn luyện chính thức về các kỹ năng hỗ trợ chuyên biệt và tiến trình hỗ trợ có thể chỉ xảy ra nhất thời trong mối quan hệ với thân chủ của họ. Ví dụ trường hợp của các nhân viên bán hàng, tiếp tân, tiếp viên hàng không, những người tình nguyện...

Ở mỗi một trong số ba loại quan hệ nêu trên, ta còn có thể phân biệt hai hình thức quan hệ khác nhau như sau:

·

        

Quan hệ hỗ trợ chính thức

(formal): trong đó cả hai phía người hỗ trợ và thân chủ đều xác định rõ vai trò và vị trí của mình, có lý do rõ rệt để tiếp xúc và có thỏa thuận rõ ràng qua đó thân chủ có nhu cầu và kỳ vọng nhận được một sự giúp đỡ cụ thể.

·

        

Quan hệ hỗ trợ không chính thức

(informal): là quan hệ hỗ trợ xuất hiện thứ phát sau một mối quan hệ chính thức khác đã có sẵn (vd, thủ trưởng-nhân viên, hiệu trưởng-giáo viên, thầy-trò...) hoặc sau một mối quan hệ thân quen từ trước (vd, bạn bè, hàng xóm, bà con, người thân trong gia đình...). Loại quan hệ hỗ trợ này thường không có kết cấu chặt chẽ, thời gian không kéo dài và kỳ vọng nhận được sự giúp đỡ thì có giới hạn.

Quan hệ hỗ trợ được hình thành và phát triển như thế nào?

Các quan hệ hỗ trợ bắt đầu bằng việc người hỗ trợ và thân chủ có một cuộc hẹn để tiếp xúc với nhau và nội dung làm việc tập trung vào những mối bận tâm của thân chủ. Điều này làm cho mối quan hệ hỗ trợ khác biệt với các mối quan hệ khác vì nó tập trung vào những điều quan tâm và các vấn đề của một phía đối tác. Tuy nhiên, nó cũng chia sẻ chung một số những thuộc tính vốn có của các mối quan hệ thân thiện khác như: lòng tin, sự thấu cảm, chân thành, sự lưu tâm chăm sóc, tôn trọng, chấp nhận, trung thực, sự phó thác và nương tựa lẫn nhau... Các thuộc tính này thường không xuất hiện ngay vào lúc khởi đầu mối quan hệ hỗ trợ, nhưng nó sẽ phát triển dần theo thời gian khi cả hai phía mỗi lúc một hiểu biết nhau hơn. Nếu lòng tin không được hình thành, các thuộc tính khác cũng không thể phát triển và mối quan hệ có thể đi dần đến sự bế tắc. Lòng tin được thiết lập trong một mối quan hệ khi một người nhận biết và tin rằng phía đối tác bên kia không dẫn dắt mình đi sai đường và không gây phương hại cho mình.

Người hỗ trợ và thân chủ luôn dự phần vào quá trình giao tiếp qua lại. Sự khác biệt chủ yếu giữa họ là ở chỗ, người hỗ trợ thì có các kỹ năng (tính chuyên môn) còn thân chủ thì có những mối bận tâm (các vấn đề). Mức độ hòa hợp giữa hai hệ thống các thái độ, nhu cầu, giá trị và niềm tin từ hai phía sẽ có ảnh hưởng khiến cho mối quan hệ ấy đi theo chiều hướng trở nên tích cực hoặc tiêu cực. Khi có sự khác biệt lớn giữa hai bên về các thái độ, nhu cầu, giá trị và niềm tin, thì chính những tính chất đặc trưng của một người hỗ trợ như đáng tin cậy, thấu cảm, chấp nhận, không phê phán... sẽ có thể giúp hạn chế khả năng phát sinh những hệ quả không hay trong mối quan hệ hỗ trợ.

Giao tiếp hiệu quả (effective communication)

Bất kể mối quan hệ hỗ trợ được thiết lập như thế nào và có bản chất ra sao, bất kể các giá trị và niềm tin của những người tham gia mối quan hệ ấy là gì và bất kể xu hướng lý luận của người hỗ trợ ra sao, các kỹ năng nền tảng và tiên quyết trong mối quan hệ hỗ trợ ấy vẫn là một sự giao tiếp có tính thấu cảm và hiệu quả.

Làm sao chúng ta có thể giúp đỡ được người khác nếu chúng ta không thể tìm hiểu những mối bận tâm của họ và xem xét chúng bằng chính những cảm xúc và suy nghĩ của chúng ta? Cả hai tiến trình này đều tùy thuộc vào khả năng giao tiếp. Giao tiếp có nghĩa là khả năng lắng nghe, chú ý, nhận biết và đáp ứng lại thân chủ (cả bằng lời lẫn không dùng lời), theo một cách thức sao cho thân chủ biết được rằng họ đã được chú ý, được lắng nghe và được hiểu bởi người hỗ trợ. Nó có nghĩa là đáp ứng (responding) chứ không phải phản ứng (reacting). Tất cả mọi người đều có thể học được việc này, bất kể trình độ học vấn và tính cách như thế nào. Đó là một lọai kỹ năng cần phải được thực hành liên tục như bao kỹ năng khác. Và cũng không có gì ngạc nhiên khi những người được xem là hữu ích nhất trong công việc hoặc trong đời sống thường ngày đều là những người có kỹ năng giao tiếp tốt.

Các nghiên cứu cho thấy rằng những vấn đề về giao tiếp là nguồn gốc chính dẫn đến sự khó khăn trong quan hệ giữa người và người. Ví dụ, những vấn đề trong hôn nhân và gia đình đều bắt nguồn từ sự hiểu lầm nhau và từ sự giao tiếp không hiệu quả, mà từ đó dẫn đến hụt hẫng và tức giận khi mà các kỳ vọng và ước muốn trong lòng không được thỏa mãn. Và một vấn đề quan trọng ở những người đi tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp là vì họ bị mất khả năng nhận biết đâu là vấn đề của mình và mất khả năng thông tin cho người khác biết được những mối bận tâm của mình.

Nhiều người tin rằng họ biết rõ những vấn đề của bản thân là gì, nhưng lại gặp khó khăn khi phải nói ra thành lời những mối bận tâm của họ. Nhiều người khác lại có thể nói ra những mối bận tâm trong lòng, nhưng lại cần được giúp đỡ để phát hiện xem có vấn đề gì đang còn uẩn khúc bên trong. Lại có thêm những người khác thậm chí không nhận thấy rằng họ đang có vấn đề và đó là những người được gọi là “thân chủ lưỡng lự”, do vậy họ cũng cần được đề nghị đi tìm sự giúp đỡ. Trong tất cả mọi trường hợp, sự giao tiếp tốt cả bằng lời (ngôn ngữ) lẫn không lời (phi ngôn ngữ) đều là yếu tố có tính thiết yếu trong tiến trình hỗ trợ.Vì thế, một điều hết sức cần thiết là chúng ta phải bám sát theo tiến trình giao tiếp ấy trong các mối quan hệ hỗ trợ - xem xét hành vi nào có tính thúc đẩy giao tiếp và hành vi nào ngăn trở việc giao tiếp.

Hầu hết mọi người trong chúng ta đều đã từng có nhiều thời điểm mà bản thân mình cần đến sự giúp đỡ của người khác. Và trong kinh nghiệm sống của mình, chúng ta hẳn cũng có thể nhận ra được những hành vi nào của người hỗ trợ đã thúc đẩy hoặc ngăn trở chúng ta nhận được sự giúp đỡ. Hầu hết chúng ta hay để ý đến những hành vi thể hiện qua lời nói (verbal behavior), tuy nhiên những hành vi phi ngôn ngữ (non-verbal behavior) cũng có những tác động rất quan trọng trong tiến trình giao tiếp.

Những hành vi được xem là có hiệu quả nhất bao gồm: lắng nghe, chú ý, thấu cảm, khích lệ, nâng đỡ, trung thực, lưu tâm, tôn trọng, chia sẻ, biểu cảm, chấp nhận và không phê phán. Thân chủ thấy mình được hỗ trợ bởi vì họ cảm thấy mình có giá trị như một con người và được chấp nhận bởi một người khác, vì thế họ có điều kiện để trở lại với bản ngã thực sự của chính họ và khám phá những mối bận tâm của họ.

Tương tự, bạn cũng có thể dễ dàng nhận ra được những hành vi nào của người hỗ trợ là không hữu ích cho sự giao tiếp. Hai bảng liệt kê dưới đây sẽ cung cấp những chi tiết về những lọai hành vi nào nên làm và không nên làm đối với một người hỗ trợ.

Bảng 1: Những hành vi nên làm

Ngôn ngữ

Dùng từ dễ hiểu

Phản hồi và làm rõ lời của thân chủ

Diễn giải ý một cách phù hợp

Tóm tắt nội dung giúp cho thân chủ

Đáp ứng với thông điệp ban đầu

Dùng những tác động củng cố bằng lời (à à, vâng, tôi hiểu...)

Gọi thân chủ bằng tên, xưng hô phù hợp

Cung cấp thông tin phù hợp

Trả lời những câu hỏi về bản thân

Thỉnh thỏang hài hước để làm giảm căng thẳng

Không phê phán

Bổ sung những hiểu biết vào lời nói của thân chủ

Dùng những đọan câu diễn giải một cách chừng mực để giúp thân chủ phản hồi một cách thật lòng những gì họ cảm thấy

Phi ngôn ngữ

Giọng nói đồng điệu với thân chủ

Duy trì sự tiếp xúc qua ánh mắt

Thỉnh thoảng gật đầu

Khích lệ qua nét mặt

Thỉnh thoảng mỉm cười

Thỉnh thoảng ra điệu bộ bằng tay

Giữ khoảng cách ở gần thân chủ

Tốc độ nói trung bình

Thân người hơi nghiêng về phía trước hướng về thân chủ

Bảng 2: Những hành vi không nên

Ngôn ngữ

Cho lời khuyên

Thuyết giảng

Xuê xoa, ”nói vuốt”

Khiển trách

Dỗ dành

Thúc giục

Cật vấn, tra hỏi (sử dụng nhiều câu hỏi tại sao?)

Chỉ đạo, đòi hỏi

Thái độ kẻ cả, bề trên

Diễn giải quá nhiều

Dùng những từ thân chủ không hiểu

Nói đi lạc chủ đề

Duy lý trí

Phân tích quá nhiều

Nói về bản thân mình quá nhiều

Phi ngôn ngữ

Không nhìn vào thân chủ

Ngồi cách xa thân chủ hoặc xoay đi hướng khác

Cười khẩy, nhếch mép

Cau mày

Vẻ mặt cau có

Mím môi

Vung vẩy ngón tay trỏ

Cử chỉ huyên náo

Ngáp

Nhắm mắt

Giọng điệu nói không vui

Tốc độ nói quá chậm hoặc quá nhanh.

Bản chất mối quan hệ hỗ trợ vừa tùy thuộc vào những tính chất đặc trưng của người hỗ trợ, vừa liên quan đến những tham số và thuộc tính của phía thân chủ. Có thể xem thêm chi tiết trong những bài viết nói về những tính chất đặc trưng của một người hỗ trợ. Riêng về phần thân chủ, cũng có một số tính chất đặc trưng cần thiết để có thể tương hợp với những phương thức tiếp cận khác nhau của người hỗ trợ. Chẳng hạn trong tâm lý trị liệu, các phương pháp trị liệu phân tâm hoặc thân chủ trọng tâm đều đòi hỏi ở thân chủ một khả năng sử dụng lời nói để giao tiếp nhiều hơn, trong khi liệu pháp hành vi ít yêu cầu thân chủ có nhiều khả năng này. Mặt khác, tính cách người hỗ trợ và phương thức tiếp cận cũng phải thay đổi để phù hợp với một số lọai thân chủ đặc biệt ví dụ trẻ em.

Tất cả các phương thức tiếp cận đều đòi hỏi thân chủ một động cơ và một mức độ hợp tác nhất định để tham gia vào tiến trình hỗ trợ - Một số phương pháp nhấn mạnh trách nhiệm nhiều hơn về phía người hỗ trợ. Người ta tin rằng, dù phương thức tiếp cận có thể khác nhau, nhưng việc thiết lập tốt mối quan hệ hỗ trợ sẽ có tác dụng thúc đẩy thân chủ trở nên cởi mở hơn, chấp nhận các tình huống dễ tổn thương để đạt đến sự tăng trưởng trên các bình diện cảm xúc, nhận thức và hành vi.

Tóm lại

Một mối quan hệ hỗ trợ luôn bao gồm sự giao tiếp - bằng ngôn ngữ và phi ngôn ngữ - giữa người hỗ trợ và thân chủ. Giao tiếp giúp phát triển khả năng hợp tác giữa hai phía, từ đó cho phép thân chủ cả hai bên đi sâu khám phá các khía cạnh trong đời sống của thân chủ như niềm tin, các giá trị, thái độ, cảm xúc và hành vi. Mục đích của việc khám phá này là nhằm làm tăng trưởng khả năng của thân chủ trong việc tự hiểu mình và hiểu người khác. Việc tự hiểu bản thân lại giúp gia tăng lòng tự tôn (self-esteem) nơi thân chủ, gia tăng lòng khoan dung và chấp nhận người khác. Thân chủ sẽ có thêm khả năng quyết định, chấp nhận đi vào một tiến trình hành động để đạt đến những mục tiêu trong cuộc sống và sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm về những kết quả từ những việc làm ấy.

Có nhiều thể loại và nhiều mức độ quan hệ hỗ trợ, nhưng một sự giao tiếp tốt vẫn luôn là điều cơ bản cho mọi tiến trình hỗ trợ. Trong mối quan hệ hỗ trợ chính thức (có tính nghiệp vụ) luôn đòi hỏi phải có sự xác định rõ vai trò và vị thế của hai đối tác: người hỗ trợ và thân chủ.

Cả những phát hiện từ nghiên cứu lẫn từ kinh nghiệm đều cho thấy rằng có nhiều tính chất đặc trưng của người hỗ trợ có thể ảnh hưởng tích cực lên trên mối quan hệ hỗ trợ. Nếu một người càng đi sâu tìm hiểu các khía cạnh trong đời sống của bản thân mình như xu hướng theo giới, theo văn hóa, cùng những niềm tin, giá trị, cảm xúc và hành vi, thì người đó càng có khả năng giao tiếp một cách chân thành, minh bạch và có tính thấu cảm, có khả năng hiểu mình và hiểu người khác, và có thể thông tin những hiểu biết này cho cho người mà mình giao tiếp. Điều đó cũng có nghĩa là người ấy có nhiều khả năng trở thành một người hỗ trợ một người hỗ trợ hiệu quả (effective helper).

Khả năng tự nhận biết bản thân (self-awareness), sự trung thực, hài hòa, khả năng giao tiếp tốt, sự am hiểu về các hành vi của con người cùng những ảnh hưởng của các yếu tố về giới, về văn hóa và xã hội lên trên hành vi con người ... tất cả đều giúp thúc đẩy, tăng cường hiệu quả của các mối quan hệ hỗ trợ.  

Nguồn:

Effective Helping – Barbara F. Okun (1992)

ĐÔI LỜI VỚI BẠN ĐỌC

Năm 2007 là một năm rất đáng nhớ đối với chúng tôi.

Với những nỗ lực không mệt mỏi, cuối cùng chúng tôi cũng đã thực hiện được mong ước của mình.

Website www.tamlytrilieu.com đã được thai nghén, ấp ủ, và sau cùng đã ra mắt bạn đọc ngày

11 tháng 9 năm 2007. Đến nay website

Tâm Lý Trị liệu

vẫn tiếp tục vững bước trên hành trình phục vụ bạn đọc. 

Kể từ ngày ra mắt bạn đọc, website của chúng tôi không ngừng cập nhật thông tin và mở rộng các giao lưu, liên kết trên mạng. Đồng thời chúng tôi cũng không ngừng tiếp thu các ý kiến từ bạn đọc để tiếp tục nâng cao chất lượng công việc của mình.

Nhiều trang web và blog chuyên môn về tâm lý đã trích dẫn hoặc đăng lại các bài viết và bài dịch của chúng tôi. Toàn bộ các bài giảng về tâm lý trị liệu của chúng tôi (được dùng để giảng dạy môn tâm lý trị liệu tại Đại học Văn Hiến và các lớp huấn luyện kỹ năng tham vấn của Hội KH Tâm lý Giáo dục Tp.HCM) đã được "sử dụng lại" trên một số thư viện điện tử.

Sẽ không hay nếu sớm hài lòng với những gì hiện có, bởi lẽ Website này vẫn còn đang trong tiến trình hình thành và phát triển. Mong rằng những điều tốt đẹp nhất sẽ đến cho chúng ta, những người cùng chung sức học tập, thực hành và nghiên cứu chuyên ngành tâm lý lâm sàng, tâm lý trị liệu tại Việt Nam.

Chúng tôi mong sẽ tiếp tục nhận được nhiều ý kiến đóng góp của quý đồng nghiệp và bạn hữu gần xa.

Địa chỉ liên hệ:

Trụ sở Chi Hội Trăng Non,

29 Phan Xích Long, P.3, Phú Nhuận, Tp.HCM  

Điện thoại liên hệ:

BS Nguyễn Minh Tiến

0908 33 0908

Email:

[email protected]

[email protected]

LÝ THUYẾT RIÊNG CỦA BẢN THÂN VỀ HÀNH VI CON NGƯỜI

BS NGUYỄN MINH TIẾN

V

iệc hiểu biết bản chất của các mối quan hệ hỗ trợ, vai trò và những thuộc tính đặc trưng của một người hỗ trợ hiệu quả, cùng với việc hiểu biết và vận dụng những kỹ năng giao tiếp tốt sẽ có vai trò quan trọng trong việc thiết lập những mối quan hệ hỗ trợ. Trong khi đó, để có thể áp dụng tốt các chiến lược hỗ trợ (giai đọan II của tiến trình hỗ trợ), chúng ta cần nắm vững những học thuyết cơ bản về sự hỗ trợ. Tuy nhiên, trước khi đi vào tìm hiểu những học thuyết này, bản thân mỗi người hỗ trợ cũng cần xem xét, khám phá các giá trị, các nhu cầu mà từ đó góp phần tạo nên cái gọi là “học thuyết cá nhân” của bản thân từng người hỗ trợ. Việc hiểu “học thuyết riêng” về hành vi con người của bản thân mỗi người chúng ta là rất quan trọng, bởi vì chính nó sẽ ảnh hưởng lên việc bạn hiểu như thế nào về những học thuyết hỗ trợ được công bố chính thức về mặt khoa học, ảnh hưởng lên cách mà bạn có thể chấp nhận chúng hoặc phản bác chúng.

Mỗi người trong chúng ta đều có sẵn những quan điểm riêng, những ý kiến riêng có thể tạo nên một lý thuyết về hành vi của con người. Những niềm tin và quan điểm ấy vẫn mỗi ngày vận hành cuộc sống chúng ta. Lý thuyết riêng của mỗi người vẫn thực sự tồn tại và ảnh hưởng lên những hành động của chúng ta. Bất kể chúng ta có tự mình nhận ra sự hiện diện của chúng hay không, hoặc chúng ta có thể diễn đạt lại các lý thuyết ấy hay không, thì chúng vẫn có những ảnh hưởng lên trên hành động của chúng ta.

Lý thuyết riêng của mỗi người lại chịu ảnh hưởng bởi những nền tảng đạo đức, kinh tế xã hội, văn hóa và gia đình mà chúng ta đã hấp thụ từ trước đó, bởi những xu hướng giới, các yếu tố sinh học, những trải nghiệm trong quá khứ, sự tiếp xúc với các trường phái, xu hướng suy nghĩ khác nhau trong cuộc sống, cũng như từ các cơ hội mà chúng ta gặp phải trong đời và từ những con người mà chúng ta cùng sống, học tập và làm việc... Nhân cách và tính tình của chúng ta cũng có ảnh hưởng lên trên sự hình thành cái lý thuyết về nhân sinh riêng của chúng ta, cũng như sẽ ảnh hưởng lên trên khả năng tự nhận biết về bản thân chúng ta. Mỗi người trong chúng ta sẽ có thể nhận biết được lý thuyết về sự hỗ trợ của riêng mình khi chúng ta lưu tâm suy nghĩ về nó và khi chúng ta thăm dò các tình huống hỗ trợ xảy ra trong thực tế.

Bất kể lý thuyết riêng của chúng ta là như thế nào, chúng ta đều cần phải hiểu về nội dung của nó, bởi vì nó sẽ có ảnh hưởng lên trên những hành động và những phản ứng của chúng ta đối với những người mà chúng ta đang giúp đỡ. Cho đến khi chúng ta thừa nhận cái cơ sở lý thuyết của riêng mình là như thế nào, chúng ta mới có thể “giúp đỡ” người khác nhiều hơn, áp dụng các lý thuyết của bản thân mình tốt hơn để đáp ứng những nhu cầu của người khác.

Việc hiểu biết về hành vi của con người là điều rất quan trọng đối với tất cả những ai làm công việc liên quan đến con người. Thông qua học tập từ lý thuyết, từ kinh nghiệm làm việc, hoặc từ cả hai loại học tập ấy, người hỗ trợ (helpers) phải thường xuyên “đánh vật” với các đề tài như: nhân cách được hình thành và phát triển như thế nào, tại sao con người lại có những cách ứng xử như thế, đâu là động cơ thúc đẩy con người, làm thế nào để những động cơ ấy vận hành, con người suy nghĩ như thế nào, học tập như thế nào, tập thể có ảnh hưởng như thế nào trên hành vi của các cá nhân và làm thế nào để thay đổi hành vi của con người...

Chúng ta có tất cả những suy nghĩ về những chủ đề này, dẫu rằng trong cuộc sống thường ngày chúng ta không thể (hoặc ít khi) giải bày những suy nghĩ ấy ra dưới dạng những học thuyết. Tuy nhiên, những niềm tin của chúng ta về các mối quan hệ giữa người và người vẫn ảnh hưởng lên trên thái độ và hành vi của chúng ta khi quan hệ với những người khác. Những người làm công tác hỗ trợ nếu nhận biết được những niềm tin của chính họ và có ý thức trăn trở với những câu hỏi liên quan đến các chủ đề nêu trên thì sẽ có thể nhận biết được những ảnh hưởng từ nhân sinh quan của họ lên nhận thức, thái độ và hành vi của họ đối với những người mà họ giúp đỡ. Ví dụ, một người hỗ trợ mà bản thân tin rằng bằng cách thay đổi hành vi có thể dẫn đến thay đổi thái độ và cảm xúc, thì người ấy dễ có khuynh hướng lựa chọn các chiến lược hỗ trợ theo định hướng hành động (action-oriented) tập trung vào các thay đổi về hành vi, trong khi một người hỗ trợ tin rằng hành vi chỉ thay đổi khi con người phát triển được khả năng tự nhận biết về bản thân sẽ dễ chấp nhận việc áp dụng các kỹ thuật đối thọai bằng lời để phát triển khả năng “thấu hiểu” hoặc “nội thị” (insght). Tương tự, việc hiểu biết lý thuyết cơ bản về sự học tập cũng sẽ cho phép người hỗ trợ nhận biết và sử dụng một cách có ý thức những tiềm năng của chính bản thân mình như những khuôn mẫu (models) để vận dụng vào trong các mối quan hệ hỗ trợ.

Vì thế, sự hiểu biết các lý thuyết và vận dụng sự hiểu biết ấy là có tính thiết yếu cho việc chúng ta có thực hiện được sự hỗ trợ hiệu quả trong thực hành lâm sàng hay không. Tuy nhiên, mỗi người hỗ trợ nên xây dựng cho mình một phong cách hỗ trợ riêng sao cho phù hợp với lý thuyết riêng của mình và vẫn có thể hiệu quả theo cách thức riêng mà mình đã chọn.

Không may thay, thường thì vẫn có một chút gì đó không được hài hòa lắm giữa những gì mà một người hỗ trợ tin tưởng với những gì mà người ấy thực sự làm. Nếu nhận thức được rõ cái lý thuyết nhân sinh riêng của bản thân, chúng ta sẽ có thể thấy rõ cách thức mà chúng ta đang vận dụng những lý thuyết chính thức vào trong sự thực hành hỗ trợ mà chúng ta đang thực hiện. Để bắt đầu tìm hiểu những về những giả định trong lý thuyết riêng của mình, bạn hãy tự đặt ra những trả lời cho các câu hỏi sau đây:

1. Con người là gì? Họ tốt hay xấu? Họ sinh ra vốn đã tốt hay xấu chưa? Họ có thể tự kiểm sóat bản thân hay chịu sự kiểm sóat bởi một cái gì khác từ bên ngòai? Điều gì là động cơ thúc đẩy họ?

2. Bạn giải thích như thế nào về nam tính và nữ tính? Những khác biệt giữa nam và nữ có phải là do sinh học? Do các yếu tố xã hội? Do sự khác biệt về chủng tộc, đạo đức hay là do học tập mà có?

3. Con người học tập như thế nào? Có những phương thức học tập khác nhau hay không?

4. Nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được định hình sẵn hay là do học tập? Các loại nhân cách khác nhau có thể phân biệt được dựa trên những biểu lộ bằng hành vi không?

5. Con người có thể thay đổi được không? Họ thay đổi như thế nào? Có tác nhân gì bên ngoài khiến họ thay đổi hay là sự thay đổi đã xuất phát từ bên trong con người?

6. Thế nào là sự lệch lạc về mặt xã hội? Ai là người quyết định một việc gì đó là lệch lạc hay không lệch lạc? Việc gì có thể làm hoặc nên làm đối với các lệch lạc ấy? Những hành vi nào (của bản thân và của người khác) mà bạn thấy có thể chấp nhận được và không thể chấp nhận được? Những hành ấy có lệch lạc không?

Hãy cố gắng trả lời những câu hỏi này bằng chính những ngôn từ của bạn, dựa trên khung tham chiếu của chính bạn. Bạn có thể ngạc nhiên nhận ra rằng lâu nay bạn đã có sẵn nhiều giải đáp cho các câu hỏi này rồi! Hãy so sánh chúng với sự trả lời của những người khác. Những trả lời của bạn không đúng mà cũng không sai, thậm chí chúng vẫn còn có thể thay đổi về sau nếu bạn vẫn tiếp tục học hỏi, tiếp tục nhận biết thêm những quan điểm và những cảm xúc của riêng bạn.

Bạn cởi mở như thế nào đối với những quan điểm khác biệt với bạn? Sự cởi mở có thể ảnh hưởng lên tính uyển chuyển và khả năng thích ứng của bạn, từ đó ảnh hưởng lên khả năng tiếp xúc làm việc của bạn với nhiều loại người khác nhau và khả năng cảm thấy thoải mái trong nhiều môi trường sống và làm việc khác nhau.

Sau khi khảo sát cái lý thuyết nhân sinh của bản thân, bạn có thể bắt đầu xem xét tổng quan các học thuyết chính yếu về sự hỗ trợ. Bạn có thể nhận thấy thấp thóang phần nào quan điểm nhân sinh của bạn trong những học thuyết ấy; bạn cũng sẽ nhận thấy có những phần lý thuyết bạn chấp nhận được và cũng có những phần lý thuyết bạn sẽ phản bác lại, không chấp nhận. Tuy nhiên, ý kiến riêng của bạn hoàn toàn có thể thay đổi theo thời gian và theo tiến trình học tập của chính bạn.              

HAI GIAI ĐOẠN CỦA MỘT TIẾN TRÌNH HỖ TRỢ

BS NGUYỄN MINH TIẾN

N

hiều người đã xem công việc hỗ trợ chuyên nghiệp vừa có tính khoa học vừa có tính nghệ thuật. Đó là một nghệ thuật do bởi những đặc trưng về nhân cách, hệ thống các giá trị, thái độ cư xử của người hỗ trợ là những tham số chủ quan rất khó có thể định nghĩa và đo lường được trong tiến trình hỗ trợ. Đó cũng là một khoa học vì phần lớn các hiểu biết của chúng ta về hành vi con người và một số những chiến lược hỗ trợ (helping strategies) đã được rút ra từ những hệ thống hỗ trợ được cấu trúc tốt, khách quan và có thể đánh giá được.

Tiến trình hỗ trợ có thể được xem là có hai giai đoạn (hoặc hai thành phần) có tính chất gối đầu lên nhau chứ không hoàn toàn phân định rõ rệt: giai đoạn đầu có tính thiên về nghệ thuật hơn và giai đoạn sau thì có tính khoa học nhiều hơn. Chính phong cách của người hỗ trợ trong việc “cung cấp dịch vụ” của mình là một thứ nghệ thuật mà ông ta cần phải thực hiện trong suốt tiến trình hỗ trợ.

Giai đoạn I của tiến trình tập trung vào việc thiết lập mối quan hệ và sự tin cậy giữa người hỗ trợ và thân chủ. Người hỗ trợ trong giai đoạn này có nhiệm vụ tạo một môi trường có tính nâng đỡ, giúp thân chủ của mình tự bộc bạch các thông tin và giải bày các cảm xúc của họ một cách thích đáng. Quá trình khám phá này cho phép cả hai bên cùng tập trung vào các nhu cầu và vấn đề của thân chủ; rồi cả hai cùng làm việc để xác định đâu là những mục đích và mục tiêu của tiến trình hỗ trợ, và như vậy sẽ có tác dụng định hướng cho mối quan hệ hỗ trợ ấy.

Khi thiết lập xong mối quan hệ và thực hiện xong việc đánh giá các vấn đề của thân chủ đó là lúc khởi đầu cho giai đoạn II của tiến trình hỗ trợ. Giai đoạn này bao gồm các công việc: hoạch định chiến lược hỗ trợ, thực hiện và lượng giá việc thực hiện ấy, sau đó là kết thúc tiến trình và theo dõi kết quả. Thường thì giai đoạn II là lĩnh vực thuộc nghiệp vụ của những người hỗ trợ chuyên nghiệp (professional helpers), dù đôi lúc nó cũng liên quan đến trách nhiệm của những người hỗ trợ bán chuyên ngiệp (paraprofessional helpers). Mặc dù những người hỗ trợ không chuyên nghiệp thường không có liên quan đến công việc ở giai đoạn II, tuy nhiên họ vẫn cần có những hiểu biết cơ bản về việc này để có thể sử dụng hợp lý những nguồn lực cung ứng dịch vụ hỗ trợ. Sự thành công của giai đoạn II tùy thuộc phần lớn vào sự hiệu quả của những kỹ năng giao tiếp đã được vận dụng trong giai đoạn I khi người hỗ trợ thiết lập quan hệ với thân chủ.

Tóm tắt hai giai đoạn của tiến trình hỗ trợ

Giai đọan I – Xây dựng quan hệ

Bước 1

:

Khởi đầu quan hệ

Bước 2:

Làm rõ các vấn đề hiện tại

Bước 3:

Xác định cơ cấu làm việc / các thỏa thuận

Bước 4:

Đi sâu khám phá các vấn đề của thân chủ

Bước 5:

Thiết lập các mục đích và mục tiêu khả thi

Giai đọan II: Áp dụng các chiến lược hỗ trợ

Bước 1:

Đồng thuận về các mục đích và mục tiêu đã đề ra

Bước 2:

Hoạch định các chiến lược hỗ trợ

Bước 3:

Áp dụng các chiến lược hỗ trợ

Bước 4:

Lượng giá các chiến lược đã áp dụng

Bước 5:

Kết thúc tiến trình hỗ trợ

Bước 6:

Theo dõi kết quả

ÁP DỤNG CÁC CHIẾN LƯỢC HỖ TRỢ

BS NGUYỄN MINH TIẾN

T

iến trình hỗ trợ bao gồm hai giai đoạn: (1) Giai đoạn thiết lập quan hệ hỗ trợ và (2) Giai đoạn áp dụng các chiến lược hỗ trợ. Trong khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai giai đoạn, nhà trị liệu và thân chủ sẽ xem xét các mục đích và mục tiêu của mối quan hệ hỗ trợ, sau đó cả hai sẽ tập trung vào các nhu cầu trị liệu có tính đặc hiệu để cuối cùng có thể đạt đến sự nhất trí với nhau về mục đích trị liệu. Thân chủ và nhà trị liệu cần phải định rõ vấn đề nào cần phải giải quyết và loại hình can thiệp hỗ trợ nào sẽ được áp dụng.

Sau khi xác định rõ vấn đề là gì, nhà trị liệu có thể chọn lựa một chiến lược thích hợp hoặc phối hợp nhiều chiến lược khác nhau để áp dụng vào việc giải quyết vấn đề. Các tham số như thời gian trị liệu, thời lượng mỗi phiên trị liệu, thiết kế khuôn khổ trị liệu và bản chất của vấn đề hiện tại sẽ ảnh hưởng đến cách thức chuyển tiếp giữa hai giai đoạn lẫn các chiến lược được chọn để giải quyết vấn đề.

CÁC CHIẾN LƯỢC HỖ TRỢ VÀ BA BÌNH DIỆN CHÍNH TRONG SỰ THỂ HIỆN CÁC VẤN ĐỀ

Các chiến lược hỗ trợ có thể được phân loại tùy theo chúng nhắm giải quyết các vấn đề thuộc bình diện nào: cảm xúc (affective), nhận thức (cognitive) hoặc hành vi (behavioral domains). Trong thời gian gần đây (Bruce, 1984), đã có nhiều cố gắng phân loại các chiến lược và triết lý của nhiều học thuyết hỗ trợ khác nhau, để có thể hình thành nên một kiểu “phác đồ” có thể áp dụng được. Các cố gắng phân loại này phần lớn đều có tính chất “phi học thuyết” (atheoretical), nghĩa là không phải phụ thuộc vào một học thuyết duy nhất, mà có thể vận dụng nhiều loại chiến lược khác nhau tùy từng thân chủ và tùy theo vấn đề của thân chủ được thể hiện trên bình diện nào. Mục đích của những cố gắng này cũng là để nhằm lấp dần khoảng cách giữa ba yếu tố sau: (1) Hiệu năng của phương pháp trị liệu; (2) Nhu cầu ngắn hạn và dài hạn của thân chủ và (3) Nhu cầu và định hướng của nhà trị liệu.

Các vấn đề về cảm xúc (affective problems) là những vấn đề liên quan đến lĩnh vực tình cảm, lĩnh vực tự nhận biết bản thân cũng như nhận biết những cảm xúc của người khác. Ví dụ: cảm thấy mình yếu kém, không hiệu quả, hoặc không thể nhận biết được cảm xúc của chính mình, không hiểu được cảm xúc của người khác… Đối với loại vấn đề này, những chiến lược theo kiểu “kinh nghiệm” (experiential strategies) tỏ ra có hiệu quả. Đây là những chiến lược tập trung can thiệp trên những tư duy hình ảnh, sự nhận biết bằng các giác quan, cùng những cách thức biểu lộ cảm xúc bằng lời và không lời.

Các vấn đề thuộc bình diện nhận thức (cognitive problems) có liên quan đến quá trình suy nghĩ, ví dụ những vấn đề liên quan đến khả năng quyết định và giải quyết vấn đề. Những thân chủ thường hay có những quyết định sai lầm, lo sợ khi phải quyết định, hoặc những người từ chối nhận lãnh trách nhiệm về những việc làm của mình… là những người đang có vấn đề trên bình diện nhận thức. Sự hỗ trợ có hiệu quả nhất đối với những thân chủ này là các chiến lược có tính chất huấn luyện (didactic) hoặc có hướng dẫn (instructional). Các chiến lược này tập trung vào việc thực hiện từng bước quá trình trao đổi, chỉ dẫn bằng lời nói, hướng đến việc giúp thân chủ có thể quyết định, phân tích và giải quyết vấn đề.

Các vấn đề trên bình diện hành vi (behavioral problems), ví dụ như làm thế nào để bỏ thuốc lá, thay đổi một thói quen, học cách trở nên quyết đoán hơn, hoặc thay đổi từ một hành vi có hại sang một hành vi có lợi… Các chiến lược can thiệp về hành vi bao gồm những hướng dẫn bằng lời và định hướng hành động (action-oriented) được bố trí thực hiện sao cho thân chủ có thể được kích thích thay đổi hành vi và nhận được những tưởng thưởng từ môi trường khi thực hiện những thay đổi này.

Các vấn đề của thân chủ cũng có khi cùng xảy ra trên cả ba bình diện cảm xúc-nhận thức-hành vi, với sự thể hiện đa dạng nhiều loại triệu chứng: những trường hợp thuộc loại này có thể gặp như trầm cảm, rối loạn ăn uống, tính khí bốc đồng, hoặc những rối loạn hành vi có tính chuyên biệt. Các chiến lược hỗ trợ theo kiểu “nhận thức-hành vi” có thể hiệu quả, bao gồm những kỹ thuật “tái cấu trúc nhận thức” (cognitive restructuring), giúp thân chủ có khả năng nhận định, đánh giá về khả năng của bản thân, của người khác và đánh giá các sự kiện trong đời sống, huấn luyện những kỹ năng ứng phó và những hành vi mới.

Các cách thức phân loại vấn đề và phân loại chiến lược hỗ trợ không luôn luôn tách bạch rõ ràng, mà chúng có thể xảy ra đồng thời hoặc chồng chéo với nhau. Bản chất vấn đề mà thân chủ đang gặp phải, bản chất của mối quan hệ hỗ trợ và kỹ năng thành thạo của nhà trị liệu, tất cả đều có ảnh hưởng trên sự lựa chọn các chiến lược hỗ trợ.

Khi nói về chiến lược can thiệp trong bối cảnh mối quan hệ hỗ trợ, tức là chúng ta đang nói về những phương thức tổng quát được thực hiện nhằm đạt đến những mục đích chung và có tính dài hạn. Các chiến lược phản ánh các khái niệm và các giả thuyết của những lý thuyết chuyên biệt, trong khi những kỹ thuật là sự áp dụng cụ thể của các chiến lược. Một số chiến lược và kỹ thuật tương ứng có thể tác dụng tốt nhất khi được áp dụng đúng vào một loại tình huống cụ thể. Và mặc dù có những loại kỹ thuật có tính đặc thù riêng cho một loại chiến lược, nhưng cũng có nhiều kỹ thuật lại có thể được áp dụng trong nhiều chiến lược khác nhau.

Có lúc những vấn đề của thân chủ xuất hiện rõ ràng ở trên một trong ba bình diện cảm xúc, nhạn thức hoặc hành vi, khi ấy sự áp dụng các chiến lược là khá rõ ràng. Ví dụ, nếu vấn đề thể hiện là tình trạng làm việc chậm chạp của một nhân viên – một vấn đề thuộc bình diện hành vi – thì khi đó, chiến lược được lựa chọn có thể là sự can thiệp trên hành vi và những kỹ thuật áp dụng sẽ là lập thỏa thuận cam kết, có thể cần đến hoặc không cần đến việc tái cấu trúc nhận thức. Tuy nhiên, trong thực tế, vấn đề được thể hiện (presenting problems) có khi lại do một vấn đề khác tiềm ẩn bên dưới (underlying problems), và thường thì hai vấn đề ấy lại có thể nằm trên hai bình diện khác nhau. Khi ấy việc chọn lựa các chiến lược can thiệp cần phải được xem xét kỹ.

Ví dụ: Một nữ thân chủ được một chuyên viên tham vấn gửi đến một nhà tâm lý trị liệu với yêu cầu được làm một kỹ thuật gọi là “giải cảm ứng hệ thống” (systematic desensitization), một loại kỹ thuật tác động trên bình diện hành vi. Thân chủ này có triệu chứng là không thể nuốt được các thức ăn đặc (một vấn đề trên bình diện hành vi). Khám y khoa không phát hiện bất cứ căn nguyên thực thể nào gây ra tình trạng này. Nhưng sau vài buổi trao đổi, thiết lập quan hệ và tìm hiểu những kỳ vọng của thân chủ, nhà trị liệu nhận thấy rõ nỗi khổ tâm mà thân chủ đang gặp phải lại xuất phát từ bình diện cảm xúc chứ không phải là một vấn đề thuộc về hành vi. Cô thân chủ này đã không thể bày tỏ được sự tức giận đối với một người; cô đã tức giận rất nhiều vì trước đó cô đã bị người yêu phá vỡ sự đính ước giữa họ với nhau. Cô sụt cân rất nhanh và sức khỏe đang bị đe doạ nghiêm trọng vì cô chỉ có thể nuốt được những thức ăn lỏng. Sau đó, những phiên trị liệu với sự áp dụng các kỹ thuật theo kiểu gestalt và thân chủ trọng tâm đã giúp cô nhận ra được những cảm xúc của mình và có thể bày tỏ những cảm xúc ấy một cách phù hợp. Sau cùng, cô đã có thể nuốt được những thức ăn đặc và dần dần cải thiện những mối quan hệ với người xung quanh. Đây là ví dụ về một vấn đề tiềm ẩn bên dưới (khó khăn trong việc bộc lộ sự tức giận) đòi hỏi việc thực hiện các chiến lược can thiệp hoàn toàn khác với vấn đề được thể hiện (khó nuốt). Trong khi vấn đề được thể hiện đang hướng đến một chiến lược can thiệp về hành vi, thì vấn đề thực sự tiềm ẩn bên dưới lại cần đến một chiến lược can thiệp trên bình diện cảm xúc.

Những phần sau đây sẽ cung cấp cho bạn đọc một tổng quan ngắn gọn về các chiến lược và những kỹ thuật tương thích với từng bình diện xuất hiện vấn đề (cảm xúc, nhận thức hoặc hành vi). Xin lưu ý rằng có một số chiến lược chỉ phù hợp với những người hỗ trợ chuyên nghiệp (professional helpers) và có kinh nghiệm hơn là dành cho người hỗ trợ bán chuyên nghiệp hoặc người mới hành nghề. Việc giới thiệu các chiến lược hỗ trợ sẽ cung cấp cho bạn những ý tưởng để biết được bạn đang quan tâm điều gì và có thiên hướng như thế nào, và có lẽ cũng sẽ đề xuất một số hướng dẫn cho việc nghiên cứu sâu thêm. Bài viết chỉ trình bày ở đây phần tổng quan tóm tắt. Bạn đọc cần xem và thực hành thêm các bài tập (xem Giáo trình Nhập môn). Nếu bạn thực hiện các bài tập, hãy cố gắng tìm xem chiến lược nào là phù hợp và có ý nghĩa đói với bạn

CÁC CHIẾN LƯỢC VỀ CẢM XÚC

Cơ sở lý thuyết cho các chiến lược hỗ trợ về cảm xúc được rút ra từ hai trường phái tâm lý trị liệu là trường phái thân chủ trọng tâm của Carl Rogers và trường phái Gestalt. Các chiến lược can thiệp cảm xúc có trọng tâm nhấn mạnh vào sự tự nhận biết về bản thân (self-awareness) và sự trải nghiệm các cảm xúc.

Kỹ thuật

Liệu pháp thân chủ trọng tâm đóng góp vào những kỹ năng giao tiếp dựa trên sự “lắng nghe có đáp ứng” (responsive listening). Nhà trị liệu, bằng cách giao tiếp một cách thấu cảm, chân thành, hài hòa, trung thực và chấp nhận thân chủ, sẽ tạo nên một môi trường có tính an toàn, không đe dọa, trong đó thân chủ có thể khám phá những cảm xúc, ý nghĩ và hành vi của chính họ, và từ đó có thể hiểu biết được bản thân và thế giới xung quanh. Môi trường có tính hỗ trợ này sẽ giúp cho thân chủ phát triển nên một ý niệm có tính tích cực về bản ngã của họ. Để kỹ thuật này thực hiện hiệu quả, thân chủ hẳn phải nhận được những cảm xúc và thái độ tích cực từ nhà trị liệu như đã nêu trên. Kỹ thuật “lắng nghe có đáp ứng” có thể đủ để trở thành một chiến lược duy nhất cần thiết trong việc thiết lập một mối quan hệ hỗ trợ.

Các chiến lược can thiệp của liệu pháp Gestalt, trái lại, chú trọng đến việc giúp thân chủ tự nhận biết về bản thân. Những nhà trị liệu không thuộc trường phái Gestalt vẫn thường sử dụng những kỹ thuật Gestalt để giúp thân chủ nhận được sự tự hiểu biết bản thân. Mục đích của chiến lược Gestalt là nhằm hợp nhất sự chú tâm và nhận biết của thân chủ, sao cho thân chủ có thể nhận trách nhiệm về những hành vi hiện tại của họ. Một số quy luật trong khi vận dụng các chiến lược Gestalt:

1.

    

Sử dụng cụm từ “ở đây và ngay lúc này” (here and now) để tập trung vào hoàn cảnh hiện tại và những người đang có mặt tại chỗ;

2.

    

Sử dụng ngôn ngữ trực tiếp, ví dụ: dùng đại từ “Tôi” thay vì “Nó”, “Chuyện ấy”… và sử dụng cách nói “Tôi sẽ không…” thay vì “Tôi không thể…”

3.

    

Không nói về một “ngôi thứ ba”: thân chủ không nên nói về một người vắng mặt, thay vào đó có thể nói chuyện trực tiếp với người vắng mặt bằng cách sắm vai;

4.

    

Khẳng định rằng thân chủ là người làm chủ các cảm xúc, tư duy và hành động của họ, bằng cách sử dụng những từ ngữ như “tôi”, “của tôi”, “tôi chịu trách nhiệm về việc”…

5.

    

Hướng dẫn thân chủ thực hiện các hành động thay vì chỉ suy nghĩ và tưởng tượng.

Các trò chơi như “Đối thoại” (Dialogue), “Tôi nhận trách nhiệm” và “Đảo vai” (Reversals) sẽ khuyến khích tác phong nói chuyện định hướng vào hiện tại và định hướng vào trách nhiệm. Trong những trò chơi này, thân chủ sẽ cư xử với một người vắng mặt bằng cách sắm vai, đảm nhận cả hai vai trong một cuộc đối thoại, đóng tất cả các vai trò, có khi bao gồm cả các vật vô tri vào trong các giấc mơ, vv…

Kỹ thuật nói chuyện trong chiến lược Gestalt có mục đích giữ cho thường xuyên tiếp xúc với những sự kiện đang diễn biến. Và kỹ thuật nói chuyện này có những quy luật sau:

1.

    

Giữ cho sự giao tiếp giữa thân chủ và nhà trị liệu luôn ở trong hiện tại bằng cách dùng những câu ở thì hiện tại và nhấn mạnh vào những sự việc đang diễn ra. Sử dụng những câu hỏi như “Bạn đang cảm thấy như thế nào?” và “Bạn có nhận thấy rằng…?”

2.

    

Sử dụng các đại từ nhân xưng ngôi thứ I và ngôi thứ II (I-though) và giao tiếp trực tiếp với người đang đối thoại.

3.

    

Sử dụng đại từ nhân xưng “Tôi” chứ không nói về “Điều đó”, “Ngừơi ấy”, để giúp cho thân chủ có trách nhiệm hơn về hành vi của chính mình: Thay vì nói “Tiếng ồn trong ký túc xá khiến tôi không thể làm bài tập được” thì nên nói “Tôi đã không thể làm bài được”…

4.

    

Theo đuổi những câu hỏi “Cái gì?” và “Như thế nào?” chứ không hỏi “Tại sao?”. Ví dụ có thể hỏi “Hiện bạn nhận thấy được điều gì?” hoặc “Bạn cảm thấy như thế nào?” chứ không hỏi “Tại sao bạn lại cảm thấy…?”. Việc này sẽ giúp đưa thân chủ ra khỏi những lý giải, biện hộ dài dòng, bất tận.

5.

    

Không nói phiếm, không nói về người vắng mặt. Qui luật này khuyến khích sự giải bày cảm xúc và giúp thân chủ đối diện trực tiếp với những con người. Nếu người mà thân chủ muốn nói đến đang không có mặt, thì thân chủ sẽ được khuyến khích nói chuyện trực tiếp với người này bằng cách sử dụng một “chỗ ngồi trống” hoặc sử dụng một đồ vật khác để thay thế.

6.

    

Chuyển các câu hỏi sang câu xác định, khuyến khích thân chủ đảm nhận trách nhiệm và đương đầu trực tiếp với các vấn đề.

Những quy luật nêu trên được dựa trên cơ sở những hướng dẫn sau đây (Levitsky & Perls, 1970):

1.

    

Hãy sống trong hiện tại; quan tâm đến hiện tại thay vì quá khứ hoặc tương lai. Chúng ta đã dành quá nhiều thời gian để nói về quá khứ và tương lai. Thói quen này làm chúng ta xao lãng và giảm khả năng nhận biết hiện tại.

2.

    

Hãy sống tại đây, và hãy giải quyết những gì đang hiện diện thay vì đương đầu với những sự việc không có tại đây. Một trong những chiến lược né tránh mà chúng ta thường sử dụng là nhắm vào những điều không xảy ra thay vì là nhắm vào những gì đang có, nhắm vào người vắng mặt hơn là vào những người đang hiện diện.

3.

    

Hãy ngưng sự tưởng tượng và hãy trải nghiệm sự thật. Sự tưởng tượng đưa chúng ta rời xa những điều đang có trong thực tế, làm tắc nghẽn các trải nghiệm và sự nhận biết của chúng ta. Chúng ta đôi lúc đã mất đi khả năng nhìn thấy những gì là thật đối với chúng ta.

4.

    

Hãy ngưng những suy nghĩ không cần thiết; hãy nếm, hãy nhìn, hãy cảm… Lần cuối cùng bạn ăm cam là lúc nào? Khi ấy bạn chỉ ăn, cảm nhận, nếm và ngửi quả cam chứ không có một ý nghĩ nào về khái niệm quả cam cả? Chúng ta lâu nay cho phép sự suy nghĩ làm tắc nghẽn các giác quan của chúng ta, và chúng ta cần có thời gian để trở lại tiếp xúc với các giác quan ấy.

5.

    

Hãy thể hiện thay vì lý giải, giải thích, phê phán… Hãy học cách thể hiện bản thân mình một cách trực tiếp, để yêu cầu những gì bạn muốn, để chấp nhận bản thân và chấp nhận người khác vì những gì vốn dĩ họ như thế, chứ không vì những ngôn từ khéo léo của họ.

6.

    

Hãy trải rộng sự nhận biết của bạn bằng cách trải nghiệm những nỗi khổ đau lẫn những niềm vui thú. Sự nhận biết thực sự phải bao gồm cả những trải nghiệm tiêu cực lẫn tích cực, và nếu chúng ta sử dụng năng lượng của chúng ta để ngăn chận lại những trải nghiệm không vui thì chúng ta cũng sẽ phần nào mất đi khả năng cảm nhận được hạnh phúc.

7.

    

Đừng chấp nhận những điều khuyên răn, những cái “nên” và “không nên”. Thay vì thế hãy làm theo những quyết định của chính bạn và không cần phải theo đuổi những thần tượng. Chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm về những luật lệ, tập tục và những hành vi của chính mình.

8.

    

Nhận trách nhiệm hoàn toàn về những hành động, cảm xúc và suy nghĩ của bạn. Đây là bản chất của sự trưởng thành theo tư duy kiểu Gestalt. Hãy ngưng đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh và hãy tự quyết định, tự lựa chọn dù trong bất kỳ hoàn cảnh như thế nào.

9.

    

Hãy chấp nhận là người bạn vốn dĩ đã như thế. Hãy chấp nhận chính bản thân mình, chấp nhận con người mà ban đang là thay vì con người mà bạn hoặc người khác nghĩ bạn “nên” là.

Những trò chơi đối thoại (dialogue games) là những kỹ thuật có tính đặc trưng của liệu pháp Gestalt. Nó có thể được thực hiện bởi một trong hai cách: (1) đối thoại giữa hai “mặt” đối lập của cùng một thân chủ; (2) đối thoại giữa thân chủ với một người mà thân chủ vẫn đang trải qua xung đột.

Các kỹ thuật Gestalt khác bao gồm việc sử dụng sự nhận biết về hình ảnh và giác quan (imagery and sensory awareness), tập trung vào mối tương quan giữa hành vi bằng lời và không lời (vd, “Bạn nói bạn đang giận, sao bạn lại mỉm cười?”), thể hiện những huyễn tưởng ra ngoài bằng hành động (sắm vai để thể hiện những huyễn tưởng, kể cả những thành phần là sinh vật lẫn vật thể vô tri), lập lại và cường điệu hóa những hành vi bằng lời và không lời (“Bạn có thể dừng lại ở những cảm xúc đó được không?”, “Hãy đung đưa chân bạn mạnh hơn nào, và lập lại những gì bạn vừa nói, lớn lên, lớn lên!”); sắm những “vai trò được phóng chiếu” (projected roles) bằng cách làm cho người khác những gì mà người này làm đối với chính bạn, và hoàn tất những công việc chưa hoàn tất thông qua việc sắm vai tích cực. Những nhà trị liệu theo trường phái Gestalt cũng yêu cầu thân chủ diễn xuất các giấc mơ theo cùng cách thức mà họ diễn xuất các huyễn tưởng. Bất cứ một thành phần hoặc một “mảnh” của giấc mơ hoặc huyễn tưởng đều được xem là một khía cạnh trong con người của thân chủ, một hình ảnh ẩn dụ (metaphor) để hiểu những gì đang xảy ra tại đây và ngay lúc này.

Trường phái Gestalt thường sử dụng những câu hỏi quan trọng như:

-        

“Bạn đang trải nghiệm điều gì vào lúc này?”

-        

“Bạn đang ở đâu đây?”

-        

“Bạn đang muốn làm gì?”

-        

“Bạn đang làm gì lúc này?”

-        

“Bạn đang tránh né điều gì?”

Thân chủ được khuyến khích sử dụng những thông điệp có đại từ “tôi” để hoàn tất những câu nói như “Tôi biết rằng…”, “Hiện giờ, tôi cảm thấy rằng…” và “Tôi cho rằng…”. Nhà trị liệu Gestalt sử dụng những câu nói hướng dẫn như “Hãy nói

Tôi

thay vì là

,

điều đó”, “Hãy cảm nhận những điểm mạnh của bạn”, “Hãy cụ thể hơn nào”, “Nói lại điều ấy lần nữa xem nào… nói mạnh lên…”, “Hãy nói với con người mạnh mẽ bên trong bạn rằng nó nên làm những gì”, “Hãy hành động một cách ngốc nghếch xem nào”, “Hãy hành động như thể bạn bất cần đi nào”… Nhà trị liệu Gestalt thường chia sẻ những trải nghiệm mà mình có được về những gì thân chủ đang làm vào thời điểm hiện tại, ví dụ “Tôi nhận thấy bạn đong đưa chân khi bạn nói về điều ấy” hoặc “Linh cảm báo cho tôi biết rằng bạn đang sợ, như thể bạn đang muốn bỏ chạy và trốn đi”.

Mục đích của những chiến lược can thiệp về mặt cảm xúc là phát triển khả năng nhận biết các cảm xúc và nhận biết bản thân của thân chủ, bằng cách áp dụng những kỹ thuật như “lắng nghe có đáp ứng” và các thực nghiệm theo kiểu Gestalt với trọng tâm nhấn mạnh vào những gì đang diễn ra tại đây và ngay lúc này.

“Lắng nghe có đáp ứng” (responsive listening) được định nghĩa là sự chú tâm (lắng nghe, quan sát và hiểu) những thông điệp có lời và không lời, cùng những ý nghĩ, cảm xúc của thân chủ, dù ở dạng bộc lộ hay còn ẩn kín. Đây là một loại kỹ năng mà nói đến thì dễ hơn thực hiện rất nhiều, và được xem là kỹ năng cơ bản mà nhà trị liệu cần có để đáp ứng với thân chủ. Nó đòi hỏi nhà trị liệu cần phải phát triển một sự nhận biết rõ về bản ngã của mình như một công cụ để giao tiếp cũng như phải rèn luyện những kỹ năng lắng nghe và nhận hiểu người khác.

“Lắng nghe có đáp ứng” ngụ ý rằng nhà trị liệu có khả năng thông tin cho thân chủ biết về sự thấu cảm, chấp nhận và quan tâm của mình đối với thân chủ. Cùng lúc ấy, nhà trị liệu dùng cách làm rõ nghĩa câu nói của thân chủ (clarification) để có thể giúp thân chủ nâng cao khả năng hiểu biết vấn đề của họ. Vì thế, nhà trị liệu phải có khả năng thông tin cho thân chủ biết ông ta đã xác định và hiểu được những mối bận tâm suy nghĩ và những cảm xúc trong lòng thân chủ, cũng như thông tin cho thân chủ về những quan tâm chăm sóc của nhà trị liệu. Điều thiết yếu là nhà trị liệu phải hài hòa trong cung cách giao tiếp bằng lời lẫn không lời, nếu không thân chủ sẽ có thể trở nên nhầm lẫn khi tiếp nhận những thông điệp nước đôi, nhập nhằng từ nhà trị liệu.

Việc dùng những câu như “Đừng lo!” hoặc “Bạn nên…” không có lợi ích gì. Các kiểu đáp ứng này không hề giúp gì cho thân chủ trong việc nâng cao khả năng hiểu biết được bản thân họ.

Khi nào áp dụng các chiến lược can thiệp về cảm xúc

Các chiến lược áp dụng kỹ thuật lắng nghe có đáp ứng và phát triển một mối quan hệ có tính chân thành và thấu cảm thì rất phù hợp với những cá nhân không có khả năng giải bày cảm xúc của mình và không thể có được những mối quan hệ cá nhân thân thiết, có ý nghĩa với người thân trong gia đình và bạn bè. Kỹ thuật lắng nghe có đáp ứng có thể đủ để trở thành một chiến lược can thiệp duy nhất trong mối quan hệ hỗ trợ mà mục đích của nó là nhằm phát triển một ý niệm về bản ngã (self-concept) nơi thân chủ. Khi một thân chủ thường gặp khó khăn trong việc thiết lập những mối quan hệ liên cá nhân, lại có thể phát triển được một mối quan hệ chân thành, thân mật và có ý nghĩa với nhà trị liệu, thì khi ấy những trải nghiệm mà thân chủ có được từ nhà trị liệu sẽ có tính bền vững, không thể đảo ngược được. Một khi thân chủ đã thiết lập được một mối quan hệ theo kiểu này với một ai đó, thì sau đó, họ sẽ có khả năng nhận được những mối quan hệ thân tình với những người khác. Lắng nghe có đáp ứng cũng là một phương thức áp dụng phù hợp trong việc thiết lập những mối quan hệ ngắn hạn và không chính thức, khi mà một người cảm thấy có ai đó biết lắng nghe và hiểu được những mối bận tâm của bản thân mình thì điều đó tự nó đã hữu ích rồi.

Các kỹ thuật Gestalt đặc biệt hiệu quả ở những người thiếu khả năng nhận biết được về hành vi của họ, những người từ chối nhận lãnh trách nhiệm đối với bản thân và cuộc sống của họ, những người có sự tương tác một cách cứng nhắc, kiểu cách với môi trường sống, những người bị chìm đắm vào những việc chưa được hoàn tất trong quá khứ hoặc cứ suy đi nghĩ lại về tương lai, và những người mà bản thân dường như bị chia cắt làm đôi bởi vì họ đã từ chối hoặc loại bỏ đi một phần nào đó trong bản thân của họ. Các kỹ thuật Gestalt cũng đặc biệt hiệu quả đối với trẻ em, những con người thường hay tiếp xúc với thế giới huyễn tưởng và tưởng tượng nhiều hơn so với người lớn. Những kỹ thuật Gestalt nói chung không hiệu quả nhiều đối với những ai không muốn phát triển sự nhận biết cảm xúc của họ, những người đang cần tìm kiếm thông tin để thực hiện những quyết định về mặt nhận thức, những người đang trải qua một cơn khủng hoảng bất ngờ, và những người không có khả năng tưởng tượng hoặc huyễn tưởng hóa một cách đầy đủ để có thể tham gia vào các trò chơi và thực nghiệm theo kiểu Gestalt.

CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP CẢM XÚC-NHẬN THỨC (AFFECTIVE-COGNITIVE STRATEGIES)

Cơ sở của các chiến lược can thiệp cảm xúc-nhận thức là học thuyết tâm động học (psychodynamic theory). Mục đích chủ yếu của chiến lược này là nhằm mang các tư liệu ở tầng vô thức đưa ra khu vực ý thức, nhằm làm tăng cường sức mạnh của cái Tôi nơi thân chủ, khiến cho hành vi của thân chủ sẽ phải dựa trên những suy nghĩ có ý thức thay vì bị điều khiển bởi những bản năng trong vô thức. Nhân cách của thân chủ được tái cấu trúc bằng cách nhận được khả năng “nội thị” (insight): bao gồm sự nhận biết về mặt cảm xúc và sự thấu hiểu về mặt nhận thức. Mục tiêu của chiến lược là nhằm loại bỏ những tác động gây hại từ những mối lo âu bên trong nội tâm, mà những nỗi lo này vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của cơ chế dồn nén, sao cho thân chủ có thể sống một cách đầy đủ hơn trong hiện tại với khả năng tự hiểu biết bản thân và một sự bình an nội tâm. Điều này cho phép thân chủ có được những mối quan hệ có tính xây dựng hơn và khả năng sống tốt hơn.

Kỹ thuật

Các kỹ thuật chính yếu của liệu pháp tâm động học là liên tưởng tự do (free association), phân tích giấc mộng (dream anlysis) và diễn giải (interpretation). Đây là những kỹ thuật dùng đến lời nói (verbal techniques) nhằm cho phép thân chủ đẩy nhanh tốc độ phát triển nên một mối quan hệ chuyển di với nhà trị liệu, và sau cùng là giúp khơi thông các xung đột trong vô thức. Mục đích của liên tưởng tự do và phân tích giấc mộng là để giúp thân chủ dần dần hiểu được ý nghĩa của những tư liệu đang ở sâu trong tầng vô thức. Trọng tâm nhấn mạnh vào những trải nghiệm của thời thơ ấu; giúp thân chủ hiểu được mối liên hệ giữa những sự việc trong quá khứ với chức năng tâm trí hiện tại của họ.

Trong hiện tượng chuyển di (transference), thân chủ sẽ chuyển những cảm xúc, thái độ và xung đột được trải nghiệm trong quá khứ sang các tình huống và các mối quan hệ hiện tại. Bằng cách nhận ra hiện tượng này, thân chủ có thể nhận biết được những ảnh hưởng của nó trong tiến trình trị liệu. Watkins đưa ra năm khuôn mẫu chuyển di chính thường gặp trong quan hệ trị liệu, trong đó nhà trị liệu có thể được thân chủ nhìn nhận và cư xử theo như một trong số các hình tượng như sau: (1) một mẫu người lý tưởng (ideal); (2) một nhà tiên tri (seer); (3) một người bảo dưỡng (nurturer); (4) một người gây hụt hẫng (frustrator); và (5) một đối tượng phi thực thể (non-entity). Sự nhận thức theo mỗi mẫu người vừa nêu sẽ có ảnh hưởng lên trên thái độ và hành vi của thân chủ, đồng thời cũng ảnh hưởng lên trên những trải nghiệm của nhà trị liệu trong mối quan hệ. Chẳng hạn, nếu thân chủ xem nhà trị liệu như một nhà tiên tri, thân chủ sẽ trông đợi có được những lời khuyên và giải pháp của một chuyên gia; còn nhà trị liệu khi ấy sẽ có thể cảm nhận bản thân mình hoặc như một người toàn năng hoặc ngược lại như một người bất toàn vì đã không thể giải đáp thỏa đáng tất cả các câu hỏi của thân chủ. Trong trường hợp đó, nhà trị liệu cần áp dụng các chiến lược sao cho nó có thể chỉ ra được những nhu cầu lệ thuộc trong quá khứ của thân chủ cũng như phải làm rõ những mối quan hệ trong quá khứ của thân chủ với những người “có uy quyền”, và tập trung vào việc giúp thân chủ có được lòng tự tôn (self-esteem) và tính độc lập.

Khi nào áp dụng các chiến lược cảm xúc-nhận thức

Các kỹ thuật tâm động học là cần thiết đối với những người có những vấn đề thường xuyên và sâu xa trong nội tâm cần đến sự tái cấu trúc về nhân cách. Trừ khi được huấn luyện sâu về phân tâm học, bằng không bạn sẽ không thể làm được gì nhiều để mang đến sự hỗ trợ theo cách này.

CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP VỀ NHẬN THỨC (COGNITIVE STRATEGIES)

Các chiến lược can thiệp về nhận thức nhấn mạnh đến sự hợp lý, các tiến trình tư duy và sự hiểu biết. Cơ sở lý thuyết của chiến lược này là thông tin và các hệ thống thực hiện quyết định.

Kỹ thuật

Kỹ thuật ra quyết định (decision-making) được áp dụng cho các vấn đề về nhận thức, bởi vì các quyết định là những tiến trình nhận thức. Điều quan trọng là cần phải giúp thân chủ học được các kỹ năng ra quyết định sao cho họ được tự do nhiều hơn trong việc quản lý cuộc sống của họ.

Mặc dù có nhiều mô hình ra quyết định khác nhau, nhưng tiến trình cơ bản được khuyến cáo dành cho các mối quan hệ hỗ trợ bao gồm các bước sau đây:

1.

    

Làm rõ vấn đề

: Phải chắc chắn rằng bạn đã xác định vấn đề nào đang gây ra những khó khăn hiện tại. Vấn đề phải được xác định chính xác thì việc quyết định giải pháp mới có thể hiệu quả.

2.

    

Xác định và chấp nhận trách nhiệm trong việc giải quyết vấn đề

: Trừ khi người ra quyết định thấy được mình có sức mạnh để ra một quyết định, nếu không tiến trình ra quyết định sẽ trở nên vô ích. Con người nói chung không đầu tư sức lực vào việc quyết định nếu kết quả không cho họ lợi ích gì.

3.

    

Đề xuất tất cả các giải pháp khả thi cho vấn đề (động não)

: Thường chúng ta chỉ nghĩ đến những giải pháp có giới hạn. Sự động não cho phép chúng ta xem xét đến tất cả những giải pháp khả thi mà không phán xét chúng. Việc này giúp chúng ta có nhiều cơ hội mà từ đó có thể lựa chọn.

4.

    

Đánh giá từng giải pháp được đưa ra

bằng cách dựa vào những điều kiện thực tế và dựa vào những hệ quả theo giả thuyết (làm rõ giá trị của các giải pháp này). Có một số giải pháp sẽ bị chúng ta tự động loại bỏ, hoặc vì nó có tính không khả thi, hoặc vì nó làm tổn hại đến hệ thống các giá trị của chúng ta. Tuy nhiên, trước khi loại bỏ một giải pháp nào, chúng ta cũng nên đặt giả thuyết về tất cả các kết quả của nó.

5.

    

Đánh giá lại những giải pháp trong danh sách được lựa chọn sau cùng, những kết quả có thể có, cùng những nguy cơ có thể gặp khi thực hiện

: Các giải pháp được chọn sẽ được đưa vào một danh sách để chúng ta xem xét, mõi giải pháp cần phải được xem xét từng bước khi thực hiện và những kết quả có thể dẫn đến. Ở giai đoạn này, chúng ta lại có thể loại thêm một số giải pháp nữa.

6.

    

Quyết định chọn một giải pháp để thực hiện

: Dựa vào tất cả các bước xem xét và đánh giá nêu trên, chúng ta sẽ lựa chọn một giải pháp. Ở giai đoạn này, chúng ta thậm chí còn có thể liệt kê lại một danh sách các lựa chọn một lần nữa.

7.

    

Xác định cách thực hiện kế hoạch đã chọn, thực hiện như thế nào và khi nào thực hiện

: Đến đây, chúng ta sẽ nêu ra một cách chính xác những gì cần đến để thực thi quyết định này: ai cần làm điều gì, khi nào, ở đâu, cùng những phương tiện nào sẽ được cần đến, vv… Các quyết định nói chung thường đều thường không được thực hiện bởi vì chúng ta thất bại trong việc vượt qua giai đoạn này.

8.

    

Khái quát hóa sang các tình huống khác

: Việc này là bước đi có thể cần hoặc không cần đến, tuy nhiên nó có liên quan đến việc khám phá những tác động của quyết định đã chọn và của việc thực thi quyết định ấy đối với những tình huống sống khác ngoài tình huống khó khăn hiện tại.

9.

    

Đánh giá việc thực thi quyết định

: Đây bước tối hậu để xác định rằng việc thực thi kế hoạch và quyết định đã chọn là có thuận lợi hay không. Chúng ta rất thường hay nói rằng một sự lựa chọn nào đó là không hay, trong khi thực tế chính việc thực thi quyết định ấy mới là chuyện có sai sót.

Nhà trị liệu có thể thúc đẩy quá trình trên bằng cách làm rõ ý nghĩa, cung cấp thêm thông tin và đề xuất thêm nhiều giải pháp để lựa chọn trong giai đoạn động não. Trong những tình huống như hoạch định kế hoạch giáo dục và hướng nghiệp, những thông tin từ các trắc nghiệm có thể được sử dụng cho tiến trình quyết định. Việc thu thập và tổng hợp các thông tin thích đáng sẽ là một công cụ có giá trị trong quá trình quyết định.

Ngoài việc diễn giải kết quả trắc nghiệm và phổ biến các thông tin chính xác, nhà trị liệu còn áp dụng cách thức làm rõ giá trị, quan sát và hướng dẫn thân chủ học cách hiểu và vận dụng những dữ liệu nhận được từ các trắc nghiệm, các thông tin bằng văn bản hoặc lời nói, và các thông tin từ quan sát. Những dữ liệu này lại có thể giúp thân chủ làm rõ và giải thích các giá trị, thái độ và niềm tin của họ cũng như những phẩm chất và trách nhiệm của họ. Chính thân chủ mới là người quyết định sau cùng; người hỗ trợ chỉ mang đến sự giúp đỡ mà thôi.

Đôi khi, quá trình trị liệu không nhất thiết phải hoàn tất bằng việc có ngay một quyết định; cuộc làm việc có khi chỉ nhằm để giúp thân chủ có thêm thật nhiều thông tin trước khi người này có thể đưa ra quyết định sau cùng. Điều này thực sự là đúng đắn, vì có những lúc người ta đã ra những quyết định quá nhanh trước khi thâu thập tất cả những dữ liệu cần thiết.

Khi nào áp dụng các chiến lược can thiệp nhận thức

Các chiến lược can thiệp trên bình diện nhận thức và quyết định sẽ hiệu quả trong các tình huống tham vấn giáo dục, hướng nghiệp, cũng như trong bất kỳ tình huống sống nào cần đến kỹ năng quyết định và giải quyết vấn đề. Trong một số trường hợp, các quyết định cần có những thông tin thuộc loại suy nghĩ và hiểu biết; nhưng cũng có trường hợp trước khi quyết định người ta cần có những thông tin thuộc về thái độ và niềm tin.

CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP VỀ NHẬN THỨC - HÀNH VI (COGNITIVE-BEHAVIORAL STRATEGIES)

Các chiến lược nhận thức – hành vi là những phương thức cùng một lúc tác động trên cả tiến trình suy nghĩ lẫn các hành vi ứng xử của một con người. Cơ sở lý luận của các chiến lược này dựa trên giả thuyết cho rằng: những suy nghĩ không đúng cần phải được thay đổi trước khi xảy ra sự thay đổi về mặt hành vi. Một số học thuyết được vận dụng trong các chiến lược này bao gồm: trường phái trị liệu “cảm xúc – hợp lý” của Albert Ellis (RET: Rational-Emotive Therapy), liệu pháp thực tại của William Glasser (RT: Reality Therapy) và liệu pháp nhận thức - hành vi của Aaron Beck (CBT: Cognitive-Behavioral Therapy), cũng như từ học thuyết hành vi (Behavior Theory). Tính hợp lý và trách nhiệm là những khái niệm then chốt trong các phương pháp trị liệu này.

Kỹ thuật

Các kỹ thuật nhận thức – hành vi chủ yếu sử dụng lời nói và cần thiết phải có những “bài tập về nhà” (homework assignment) bên ngoài khuôn khổ các phiên trị liệu để thúc đẩy thân chủ chuyển những suy nghĩ mới vào các ứng xử và hành động’

Mô hình RET đã góp phần vào bằng một chiến lược khá hiệu quả gọi là “tái cấu trúc nhận thức” (cognitive restructuring), có nghĩa là: thay thế những suy nghĩ sai lầm bằng những suy nghĩ mới, hợp lý hơn. Chiến lược này bao gồm những kỹ thuật có tính chỉ dẫn như: huấn luyện (teaching), thuyết phục (persuading), thách thức (confronting), thiết kế bài tập về nhà (assigning homework). Mục đích của chiến lược tái cấu trúc nhận thức là nhằm giúp thân chủ kiểm soát được những tình cảm của họ bằng cách hướng dẫn họ có được những ý tưởng hợp lý hơn, ít gây tổn hại cho bản thân hơn và thuyết phục họ nhận ra sự phi lý của những ý tưởng mà họ đang có.

Albert Ellis (1962) đã xác định được nhiều kiểu ý tưởng phi lý như sau:

1.

    

Điều tối cần thiết đối với tôi là phải được mọi người yêu thương và chấp nhận vì tất cả mọi việc mà tôi làm

2.

    

Có những hành động xấu xa và sai trái, và những ai làm những hành động ấy đều phải bị trừng phạt thật nặng

3.

    

Thật là thảm hoạ, kinh khủng và đáng sợ khi những sự việc bên ngoài diễn ra không theo cách thức mà tôi mong muốn

4.

    

Phần lớn những bất hạnh của con người là do những nguyên nhân từ bên ngoài và bị áp đặt từ những người ngoài hoặc sự kiện bên ngoài

5.

    

 Nếu có điều gì đó đáng sợ hoặc nguy hiểm, thì tôi phải hết sức quan tâm đến nó

6.

    

Sẽ dễ hơn nếu tôi tránh né những khó khăn trong đời và tránh né những trách nhiệm bản thân thay vì là đối mặt với chúng

7.

    

Tôi cần một thứ gì đó khác hơn, mạnh hơn hoặc lớn hơn tôi, để tôi có thể trông nhờ vào đó

8.

    

Tôi nên là một người hoàn toàn giỏi dang, đầy đủ, thông minh và thành công về mọi phương diện

9.

    

Nếu có điều gì đó từng ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của tôi, việc ấy hẳn sẽ có ảnh hưởng đến tôi suốt đời

10.

Những gì mà người khác làm đều rất quan trọng cho sự hiện hữu của tôi, và tôi nên cố gắng thật nhiều để thay đổi chúng theo hướng mà tôi muốn

11.

Hạnh phúc có thể có được bằng cách ngồi yên và chẳng cần làm gì cả

12.

Tôi gần như không thể kiểm soát được những tình cảm của mình và lúc nào cũng phải cảm nhận được những điều gì đó

Những nhà trị liệu nào sử dụng các kỹ thuật nhận thức – hành vi sẽ liên tục lột bỏ những suy nghĩ sai lầm của thân chủ bằng cách nêu những suy nghĩ ấy ra cho thân chủ chú ý đến, chỉ cho họ thấy bằng cách nào mà các tư tưởng phi lý đó đã trở thành cơ sở cho các vấn đề của họ, minh họa bằng các liên kết theo trình tự A-B-C-D-E: trong đó A (Activating Event) là sự kiện khởi phát; B (Belief System) là hệ thống niềm tin; C (Consequences) là các hệ quả; D (Disputing Irrational Ideas) là sự loai bỏ các niềm tin phi lý và E (new Emotional Consequence / Effect) là hiệu ứng cảm xúc mới. Nhà trị liệu huấn luyện thân chủ cách suy nghĩ lại, phát ngôn lại những ý tưởng phi lý theo một cách thức hợp lý hơn, xây dựng hơn. Vì thế, nhà trị liệu sẽ trực tiếp phủ nhận và chối bỏ những câu phát biểu sai trái mà thân chủ cứ tự mình lập đi lập lại, và yêu cầu thân chủ phải thực hiện một số hoạt động (bài tập về nhà) mà những việc ấy sẽ có tác dụng như một lực đối trọng chống lại hệ thống những niềm tin phi lý của thân chủ.

Một bài tập về nhà có thể dưới hình thức thân chủ thực hiện theo những ý kiến hướng dẫn của nhà trị liệu mỗi khi cảm thấy buồn phiền vì những sự việc xung quanh không diễn ra tốt đẹp theo như ý muốn. Thân chủ sau đó báo cáo lại những gì họ đã làm ngoài những phiên trị liệu. Theo phương pháp của Ellis, những ý tưởng hợp lý như sau nên được hướng dẫn lại cho thân chủ:

1.

    

Không nhất thiết mỗi người phải được tất cả mọi người xung quanh thương yêu và chấp nhận. Con người có thể chú tâm vào việc yêu thương người khác thay vì là chỉ muốn người khác yêu thương mình.

2.

    

Tốt hơn hết là không nên chỉ đánh giá những giá trị của bản thân dựa vào những khía cạnh bên ngoài như sự giỏi dang, đầy đủ, thành đạt, mà còn phải đặt trọng tâm vào lòng tự trọng và được chấp nhận do bởi những gì bản thân mình làm được.

3.

    

Những người làm điều sai trái không nhất thiết phải bị buộc tội hoặc bị trừng phạt, mà nên được xem là những kẻ ngu dốt, khờ khạo hoặc có những xáo trộn về cảm xúc.

4.

    

Hạnh phúc mà một con người có được và duy trì được là do việc người ấy xem xét các sự vật như thế nào hơn là do bản thân các sự vật quyết định.

5.

    

Nếu có một việc gì đó nguy hiểm thì người ta nên đối mặt với nó và làm cho nó bớt nguy hiểm, chứ không nên xem là thảm họa.

6.

    

Cách duy nhất để giải quyết các nan đề là đương đầu với chúng một cách trực tiếp

7.

    

Tốt hơn hết, mỗi người nên tự đứng trên đôi chân của chính mình, đặt lòng tin vào bản thân và dùng khả năng của mình để giải quyết các hoàn cảnh khó khăn hơn là phải phụ thuộc vào người khác.

8.

    

Mỗi người nên nhìn thấy bản thân mình là không hoàn hảo, có những hạn chế tự nhiên và cũng có thể sai lầm.

9.

    

Người ta nên học từ các kinh nghiệm trong quá khứ, nhưng không nên bị gắn quá chặt vào chúng hoặc có những thành kiến bởi chúng.

10.

Những khuyết điểm của người khác chủ yếu là những vấn đề của họ, nếu làm áp lực để bắt họ thay đổi thì sẽ không thể giúp họ làm gì được.

11.

Con người thường hạnh phúc nhất khi họ tích cực theo đuổi và đạt đến những mục đích bên ngoài bản thân mình.

12.

Người ta có khả năng kiểm soát được những tình cảm của mình nếu lựa chọn cách thức làm việc để có được những ý tưởng mới và hợp lý.

Rõ ràng là việc chỉ một lần nêu ra các ý tưởng sai lầm vẫn chưa đủ để đưa đến sự thay đổi hành vi bền vững. Thay vào đó, nhà trị liệu phải liên tục “công phá” hết đợt này đến đợt khác vào hệ thống những niềm tin phi lý nơi thân chủ. Nhà trị liệu cũng phải yêu cầu thân chủ hoàn tất việc thực hiện những bài tập về nhà, mà chính những việc làm này mới là sự minh họa cụ thể cho sự thay đổi hành vi nơi thân chủ.

Liệu pháp thực tại (RT) áp dụng một kỹ thuật khác trên bình diện nhận thức – hành vi, bao gồm 8 bước sau đây:

1.

    

Thiết lập quan hệ với thân chủ, thông tin (cả bằng lời nói lẫn hành động) cho thân chủ biết rằng “Tôi đang lưu tâm đến anh”

2.

    

Hãy tập trung vào những gì “tại đây và ngay lúc này”, không tham khảo nhiều vào quá khứ và cũng tránh việc “dây dưa” vào các cảm xúc. Điều mà một người làm với chính họ thì quan trọng hơn các cảm xúc của họ.

3.

    

Yêu cầu thân chủ đánh giá những hành vi của chính họ và tự hỏi: “Trong những điều mình làm, điều gì là đúng?”, “Việc đó giúp ích gì cho mình… cho người khác…?”. Nếu thân chủ không thể đánh giá được hành vi của họ, điều cần làm có lẽ sẽ là trở lại bước 1 và thân chủ cần phải quyết định rằng họ có muốn thay đổi hành vi của mình hay không.

4.

    

Vạch một kế hoạch thay đổi hành vi và hỏi thân chủ “Bạn nghĩ việc này có thể được thực hiện tốt nhất theo cách thức như thế nào?”. Giúp thân chủ định hình một kế hoạch. Để thân chủ lựa chọn, nhà trị liệu đưa ra các đề xuất nhưng không cung cấp một kế hoạch trọn vẹn. Kế hoạch cần ngắn gọn, chuyên biệt và cụ thể (“Bạn sẽ làm việc đó khi nào? Như thế nào?”), có tính tích cực thay vì là tiêu cực và có tính trừng phạt, và kế hoạch cũng cần có tính khả thi cao.

5.

    

Thực hiện một hợp đồng cam kết thực hiện theo kế hoạch. Nếu cần có thể viết ra một bản cam kết về cách thức thực hiện việc thay đổi hành vi và hỗ trợ cho việc này thành công. Hợp đồng cam kết được làm giữa thân chủ và nhà trị liệu.

6.

    

Chấp nhận mà không cần đến những lời bào chữa hay xin lỗi nếu thân chủ không thực hiện theo kế hoạch. Nếu hợp đồng trên không được thân chủ làm theo, hãy hỏi thân chủ “Khi nào bạn có thể thực hiện việc này?” chứ không hỏi “Tại sao bạn không làm việc này?”. Nếu không thành công, hãy đi theo kết quả tự nhiên của việc không làm theo kế hoạch, rồi sau đó quay trở lại các bước ban đầu để làm một kế hoạch mới.

7.

    

Thân chủ nên biết và tham gia vào việc làm ra các luật lệ. Áp dụng các hệ quả tự nhiên khi luật lệ bị vi phạm chứ không dùng những biện pháp trừng phạt.

8.

    

Không bao giờ từ bỏ việc giúp thân chủ.

Nhà trị liệu khi áp dụng các kỹ thuật của liệu pháp thực tại sẽ trở nên quan tâm nhiều hơn đến thân chủ; còn thân chủ sau đó có thể sẽ bắt đầu đánh giá hành vi của chính bản thân họ và sẽ thấy được những gì ở bản thân họ là phi thực tế. Nhà trị liệu thách thức thân chủ đối diện với thực tại và cứ lập đi lập lại việc yêu cầu thân chủ quyết định xem họ có thực hiện những việc làm có trách nhiệm hay không. Nhà trị liệu có thể phản bác những hành vi thiếu thực tế của thân chủ, nhưng vẫn giữ thái độ tôn trọng và chấp nhận con người của thân chủ. Nhà trị liệu sẽ hướng dẫn cho thân chủ những cách thức để đáp ứng các nhu cầu mà không gây tổn thương cho bản thân và cho người khác. Thân chủ sẽ chịu trách nhiệm về hành vi của mình, sẽ làm việc trong bối cảnh hiện tại, sẽ học cách đánh giá khía cạnh đạo đức trong hành vi của họ và sẽ học được những cách thức ứng xử hiệu quả hơn.

Liệu pháp thực tại của William Glasser áp dụng một chiến lược có tính chất huấn luyện nhằm trực tiếp giải quyết các giải pháp chọn lựa của thân chủ. Triết lý cơ bản của liệu pháp này là thân chủ có thể quyết định được việc họ có còn bị phiền nhiễu nữa hay không.

Liệu pháp nhận thức – hành vi (CBT) của Aaron Beck lại vận dụng một loạt các chiến lược mà cốt lõi bao gồm những kỹ thuật tác động vừa trên bình diện nhận thức lẫn trên bình diện hành vi. Phần nhiều những kỹ thuật của Beck cũng gần giống với kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức của A. Ellis (liệu pháp RET). Một số kỹ thuật mà Beck thường áp dụng gồm có: “tổng duyệt lại” về nhận thức (cognitive rehearsal) để phát hiện ra những điều gì đang gây cản trở trong suy nghĩ, liên hệ cảm xúc với các hành vi bằng cách tưởng tượng thật chi tiết những tình huống sống thực ngay trong các phiên trị liệu, vận dụng những phương pháp “kiểm định thực tại” (reality testing) như tìm kiếm những cách thức để đáp ứng lại với những suy nghĩ tiêu cực, sắp xếp các công việc, tích cực kiểm định những suy nghĩ và giả định có tính tiêu cực.

Việc giúp thân chủ nhận biết và lìa xa những tư duy sai lầm sẽ có thể tránh được những sai lầm tương tự về sau. Beck (1976) liệt kê ra 7 bước của kỹ thuật kiểm định thực tại minh họa cho việc vận dụng chiến lược trị liệu của ông:

1.

    

Xác định những ý nghĩ và những lời nói nào ở thân chủ có tính chất tiêu cực và khiến cho thân chủ bị vướng mắc vào những cảm xúc không hay

2.

    

Hỏi thân chủ xem họ tin vào các ý tưởng đó đến mức độ như thế nào và theo họ có nhiều khả năng xảy ra một sự kiện tiêu cực hay không.

3.

    

Kiểm tra những cảm xúc có liên quan đến các ý tưởng này, vd. “Khi tự nói với mình về điều đó, nó khiến bạn cảm thấy như thế nào?”

4.

    

“Tháo dỡ” tính kiên định của những ý tưởng như thế bằng cách đặt những câu hỏi mở, nhẹ nhàng dẫn thân chủ thăm dò đến những chứng cứ: tìm hiểu kết quả từ những tình huống tương tự trong quá khứ, các kết quả khác nhau và tần số xuất hiện những kết quả ấy, số lần xảy ra những tình huống tương tự nhưng cho kết quả tốt hơn hoặc xấu hơn so với những kết quả được tưởng tượng ra trong hiện tại…

5.

    

Đánh giá (cho điểm) khả năng có những tác hại trong tương lai. Vd, “Việc sau này bạn không thể tìm được một người khác giống như anh ấy có nhiều khả năng xảy ra không? Bạn đánh giá khả năng ấy như thế nào? Một phần mười? Hay một phần trăm?”

6.

    

Tiếp tục thách thức thân chủ đối diện với thực tại.

7.

    

Kiểm tra lại lòng tin của thân chủ đối với những ý tưởng ban đầu mà họ có, sau khi đã làm việc qua những bước nêu trên.

Lưu ý: những kỹ thuật nhận thức – hành vi bao gồm cả những công việc như đánh giá (evaluation) và phán xét (judgment) của nhà trị liệu, qua đó các ý tưởng cũng như hành vi của thân chủ sẽ được đánh giá là hợp lý hay phi lý, có trách nhiệm hoặc thiếu trách nhiệm. Nhà trị liệu tuy vậy sẽ

không

áp đặt các giá trị của mình lên trên thân chủ, thay vì thế, nhà trị liệu sẽ xem xét và đánh giá các giá trị của thân chủ. Nói cách khác, nhà trị liệu thách thức thân chủ, nhưng không trừng phạt hoặc phản bác họ vì họ đã không có những giá trị và niềm tin “đúng đắn”. Các phương pháp này có nhiều khác biệt với những chiến lược của những liệu pháp “hiện tượng học” (phenomenological strategies) như liệu pháp Gestalt và liệu pháp thân chủ trọng tâm, vì các liệu pháp này có tính không phê phán (non-judgmental) và không đánh giá (non-evaluative).

Khi nào áp dụng các chiến lược nhận thức – hành vi

Các chiến lược nhận thức – hành vi được áp dụng với nhiều đối tượng và hoàn cảnh khác nhau, tại các trường học, bệnh viện, xí nghiệp, các cơ sở giáo huấn… Liệu pháp “cảm xúc-hợp lý” (RET) có thể không hiệu quả đối với những thân chủ có trình độ học vấn thấp, không đủ khả năng theo đuổi một sự phân tích hợp lý, hoặc những thân chủ quá gắn chặt vào những tình cảm khiến cho họ không thể làm theo những phương thức có tính duy lý. Liệu pháp thực tại (RT) cũng có thể áp dụng được trên rất nhiều loại thân chủ. Liệu pháp CBT của Beck ban đầu có hiệu quả chuyên biệt trên những thân chủ bị trầm cảm, và hiện nay còn được áp dụng trên nhiều loại rối loạn khác. Các loại liệu pháp này đòi hỏi những khả năng diễn đạt bằng lời nói và thân chủ phải có động cơ muốn thay đổi.

CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP TRÊN BÌNH DIỆN HÀNH VI (BEHAVIORAL STRATEGIES)

Các chiến lược hành vi có cơ sở lý luận dựa trên lý thuyết về học tập (learning theory) và tập trung vào những hành vi chuyên biệt, có thể quan sát được chứ không phải những cảm xúc hoặc ý nghĩ. Nhà trị liệu chỉ có thể đánh giá được hiệu quả của những chiến lược này bằng cách quan sát những thay đổi cụ thể trên những hành vi chuyên biệt ấy.

Kỹ thuật

Nhà trị liệu cần có một số kỹ năng sau đây để có thể thực hiện những chiến lược về hành vi:

1.

    

Hiểu được những khái niệm và nguyên lý về tác nhân củng cố (reinforcement), sự trừng phạt (punishment), sự loại trừ (extinction), sự phân biệt (discrimination), định dạng (shaping), tiếp cận tuần tự (successive approximation) và việc lập các kế hoạch thực hiện sự củng cố (schedules of reinforcement).

2.

    

Có khả năng xác định được những hành vi đích có tính chuyên biệt mà thân chủ muốn thay đổi.

3.

    

Có khả năng xác định và đánh giá những điều kiện khởi phát hành vi đích ấy.

4.

    

Có khả năng thu thập những dữ liệu cơ bản ban đầu (baseline data) về tần suất và cường độ của những hành vi đích ấy.

5.

    

Có khả năng xác định và đánh giá những điều kiện gây ra hành vi đích cũng như những điều kiện duy trì (củng cố) hành vi đích ấy.

6.

    

Có khả năng tìm ra những tác nhân củng cố nào có ý nghĩa đối với thân chủ.

7.

    

Có thể áp dụng các kế hoạch thực hiện sự củng cố một cách khả thi và có ý nghĩa.

8.

    

Có đủ các kiến thức cơ bản, thiết kế và vận dụng những kỹ thuật khác nhau của trị liệu hành vi.

9.

    

Có khả năng đánh giá các kết quả của các chiến lược can thiệp trên bình diện hành vi.

Có nhiều kỹ thuật thay đổi hành vi đã được mô tả và áp dụng. Trong bài viết này chỉ trình bày các kỹ thuật làm mẫu (modeling), lập hợp đồng thỏa thuận (contracting), huấn luyện tính quyết đoán (assertiveness training) và giải cảm ứng có hệ thống (systematic desensitization).

- Làm mẫu

: Đây là phương thức được dựa trên nguyên lý cho rằng con người học tập các hành vi mới dựa trên sự bắt chước theo các khuôn mẫu hành vi, thái độ, niềm tin và các giá trị từ những người quan trọng trong cuộc sống của mình. Việc làm mẫu cũng có thể được thực hiện thông qua sắm vai (role playing), sử dụng các phương tiện truyền thông (media), và trong các tình huống tham vấn cá nhân hoặc tham vấn nhóm. Điều quan trọng cần nhớ là nhà trị liệu cũng chính là một khuôn mẫu - một khuôn mẫu đầy tiềm năng - đối với thân chủ trong tiến trình trị liệu.

Trong khi làm việc với thân chủ, nhà trị liệu cần ý thức rõ về ảnh hưởng của bản thân mình như một khuôn mẫu đối với thân chủ, đồng thời cũng phải tìm hiểu ảnh hưởng của những khuôn mẫu khác đã có trong đời sống thân chủ, kể cả những khuôn mẫu có ảnh hưởng tích cực lẫn những khuôn mẫu có ảnh hưởng tiêu cực.

- Hợp đồng thỏa thuận

: Phương thức này được dựa trên nguyên lý về tác nhân củng cố (reinforcement), cho rằng hành vi nào được củng cố thì sẽ có khả năng được đương sự lập lại. Một hợp đồng về thực hiện hành vi là một loại thỏa thuận có tính chuyên biệt giữa thân chủ và nhà trị liệu nhằm phân tách những hành vi đích (target behavior) ra những thành phần nhỏ hơn và cung cấp những tác nhân củng cố một cách có hệ thống để bảo đảm có thể thực hiện được hành vi này.

Hợp đồng có thể không chính thức (informal) theo kiểu thỏa thuận “Nếu bạn làm việc X, tôi sẽ làm việc Y”; hoặc cũng có thể chính thức dưới dạng một văn bản, có những qui định rõ về loại hành vi cụ thể nào cần được thực hiện, những hình thức tưởng thưởng nào sẽ được áp dụng, những trách nhiệm cùng những điều kiện được qui định để có thể thực hiện và theo dõi việc thực hiện hợp đồng.

- Huấn luyện tính quyết đoán

: Được sử dụng cả trong các loại trị liệu nhận thức cũng như trị liệu hành vi. Nó bao gồm việc thay đổi những hệ thống niềm tin nơi thân chủ bằng cách huấn luyện cho họ những cách thức quyết định dựa vào những quyền hạn của chính mình miễn là họ không gây phương hại hoặc xâm phạm đến quyền hạn của người khác. Loại huấn luyện này nhắm đến việc làm giảm lo âu nơi thân chủ bằng cách chỉ cho họ cách thức nói ra những điều mà họ muốn nói. Phương thức thực hiện có thể bao gồm sắm vai, minh họa, làm mẫu, hướng dẫn bằng lời… theo cách tiếp cận tuần tiến (successive approximation) để đạt đến một đáp ứng mong muốn.

- Giải cảm ứng có hệ thống

: Bao gồm việc phân tách các hành vi đáp ứng lo âu ra nhiều thành phần nhỏ hơn, sau đó cho thân chủ tiếp xúc dần với những hình ảnh của các hành vi này trong khi cơ thể họ ở trạng thái thư giãn sâu. Lý thuyết này cho rằng một đáp ứng lo âu (anxiety response) có thể được điều kiện hóa (được học tập) thì cũng có thể được điều kiện hóa ngược lại (không học). Một cách thức để thực hiện điều kiện hóa ngược đối với một đáp ứng lo âu là “ghép cặp” đáp ứng ấy với một tình trạng không tương thích – trong trường hợp này chính là trạng thái thư giãn sâu của cơ thể, một trạng thái có thể ức chế bớt sự lo âu. Các kích thích gây lo âu từ bên ngoài sẽ dần dần mất đi sức mạnh của nó, và thân chủ sẽ không cần hao tổn năng lượng cho những đáp ứng lo âu nữa. (Xem thêm chi tiết trong các bài viết về trị liệu hành vi).

Khi nào áp dụng các chiến lược can thiệp về hành vi

Các chiến lược can thiệp về hành vi có tác dụng trên một diện đối tượng khá rộng, đặc biệt là đối với những thân chủ gặp khó khăn khi sử dụng các kỹ thuật cần nhiều đến sự giao tiếp bằng lời nói, và nói chung các chiến lược hành vi thường mất ít thời gian hơn.

Đặc biệt các phương pháp làm mẫu rất có tác dụng đối với những thân chủ không tin tưởng chắc chắn vào bản thân và cần đến những sự hướng dẫn chuyên biệt cụ thể. Hợp đồng thỏa thuận là hình thức phù hợp với những gia đình và tổ chức, nơi mà sự áp dụng tác nhân củng cố có thể được thực hiện tức thời và có thể theo dõi được. Huấn luyện tính quyết đoán phù hợp với những thân chủ hay e thẹn và bị ức chế, hoặc trong những “nhóm trị liệu nâng cao ý thức” của các thân chủ nữ (women’s consciousness-raising group). Giải cảm ứng có hệ thống có tác dụng tốt trong việc trị liệu các chứng ám ảnh sợ (phobia), ví dụ sợ nước, sợ đi máy bay…

CÁC CHIẾN LƯỢC CAN THIỆP ĐA BÌNH DIỆN

Các chiến lược can thiệp đồng thời trên các bình diện cảm xúc, nhận thức và hành vi có thể kể ra ở đây bao gồm: phân tích tương giao (T.A.), trị liệu hệ thống và các liệu pháp có tính chiết trung – tổng hợp.

Các loại liệu pháp có tính chiết trung có thể được áp dụng khi các vấn đề của thân chủ không thể hiện rõ ràng trên một bình diện cụ thể, hoặc khi có sự đan xen ảnh hưởng lên hai hoặc ba bình diện khác nhau. Những nhà trị liệu có quan điểm chiết trung tin rằng khi chiến lược can thiệp được áp dụng trên nhiều bình diện thì khả năng thay đổi ở thân chủ sẽ càng dễ xảy ra hơn.

Liệu pháp tổng hợp của Arnold Lazarus

(thường được gọi là

Multimodal Therapy

) nổi tiếng với mô hình BASIC-ID, là một ví dụ về khuynh hướng chiết trung trong việc chọn lựa các kỹ thuật trị liệu. Lazarus đã vận dụng một kiểu chiến lược can thiệp có tính uyển chuyển và chuyên biệt hóa trên từng cá nhân, thông qua đó ông có thể áp dụng một cách phối hợp nhiều loại kỹ thuật xuất phát từ nhiều trường phái trị liệu khác nhau mà không nhất thiết phải trung thành với những niềm tin ban đầu của các học thuyết ấy. Việc chọn lựa các kỹ thuật trị liệu đã gắn kết việc trị liệu với các nhu cầu và tính chất đặc trưng của từng thân chủ. Phương pháp nhấn mạnh vào 7 khía cạnh ở một thân chủ mà nhà trị liệu cần lưu ý đến, đó là: hành vi (B: behavior), cảm xúc (A: affect), cảm giác (S: sensation), tư duy hình ảnh (I: imagery), nhận thức (C: cognition), quan hệ liên cá nhân (I: interpersonal relationship) và các yếu tố thực dưỡng/hoá dược (diet/drugs). Lazarus thực ra đã đề xuất nên một tính chiết trung về mặt kỹ thuật hơn là tính chiết trung về mặt học thuyết. Ông tin rằng nhà trị liệu nên quan tâm đến tính hiệu quả của những kỹ thuật khi áp dụng vào trị liệu những vấn đề chuyên biệt của thân chủ, thay vì quan tâm đến những quan điểm lý thuyết về nguyên nhân hoặc ý nghĩa của các vấn đề mà thân chủ gặp phải.

Các kỹ thuật phân tích tương giao (T.A.: transactional analysis)

Các kỹ thuật của trường phái T.A. (xem bài riêng) bao gồm: phân tích các trạng thái cái Tôi, phân tích các mô hình giao tiếp và các tương giao, phân tích các “trò chơi” và các kịch bản sống. Những thực nghiệm và các trò chơi của trường phái Gestalt cũng có thể được áp dụng để hỗ trợ thêm cho những kỹ thuật này. Nhà trị liệu vận dụng cả ba trạng thái cái Tôi của bản thân mình (P, A và C) để khởi hoạt trạng thái cái Tôi A của thân chủ như một thành phần chủ đạo trong nhân cách. Nhà trị liệu sử dụng cái Tôi P của mình để mang đến cho thân chủ sự bảo bọc, chăm sóc và cho phép; sử dụng cái Tôi A của mình để cung cấp cho thân chủ những kỹ năng và sự hỗ trợ chuyên môn; đồng thời sử dụng cái Tôi C của mình để tạo nên sự vui thú và khả năng trực giác.

Một kỹ thuật của T.A. được biết với tên gọi là “dưỡng dục lại” (reparenting) cho phép thân chủ thay đổi cái Tôi P cũ kỹ, có tính võ đoán bằng một cái Tôi P mới có tính chất bảo bọc, từ đó giúp thân chủ có thể “viết lại kịch bản sống” cho chính họ (rescripting), tức là thay đổi những khuôn mẫu quyết định đã có sẵn từ thời thơ ấu. Nhà trị liệu có thể áp dụng các kỹ thuật đối thoại theo kiểu Gestalt để giúp thân chủ sắm vai và thể hiện các trạng thái cái Tôi khác nhau khi tương tác với người khác.

Các chiến lược can thiệp của trường phái T.A. đặc biệt có hiệu quả đối với những thân chủ có vấn đề trong các mối quan hệ liên cá nhân hoặc có chức năng sống không đầy đủ (do có các hiện tượng “ô nhiễm” hoặc “loại bỏ” trong khi vận hành các trạng thái cái Tôi). Kỹ thuật T.A. không phù hợp với những người thiểu năng tâm thần vì thân chủ cần phải hiểu rõ các thuật ngữ và khái niệm của T.A. trước khi nhà trị liệu áp dụng các kỹ thuật.

Các chiến lược can thiệp theo quan điểm hệ thống (systems strategies)

Trị liệu hệ thống là chiến lược can thiệp được lựa chọn khi mục tiêu trị liệu là nhằm giúp cải thiện các kỹ năng quan sát và giao tiếp của thân chủ, đồng thời cải thiện các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài gia đình của họ. Trọng tâm của trị liệu nhắm vào các quan hệ liên cá nhân. Vấn đề của một cá nhân được xem xét bên trong bối cảnh của hệ thống các mối quan hệ của người đó, bất kể là có bao nhiêu người trong hệ thống đó tìm đến trị liệu. (Xem thêm bài viết

Tổng quan về trị liệu hệ thống

trong Website này)

Một kỹ thuật thường được sử dụng có tên gọi là “tái định dạng nhận thức” (reframing), qua đó nhà trị liệu giúp thân chủ nhìn nhận lại vấn đề một cách tích cực hơn dưới nhãn quan hệ thống, ví dụ họ có thể nhận thấy vấn đề rối loạn hành vi ở một đứa trẻ có thể có ý nghĩa tích cực vì đã giúp cho cha mẹ của nó tạm ngưng xung đột và cùng ngồi lại với nhau.

Một số kỹ thuật khác có thể kể ra bao gồm: huấn luyện các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, “chỉ định nghịch lý một triệu chứng” (paradoxical prescription), kỹ thuật “tạc tượng gia đình” (family sculpting), vẽ biểu đồ gia tộc (genogram)…

Quan điểm hệ thống luôn có vai trò quan trọng trong mọi trường hợp, trong tất cả mọi loại thiết chế, vì không có cá nhân nào sống riêng lẻ trong khoảng chân không cả. Dù nhà trị liệu làm việc với một cá nhân, một cặp vợ chồng, hoặc làm việc với toàn bộ gia đình; dù người hỗ trợ làm việc với một học sinh, một lớp học hay toàn thể nhà trường, vấn đề của một cá nhân đều phải được xem xét trong mối liên quan với hệ thống mà cá nhân đó đang thuộc về, cũng như phải xem xét cách thức mà hệ thống này ảnh hưởng trên người ấy. Ở đây, cái quan trọng chính là ở yếu tố quan điểm, chứ không hẳn là ở một số kỹ thuật chuyên biệt nào

Tóm lại,

Không có một chiến lược hoặc một kỹ thuật nào có thể phù hợp với tất cả các vấn đề và ở tất cả các thân chủ. Tất cả các chiến lược can thiệp đều cần được huấn luyện, giám sát và trải nghiệm đầy đủ trước khi có thể được áp dụng một cách hiệu quả.

CÁC PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU TÂM LÝ

 BS NGUYỄN MINH TIẾN

dịch

Tom Gredler,

đã nghĩ hưu được 6 năm. Ông đã hoạch định trước việc nghỉ hưu của mình: nhưng rồi ông nhận thấy rằng thời gian rảnh rỗi đưa ông tới những đợt trầm cảm (depression). Nhà máy sản xuất những vật phẩm bằng giấy, nơi ông làm việc đã từng là cả cuộc đời của ông. Ông đã làm việc cật lực trong nhiều năm đến nỗi không có một thú vui hoặc một hoạt động nào khác. Giờ đây, 6 năm sau khi nghỉ hưu, ông cảm thấy buồn chán, bất an trước những thử thách và có những cơn lo âu.

Tom Gredler chưa từng được biết về những cơn lo âu như thế. Những nỗi sợ hãi mà ông cảm thấy làm nhịp tim đập nhanh, huyết áp tăng và cảm giác nghèn nghẹn ở cổ, là những triệu chứng chính của cơn lo âu cấp diễn. Lần bị cơn đầu tiên, ông đã đi tắm và nằm nghỉ. Lần thứ hai ông uống một ly bourbon. Lần thứ ba cơn xảy ra khi ông đang lái xe khiến ông suýt đâm sầm vào xe tải. Tom tìm đến bác sĩ gia đình để xin giúp đỡ. Ông thắc mắc không biết mình có bị bệnh tim không. Vị bác sĩ nhanh chóng nhận diện triệu chứng và chuyển ông đến một nhà tâm lý lâm sàng (clinical psychologist). Trước khi gọi điện cho nhà tâm lý, ông còn bị hai cơn như vậy nữa, có một cơn vào lúc nửa đêm.

Nhà tâm lý cũng trạc tuổi Tom, ông đã từng thấy nhiều người bị những cơn khủng hoảng tương tự khi về hưu. Công việc đầu tiên là giúp cho Tom nhận ra vấn đề của mình. Phải mất bốn buổi làm việc với nhà tâm lý Tom mới nhận ra ông có đang cảm giác thiếu thốn, ông thấy rằng không ai còn nhờ cậy ông nữa, và thấy rất nhớ công việc ở nhà máy. Ông nhớ lại những giá trị mà công việc hằng ngày đã mang lại cho đời sống của ông, và ông không biết rằng tình trạng stress đã xảy ra khi ông không còn làm việc nữa. Nhà trị liệu đã giúp Tom nhận ra nỗi sợ hãi của mình, giúp Tom có những ý tưởng thực tế về những điều ông có thể và không thể trông đợi từ việc hưu trí của ông, cũng như từ gia đình và bạn bè của ông.

Trường hợp của Tom không phải là ít. Nhiều người khi về hưu đã bị stress trong cái giai đoạn mà lẽ ra họ phải tận hưởng những lợi ích sau nhiều năm lao động miệt mài. Đối với nhiều người, về hưu đồng nghĩa với việc trú ẩn an toàn, một thời gian để an hưởng. Tuy nhiên, với một số người khác, về hưu có thể là khoảng thời gian khủng hoảng, phiền não, nhìn lại và nhận ra những lỗi lầm và cả thành công của bản thân. Khi về hưu, nhiều người đã tự hỏi liệu đời sống hiện tại và đời sống trong quá khứ, giai đoạn nào có ý nghĩa hơn?

       Trong khi tự hỏi và tự ngờ vực như vậy, nhiều người dùng thời gian này để xác định xem điều gì là quan trọng đối với họ và tổ chức lại trước khi tiếp tục đáp ứng với những thử thách khác. Tuy nhiên, đôi khi sự tự ngờ vực diễn ra quá mức, dẫn đến lo âu, không hạnh phúc, kém thích nghi. Nhiều trường hợp thích nghi được nhờ những nhà chuyên môn, Tom lựa chọn sự trị liệu tâm lý. Những người trầm cảm nặng có thể cần đến thuốc chống trầm cảm, hoặc nặng hơn, có thể trị liệu bằng sốc điện. Người được chẩn đoán là tâm thần phân liệt có thể cần đến những thuốc chống loạn thần (antipsychotic drugs). Người có rối loạn ít nghiêm trọng hơn có thể được trị liệu bằng cách như tự chuẩn bị những chế độ ăn cho mình hoặc luyện tập thể lực. Các nhà tâm lý không loại trừ những sự lựa chọn những hình thức trị liệu ấy. Thật tế, trong nhiều trường hợp, đây là phương pháp điều trị được ưa thích. Tuy nhiên, trị liệu tâm lý là phương pháp mà hầu hết các nhà tâm lý dùng để điều trị những rối loạn cảm xúc. Trị liệu tâm lý (psychotherapy) là trị liệu những tình trạng kém thích nghi bằng biện pháp tâm lý. Mục đích là giúp người ta đương đầu tốt hơn với đời sống và giúp người ta có lối sống thoả

đáng hơn về mặt cảm xúc. trị liệu tâm lý có thể giúp những người như Tom thích nghi được với những tình huống thử thách mới trong khi đời sống của họ luôn luôn thay đổi.

Nói chung, liệu pháp tâm lý có hai loại:

liệu pháp nội thị

(insight therapy) cố gắng giúp đương sự hiểu được những động cơ đằng sau hành vi của họ. Các nhà trị liệu nội thị cho rằng sự kém thích nghi và hành vi bất thường xảy ra khi người ta không hiểu chính mình một cách đầy đủ. Trái lại,

liệu pháp hành vi

(behavior therapy), đôi khi được gọi là

sửa đổi hành vi

(behavior modification), được dựa trên giả định rằng hầu hết các hành vi, kể cả bình thường hay bất thường, đều do “học tập” mà có. Các nhà trị liệu hành vi cố gắng thay đổi những hành vi bất thường và kém thích nghi bằng cách dùng những nguyên tắc học tập (learning principles). Những kỹ thuật đặc hiệu dùng trong trị liệu tâm lý thay đổi tuỳ theo quan điểm của nhà trị liệu tâm lý về cách phát triển nhân cách và cách phát triển những hành vi bất thường. Ngoài những phương pháp trị liệu tâm lý khác nhau, bài này còn đề cập những yếu tố liên quan đến việc lựa chọn một nhà tâm lý trị liệu thích hợp nhất đối với những vấn đề đặc thù của đương sự và một số điều kiện cần thiết để điều trị hiệu quả.

NHỮNG YẾU TỐ GIÚP ĐIỀU TRỊ TÂM LÝ HIỆU QUẢ

Nhiều người tìm kiếm trị liệu tâm lý như Tom đã thắc mắc liệu cách can thiệp này có thực sự giúp ích cho họ không. Việc trị liệu bằng cách nói chuyện có thực sự mang lại điều gì đổi khác hay không. Câu trả lời thật đơn giản: việc trị liệu là có hiệu quả - nhưng không phải tất cả những phương pháp trị liệu, nhà trị liệu và các thân chủ đều giống nhau cả. Nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến hiệu quả đến việc trị liệu tâm lý. Trong số đó, yếu tố quan trọng nhất là phái tính, nhân cách, kinh nghiệm và sự cảm thông của nhà trị liệu. Bất kể việc trị liệu tâm lý thuộc loại nào, một số yếu tố cần phải có ở nhà trị liệu lẫn thân chủ để việc trị liệu tạo được sự thay đổi. Trước tiên, một nhà trị liệu tốt phải bày tỏ với thân chủ sự quan tâm, hiểu biết, tôn trọng, cư xử khéo léo, sự chín chắn và khả năng giúp đỡ. Thứ hai, nhà trị liệu tốt phải có những đề xuất, khích lệ, diễn giải, ví dụ và (có lẽ) cả khen thưởng để giúp thân chủ thay đổi và suy nghĩ lại về tình huống của mình. Thứ ba, thân chủ phải sẵn lòng thực hiện một số thay đổi trong suy nghĩ và lối sống của mình; những thay đổi hành vi của thân chủ sẽ không xảy ra chỉ vì có một người khác muốn họ được hạnh phúc. Một nhà trị liệu có hiểu biết, khách quan và dễ chấp nhận sẽ tạo điều kiện thuận lợi để thay đổi hành vi, nhưng chính thân chủ sẽ là người thực hiện hành vi đó.

Các yếu tố khác như tầng lớp xã hội, tuổi tác, sự giáo dục, kỳ vọng vào việc. trị liệu và mức độ lo âu của thân chủ cũng quan trọng. Động cơ đúng đắn cũng là điều quan trọng; thật khó lòng giúp đỡ hay trị liệu một thân chủ có tính miễn cưỡng.

Giúp một thân chủ có một động cơ để thay đổi thường là mục tiêu đầu tiên của việc trị liệu. Tất cả nhà trị liệu cần nhạy bén trước tất cả những yếu tố này.

       Thông thường người ta cho rằng nhiều thân chủ có thể giảm bớt triệu chứng của họ mà không cần trị liệu tâm lý. Quan điểm này liên hệ đến một yếu tố chung của hai liệu pháp nội thị và liệu pháp hành vi: đó là

hiệu ứng placebo. Hiệu ứng placebo là

khi sự thay đổi hành vi ra như kết quả của một sự thay đổi kỳ vọng nơi đương sự hơn là kết quả của bất kỳ điều trị đặc hiệu nào. Các thầy thuốc thấy rằng khi bệnh nhân được kê toa những viên thuốc đường vô hại và được bảo rằng những viên thuốc này có thể trị được bệnh, thì đôi khi những triệu chứng bệnh cũng giảm bớt. Tương tự, những người được trị liệu tâm lý cũng có thể giảm triệu chứng, đơn giản chỉ vì họ được đưa vào trị liệu và giờ đây đang trông chờ sự thay đổi. Hiệu ứng placebo trong trị liệu tâm lý chỉ xảy ra thoáng

qua; bất kỳ một hiệu quả trị liệu nào có tính lâu dài đều có nhiều khả năng là do sự cố gắng của thân chủ và của nhà trị liệu trong quá trình trị liệu.

Có nhiều thử thách đối với hiệu quả của trị liệu tâm lý. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều cho rằng trị liệu tâm lý rất có hiệu quả. Một trong số những nghiên cứu quan trọng nhất của Smith và Glass (1977), dùng các kỹ thuật thống kê tinh vi để phân tích kết quả của những phương pháp trị liệu khác nhau. Những nghiên cứu phân tích hiệu quả toàn bộ của trị liệu tâm lý cũng cho thấy hiệu quả tích cực trong một số lớn các tình huống. tuy nhiên, hiệu quả trị liệu thay đổi tùy theo loại rối loạn được trị liệu. Ví dụ, trị liệu tâm lý có tỉ lệ thành công cao với những chứng ám ảnh sợ đặc hiệu (specific phobia), nhưng ít thành công với những bệnh tâm thần phân liệt, trị liệu nhóm dài hạn được thấy hiệu quả hơn trị liệu cá nhân ngắn hạn trong một số rối loạn, và trị liệu hành vi thường là phương pháp có hiệu quả nhất ở trẻ em.

Nhiều nhà nghiên cứu đoan chắc rằng hầu hết các cách trị liệu tâm lý đều tương đương nhau, nghĩa là bất kể phương pháp nào được áp dụng, kết quả thường là như nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà nghiên cứu đều tin rằng như vậy. Nhà tâm lý nổi tiếng Alan Kazdin (1986) khẳng định nghiên cứu về hiệu quả của điều trị tâm lý là rất khó thực hiện và khó diễn giải. Ông cho rằng những nghiên cứu như thế thường được thực hiện trong một điều kiện lý tưởng, dùng những biện pháp tiếp cận hạn hẹp, không thể mô phỏng những tình huống trị liệu như trong thực tế. Ví dụ, nghiên cứu thường được thực hiện với những thân chủ được thu hút qua các quảng cáo trên báo; liệu những nghiên cứu như thế có tính phổ quát đối với số thân chủ thực tế không? Kazdin không nói rằng những nghiên cứu đó không nên thực hiện, nhưng mục tiêu hạn hẹp của nó cần được đánh giá cẩn thận và cần pahỉ phát triển thêm những nghiên cứu mới. Có lẽ sẽ vô vọng khi trả lời câu hỏi: “phương pháp trị liệu nào tốt nhất?”; thay vì vậy, việc trả lời cho một câu hỏi như: “phương pháp trị liệu nào hữu ích cho thân chủ nào, với vấn đề nào và với nhà trị liệu như thế nào?” có lẽ sẽ được diễn đạt tốt hơn. Không phải tất cả các thân chủ, nhà trị liệu, phương pháp trị liệu và thời gian trị liệu đều tương ứng nhau. Vì những lý do này, việc nghiên cứu về trị liệu cần nhắm vào cả lý thuyết và thực hành. Trị liệu tâm lý là có hiệu quả, nhưng việc nghiên cứu được thực hiện để khảo sát đã không được hòan hảo như các nhà tâm lý thực hành mong muốn. Các chiến lược nghiên cứu mới về trị liệu tâm lý còn đang được triển khai. Khi có thêm nhiều nghiên cứu được hoàn chỉnh, chúng ta có thể thấy rõ phương pháp trị liệu nào là hiệu quả đối với rối loạn nào, cho đối tượng nào.

 Về mặt thực hành, làm thế nào thân chủ và nhà trị liệu biết được việc trị liệu là có tiến bộ? Theo Mahrer và Nadler (1986), có 11 dấu hiệu của tiến triển tốt trong trị liệu:

1.

    

Thân chủ đang cung cấp và bộc bạch những tư liệu riêng tư có ý nghĩa

2.

    

Thân chủ đang khám phá những ý nghĩa của cảm xúc và sự việc

3.

    

Thân chủ đang khám phá những tư liệu mà họ tránh né trước khi trị liệu

4.

    

Thân chủ đang bày tỏ khả năng nội thị đáng kể trong hành vi cá nhân của họ

5.

    

Thân chủ có cách giao tiếp chủ động, nhanh nhẹn, giàu nghị lực

6.

    

Có một quan hệ quý trọng lẫn nhau giữa nhà trị liệu và thân chủ

7.

    

Thân chủ tự do bày tỏ những cảm xúc mạnh của mình (tích cực hoặc tiêu cực) đối với nhà trị liệu

8.

    

Thân chủ bày tỏ những cảm xúc mạnh ngoài thời gian trị liệu

9.

    

Thân chủ hướng đến một hệ thống những đặc trưng nhân cách khác

10.

Thân chủ biểu hiện sự cải thiện khả năng ngoài lúc trị liệu

11.

Thân chủ cho thấy có tình trạng tổng quát tốt, những cảm xúc tốt và thái độ tích cực.

 LIỆU PHÁP NỘI THI (INSIGHT THERAPY)

Khi trải qua những thay đổi trong cuộc sống, đôi lúc con người sẽ thay đổi những ứng xử theo cách khác với bình thường. Một số người trở nên sống cô lập, một số người bị trầm cảm; một số tìm kiếm những quan hệ mới. Tom Gredler, người mở đầu chương sách này, đã bị những cơn lo âu, Tom đã tìm sự giúp đỡ của nhà trị liệu, và để làm việc đó, đầu tiên ông phải cố gắng hiểu được những cảm xúc của mình. Nếu Tom đến gặp một nhà trị liệu nội thi (insight therapist), có lẽ ông sẽ phải giành nhiều thời gian để khám phá những mối quan hệ và những cảm xúc trước đây đối với những người có ý nghĩa trong đời của ông. Thông qua việc khám phá bằng lời nói ấy, Tom có thể nhận biết được những mâu thuẫn quan trọng trong đời sống của ông, cũng như những động lực thực sự của ông.

Hai điều mặc định cơ bản của liệu pháp nội thị là: (1) việc nhận ra động cơ của bản thân sẽ giúp đương sự thay đổi và trở nên thích nghi hơn; và (2) những mâu thuẫn mà đương sự không tự nhận biết được (và do vậy không giải quyết được) là nguyên nhân của tình trạng kém thích nghi.

Mục đích của liệu pháp nội thị là chữa trị những nguyên nhân của hành vi bất thường hơn là chữa trị chính những hành vi đó. Liệu pháp nội thị giúp thân chủ xem xét đời sống dưới một nhãn quan khác để họ có thể lựa chọn những lối sống thích nghi hơn. Phần này sẽ trình bày tiêu biểu 3 phương pháp của liệu pháp nội thị.

Phân tâm học (Psychoanalysis)

Phân tâm học của Freud chú trọng giúp người bệnh bộc lộ những động cơ vô thức - Những động cơ đã dẫn đến những mâu thuẫn tâm lý và hành vi kém thích nghi. Phân tâm học được thực hiện bởi các nhà trị liệu được đào tạo chuyên biệt về lý thuyết lẫn thực hành. Hầu hết các nhà tâm lý lâm sàng, kể cả những người định hướng theo kiểu trị liệu nội thị, đều không phải là các nhà phân tâm. Tuy nhiên, nhiều nhà trị liệu sử dụng một liệu pháp có ít liên hệ hoặc bắt nguồn từ lý thuyết của Freud. Các nhà tâm lý cho rằng những lý thuyết như vậy được dựa trên cơ cấu

tâm động học(psychodynamic).

Phương pháp phân tâm không phải là thích hợp với tất cả mọi người, vì có nhiều vấn đề khó khăn khi thực hiện phân tâm như: người bệnh phải tham gia tích cực, phải phát âm rõ ràng, có khả năng nắm bắt được những mối quan hệ phức tạp và tinh vi đang được khám phá. Nhiều người đến trị liệu đã không tham gia tích cực hoặc không đủ khả năng tài chính để theo đuổi trị liệu phân tâm. Việc trị liệu phân tâm cổ điển bao gồm việc gặp gỡ nhà phân tâm 1 giờ mỗi ngày, 5 ngày/ tuần, một trị liệu phân tâm điển hình có thể tốn đến 100.000 USD. Nhiều người rõ ràng đã không thể đầu tư đủ thời gian, tiền bạc và sức lực cần thiết để hòan tất đủ một quá trình trị liệu phân tâm.

Mục đích trị liệu

       Theo lý thuyết Freud, các mâu thuẫn giữa những suy nghĩ và quá trình vô thức gây ra hành vi kém thích nghi. Là kết quả của một sự mất cân bằng giữa

cái Ấy

(Id), cái Tôi

(Ego) và

cái Siêu Tôi

(superego). Những mâu thuẫn này hiếm khi được đương sự nhận biết trực tiếp. Những người tìm đến trị liệu tâm lý đã không hài lòng với hành vi của họ, nhưng lại không có khả năng thay đổi được. Mục đích của trị liệu phân tâm là giúp người bệnh hiểu được những động cơ vô thức đã kiềm giữ không cho họ thay đổi. Chỉ khi người bệnh nhận biết được những động cơ vô thức đã chi phối hành vi của họ, lúc đó họ mới thực sự tự do chọn lựa những hành vi mà từ đó cho phép họ hướng đến đời sống mãn nguyện hơn. Vì trị liệu phân tâm dựa trên sự phát triển mối tương quan đặc biệt giữa nhà

trị liệu và bệnh nhân, cho nên tính tương hợp (compatibility) là điều bắt buộc. Trong vài buổi gặp đầu tiên, nhà trị liệu và bệnh nhân phải quyết định xem mình có thoải mái để cùng làm việc với nhau hay không.

Kỹ thuật

Trị liệu phân tâm sử dụng một vài kỹ thuật được thiết kế để giúp người bệnh và nhà trị liệu đưa ra ánh sáng và khảo sát những đòi hỏi gây mâu thuẫn của nhân cách người bệnh. Hầu hết những kỹ thuật này là đặc hiệu của phân tâm học. Ví dụ, người bệnh trong trị liệu phân tâm kinh điển sẽ nằm trên một băng ghế, và nhà trị liệu thì ngồi ngoài tầm nhìn của người bệnh. Kiểu bố trí này cho phép bệnh nhân cám thấy thư giãn hơn, ít lo sợ hơn khi có sự hiện diện của nhà trị liệu. Tương tự, vì Freud tin rằng những hành vi hiện nay có thể là kết quả của những động cơ vô thức có cơ sở từ những kinh nghiệm hoặc những sang chấn từ thời thơ ấu, nhiều kỹ thuật được dùng trong phân tâm học có liên quan đến việc khám phá những kinh nghiệm trước đó. Những đồ đệ của Freud ít nhiều bớt cứng nhắc hơn trong khi sử dụng các kỹ thuật của Freud. Ví dụ, các nhà phân tâm hiện nay thường dùng cách tiếp xúc mặt-đối-mặt hơn là sử dụng chiếc ghế dài. Các kỹ thuật sắp bàn đến dưới đây thường được cập nhật để thỏa mãn những yêu cầu của nhà phân tâm học và bệnh nhân.

Hai kỹ thuật chính trong phân tâm học là

liên tưởng tự do

(free association) và

phân tích giấc mộng

(dream analysis). Trong liên tưởng tự do, bệnh nhân được yêu cầu hãy nói ra bất kỳ điều gì xảy ra trong đầu mình, dẫu cho nó có vẻ rất tầm thường hoặc vô nghĩa, và dù cho người bệnh có muốn hay không muốn bộc lộ những ý nghĩ nó ra hay không. Những mục đích của liên tưởng tự do là nhằm giúp người bệnh nhận diện những mối liên hệ và những mô hình trong ý nghĩ của họ và cho phép vô thức tự thể hiện mà không bị “kiểm duyệt”. Mặc dù người bệnh có khuynh hướng tự kiểm duyệt những ý nghĩ, ký ức, suy nghĩ mà họ thấy xấu hổ, ngượng ngùng hoặc khó nói đến, một người nếu làm việc tích cực với nhà trị liệu phân tâm sẽ không cố kiềm giữ bất kỳ một thông tin nào.

Trong phân tích giấc mộng, người bệnh được yêu cầu mô tả lại giấc mơ của mình cho nhà trị liệu một cách chi tiết. Nhà trị liệu thậm chí còn khuyến khích người bệnh mơ mộng. Freud tin rằng giấc mơ là phản ánh của vô thức trong cố gắng tự thể hiện một cách có ý thức. Vì những giấc mơ cung cấp một con đường đi đến những tư liệu của cõi vô thức, mục đích của phân tích giấc mộng là khám phá, với sự giúp đỡ của nhà trị liệu, ý nghĩa của những giấc mơ của bệnh nhân và vì thế sẽ bộc lộ những ước muốn, những động cơ vô thức của người ấy.

Hai khái niệm khác của phân tâm học là

kháng cự

(resistance) và

chuyển di

(transference). Kháng cự (hoặc phản kháng) là tình trạng người bệnh không sẵn lòng hợp tác với nhà trị liệu, đôi khi đến mức chống đối. Nhà phân tâm thường diễn giải hành vi này có nghĩa là người bệnh mong muốn tránh né việc bàn đến một chủ đề riêng biệt nào đó; hoặc là một giai đoạn đặc biệt khó khăn của việc trị liệu đang đến gần. Để giảm thiểu khả năng kháng cự, nhà trị liệu phải cố gắng chấp nhận hành vi của người bệnh. Khi nhà trị liệu không phán xét, mà chỉ lắng nghe, người bệnh sẽ dễ dàng hơn trong việc giải thích và mô tả các cảm xúc của mình một cách hoàn toàn. Người bệnh cũng học được cách chấp nhận những cảm xúc ấy.

       Trong hiện tượng chuyển di, người bệnh chuyển những cảm xúc có được về một mối quan hệ trước đây sang cho nhà trị liệu. Bằng cách cho phép sự chuyển di xảy ra, nhà trị liệu sẽ tạo cơ hội cho người bệnh hiểu được những cảm xúc ấy tốt hơn và có thể hướng dẫn hoặc điều khiển đương sự trong việc thám sát những tư liệu bị dồn nén hoặc khó

nhận biết. việc khảo sát những ý nghĩ hay cảm xúc mà trước đó được coi là không thể chấp nhận được (và vì thế bị dồn nén) sẽ giúp người bệnh hiểu được và xác định được những mâu thuẫn nằm phía sau chi phối những hành vi của người ấy.

Nhà phân tâm theo hướng ego-analysis (Phân tích cái Tôi)

Một số nhà phâm tâm được gọi là

ego-analysist

hoặc

ego-pshychologist

đã cải biên một số ý tưởng của Freud về phân tâm học. Giống như Freud, các nhà phân tâm này coi phân tâm học là phương pháp thích hợp để trị liệu những bệnh nhân bị rối loạn cảm xúc. Tuy nhiên, không giống Freud, họ cho rằng con người có thể kiểm soát có ý thức đối với những đòi hỏi bức bách về mặt sinh học: kiểm soát việc chúng có thể được bộc lộ hay không, bộc lộ khi nào, bằng cách nào. Những nhà phân tâm theo nhóm này chấp nhận một liệu pháp nhằm giúp người bệnh phát triển mạnh hơn khả năng kiểm soát của cái Tôi, tức phần nhân cách điều hành theo những nguyên lý thực tế và cố gắng kiểm soát hành vi bằng cách đáp ứng một cách thực tế đối những đòi hỏi của môi trường. Các nhà phân tâm cổ điển chủ yếu chú trọng đến phần vô thức trong cái Ấy và cái Siêu Tôi, và sau đó mới làm gia tăng khả năng kiểm soát của cái Tôi ở người bệnh.

Tính hiệu quả

Vì trị liệu phân tâm quá tốn tiền và mất thời giờ, nên dễ hiểu là đã có sự lưu ý về tính hiệu quả của nó. Ít có nghiên cứu so sáng nào được thực hiện để cho thấy trị liệu phân tâm có hiệu quả như những liệu pháp khác, trừ việc nó không hiệu quả hơn những liệu pháp khác.

Liệu pháp thân chủ trọng tâm (Client-centered therapy)

Liệu pháp thân chủ trọng tâm được phát triển bởi Carl Rogers, cũng là liệu pháp nội thị, nhưng khác với phân tâm học, nó cho rằng con người có khả năng đáng kể về lựa chọn, kiểm soát và ý chí tự do trong việc xác định hành vi của họ. Freud nhìn thấy con người vốn dĩ có tính ích kỷ và thích hưởng lạc, và những vấn đế về hành vi được xem xét là do những xung năng có tính đối kháng (conflicting impulses). Trái lại, Rogers lại nhìn thấy con người cơ bản là những cá thể tốt, thuần thục và có tính xã hội, luôn tiến bộ và trưởng thành hơn. Đối với các nhà trị liệu theo trường phái Rogers, các hành vi “có vấn đề” xảy ra khi môi trường ngăn cản đương sự phát triển và thể hiện tiềm năng vốn có của con người. Những mặc định sau đây giúp định hình liệu pháp của Rogers:

1. “Nhân chi sơ tính bổn thiện” con người vốn dĩ là tốt, có thể đương đầu hiệu quả với môi trường

2. Hành vi của con người là có mục đích, được chi phối bởi những mục đích

3. Những người lành mạnh có thể nhận biết mọi hành vi của họ và có thể lựa chọn mô hình hành vi của họ

4. Những hành vi của thân chủ chỉ có thể được hiểu từ những quan điểm của người đó. Ngay cả khi thân chủ không diễn giải được những sự kiện trong thế gian, nhà trị liệu phải hiểu được cách thức thân chủ xem xét những sự kiện này

5. Trị liệu chỉ hiệu quả khi thân chủ thay đổi hành vi của mình, chứ không phải khi nhà trị liệu thực hiện điều đó.

Mục đích trị liệu

       Roger xem nhân cách được cấu trúc xung quanh cái Ngã (self). Ông tin rằng con người có một khuynh hướng bẩm sinh muốn hiện thực hóa chính mình cùng những khả năng của mình. Trong suốt cuộc đời, con người sẽ đi về hướng

cái Ngã lý tưởng

(Ideal self) của mình, trở nên trưởng thành được thỏa mãn nhờ quá trình

tự hiện thực hóa

(self-actualization). Sự hiểu biết cái Ngã cũng là điểm trung tâm trong liệu pháp của Rogers.

Mục đích của liệu pháp Rogers là giúp cho con người thực hiện những thay đổi: giải phóng những tiềm năng sẵn có ở một con người vốn có năng lực thuần thục. Theo Rogers thân chủ yêu cầu nhà trị liệu giúp đỡ họ trong tiến trình tự hiện thực hóa và hình thành cái Ngã mạnh mẽ. Một nhà trị liệu theo phương pháp Rogers không mang đến một sự

chữa trị(cure). Thay vào đó nhà trị liệu sẽ giúp thân chủ có một nhãn quan thực tế (một ý nghĩa về một cái Ngã) rồi từ đó xem xét thế giới.

Kỹ thuật

Để giúp thân chủ khám phá và hiện thực hóa một cái Ngã chưa được khám phá, liệu pháp thân chủ trọng tâm của Rogers có tính chất

không hướng dẫn

(non-directive). Trong liệu pháp không hướng dẫn, nhà trị liệu sẽ không hướng dẫn thân chủ, mà tạo điều kiện cho thân chủ phát triển khả năng tự xem xét. Thân chủ học cách đánh giá thế giới dựa trên những ưu điểm của chính mình, với sự diễn giải rất ít của nhà trị liệu. Nhà trị liệu sẽ xem xét thân chủ và tình trạng sức khỏe của thân chủ từ

chính quan điểm của người đó. Thậm chí, dùng chữ “thân chủ” thay cho chữ “bệnh nhân” cũng là điều bắt buộc trong phương pháp trị liệu của Rogers. Trong phân tâm học, nhà trị liệu hướng dẫn người bệnh cách “chữa trị” và giúp họ hiểu được hành vi của họ. Trong liệu pháp Rogers, nhà trị liệu không phải có uy quyền toàn năng. Một “giáo lý” cơ bản của phương pháp trị liệu thân chủ trọng tâm là nhà trị liệu phải là người ôn hòa, biết chấp nhận, biết thể hiện những cảm xúc tích cực đối với thân chủ. Để hóa giải những kinh nghiệm tiêu cực của thân chủ đối với những nguời không biết chấp nhận, vì thế đã tin rằng mình là người “xấu”, nhà trị liệu phải bày tỏ sự tôn trọng vô điều kiện và sự quan tâm tích cực. Họ cố gắng chấp nhận và nhận biết một cách đầy đủ những tình cảm của thân chủ, khuyến khích thân chủ nói ra những cảm xúc ấy, bất kể thân chủ nói hoặc làm điều gì.

Sự thấu cảm

(empathic understanding) này là một phần quan trọng trong quan hệ điều trị. Nhà trị liệu chấp nhận thân chủ là một người vừa có điểm tốt vừa có điểm không tốt, tôn trọng các giá trị của thân chủ.

Trong liệu pháp thân chủ trọng tâm, thân chủ học cách đánh giá lại thế giới bằng cách sử dụng hệ tham chiếu mới. Riêng trong liệu pháp Rogers, thân chủ phải học cách làm rõ và chấp nhận những quan điểm của chính họ để cảm thấy mình có giá trị và được mãn nguyện. Mặc dù cách nhà trị liệu thân chủ trọng tâm có tính chất không hướng dẫn, tuy vậy họ vẫn phải được đào tạo thuần thục. Khi họ phát hiện ra một hành vi hoặc một thái độ không đúng, họ có thể hướng dẫn thân chủ đơn giản bằng cách đặt câu hỏi thích hợp, hoặc đáp ứng lại bằng những lời cảm thán “ồ” hay “à, à”. Thậm chí, chỉ bằng những cử động nhỏ như một cái gật đầu, một cái khoát tay họ có thể giúp thân chủ đi đúng hướng.

       Trong liệu pháp Rogers, nhà trị liệu và thân chủ ngồi đối diện nhau, thường là ngồi trên những chiếc ghế

đặt cùng một bên của bàn làm việc.  Một không khí làm việc tập trung được duy trì thay vì một không khí thư giãn, và thân chủ được dẫn vào cuộc hội thoại. Lúc đầu, thân chủ có khuynh hướng bày tỏ những thái độ và ý tưởng được người khác chấp nhận. Vì thế, một cảm giác ép buộc phải thành công có thể nói “tôi nên đạt điểm cao trong các khóa học của mình” khi cô muốn ngụ ý rằng “bởi vì cha mẹ tôi mong muốn tôi thành đạt”. Khi cuộc trị liệu tiếp diễn và thân chủ cảm nhận được sự thấu cảm từ nhà trị liệu, người nữ thân chủ thường sẽ dùng những ý tưởng của chính mình để đánh giá bản thân. Kết quả là cô sẽ nói về mình bằng những cách tích cực hơn và cố gắng cư xử như chính cô muốn hơn là theo cách mà cô nghĩ là người khác muốn cô phải có. Giờ đây, cô có thể tuyên bố đại loại như: “Tôi nên đạt điểm cao trong các khóa học vì chúng có ý nghĩa với tôi”. Lời tuyên bố này phản ánh một tái độ mới, tích cực hơn, dễ chấp nhận hơn

về chính bản thân cô. Khi thân chủ cảm nhận tốt hơn về chính mình, cô sẽ dần dần yêu cầu nhà trị liệu cho cô biết làm thế nào để đương đầu với thế giới và có thể cô đã sẵn sàng rời khỏi sự trị liệu.

Liệu pháp Gestalt

Liệu pháp Gestalt khác biệt đáng kể so với phân tâm học và liệu pháp thân chủ trọng tâm. Nó thoát ra khỏi những cách trị liệu nội thị cổ điển như phân tâm học, bằng cách nhấn mạnh vào cảm xúc và hành vi hiện có. Liệu pháp này cho rằng

con người có trách nhiệm với chính mình và đời sống của mình, và điều cần chú trọng không phải là quá khứmà là hiện tại.

Fredrick S. Perls (1893-1970) là người khởi xướng liệu pháp Gestalt. Là một thầy thuốc và là một nhà phân tâm được đào tạo tại châu Âu, ông đã đến Hoa Kỳ và nói chung được xem như một kẻ bị giới phân tâm ruồng bỏ. Thay vì nhấn mạnh lý do “tại sao” của những hành vi trong quá khứ như Freud và Rogers, Perls nhấn mạnh vào những sự kiện trong hiện tại là “cái gì” và diễn ra “như thế nào”. Perls cho rằng cách tốt nhất để giúp bệnh nhân chấm dứt lo âu và các cảm giác không thoải mái khác là phải nhắm vào sự hiểu biết và nhận thức của người bệnh về thế giới trong hiện tại hơn là những tình huống và kinh nghiệm trong quá khứ.

Mục đích trị liệu

Các nhà trị liệu Gestalt tin rằng những người không nhận biết một cách đầy đủ những sự kiện xung quanh họ sẽ cảm thấy yếu đuối, bị cách ly, tràn ngập sự căng thẳng, và bị héo mòn dần.

Bởi những nỗi sợ hãi, lo âu khiến che phủ sự nhận biết của họ về thực tại. Chỉ khi nào đương sự nhận biết được cái gì “tại đây và vào lúc này” (here and now) thì họ mới trở nên nhạy cảm với những căng thẳng và dồn nén mà trước đó đã gây ra nơi họ những hành vi kém thích nghi. Một khi họ nhận biết được những cảm xúc hiện tại của mình và chấp nhận chính mình, người bệnh sẽ có thể hiểu hành vi trước đây và hoặc định những hành vi thích hợp trong tương lai. Vì thế,

mục đích của liệu pháp Gestalt là mở rộng sự nhận biết của người bệnh về những thái độ và cảm xúc trong hiện tại (self-awareness), và từ đó chức năng thích nghi tự nhiên có thể họat động trở lại.

Từ quan điểm của trường phái Gestalt, một người lành mạnh là người đang tiếp xúc với những cảm xúc của mình và với thực tế. Khi một người có một “công việc chưa hoàn tất”, hoặc một mâu thuẫn chưa được giải quyết, những cảm xúc này phải được giải quyết (Perls gọi những mâu thuẫn này là những “Gestalt chưa hoàn tất”). Vì thế, việc trị liệu theo các nhà tâm lý Gestalt nhắm vào việc tái lập lại và hướng đương sự trở về cái Ngã toàn vẹn của chính mình.

Kỹ thuật

Liệu pháp Gestalt không tập trung vào việc bộc lộ các căn nguyên từ quá khứ đối với các hành vi hiện tại. Nó khảo sát những cảm xúc và hành vi mà thân chủ có lẽ không nhận biết được. Liệu pháp Gestalt nên được xem là một liệu pháp dựa trên kinh nghiệm được thiết kế nhằm giúp thân chủ tự phát triển một cách hoàn hảo hơn trước những tình huống hiện tại. Nhà trị liệu thường yêu cầu tập trung vào những cảm xúc trong hiện tại về một kinh nghiệm khó khăn trong quá khứ. Giả định cơ bản cho rằng những cảm xúc được biểu lộ hiện tại có thể được hiểu và giải quyết dễ dàng hơn là những đáp ứng và những sự kiện được gợi nhớ lại. Vì thế, các nhà trị liệu Gestalt có thể yêu cầu người bệnh làm sống lại một tình huống và bàn về điều đó như thể nó đang xảy ra trong hiện tại.

Nhiều kỹ thuật Gestalt được thiết kế để giúp bệnh nhận tỉnh táo hơn đối với những cảm giác quan trọng trong bản thân họ và về môi trường xung quanh họ. Một trong số những kỹ thuật đó là cho người bệnh thay đổi cách thức mà họ nói về thế giới, để nói về những cảm xúc và tình cảm như thể chúng là của một người khác. Một kỹ thuật khác là yêu cầu thân chủ cư xử theo một cách thức trái ngược lại với cách mà họ cảm thấy. Ví dụ, một người cảm thấy thù địch và gây hấn với ông chủ của mình có thể được yêu cầu hãy cư xử như thể anh ta có một mối quan hệ ôn hòa và đầy tình cảm với ông chủ của mình. Quan điểm cho thân chủ sử dụng những lời lẽ khác và giải quyết tình huống theo những cách khác là nhằm giúp họ hiểu được cảm xúc thật sự của họ và vì thế mở rộng những hiểu biết của họ về thế giới. Những lo âu trước đó được kinh qua trong hiện tại và được hướng vào những hành vi có tính xã hội hơn, sáng tạo hơn.

Mục đích trị liệu là nhằm giúp người bệnh giải quyết những mâu thuẫn cũ và cho phép họ giải quyết được những mâu thuẫn trong tương lai. Việc trị liệu không “cố định” con người; hơn nữa, nó còn giúp chính bản thân họ và cho phép họ sống thích nghi trong tương lai.

 Bảng tóm tắt các liệu pháp nội thị

Liệu pháp

Mục đích

Kỹ thuật

Phân tâm học

Khám phá những mâu thuẫn và các đòi hỏi bản năng bị dồn nén; cho thấy bản năng chi phối hành vi hiện tại như thế nào.

Liệu pháp hướng dẫn, trong đó nhà phân tâm đóng vai trò chủ động diễn giải các giấc mộng và liên tưởng tự do của người bệnh.

Liệu pháp thân chủ trọng tâm

Giúp đương sự có một cách nhìn để thích nghi, tự hiện thực hóa và thỏa mãn những tiềm năng cá nhân.

Liệu pháp không hướng dẫn, trong đó thân chủ tự phân tích hành vi của chính mình; môi trường trị liệu hoàn toàn có tính chấp nhận với sự quan tâm vô điều kiện của nhà trị liệu.

Liệu pháp Gestalt

Mở rộng khả năng nhận biết về tình huống hiện tại và tái lập các chức năng tự nhiên

Liệu pháp tự chọn trong đó thân chủ được yêu cần xem xét thế giới theo một nhãn quan khác và được khuyến khích nhắm vào các tình huống hiện tại hơn là quá khứ.

Liệu pháp hành vi (Behavior Therapy)

Một số người không muốn bàn về những kinh nghiệm thời thơ ấu, khám phá những động cơ vô thức, hoặc tìm kiếm giải pháp cho những mâu thuẫn nội tâm. Giống như Tom Gredler, họ chỉ muốn làm sao để hòa hợp với công việc và đời sống gia đình. Đôi khi, các nhà trị liệu đồng ý rằng vấn đề đưa thân chủ vào liệu pháp nội thị không bảo đảm được một sự khám phá như thế; và liệu pháp hành vi thường được lựa chọn.

Nhưng cũng có những lý do khác. Nếu Tom tìm đến một nhà trị liệu hành vi vì ông bị chứng lo âu, nhà trị liệu có lẽ sẽ chỉ dẫn cho Tom làm thế nào để giải quyết và làm giảm bớt lo âu.

Việc khám phá những mâu thuẫn hoặc động cơ nội tại có lẽ sẽ được giới hạn ở mức tối thiểu hoặc không cần đến. Các nhà trị liệu luân phiên chú trọng đến việc hướng dẫn cho Tom những hành vi có tính thích nghi hơn và giúp ông loại bỏ những hành vi cũ kém thích nghi đã dẫn đến chứng lo âu.

Liệu pháp hành vi, hoặc đôi khi gọi là sửa đổi hành vi, liên quan đến việc áp dụng một cách hệ thống các

nguyên lý học tập

(learning principles) để giúp con người thay thế những hành vi kém thích nghi bằng những hành vi mới.

Nhà trị liệu hành vi không quan tâm nhiều đến những nguồn gốc của một hành vi, mà chỉ quan tâm đến việc thay đổi hành vi.

Vì thế, mục đích trị liệu cho một người có tình trạng căng thẳng là làm sao để loại bỏ tình trạng đó. Vì trọng tâm trị liệu là hành vi hiện có, nên ngay cả khi nhà trị liệu không kết luận được chắc chắn những nguyên nhân của hành vi có vấn đề ấy, thì sự thiếu những thông tin như thế vẫn không ảnh hưởng nhiều đến phương pháp trị liệu. Các nhà trị liệu hành vi trước tiên sẽ cho đương sự học cách loại bỏ những hành vi cũ, sai lầm và sau đó sẽ học những hành vi mới. Sự nội thị (insight)

không được xem là cần thiết cho sự thay đổi hành vi, và những khái niệm như

động cơ vô thức

(unconsious motivation) cũng không được sử dụng.

Các nhà trị liệu hành vi cho rằng con người biểu hiện những hành vi bất thường bởi vì họ có vấn đề kém thích nghi với tình huống của họ; nếu như họ được hướng dẫn những cách đối phó mới, tình trạng kém thích nghi sẽ không còn.

Các nhà trị liệu hành vi không luôn chú trọng đến những vấn đề về hành vi, nguồn gốc đưa thân chủ đến với trị liệu. Đôi khi, trong lúc xem xét các vấn đề của thân chủ, nhà trị liệu có thể nhận thấy rằng vấn đề hiện tại của thân chủ được gây nên bởi một số tình huống khác. Trong trường hợp đó, nhà trị liệu có thể quyết định tập trung vào việc thay đổi tình huống căn nguyên. Ví dụ, nhà trị liệu có thể khám phá ra rằng việc hôn nhân của thân chủ bị “trục trặc” do có quá nhiều cuộc cãi vã với người bạn đời và sự cãi vã thường xảy ra một lúc sau khi uống nhiều rượu. Nhà trị liệu có thể khám phá thêm rằng việc uống rượu lại hay xảy ra sau một ngày làm việc căng thẳng ở cơ quan, mà điều này càng trầm trọng thâm do thân chủ đặt ra những kỳ vọng quá cao cho chính năng suất làm việc của mình. Trong tình huống đó, nhà trị liệu có lẽ sẽ tập trung vào việc giúp thân chủ phát triển những tiêu chuẩn thực tế từ đó làm giảm nhẹ căn nguyên nguồn gốc gây ra vấn đề của anh ta tức là sự căng thẳng được cảm thấy tại cơ quan. Nhà trị liệu tập trung giúp thân chủ phát triển những tiêu chuẩn thực tế phù hợp với những khả năng đã được biết rõ của thân chủ, những năng lực làm việc trong quá khứ, và khả năng thực tế trong tương lai.

Những thân chủ trong liệu pháp hành vi không được khuyến khích nhận lấy những giá trị của nhà trị liệu hoặc diễn giải những sự kiện trong quá khứ để tìm ý nghĩa của chúng. Mặc dù một nhà trị liệu hành vi có thể làm bộc lộ một chuỗi sự kiện dẫn đến một hành vi đặc hiệu, nhưng khám phá đó sẽ không gợi ra một sự đi sâu khảo sát những kinh nghiệm trước kia của thân chủ. Thật vậy, các nhà trị liệu hành vi xem sự thăm dò không cần thiết trước kia của thân chủ là một sự xâm phạm đời tư cá nhân.

Mục đích trị liệu

Mục đích của sự thay đổi hành vi là gây ảnh hưởng đối với hành vi hiện có bằng cách sử dụng những nguyên lý học tập cơ bản nhằm tái cấu trúc những đáp ứng của đương sự.

Sử dụng một mô hình giáo dục hơn là y khoa, một nhà trị liệu hành vi hướng dẫn cho thân chủ những kỹ năng hơn là chữa trị một căn bệnh. Các nhà trị liệu hành vi cho rằng hành vi của con người bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi trong môi trường sống của họ, trong cách thức mà họ đáp ứng với môi trường và trong cách mà họ quan hệ với người khác. Dĩ nhiên, khi đương sự bước vào một quan hệ trị liệu, nhiều hành vi của họ có thể thay đổi, không chỉ riêng hành vi được điều trị đặc hiệu. Vì thế, một người được điều trị vì chứng tic do căng thẳng (nervous tic) có thể thấy rằng không chỉ tần số của tic giảm đi, mà anh ta còn trở nên tham gia một cách dễ dàng hơn vào những cuộc thảo luận về các chủ đề tình cảm và làm việc tốt hơn. Ngoài ra, các nhà trị liệu hành vi cho rằng, một khi hành vi của một người được thay đổi, nhiều thái độ, nỗi lo sợ và những mâu thuẫn cũng có thể trở nên dễ được sửa đổi hơn.

Hầu hết các nhà trị liệu nội thị cho rằng nếu chỉ có hành vi biểu hiện công khai được điều trị thì sự thay thế triệu chứng sẽ xảy ra. Thay thế triệu chứng (symptom substitution) là sự xuất hiện một hành vi này để thay thế cho một hành vi khác đã bị loại bỏ do được trị liệu. Vì thế, theo các nhà trị liệu nội thị, nếu nhà trị liệu chỉ loại bỏ tic do căng thẳng mà không xem xét đến các nguyên nhân bên dưới của tình trạng tic đó, thân chủ có thể sẽ biểu lộ rối loạn của mình bằng cách phát sinh một triệu chứng khác như nói lắp chẳng hạn. Trái lại, nhà trị liệu hành vi thì cho rằng sẽ không xảy ra sự thay thế triệu chứng.

Một vài nghiên cứu đã hỗ trợ quan điểm của các nhà hành vi học: Nếu trị liệu bao gồm việc sử dụng đúng các nguyên tắc hành vi thì sự thay thế triệu chứng sẽ không xảy ra. Dữ liệu cũng cho thấy rằng liệu pháp hành vi ít nhất cũng hiệu quả như liệu pháp nội thị và trong một số trường hợp còn hiệu quả hơn.

Các kỹ thuật cơ bản

Tất cả các thông số quan trọng đối với liệu pháp nội thị cũng quan trọng đối với liệu pháp hành vi. Bầu không khí trong hai kiểu gặp gỡ làm việc dường như giống nhau đối với tất cả thân chủ lẫn nhà quan sát. Tuy nhiên, những kỹ thuật áp dụng nói chung khác nhau rất nhiều.

Liệu pháp hành vi nói chung bao gồm ba thể thức: (1) Nhận diện hành vi có vấn đề và tần số xuất hiện của nó; (2) Trị liệu chính hành vi đó, có thể gồm

giáo dục lại

(reeducation),

huấn luyện giao tiếp

(communication training) và một số hình thức

điều kiện hóa ngược

(counter-conditioning); (3) sau đó quan sát để đánh giá xem có sự thay đổi hành vi lâu dài hay không. Nếu thân chủ vẫn thể hiện hành vi theo kiểu mới, nhà trị liệu có thể biết rằng việc trị liệu đã có hiệu quả.

Liệu pháp hành vi sử dụng bốn kỹ thuật tổng quát để giúp các thân chủ thay đổi hành vi của họ:

điều kiện hóa có tác động

(operant conditioning),

điều kiện hóa ngược

(counter-conditioning),

làm mẫu

(modeling) và

tái cấu trúc nhận thức

(cognitive restructuring). Trước khi mô tả các kỹ thuật, chúng tôi xin nhấn mạnh rằng việc trị liệu thường bao gồm một hoặc nhiều kỹ thuật phối hợp với nhau. Một rối loạn phức tạp, nhà trị liệu càng cần phải lồng ghép, phối hợp và sử dụng một tập hợp nhiều kỹ thuật trị liệu khác nhau.

Một nhà trị liệu cũng có thể sử dụng một vài kỹ thuật trị liệu hành vi khác nhau hoặc phối hợp các kỹ thuật trị liệu nội thị với trị liệu hành vi.

Một nhà trị liệu tâm lý giỏi sẽ áp dụng bất kỳ sự phối hợp kỹ thuật nào cần thiết để giúp đỡ thân chủ một cách đầy đủ và hiệu quả. Khi nhà trị liệu phối hợp các phương pháp, cách này gọi là

phương pháp chiết trung

(eclectic approach)

Điều kiện hóa có tác động (operant conditioning)

Điều kiện hóa có tác động bao gồm việc tạo ra sự củng cố (reinforcer) và khen thưởng (reward) một cách tích cực đối với những đáp ứng đúng.

Sự củng cố là bất kỳ điều gì làm gia tăng khả năng tái xuất hiện một đáp ứng đã có trước đó.

Việc củng cố có thể được sử dụng để phát triển và duy trì những hành vi có ích. Ngoài ra, loại bỏ một sự củng cố tích cực cũng có thể dùng để làm giảm tần số xuất hiện của những hành vi chống đối xã hội (antisocial behavior). Những kỹ thuật củng cố tích cực (positive reinforcement techniques) đã được áp dụng ở những nơi như lớp học, bệnh viện tâm thần, nhà tù, nhà hàng… Chúng cũng được dùng để giúp cho những ai muốn làm giảm cân, bỏ thuốc lá hoặc muốn có bạn mới.

Các thủ thuật điều kiện hóa có tác động được sử dụng trong nhiều hệ thống để tạo ra những hành vi mong muốn, bao gồm việc gia tăng tốc độ đọc, cải thiện hành vi học tập trong lớp, ăn mặc đúng cách, và giữ vệ sinh cá nhân. Chúng có công dụng hữu hiệu nhất đối với trẻ em có tính chống đối xã hội, những người học chậm, hoặc những người kém thích nghi. Một số nhà nghiên cứu thấy chúng cũng có hiệu quả đối với những bệnh nhân trong bệnh viện tâm thần. Ví dụ, Ayllon và Haughton (1964) đã hướng dẫn nhân viên của họ áp dụng cho những bệnh nhân nằm viện kỹ thuật củng cố khả năng diễn đạt lời nói khi loạn tâm (psychotic verbalization) trong một thời gian; rồi củng cố khả năng diễn đạt lời nói lúc ổn định (neutral verbalization) trong một khoảng thời gian khác. Như dự kiến, tần số của diễn đạt lời nói loạn tâm tăng lên khi được củng cố, và giảm khi không được củng cố. Bất kể hành vi mong muốn là gì, phương pháp nói chung đều giống nhau; bởi vì một hành vi được củng cố có khuynh hướng tái xuất hiện trở lại, các nhà trị liệu thì chỉ củng cố những hành vi mong muốn.

Kinh tế qui đổi (token economy)

Trong kinh tế qui đổi, những người tham gia sẽ nhận được những vật qui đổi (token) khi họ thực hiện được những hành vi phù hợp. Sau đó, họ có thể dùng vật này để đổi lấy một tiết mục hoặc một họat động khác có tính củng cố tích cực, như kẹo, quần áo mới, hoặc những trò chơi. Một vật qui đổi được dùng trong kinh tế qui đổi theo cách thức rất giống như tiền được sử dụng trong xã hội. Người càng có nhiều vật qui đổi thì càng nhận được nhiều củng cố qua trao đổi.

Kinh tế qui đổi dùng để sửa đổi hành vi trong những hệ thống xã hội, thường là trong những nhóm có nhiều người. Mục đích của chúng là nhằm củng cố những hành vi phù hợp với những tiêu chuẩn xã hội. Ví dụ, một bệnh nhân nằm viện có thể nhận được những vật qui đổi vì việc họ lau sạch bàn ghế, giúp đỡ nhà giặt trong bệnh viện, hoặc giữ gìn vệ sinh cá nhân và ngoại hình. Số lượng vật qui đổi được tặng cho mỗi hành vi được qui định tùy theo mức độ khó khăn của hành vi hoặc công việc và thời gian bao lâu để một người thực hiện được hành vi đó. Vì thế, một người bệnh có thể nhận được 3 vật qui đổi cho việc đánh răng, nhưng có thể nhận được 4 vì đã tham gia vào những hành vi hữu ích cho xã hội. Vào cuối mỗi tuần, người bệnh có thể “chuộc” những vật qui đổi để lấy những vật phẩm trang điểm, vật dụng để đọc và viết, hoặc nhận phép đặc biệt được đi dạo trong sân bệnh viện.

Ayllom và Azrin (1965) theo dõi năng suất làm việc ở một nhóm bệnh nhân trong thời gian 45 ngày, họ cho rằng khi những vật qui đổi (tác nhân củng cố) được cho tuỳ theo năng suất, nhóm bệnh nhân ấy có thể đạt đến 46 giờ công lao động mỗi ngày; còn khi không được cho vật qui đổi, năng suất sẽ giảm 10 giờ công mỗi ngày.

       Một lợi điểm của kinh tế qui đổi là nó có thể được điều hành bởi một nhân viên bán chuyên nghiệp (paraprofessional) như điều dưỡng, hoặc bất kỳ ai khác như phụ huynh, bạn bè, nhân viên cứu trợ và các nhân viên khác, tất cả đều có thể tham gia vào kinh tế qui đổi. Không những phương pháp này giúp người bệnh học tập và duy trì được những

hành vi theo công việc chuyên biệt như nội trợ và tự chăm sóc bản thân, mà sự thể hiện những hành vi như thế còn đi kèm với sự giảm bớt các tình trạng trầm cảm và hoang tưởng.

Loại trừ và trừng phạt

Loại trừ (extinction) và/hoặc trừng phạt (punishment) có thể được áp dụng để làm giảm tần số xuất hiện của một hành vi không mong muốn. Sự loại trừ có thể được dùng để làm giảm khả năng thể hiện một hành vi đuợc duy trì bởi các tác nhân củng cố. Giả sử một đứa bé lên ba đang quấy rối trong nhà khi đòi được kể chuyện thật nhiều. Nếu không có ai đọc chuyện cho nó nghe, nó liền la thét lên cho đến khi đạt được điều mình muốn; bằng cách đọc chuyện khi đứa trẻ khóc như thế, cha mẹ nó đã củng cố hành vi la khóc ấy: đứa trẻ khóc, họ đọc. Một cách để loại bỏ hành vi khóc lóc này là hãyngưng củng cố nó. Sự củng cố ở đây là đọc chuyện, do vậy việc đọc chuyện phải được ngưng lại. Giờ đây, khi đứa bé khóc, cha mẹ không đọc chuyện cho nó nữa. Có khả năng đứa trẻ sẽ khóc to, khóc dữ trong hai, ba đêm để cố buộc cha mẹ phải đọc chuyện. Tuy nhiên, nếu cha mẹ không củng cố hành vi của đứa bé, hành vi đó sẽ dần dần được loại bỏ.

Một cách thứ hai để làm giảm tần số xuất hiện của hành vi không mong muốn là trừng phạt nó. Trừng phạt thường kèm với sự biểu lộ một kích thích đối nghịch (aversive stimulus). Ví dụ, nếu một đứa trẻ chơi với những đồ vật dễ vỡ đặt trên bàn, cha mẹ đôi khi nói:”không được” và đánh khẽ vào bàn tay của trẻ. Trong một phòng thí nghiệm với các đối tượng là người lớn, một nhà nghiên cứu có thể tạo ra một loại kích thích đối nghịch mạnh hơn, có thể là cho điện giật chẳng hạn. Thông thường, sự trừng phạt đối với những hành vi không mong muốn được đi kèm với sự củng có tích cực những hành vi mong muốn và hòa hợp với xã hội.

Giả lơ (Time-out)

Giả lơ, hoặc loại bỏ đương sự khỏi nguồn gây củng cô (đúng hơn là tác nhân gây củng cố), là một kỹ thuật được áp dụng rộng rãi liên quan đến nhiều nguyên lý cơ bản trong lý thuyết về học tập. Giả lơ tác dụng như một sự trừng phạt vì nó cũng làm giảm các hành vi đặc hiệu không mong muốn. Hãy xem một đứa trẻ nổi giận tam bành mỗi khi nó muốn đòi cục kẹo, một cây kem, hoặc một món đồ chơi của đứa em trai nhỏ. Khi không chịu nổi, cha mẹ thường chìu theo nó. Tuy nhiên, trong cách giả lơ, khi đứa trẻ đổ hư, nó sẽ bị đem đi nơi khác và được đặt vào một căn phòng không có đồ chơi, không có ti vi và cũng chẳng có ai khác; nó có thể được đặt vào một “chiếc ghế suy nghĩ” (thinking chair) cách xa những người khác trong gia đình. Trong cách giả lơ, đứa trẻ không những đã không được điều mình muốn, nó còn được cách ly khỏi những tác nhân gây củng cố. Đứa trẻ được giữ ngồi trên chiếc ghế hoặc trong căn phòng trong một khoảng thời gian nhất định. nếu nó không chịu ở lại, thời gian ngồi sẽ được tính thêm. Một khi sự giả lơ này được kết hợp với việc củng cố tích cực cho những hành vi tốt, đứa trẻ có vấn đề về hành vi sẽ có được những tiến bộ ngoạn mục.

Điệu kiện hóa ngược (counter-conditioning)

Phương pháp quan trọng thứ hai trong liệu pháp hành vi - điều kiện hóa ngược -  nhắm vào việc tập cho đương sự một đáp ứng mới có tính thích nghi trước một kích thích quen thuộc. Thông thường, một kích thích đặc hiệu (S1) sẽ gây ra một đáp ứng đặc hiệu (R1). Người ta hy vọng rằng, sau khi đương sự trải qua quá trình điều kiện hóa ngược, hoặc tái điều kiện hóa (reconditioning), thì cùng một kích thích như trước (S1) sẽ gây nên một đáp ứng mới (R2). Hai phương thức cơ bản của điều kiện hóa ngược là:

giải cảm ứng hệ thống

(systematic desensitization) và

điều kiện hóa ngược đối nghịch(aversive counterconditioning)

Giải cảm ứng hệ thống

Trong giải cảm ứng hệ thống, đương sự được học cách thư giãn khi đứng trước một kích thích mà trước đó gây ra lo âu. Ví dụ, một người ngồi lái xe là một tình huống kích thích (S1) đôi khi gây ra một đáp ứng sợ hãi quá đáng (R1). Sau cùng, qua điều trị, ý nghĩ về việc lái xe một mình (S1) thay vào đó có thể gây nên một đáp ứng tò mò hoặc thư giãn hơn (R2). Giải cảm ứng hệ thống là quá trình gồm ba giai đoạn.

Trước tiên, đối tượng học cách làm thế nào để thư giãn.

Thứ hai, đối tượng mô tả ra tình huống gây ra sự lo âu.

Thứ ba, trong lúc thư giãn sâu, đối tượng tưởng tượng ra tình huống gây lo âu. Đối tượng dần dần được tiếp xúc với một nguồn gây lo âu, thường là bằng cách tưởng tượng ra một loạt những tình huống gây sợ hãi hoặc lo âu mà cả thân chủ lẫn nhà trị liệu cùng thiết lập nên. Ví dụ, nhà trị liệu có thể yêu cầu một thân chủ sợ lái xe một mình hãy tưởng tượng rằng có một chiếc xe hơi đang ở đằng xa. Rồi tiếp tục tưởng tượng mình tiến đến gần chiếc xe hơn. Sau cùng, thân chủ bắt đầu tưởng tượng mình đã vào trong xe. Khi thân chủ nhận ra rằng mình sẽ không bị thương hoặc bị cô lập, chỉ bằng cách tưởng tượng ra cảnh như thế, anh ta sẽ “dung nạp” cảnh tượng gây stress ấy và sau cùng thực hiện được hành vi mà mình tưởng tượng ra.

Có nhiều tranh cãi về cơ chế tác dụng của giải cảm ứng hệ thống. Nghiên cứu vẫn tiếp tục xem xét sự giải cảm ứng hệ thống vừa như một công cụ, vừa như một quá trình trị liệu. Bất kể nó tác dụng như thế nào, giải cảm ứng hệ thống đã là một hình thức trị liệu thành công cho hàng ngàn người.

Điều kiện hóa ngược đối nghịch

Trong điều hóa ngược đối nghịch, một kích thích có hại hoặc đối nghịch được đi kèm theo một kích thích đã gây hành vi không mong muốn. Cũng như trong giải cảm ứng hệ thống, mục đích là nhằm luyện cho đương sự có một đáp ứng khác đối với kích thích ban đầu. Ví dụ, những người nghiện rượu thường nhận thấy rượu như một “phần thưởng” ngay cả khi họ nhận biết rằng rượu có hại cho sức khỏe và ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa họ với người khác. Một nhà trị liệu hành vi sẽ tập trung vào việc tập cho người nghiện rượu một đáp ứng mới đối với rượu. Bước đầu tiên là tập cho đương sự liên hệ giữa rượu và triệu chứng nôn ói. Nếu những chỉ dẫn bằng lời chưa đủ, nhà trị liệu sẽ cho đương sự dùng một loại thuốc gây ói mỗi khi người này uống rượu. Mục đích là làm cho việc uống rượu hoặc kết quả của uống rượu trở nên khó chịu. Sau cùng, với cách trị liệu như thế, chỉ mỗi việc nghĩ đến rượu thôi cũng có thể gây buồn nôn và vì thế tránh được hành vi uống rượu. Nói chung, những kỹ thuật điều kiện hóa ngược đối nghịch sẽ có hiệu quả cao nhất khi được kết hợp với những tình huống ngẫu nhiên khác làm thúc đẩy các kiểu hành vi thích nghi. Trong nhiều trường hợp, điều kiện hóa ngược đối nghịch được kết hợp với sự củng cố tích cực những hành vi hoà hợp xã hội.

Làm mẫu (modeling)

Khi một ngôi sao màn bạc mặc một chiếc áo len, ngành công nghiệp áp len có thể dự đoán chính xác rằng nhiều người khác cũng sẽ bắt đầu mặc loại áo này. Con người hay bắt chước những “gu” âm nhận và cách ăn mặc. Trẻ em cũng đặc biệt nhạy cảm với hành vi của người  khác, đặc biệt là cha mẹ chúng. Trẻ thường học cách đi tiêu trong nhà xí, cách ứng xử khi vào bàn ăn, cư xử với thú vật theo cách mà nó đã quan sát và bắt chước cha mẹ hoặc người lớn khác.

Người lớn cũng học đuợc những đáp ứng mới bằng cách quan sát những “người làm mẫu”. Albert Bandura và công sự (1969) đã nhận thấy lợi ích của cách trị liệu lấy việc làm mẫu làm kỹ thuật trị liệu chính. Bandura, Blanchard và Ritter (1969) đã cho những người sợ rắn xem phim hoặc người thật biểu diễn cầm rắn trong tay. Trong cả hai trường hợp, nỗi sợ rắn của các đối tượng đã giảm đi. Các kỹ thuật tương tự cũng có hiệu quả đối với những người sợ chó và các loại súc vật khác.

Một nhà tri liệu dùng phương pháp làm mẫu sẽ cố tập cho thân chủ cách quan sát và bắt chước hành vi của những người quả quyết và hành động có mục đích. Một vấn đề trong phương pháp làm mẫu là đương sự thường quan sát hành vi của những kiểu mẫu không đúng. Ví dụ, mặc dù cha mẹ có vai trò thích hợp là người làm mẫu, nhưng một cách vô thức họ có thể dạy cho con những hành vi không thích nghi. Phương thức làm mẫu đối với hành vi cho rằng những người có hành vi bất thường đã từng tiếp xúc và “ sao chép” những hành vi không đúng ấy. Đó là lý do để nhiều người mong muốn những cảnh bạo lực trên truyền hình, phim ảnh phải được lược bỏ đi. Những người phản đối cảnh bạo lực trong phim ảnh cho rằng người ta sẽ bắt chước những hành vi được xem thấy trên màn hình.

Tái cấu trúc nhận thức (cognitive restructuring)

Mặc dù hầu hết các liệu pháp hành vi chỉ giải quyết những hành vi được thể hiện, ngày càng có nhiều nhà trị liệu hành vi xem xét đến quá trình suy nghĩ của đương sự. Các nhà trị liệu nhận thức (cognitive therapist) quan tâm đến việc sửa đổi những kiểu suy nghĩ không thích nghi hoặc sai lầm của những đối tượng bị rối nhiễu. Giống như các hình thức trị liệu hành vi khác, trị liệu tái cấu trúc nhận thức nhắm vào hành vi hiện tại và không quan tâm đến những kinh nghiệm thời thơ ấu. Liệu pháp nhận thức - hành vi (cognitive behavior therapy) ít nhất cũng hiệu quả ngang bằng hoặc thậm chí trong vài trường hợp, có hiệu quả hơn những liệu pháp khác.

Liệu pháp cảm xúc - hợp lý (RET: rational-emotive therapy)

Liệu pháp nhận thức được biết đến nhiều nhất là liệu pháp cảm xúc - hợp lý, được triển khai bởi Albert Ellis. Hầu hết các liệu pháp hành vi cho rằng hành vi bất thường được gây ra bởi những mô hình hành vi sai lầm hoặc phi lý. Ellis và cộng sự cho rằng hành vi bất thường bắt nguồn từ những cách suy nghĩ sai lầm hoặc phi lý. Nếu những quá trình suy nghĩ sai lầm có thể được thay thế bằng những ý nghĩ hợp lý hơn về thế giới, thì sự kém thích nghi và hành vi bất thường sẽ không còn.

Ellis tin rằng rối nhiễu tâm lý là hậu quả của những sự kiện trong đời sống của một con người đã gây ra cho người ấy những niềm tin phi lý (irrational belief). Ba loại niềm tin sai lầm liên quan đến cá nhân, người khác, hoặc thế giới nói chung, sẽ dẫn đến những cảm xúc và hành vi tiêu cực. Vì thế, mục đích đầu tiên của liệu pháp cảm xúc - hợp lý là giúp đương sự xem xét lại những sự kện trong quá khứ đã gây nên những niềm tin phi lý ấy. Công việc của nhà trị liệu là nhằm bộc lộ những mô hình suy nghĩ của thân chủ và giúp thân chủ nhận ra cách suy nghĩ của họ là sai lầm; còn nhà trị liệu sẽ cố gắng thay đổi những tin tưởng và suy nghĩ phi lý ấy. Nếu liệu pháp cảm xúc- hợp lý thành công, thân chủ sẽ chấp nhận những hành vi mới dựa trên những cách nghĩ mới hợp lý hơn.

Ellis đã trình bày một vài định kiến phi lý (irrational assumption) cơ bản mà ông cảm thấy là nguyên nhân của nhiều vấn đề cảm xúc và hành vi kém thích nghi. Những định kiến phi lý này có thể được nêu dưới đây:

Ý tưởng phi lý

: Điều bức thiết đối với một người là được thương yêu và được hầu hết mọi người chấp nhận vì tất cả những việc mà người ấy làm.

Ý tưởng phi lý

: Một người phải giỏi giang, đầy đủ và thành công trên tất cả mọi phương diện.

Ý tưởng phi lý

: Một số người là xấu xa, đồi bại và hung ác, và nên bị trừng phạt vì những tội lỗi của họ

Ý tưởng phi lý

: Thật là một thảm họa khi tình huống không diễn ra theo cách mà bạn muốn.

Ý tưởng phi lý

: Sự bất hạnh của con người có nguyên nhân từ bên ngoài. Con người ít có hoặc không có khả năng kiểm soát nỗi buồn của mình và không thể tự gạt bỏ những cảm xúc tiêu cực.

Những đinh kiến phi lý này thường dựa trên một sự thật chung là: con người có những nhu cầu được ưa thích, được trở nên giỏi giang, được yêu thương, và có được cảm giác an toàn. Chỉ khi đương sự đặt vào mình những giá trị phi lý hoặc cường điệu thì những nhu cầu này trở nên kém thích nghi và dẫn đến những rối loạn cảm xúc, lo âu và hành vi bất thường. Những người đang trải qua trạng thái lo âu, trầm cảm và kém thích nghi nói chung đều không hạnh phúc, bởi vì họ nhận vào quá nhiều những điều “nên thế này”, “phải thế kia”. Như Ellis nói: “Một khi đương sự tin vào một điều vô lý bao gồm trong những ý niệm này, chắc chắn anh ta sẽ có khuynh hướng trở nên bị ức chế, thù địch, chống đối, mặc cảm tội lỗi, vô tích sự, trơ lỳ, mất tự chủ và không hạnh phúc”. Liệu pháp cảm xúc-hợp lý cố gắng đặt những định kiến trong nhận thức của đương sự về thế giới vào trong một “cái khung hợp lý” (reasonable framework), cố gắng lập lại thăng bằng giữa những như cầu của đương sự với những đòi hỏi của một môi trường phức tạp và luôn thay đổi. Ellis (1987) đã viết:

Tất cả mọi người đều sinh ra với những khuynh hướng rất mạnh mẽ để suy nghĩ một cách quanh co về những ước muốn và sở thích quan trọng của họ, và tự làm hại mình bằng cách “ leo thang” theo những điều nên làm, những đòi hỏi và những mệnh lệnh hết sức võ đoán và tuyệt đối… Bởi những khuynh hường do giáo dục và di truyền, một số ngưòi có khuynh hướng dễ suy nghĩ, cảm xúc và cư xử theo cách tự làm hại cho mình… Tôi cho rằng hầu như tất cả mọi người vẫn thường giữ lấy những điều tin tưởng rõ ràng là phi lý và vì thế không thể có được sự lành mạnh và khả năng tự lực. Nhưng tôi cũng cho rằng tất cả mọi người - đặc biệt là những ai mà chúng ta “dán nhãn” là nhiễu tâm nghiêm trọng, nhiễu tâm giáp ranh, loạn tâm - thường giữ lấy những điều phi lý hư huyễn hoặc rối rắm – và vì thế ít có khả năng loại bỏ được chúng.

Nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em, thiếu niên, người lớn, và thậm chí cả những người già vẫn thường duy trì những ý tưởng phi lý và liệu pháp nhận thức thường có hiệu quả đặc biệt. Liệu pháp nhận thức - hành vi được áp dụng có hiệu quả trong trị liệu chứng trầm cảm (depression), ăn vô độ (bulimia), sụt cân; và nó vẫn tiếp tục là một kỹ thuật trị liệu được áp dụng rộng rãi.

Các phương pháp trị liệu nhận thức khác

Một liệu pháp tái cấu trúc nhận thức khác cũng nhắm vào những ý tưởng phi lý là liệu pháp nhận thức của Aaron Beck (1963). Lý thuyết của Beck cho rằng chứng trầm cảm được gây ra do những quan điểm tiêu cực của con người về thế giới, về bản thân mình và về tương lai. Từ quan điểm của Beck, một thân chủ cần được giúp đỡ để phát hiện những suy nghĩ không thực tế và học những cách thức mới để “sắp xếp” lại những kinh nghiệm của bản thân. Thân chủ cũng được giúp đỡ cách sử dụng những kỹ thuật giải quyết vấn đề tương tự trong quãng đời còn lại của họ. Những đối tượng của sự cải thiện nhiều nhất là những người mà bản thân trông đợi mình cải thiện qua trị liệu hoặc những người phát triển được những ý tưởng tích cực về tương lai của họ trong thực tế.

Một số nhà nghiên cứu cảm thấy rằng những gì mà người ta nói về chính mình sẽ xác định được những điều mà họ sẽ làm. Nếu bạn chấp nhận quan điểm này, giống như Donald Meichenbaum, bạn hẳn sẽ thấy rằng

 

một mục đích của việc trị liệu là phải làm thay đổi những gì mà thân chủ nói về chính bản thân mình.

Quan điểm của Meichenbaum hoàn toàn thiên về nhận thức; ông khẳng định rằng một nhà trị liệu phải thay đổi những điều

tự hướng dẫn

của đương sự (individual’s self-instructions) và nhờ đó mà hành vi của người này sẽ thay đổi theo. Meichenbaum đã phát triển nhữngkỹ thuật tự lực

(self-help technique) và huấn luyện những phương thức để dạy cho đương sự suy nghĩ theo những cách thức cho phép giảm nhẹ những hành vi có vấn đề của mình. Những kỹ thuật tự lực này mang lại lợi ích cho những người có các vấn đề khác nhau như mắc cỡ, nói lắp, bốc đồng, thậm chí cả tâm thần phân liệt. Ngoài việc phải sửa đổi những ý tưởng phi lý, thân chủ còn phải học một số việc khả thi mà họ có thể áp dụng để giúp cho hành vi của họ trở nên thích nghi hơn. Ví dụ, những đối tượng của Meichenbaum có thể tiến hành những vở kịch độc thoại riêng qua đó họ sẽ phải suy nghĩ và đối phó với tình huống theo những cách thức thích nghi hơn. Việc sử dụng những cách phát biểu như thế, kết hợp với luyện tập thư giãn và củng cố những hành vi thích nghi, khiến cho cách thức tự hướng dẫn này trở nên rất hiệu quả. Việc nghiên cứu cách tự trị liệu như thế cho thấy rằng nó cũng rất có hiệu quả như một liệu pháp nhận thức-hành vi.

Thôi miên và thiền định

Nhiều nhà trị liệu, cả trị liệu nội thị lẫn trị liệu sửa đổi hành vi, đã sử dụng kỹ thuật thôi miên (hypnosis) và thiền định (meditation) như các biện pháp bổ sung cho việc trị liệu của họ. Hầu hết mọi người đều quen thuộc với chữ thôi miên. Những đối tượng được thôi miên vẫn nhận biết về những gì xung quanh họ và rõ ràng vẫn còn ý thức, nhưng mức độ nhận biết và sự sẵn lòng tuân theo các chỉ dẫn của họ đã bị thay đổ. Các nhà tâm lý đã quan tâm đến việc sử dụng thôi miên như một công cụ để trị liệu.

Mặc dù được dùng như một kỹ thuật trị liệu trong vòng 150 năm nay, một số nhà nghiên cứu vẫn nghi ngờ về hiệu lực và độ tin cậy của thôi miên. Nghiên cứu cho thấy rằng chỉ cần cho các đối tượng biết rằng họ sẽ được tham gia vào thử nghiệm thôi miên thì cũng có thể ảnh hưởng đến hành vi của họ. Tuy vậy, những người hoài nghi vẫn chiếm thiểu số, và thôi miên vẫn còn là một thủ thuật được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là trong trị liệu. Các nghiên cứu vẫn tiếp tục để xác định giá trị điều trị của nó.

Có bằng chứng cho thấy tính mẫn cảm với thôi miên (hypnotic susceptibility) của một đối tượng có thể ảnh hưởng đến kết quả của một số kỹ thuật trị liệu. Đôi khi nhà trị liệu dùng thôi miên để giúp người bệnh thư giãn, nhớ lại, giảm bớt lo âu, hoặc thậm chí để làm giảm cân. Trong những nghiên cứu như thế, những nhóm bệnh nhân béo phì đã được thôi miên trong một vài buổi trị liệu. Những đề nghị đặt ra cho người bệnh sau khi thôi miên có thể thành công trong việc làm giảm sự thèm ăn của họ. Các nghiên cứu khác cũng cho thấy thôi miên có thể làm giảm chứng lo âu thực nghiệm, nhưng nó không làm tăng khả năng học các kiến thức văn hóa hoặc hiểu ngôn ngữ. Các báo cáo lâm sàng cho thấy thôi miên giúp ích trong việc giảm hút thuốc lá, mặc dù ít có bằng chứng cho thấy nó thực sự giúp bỏ hẳn thuốc lá.

Để có những thay đổi qua trị liệu, nhà trị liệu đã cho các thân chủ của mình áp dụng một kỹ thuật có liên quan khác: thiền định. Thiền định là một kỹ thuật nhằm đạt đến một sự hòa hợp với thế giới thông quan sự tập trung cao độ, giới hạn các kích thích từ bên trong và một sự thư giãn sâu.

Thiền định được xem tương tự như một phản hồi sinh học (biofeedback), vì các đối tượng được hướng dẫn cách thư giãn sâu và tập trung để đặt thân thể họ dưới sự kiểm soát của ý thức trong những khoản thời gian kéo dài. Thiền định cũng tương tự như thôi miên do tình trạng nửa mê nửa tỉnh mà nó gây ra.

Nhiều biến đổi sinh lý xảy ra trong thiền định cũng có thể được gây ra bằng các kỹ thuật khác như thôi miên, giải cảm ứng hệ thống, hoặc thậm chí trong trị liệu tâm lý. Deikman (1970) xem thiền định là một trong số vài kỹ thuật mà người ta có thể sử dụng để đạt đến trạng thái trầm tĩnh khiến cho các thông tin có thể được thâu nạp với một cơ cấu chức năng theo kiểu tiếp nhận. Deikman tin rằng có sự tồn tại của hai cơ cấu ý thức - một là chủ động (active), một là tiếp nhận (receptive). Theo Deikman,

thiền định cho phép cơ cấu tiếp nhận hoạt động. Bằng cách thực hành, những người thiền định có thể học cách điều chỉnh cơ cấu tiếp nhận của họ, cho phép “khởi động các khả năng bị kém chức năng trong cơ cấu hoạt động của đương sự”.

TRỊ LIỆU NHÓM (GROUP THERAPY)

Những trải qua sự cô độc thường cho mình là người duy nhất trên đời cảm thấy thế. Trong khi cố gắng đạt được một sự thăng bằng trong đời sống, Tom, người mở đầu chương sách này, và những người giống như ông có lẽ cũng đã cảm thấy bị cách ly, không giao tiếp với ai được, và rất xa cách với người khác. Một mục đích của trị liệu nhóm là làm cho những người như Tom thấy rằng họ không phải chỉ có một mình mà có nhiều người khác cùng chia sẻ những vấn đề và thất bại giống như họ. Quan trọng nhất là thông qua những cuộc thảo luận nhóm, người ta có thể đương đầu tốt hơn với cuộc sống của mình.

Khi một nhóm người gặp nhau với mục đích tìm sự trợ giúp về tâm lý, sự trị liệu đó được gọi là trị liệu nhóm. Ra đời vào khoảng đầu thế kỷ XX, trị liệu nhóm đã trở thành một kỹ thuật trị liệu được áp dụng chính thức trong thập niên 1930, và ngày càng được áp dụng phổ biến sau Chiến thanh Thế giới thứ II.

Trị liệu nhóm được các nhà tâm lý ưa chuộng vì có nhiều người cùng được trị liệu. Nó cũng được các thân chủ ửa thích vì đỡ tốn kém hơn trị liệu cá nhân. Một nhà trị liệu nếu áp dụng trị liệu cá nhận chỉ có thể thăm khám tối đa 40 thân chủ mỗi tuần, hoặc một người mỗi giờ. Nhưng làm việc với một nhóm, trong một giờ trị liệu có thể giúp đỡ được 8 đến 10 thân chủ; trong 5 giờ trị liệu nhóm, một nhà tâm lý có thể giúp đỡ cho 40 thân chủ. Vì phí tổn trị liệu có thể được chia ra cho thành viên của nhóm, nên trị liệu nhóm sẽ ít tốn kém hơn trị liệu cá nhân.

       Trị liệu nhóm là một kỹ thuật quan trọng không chỉ vì có thể điều trị cho nhiều bệnh nhân hơn và ít tốn kém hơn, mà còn vì nó hiệu quả hơn trị liệu cá nhân đối với nhiều vấn đề. Một số nhóm trị liệu được tổ chức theo nghi thức; một số nhóm khác tự coi như những tổ chức tương trợ. Các nhóm như "Những người theo dõi cân nặng"

(Weight Watchers)

và "Những người nghiện rượu ẩn danh"

(Alcoholics Anonymous)

đã rất thành công không những trong việc điều trị các chứng háu ăn (overeating) và nghiện rượu (alcohol addiction), mà còn giúp được cho những người có các vấn đề như hút thuốc lá hoặc bài bạc. Các áp lực xã hội vận hành trong một nhóm có thể có hiệu quả rất mạnh

trong việc định hình những hành vi. Những thành viên khác trong một nhóm có thể cung cấp những kiểu mẫy hành vi có ích cho đương sự.

Trị liệu nhóm có thể bao gồm một số kỹ thuật. Mỗi nhóm có loại thân chủ, nhà trị liệu và phương pháp riêng của nhóm. Nhóm trị liệu Gestalt hoặc nhóm trị liệu hành vi, mỗi nhóm đương đầu với các thành viên có cùng vấn đề nhưng theo những cách thức khác nhau; không có hai nhóm nào tương tự như nhau, và không có nhóm nào giải quyết từng thành viên theo cùng một cách thức như nhau. Cách thức mà nhóm kiểm soát một vấn đề được xác định bởi kiểu loại nhóm và định hướng của nhà trị liệu.

Trong trị liệu nhóm kinh điển, một số lượng thân chủ, thường là ít hơn 10, gặp nhau định kỳ cùng với nhà trị liệu tại một phòng khám, bệnh viện, hoặc văn phòng của nhà trị liệu. Thông thường nhà trị liệu sẽ kiểm soát thành phần của nhóm, chọn lựa các thành viên của nhóm dựa trên cở sở những người này có thể nhận được gì và cho được gì đối với nhóm. Mục đích là cấu trúc nên một nhóm sao cho những thành viên của nó tương hợp với nhau về tuổi tác, nhu cầu và vấn đề.

Thể thức của trị liệu tâm lý nhóm truyền thống cũng khác nhau, nhưng nói chúng mỗi thành viên tự mô tả vấn đề của mình với các thành viên khác, rồi đến lượt những người này lại liên hệ những kinh nghiệm của họ với các vấn đề tương tự và cho biết làm thế nào mà họ đương đầu với chúng. kiểu này có ích bằng nhiều cách:

Thứ nhất

, đương sự có cơ hội bày tỏ những nỗi sợ hãi và lo âu của mình cho người khác - những người có tính niềm nở và dễ chấp nhận; sau cùng mỗi thành viên sẽ nhận thấy rằng mọi người đều có vấn đề về cảm xúc.

Thứ hai

, các thành viên của nhóm sẽ giúp đỡ lẫn nhau bằng cách cho nhau những lời khuyên về một vấn đề chuyên biệt.

Thứ ba

, bằng cách quan sát những người khác đối phó với các vấn đề khó khăn, mỗi thành viên của nhóm cũng học cách đối phó với những vấn đề của bản thân.

Thứ tư

, một thành viên của nhóm có thể “sắm vai” hoặc “thử làm” những hành vi mới trong một môi trường an toàn, không có sự trừng phạt, nhưng vẫn có sự lượng giá.

Thứ năm

, cả nhóm có thể biểu thị áp lực đối với một thành viên để người này cư xử theo những cách phù hợp hơn.

Các nhóm không nhất thiết phải trầm tĩnh và yên lặng. Một nhóm có thể gây áp lực buộc một thành viên đối chất với vợ hoặc mẹ của anh ta và yêu cầu anh ta báo cáo lại sự đối chất của mình vào lần sau. Sự biểu lộ cảm xúc mạnh mẻ có thể xảy ra khi các thành viên làm với nhau. Khi sự gắn bó của nhóm được phát triển và các thành viên học được cách tự hiểu mình và hiểu lẫn nhau, các thành viên sẽ có thể giúp đỡ qua lại khi có các vấn đề khó khăn nẩy sinh trong trị liệu. Nhà trị liệu đôi khi phải hướng dẫn cho nhóm giúp đối phó với một vấn đề đặc hiệu. Lúc khác, nhà trị liệu lại để cho nhóm giải quyết vấn đề của nhóm một cách độc lập. Hầu hết các nhà trị liệu nhóm đều thấy rằng các thành viên có lợi khi tham gia vào quá trình trị liệu nhóm dù rằng lỹ thuật này có những bó buộc của nó.

Trong trị liệu nhóm kinh điển, nhà trị liệu (đôi khi trong nhóm có 2 nhà trị liệu) cho phép nhóm tự xác định cấu trúc và cách thức họat động của mình. Khi các thành viên cảm thấy mình có khả năng tốt hơn trong việc đối phó với đời sống và các vấn đề của chính họ, thì họ có thể rời khỏi nhóm. Họ sẽ được thay thế bởi các thành viên mới, những người này phải thiết lập quan hệ với các thành viên khác và phải tìm cách hòa nhập vào cái cơ cấu xã hội đang diễn ra liên tục trong nhóm đó.

Trị liệu nhóm “gặp gỡ” (encounter group therapy) được phát triển trong những thập niên gần đây như là kết quả của một phong trào rèn luyện tính nhạy cảm (sensitivity training movement). Hầu hết các nhóm “gặp gỡ” và nhóm nhạy cảm được thiết kế nhằm giúp con người tự hiện thực hóa (self-actualize) và phát triển những quan hệ giao tiếp tốt hơn. Tự hiện thức hóa là một quá trình trong đó con người hướng về sự thoả mãn những tiếm năng của mình. Những nhóm “gặp gỡ” bao gồm những người muốn gia tăng sự nhận biết và tính hiệu quả cá nhân họ.

Mỗi nhóm “gặp gỡ” là độc nhất. Một số nhóm rất giống như các nhóm trị liệu thường lệ về thể thức và mục đích. những nhóm khác có tính chuyên biệt cho các nữ vận động viên, người nghiện ma túy, nghiện rượu, người động tính luyến ái, người độc thân hoặc người chán ăn. Một nhóm “gặp gỡ” có thể ít có sự tham gia của người chỉ đạo, hoặc có thể tuân theo những thủ tục có tính nghi thức.

Một hình thức chuyên biệt của trị liệu nhóm được gọi là trị liệu gia đình (family therapy) được xuất hiện vào cuối thập niên 1930. Trị liệu cả gia đình một lúc là chìa khóa của trị liệu gia đình. Ít được áp dụng trước những năm 1950, gần đây trị liệu gia đình được chú ý đến nhiều. Mục đích của trị liệu gia đình là làm thay đổi những cách thức quan hệ trong gia đình. Một thành viên trong một gia đình, có thể là một đứa bé lầm lỗi, đôi khi được xem là một “vấn đề”. Nhà trị liệu gia đình (family therapy) tin rằng bất kỳ ai được định danh theo cách như vậy đều là “kẻ chịu tội” (scapegoat) thay cho cả gia đình. Các nhân bị “dán nhãn” là “có vấn đề” đã làm chệch hướng chú ý của gia đình đối với những cá nhân khác, mà đây là những vấn đề quan trọng hơn và có lẽ khó tiếp cận hơn.

Từ quan điểm của nhà trị liệu gia đình, “người bệnh” thât sự trong trị liệu gia đình chính là cái cơ cấu và tổ chức của gia đình đó.

Những nhà trị liệu gia đình cố gắng thay đổi các hệ thống gia đình (family system). Một hệ thống gia đình là các cách thức mà cách thành viên trong gia đình quan hệ với nhau. Một kỹ thuật can thiệp thông dụng trong trị liệu gia đình là kỹ thuật tái định dạng (reframe). Trong kỹ thuật này, nhà trị liệu sẽ diễn giải lại (reinterpret) hoặc “định dạng” lại (reframe) một hành vi (hoặc một hệ hành vi) để cho các thành viên khác trong gia đình có thể xem xét hành vi ấy một cách ít nghiêm khắc hơn. Ví dụ, nhà trị liệu có thể mô tả lại hành vi của một người cha (hoặc mẹ) được gia đình coi là “người đứng ngoài lề” (uninvolved); người cha này có thể được mô tả lại là do ông “cảm thấy sợ sự gần gũi vì ông sợ chính sự thiếu thốn của mình và vì quá yêu gia đình”. Bằng cách

mô tả lại hành vi một cách tích cực hơn, nhà trị liệu cố gắng làm giảm bớt sự quy tội mà từ đó làm lu mờ các vấn đề khác. Những kỹ thuật khác được áp dụng trong trị liệu gia đình còn bao gồm tái cấu trúc các quan hệ trong gia đình (restructuring the family interactions). Ví dụ, nếu một đứa con trai phản ứng quá nhu thuận với một người mẹ độc đoán, nhà trị liệu có thể sẽ đề nghị cậu con trai chỉ nên nhận nhiệm vụ làm các công việc nhà từ ông bố mà thôi.

Các nhà nghiên cứu thấy rằng việc dạy cho các bậc cha mẹ những kỹ năng hành vi chuyên biệt sẽ giúp họ kiểm soát được con cái. Họ cũng biết rằng việc huấn luyện cho các thành viên trong gia đình những kỹ năng giao tiếp sẽ cải thiện được môi trường tâm lý trong gia đình. Tuy nhiên, những tác dụng của việc trị liệu gia đình như những đơn vị cơ cấu, và những kỹ thuật đặc hiệu được mô tả ở đây, vẫn chưa có nhiều bằng chứng. Mặc dù trị liệu gia đình hiện nay rất phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada, những phương thức của nó rất khó áp dụng đối với những gia đình bị rối loạn (dysorganized) hoặc thiếu sự gắn bó (lack of home involvement). Trong lúc cho rằng không phải mọi gia đình đều có lợi nhờ những sự can thiệp đối với hành vi, nhiều nhà tâm lý, nhân viên xã hội và bác sĩ tâm thần đã áp dụng trị liệu gia đình để giúp cho những cá nhân và gia đình có thể thay đổi. Ít có nghiên cứu tỉ mỉ nào được tiến hành về trị liệu gia đình, nhưng những gì đã xảy ra cho thấy rằng phương pháp này là có lợi và tốt hơn nhiều phương pháp trị liệu khác.

TÂM LÝ HỌC CỘNG ĐỒNG

Khi khái niệm về sức khỏe tâm thần cộng đồng (communuty mental health) được phát triển, đã xuất hiện một ngành tâm lý mới: Tâm lý học cộng đồng (community psychology).

Một số nhà tâm lý cộng đồng chú trọng đến các vấn đề sức khỏe tâm thần trong cộng đồng. Họ nhận thấy rằng thật lý tưởng nếu tất cả những ai cần đến dịch vụ sức khỏe tâm thần đền có thể tìm thấy một nhà thực hành về lĩnh vực đó. Nhưng các nhà tâm lý cộng đồng đang cố gắng, thông qua các trung tâm sức khỏe tâm thần, để đến với những ai không thể tìm được những dịch vụ cần thiết ấy.

Các trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng cung cấp dịch vụ một cách thường xuyên. Họ còn lập ra những "chương trình nhập viện bán phần" (partial hospitalization program) cho những người cần phải nhập viện vào ban ngày nhưng có thể trở về với gia đình vào ban đêm, những người chỉ nhập viện trong thời gian ngắn, hoặc người đang điều trị ngoại trú. Các trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng cũng cung cấp những chương trình tham vấn và giáo dục. Họ tổ chức những buổi giảng, những diễn đàn và cung cấp tài liệu cho cộng đồng về một chủ đề bao gồm trị liệu, kế họach hóa gia đình và sử dụng thuốc.

Tâm lý học cộng đồng có mục đích rộng hơn nhiều so với ngành sức khỏe tâm thần cộng đồng. Nó tập trung vào việc phòng ngừa, can thiệp và họach định. Các nhà tâm lý cộng đồng là thành phần trong các trường học, các ủy ban kế họach, và cả các nhà tù. Nhờ có các nhà tâm lý cộng đồng tham gia điều phối, họach định, và giúp thiết lập các chương trình, mà những kỹ năng, kỹ thuật và kiến thức về tâm lý học được đưa vào áp dụng trong cộng đồng.

Một mục đích đặc biệt của tâm lý học cộng đồng là dự phòng ban đầu (primary prevention). Việc dự phòng ban đần có mục đích nhằm là giảm tỷ lệ các trường hợp rối loạn mới, hoặc giảm những tình huống đối kháng có hại cố thể dẫn tới kém thích nghi hoặc rối loạn. Việc dự phòng an đầu không có tác dụng đối với một cá nhân riêng biệt, nhưng tác dụng đối với toàn bộ dân chúng. Có lúc, những chương trình dự phòng ban đầu nhắm vào toàn bộ cộng đồng; có lúc, nhắm vào những đối tượng ít nguy cơ, như trẻ em có điều kiện kinh tế-xã hội thấp; có lúc lại nhắm vào các nhóm nguy cơ cao như trẻ em của những ông cha bà mẹ bị bệnh tâm thần phân liệt.

Các chương trình đặc biệt: Bệnh việc “gần nhà’ và can thiệp khủng hoảng

Nhằm đáp ứng với sự nhận biết ngày càng nhiều của công chúng về các vấn đề sức khỏe tâm thần, một loại dịch vụ đặc biệt - bệnh viện “gần nhà” (neighborhood clinic) – đã được phát triển. Các bệnh viện “gần nhà” cố gắng giúp cộng đồng đương đầu với những vấn đề về sức khỏe tâm thần, nạn thất nghiệp và thiếu giáo dục. Nhiều cộng đồng dân cư lớn có những cơ sở trị liệu đặc biệt bảo đảm việc giấu tên các thân chủ, kể cả thiếu niên lẫn người lớn, trong khi đó vẫn cung cấp việc trị liệu miễn phí cho một số vấn đề như nghiện ma tuý, nghiện rượu, rối loạn tâm lý, cảm xúc. Thông tin về thân chủ không được đưa đến cơ quan, cha mẹ và bạn bè. Nhiều bệnh viện “gần nhà” được thiết lập bởi các thành viên trong cộng đồng, và có thể được tài trợ bởi các mạnh thường quân, các nhà từ thiện địa phương, hoặc bởi nhà nước.

       Một mục đích của tâm lý học cộng đồng là khuyến khích mọi người dân trong cộng đồng tham gia vào các chương trình trị liệu và can thiệp tại địa phương như những nhân viên bán chuyên nghiệp (paraprofessional). Nhân viên bán chuyên nghiệm là những

người biết các kỹ năng chuyên biệt về sức khỏe tâm thần, điều đó cho phép họ làm nhiều công việc quan trọng và cần thiết mà các nhà tâm lý chuyên nghiệp (professional psychologist) không có thời gian để thực hiện. Nhiều nhân viên bán chuyên nghiệp là những người nội trợ, các giáo viên trung học hoặc sinh viên đại học. Họ không điều tra các kinh nghiệm quá khứ, diễn giải giấc mộng, hoặc tiến hành các trị liệu kéo dài. Mặc dù các nhân viên bán chuyên nghiệp không bao giờ có thể thay thế được những nhà tâm lý hoặc bác sĩ tâm thần được đào tạo chuyên sâu, nhưng họ có thể giúp cải thiện những điều kiện về sức khỏe tâm thần tại cộng đồng. Họ có thể là những “người lắng nghe” rất cảm thông và quan tâm, có thể giúp đỡ cho các cá nhân có vấn đề và đề nghị những nguồn hỗ trợ sẵn có trong cộng đồng.

Một lĩnh vực đặc biệt thành công của các nhà tâm lý và những nhân viên bán chuyên nghiệp là can thiệp khủng hoảng (crisis intervention). Các trung tâm can thiệp khủng hoảng cố gắng giúp đỡ những người đang đương đầu với những tình huống gây

stress

ngắn hạn, cần sự quan tâm trị liệu tức thời. Nhân viên bán chuyên nghiệp, nhà tâm lý hoặc bác sĩ tâm thần sẽ mang lại việc trị liệu trực tiếp, tức thời và nâng đỡ nhằm giúp các đối tượng bị những vấn đề như hiếp dâm, phạm pháp, sử dụng ma tuý, bệnh hoạn, và các vấn đề trong hôn nhân, nghèo khổ và tuổi già. Cơn khủng hoảng thường liên quan đến một sự kiện đặc hiệu; ví dụ, một người đàn ông có thể bị mất việc làm, một đứa trẻ bị bệnh nghiêm trọng, hoặc một phụ nữ bị cưỡng hiếp. Can thiệp khủng hoảng không bao gồm những kỹ thuật hoặc thủ tục đặc hiệu nào cả. Những nhân viên can thiệp khủng hoảng (crisis worker) có thể áp dụng bất kỳ kỹ thuật hoặc hoạt động trị liệu nào “xem ra có ích”, từ việc tiếp xúc qua điện thoại cho đến hình thức làm việc với cả gia đình. Mục đích ở đây là nhắm vào những hoàn cảnh tức thời (immediate circumstance) chứ không phải là những kinh nghiệm thời thơ ấu (childhood experience).

Việc can thiệp khủng hoảng bao gồm một loạt các giai đoạn có thể nhận thấy được. Đầu tiên, một sự kiiện xảy ra làm chao đảo đương sự. Nếu những nguồn hỗ trợ thông thường sẵn có vẫn không giúp được đương sự, tình trạng lo âu và trầm cảm có thể xảy ra. Vào thời điểm đó, đương sự trở nên “rộng mở” đoán lấy những đề nghị về các giải pháp nhằm giải quyết tình huống. Can thiệp khủng hoảng sẽ mang đến cho đương sự cơ hội họp tập những cách thức ứng phó mới cũng như những cách thức ứng xử mới. Nếu không có can thiệp khủng hoảng, thì tình trạng suy thoái về tâm lý (psychological deterioration) sẽ tiếp tục diễn ra.

Do nhận thấy rằng mọi người đếu sẽ có một lúc nào đó gặp khủng hoảng, và việc giải quyết thành công các tình huống này (áp dụng can thiệp khủng hoảng khi cần thiết) là rất quan trọng đối với sức khỏe và sự tăng trưởng tâm lý, các trung tâm can thiệp khủng hoảng đã đưa vào sử dụng những đường dây nóng (hotline). Đường dây nóng là những điện thọai là việc 24 giờ mỗi ngày để trả lời các cựôc gọi của những người cần sự giúp đỡ tức thì. Qua đường dây nóng, những nhân viên can thiệp khủng hoảng cố gắng cung cấp ngay việc trị liệu tức thời và trực tiếp. Một người đang có dự định tự sát có thể gọi cho một nhà trị liệu qua đường dây nóng để nhận được sự hỗ trợ và khích lệ tức thời kèm theo một hướng dẫn để giúp đỡ thêm. Trị liệu qua đường dây nóng không chiếm một vị trí trong trị liệu có hệ thống, nhưng nó có thể là hình thức can thiệp quan trọng đối với một người đột ngột gặp phải những rối loạn gây hoảng sợ.

Làm thế nào để một nhà thực hành có thể làm được công việc giúp đỡ? Người này phải nói gì? Cadden (1964) đề nghị một số kỹ thuật sau đây:

1. Giúp đương sự đối mặt với khủng hoảng.

2. Giúp đương sự đối mặt với khó khăn khi sốc ở mức độ có thể kiểm soát được

3. Giúp đương sự có được những thông tin cần thiết từ những nguồn hỗ trợ đáng tin cậy

4. Giúp đỡ qua những công việc hằng ngày khi cần thiết, ví dụ giúp đỡ khi di chuyển

5. Giúp đương sự tránh bị đổ lỗi

6. Hãy nói thực. Tránh giả tạo đoan chắc một điều gì đó không thể đạt được

7. Giúp đương sự chấp nhận sự giúp đỡ.

Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc can thiệp khủng hoảng có hiệu quả hơn các trị liệu theo truyền thống; các nghiện cứu khác cho thấy ít có hoặc không có khác biệt. Một vấn đề trong việc lượng giá trị liệu khủng hoảng là có nhiều kỹ thuật được nhà trị liệu áp dụng. Sự linh hoạt của phương thức tiếp cận cho phéo mang lại những liệu pháp đặc hiệu cho từng tình huống, nhưng cũng làm cho các so sánh có kiểm soát trở nên khó khăn.

Tâm lý học như một họat động cộng đồng: Hành động và Thay đổi

Một mục đích của tâm lý học cộng đồng là cung cấp những dịch vụ cho cộng đồng, bao gồm những người không có khả năng chi trả cho các dịch vụ tham vấn hay trị liệu tâm lý. Mặc dù luôn luôn có những nhu cầu thăm khám tâm lý trên cơ sở từng cá nhân, nhưng vẫn có một nhu cầu ngày càng tăng đối với các dịch vụ tâm lý cộng đồng. Vì mục đích của tâm lý học cộng đồng là nhằm phát hiện và giải quyết các vấn đề sức khỏe tâm thần tiềm tàng trong cộng đồng trước khi chúng xuất hiện, các nhà tâm lý cộng đồng là những người có

định hướng hành động

(action-oriented). Họ mang đến một số dịch vụ, bao gồm cung cấp nhân sự cho các trung tâm sức khỏe tâm thần, những đường dây nóng “24 trên 24” và những trung tâm phòng tránh tự sát (suicide prevention center). Họ cũng cung cấp các dịch vụ tâm lý cho những nhóm người nghiện rượu, nghiện ma túy, và thiết lập những chương trình dự phòng nhằm phát hiện những đối tượng nguy cơ cao để cung cấp những dịch vụ thích hợp trước khi nhu cầu can thiệp khủng hoảng hoặc nhập viện được đặt ra.

Thay vì chờ đợi để cho cộng đồng đi tìm sự giúp đỡ về tâm lý, những nhà tâm lý cộng đồng sẽ cung cấp các chương trình vươn tới cộng đồng. Để mang đến những dịch vụ sức khỏe tâm thần, họ thường dựa vào những mạng lưới hỗ trợ xã hội (social support network) được lập nên từ gia đình, bạn bè, các tổ chức tôn giáo và xã hội, cùng các nhóm “tự lực” (“self-help” group) có cùng những mối quan tâm và nhu cầu chung. Một yếu tố then chốt của tất cả những nhóm hỗ trợ này là sự tham gia của cộng đồng (community involvement). Mục đích chung của ngành tâm lý học cộng đồng là củng cố những mạng lưới hỗ trợ xã hội hiện có và kích thích việc thành lập những mạng lưới mới để đáp ứng những thử thách mới. Mặc dù thiếu sự huấn luyện chuyên môn, các thành viên trong cộng đồng có thể giúp mở rộng việc chăm sóc đến các nhóm người đặc biệt và cũng có thể giúp đỡ lẫn nhau.

Các nhà tâm lý cộng đồng cũng là những người có định hướng thay đổi (change-oriented). Bởi vì nhà tâm lý cộng đồng tin rằng một số điều kiện xã hội có thể làm cho tình trạng kém thích nghi hiện có trở nên xấu đi (và đôi khi tạo thêm những tình trạng kém thích nghi mới), nên họ thường chủ trương có những thay đổi trong cơ cấu cộng đồng. Mục đích của họ là nhằm cải thiện sức khỏe cộng đồng thông qua những phương thức dự phòng cũng như những phương thức trị liệu.

(Dịch từ quyển

MASTERING PSYCHOLOGY

của

Lester A. Lefton

Laura Valvatne; in lần thứ III. Ch

ương15:

Psychotherapy

)

LIỆU PHÁP THÂN CHỦ TRỌNG TÂM

BS NGUYỄN MINH TIẾN

L

iệu pháp Thân chủ trọng tâm (client-centered psychotherapy), hoặc theo cách gọi tên với nghĩa rộng hơn như hiện nay là Nhân vị trọng tâm (person-centered psychotherapy), là thuật ngữ được chọn để gọi tên cho một nhóm những phương pháp trị liệu tâm lý dựa trên quan điểm lý thuyết về bản chất con người và các tương tác xã hội được phát triển bởi Carl Rogers vào hai thập niên 1940 và 1950 (Brodley; 1988). Rogers là người đầu tiên dùng tên gọi ấy để chỉ phương pháp trị liệu của mình. Sau đó, nhiều tác giả khác đã phát triển thêm các “phân nhánh” cho lọai liệu pháp này; trong đó phải kể đến Eugene Gendlin với “liệu pháp kinh nghiệm” (experiential psychotherapy; 1979) và các tác giả Leslie Greenberg, Laura Rice, Robert Eliott với “liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm” (process-eperiential psychotherapy; 1993).

Lúc còn trẻ, C. Rogers đã dành phần lớn thời gian cho cuộc sống ở nông trại, nơi mà ông đặc biệt quan tâm đến công việc nghiên cứu các quá trình kích thích tăng trưởng cây trồng và làm các thực nghiệm về nông nghiệp. Công việc kích thích tăng trưởng và kiểm định các giả thuyết trong nghiên cứu đã giúp hình thành những thái độ trong cuộc sống cũng như sau đó trở thành những đặc trưng cơ bản trong quan điểm làm việc của Rogers.

Về sau, khi Rogers làm công việc của một chuyên viên tham vấn tại một trung tâm hướng dẫn trẻ em (child guidance clinic), ông đã tiếp xúc với các tư tưởng của Otto Rank – người đã có ảnh hưởng đến Rogers về một số quan điểm như: nhấn mạnh vào tiềm năng sáng tạo của con người, việc trị liệu có mục đích nhắm đến sự chấp nhận bản ngã như là một thực thể độc đáo và có khả năng tự lực, lòng tin vào thân chủ như là nhân vật trung tâm của tiến trình trị liệu, thân chủ là nhà trị liệu của chính mình, và việc trị liệu phải nhấn mạnh vào các trải nghiệm đang xảy ra trong hiện tại hơn là những gì đã xảy ra trong quá khứ... (Raskin & Rogers; 1989).

Rogers cũng chịu ảnh hưởng bởi trào lưu tư tưởng của Roosevelt vào thập niên 1930, từ đó hình thành nên quan điểm lạc quan của Rogers về bản chất con người và niềm tin rằng con người cần phải được đối xử một cách tôn trọng và có lý lẽ ngay cả khi hành vi của họ không phải lúc nào cũng hợp lý.

Tuy nhiên, đối với Rogers, ảnh hưởng lớn nhất mà ông có được là từ những trải nghiệm của những thân chủ mà ông đã tiếp xúc và làm việc. Theo Rogers, chính thân chủ là người biết rõ điều đau khổ của họ là gì, hướng đi của họ sẽ về đâu và vấn đề nào là cấp thiết.

Vào thập niên 1940, Rogers gọi liệu pháp của mình là “liệu pháp không hướng dẫn (non-directive therapy). Ông nhấn mạnh vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu là không hướng dẫn thân chủ của mình. Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu không khí cởi mở và không can thiệp. Vào thập niên 1950, Rogers bắt đầu nhấn mạnh đến “sự thấu cảm” (empathic understanding) và sang thập niên 1960, những tính cách của nhà trị liệu được Rogers nhấn mạnh là “sự hài hòa” (congruence) và “tính trung thực” (genuineness).

Về sau, Rogers áp dụng quan điểm của mình một cách sâu rộng hơn ra ngoài các môi trường khác không thuộc tâm lý trị liệu và làm việc với các nhóm người không phải là thân chủ... Quan điểm thân chủ trọng tâm ảnh hưởng sang cả ngành giáo dục ở Hoa Kỳ, và điều đó khiến Rogers đặt lại tên cho phương pháp của mình là “nhân vị trọng tâm” (person-centred) để phản ảnh sự chuyển đổi đối tượng của phương pháp không chỉ bao gồm những thân chủ trong tâm lý trị liệu mà còn nhắm đến bản chất con người và các mối tương tác xã hội nói chung.

Liệu pháp thân chủ trọng tâm có thể áp dụng cho rất nhiều loại thân chủ/bệnh nhân ở nhiều lọai cơ sở trị liệu khác nhau. Carl Rogers khởi đầu việc trị liệu của mình như một nhà trị liệu theo định hướng phân tâm tại Trung tâm Hướng dẫn Trẻ em ở New York, nơi ông làm việc với những trẻ em thiệt thòi và gia đình của chúng. Sau đó, ông làm việc tại Trung tâm Tư vấn thuộc Đại học Chicago, phục vụ cho các đối tượng trong cộng đồng cũng như cho các sinh viên đại học.

Những nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm có thể làm việc với thân chủ có đủ mọi loại vấn đề như trầm cảm, lo âu, rối loạn nhân cách và cả các bệnh nhân loạn thần.

Theo Smith (1982), Carl Rogers được xếp hạng là nhà tâm lý trị liệu có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất, vượt trên cả ảnh hưởng của Sigmund Freud, mặc dù trong thực tế chỉ có khoảng 9% trong tổng số các nhà trị liệu tự nhận mình theo trường phái thân chủ trọng tâm. Mặt khác, hầu hết các nhà trị liệu hiện nay có xu hướng đi theo quan điểm chiết trung (eclectic), và khỏang 1 phần 3 trong số này phối hợp liệu pháp thân chủ trọng tâm với các lọai liệu pháp nhân văn khác theo nhiều định hướng khác nhau (Norcross & Prochaska; 1988).

Khái niệm về nhân cách - Nhân cách như một tiến trình

Liệu nhân cách con người có tính kiên định, vững chắc, khó thay đổi như cấu trúc của một tòa nhà, hay là nó có thể thay đổi như các giai điệu của một ca khúc?

Học thuyết thân chủ trọng tâm cho rằng nhân cách con người có tính chất giống như các giai điệu của một bản nhạc mà người ta có thể “chơi” theo nhiều kiểu khác nhau, vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời mình. Điều đó có nghĩa là: con người những “cấu trúc đang diễn tiến” (structure-in-process). Trường phái thân chủ trọng tâm không phủ nhận các cấu trúc, ví dụ các nét tính cách vẫn có thể tồn tại, và cũng không phủ nhận tính hằng định liên tục của nhân cách theo thời gian. Nhưng điểu quan trọng là các cấu trúc nhân cách vẫn liên tục thay đổi dù đôi lúc chúng có vẻ bất biến và không đổi. Có thể so sánh sự thay đổi ấy với sự thay đổi trong hình thể của các cấu trúc trong tự nhiên như núi, sông, bờ biển... Trong khi nhìn bề ngoài các cấu trúc ấy không thay đổi nhưng các hiện tượng trong tự nhiên lại liên tục làm biến đổi chúng theo kiểu bồi đắp thêm hoặc hủy hoại, bào mòn...

Caspi và cs. nhận thấy những người có tính cách lệ thuộc khi còn thơ bé vẫn có thể giữ lại đôi nét những tính cách ấy khi lớn lên nhưng có thể biểu hiện chúng dưới những hình thức trưởng thành hơn như nương tựa lẫn nhau và duy trì những mối quan hệ hỗ trợ. Bản thân các học thuyết của Freud hay Rogers cũng là những “cấu trúc đang diễn tiến”: các quan điểm của họ cũng liên tục thay đổi và tăng trưởng dù cả hai lý thuyết đều có những quan điểm nền tảng khá kiên định.

Có thể nói quan điểm xem nhân cách như một tiến trình nhấn mạnh: các nét nhân cách (personality traits) không phải là những cấu trúc kiên định mà được xem là các “chiến lược hành động” (action strategies) (Cantor; 1990) và nói chung, trường phái thân chủ trọng tâm xem

con người như một tiến trình sống.

Cuộc sống qua từng thời khắc

(moment-by-moment living)

Trong khi các tác giả của “Giả thuyết tái hiện” (reappearance hypothesis) cho rằng “con người học tập và bảo lưu những khái niệm, hình ảnh, ký ức, và rồi hành động, đơn giản chỉ là tái hoạt lại những nhu cầu và đòi hỏi, chính xác như những bản sao của các sự kiện đã xảy ra trước đó” (Anderson, 1974); trường phái thân chủ trọng tâm cho rằng thực tế xảy ra trái ngược lại: “Hành vi của các loài sinh vật, mỗi cái đều xảy ra lần đầu tiên... và không có gì rõ ràng cho thấy rằng có một hành vi nào đó được lập lại vào lần thứ hai. Chúng ta liên tục làm nên những điều mới mẻ... Khi xem xét kỹ, chúng ta thấy những hành vi có vẻ như được lập lại thực sự lại thể hiện những sự khác lạ dưới một dạng thức nào đó... Bạn không bao giờ chải răng hai lần hoàn toàn giống nhau.” (Epstein, 1991).

Tiềm năng học tập (Learning potential)

Để có chức năng sống đầy đủ, con người phải học tập liên tục qua từng giây phút một. Con người tiếp nhận các phản hồi từ môi trường sống, rồi điều chỉnh ứng xử của mình khi tương tác với những người khác xung quanh. Con người sống tốt nhất khi họ hành động một cách thông minh, và liệu pháp thân chủ trọng tâm luôn nhấn mạnh đến việc tăng cường khả năng suy nghĩ rõ ràng và thông minh của thân chủ (Van Balen, 1990; Zimring, 1990). Việc học hỏi thường xuyên sẽ giúp bổ sung thêm các chi tiết và làm mới lại những niềm tin, các khái niệm, các sơ cấu, các cấu trúc và vận hành các nét nhân cách. Theo thời gian sự học tập giúp cho sự tiến triển dần dần các thuộc tính và, đến một lúc nào đó, dẫn đến sự biến đổi đang kể các đặc trưng của một con người.

Tiềm năng tăng trưởng

(Growth potential)

Carl Rogers lúc đầu nói đến “khuynh hướng hiện thực hóa” (actualizing tendency) ở các lòai sinh vật và về sau ông mở rộng ý tưởng này bằng việc cho rằng: khuynh hướng hiện thực hóa chỉ là hình thức cá biệt của một khuynh hướng được định hình rộng lớn hơn của cả vũ trụ, được tìm thấy ở ở những sinh vật lẫn những vật thể vô tri, đó khuynh hướng nhắm đạt đến một trật tự tốt hơn, phức tạp hơn và có tương quan gắn kết hơn. Tiến trình này lại bao gồm hai tiến trình nhỏ hơn là thống hợp (integration) và biệt hóa (differentiation).

Ở mức độ cá nhân một con người, khuynh hướng hiện thực hóa nhắm đến phát triển cá nhân đó bằng cách tạo lập một cấu trúc sống vừa thống hợp hơn vừa biệt hóa hơn. Điều nhấn mạnh ở đây không phải là việc con người về cơ bản là tốt hay xấu, mà là con người về cơ bản có một “tiềm năng thay đổi” (Shlien & Levant, 1984). Nghiên cứu trên những trẻ em lớn lên và sống sót trong những hòan cảnh sống bất lợi cho thấy sự phát triển tâm lý của con người có những khả năng tự bảo vệ và tự điều chỉnh rất cao (Masten, Best, Garmazy, 1990).

Khả năng sáng tạo

(creativity)

Để sống đầy đủ, con người phải sáng tạo trong cuộc sống hằng ngày, bởi mỗi tình huống khi xảy ra đều có sự khác biệt đôi chút so với trước đó, và hiện tại luôn đặt ra những thách thức cho sự vận dụng một cách sáng tạo những gì đã học vào những hoàn cảnh sống mới. Trong quá trình sống, con người thường xuyên khám phá và phát hiện những cách thức mới để tồn tại và ứng xử, dù rằng phần nhiều các cách thức mới này chỉ thể hiện những điều chỉnh sáng tạo tương đối nhỏ.

Khả năng định hướng tương lai

(future orientation)

Một người luôn khám phá và học hỏi sẽ có thể tìm được sự định hướng cho tương lai và những khả năng còn để ngỏ của nó. Con người là sinh vật biết nhìn đến phía trước do những hành vi của con người được hướng dẫn bởi những gì mà họ tưởng tượng sẽ xảy ra trong những thời khắc sau đó hơn là bởi những gì mà họ thấy được trong hiện tại (Markus & Nurius, 1987).  Chính bằng cách tiên liệu được những gì sẽ xảy đến, bằng cách nào việc ấy xảy ra và bản thân mình có khả năng gì để đạt đến việc ấy, mà con người xác định được hành vi của mình. Shlien (1988) đã khẳng định rằng: “Tương lai quan trọng hơn quá khứ trong việc xác định hiện tại”. Quá khứ ảnh hưởng đến chúng ta vì chúng ta sử dụng kinh nghiệm từ quá khứ để tiên liệu cho tương lai, chứ không phải vì quá khứ “kết dây nối” vào cuộc sống chúng ta rồi máy móc điều khiển hành vi của chúng ta.

Tương tác

(interaction)

Con người có bản chất tương tác với nhau. Con người luôn luôn là “con-người-trong-bối-cảnh”. Hành vi của một người luôn xuất phát cả từ nhân cách của người ấy lẫn từ trong những mối quan hệ trong cuộc sống của người ấy. Môi trường sống của một con người bao gồm gia đình và các quan hệ liên cá nhân khác như hàng xóm, các mạng lưới hỗ trợ xã hội, các thông số và giá trị về văn hóa. Ngòai ra còn có các quan hệ trong nghề nghiệp, kinh tế, tôn giáo, chính trị... Có một giao diện động và liên tục giữa cái ngã và các tình huống bên ngòai. Chúng ta tự “định cấu hình” cho bản thân để phần nào đó đáp ứng lại với những gì được cho là quan trọng và đang hiện diện trong thời khắc hiện tại. Vì thế, một “bộ mặt” nào đó của chúng ta sẽ có thể xuất hiện trong tình huống này và một “bộ mặt” khác lại xuất hiện trong một tình huống khác. Đây là quan điểm về “trường” (field) trong hành vi con người và cũng tương thích với quan điểm hệ thống.

Cái ngã trong bối cảnh, Tính tự chủ và Chủ nghĩa cá nhân

(Self-in-context, Autonomy & Individualization)

Đối với Carl Rogers, việc đạt đến sự tự chủ là một mục đích rất quan trọng trong sự phát triển của con người, cũng như đối với hầu hết các học thuyết về nhân cách ở phương Tây. Rogers cho rằng một con người có chức năng sống đầy đủ là người có khả năng tự kiểm soát và hành động dựa trên các giá trị mà bản thân đã lựa chọn chứ không cứng nhắc tuân thủ theo các uy lực từ bên ngoài.

Tuy nhiên, một số các tác giả thuộc trường phái thân chủ trọng tâm ngày nay đã phê phán việc Rogers đã quá nhấn mạnh đến sự tự chủ và chủ nghĩa cá nhân, và cả kiểu tư duy như thế ở phương Tây nói chung (Holstock, 1990; O’Hara, 1992). Họ cho rằng các giá trị này có tính đặc hiệu của nền văn hóa phương Tây, thậm chí còn đặc trưng nhiều cho nam giới, và các tác giả này nhấn mạnh hơn đến một khái niệm khác (cũng rất phương Tây) đó là khái niệm “đồng phụ thuộc” (codependency) (Bishop, 1992). Những tác giả này cho rằng trong một số nền văn hóa khác, đường biên giới phân định cái ngã của mỗi người không chỉ dừng lại ở lớp da của người đó, mà còn có thể trải rộng sang cả gia đình và những tập thể rộng lớn hơn. Họ nhấn mạnh đến những đường biên giới uyển chuyển hơn là những đường biên giới cứng nhắc của cái ngã theo kiểu tâm lý học phương Tây. Những yếu tố xác định hành vi của con người nằm trong một “trường” gồm nhiều lực tác động, bao gồm cả cái ngã, điều đó trái ngược với tâm lý học phương Tây trong đó những yếu tố nguyên nhân được xem là định vị bên trong cá nhân mỗi người.

O’Hara (1992) đưa ra khái niệm về một “cái-ngã-trong-bối-cảnh”, qua đó ông nhấn mạnh đến bản chất của con người là có tính liên kết lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Barrett Lennard (1993) cũng cho rằng “cái ngã của một cá nhân chỉ là một trong những hình thức thể hiện của đời sống lòai người; các hình thức khác có thể kể ra bao gồm các mối quan hệ, gia đình và cộng đồng xã hội”. O’Hara và Wood (1993) cho rằng “Cá nhân không mất đi bản sắc của mình khi ở bên trong tập thể. Họ chỉ làm cho tương hợp giữa cái Tôi và cái Chúng Ta”.

Arthur Bohart (1995) tin rằng yếu tố chính vận hành xuyên suốt trong khái niệm về tính tự chủ của Rogers chính là một sự cảm nhận về tính hiệu quả (agency): Một thứ cảm nhận khi con người đương đầu với các thách thức. Tính tự chủ hay tự lập không hàm ý là một cảm nhận về sự tự thỏa mãn, mà quan trọng hơn đó là cảm nhận về khả năng và tính hiệu quả của bản thân mình. Bởi vì sự thử thách luôn là phần cố hữu hiện diện bất cứ khi nào con người làm một việc gì đó trong cuộc sống (nghề nghiệp, quan hệ, chăm sóc con cái...). Cho nên khi có được cảm nhận về khả năng của bản thân, con người sẽ có thể đối mặt và đương đầu tốt với các thách thức, và đó cũng chính là nền tảng của chức năng sống hiệu quả (Dweck & Leggert, 1988). Một định hướng nhắm đến việc đương đầu với các thử thách sẽ dẫn chúng ta tập trung vào tiến trình thực hiện một công việc hơn là chú trọng đến kết quả của nó, và thất bại được xem là loại thông tin được học tập để rút kinh nghiệm hơn là thông tin cho thấy sự kém hiệu quả của một ai đó.

Thực tế khác nhau giữa các nền văn hóa dẫn đến các khái niệm khác nhau về cái ngã. Nhà tâm lý trị liệu phải tôn trọng tiềm năng tăng trưởng sẵn có bên trong thế giới nhận thức của từng cá nhân con người hơn là sử dụng những phương thức “khách quan”, “đúng đắn” để áp dụng đối với họ.

Giao tiếp

Thúc đẩy sự giao tiếp giữa những cá nhân có thế giới nhận thức khác nhau (ví dụ, giữa thân chủ và nhà trị liệu) là điều quan trọng hơn việc phán xét về quan điểm ai đúng, ai sai. Việc cởi mở chia sẻ những cảm xúc và quan điểm theo cách thức tôn trọng lẫn nhau, trong một bầu không khí có tính chấp nhận sẽ thúc đẩy mối quan hệ hướng đến sự hòa hợp giữa những đối tác và huy động được “sự thông thái của cả hai bên hoặc của cả nhóm”. Đây cũng là điều quan trọng cho các cặp vợ chồng, các gia đình, cơ quan, giữa các dân tộc và các quốc gia.

Mối quan hệ hài hòa giữa hai cái ngã

Đó là một tiến trình giao tiếp mà trong đó tất cả các khía cạnh của cái ngã được tôn trọng, được lắng nghe đều quan trọng ngang nhau từ hai phía đối tác. Khi được lắng nghe một cách thân hữu, cởi mở, tất cả những khía cạnh của cái ngã như ý nghĩ, cảm xúc và những trải nghiệm (bao gồm cả những “lời nói bên trong” được nhập tâm từ cha mẹ và xã hội), thì khả năng bên trong của mỗi người sẽ vận hành hướng đến sự tổng hợp đầy sáng tạo. Tất cả những “tiếng nói bên trong” cũng có thể tham gia góp phần vào.

Sự hài hòa (congruence) chính thực là một tiến trình nội tại (Lietaer, 1991). Sự hài hòa không luôn luôn có nghĩa là sự hài hòa trong nội tâm (inner harmony). Một cảm nhận về sự hài hòa nội tâm có thể xuất hiện rồi mất đi. Tuy nhiên, nếu một người nào đó có tính hài hòa – cởi mở và chấp nhận tất cả những “tiếng nói bên trong” – thì tiến trình tổng hợp một cách sáng tạo sẽ vận hành đi tới.

Trải nghiệm, Cảm xúc và Tình cảm

Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm vừa đánh giá cao những suy nghĩ thông minh, hợp lý, vừa xem trọng những cảm xúc và trải nghiệm; tất cả đều là những nguồn thông tin quan trọng về cách thức mà con người đương đầu một cách sáng tạo với thế giới bên ngoài.

Tuy nhiên, những trải nghiệm thì không giống với các suy nghĩ hợp lý, nhưng chúng lại là cách thức căn cơ hơn giúp con người hiểu được bản thân và thế giới bên ngoài. Trải nghiệm cũng khác với tình cảm (Bohart, 1993). Trải nghiệm là mô hình nhận biết một cách trực tiếp, không dùng lời, các cách thức vận hành và các mối quan hệ trong thế giới, giữa cái ngã và thế giới bên ngòai, và giữa cả những thành tố bên trong cái ngã. Trải nghiệm bao gồm cả điều thường được gọi là sự “trực giác”. Tuy nhiên, chẳng có gì là huyền bí ở đây cả. Chúng ta vẫn thường cảm nhận và nhận biết được các mối liên hệ mà chúng khó có thể diễn tả ra thành lời. Ví dụ, chúng ta có thể cảm nhận được ngay một người đang “xịu mặt”, trước khi dùng suy nghĩ phát hiện rằng có điều gì đó không ổn đang xảy ra nơi người ấy (Lewicki, 1986).

Các ý nghĩa có được thông qua sự trải nghiệm trực tiếp thường mạnh hơn rất nhiều so với các ý nghĩa có được qua tư duy nhận thức. Trong một mối quan hệ, trải nghiệm được yêu thương là một cảm nhận rất phức tạp mà các suy nghĩ hợp lý hoặc các phát biểu thành lời khó có thể chuyển tải được hết ý nghĩa. Thông qua sự tương tác với mẹ, đứa trẻ nhũ nhi có thể thông báo cho mẹ nó biết rằng người mẹ đã thấu hiểu nó hay không. Điều này không có nghĩa là đứa trẻ đã có được một “khái niệm” về sự thấu hiểu. Thay vào đó, đứa trẻ đã cảm nhận trực tiếp cái cách thức tương tác hài hòa, hiểu nhau giữa nó và mẹ nó. (Stern, 1985)

Gendlin (1964; 1969) tin rằng trải nghiệm có tính phức tạp hơn tư duy hợp lý và sự diễn đạt bằng lời. Chính trải nghiệm mới là nguồn lực cho sự sáng tạo. Eistein đã có được cảm nhận về thuyết tương đối trước khi ông có thể phát biểu lý thuyết ấy bằng lời nói. Chúng ta cũng có thể cảm nhận được có gì đó không ổn trong một mối quan hệ trước khi có thể dùng lời để nói rõ đó là điều gì.

Trong nội tâm, chúng ta cũng có một trực cảm (felt sense) về cách thức mà cuộc sống của chúng ta đang diễn ra và cách thức mà các tình huống sống đã xảy đến với chúng ta. Cũng theo Gendlin, chính ở bình diện các cảm thức mà những thay đổi có tính trị liệu mới có thể xảy ra. Việc trị liệu tâm lý phải dẫn đến một sự chuyển đổi về cách thức mà chúng ta liên hệ với thế giới bên ngoài, sao cho sự biến đổi ấy có thể được cảm nhận trực tiếp thay vì chỉ là sự thay đổi về mặt lý trì.

Cảm xúc

(feelings)

Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm được biết đến như những người thường hay khuyến khích thân chủ hãy “tin tưởng vào cảm xúc”, hoặc hãy “chạm đến cảm xúc”... Cảm xúc, theo quan điểm thân chủ trọng tâm, còn nhiều hơn cả tình cảm. Trong khi ta cảm thấy giận hoặc buồn, thì thực sự ta đang cảm nhận những khuôn mẫu ý nghĩa phức tạp hơn thế. Để nhận biết được những cảm xúc, cùng lúc ta phải nhận biết được những tình cảm nào mà ta đang có, đồng thời nhận biết được kiểu cách liên hệ giữa ta và thế giới bên ngòai đang xảy ra như thế nào. Ví dụ ta có thể “cảm thấy có điều gì đó bất ổn trong cuộc sống” và “cảm thấy cuộc sống của ta đang bị mất thăng bằng”. Khi nói “hãy tin tưởng vào cuộc sống của bạn” thì có nghĩa là hãy lắng nghe cảm xúc như một nguồn thông tin quan trọng, chứ không có nghĩa là hãy làm theo những gì chúng bảo.

Một nữ thân chủ nói với nhà trị liệu rằng cô “cảm thấy” chồng cô không yêu thương cô nữa. Về mặt tâm lý, khi cô nghĩ và nói ra điều này, cô đã không thể dẫn ra một lý lẽ nào để giải thích được cảm xúc ấy. Người chồng nói anh ta vẫn yêu cô, nhà trị liệu thì kết luận rằng cô đã nhận định sai hoàn cảnh hiện tại do bởi cô đã có những vấn đề trong mối quan hệ với cha cô hồi còn bé. Sau đó, người nữ thân chủ này đã tìm đến một nhà trị liệu khác, và chỉ sau hơn một tháng, chồng cô tuyên bố rời bỏ cô. Anh ta thừa nhận trong nhiều tháng qua đã ngoại tình và yêu một phụ nữ khác. Rõ ràng những cảm xúc của thân chủ trong trường hợp này chủ yếu đã dựa vào những thay đổi trong cách thức cư xử của người chồng đối với cô, những thay đổi tinh tế đến mức nếu chỉ sử dụng lý trí cô khó có thể nhận dạng được.

Tuy nhiên, cảm xúc không luôn luôn lúc nào cũng đúng và đôi khi có thể dẫn đến việc thấy một điều gì đó “có vẻ đúng” dù thực tế không đúng như vậy. Như trường hợp thân chủ nêu trên, cảm nhận không ổn về người chồng cũng có thể là đã không đúng. Tuy nhiên, nếu cô vẫn tin vào cảm xúc của mình thì cô có thể tiếp tục kiểm định lại dựa trên những trải nghiệm mà cô đã có được từ trong cuộc sống chung với chồng mình.

Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tin rằng những người có chức năng sống đầy đủ có thể sử dụng tất cả những gì mình có. Họ có thể vận dụng cả khả năng tư duy hợp lý và giải quyết vấn đề, lẫn khả năng sử dụng những cảm nhận theo kinh nghiệm về những gì có ý nghĩa riêng đối với bản ngã của họ. Cả hai nguồn thông tin đều có thể sai lầm: việc thực hiện chức năng sống đầy đủ cần phải xem xét cả hai nguồn thông tin ấy.

Cái ngã như một tiến trình

(Self as Process)

Đối với học thuyết thân chủ trọng tâm, cái ngã không phải là một sự vật hoặc một tác nhân ở bên trong con người, mà là “một trải nghiệm về cính mình như một con người trọn vẹn ở một thời khắc nhất định nào đó”. Cùng lúc ấy, chúng ta định hình nên những ý niệm về chính chúng ta nhằm giúp chúng ta tổ chức lại những gì mình hiểu biết về thực tế cuộc sống, theo cùng một cách thức mà ta dùng để tạo nên những ý niệm về những sự vật khác. Cái “ý niệm về bản thân” này (self-concept) là một cấu trúc trong sự hiểu biết mà chúng ta sử dụng như một “tấm bản đồ” để giúp chúng ta “lèo lái” thực tế (Shlien, 1970). Nó có tính chất đa chiều kích, nhưng có hai khía cạnh quan trọng là “cái ngã thực” và “cái ngã lý tưởng”. Cái ngã thực (real self-concept) là hình ảnh của chúng ta về một con người mà ta nghĩ ta thực sự đang là; còn cái ngã lý tưởng (ideal self-concept) là hình ảnh của chúng ta về một con người mà ta nghĩ ta nên là. Một người có chức năng sống đầy đủ sẽ giữ lấy hai khía cạnh trên của cái ngã một cách chừng mực. Sẽ là không lành mạnh nếu chấp giữ vào một cái ngã quá cứng nhắc, vì cái ngã sẽ luôn trưởng thành và thay đổi. Chúng ta sẽ phải điều chỉnh lại ý niệm về cái ngã của mình để phù hợp với những trải nghiệm sống mới, cũng như chúng ta cũng phải sửa đổi các ý niệm khác sao cho phù hợp với những trải nghiệm sống của bản thân.

Lý thuyết về sự phát triển

Mặc dù Rogers có trình bày một số quan điểm về sự phát triển tâm lý, nói chung trường phái thân chủ trọng tâm vẫn không nhấn mạnh vào điều này, tuy nó vẫn hàm chứa một quan điểm về sự phát triển. Đầu tiên, một đứa trẻ được sinh ra đã là một sinh vật năng động, hiếu kỳ, thích khám phá, quan tâm đến việc học hỏi từ thế giới xung quanh và có một mối quan tâm nội tại về sự phát triển những khả năng của chính mình. Đứa trẻ sẽ lắng nghe và học hỏi từ tất cả những trải nghiệm sống của nó: từ cha mẹ, từ các trẻ đồng trang lứa, bà con, hàng xóm, thầy cô và từ những câu chuyện kể... Trẻ đặc biệt quan tâm đến việc học hỏi từ kết quả của những hoạt động mà trẻ tự mình cố gắng thực hiện và khám phá.

Như một cơ thể đang tăng trưởng, đứa trẻ sẽ không “hoàn tất” con đường đi của mình trong vài năm đầu đời. Lý thuyết phân tâm xem những trải nghiệm sống trong những năm đầu đời là có tính “nền tảng”, có vai trò định hình ban đầu và ảnh hưởng đến tất cả các cấu trúc nhân cách về sau. Trường phái thân chủ trọng tâm lại xem con người vẫn liên tục phát triển. Và khi phát triển, con người mang những gì mà mình học được trước đó vận dụng vào việc hiểu chính bản thân mình và thế giới xung quanh. Quan điểm này tương đồng với Piaget hơn là với Freud. Theo quan điểm của Piaget, sự phát triển là một tiến trình trải dài trong đó các giai đoạn sau sẽ phát huy và tổ chức lại những gì đã xảy ra trong các giai đoạn trước. Các ý tưởng và trải nghiệm ban đầu vẫn được bảo lưu nhưng được kết hợp với các cấu trúc thực tại mới hơn, tinh tế hơn, sao cho những dạng thức học tập lúc ban đầu sẽ bị đổi khác đi.

Freud xem sự phát triển có mô hình dưới dạng một kim tự tháp, trong đó những gì học tập được lúc đầu đời sẽ tập trung ở phần đáy, còn những gì đến sau sẽ ở những phần trên cao hơn. Học thuyết thân chủ trọng tâm xem sự phát triển giống như một bộ những “chiếc hộp Trung Hoa”, trong đó thuở ấu thơ được ví như chiếc hộp nhỏ nhất nằm ở bên trong cùng, các giai đoạn sau của đời sống thì giống như những chiếc hộp lớn hơn lần lượt lồng vào chiếc hộp ban đầu, và cứ thế, cứ thế... Mỗi một trải nghiệm sống mới tạo thêm một khung sườn rộng hơn, kiên cố hơn so với những trải nghiệm trước đó và giúp cho cá nhân đó thống hợp tốt hơn.

Ngòai ra, con người còn có khuynh hướng tìm đến sự khám phá và đối đầu với những thử thách hơn là tránh né những đau khổ và hụt hẫng. Các lý thuyết gia tâm động học cho rằng “con người có một khuynh hướng phổ biến là muốn tránh sự đau khổ” (Strupp & Binder, 1984), và trẻ em thường có khuynh hướng muốn chối bỏ, tránh né và dồn nén cảm xúc và những trải nghiệm đau thương. Trái lại, Bohart (1995) lại nhận thấy một cách đáng ngạc nhiên về sự cam đảm của các thân chủ của ông khi họ thường xuyên phải đối đầu với những nỗi đau, thách thức và luôn cố gắng làm chủ cuộc sống của họ. Ngay cả trẻ em cũng thường xuyên lập lại những cuộc đối đầu với các sự kiện đau thương và những trải nghiệm gây hụt hẫng để cố gắng làm chủ lấy chúng. Con người chỉ tránh né đau khổ và hụt hẫng khi họ cảm thấy mình đã mất hết năng lực để giải quyết chúng (Bandura, 1986), như trường hợp những trải nghiệm vượt quá sức chịu đựng ở những trẻ em bị xâm hại chẳng hạn.

Khi nào một người có “chức năng sống đầy đủ”

(fully functioning)

Rogers và cs. đã phát triển một thang đo lường những thay đổi trong trị liệu, phân mức độ từ chỗ gọi là “rối loạn chức năng” (dysfunctional) cho đến “có chức năng sống đầy đủ” (fully functional). Theo Rogers, ở đầu thứ nhất của thang đo biểu thị một chức năng tâm lý cứng nhắc, kiên định, chuyên biệt hóa kém, vô cảm, lạnh lùng; còn ở đầu thứ hai của thang đo là biểu thị cho một chức năng tâm lý được đặc trưng bởi sự chấp nhận thử thách, uyển chuyển và các phản ứng có tính chuyên biệt hóa cao, bởi sự trải nghiệm tức thời những cảm xúc của bản thân và trong thâm sâu chấp nhận những cảm xúc ấy như là của chính mình (Rogers, 1961b). Khi con người có chức năng sống đầy đủ, họ sẽ có lối sống mềm dẻo, uyển chuyển: xử lý một cách cân nhắc các sơ cấu nhận thức, kiểm định chúng dựa trên các trải nghiệm, mở lòng chấp nhận các cảm xúc, lắng nghe và học hỏi từ các phản hồi, đối thoại với chính mình và với những người xung quanh, cảm thấy mình có thể tự định hướng cho cuộc đời mình. Ở giữa thang đo là biểu thị cho các chức năng sống ở nhiều mức độ khác nhau.

Chức năng sống đầy đủ có ý nghĩa đơn giản là một con người ở mỗi thời điểm đều vận hành như một quá trình đang tiến triển. Điều này không hoàn toàn có nghĩa là người đó phải hài lòng, mãn nguyện và hạnh phúc (Rogers, 1961a). Một con người sống đầy đủ cũng không có nghĩa là phải luôn “vận hành một cách tối ưu”. Ngay cả khi có chức năng sống đầy đủ, con người vẫn có lúc cảm thấy bế tắc, mất năng lực, không hiệu quả và hụt hẫng. Tuy nhiên, ngay cả những lúc như thế, người ấy vẫn tiếp tục đấu tranh với vấn đề khó khăn của mình, cố gắng học hỏi và tiếp tục đi tới.

Mở rộng quan điểm “nhân vị trọng tâm” sang các lĩnh vực gia đình và nhóm

Quan điểm “nhân vị trọng tâm” đã được mở rộng và áp dụng sang cả lĩnh vực trị liệu gia đình (Lietaer, 1990; Levant & Shlien, 1984) và các nhóm (O’Hara & Wood, 1983). Các nguyên lý chung cũng vẫn tương tự như nhau: những gia đình và nhóm có chức năng sống đầy đủ là những tập thể người có sự giao tiếp cởi mở sao cho tất cả các tiếng nói đều được nghe thấy. Các quyết định được hình thành thông qua các quá trình thảo luận hơn là chỉ máy móc áp dụng các luật lệ, quan điểm hoặc những điều “nên, không nên”. Việc đối thọai và giao tiếp cởi mở có thể giúp huy động được “sự thông thái tập thể”. Trái lại, các nhóm và gia đình có sự trở ngại trong đối thọai thì các thành viên sẽ dễ duy trì một hệ thống các luật lệ, các quan điểm cứng nhắc và dễ có khuynh hướng dẫn đến rối lọan chức năng.

Bệnh lý rối lọan chức năng

Từ quan điểm thân chủ trọng tâm, một hành vi bất thường có thể phát sinh khi một con người không có khả năng vận hành theo một cách thức liên tục phát triển. Các vấn đề tâm lý không phải là do sự sai lầm về niềm tin hoặc nhận thức, và cũng không phải ở chỗ những hành vi ấy có tính không thích nghi hoặc không hiệu quả. Khi con người đương đầu với các thách thức trong cuộc sống, họ cũng có lúc nhận thức sai, ứng xử không thỏa đáng hoặc có những niềm tin lệch lạc. Tuy nhiên, sự rối loạn chức năng chỉ xảy ra khi chúng ta “thất bại trong việc học” từ những thông tin phản hồi và vì thế vẫn bị vướng mắc vào những nhận thức sai hoặc những hành vi không thỏa đáng ấy. Sự rối loạn chức năng chính là sự thất bại trong việc học hỏi và thay đổi. Theo quan điểm thân chủ trọng tâm, có ba cách giải thích liên quan đến việc vì sao sự thất bại này xảy ra, đó là sự thiếu hài hòa (incongruence), không thể tồn tại như một tiến trình (failure to be in process) và khó khăn trong việc xử lý thông tin.

·

        

Thiếu hài hòa

Quan điểm phổ biến nhất về sự rối lọan chức năng theo trường phái thân chủ trọng tâm là: hành vi bất thường phát sinh do sự trái ngược, mâu thuẫn giữa một bên là ý niệm về cái ngã và bên kia là những trải nghiệm sống. Ví dụ, Janet là một sinh viên giỏi ở trường đại học. Trong hình ảnh về bản thân (self-image), cô muốn mình sẽ trở thành một bác sĩ. Tuy nhiên, trong các giờ học môn sinh và môn hóa cô lại có những trải nghiệm rất xa lạ và không như ý muốn, và sự mâu thuẫn này đã khiến cho cô phiền lòng.

Tuy nhiên, không phải sự mâu thuẫn này làm nên tình trạng rối lọan chức năng, mà là do ở cách thức đương sự đáp ứng và cố gắng giải quyết sự trái ngược này. Nếu các cấu trúc trong nhận thức được đương sự xử lý một cách chừng mực thì người ấy sẽ có khả năng thống hợp lại các khía cạnh có tính đối lập nhau bên trong cái ngã của mình, và chính từ khả năng thống hợp này mà sự sáng tạo mới có thể được nảy sinh. Nhưng nếu các khía cạnh đối lập nhau trong ý niệm về cái ngã vẫn còn được lưu giữ một cách cứng nhắc, tiến trình thống nhất và tổng hợp này sẽ bị bế tắc.

Con người thường học cách bảo lưu các thành phần của cái ngã một cách cứng nhắc do bởi cha mẹ họ, các giáo viên và nền văn hóa của họ áp dụng những “tiêu chuẩn đánh giá” đối với họ. Đó là, họ chỉ cảm thấy mình có giá trị khi tuân theo những chuẩn mực và giá trị của người khác. Điều này khiến cho họ dễ chấp nhận một cách cứng nhắc những “điều nên làm” khi xem xét những cách thức sống mà họ được người khác trông đợi. Một khi có sự thiếu hài hòa giữa những điều răn cứng nhắc và những trải nghiệm thật sự của bản thân, họ sẽ không thể thách thức những điều răn ấy, và vì thế họ sẽ có khuynh hướng đáp ứng lại bằng cách chối bỏ những trải nghiệm thực của mình hoặc tìm cách diễn giải chúng khác đi. Khi không còn khả năng lắng nghe những trải nghiệm của chính mình thì họ đã lấy đi sức mạnh của chúng. Để rồi sau đó, họ chỉ có thể chủ yếu dựa vào những “điều răn” để hướng dẫn cho sự chọn lựa của mình. Khi nỗi lo âu và tính không hài hòa không được giải quyết, đương sự sẽ dần dần cảm thấy bất lực và trở nên trầm uất.

Janet, trong ví dụ trên, qua nhiều năm đã được “lập trình” bởi chính cô, bởi cha mẹ cô và bởi các giáo viên của cô, để trở thành một bác sĩ. Để theo đuổi chương trình này, cô đã phải bỏ qua những cảm xúc không phù hợp khi tham dự những lớp học môn sinh và môn hóa. Điều này dường như cũng đã ảnh hưởng lên nhân cách của cô, khiến cho bạn bè cũng cảm nhận cô như một người xa cách và hay phòng vệ. Nhưng đến một ngày kia, Janet đến lớp với một vẻ hoàn toàn khác: cởi mở, nhiệt tình và thân thiện. Cô bảo với mọi người rằng cô đã có một quyết định quan trọng của riêng mình: cô sẽ thay đổi chuyên ngành học của mình sang lĩnh vực nghệ thuật. Cô bộc bạch rằng sau cùng cô đã bắt đầu lắng nghe các trải nghiệm của mình và nhận thấy rằng thật tâm cô không muốn trở thành một bác sĩ. Chính việc tin tưởng vào trải nghiệm của chính mình đã cho phép cô tự mở ra những con đường đi mới.

Vấn đề của Janet là ở chỗ cô đã cứng nhắc chấp giữ một niềm tin rằng mình phải trở thành một bác sĩ. Khi cô xem xét niềm tin ấy một cách đúng mực và đánh giá nó dựa trên chính những trải nghiệm của mình, cô đã chọn quyết định thay đổi ngành học. Tuy nhiên, cô cũng có thể đi theo hướng ngược lại: đó là tiếp tục chọn việc học để trở thành một bác sĩ ngay cả khi cô không thích học sinh và học hóa. Và điều quan trọng ở đây là Janet  đã đặt ra các câu hỏi và thách thức các cấu trúc nhận thức của mình.

Sự thiếu hài hòa có thể xảy ra dưới nhiều hình thức. Một số người đã khái quát hóa các ý niệm tiêu cực về cái ngã và phán xét chúng một cách khắc khe về mọi lĩnh vực. Điều này đã dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng, ví dụ như những hành vi chống đối xã hội và rối loạn nhân cách. Một số người khác có thể cảm thấy sự thiếu hài hòa chỉ trong một số lĩnh vực chuyên biệt nào đó, ví dụ không thể chấp nhận được cản xúc giận dữ chẳng hạn. Gần đây, Speierer (1990) đã cố gắng chuyên biệt hóa các lọai thiếu hài hòa khác nhau trong các lọai rối lọan tâm lý khác nhau. Ông cho rằng các thân chủ bị trầm cảm chủ yếu là do sự chấp giữ những ý niệm về cái ngã quá hoàn hảo, trong khi đó những bệnh nhân hysterie lại chấp giữ cứng nhắc và thái quá những khía cạnh tích cực trong hình ảnh về bản thân khi họ cố gắng xuất hiện trước người khác theo một cách thức nhất định. Tuy nhiên, các nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm tin rằng mỗi cá nhân đều có tính độc đáo và không thể có một quy luật bất biến nào có thể quyết định lọai thiếu hài hòa nào sẽ gây nên lọai rối loạn nào.

·

        

Không thể tồn tại như một một tiến trình

Quan điểm này có thể xem như một sự mở rộng của ý tưởng về sự thiếu hài hòa. Khi tư tưởng của Rogers thay đổi, ông ngày càng tập trung nhiều hơn vào ý tưởng cho rằng sự rối lọan chức năng có liên quan đến mức độ mà con người không tồn tại (không sống) như một tiến trình.

Gendlin cũng cho rằng tâm bệnh bắt nguồn từ việc thất bại của con người không thể sống như một tiến trình. Những người trải qua các vấn đề về tâm lý là những người “thiếu tập trung” (Gendlin, 1969). Đó là vì họ đã không chú tâm vào “dòng chảy” của những trải nghiệm theo một cách thức có thể giải quyết các vấn đề của họ một cách sáng tạo. Thay vì lắng nghe một cách thấu cảm nội tâm của mình, họ lại khắc khe phê phán các cảm xúc và phản ứng của chính họ, bằng cách tự “lên lớp” bản thân, phân tích bản thân hoặc cố gắng tự “thiết kế lại” bản thân (Gendlin, 1964). Trong những trường hợp nghiêm trọng, như tâm thần phân liệt chẳng hạn (Gendlin, 1967), người bệnh có thể cảm thấy đời sống nội tâm của chính mình quá hỗn độn, quá “bệnh”, khiến sau cùng họ cũng quay mặt đi với chính nội tâm của họ và cho rằng chẳng có gì đáng tin ở đó cả!

·

        

Các quan điểm về xử lý thông tin

Vào năm 1974, Wexler và Rice đã xuất bản một quyển sách trình bày về một số quan điểm về vấn đề xử lý thông tin trong liệu pháp thân chủ trọng tâm. Ý tưởng của Rogers và Gendlin đã được viết lại bằng ngôn ngữ của tâm lý học nhận thức. Mỗi cá nhân con người đã phát triển nên những sơ cấu (schemata) trong nhận thức của mình để tổ chức lại các nguồn thông tin từ thế giới bên ngoài. Việc một người có chức năng sống đầy đủ bao gồm khả năng đồng hóa (assimilation) liên tục các thông tin này vào trong các sơ cấu, tạo nên những cấu trúc hiểu biết chuyên biệt hơn, thống hợp hơn. Tâm bệnh được xem là bắt nguồn từ những hệ thống các sơ cấu kém chuyên biệt và có tính cứng nhắc, khiến con người mất khả năng thống nhập các nguồn thông tin mới. Một tiến trình quan trọng trong sự tạo lập các cấu trúc hiểu biết chuyên biệt hơn, thống hợp hơn đó là sự “chú tâm” (attention). Nếu con người thất bại trong việc chú tâm một cách hiệu quả vào các nguồn thông tin mới thì sẽ dẫn đến sự tồn tại một cách kiên định của những cấu trúc hiểu biết cũ (Anderson, 1974). Toukmanian (1990) cũng đã chỉ rõ rằng những người có vấn đề thường thất bại trong việc gỡ bỏ các suy nghĩ có trước của họ, và vì thế không thể chú ý đến các nguồn thông tin mới rất phong phú. Ngoài ra, họ cũng thất bại trong việc xây dựng những giả thuyết để họ có thể chọn lựa.

Greenberg và cs. (1993) đã phát triển một học thuyết tổng hợp về nhận thức liên quan đến chức năng sống của cá nhân con người dựa trên lý thuyết thân chủ trọng tâm. Đối với các tác giả này, trải nghiệm của một con người vào một thời khắc nào đó là sản phẩm tổng hợp phức tạp của các sơ cấu nhận thức, động cơ và các khuynh hướng hành động. Chúng được tổng hợp lại rồi dẫn đến một cảm nhận huyền diệu về bản thân chúng ta trong một tình huống cụ thể, đồng thời cũng tạo nên những phản ứng cảm xúc đặc hiệu mà từ đó con người chúng ta được “tổ chức” lại để có thể thực hiện những hành động. Các vấn đề tâm lý nảy sinh do con người bị mất khả năng trong việc chú tâm đến và biểu trưng hóa những phản ứng nội tâm của chính mình hoặc do bởi những phản ứng của họ biểu hiện dưới dạng những “kiểu thức cảm xúc cứng nhắc” (rigid emotion schemes). Kiểu thức cảm xúc cứng nhắc là các cách thức phản ứng về mặt cảm xúc đã được học tập trước đó nhưng khi biểu hiện thì lại không phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.

Các tác giả này đã đặc biệt nhấn mạnh vào tầm quan trọng của các phản ứng cảm xúc trong chức năng sống của con người. Cảm xúc phản ánh những khuynh hướng hành động; nó thông tin về cách thức mà một người đang trải nghiệm như thế nào vào thời điểm đó. Vì thế, việc mất khả năng nhận biết hoặc tiếp cận với nguồn thông tin về cảm xúc sẽ ảnh hưởng một cách đáng kể lên khả năng thích nghi của một con người. Sự thất bại này sẽ thường xuyên làm nảy sinh những phản ứng rối lọan chức năng và khiến đương sự không thể linh họat chọn lựa các hành vi mới để đáp ứng với những đòi hỏi của hoàn cảnh sống.

Tâm bệnh dưới góc nhìn có tính tương tác

Các vấn đề tâm lý không được xem như những thực thể “bên trong” của con người, mà luôn được xem xét trong mối tương tác giữa con người và hoàn cảnh sống. Bản chất của nó là sự tương giao giữa con người với thế giới bên ngoài. Các vấn đề nảy sinh khi con người phải đương đầu với những hoàn cảnh thách thức khả năng linh hoạt của họ trong việc giải quyết vấn đề. Sự chuẩn bị cho các thách thức trong đời sống cũng khác nhau ở mỗi người. Tuy nhiên, bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có những lúc tạm thời bị rối loạn chức năng nếu chúng ta đang đương đầu với một thách thức vượt quá các nguồn lực ứng phó của bản thân.Tình trạng stress quá mức do hoàn cảnh kinh tế hoặc bệnh tật có thể khiến chúng ta bị mất khả năng liên lạc và tổng hợp những “trải nghiệm có vấn đề” của chúng ta (problematic experience). Nếu một người nào đó đang là thành viên trong một tập thể đang được vận hành sai chức năng (một gia đình hoặc một nhóm làm việc chẳng hạn), thì người ấy cũng có thể bị tổn thương khả năng này.

Rối lọan chức năng trong gia đình và nhóm

Sự rối lọan chức năng trong gia đình và nhóm cũng có cùng những lý do như trường hợp xảy ra ở các cá nhân. Các tổ chức, tập thể, giống như các cá nhân, cũng là những thực thể sống rất năng động; chúng có thể vận hành một cách có lý trí nếu như các tiến trình giao tiếp bên trong chúng diễn ra một cách cởi mở. Hành vi bệnh lý xảy ra khi sự giao tiếp bên trong nhóm bị bế tắc. Công trình nghiên cứu về “tư duy tập thể” (group-think) của Janis (1972) là một ví dụ minh họa tốt về cách thức mà một tập thể đã vận hành sai chức năng nếu như có sự tắc nghẽn các kênh giao tiếp giữa các thành viên bên trong nhóm cũng như giữa nhóm đó với thế giới bên ngoài.

Đánh giá mức độ rối lọan chức năng

Các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm thường không đi tìm những công cụ chẩn đoán hoặc đánh giá theo truyền thống. Những phương thức đánh giá như thế sẽ khuyến khích một cách nhìn “từ bên ngoài” đối với thân chủ, như thể thân chủ đang được đem ra mổ xẻ, phân tích hoặc như thể bị “xem xét dưới kính hiển vi”! Điều này đi ngược lại với lập trường có tính thấu cảm của trường phái thân chủ trọng tâm, trong đó nhà trị liệu cố gắng cảm nhận thân chủ từ bên trong những trải nghiệm độc đáo của người ấy. Việc phân loại con người sẽ khiến cho nhà trị liệu bị lệch sang xu hướng trị liệu cho một cá nhân như là thành phần của một “lọai người” hơn là như một con người có những tính cách riêng biệt. Một nhà trị liệu thân chủ trọng tâm quan tâm nhiều đến việc tìm hiểu và thiết lập quan hệ với thân chủ tên Jack hoặc với thân chủ tên Carolyn, chứ không phải với “Jack-rối lọan ranh giới” hoặc với “Carolyn-ái kỷ”... Tuy nhiên, vì lĩnh vực sức khỏe tâm thần cần dùng đến những tên gọi để chẩn đoán, nên các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm vẫn sử dụng chúng với mục đích thông tin trong giới chuyên môn.

Các nhà trị liệu theo xu hướng “tiến trình-kinh nghiệm” như Greenberg và cs. (1993) thì sử dụng cách thức chẩn đóan theo tiến trình (process diagnosis). Một chẩn đóan theo tiến trình là cách thức đánh giá của một nhà trị liệu dựa trên các kiểu thức cảm xúc sai chức năng (dysfunctional emotion schemes) mà thân chủ cần phải thay đổi và khả năng sẵn sàng của thân chủ trong việc thực hiện sự thay đổi ấy vào một thời điểm nào đó trong tiến trình trị liệu. Điều quan trọng ở đây là nhà trị liệu không đặt nặng vào “nội dung” của cảm xúc được biểu hiện (vì dụ thân chủ óan giận người cha của mình) mà chỉ chú ý đến những bằng chứng cho thấy thân chủ đang trải nghiệm sự bế tắc trong khi đang giải quyết vấn đề cá nhân của mình. Nhà trị liệu theo xu hướng “tiến trình-kinh nghiệm” sẽ tìm kiếm những “chỉ báo”, tức là những dấu hiệu về lời nói, hành vi và cảm xúc cho thấy thân chủ đang đấu tranh với việc xử lý các cảm xúc của họ. Ví dụ, một chỉ báo cho một “phản ứng có vấn đề” có thể là: khi thân chủ mô tả sự bối rối, khó xử của họ khi họ phản ứng với một tình huống hoặc với một người nào đó. Sự bối rối này có thể là cảm giác thấy mình đã có một phản ứng không hợp lý, lệch lạc, thái quá hoặc không như ý muốn. Một chẩn đóan theo tiến trình về loại chỉ báo này sẽ giúp cho nhà trị liệu biết được loại phương pháp này có thể được sử dụng tốt nhất vào lúc ấy để nắm bắt và đi sâu vào sự khám phá của thân chủ.

Thực hành trị liệu

Liệu pháp thân chủ trọng tâm theo truyền thống vào lúc khởi đầu thì có tính chất “không hướng dẫn” (non-directive). Mục đích của nhà trị liệu chủ yếu là người đồng hành cùng với thân chủ trên con đường tự khám phá bản thân. Bằng cách là người đồng hành, nhiệt tình, thấu cảm và chân thành, nhà trị liệu sẽ mang đến một bầu khí có tính thúc đẩy niềm tin của thân chủ vào bản thân để có thể hướng đến sự tăng trưởng.

Tuy nhiên, trong thập niên 1960, một xu hướng mới đã hình thành trong số các nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm. Những tác giả này muốn xem liệu pháp thân chủ trọng tâm như một “triết lý của việc trị liệu” hơn là một “cách thức chuyên biệt để thực hành trị liệu”. Họ cho rằng nếu

nhà trị liệu là một người nhiệt tình, thấu cảm và chân thật, ông ta có thể năng động hơn và thậm chí có thể sử dụng những kỹ thuật từ các loại liệu pháp (Holstock & Rogers, 1983). Đối với nhiều nhà trị liệu, liệu pháp thân chủ trọng tâm đã trở thành “triết lý nhân vị trọng tâm”, và trong bối cảnh ấy nhà trị liệu có thể thực hành trị liệu theo những phương cách có tính chiết trung. Kết quả là, nhiều trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm hiện nay đã phối hợp nhiều kỹ thuật của các liệu pháp khác như các kỹ thuật Gestalt, hành vi, thôi miên và vận dụng các kỹ thuật có tính thách thức (confrontative) vào việc thực hành trị liệu. Natalie Rogers (Toms, 1988) đã phối hợp nghệ thuật và khiêu vũ vào liệu pháp của bà với tên gọi là “liệu pháp diễn xuất thân chủ trọng tâm” (person-centered expressive therapy). Tương tự, “liệu pháp kinh nghiệm” của Gendlin và “liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm” của Greenberg và cs. cũng chủ trương nhà trị liệu có thể thực hiện một cách có hệ thống những cố gắng thúc đẩy tiến trình khám phá để giúp thân chủ tăng trưởng.

Trái lại, các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm theo kiểu cổ điển (Brodley, 1993) lại không đồng tình với sự phát triển liệu pháp theo cách thức trên. Họ tin rằng việc sử dụng một cách có hệ thống bất cứ lọai kỹ thuật trị liệu nào sẽ gây phương hại cho thái độ “không hướng dẫn”, nền tảng của việc để thân chủ tự dẫn dắt và tự tìm lối đi của riêng mình hướng đến sự tăng trưởng.

Triết lý của việc trị liệu

Liệu pháp thân chủ trọng tâm dựa vào niềm tin rằng chính thân chủ sẽ “chữa lành” bản thân họ và tạo nên sự tăng trưởng bản ngã của chính họ. Sự tăng trưởng và bình phục xảy ra từ bên trong con người của thân chủ, mặc dù các tiến trình bên ngòai có thể thúc đẩy hoặc trì hoãn việc tăng trưởng này. Có sự tương đồng giữa cây cỏ và trẻ em trong việc tự mình lớn lên, dù rằng người nông gia hoặc các bậc cha mẹ có thể giúp tạo thuận lợi hoặc làm chậm đi những tiến trình tăng trưởng này.

Liệu pháp thân chủ trọng tâm có tính độc đáo ở chỗ nhấn mạnh vào tiềm năng tự bình phục của mỗi con người. Mặc dù những liệu pháp tâm lý khác cũng đồng ý về con người có những tiềm năng tích cực bên trong, nhưng các nhà trị liệu theo những trường phái khác lại không tin rằng thân chủ có thể tự mình sử dụng tiềm năng này nếu họ không có được sự hướng dẫn của nhà trị liệu. Điều này có thể do thân chủ quá mong muốn né tránh sự đau khổ để có được sự an toàn khiến cho họ cũng né tránh việc đối đầu với các vấn đề và làm cho các tiềm năng ấy bị tắc nghẽn; hoặc cũng có thể do họ bị vướng nắc vào những tư duy sai lầm mà họ chỉ có thể được “giải thoát” bởi nhà trị liệu. Nhà trị liệu trở thành “chuyên gia hướng dẫn” về

vấn đề gì

mà thân chủ cần phải đương đầu để tăng trưởng.

Trái lại, công việc của một nhà trị liệu thân chủ trọng tâm là cung cấp một điều kiện tối ưu để thân chủ có thể vận hành những “khả năng tự tổ chức nội tại” và “khả năng tự vượt qua” (intrinsic self-organizing & self-transcending capacities). Trong điều kiện có tính hỗ trợ, lòng tin hướng đến tăng trưởng của thân chủ sẽ vượt qua khuynh hướng né tránh khổ đau. Con người có khả năng chịu đựng và đối đầu với những nỗi khổ đau lớn lao trong cuộc sống chừng nào mà họ cảm thấy có cơ hội làm chủ được các hoàn cảnh gây ra đau khổ cho họ. Chỉ khi cảm thấy bất lực họ mới tránh né đau khổ và tìm kiếm sự an tòan (Dweck & Leggett, 1988) hoặc khi họ cảm thấy không đủ khả năng đương đầu với đau khổ (Bandura, 1986).

Nhà trị liệu không nhất thiết phải để thân chủ đương đầu với những trải nghiệm đau thương đã từng dồn nén rất sâu trong lòng, ví dụ những trải nghiệm bị xâm hại từ thời thơ ấu. Nếu những điều kiện an toàn mà nhà trị liệu mang lại giúp thân chủ bắt đầu phát triển một cảm nhận về khả năng bình phục và tăng trưởng của mình, họ sẽ dần dần mong muốn đối mặt với những trải ngiệm như thế nếu như họ thấy việc này là cần thiết để giúp họ có thể tiếp tục phát triển. Từ điểm mốc đó trở đi, những trải nghiệm đau thương ấy sẽ dần dần lộ diện như một phần của tiến trình tự bình phục.

Nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm khởi đi từ vị trí của thân chủ vào lúc bắt đầu tiến trình trị liệu. Nếu vấn đề của thân chủ khiến họ cảm thấy nặng lòng triền miên, nhà trị liệu sẽ tập trung làm việc với họ về những gì mà họ đang bận tâm chứ không đánh giá rằng “có những vấn đề sâu xa hơn cần phải đối mặt”. Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tin vào khả năng của thân chủ trong việc tự định hướng và tự điều chỉnh bản thân. Đây là khía cạnh quan trọng nhất của việc trị liệu và thân chủ sẽ tự đi sâu hơn trong việc khám phá bản thân khi họ thấy đó là việc cần thiết.

Cấu trúc cơ bản của liệu pháp thân chủ trọng tâm

Nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm khá linh hoạt trong cách thức cấu trúc mối tương tác trị liệu. Cách thức tiêu biểu nhất của họ là gặp thân chủ trong những buổi trị liệu kéo dài khoảng một giờ, và mỗi tuần một lần. Tuy nhiên, nhà trị liệu vẫn có thể điều chỉnh công thức này tùy từng trường hợp cụ thể. Các cuộc gặp cũng có thể diễn ra tại văn phòng của nhà trị liệu hoặc ở một nơi khác. Gendlin (1967) có thể tiếp xúc với một bệnh nhân trên đường đi từ bệnh phòng đến nhà ăn của bệnh viện; Bohart có thể làm việc với thân chủ ở bãi cỏ trong bệnh viện, vv...

Mặc dù liệu pháp cần được thực hiện qua nhiều buổi trị liệu, nhưng các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm cũng tin rằng có đôi lúc những thay đổi quan trọng có thể xảy ra chỉ qua một buổi trị liệu duy nhất (Rogers & Sandford, 1984). Không có ý nghĩa gì nếu ta đặt ra một khoảng “thời gian trung bình” cho một tiến trình trị liệu. Bohart (1995) đã từng trị liệu cho các thân chủ với thời gian thay đổi từ một buổi duy nhất cho đến những liệu trình kéo dài hàng trăm buổi!

Nhà trị liệu cũng có thể sử dụng tất cả các thể thức trị liệu: cá nhân, nhóm, gia đình hoặc cặp vợ chồng. Sự lựa chọn thể thức trị liệu phải cùng được thực hiện bởi nhà trị liệu và tất cả các thành viên tham gia.

Thiết lập mục đích trị liệu

Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tin rằng chính thân chủ là người biết rõ điều gì đang gây tổn thương cho họ và điều gì mà họ cần phải thay đổi (thông qua sự hiểu biết có tính trực giác). Vì thế nhà trị liệu không phải thiết lập mục đích cho việc trị liệu, vd. “phải thay đổi điều gì, vượt qua điều gì...”; cũng như không cần phải có những lời khuyên như “hãy kiên định hơn”, đừng suy nghĩ vô lý nữa”, hoặc “hãy thoát khỏi mối quan hệ không lành mạnh ấy”... Thay vì thế, mục đích trị liệu là cung cấp những điều kiện trong đó thân chủ có thể phát huy được những tiềm năng của họ trong việc đương đầu với những trải nghiệm có vấn đề, khám phá chúng, rút ra những ý nghĩa mới và quan trọng, và tái tổ chức những trải nghiệm sống của họ một cách sáng tạo theo những cách thức hiệu quả hơn.

Tại sao nhà trị liệu lại không đơn giản cho thân chủ của mình một “câu trả lời”? Như trong phần đầu có nói rằng con người sống trong những thế giới nhận thức khác nhau mà nhà trị liệu có thể chỉ biết một chút ít thôi. Trong một đoạn phim nổi tiếng về buổi làm việc của Carl Rogers với một thân chủ tên Gloria (Shostrom, 1965), vấn đề của Gloria là cô đã nói dối với con gái mình về sự thật là cô đã có quan hệ tình dục khi chưa lập gia đình. Cô muốn Rogers cho biết rằng cô có nên nói với con về sự thật này không. Rogers đã từ chối và rồi ông giúp cho cô đi đến câu trả lời của chính cô. Trong khi xem phim, một số sinh viên của Bohart đã thể hiện sự không hài lòng: “Tại sao Rogers không yêu cầu cô ta phải trung thực?”.

Một lý do để giải thích việc này đó là chỉ có Gloria mới biết được những điều tế nhị và phức tạp thực sự trong cuộc sống của cô cũng như trong mối quan hệ giữa cô và con gái mình. Chính cô mới biết được các mối quan hệ rắc rối đã góp phần làm nên cuộc đời riêng của mình. Những điều là thông minh đối với người ngoài có thể là không đúng với người trong cuộc. Vì thế, cuối cùng thì chỉ có cô mới có thể biết cách làm thế nào để tái tổ chức và tổng hợp lại những yếu tố trong thế giới nhận thức của mình để tìm ra một giải pháp cho cuộc sống của riêng cô. Nếu Rogers cho Gloria một lời khuyên (vd, “Vâng, tốt hơn là nên thành thực”) thì điều ấy có thể có tác dụng. Tuy nhiên, một điều khác cũng có thể xảy ra là Gloria sẽ đơn giản tuân theo lời khuyên ấy mà không vận dụng đến sự thông thái của riêng mình, và sự thông thái ấy hẳn sẽ lụi tàn dần.

Mặc dù tất cả các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm đều đồng ý không thiết lập mục đích trị liệu cho những gì mà thân chủ cần phải thay đổi, nhưng họ vẫn có thể khác nhau trong việc liệu có thiết lập mục đích về “cách thức” làm thế nào để giúp thân chủ một cách tốt nhất trong việc tìm kiếm giải pháp. Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm chính thống thì không thiết lập mục đích gì cho cả thân chủ lẫn cho tiến trình trị liệu. Họ tin rằng các thay đổi nơi thân chủ sẽ xảy ra tốt nhất là khi họ không cố gắng làm cho chúng xảy ra, mà thay vào đó họ sẽ tập trung vào cách thức hiện diện của họ như một nhà trị liệu đối với thân chủ. Thật vậy, mục đích mà nhà trị liệu thiết lập khi ấy là những mục đích mà họ dành cho chính họ: phải thấu cảm, chấp nhận, tôn trọng và hài hòa. Trong tiến trình trị liệu, nhà trị liệu, trong một ý nghĩa nào đó, làm việc trên bản thân mình hơn là làm việc trên thân chủ. Nếu nhà trị liệu cảm thấy rằng mình không hiểu được thân chủ, ông ta sẽ cố phấn đấu để làm được việc đó. Nếu nhà trị liệu cảm thấy mình không được hài hòa, ông ta sẽ phấn đấu để trở nên hài hòa hơn.

Những nhà trị liệu theo kiểu “kinh nghiệm” và “tiến trình-kinh nghiệm” thì không chấp nhận thái độ không hướng dẫn này. Họ cho rằng nhà trị liệu có thể “xử lý” các mục đích và việc hỗ trợ sẽ giúp thúc đẩy một số tiến trình khám phá nơi thân chủ, giúp thân chủ tìm được giải pháp một cách hiệu quả hơn.

Kỹ thuật và chiến lược trị liệu

Liệu pháp thân chủ trọng tâm theo truyền thống

Trong liệu pháp thân chủ trọng tâm, việc thiết lập một mối quan hệ trị liệu tốt tự nó đã là kỹ thuật và chiến lược trị liệu. Quá trình “cùng hiện diện với thân chủ”, trong ý nghĩa là nhà trị liệu chấp nhận thân chủ “như là chính họ”, đi sâu vào thế giới suy tư và cảm xúc của thân chủ và hiện diện như là một người đáng tin cậy đối với thân chủ, những yếu tố ấy đủ để thúc đẩy một tiến trình thay đổi.

Những gì mà nhà trị liệu có thể làm là thể hiện những cố gắng của ông trong việc tìm hiểu những trải nghiệm nơi thân chủ. Điều này sẽ bộc lộ dưới một hình thức thể hiện có tên gọi là “sự phản ảnh” (reflection). Phản ảnh là một cách đáp ứng qua đó nhà trị liệu thể hiện sự cố gắng của mình trong việc hiểu những gì thân chủ đang trải nghiệm và đang cố nói đến. Nhà trị liệu có thể phản ảnh những cảm xúc, những ý nghĩa, những trải nghiệm, những tình cảm hoặc bất kỳ hình thức phối hợp nào của những điều ấy. Nhà trị liệu thường đi sâu hơn những gì được thân chủ công khai nói ra, cố gắng nắm bắt những gì mà thân chủ đang thực sự trải nghiệm nhưng lại chưa được nói đến. Tuy nhiên, nhà trị liệu chỉ cố nắm bắt những trải nghiệm nào vẫn còn trong trạng thái có thể nhận biết được của thân chủ. Nhà trị liệu không cố gắng nắm bắt những khía cạnh của trải nghiệm có thể có trong vô thức của thân chủ. Đây là sự khác biệt chính yếu giữa sự phản ảnh của trường pháo thân chủ trọng tâm và kỹ thuật diễn giải (interpretation) của trường phái tâm động học (phân tâm học).

Ví dụ sau sẽ minh họa thêm cho sự khác biệt giữa hai kỹ thuật này:

Thân chủ

: “Tôi đang cảm thấy mất phương hướng trong nghề nghiệp của mình. Mỗi khi tôi làm được một việc gì đó có tính sáng tạo, có thể giúp tôi thăng tiến, thì dường như tình hình lại rối tung lên. Tôi thấy mình chẳng bao giờ có thể phát huy được khả năng của mình. Có cái gì đó đang gây bế tắc”

Kỹ thuật phản ảnh

: “Thật là hụt hẫng cho bạn khi bạn bị bối rối và bị mất đi những cơ hội của mình; có vẻ như có điều gì đó đang xảy ra nơi bạn khi việc ấy cứ hay lập đi lập lại”

Kỹ thuật diễn giải theo kiểu tâm động học

: “Cứ như thể mỗi khi bạn tiến gần đến thành công thì bạn lại vô tình làm hỏng chính mình. Có thể là sự thành công mang một ý nghĩa nào đó khiến cho bạn bị phiền nhiễu hoặc không cảm thấy thỏai mái chăng, và bạn đã không nhận biết rõ về điều này.

Lưu ý rằng sự diễn giải này thực sự vẫn có thể đúng, nhưng việc diễn giải có thể là cố gắng làm cho thân chủ chú tâm đến một điều gì đó mà hiện tại họ không ý thức được. Đây là sự khác biệt cơ bản giữa kỹ thuật phản ảnh và kỹ thuật diễn giải.

Đối với các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm, điều quan trọng là phải đáp ứng lại một cách tự nhiên và có tính trị liệu về tất cả những gì đang xảy ra giữa nhà trị liệu và thân chủ ngay tại thời khắc ấy. Mặc dù sự phản ảnh là hình thức truyền thống của sự diễn đạt tinh thần thấu cảm của nhà trị liệu, một số biểu hiện tự nhiên của sự thấu cảm có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác (Bozarth, 1984), ví dụ như nhà trị liệu có thể “tự bộc lộ” (self-disclosure) những trải nghiệm riêng của bản thân mình khi có sự “cộng hưởng” với các trải nghiệm nơi thân chủ. Ở một thời điểm nào đó, chính cảm nhận về sự chia sẻ giữa nhà trị liệu và thân chủ cũng có thể dẫn nhà trị liệu đến việc tự nhiên đề xuất ra một kỹ thuật. Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm không bị ngăn cấm trong việc đề xuất ra một kỹ thuật. Chính cái

cách thức

mà họ sử dụng kỹ thuật mới là điều quan trọng. Một kỹ thuật chỉ có thể được đề xuất khi mà việc thực hiện kỹ thuật đó sẽ giúp cho tiến trình làm việc với thân chủ có thể tiếp diễn trong một mối quan hệ thực sự thấu cảm (Bohart & Rosenbaum, 1995). Kỹ thuật không nên là một cố gắng để “làm một cái gì đó cho thân chủ” hoặc “khiến một điều gì đó xảy ra”. Thân chủ luôn luôn tự do có thể từ chối một kỹ thuật. Tuy nhiên, nhà trị liệu thân chủ trọng tâm thường ít khi sử dụng các kỹ thuật.

Liệu pháp kinh nghiệm

Trong lĩnh vực tâm lý trị liệu nói chung, thuật ngữ “liệu pháp kinh nghiệm” được dùng để chỉ một nhóm các phương pháp trị liệu tập trung làm việc trên bình diện các cảm xúc và trải nghiệm của con người. Tuy nhiên, trong địa hạt của liệu pháp thân chủ trọng tâm, tên gọi “liệu pháp kinh nghiệm” chủ yếu dành để chỉ phương pháp trị liệu của tác giả Gendlin (1979). Gendlin, Beebe, Cassens, Klein và Oberlander (1967) đã lý giải về một số phát hiện từ nghiên cứu rằng việc trị liệu chỉ “xảy ra” khi có sự hiện diện của một tiến trình trải nghiệm. Thân chủ sẽ tăng trưởng khi họ chủ động xem xét các trải nghiệm và cảm xúc của họ, rồi sau đó có thể dùng lời nói ra các trải nghiệm ấy. Thân chủ sẽ không tăng trưởng khi họ chỉ nói “nói về” các vấn đề của họ dưới góc nhìn của lý trí hoặc chỉ nói về những tình huống bên ngoài của cuộc sống của họ. Gendlin và các nhà trị liệu theo liệu pháp kinh nghiệm cố gắng thúc đẩy tiến trình trải nghiệm theo ba cách thức cơ bản sau:

Cách thức 1

: Họ sử dụng một kiểu đáp ứng thấu cảm đã được cải biên gọi là “đáp ứng có tính kinh nghiệm” (experiential responding) (Gendlin, 1968). Các đáp ứng này tập trung đặc biệt vào những khía cạnh có thể cảm nhận được trong trải nghiệm hiện tại của thân chủ và thường dựa trên những hình ản ẩn dụ (metaphor). Một đáp ứng kiểu kinh nghiệm đối với thân chủ trong ví dụ nêu trên có thể như sau: “Có vẻ như bạn đang thực sự đối đầu với nó, như thể đang đối đầu với một bức tường lớn và cố xô đổ nó nhưng không biết phải làm thế nào”.

Cách thức 2

: Chia sẻ những trải nghiệm tức thời mà nhà trị liệu có được trong mối quan hệ trị liệu với thân chủ của mình (Gendlin, 1967). Nhà trị liệu tập trung vào trải nghiệm tức thời của chính mình trong tình huống ấy và cố gắng bộc điều đó ra thành lời. Điều này giúp làm sáng tỏ ra bản chất của điều đang diễn tiến giữa nhà trị liệu và thân chủ, đồng thời cung cấp một khuôn mẫu để thân chủ thấy được cách thức làm thế nào để có thể liên hệ với chính những trải nghiệm bên trong nội tâm của họ. Ví dụ, nhà trị liệu có thể nói với một thân chủ đang thinh lặng và buồn bã vì mới vừa có một sự mất mát như sau: “Một phần tôi muốn tiếp xúc với bạn để nói chuyện về sự mất mát của bạn; nhưng một phần tôi lại chỉ muốn ngồi im lặng với bạn để đồng hành với bạn khi bạn đang đau buồn. Tôi không chắc bạn muốn gì, nhưng tôi muốn bạn biết rằng tôi đang ở đây nếu bạn muốn nói và tôi cũng đang ở đây thậm chí chỉ để yên lặng cùng với bạn dù chỉ trong phút chốc thôi”.

Cách thức 3

: Kỹ thuật thứ ba được gọi là “tiêu điểm” (focusing) (Gendlin, 1981). Thân chủ được yêu cầu hãy tập trung tinh thần và “dọn sạch một khỏang trống” bằng cách tưởng tượng rằng họ đã gạt được sang một bên tất cả những vấn đề của họ trong thời khắc ấy. Kế đó, họ sẽ xem xét từng khía cạnh của vấn đề của họ và cố gắng tập trung vào cách thức cảm nhận vấn đề ấy từ bên trong. Trong khi tập trung suy nghĩ như thế, thân chủ sẽ chờ đợi và lắng nghe tất cả những ngôn từ và khái niệm xuất phát từ những cảm nhận của mình; dần dần những cảm nhận về vấn đề sẽ được “tổ chức lại” và thân chủ có thể đạt đến khả năng “xử lý” tốt hơn những điểm then chốt trong vấn đề của họ.

Nhà trị liệu theo trường phái kinh nghiệm có thể sử dụng bất cứ khái niệm hoặc kỹ thuật nào nếu nó giúp cho việc thúc đầy thân chủ hướng đến việc tiếp xúc, khám phá những trải nghiệm bên trong con người họ, và tìm cách nói ra những trải nghiệm ấy thành lời. Nhà trị liệu có thể sử dụng phương pháp sắm vai theo kiểu gestalt, các kỹ thuật tập luyện cơ thể và thư giãn. Họ có thể nói về “quan hệ đối tượng” (object relations) và “những nhận thức sai chức năng” (dysfunctional cognitions) nếu những việc này giúp thân chủ liên hệ trực tiếp đến những trải nghiệm tức thời của họ vào thời điểm đang trị liệu. Vì thế, học thuyết của Gendlin về sự trải nghiệm đã cung cấp một cơ sở lý luận cho việc thực hành trị liệu tâm lý theo định hướng chiết trung (Gendlin, 1979).

Liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm

Liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm là một liệu pháp tổng hợp dựa trên quan điểm nhân vị trọng tâm về bản chất con người, nhưng lại rút ra thêm các ý tưởng từ các lý thuyết về nhận thức và tâm lý trị liệu theo trường phái gestalt.

Nhà trị liệu theo trường phái tiến trình-kinh nghiệm xem các vấn đề của thân chủ như là một sự thất bại trong việc khám phá các nguồn thông tin về nhận thức và cảm xúc. Mục đích trị liệu là nhằm thúc đẩy các kiểu vận hành về nhận thức cũng như cảm xúc ở những thời điểm khác nhau, sao cho thân chủ có thể gia tăng đến mức tốt nhất khả năng tự khám phá sâu xa bản thân họ. Công việc của nhà trị liệu bao gồm:

-         

Chọn lựa cách can thiệp trị liệu tác động tốt nhất trên cảm xúc của thân chủ vào thời điểm đang trị liệu.

-         

Hướng dẫn thân chủ một cách hệ thống thông qua các thao tác trong lọai can thiệp đã được lựa chọn. Các hành vi khác nhau của thân chủ cũng đóng vai trò như những chỉ báo giúp nhà trị liệu chọn lựa biện pháp can thiệp nào để áp dụng.

Greenberg và cs. xác định năm lọai chỉ báo cơ bản, trong đó có ba lọai chỉ báo chính yếu sau:

-         

Điểm phản ứng có vấn đề

(problematic reactionpoint):

Là khái niệm để chỉ thời điểm thân chủ có những phản ứng thái quá, bất ngờ hoặc không phù hợp. Ví dụ: thân chủ có thể nói về một điều gì đó một cách giận dữ mà thân chủ cảm thấy rất xấu hổ. Nhà trị liệu sẽ áp dụng một cách thức gọi là “khơi gợi sự bộc lộ” (evocative unfolding) và giúp thân chủ khám phá cả hai mặt của trải nghiệm có vấn đề ấy: đó là tình huống khiến thân chủ phát sinh phản ứng có vấn đề và trải nghiệm chủ quan của thân chủ vào thời điểm đó. Việc khơi gợi bộc lộ bao gồm những đáp ứng có tính thấu cảm của nhà trị liệu được thiết kế hết sức sống động và có tính gợi mở về mặt cảm xúc. Ví dụ, nhà trị liệu có thể nói một câu phản ảnh như sau: “Vâng, chính gương mặt với cái cười trịch thượng của anh ta đã khiến cho cô giận sôi lên được”. Tiến trình này dẫn thân chủ đi đến khám phá những cách thức làm thế nào mà họ đã đánh giá về tình huống ấy và bằng cách nào mà tình huống đó đã khiến họ có phản ứng như vậy. Thân chủ thường sẽ cảm thấy tốt hơn khi họ nhận ra rằng hành vi của họ, dù có “rối lọan” đến mức nào đi nữa, vẫn có một “ý nghĩa” nào đó ở bên trong, và sự khám phá này sẽ cho phép họ có khả năng phát triển một sự lựa chọn mới cho cách ứng xử của mình. Thân chủ cũng thường tự nhiên nhận ra rằng chính cách thức mà họ đã sử dụng để đánh giá hòan cảnh sống bên ngòai cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát sinh các vấn đề khác trong đời sống của họ.

-         

Trải nghiệm về một sự “chia cắt”

(split):

Lọai chỉ báo thứ hai là một trải nghiệm về sự chia cắt. Thân chủ ở trong trạng thái xung đột về một điều gì đó. Thường thì vấn đề đó được trình bày hai mặt, với một bên có ý gọi là “nên” bảo thân chủ là “hãy làm việc đó”, còn mặt bên kia có ý “muốn” bảo thân chủ rằng “ta không muốn làm việc này”. Khi gặp lọai chỉ báo này, kỹ thuật sắm vai với hai chiếc ghế (two-chair technique) theo kiểu gestalt có thể được áp dụng (Yontef, 1995). Thân chủ sẽ sắm lần lượt qua cả hai vai, ban đầu là ngồi trên chiếc ghế “nên” và sau đó đổi sang ngồi ở chiếc ghế kia để nói chuyện từ góc độ “muốn”. Thân chủ có thể luân phiên đổi ghế cho đến khi đạt được một mức độ thống hợp nhất định. Sự thống hợp xảy ra bởi vì mỗi vai diễn sẽ giúp thân chủ nhìn thấy được một “ý nghĩa” nào đó từ mặt đối lập phía bên kia. Những thay đổi trong khía cạnh “nên” đặc biệt sẽ thúc đẩy tiến đến sự thống hợp, bởi vì khía cạnh “nên” khi ấy sẽ chuyển dần từ cách nói bằng “ngôn ngữ khuyên răn” (“shoudistic” language) sang cách nói bằng diễn tả những niềm hy vọng và những nỗi lo âu. Thay vì nói “bạn nên học tập chăm chỉ”, người ta có thể nói “Tôi e rằng nếu bạn không học chăm chỉ thì bạn sẽ không đạt được mục đích của mình”.

-         

Một “công việc chưa hòan tất”

(unfinished business)

Lọai chỉ báo thứ ba là khi thân chủ có một “công việc chưa hòan tất” đối với một người khác. Để giải quyết vấn đề này, nhà trị liệu có thể sử dụng một hình thức được cải biên từ kỹ thuật hai chiếc ghế theo kiểu gestalt. Thân chủ sẽ sắm vai thực hiện các đoạn đối thoại giữa thân chủ và người có liên quan nêu trên, và thân chủ sẽ lần lượt sắm cả hai vai ấy khi thực hiện kỹ thuật. Việc này giúp thân chủ tìm đến một giải pháp của cá nhân mình cho các vấn đề cảm xúc được tạo nên từ mối quan hệ với người kia. Ví dụ, một người con gái bị lạm dụng tình dục bởi cha mình, khi trị liệu được cho sắm vai làm cuộc đối thoại giữa cô và người cha. Khi ngồi trên ghế sắm vai bản thân, cô đã bộc lộ nỗi giận dữ, tội lỗi và buồn bã về những gì mà người cha đã làm đối với cô. Rồi cô có thể đóng vai cha mình như một người mà sau cùng cô có thể tha thứ hoặc cô cũng có thể diễn tả vai người cha như “một kẻ nhẫn tâm không hề biết ân hận”. Dù trong trường hợp nào, cô gái ấy vẫn trở nên có khả năng rời xa mặc cảm tội lỗi của mình, rồi xa quá khứ và tái lập lại một cảm nhận về các giá trị và tiềm năng của chính bản thân mình.

Phải chăng có một liệu pháp thực sự là “thân chủ trọng tâm”?

Liệu rằng nhà trị liệu có thể vẫn trung thành với triết lý thân chủ trọng tâm hay không khi ông ta cố gắng thúc đẩy một cách có hệ thống việc khám phá các trải nghiệm nơi thân chủ, khai thông những “điểm phản ứng có vấn đề” hoặc giải quyết những công việc chưa hòan tất? Nhiều nhà trị liệu thân chủ trọng tâm theo truyền thống sẽ trả lời là “Không”. Họ tin rằng làm việc theo cách như thế thực sự sẽ không còn tuân thủ nguyên tắc “không hướng dẫn”. Họ cũng cho rằng việc hướng dẫn thân chủ, ngay cả khi nhà trị liệu đề nghị thân chủ tập trung suy nghĩ về một việc gì đó, cũng sẽ làm mất đi một phần sức mạnh của thân chủ trong việc tự định hướng đi cho sự thay đổi của họ. Ngòai ra, khi làm như thế nhà trị liệu chỉ đang liên hệ đến một phần con người của thân chủ chứ không liên hệ với thân chủ như một con người toàn diện.

Trái lại những nhà trị liệu theo kiểu “kinh nghiệm” và “tiến trình-kinh nghiệm” lại cho rằng họ vẫn tôn trọng sâu sắc vào sự “thông thái bên trong” của thân chủ và vẫn vững tin vào khả năng của thân chủ trong việc tìm kiếm những giải pháp khôn ngoan. Họ cũng đánh giá cao việc thiết lập một mối quan hệ nồng ấm, chân thành và có tính thấu cảm. Tuy nhiên, đối với họ, nhà trị liệu là những “chuyên gia về tiến trình” (process expert), là người có thể cấu trúc lại các sự việc sao cho thân chủ có thể trở nên sáng tạo hơn và có thể đi đến cùng trong việc khám phá bản thân.

Bohart (1995) tin rằng học thuyết thân chủ trọng tâm có thể hỗ trợ cho một số phương pháp thực hành trị liệu khác nhau. Theo Brodley (1988), có một tập hợp gồm nhiều lọai liệu pháp thân chủ trọng tâm, trong đó các liệu pháp “kinh nghiệm” và “tiến trình-kinh nghiệm” cũng thuộc về tập hợp ấy. Tuy nhiên, các liệu pháp mới sau này nên được phân biệt với liệu pháp thân chủ trọng tâm theo truyền thống vì chúng có “tính tiến trình” và có tính hướng dẫn nhiều hơn.

Tiến trình trị liệu

Đối với những nhà trị liệu thân chủ trọng tâm, tiến trình trị liệu là một tiến trình đi theo sát “dòng chảy” của những sự kiện xảy ra từng thời khắc này sang thời khắc khác trong buổi trị liệu. Nhà trị liệu tập trung vào những chủ đề mà thân chủ đề cập đến, chứ không hướng cuộc nói chuyện sang các chủ đề mà nhà trị liệu xem là quan trọng. Ví dụ trong cuộc nói chuyện kéo dài khỏang nửa giờ giữa Rogers và thân chủ Gloria, Gloria đã đã nhiều lần chuyển đổi đề tài nhưng Rogers vẫn đi theo sự chuyển đổi đề tài của cô. Và rõ ràng đã có một sự khôn ngoan có tính trực giác trong sự chuyển đổi đề tài này, vì chúng đã dẫn Gloria đi sâu hơn trong việc khám phá vấn đề của cô.

“Điều gì” được nói đến thì gần như không quan trọng bằng cái “tiến trình diễn ra qua từng thời khắc” (moment-by-moment process): Dù thân chủ nói ra điều gì, liệu rằng anh ta có đang liên hệ với bản thân theo một cách thức sáng tạo và tự tiến triển hay không? Tiến trình trị liệu, vì thế, sẽ có một “dòng chảy” được cấu trúc tự thân bên trong nó, và thân chủ sẽ vẫn thường thay đổi chủ đề nhiều lần trước khi các vấn đề của họ được giải quyết.

Từ quan điểm thân chủ trọng tâm, khái niệm “kháng cự” (resistant) là một khái niệm không có lợi ích gì cả. Sự kháng cự là cách gọi của nhà trị liệu thuộc những trường phái khác dùng để định nghĩa những trường hợp khi nhà trị liệu nghĩ rằng lẽ ra thân chủ nên nói về, cảm thấy hoặc làm một việc gì đó khác hơn là những điều đang diễn ra nơi thân chủ. Khi thân chủ “phản kháng” tức là họ đang theo đuổi những gì mà họ cảm thấy sẽ giúp ích cho họ một cách tốt nhất nhằm giúp họ tồn tại và tăng trưởng vào thời điểm đó. Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm vào thời điểm đó sẽ cố gắng thấu cảm với động cơ và lý do của những ứng xử nơi thân chủ. Đây là cách tốt nhất để thúc đẩy tiến trình trị liệu đi tới. Thân chủ sẽ không còn “kháng cự” nếu nhà trị liệu tiếp tục duy trì một sự tiếp xúc có tính chân thành và thấu cảm; nhưng mối quan hệ sẽ mắc mứu vào sự kháng cự thực sự nếu nhà trị liệu ứng xử bằng thái độ “bề trên”, tìm cách hướng dẫn thân chủ và cố “mang sự thật đến cho họ”.

Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm đầu tư rất nhiều cho lòng tin vào khả năng của thân chủ trong việc tự định hướng của họ, do vậy, việc kết thúc trị liệu hiếm khi trở thành vấn đề. Thân chủ thường được động viên hãy rời bỏ sự lệ thuộc vào nhà trị liệu và hãy thử “bay bằng đôi cánh của chính mình” khi họ đã sẵn sàng. Thân chủ không cần phải được “chữa lành hoàn toàn” và tất cả mọi vấn đề phải được giải quyết (ai có thể làm được điều này?) để rồi mới có thể tự sống cuộc đời của mình. Các vấn đề là một phần của cuộc sống. Thân chủ đôi khi rời khỏi trị liệu bởi vì họ nghĩ rằng nay họ đã có thể tự mình giải quyết vấn đề của mình. Đôi khi thân chủ tự cho phép mình tiến đến giai đoạn kết thúc trị liệu bằng cách quyết định sẽ đến nhà trị liệu hai tuần một lần thay vì mỗi tuần một lần trước khi họ quyết định ngưng hẳn trị liệu. Ở một số trường hợp khác, thân chủ có thể quyết định một đơn giản là họ đã sẵn sàng ngưng trị liệu.

Khi một thân chủ quyết định ngưng trị liệu, nhà trị liệu và thân chủ sẽ cùng bàn bạc kỹ về quyết định ấy. Nếu nhà trị liệu có ý kiến dè dặt về sự kết thúc trị liệu của thân chủ, ông ta nên bày tỏ ý kiến của mình khi được thân chủ tham khảo. Trong các mô hình trị liệu trong đó nhà trị liệu được xem như một “chuyên gia”, khi thân chủ bày tỏ ý muốn ngưng trị liệu, thì thân chủ được xem là đang né tránh hoặc “kháng cự” lại việc trị liệu. Ngược lại, một nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm, trong tình huống ấy, sẽ tự giới hạn vai trò của mình lại bằng cách chỉ thực hiện việc tự bộc lộ bản thân mà thôi, chẳng hạn khi ấy ông ta có thể nói: “Tôi tiếc rằng chúng ta đã chẳng thể vượt qua được vấn đề này. Tôi cũng không biết rằng liệu điều đó có còn làm bạn phiền lòng nữa hay không. Nhưng bạn biết đấy, tôi vẫn sẵn sàng ở đây, nếu có lúc nào đó bạn lại cảm thấy cần làm việc với tôi một lần nữa”.

Thực vậy, tất cả những sai lầm mà một nhà trị liệu thân chủ trọng tâm có thể mắc phải đều bắt nguồn từ việc ông ta đã không thể hiện được sự nhiệt tình, thấu cảm và chân thành; hoặc vì ông ta đã cố áp đặt một “chương trình làm việc” lên trên thân chủ. Zimring (1991) cho rằng cái gọi là “những phản ứng chuyển di” (transferential reactions) sẽ xảy ra khi nhà trị liệu không thấu cảm một cách đầy đủ, và điều đó sẽ khiến thân chủ chú tâm đến nhà trị liệu nhiều hơn là chú tâm đến những trải nghiệm của bản thân mình.

Lập trường của nhà trị liệu

Mối quan hệ trị liệu là yếu tố quan trọng độc nhất trong bất kỳ loại phương pháp trị liệu nào dựa trên nền tảng thân chủ trọng tâm. Ba điều kiện cơ bản của một mối quan hệ trị liệu tốt là: sự quan tâm tích cực vô điều kiện, sự thấu cảm và sự trung thực, hài hòa của nhà trị liệu. Carl Rogers (1957) nêu rõ những điều kiện trên là những yếu tố “cần và đủ” để sự tăng trưởng có thể xảy ra, mặc dù Bozarth (1993) cho rằng các điều kiện trên là “đủ” nhưng không nhất thiết lúc nào cũng “cần”, vì ông cho rằng khuynh hướng tự hiện thực hóa đôi khi có thể thúc đẩy sự tăng trưởng ngay cả khi không có mối quan hệ trị liệu.

Ngụ ý của Rogers (1957) có những tính chất rất căn cơ: Bất kỳ nhà trị liệu nào có nhiệt thành, thấu cảm và trung thực đều sẽ là một người “có tính trị liệu” (therapeutic) bất kể ông ta theo quan điểm nào và áp dụng kỹ thuật gì (miễn là chúng không mâu thuẫn với sự nhiệt tình, thấu cảm và trung thực của ông); và bất cứ ai, bất kể đã được huấn luyện chuyên môn như thế nào, cũng đều sẽ làm trị liệu tốt nếu người đó mang đến cho thân chủ một mối quan hệ theo kiểu như vậy.

Sự nhiệt tình hoặc sự quan tâm tích cực vô điều kiện cũng còn được gọi là sự “chấp nhận”, “sự tôn trọng”, “sự yêu quý” hoặc một “tình yêu không chiếm hữu”. Một thái độ như thế sẽ hướng đến thân chủ như một con người toàn vẹn, ngay cả khi hành vi của người ấy bị rối loạn chức năng. Sự tôn trọng vô điều kiện không có nghĩa là nhà trị liệu tán trợ và đồng tình với những hành vi như thế của thân chủ. Nó chỉ nhằm phân biệt rõ giữa thân chủ-như một con người và những hành vi của con người đó (Lietaer, 1984).

Duy trì một thái độ quan tâm tích cực vô điều kiện đối với người khác không có nghĩa là sẽ không nổi giận đối với họ và không thiết lập các giới hạn (dù rằng nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tường không thiết lập các giới hạn). Những bậc cha mẹ tốt vẫn thường thiết lập các giới hạn dù họ vẫn tôn trọng và yêu quý các con. Những mối quan hệ tốt, trong đó các đối tác quý trọng nhau, vẫn có lúc xảy ra tình trạng ghét giận nhau. Những mối quan hệ trị liệu tốt vẫn có những thời điểm mà nhà trị liệu cần phải thiết lập những giới hạn (ví dụ như khi thân chủ đang làm xáo tung văn phòng của nhà trị liệu), hoặc khi nhà trị liệu cảm thấy tức giận hoặc không thích một hành vi nào đó của thân chủ.

Khi cảm thấy mình được quý trọng như một con người, thân chủ bắt đầu cảm thấy an tòan để có thể khám phá những trải nghiệm của bản thân và nhìn vào hành vi của chính mình một cách khách quan hơn. Thân chủ sẽ có thể phân biệt được giữa những giá trị nội tại của họ như một con người và sự rối lọan chức năng trong cách thức trải nghiệm và ứng xử hiện tại.

Sự thấu cảm là khả năng của nhà trị liệu có thể trực giác được bên trong thế giới nhận thức của thân chủ, đến mức độ có thể nhìn thấy và cảm thấy được những gì thân chủ nhìn thấy và cảm thấy. Từ một tầm nhìn “từ bên ngoài”, những hành vi của thân chủ thường có vẻ như phi lý, tự hủy hoại, gian xảo, ái kỷ, cứng nhắc, trẻ con, vị kỷ... Tuy nhiên, theo một góc nhìn “từ bên trong” những hành vi ấy lại thường có những “ý nghĩa” theo cách thức mà thân chủ đang trải nghiệm về thế giới xung quanh. Cách nhìn này không có ý làm giảm nhẹ tính chất rối loạn của những hành vi nơi thân chủ, mà nó nhằm nêu rõ rằng chính từ bên trong con người của thân chủ có một “lòng tin tích cực” đang trú ngụ ở trong ấy (Gendlin, 1967).

Bohart (1995) mô tả trường hợp một thân chủ nam bị bắt vì tội phô bày thân thể trước mặt cô con gái 13 tuổi của người vợ kế. Khi Bohart cố tìm cách hiểu sự việc từ bên trong thế giới nhận thức của thân chủ, ông đã nhận thấy rõ rằng thân chủ của ông đã cảm thấy hoàn toàn bất lực để đối xử với cô gái này, người mà thân chủ cảm thấy đã có thái độ rất lơ là và đối xử thiếu tôn trọng ông. Phô bày thân thể cực độ (dẫu là phản ứng rối loạn chức năng) đối với thái độ thiếu tôn trọng của cô con gái và cũng là cách mà thân chủ bày tỏ sự bất lực và giận dữ của mình.

Sự thấu cảm có một số tác dụng tích cực trong trị liệu. Đầu tiên, các trải nghiệm của thân chủ khi cảm thấy mình được người khác hiểu tự nó đã có tính trị liệu. Thấy người khác hiểu mình cũng giống như thể mình được người khác chú tâm đến vậy. Một thân chủ cảm thấy như thế sẽ có thể sắp xếp lại mọi việc và tự thực hiện các lựa chọn cho chính mình.

Kế đến, việc thân chủ thấy được một ý nghĩa từ trong trải nghiệm của chính mình, ngay cả khi họ có những hành xử sai chức năng, cũng làm cho họ bớt đi những cảm giác khó chịu và cũng bớt rối loạn hơn. Họ sẽ bắt đầu tin tưởng hơn vào các trải nghiệm của mình, cho phép bản thân mình xem xét các sự việc một cách cẩn trọng hơn và có thể tự đối mặt với các trải nghiệm đau thương.

Sau cùng, sự thấu cảm của nhà trị liệu mang lại khuôn mẫu về một cách thức “thân thiện” để thân chủ có thể lắng nghe những trải nghiệm của chính họ, cho phép họ chấp nhận những ý nghĩa mà trước đó họ e sợ, vì chúng dường như “không thiện cảm” đối với bản ngã của họ. Rồi họ sẽ bắt đầu tìm thấy những cách thức có tính xây dựng hơn, ít rối loạn hơn, để đương đầu với những cảm xúc và ý nghĩa ấy. Cũng như trường hợp vị thân chủ của Bohart nêu trên, khi ông bắt đầu lắng nghe những trải nghiệm của chính mình bằng một cách thức “thân thiện hơn”, ông bắt đầu nhận thấy có một “ý nghĩa” trong hành vi xung động phô bày thân thể của mình với đứa con gái của người vợ kế. Ông đi đến quyết định rằng điều mà ông muốn làm sẽ là tìm những cách thức tích cực hơn, ít gây tổn thương hơn để bày tỏ sự giận dữ của mình.

Sự trung thực hoặc sự hài hòa là để chỉ mức độ mà nhà trị liệu “là chính mình” trong khi tiến hành trị liệu. “Là chính mình” không có nghĩa là một người phải thể hiện ra bên ngoài những gì mà anh ta cảm thấy hoặc phải nói ra tất cả những gì có trong đầu. Trung thực hoặc hài hòa là những vấn đề của sự “liên kết nội tâm” (inner connection) (Lietaer, 1991). Chúng phải vận hành ở một mức độ tương ứng với mức độ mà nhà trị liệu đang tiếp cận với “dòng chảy” của các trải nghiệm bên trong nội tâm của mình, và ở mức độ mà các hành vi được thể hiện ra bên ngoài của nhà trị liệu cũng phản ánh đúng thực những gì ông ta cảm thấy về những trải nghiệm bên trong nội tâm. Ví dụ, khi nghe thân chủ mô tả việc ông ta phô bày thân thể trước mặt con gái, Bohart vừa trải nghiệm sự thấu cảm đối với thân chủ, vừa cảm thấy không thích những gì mà người này đã làm. Một lúc nào đó trong buổi trị liệu, nhà trị liệu có thể bày tỏ sự thấu cảm của mình, rồi vào một thời điểm khác ông ta có thể cho thân chủ biết mình không thích kiểu hành vi ấy. Trung thực không có nghĩa là nhà trị liệu phải “ỉm đi” những gì suy nghĩ trong đầu vào một thời điểm nào đó trong buổi trị liệu.

Lietaer (1991) cũng phân biệt giữa sự trung thực và sự “bộc bạch” (transparency). Sự trung thực có khuynh hướng hướng nội, nhìn vào bên trong trải nghiệm của một con người và tìm ra ý nghĩa của nó. Bộc bạch là tự bộc lộ ra những gì bên trong nhà trị liệu. Những nhà trị liệu theo trường phái thân chủ trọng tâm rất đánh giá cao sự tự bộc lộ (self-disclosure) của nhà trị liệu trong khi làm trị liệu, nhưng họ chỉ xem trọng những sự tự bộc lộ nào có tính thích hợp cho việc trị liệu. Rogers cho rằng nhà trị liệu chỉ nên tự bộc lộ những phản ứng của họ trong hai trường hợp sau: (1) khi những phản ứng ấy diễn ra dai dẳng và (2) khi chúng đang trên đường dẫn đến một mối quan hệ trị liệu.

Gendlin (1967) lưu ý nhà trị liệu phải tự bộc lộ một cách hiệu quả và có tính xây dựng hơn những người quen biết bình thường của thân chủ. Nếu nhà trị liệu có một phản ứng đối với thân chủ (ví dụ tức giận chẳng hạn), ông ta phải tự làm việc với bản thân mình về phản ứng đó trước khi chia sẻ nó với thân chủ. Ông ta phải hướng vào nội tâm và cố gắng định ra mức độ nào mà phản ứng đó là “thuộc về mình” và mức độ nào mà phản ứng đó “thuộc về mối quan hệ”. Nếu ông xác định rằng nó “thuộc về mối quan hệ” thì ông ta sẽ chia sẻ phản ứng đó với thân chủ. Tuy nhiên, khi đó nhà trị liệu phải chia sẻ phản ứng đó như là một “phản ứng của nhà trị liệu” chứ không phải như là “một sự thật khách quan”.

Một sự tự bộc lộ như thế sẽ không phải là một sự chỉ trích, mà cũng không phải là một nghệ thuật buộc tội. Thay vào đó, nó như một “lời mời” đối với thân chủ để nhà trị liệu cùng với thân chủ khám phá những hậu quả từ hành động của họ. Trái lại, những người quen biết trong đời sống thân chủ thường chỉ bộc lộ ý kiến của họ theo kiểu đánh đồng thân chủ với vấn đề của anh ta khiến cho thân chủ sẽ trải nghiệm về “bản thân mình như là một vấn đề”.

Sự trung thực là cơ sở cho việc thực hành trị liệu theo hướng chiết trung

Từ năm 1960 trở về sau, ngày càng có thêm nhiều nhà trị liệu nhấn mạnh vào tính trung thực như là một điều kiện trị liệu quan trọng nhất, mặc dù điều này chỉ xảy ra trong bối cảnh nhà trị liệu có sự nhiệt tình, thấu cảm và có niềm tin vào khả năng tự định hướng nội tại của thân chủ. Đối với nhiều nhà trị liệu, việc nhấn mạnh vào tính trung thực có thể cung cấp một cơ sở cho việc thực hành tâm lý trị liệu theo đường hướng chiết trung. Điều trước tiên là nó khuyến khích nhà trị liệu tự tìm kiếm phong cách của riêng mình khi diễn đạt sự thấu cảm, thay vì chỉ diễn đạt chủ yếu bằng hình thức phản ảnh. Đôi khi tại thời điểm trị liệu, sự đáp ứng có tính thấu cảm có thể được thực hiện bằng cách xoay lưng lại, cho phép mình ngồi xa thân chủ ra một chút, giữ yên lặng, đặt một câu hỏi, chia sẻ một ý nghĩ hoặc một cảm xúc, hoặc thậm chí đề nghị thực hiện một kỹ thuật. Sự thấu cảm được bày tỏ một cách trung thực không hẳn là một loại đáp ứng có tính chuyên biệt, mà nó còn tùy thuộc vào khả năng điều chỉnh mức độ và xác định thời lượng của nhà trị liệu.

Điều thứ hai là việc nhấn mạnh vào tính trung thực tạo ra một cơ sở triết lý cho các nhà trị liệu trong việc bộc lộ ra quan điểm của họ, chia sẻ các ý kiến và đề xuất các kỹ thuật. Nếu nhà trị liệu có một ý kiến, một suy nghĩ hoặc một sự hiểu biết về một kỹ thuật mà vẫn cố gắng giữ lại không nói ra để cố đóng vai trò như một nhà trị liệu “không hướng dẫn”, thì khi đó ông ta không còn trung thực nữa. Vấn đề không phải ở chỗ một kỹ thuật có thể được đề xuất hay không mà là ở chỗ nó được đề xuất như thế nào. Liệu một kỹ thuật có được đề xuất như một cố gắng của “chuyên gia” để định khuôn cho thân chủ của mình hay là nhà trị liệu sẽ làm điều đó như một người chia sẻ kinh nghiệm cho một người khác? Ở cách thức thứ hai có một thông điệp được truyền đi: “Có một biện pháp mà theo kinh nghiệm riêng của tôi là rất hữu ích. Tuy nhiên, bạn có thể đánh giá nó có hữu ích cho bạn hay không và bạn có thể áp dụng nếu bạn muốn. Với sự cải biên này, nhiều nhà trị liệu thân chủ trọng tâm đã đưa vào sử dụng các kỹ thuật như thôi miên, phân tích giấc mộng, cùng các kỹ thuật gestalt và hành vi.

Ví dụ, Swilden (1990) cho rằng trong việc trị liệu những bệnh nhân rối loạn giáp ranh (borderline disorder), nhà trị liệu phải sử dụng các chiến lược làm giảm lo âu, thách thức và diễn giải, song hành với tham vấn, hỗ trợ và khuyên bảo. Ông cũng cho rằng trong khi nhà trị liệu vẫn phải thấu cảm thì điều tốt hơn là không nên chỉ áp dụng các kiểu phản ảnh theo truyền thống đối với những bệnh nhân này.

Làm thế nào mà ta có thể áp dụng kỹ thuật thách thức (confrontation) mà vẫn theo xu hướng thân chủ trọng tâm? Nói chung, sự thách thức của một nhà trị liệu thường kéo theo việc tạo cơ hội cho thân chủ thay đổi cách nhìn. Một số nhà trị liệu cho rằng kỹ thuật thách thức đặc biệt quan trọng đối với những bệnh nhân rối lọan nhân cách giáp ranh, vì những bệnh nhân này thường có một “cấu trúc cái tôi chưa trưởng thành”. Nhà trị liệu khi ấy sẽ thách thức thân chủ từ vị thế của một người trội hơn về hiểu biết, vì nhà trị liệu được xem là một người trưởng thành hơn, có cái tôi mạnh mẽ hơn và có khả năng cung cấp cho thân chủ một nhãn quan thực tế hơn.

Các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm thì “thách thức” thân chủ theo một cơ sở triết lý hoàn toàn khác. Khi nhà trị liệu thách thức hành vi của thân chủ và xem đó như một hành vi tự hủy hoại, thì mục đích là để tiếp xúc với họ một cách trung thực. Nhà trị liệu không cố đóng vai trò như một “chuyên gia” đi “sửa sai” những hành vi ấy, mà như một con người muốn chia sẻ những kinh nghiệm và nhãn quan của mình với thân chủ, mời thân chủ suy nghĩ về việc đó và có thể từ chối nếu họ không đồng ý.

Nói chung, việc nhấn mạnh vào tính trung thực cho phép nhiều nhà trị liệu thân chủ trọng tâm thực hành trị liệu theo một cách có tính chiết trung, uyển chuyển hơn và phù hợp hơn với nhân cách riêng của mình. Nó cũng cho phép uyển chuyển hơn khi “nối kết” mối quan hệ để có thể tương thích hơn với những kiểu thân chủ khác nhau.

Chuyển di và chuyển di ngược (Transference & Countertransference)

Nhiều nhà trị liệu thân chủ trọng tâm như Shlien (1983) và Bohart (1995) xem chuyển di và chuyển di ngược là những hiện tượng không có ý nghĩa hoặc không có ích lợi gì trong tâm lý trị liệu. Các thuật ngữ này có nguồn gốc từ học thuyết phân tâm. Chuyển di là hiện tượng chỉ việc thân chủ có khuynh hướng nhận hiểu các hành vi của nhà trị liệu dựa trên những trải nghiệm mà thân chủ có được từ những người có ý nghĩa khác (thường là với cha mẹ của mình) trong quá khứ. Chuyển di ngược chỉ khuynh hướng của nhà trị liệu trong việc nhận hiểu những hành vi của thân chủ dựa trên những trải nghiệm và các vấn đề chưa được giải quyết trong quá khứ của nhà trị liệu.

Trường phái thân chủ trọng tâm xem các khái niệm này không có lợi ích gì bởi vì chúng không phân định được rõ những loại trải nghiệm khác nhau. Chúng ta luôn luôn phải “chuyển di” những trải nghiệm từ quá khứ để có thể hiểu được những gì xảy ra trong hiện tại. Bất cứ khi nào chúng ta sử dụng các trải nghiệm trong quá khứ, chúng ta cũng đều có khả năng sai lầm. Điều quan trọng chủ yếu không phải là ở chỗ chúng ta có sử dụng những trải nghiệm trong quá khứ để hiểu biết hiện tại hay không – Bởi vì chúng ta luôn làm thế. Mà điều quan trọng chính là ở chỗ chúng ta có chú ý đến những khác biệt giữa những điều mới mẻ trong hiện tại với những trải nghiệm trong quá khứ của chúng ta hay không và ở chỗ chúng ta có sử dụng điều này để học hỏi và điều chỉnh nhận thức của chúng ta hay không. Các thân chủ dường như vẫn thường “nhận định sai” về nhà trị liệu, nhưng điều đó không có nghĩa là họ đang “chuyển di”. Thay vào đó, do thân chủ bị thiếu lòng tin vào bản thân nên điều đó cũng có ảnh hưởng lên trên khả năng lắng nghe một cách cởi mở các thông tin mà họ nhận được, kể cả những thông tin từ các trải nghiệm nội tâm lẫn những thông tin đến từ người khác. Khi thân chủ dần dần có được lòng tin vào bản thân và lòng tin vào nhà trị liệu, và khi họ học được cách lắng nghe cảm xúc của họ, thì họ sẽ ngày càng có khả năng nhận hiểu tốt hơn các thông tin từ những tình huống sống xung quanh.

Nhà trị liệu cũng luôn “chuyển di ngược”, ví dụ: họ có thể sử dụng các tiên kiến dựa trên những trải nghiệm trong quá khứ của họ để hiểu một thân chủ trong hiện tại. Các tiên kiến này cũng có thể nảy sinh sâu xa từ trong các vấn đề riêng tư của nhà trị liệu, được định hình từ trong khuôn khổ văn hóa và quá trình đào tạo chuyên môn của nhà trị liệu. Khi nhà trị liệu xem xét thân chủ thông qua góc nhìn của những chẩn đóan tâm bệnh học và thông qua những lý thuyết quen thuộc mà họ đã được đào tạo thì họ cũng đang “chuyển di ngược”. Một nhà trị liệu tâm động học, khi đang xem xét một đáp ứng của thân chủ như một hiện tượng chuyển di, thì người ấy cũng đang “chuyển di ngược”.

[1]

Những đáp ứng của nhà trị liệu sẽ có tính sáng tạo và có tính trị liệu nếu chúng được thể hiện như những cách thức riêng của cá nhân nhà trị liệu chứ không như những sự thực khách quan từ bên ngoài đưa đến thân chủ. Nhà trị liệu cũng cần lắng nghe thân chủ xem những nhận thức và phản ứng của thân chủ có tương xứng với những trải nghiệm của họ hay không.

Điều quan trọng đối với cả thân chủ lẫn nhà trị liệu là họ cần nhận ra tiến trình làm việc giữa họ với nhau trong hiện tại là có tính độc nhất là khác biệt với những gì đã xảy ra trong quá khứ. Câu hỏi được đặt ra là: Liệu mỗi người có đang xem xét những tiên kiến cá nhân của mình để thay đổi chúng theo thời gian hay không và có thực sự biết rằng hiện mình đang gặp một con người cụ thể hoặc đang ở trong một tình huống cụ thể hay không? Quá trình này là rất cần thiết để có được những khả năng ứng phó hiểu quả trong cuộc sống. Đây là quá trình mà một nhà trị liệu cần phải phát triển nên và thực hiện cho chính bản thân mình. Đây cũng chính là quá trình mà nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tạo nên khuôn mẫu cho các thân chủ thông qua việc chấp nhận thân chủ và khuyến khích họ tự khám phá bản thân một cách cởi mở.

Các khái niệm chuyển di và chuyển di ngược được hình thành từ những lọai liệu pháp tâm lý dựa theo quan điểm y khoa truyền thống, trong đó tính “cá nhân” (personal) tách biệt hẳn với tính nghiệp vụ (professional). Tuy nhiên, trong học thuyết thân chủ trọng tâm, tính “cá nhân” lại

tính “chuyên nghiệp” với một ý nghĩa rất quan trọng. Theo Bohart (1995), khi nhà trị liệu có một phản ứng của cá nhân mình đối với thân chủ, vấn đề được đặt ra sẽ không phải là “làm thế nào tôi có thể lọai bỏ phản ứng đó?”, mà nhà trị liệu cần phải suy nghĩ theo một cách khác như sau: “làm thế nào để tôi có thể khiến cho cách phản ứng đó trở nên có tính trị liệu?”. Nếu nhà trị liệu cũng có những vấn đề tương tự như vấn đề mà thân chủ đang gặp phải và nhà trị liệu cũng chưa giải quyết được những vấn đề của riêng mình, thì điều này

chỉ

có thể gây phương hại cho mối quan hệ trị liệu

khi

nhà trị liệu

không thể

thấy được tính độc đáo trong trải nghiệm của thân chủ đối với vấn đề ấy. Ngược lại, chính nhờ việc đã từng đấu tranh với những vấn đề như vậy mà nhà trị liệu có thể thấu cảm với thân chủ hơn. Không nhất thiết phải giải quyết ngay vấn đề chừng nào mà nhà trị liệu vẫn còn đang lắng nghe và kiểm tra những suy nghĩ của mình. Và đôi khi chính những nhà trị liệu mà bản thân đã từng giải quyết được những vấn đề tương tự lại là những người có khả năng nhiều nhất trong việc trình bày cho thân chủ thấy được những giải pháp của họ.

Cơ chế bình phục – Cơ chế thay đổi

Đối với trường phái thân chủ trọng tâm, trị liệu là một tiến trình “tạo lập” chứ không phải là “sửa chữa”. Một số loại liệu pháp tâm lý tập trung vào việc sửa chữa những tổn thương của thời quá khứ. Tuy nhiên, trong liệu pháp thân chủ trọng tâm, việc trị liệu tập trung vào những cách thức mới có tính sáng tạo giúp thân chủ “tổng hợp” lại những trải nghiệm cũ, từ đó đưa họ đi tới, vượt qua những cách thức sống theo kiểu cũ. Như một phần trong tiến trình trị liệu, các trải nghiệm sang chấn trước đó cũng được liên hệ đến theo một cách thức mới, được “khơi thông” (work through) và được thống nhập vào trải nghiệm sống của cá nhân thân chủ. Một phụ nữ từng bị xâm hại từ thuở nhỏ có thể sẽ trở nên trân trọng và thấy quý cái quá trình mà cô đã cố gắng sống và bảo tồn chính bản thân mình. Từ đó, cô có thể cảm nhận được sức mạnh và nghị lực, thay vì chỉ thấy yếu đuối như xưa. Cũng từ những trải nghiệm sống này, cô có thể phát triển nơi con người mình một sự nhạy cảm và khả năng quan tâm chăm sóc người khác. Việc khơi thông các sang chấn trong quá khứ vì thế không thực sự là một sự “sửa chữa” những tổn thương, mà là việc học tập cách thức thống nhập và tổ chức lại những trải nghiệm sang chấn đó để huy động được các tiềm năng nơi thân chủ.

Tiến trình trị liệu là có tính sáng tạo, vì thế nhà trị liệu thường không đưa ra ý kiến gì về những giải pháp. Mahoney (1991) nhắc lại nghiên cứu của Ilya Prigogine về các hiện tượng hóa học và vật lý, cho thấy những hệ thống có tình trạng xáo trộn về tổ chức đôi khi đã tự nhiên chuyển sang một mức độ tổ chức hoàn toàn mới và phức tạp hơn. Các nhà trị liệu thân chủ trọng tâm tin rằng một sự thay đổi như thế cũng vẫn thường xảy ra trong tâm lý trị liệu.

Vì vậy, nhà trị liệu không phải là những chuyên gia đưa ra những lời giải đáp. Thay vì thế, nhà trị liệu phải là một “chuyên gia về tiến trình” (process expert), một người có thể thúc đẩy các tiến trình có tính sáng tạo. Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm cố gắng mang lại một “tiến trình đối thoại” (dialogical process), từ đó nẩy sinh ra những chức năng sống mới, sáng tạo hơn, tinh tế hơn. Hai khối óc thì tốt hơn là chỉ có một, ngay cả khi chẳng có cái đầu nào “biết” được giải pháp nào, con đường nào có thể giúp họ đi tới.

Trong một mối quan hệ trị liệu có sự thấu cảm và sự nâng đỡ về mặt trải nghiệm, nhà trị liệu sẽ tạo nên một “khu vực phi xung đột” (conflict-free zone) mà việc này có thể huy động được “sự thông thái có tính quyết định” của thân chủ, thúc đẩy thân chủ khám phá những trải nghiệm và những tư duy của bản thân họ, thống hợp lại những gì ban đầu có tính không hài hòa bên trong những suy nghĩ, quan điểm và trải nghiệm của họ, đưa thân chủ đạt đến khả năng hợp nhất lại tất cả những trải nghiệm sống của họ. Thân chủ sẽ cảm thấy tự do hơn để thực hiện những hành vi mới, sẵn lòng chấp nhận thất bại, để rồi sau đó điều chỉnh lại và có thể đạt đến hiệu quả thực sự.

Một cảm nhận về tính “hiệu năng” (efficacy) sẽ phát triển. Thân chủ nghĩ rằng “Tôi có thể học hỏi, thay đổi và làm cho cuộc sống của tôi đi tới”. Thân chủ nhận biết được mình có thể đương đầu với vấn đề của mình và có thể điều chỉnh bản thân cho phù hợp, bất kể vấn đề đó tồi tệ như thế nào. Ví dụ, một thân chủ có thể học được cách sống hữu ích ngay cả khi mình bị liệt. Thân chủ cũng nhận ra rằng cuộc sống là một tiến trình đối phó liên tục với các vấn đề, các thách thức và phải đi tới. Mục đích của cuộc sống không nhất thiết phải là làm cho bản thân mình được mãn nguyện hay được hạnh phúc – Điều này trái ngược lại với những gì mà một số liệu pháp thuộc trường phái nhân văn (humanistic therapies) đã chủ trương.

Nhà trị liệu thân chủ trọng tâm không “dạy” cho thân chủ những kỹ năng sống giống như nhà trị liệu theo trường phái hành vi. Tuy nhiên, tiến trình trị liệu theo kiểu thân chủ trọng tâm vẫn cung cấp cho thân chủ những khuôn mẫu về những kỹ năng học tập như khám phá và lắng nghe những trải nghiệm nội tâm, hoặc những kỹ năng giao tiếp như thế nào cho thật hiệu quả. Và thân chủ có thể “học” được những kỹ năng ấy thông qua làm việc với nhà trị liệu (như một khuôn mẫu) hoặc thông qua việc tự mình trải nghiệm. Thân chủ có thể học được những điều có giá trị từ những trải nghiệm của mình. Họ cũng học được rằng lắng nghe người khác tốt hơn là bày tỏ ý muốn của mình hoặc áp đặt các giá trị của mình lên trên người khác. Thảo luận bằng cách thức cởi mở và hợp tác là cách tốt nhất để tìm kiếm giải pháp cho vấn đề và huy động được “sự thông thái của tập thể”. Việc tôn trọng những cách thức khác nhau không chỉ quan trọng trong quan hệ liên cá nhân mà còn phát huy thêm tính sáng tạo do biết cởi mở để đi đến việc tạo nên những khác biệt.

Nội thị (insght)

Khả năng nội thị (còn có cách dịch là “thấu hiểu”) không phải là cơ chế chính tạo nên sự thay đổi trong liệu pháp thân chủ trọng tâm, dù rằng thân chủ thường nhận được khả năng này. Theo Meyer (1981), sự thay đổi vẫn có thể xảy ra mà không cần đến khả năng nội thị. Chính sự trải nghiệm trực tiếp về mối quan hệ trị liệu mới là điều có tác động lớn nhất. Việc một người học được

điều gì

từ bản thân mình không quan trọng bằng

những thay đổi trong cách thức làm thế nào

để người đó liên hệ đến chính mình, đến người người khác và đến với những trải nghiệm có vấn đề. Đây là những thay đổi rất phức tạp, sống động và xảy ra trong toàn bộ cơ thể, theo cách thức mà một người tự trải nghiệm, chứ không phải là được hướng dẫn “từ bên trên” của sự nội thị.

Sự tự khám phá bản thân (self-exploration) là có tầm quan trọng then chốt, vì vậy kỹ thuật diễn giải nói chung không được áp dụng trong liệu pháp thân chủ trọng tâm. Nhà trị liệu không cố gắng mang lại những “điều mới mẻ” cho thân chủ hoặc mang đến cho thân chủ khả năng nội thị.

Vai trò của nhân cách nhà trị liệu

Sự hài hòa của nhà trị liệu cũng như việc ông ta hiện diện như một con người thật sự trong khi trị liệu chính là yếu tố tối hậu giúp cho tiến trình thay đổi nơi thân chủ. Một nhà trị liệu tốt sẽ luôn tìm kiếm phương thức trị liệu của chính mình, miễn là cách thức của ông có thể mang đến cho thân chủ một trường có tính trị liệu.

Các yếu tố hạn chế sự thành công của liệu pháp thân chủ trọng tâm

Trước tiên, hiệu quả trị liệu của liệu pháp thân chủ trọng tâm bị hạn chế ở những trường hợp thân chủ thiếu động cơ cho việc trị liệu. Những thân chủ được đưa đến trị liệu không theo ý muốn của họ, ví dụ những trường hợp do tòa án chuyển đến hoặc những thiếu niên được cha mẹ đưa đến, là những người rất khó để có thể làm việc. Việc thiết lập một mối quan hệ tốt trở thành một việc làm trọng tâm ở những đối tượng này.

Điều kế tiếp, những thân chủ khó có thể thiết lập quan hệ sẽ giới hạn hiệu quả của liệu pháp thân chủ trọng tâm. Ví dụ, những người bị rối loạn nhân cách giáp ranh là những thân chủ rất khó làm việc, không chỉ vì cấu trúc nhân cách của họ có tính cách rất nguyên sơ, mà còn bởi vì nhiều người trong số họ không thể chịu đựng được những hụt hẫng có thể xảy ra trong tiến trình trị liệu. Trị liệu có thể hiệu quả ở những thân chủ này với điều kiện phải thiết lập được một mối quan hệ trị liệu vững chắc (Bohart, 1995).

Liệu pháp thân chủ trọng tâm đôi khi được xem là không mang lại lợi ích ở những thân chủ không sử dụng được lời nói (“nonverbal” clients). Tuy nhiên, có những nhà trị liệu đã thành công trong trị liệu những bệnh nhân tâm thần phân liệt không nói được (Gendlin, 1967). Prouty (1990) cũng đã phát triển những kỹ thuật để làm việc với những bệnh nhân tâm thần phân liệt và người thiểu năng tâm thần mức độ nặng.

Những khía cạnh được chia sẻ với các trường phái trị liệu khác

Sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng của mối quan hệ trị liệu đã được chấp nhận ở hầu hết các trường phái tâm lý trị liệu. Sự thấu cảm cũng được các trường phái khác đề cao, tuy mỗi loại liệu pháp có cách vận dụng khác nhau về khái niệm này (Bohart, 1991). Ý tưởng sử dụng (thay vì loại bỏ) những phản ứng có tính cá nhân của nhà trị liệu cũng được nhấn mạnh trong liệu pháp phân tâm theo trường phái quan hệ đối tượng (object relations), và việc tự bộc lộ bản thân (self-disclosure) nay cũng đã được nhiều nhà trị liệu theo trường phái phân tâm chấp nhận.

TÓM LẠI

Liệu pháp thân chủ trọng tâm ngày nay đã được vận dụng vào việc trị liệu cho rất nhiều loại vấn đề và trên nhiều loại thân chủ khác nhau, bao gồm cả các lọai rối lọan như nghiện rượu, tâm thần phân liệt, rối loạn lo âu, rối loạn nhân cách (Bohart, 1990; Swilden, 1990), những người thiểu năng tâm thần và người già (Lietaer và cs., 1990). Liệu pháp “tiến trình-kinh nghiệm” được áp dụng thành công trong trị liệu chứng trầm cảm (Elliott và cs., 1990). Liệu pháp “kinh nghiệm” được áp dụng cho các trường hợp rối lọan nhân cách giáp ranh và hỗ trợ bệnh nhân ung thư (Greeberg, Elliott và Lietaer, 1994). Một số nhà trị liệu thân chủ trọng tâm cũng đã phát triển những mô hình làm việc với gia đình và các cặp vợ chồng (Levant & Shlien, 1984; Lietaer và cs., 1990). Liệu pháp thân chủ trọng tâm khởi thủy đã được hình thành từ một trung tâm hướng dẫn trẻ em và sau đó đã được vận dụng thành công trong trị liệu ở trẻ em (Virginia Axline, 1947).

Ở trẻ em, một mối quan hệ tốt trong đó đứa trẻ nhận thấy mình có giá trị, được hiểu và được chấp nhận, thông qua sự thấu cảm, hài hòa và chấp nhận của nhà trị liệu, là tác nhân tạo nên sự thay đổi thậm chí còn quan trọng hơn cả ở tâm lý trị liệu ở người lớn. Thể thức trị liệu là chơi và những cảm xúc sẽ được nói ra thành lời trong bối cảnh chơi.

Tương tự, ở trẻ vị thành niên, việc thiết lập một mối quan hệ tốt cũng là một mục đích trị liệu quan trọng. Nhiều trẻ vị thành niên đến trị liệu không phải do ý muốn của mình và thường không tin vào người lớn. Santen (1990) cũng đã sử dụng liệu pháp thân chủ trọng tâm cho những trẻ em và thiếu niên bị sang chấn tâm lý.

Triết lý nhân vị trọng tâm (person-centered) làm cho nó trở nên đặc biệt phù hợp cho việc trị liệu các thân chủ là phụ nữ, người thuộc các nhóm dân tộc thiểu số, những người thuộc các nền văn hóa khác, hoặc những người có thay đổi định hướng giới tính. Đó là vì nhà trị liệu không được xem là những “chuyên gia” đưa ra những điều “đúng đắn” cho thân chủ, mà là những “người khám phá đồng hành” (fellow explorers) – tức là những người cố gắng đi vào thế giới sống của thân chủ theo một cách thức hiếu kỳ, đầy sự lưu tâm, chấp nhận và cởi mở. Nhà trị liệu sẽ cố gắng làm việc trên một khung tham chiếu về những điều mà thân chủ nghĩ là quan trọng. Một cách nghịch lý là điều này có thể khiến cho một nhà trị liệu thân chủ trọng tâm trở nên có vẻ “có hướng dẫn” (directive) với một thân chủ khi người này muốn có được sự hướng dẫn dựa theo những tập quán văn hóa của mình. Tuy nhiên, nhà trị liệu có thể chịu đựng những gánh nặng khi làm việc với những người có đời sống trải nghiệm khác biệt với mình, vì ông ta phải liên tục xem xét lại khả năng nhận thức của mình về các trải nghiệm của thân chủ, để bảo đảm rằng những nhận thức ấy không bị “nhuốm màu” bởi những vốn sống và định kiến của chính mình.

Có một số những chỉ báo có thể giúp nhà trị liệu nhận biết được việc trị liệu của mình có đi đúng hướng hay không. Những chỉ báo ấy có thể gồm: việc thân chủ càng lúc càng trở nên dễ dàng hơn trong việc liên hệ và chấp nhận những cảm xúc và trải nghiệm của bản thân họ, thân chủ cảm thấy chấp nhận và tin tưởng hơn vào bản thân họ, thân chủ bắt đầu có những cố gắng trong việc tự chọn những quyết định, thân chủ bắt đầu quan hệ bình đẳng hơn với nhà trị liệu, thân chủ cảm thấy thỏai mái hơn trong việc tự bộc lộ bản thân, thân chủ dung nạp tốt hơn với những điều ngược với ý muốn, có thể đối mặt với nó và liên tục cố gắng để làm chủ tình huống. Sau cùng, tiêu chí quan trọng nhất cho thấy việc trị liệu có hiệu quả chính là việc thân chủ cảm thấy mình đạt được sự tiến bộ.

Tp.HCM, 23/07/2007

Tham khảo:  Essential Psychotherapies

LIỆU PHÁP PHÂN TÂM CỔ ĐIỂN - CƠ SỞ LÝ LUẬN

BS NGUYỄN MINH TIẾN

Sigmund Freud (1856-1939) là cha đẻ của phân tâm học và đồng thời cũng là một nhà thực hành phân tâm. Theo Freud, hành vi của một con người được xác định bởi cả những yếu tố bên trong nội tâm (intrapsychic) lẫn những yếu tố trong mối quan hệ liên cá nhân (interpersonal). Con người không làm chủ được số phận của mình, vì hành vi được dẫn dắt bởi bản năng và việc thỏa mãn các nhu cầu sinh học cơ bản. Hành vi không có tính ngẫu nhiên mà đã được xác định bởi những trải nghiệm trong quá khứ.

Các mức độ nhận biết của tâm trí

Freud (1935) phân chia hoạt động tâm trí thành ba khu vực với ba mức độ khác nhau về sự nhận biết:

·

        

Ý thức (conscious): tầng mức hoạt động của tâm trí mà con người có thể nhận biết được thông qua tư duy, ý tưởng và cảm xúc.

·

        

Tiền ý thức (preconscious): làm phần ký ức có thể gợi nhớ lại được.

·

        

Vô thức (unconscious): theo Freud, đây là phần quan trọng nhất của bộ máy tâm trí vì đó phần quy định nên những hành vi của con người. Con người không thể nhận biết được những hoạt động đang diễn ra trong phần vô thức.

Theo lý thuyết phân tâm, tầm quan trọng của các cảm xúc bên trong vô thức là ở chỗ chúng thường xuyên cố gắng thoát lộ lên trên phần ý thức và mỗi người đều phải cố gắng đầu tư năng lượng để giữ chúng lại bên trong vô thức. Freud xem con người luôn ở trong trạng thái xung đột nội tâm thường xuyên với những gì mà bản thân không tự nhận biết được.

Cấu trúc của nhân cách

Về sau, trong khi vẫn giữ sự phân chia tâm trí thành ba mức độ nhận biết nêu trên, Freud đưa ra thêm lý thuyết về một cấu trúc nhân cách ba ngôi gồm cái Tôi (ego), cái Siêu Tôi (superego) và cái Ấy (id).

Id tức “cái Ấy” bao gồm những bản năng, với hai loại bản năng quan trọng nhất là dục tính (sex) và hung tính (aggression). Chức năng cơ bản của cái Ấy là duy trì con người ở trong trạng thái thoải mái, không bị những áp lực căng thẳng. Cái Ấy vận hành theo “nguyên lý khoái lạc” (pleasure principle) hướng đến sự thỏa mãn các nhu cầu có tính bản năng. Nói chung, các xung năng từ cái Ấy (id impulses) chỉ đi vào phần ý thức khi cái Tôi ở trong tình trạng yếu kém. Cái Ấy hiện diện ngay từ lúc sinh ra, là thành phần chủ yếu của tâm trí một đứa bé sơ sinh. Cái Ấy chứa đựng những năng lượng của dục tính mà Freud gọi là

libido.

Cái Tôi (ego): Không giống như cái Ấy, cái Tôi không có sẵn vào lúc sinh ra, nhưng nó sẽ dần dần hình thành và phát triển khi đứa trẻ tương tác với mội trường sống. Chức năng của cái Tôi là thực hiện việc kiểm soát bản thân và hiểu biết thế giới bên ngoài. Trong giai đoạn đầu đời, đứa trẻ không thể phân biệt được các sự vật, và đó là lý do chủ yếu khiến đứa bé con đang đói bụng có thể cho vào miệng tất cả những gì mà nó có được trong tay. Đứa trẻ khi đó vẫn không có được những cảm nhận về thế giới thực tại ở bên ngoài, và rồi trẻ sẽ phải học cách phân biệt giữa thực tế khách quan và những hình ảnh bên trong tâm trí của nó. Cũng qua quá trình đó, đứa trẻ sớm nhận ra rằng việc tạo nên những hình ảnh trong tâm trí không hề giúp thỏa mãn được những nhu cầu của nó, và hệ quả là trẻ bắt đầu phân biệt được giữa bản thân nó và thế giới bên ngoài, bắt đầu học cách tìm kiếm những sự vật bên ngoài để phù hợp với những hình ảnh bên trong tâm trí của nó. Quá trình này tạo điều kiện cho cái Tôi tách biệt ra khỏi cái Ấy và được xem là quá trình đồng nhất hóa (identification). Đây là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết phân tâm.

Trong khi cái Ấy có chức năng chủ yếu là nhằm thỏa mãn các nhu cầu của bản thân mà không cần xem xét đến thực tế bên ngoài, thì cái Tôi lại phát triển vượt lên trên cái Ấy bởi vì bản thân con người cũng có nhu cầu phải giải quyết những việc xảy ra trong thực tế. Cái Tôi đảm nhận việc điều hòa giữa cái Ấy và thế giới bên ngoài. Vì thế, cái Tôi vận hành dựa trên “nguyên lý thực tế” (reality principle), nó cố gắng kềm giữ việc tiêu hao năng lượng tâm trí cho đến khi xác định được một đối tượng ở bên ngoài thích hợp để thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân. Ở trẻ em đang lớn lên, sự phát triển dần của cái Tôi sẽ làm thay đổi dần hành vi nơi đứa trẻ. Khi trẻ biết rõ vật gì ở bên ngoài có thể giúp nó thỏa mãn được cơn đói, nó sẽ ngưng dần việc bỏ tất cả mọi thứ vào miệng. Cái Tôi sau đó sẽ trở nên là thành phần chủ đạo trong nhân cách con người.

Cái Siêu Tôi (superego): Tiến trình đồng nhất hóa cũng quan trọng trong sự phát triển của  cái Siêu Tôi. Những đối tượng đầu tiên trong thế giới bên ngoài giúp thỏa mãn các nhu cầu của đứa trẻ chính là cha mẹ của nó. Ngay từ giai đoạn phát triển đầu đời, trẻ cũng nhận ra rằng ngay cả những con người quan trọng đó cũng có lúc không chấp nhận những biểu hiện từ các xung năng của nó. Cha mẹ hành xử như những người gìn giữ kỹ cương, thông qua các quá trình thưởng và phạt với nhiều mức độ khác nhau khiến đứa trẻ dần nhận ra được những hành vi nào của nó là được chấp nhận và những hành vi nào là không chấp nhận được. Khi quá trình này tiếp diễn suốt thời thơ ấu, trẻ không những nhận được các giá trị và tập quán của cha mẹ, mà nó còn thống nhập những giá trị, truyền thống và tập quán mà xã hội chấp nhận.

Cái Siêu Tôi là một dạng thức kiểm soát từ bên trong của mỗi cá nhân. Khi trẻ thực hiện một hành vi phù hợp mà không có ai khác ở tại chỗ để chứng kiến, khi ấy có sự hiện diện của cái Siêu Tôi. Theo quan điểm của Freud, cái Siêu Tôi được tạo nên bởi hai thành phần, đó là lương tâm (conscience) và cái Tôi lý tưởng (ego-ideal). Lương tâm thể hiện những điều mà một con người tin rằng mình không nên làm; còn cái Tôi lý tưởng thì thể hiện những điều mà một con người muốn thực hiện.

Các thành phần của cái Siêu Tôi vẫn thường xảy ra xung đột với các xung năng của cái Ấy. Cái Siêu Tôi là cơ chế kiểm soát được “cài đặt” bên trong để đảm nhận chức năng chính là kiểm soát các xung năng có tính nguyên sơ của cái Ấy, để từ đó con người có thể thực hiện những hành vi được xã hội chấp nhận. Sự kiểm soát này chủ yếu xảy ra trong phần vô thức của tâm trí, cá nhân mỗi người không thể nhận biết được. Cái Siêu Tôi nói chung thể hiện những điều có tính lý tưởng bên trong mỗi cá nhân và nó luôn hướng con người đến sự hoàn hảo.

Theo quan điểm của Freud, động lực của nhân cách (dynamics of personality) có trọng tâm nằm ở mối tương tác giữa ba thành phần cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi. Freud mô tả lý thuyết phân tâm như một “quan niệm động lực học, xem cuộc sống tinh thần như một giao diện giữa các lực vừa thúc đẩy nhau vừa kiểm tra lẫn nhau” (Freud, 1910). Cái Ấy vận hành theo nguyên lý khoái lạc, thường xuyên tìm kiếm việc thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, trong khi đó, năng lượng của cái Tôi và cái Siêu Tôi lại vận hành theo kiểu vừa thỏa mãn nhu cầu cá nhân, vừa duy trì sự kiểm soát các xung năng từ cái Ấy. Cái Tôi không những phải đáp ứng với thế giới bên ngoài, mà nó còn phải làm trung gian điều hòa giữa cái Ấy và cái Siêu Tôi. Một cá nhân có cái Ấy vận hành nổi trội sẽ có khung hướng gia tăng xung động; còn một người có cái Siêu Tôi vận hành nổi trội sẽ trở nên đạo đức thái quá. Chức năng của cái Tôi còn là giữ cho cá nhân được quân bình giữa hai cực đối lập đó.

Các giai đoạn phát triển tâm lý – tính dục (psychosexual development)

Freud khẳng định rằng nhân cách của một con người được hình thành cơ bản từ trong 5 năm đầu đời, khoảng thời gian mà người ấy học được những cách thức để làm giảm những áp lực căng thẳng phát sinh từ sự tăng trưởng sinh học, từ những hụt hẫng, xung đột hoặc từ các mối đe dọa (Hall & Lindzey, 1957). Ba nguồn gốc sau phần lớn cũng là sản phẩm của quá trình tăng trưởng về mặt sinh học.

Theo Freud, sự phát triển nhân cách, bao gồm những cơ chế phòng vệ khác nhau và cách thức mà con người sử dụng chúng, phần lớn phụ thuộc vào quá trình phát triển tâm lý – tính dục của người ấy. Phần lớn quá trình phát triển này xảy ra trong 5 năm đầu đời; tiếp theo sau đó là một khoảng thời gian 6 năm có diễn biến tương đối tĩnh lặng, gọi là thời kỳ tiềm ẩn. Để rồi bước sang tuổi thiếu niên, quá trình này trở nên mạnh mẽ trở lại. Freud còn đưa thêm một giả thuyết quan trọng, đó là ở mỗi giai đoạn của sự phát triển sẽ có một vùng nhất định trên cơ thể con người đóng vai trò nổi trội như một nguồn gây khoái cảm. Trong sự phát triển bình thường, mỗi người sẽ trải qua

một diễn biến có trình tự, hết giai đoạn nổi trội của một khu vực cơ thể này thì sẽ tiếp nối bằng giai đoạn nổi trội của một vùng cơ thể khác, và thứ tự này là giống nhau ở tất cả mọi người. Và một giả thuyết thứ ba của Freud cho rằng: sự thất bại trong việc hoàn tất trình tự phát triển phát triển này sẽ dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng của nhân cách.

Các giai đoạn tiền sinh dục

Giai đoạn miệng (oral stage)

Freud tin rằng khi một đứa trẻ làm động tác bú, nó không phải chỉ để nhận lấy thực phẩm, mà còn là do việc bú có thể tạo nên những cảm giác khoan khoái. Giai đoạn phát triển này kéo dài suốt một năm đầu đời, trong đó mối quan hệ mẹ-con có vai trò cực kỳ quan trọng. Khi đứa bé đồng nhất hóa với người mẹ, nó sẽ chuyển dần từ trạng thái ái kỷ (narcissism) hoặc “tự yêu mình” (self-love) sang trạng thái có thể yêu thương người khác. Freud khẳng định có một mối nguy trong giai đoạn phát triển này: Nếu mối quan hệ giữa trẻ và mẹ quá thuận lợi, trẻ sẽ trở nên lệ thuộc quá đáng với mẹ và sẽ “cắm chốt” (fixed) ở giai đoạn này, dẫn đến việc hình thành một nhân cách lệ thuộc ở tuổi trưởng thành. Ở một cực ngược lại, khi tương tác mẹ-con được trẻ trải nghiệm với nhiều nỗi lo âu, trẻ có thể cảm thấy không an toàn, và trải nghiệm bất an này có thể vẫn tiếp tục cho đến tuổi trưởng thành.

Giai đoạn hậu môn (anal stage)

Trong năm thứ hai của cuộc sống, nguồn gốc phát sinh các khoái cảm được chuyển từ vùng miệng sang khu vực hậu môn. Trong giai đoạn này, cách thức mà người lớn tập cho trẻ đi vệ sinh (tiêu, tiểu) đóng vai trò hết sức quan trọng. Nếu một trẻ ở giai đoạn này được xử lý vấn đề vệ sinh theo một cách thức rất ngiêm khắc, nó sẽ có thể phát triển một loại nhân cách có tính “kềm chế rất cao” (very retentive). Một người lớn có tính cách rất thô lỗ, ngoan cố hoặc keo kiệt, được xem là bị “cắm chốt” ở giai đoạn hậu môn. Trong giai đoạn hậu môn, đứa trẻ sẽ thực hiện những cố gắng đầu tiên trong việc kiểm soát bản thân và kiểm soát người khác.

Giai đoạn cơ quan sinh dục (phallic stage)

Khoảng thời gian từ 3 đến 5 hoặc 6 tuổi là giai đoạn cơ quan sinh dục. Đây là giai đoạn thường hay phát sinh các hành vi kém thích nghi cho các giai đoạn sau của đời sống. Freud tin rằng trong giai đoạn này đứa trẻ nhận được các khoái cảm chủ yếu thông qua việc tự kích thích các cơ quan này. Khi tầm quan trọng của cơ quan sinh dục càng gia tăng, một số quá trình về tâm lý sẽ xảy ra: đó là nỗi lo sợ bị thiến (castration anxiety) ở bé trai, nỗi khao khát muốn có dương vật (penis envy) ở bé gái, và đặc biệt nổi tiếng trong học thuyết của Freud đó là có sự hình thành mặc cảm Oedipe (Oedipus Complex) trong giai đoạn này.

Nổi lo sợ bị thiến nẩy sinh khi đứa bé trai sợ bị mất đi dương vật của mình. Cha mẹ, khi cố gắng ngăn chận việc trẻ hay sờ mó vào dương vật, có thể làm cho trẻ lo sợ rằng mình sẽ bị thiến bỏ vật ấy. Nỗi sợ này đặc biệt càng nhiều thêm khi đứa bé trai có dịp nhìn thấy một bé gái không có dương vật; nó có thể kết luận rằng mình cũng có thể “bị phạt” giống như bé gái kia đã bị. Tương tự, một bé gái giai đoạn này có thể bẩy sinh nỗi khát khao muốn có dương vật khi nó phát hiện ra mình không có vật này. Bé gái có thể nhận thấy “dương vật” của nó đã bị cắt bỏ do nó có thể đã làm điều gì đó sai trái. Freud khẳng định rằng, ở cả hai giới tính nam và nữ, những vấn đề nghiêm trọng trong sự phát triển nhân cách đều có thể qui về giai đoạn phát triển này.

Trong giai đoạn cơ quan sinh dục, có sự hình thành của điều mà Freud gọi tên là mặc cảm Oedipe ở các bé trai và mặc cảm Electra ở các bé gái. Nói tóm gọn thì mặc cảm Oedipe nói đến việc đứa bé trai mong muốn chiếm hữu người mẹ và loại bỏ vai trò của người bố. Mặc cảm Electra là mong muốn của đứa bé gái muốn chiếm hữu bố mình và loại bỏ vai trò của người mẹ. Do những mối quan hệ này khó có thể được hoàn tất theo cách thức như mong muốn, cho nên giải pháp cuối cùng cho các mối xung đột sẽ có ý nghĩa rất quan trọng cho sự phát triển nhân cách về sau của đứa trẻ. Trẻ về sau sẽ phải từ bỏ đối tượng (tức người bố hoặc mẹ khác giới) để đồng nhất hóa với người bố hoặc mẹ cùng giới, để sau này khi lớn lên có thể hướng sự khích lệ giới tính sang những đối tượng khác giới bên ngoài xã hội. Thái độ sau này của một con người đối với những người khác giới và đối với những người có quyền lực trong xã hội được xác định chủ yếu bởi việc người đó có thành công trong việc giải tỏa mặc cảm Oedipe trong giai đoạn này hay không. Việc giải tỏa mặc cảm Oedipe sẽ được thực hiện thông qua việc đứa trẻ đồng nhất hóa bản thân mình với người bố hoặc mẹ cùng giới tính với mình, và sau đó trẻ sẽ tái định hướng cho việc đầu tư năng lượng libido thông qua các quá trình hợp nhất và thăng hoa.

Giai đoạn tiềm ẩn (latency period)

Theo quan điểm của Freud, từ cuối năm thứ 5 hoặc năm thứ 6 trở đi cho đến trước tuổi dậy thì, đứa trẻ sẽ ở trong giai đoạn tiềm ẩn: giai đoạn mà trẻ dành phần lớn thời gian để phát triển các kỹ năng mà không còn mang sắc thái về tính dục nữa.

Giai đoạn sinh dục (genital stage)

Trong giai đoạn cơ quan sinh dục (phallic stage) tình yêu của trẻ mang nét đặc trưng của tính ái kỷ. Sang giai đoạn sinh dục, sự tự yêu mình được chuyển đổi thành yêu người khác. Bắt đầu tuổi dậy thì, trẻ bước vào giai đoạn đạt đến việc hình thành những hành vi tình dục bình thường có tính trưởng thành đối với người khác giới. Cá nhân trẻ sẽ chuyển dần từ một người có tính ái kỷ thành một con người trưởng thành có tính xã hội. Trong giai đoạn này, một cá nhân bình thường sẽ không đi tìm khoái cảm từ những khu vực trên cơ thể mình như miệng, hậu môn hoặc thông qua việc tự kích thích nữa; người đó cũng không còn chịu ảnh hưởng của nỗi lo sợ bị thiến hoặc chưa giải quyết xong mặc cảm Oedipe... Thay vào đó, những niềm vui lớn lao có thể sẽ đến từ trong mối quan hệ với những người trưởng thành khác giới sau này.

Các cơ chế phòng vệ (defense mechanisms)

Mỗi giai đoạn phát triển tâm lý – tính dục đều chứa đầy những tiềm năng phát sinh ra các hụt hẫng, xung đột và đe dọa đối với trẻ. Freud tin rằng con người sẽ giải quyết các áp lực căng thẳng này thông qua các quá trình đồng nhất hóa (identification), chuyển vị (displacement) và các cơ chế phòng vệ.

Một trong những vai trò quan trọng nhất của cái Tôi là giải quyết những sự kiện nào khuấy động sự lo âu bên trong con người. Cái Tôi có thể tiếp cận vấn đề bằng cách giải quyết vấn đề một cách thực tế, hoặc cũng có thể giải quyết vấn đề bằng cách chối bỏ (deny), huyễn tưởng hóa (fantasy) hoặc bằng những cách thức khác nhằm bóp méo thực tại. Nếu cái Tôi tiếp cận vấn đề một cách thực tế, các cấu trúc nhân cách của đương sự sẽ được củng cố mạnh thêm; ngược lại, nếu cái Tôi lựa chọn những giải pháp bóp méo thực tại, thì quá trình phát triển nhân cách sẽ bị ngăn trở. Mặc dù Freud xếp loại các quá trình đồng nhất hóa, chuyển vị và thăng hoa như là các cơ chế phòng vệ, tuy nhiên cả ba quá trình này đều là những phương thức giải quyết vấn đề có tính thực tế và về cơ bản chúng khác xa với các cơ chế phòng vệ khác (chối bỏ, huyễn tưởng hóa hoặc bóp méo thực tại). Phần lớn các cơ chế phòng vệ được vận hành bên trong vô thức. Mặc dù đôi lúc các cơ chế phòng vệ vận hành hiệu quả, giúp làm giảm bớt các nỗi lo âu, nhưng nếu sử dụng chúng càng nhiều thì nhân cách con người càng có khả năng trở nên cứng nhắc chừng ấy.

Trong giai đoạn phát triển đầu đời, những mối nguy hiểm đe dọa bản ngã thường có nguồn gốc đến từ bên ngoài. Ví dụ, đứa trẻ sợ bố mẹ, những người có quyền uy, những người cao lớn... Khi cái Siêu Tôi phát triển, mối đe dọa đối với bản ngã cũng có thể đến từ bên trong: lo âu có thể phát sinh khi một người lo sợ những xung năng từ cái Ấy có thể chiếm quyền kiểm soát bản thân. Các cơ chế phòng vệ được phát triển để giúp cá nhân có thể đương đầu với những mối đe dọa đến từ cả bên trong lẫn bên ngoài, và đa phần chúng xảy ra ở tầng vô thức.

Đồng nhất hóa (identification)

Đồng nhất hóa là một tiến trình xảy ra khi cái Tôi và cái Siêu Tôi phát triển. Tiến trình này còn kéo dài sang các giai đoạn về sau của cuộc sống, thông qua đó một con người khi cố gắng đạt đến một mục đích nào đó sẽ thống nhập các đặc trưng, tính cách của người khác vào trong cấu trúc nhân cách của mình. Hầu hết việc này xảy ra trong tầng vô thức và theo phương thức thử-và-sai. Nếu một hành vi nào đó được một cá nhân thực hiện mà giúp làm giảm bớt áp lực căng thẳng thì người ấy sẽ có khuynh hướng duy trì hành vi đó. Nếu hành vi mới được thực hiện không giúp làm giảm bớt áp lực căng thẳng, cá nhân người ấy sẽ không thực hiện hành vi đó nữa. Mặc dù cha mẹ là những người đầu tiên và quan trọng nhất để mỗi người trong chúng ta thực hiện việc đồng nhất hóa, nhân cách con người vẫn là kết quả của những tiến trình đồng nhất hóa từ vô số người khác được thực hiện trong suốt quá trình phát triển của một con người.

Chuyển vị (displacement)

Một đặc trưng rất độc đáo của loài người là khả năng chuyển đổi sự đầu tư năng lượng tâm trí từ một đối tượng này sang một đối tượng khác

[1]

. Nếu một đối tượng trước đây có tác dụng làm giảm căng thẳng, nhưng nay không còn hoặc đã bị mất đi một phần tác dụng, thì có khả năng xuất hiện một đối tượng khác để thay thế. Sự phát triển của nhân cách tùy thuộc phần lớn vào quá trình chuyển vị năng lượng và thay thế đối tượng: bởi vì đối tượng mới không thể thỏa mãn được hoàn toàn nhu cầu làm giảm áp lực căng thẳng như đối tượng ban đầu, cho nên cá nhân con người luôn tìm kiếm những phương thức mới và tốt hơn để làm gảm căng thẳng. Chuyển vị là lý do của những nỗ lực và cố gắng thường xuyên của con người và tạo khả năng có thể thay đổi những hành vi của chúng ta.

Freud tin rằng hình thức có ý nghĩa nhất của sự chuyển vị trong quá trình phát triển của nền văn minh chính là sựthăng hoa (sublimation). Thăng hoa chính là quá trình trong đó một cá nhân thay đổi cách thể hiện những xung năng có tính nguyên sơ thành ra những hành vi có thể được xã hội chấp nhận. Sự thăng hoa sẽ “tạo kênh dẫn” cho các năng lượng dục tính và hung tính đi theo các mục đích có tính chất thông thái hơn, nhân văn hơn, nghệ thuật hơn và văn hóa hơn. Vì thế, khi một con người trưởng thành, người đó có thể hoặc chuyển vị đến các đối tượng sao cho không chỉ thỏa mãn được các nhu cầu của bản thân mà còn góp phần vào lợi ích chung của xã hội.

Dồn nén (repression)

Một trong những khái niệm mà Freud đã đề xướng sớm nhất đó là sự dồn nén. Dồn nén là những cố gắng của tâm trí dùng áp lực để đưa một xung năng gây lo âu vào tầng vô thức. Cá nhân người ấy cố gắng rời xa xung năng này bằng cách từ chối thừa nhận sự hiện diện của nó. Một người đang trải qua sự dồn nén có thể không nhìn thấy được một sự vật rất dễ được nhận biết, hoặc thậm chí sự dồn nén có thể dẫn đến những tác dụng về mặt thực thể: ví dụ một người đàn ông quá lo sợ các xung năng dục tính đến mức trở nên mất chức năng quan hệ tình dục. Mặc dù sự dồn nén là cần thiết trong sự phát triển nhân cách bình thường và vẫn thường xảy ra với một chừng mực nào đó ở tất cả mọi người, nhưng một số người lại có thể trở nên lệ thuộc vào sự dồn nén vì đã sử dụng quá mức cơ chế phòng vệ này. Những người này có khuynh hướng rút lui khỏi những sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài và nói chung có một nhân cách căng thẳng và cứng nhắc. Ở họ, cái Siêu Tôi được xem là có ưu thế nổi trội hơn cái Tôi, còn cái Tôi đã mất đi một phần sức mạnh của nó đối với cái Siêu Tôi.

Để giải quyết những xung năng bị dồn nén, cá nhân con người phải tìm cách tin rằng xung năng ấy không còn tạo nên mối nguy hiểm nữa. Một người đã từng dồn nén các xung năng dục tính trong tuổi thiếu niên có thể nhận thấy cái Tôi của mình có thể đương đầu được với các xung năng này ở tuổi trưởng thành và sự dồn nén sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bản thân đương sự không hề hay biết rằng một sự dồn nén vào lúc ấy có còn cần thiết nữa hay không.

Phóng chiếu (projection)

Sự lo âu xuất phát từ nguồn gốc bên ngoài thì dễ giải quyết hơn sự lo âu gây nên từ các xung năng của cái Ấy. Vì thế, nếu một con người có thể qui kết được nỗi lo âu của mình là do một đối tượng ở thế giới bên ngoài gây ra thì người ấy có thể sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Cơ chế phòng vệ này được gọi là phóng chiếu. Trước tiên, quá trình phòng chiếu bao gồm việc xác định một tính chất đặc trưng trong con người mình và kế đó, nó qui kết tính chất đặc trưng ấy cho một người khác. Thay vì nói rằng “Tôi ghét chị tôi”, đương sự lại sử dụng cơ chế phóng chiếu để nói “Chị tôi ghét tôi”. Phóng chiếu là dạng phòng vệ rất hay gặp ở những người đang cố gắng gia tăng lòng tự tôn (self-esteem) của họ. Người ấy cố gắng làm cho bản thân mình có vẻ tốt hơn và cùng lúc ấy thì cố gắng hạ thấp người khác.

Tạo phản ứng ngược lại (reaction formation)

Khi một người có một xung năng gây lo âu, cái Tôi có thể sẽ cố gắng giải quyết xung năng ấy bằng cách tập trung vào một chiều hướng ngược lại. Khi một người cảm thấy ganh ghét một ai đó, cái Tôi có thể sẽ tìm cách giải quyết xung năng ganh ghét ấy bằng cách thể hiện ra bên ngoài thật nhiều dấu hiệu của tình yêu thương đối với người đó. Dạng phòng vệ này gọi là “tạo phản ứng ngược lại”. Các hình thức hành vi có tính cực đoan như ám ảnh sợ (phobia) chẳng hạn thường có thể được qui là do sự phòng vệ theo kiểu tạo phản ứng ngược lại.

Cắm chốt (fixation)

Theo Freud, sự phát triển nhân cách bình thường diễn ra thông qua một loạt các giai đoạn được phân chia rõ rệt của sự phát triển tâm lý – tính dục. Việc chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn sau thường bao gồm những trạng thái lo âu và hụt hẫng. Khi nỗi lo xảy ra quá lớn, sự tăng trưởng tâm lý bình thường sẽ bị đình hoãn, ít nhất là trong tạm thời, bởi vì cá nhân ấy lo ngại không dám đi tiếp sang giai đoạn sau. Người ấy khi đó đang trải qua một tình trạng gọi là “cắm chốt”. Trong những trường hợp như thế, đương sự không muốn rời bỏ khuôn mẫu hành vi quen thuộc vốn đã tạo sự thỏa mãn cho bản thân và không muốn chấp nhận những hành vi mới, những hành vi mà theo đương sự là không mang lại sự thỏa mãn cần thiết.

Thoái lùi (regression)

Tương tự như cơ chế cắm chốt, có một cơ chế phòng vệ khác được gọi tên là sự thoái lùi: Một người có thể quay trở về một giai đoạn phát triển đã vượt qua trước đó thay vì đi tiếp sang giai đoạn phát triển sau. Việc này thường xảy ra khi đương sự đang đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng. Một đứa trẻ nhỏ có thể quay trở lại thực hiện những hành vi của tuổi nhũ nhi trong hoàn cảnh nó cảm thấy bị đe dọa sẽ mất đi tình yêu thương mà người khác dành cho nó.

Một người trưởng thành có thể rút lui né tránh những quan hệ tình dục nam nữ, vì người ấy cảm thấy mình không được đầy đủ, và nhờ sự rút lui khỏi những quan hệ này mà người ấy tránh được những tình huống gây ra lo âu. Nói chung, một người thoái lùi sẽ quay trở lại vị trí của một giai đoạn phát triển mà người ấy đã từng có lần cắm chốt tại đó.

Sự xuất hiện của thoái lùi hoặc cắm chốt thì có tính tương đối về mặt mức độ. Sự cắm chốt ở một giai đoạn phát triển nào đó thì hiếm khi xảy ra hoàn toàn; tương tự sự thoái lùi về một giai đoạn trước đó cũng hiếm khi là sự thoái lùi toàn bộ.

Tóm lại, Freud tin rằng nhân cách con người phát triển như là kết quả của hai yếu tố chính: (1) Sự trưởng thành bằng cách đi suốt qua một khuôn mẫu tăng trưởng tự nhiên và (2) Việc học cách khắc phục những lo âu, căng thẳng, xung đột, hụt hẫng và các mối đe dọa bằng cách sử dụng sự đồng nhất hóa, chuyển vị và các cơ chế phòng vệ. Tất cả những quá trình này sẽ “tái tạo các kênh dẫn” cho những xung năng nguyên sơ của cái Ấy hướng đến những nguồn lực và những đối tượng dễ tiếp cận hơn và dễ được chấp nhận hơn. Sự phát triển nhân cách xảy ra theo một thể thức có trình tự, và có liên quan đến những khu vực cơ thể mà từ đó mỗi cá nhân con người cảm nhận được sự khoái lạc. Và sau cùng, mô hình nhân cách của Freud là một mô hình theo kiểu “động lực học” (dynamic), trong đó những mối tương tác thường xuyên giữa cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi sẽ xác định cách thức phát triển của nhân cách. Sức khỏe tâm trí lành mạnh là một sản phẩm của sự cân bằng giữa ba thành phần cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi.

Sự phát triển nhân cách bất thường

Các lý thuyết gia của trường phái phân tâm cổ điển xem các bất thường về nhân cách có những nguyên nhân bắt nguồn từ bên trong cá nhân con người: nghĩa là một rối loạn về hành vi có nguyên nhân từ sự xáo trộn trong trạng thái cân bằng động lực nội tại (internal dynamic equilibrium). Hai nguyên nhân có thể gây nên sự mất thăng bằng này là: (1) Tương quan động lực kém hiệu quả giữa cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi, và (2) Việc học tập diễn ra không đúng trong thời thơ ấu. Trong trường hợp thứ nhất, cái Tôi vì lý do nào đó đã để bị thất bại không đóng vai trò chủ đạo trong con người ấy. Thay vì vận hành với chức năng thống hợp, cái Tôi lại cho phép đương sự sử dụng quá mức các cơ chế phòng vệ. Sự lạm dụng quá mức này, chủ yếu bằng hình thức dồn nén, đã bắt đầu rất sớm trong thuở ấu thời. Đứa trẻ sử dụng cơ chế dồn nén để đương đầu với các xung năng gây lo âu, đẩy chúng xuống tầng vô thức, ở đó các xung năng ấy vẫn tồn tại, chỉ đến các giai đoạn phát triển về sau chúng mới lộ diện ra và gây nên những khó khăn với mức độ tăng cao. Nếu cái Tôi có khả năng giải quyết các xung năng này khi chúng lần đầu tiên xuất hiện, tiềm năng phát triển một nhân cách lành mạnh hẳn sẽ được nâng cao.

Yếu tố thứ hai tham gia vào sự hình thành của các hành vi kém thích nghi đó là khả năng học tập ở giai đoạn đầu đời (early learning). Freud tin rằng những hành vi được trẻ lĩnh hội hoặc nhằm làm giảm năng lượng tâm lý sao cho nó có thể được xã hội chấp nhận, hoặc nhằm kiểm soát được các ham muốn tạo nên khoái cảm nhưng phải đi kèm theo những sự trừng phạt nặng nề. Vì thế, phần lớn những hành vi mà trẻ học được là những sản phẩm của một tình huống “tiếp cận – né tránh”: nghĩa là có một sự thôi thúc từ bên trong hướng đến việc thực hiện hành vi, nhưng lại có những lực từ bên ngoài cấm đoán điều đó. Một trạng thái xung đột như thế có thể gây nên những vấn đề như nhiễu tâm lo âu, hành vi ám ảnh – cưỡng chế, hoặc thậm chí là tâm thần phân liệt.

Theo quan điểm của Freud, bản chất của một tình trạng nhiễu tâm (neurosis) phần lớn được xác định bởi những trải nghiệm học tập đầu đời., bởi những cơ chế phòng vệ mà đương sự sử dụng để chống lại những căng thẳng, và bởi những giai đoạn phát triển tâm lý – tính dục mà tại đó đương sự đã cắm chốt lại hoặc đã thoái lùi về. Sau khi cố gắng đối đầu với tình thế và bị thất bại, đương sự mới phải sử dụng đến phương thức thoái lùi để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Sự thoái lùi này sẽ dẫn đến những nỗi lo âu và căng thẳng đầu đời mà sau đó những trạng thái này sẽ bị dồn nén lại. Hành vi nhiễu tâm sẽ xuất hiện trong cố gắng giải quyết áp lực căng thẳng này. Hành vi ấy sẽ cần đền nhiều năng lượng tâm trí để giải quyết lo âu; vì thế đương sự sẽ ngày càng bị giảm dần năng lượng để có thể đương đầu với cuộc sống thực tế. Và như vậy, đã có sự hình thành một vòng lẩn quẩn.

Mục đích của việc trị liệu

Mục đích chính của phương pháp phân tâm là đưa những xung năng gây lo âu đang bị dồn nén từ vô thức ra tầng ý thức. Đây là những xung năng của cái Ấy mà cái Tôi đã giải quyết không thành công. Trong trị liệu, thân chủ sẽ có cơ hội đối mặt với những tình huống mà họ đã không thể giải quyết nổi. Nhà trị liệu sẽ thiết lập nên một bối cảnh an toàn, không có tính đe dọa, qua đó thân chủ có thể học cách giải bày những suy nghĩ và cảm xúc của mình mà không sợ bị người khác lên án. Với sự tự do ấy, thân chủ được phép khám phá các mặt thích đáng và không thích đáng của hành vi hiện tại và từ đó có thể xem xét việc thực hiện những hành vi mới.

Các kỹ thuật trong trị liệu

Các kỹ thuật được áp dụng trong trị liệu là liên tưởng tự do (free association), chuyển di (transference) và diễn giải (interpretation). Bài này chủ yếu trình bày cơ sở lý luận của học thuyết, nên chỉ đưa ra những tóm lược về kỹ thuật trị liệu.

Liên tưởng tự do đơn giản là việc yêu cầu thân chủ nói ra thành lời tất cả những gì hiện diện trong tâm trí họ. Mặc dù nghe có vẻ đơn giản, thực sự điều khó nhất chính là làm sao để thân chủ có thể tham gia vào làm việc này. Nói chung, việc cố gắng nói ra tất cả những gì xảy ra trong đầu là một hành vi không được xã hội khuyến khích.

Hiện tượng chuyển di thì rất phức tạp. Nó bao gồm việc thân chủ hướng các phản ứng cảm xúc của họ vào nhà trị liệu

như thể

nhà trị liệu là “đối tượng gốc” (original object) gây nên những cảm xúc ấy. Tiến trình này cho phép thân chủ “khơi thông” (work through) mối xung đột gốc ban đầu.

Nhà trị liệu sử dụng kỹ thuật diễn giải để giúp cho tư duy của thân chủ trở nên có lý trí hơn, và thay thế dần những chức năng của cái Siêu Tôi bằng những chức năng của cái Tôi. Vì thế, diễn giải là một kỹ thuật được thiết kế để từng bước, từng bước đưa thân chủ trở về với cuộc sống thực tế. Kỹ thuật này được áp dụng dựa trên những tư liệu được thân chủ trình bày thông qua liên tưởng tự do, phân tích giấc mơ hoặc thông qua phân tích hiện tượng chuyển di.

TÓM LẠI

Mặc dù có ảnh hưởng to lớn đối với chuyên khoa tâm thần học và chuyên ngành tham vấn, tuy nhiên, học thuyết phân tâm cổ điển vẫn cần có những phương thức diễn đạt cụ thể hơn về việc bằng cách nào mà hành vi có thể được con người lĩnh hội và bằng cách nào mà hành vi có thể được thay đổi. Học thuyết phân tâm cổ điển sẽ có tầm quan trọng lớn lao hơn trong việc ngiên cứu và thay đổi hành vi của con người nếu tất cả các quan niệm và giả thuyết của nó có thể được hợp nhất vào trong một lý thuyết khái quát chung về hành vi của con người (Ford & Urban, 1964).

Các khái niệm cơ bản của trường phái phân tâm cổ điển về phát triển nhân cách đã có ảnh hưởng lên nhiều phương pháp trị liệu khác, đặc biệt là trường phái “phân tích cái Tôi” (ego-analysis). Tuy nhiên, người học cần tham khảo thêm chi tiết ở các tài liệu chuyên khảo khác về phân tâm học, nhất là các tác phẩm của chính Sigmund Freud, cha đẻ của học thuyết này.

LIỆU PHÁP GESTALT

BS. NGUYỄN MINH TIẾN

Khi Đảng Quốc xã lên cầm quyền ở Đức vào năm 1933, một cặp vợ chồng người Đức (cả hai đều là những nhà phân tâm) đã rời quê nhà sang Hà Lan, rồi sau đó đi cư sang Nam Phi để thành lập ở đó một Viện nghiên cứu về Phân tâm học. Và đến năm 1942, họ cho xuất bản một quyển sách mà sau đó được biết với tên gọi là

Liệu pháp Gestalt.

Frederick Saloman (Fritz) Perls xuất thân là một nhà phân tâm, và đã chịu ảnh hưởng của nhiều nhà phân tâm danh tiếng cùng thời, trong đó có Theodore Ferenczi, Karen Horney, Otto Rank, Wilheim Reich và Harry Stack Sullivan. Trong buổi đầu hành nghề tại Đức, Perls đã rất say mê với những tư tưởng tiến bộ như trào lưu Bauhaus trong nghệ thuật và kiến trúc, triết lý hiện sinh, sân khấu và vũ thuật. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Tâm lý học Gestalt – một trường phái tâm lý học tại Đức vào khoảng đầu thế kỷ 20, do May Wertheimer, Wolfgang Kohler và Kurt Koffka sáng lập. Những tác giả này chủ trương đi ngược lại vói xu hướng chung của tâm lý học vào thời đó là tìm hiểu các trải nghiệm của con người bằng cách chia cắt chúng thành ra những thành phần riêng lẻ. Tâm lý học Gestalt chủ trương rằng những thành phần cấu thành các trải nghiệm của con người không thể được khảo sát một cách riêng lẻ, mà phải được xem xét đưới dạng những “tổng thể”. Họ sử dụng chữ

gestalt, một từ trong tiếng Đức, với ý nghĩa là “một tổng thể hợp nhất với các tính chất không đơn thuần được tạo nên bởi tổng số các thành phần và các tương tác giữa các thành phần ấy”. Perls cũng chịu ảnh hưởng bởi Học thuyết về Sinh thể

(organismic theory)

của Kurt Golstein và lý thuyết về Trường

 

(field theory)

của Kurt Levin.

Mặc dù Fritz Perls được xem như người sáng lập trường phái trị liệu Gestalt, nhưng vợ ông, Laura Perls, cũng là người đồng sáng lập và cùng ông viết tác phẩm

Ego, Hunger and Aggression

(Cái Tôi, Sự Khao khát và Hung tính). Lý thuyết Trường-Tiến trình

(field-process)

của Tâm lý học Gestalt và Chủ nghĩa nhân văn – hiện sinh của Buber và Tillich là trọng tâm trong lý thuyết của trường phái trị liệu Gestalt và điều này là do công đóng góp và ảnh hưởng của Laura Perls.

Khi nhận thấy Nam Phi bắt đầu chuyển sang chế độ độc tài và phân biệt chủng tộc, hai vợ chồng rời nước này sang Hoa Kỳ vào năm 1946, thành lập tại New York một nhóm nghiên cứu về tâm lý trị liệu dựa trên những nền tảng học thuyết mới của Perls và chịu ảnh hưởng bởi các phương pháp phân tích của Wilheim Reich, Harry Stack Sullivan và Karen Horney.

Những nhà sáng lập trường phái trị liệu Gestalt cùng với các đồ đệ của Sullivan, Horney và Reich đã chống lại khuynh hướng phân tâm học cổ điển của Freud. Vào thời đó, những nhà phân tâm được xem như những “tấm bình phong trống trơn”

(blank screen); họ không thể hiện bất cứ điều gì mang tính cá nhân của mình để cho những bệnh nhân có thể thực hiện việc phóng chiếu

(projection)

và tạo lập tình trạng “nhiễu tâm chuyển di”

(transference neurosis). Cách làm này rất khác xa với những nhà phân tâm theo các xu hướng mới tiến bộ hơn ngày nay như xu hướng “quan hệ đối tượng” hoặc “tâm lý học bản ngã”

(self psychology).

Những nhà trị liệu Gestalt xem những nhà trị liệu phân tâm chiếm giữ quá nhiều quyền lực so với bệnh nhân và đã không dành sự lưu tâm đầy đủ đến những gì thực sự đang diễn ra trong mối quan hệ giữa nhà trị liệu và thân chủ. Họ tin rằng trị liệu phân tâm không đủ hiệu quả trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng nơi thân chủ. Họ chủ trương thiết lập một hệ thống trị liệu hướng đến phát huy sự tăng trưởng thay vì chỉ chú ý đến việc làm giảm thiểu trạng thái tâm bệnh, họ dựa vào những trải nghiệm thật sự nhiều hơn là chỉ dựa vào sự diễn giải những thực tại không thể trải nghiệm được; và họ dựa trên những mối quan hệ tiếp xúc chắc chắn chứ không phải chỉ tái diễn lại những trải nghiệm thông qua tình trạng “nhiễu tâm chuyển di”. Phương pháp được áp dụng ở đây gọi là “nhận biết (ngộ) thông qua tiếp xúc đối thoại”

(awareness through dialogic contact).

Lý thuyết của Liệu pháp Gestalt, giống như trong Lý thuyết về Trường, chủ trương xem xét Trường

(field)

trong một tổng thể và nhấn mạnh đến “tiến trình” (tức là quá trình phát triển hoặc các hành động diễn tiến theo thời gian) hơn là chỉ quan tâm đến những trạng thái tĩnh tại.

Giống như một liệu pháp có khuynh hướng “hiện sinh”

(experiential), liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến sự hiện hữu đúng như những gì con người có thể trải nghiệm được và không đặt nặng vào những cách thức lý giải trừu tượng. Nhà trị liệu Gestalt tin vào khả năng của con người trong việc tăng trưởng, tự điều chỉnh và tự bình phục thông qua việc tiếp xúc giữa người với người và khả năng nội thị

(insight). Mặc dù có những giới hạn về mặt sinh học - di truyền, bản ngã của con người vẫn được xem như một tiến trình có thể phát triển thông qua các tương tác xã hội chứ không phải do sự xung đột giữa những tác động dồn nén về mặt xã hội và những bản năng sinh học. Mối quan hệ trị liệu trong liệu pháp Gestalt là một sự tiếp xúc hay gắn kết rất chủ động và thực thụ giữa con người của nhà trị liệu và con người của thân chủ dựa trên khuôn mẫu đối thoại có tính hiện sinh, chứ không nhằm giữ một khoảng cách xa “trung tính” để thúc đẩy sự hình thành một nhiễu tâm chuyển di như trong liệu pháp phân tâm.

Và giống như một liệu pháp dựa trên cơ sở hiện tượng học

(phenomenological therapy), liệu pháp Gestalt thay thế phương pháp liên tưởng tự do trong phân tâm học bằng phương pháp luận về một sự “tỉnh ngộ có trọng điểm”

(focused awareness). Cách tiếp cận trên cơ sở hiện tượng học xem tất cả những gì có được từ sự trải nghiệm tức thời là những dữ liệu có tính chắc chắn, chứ không phải những dữ liệu rút ra từ quá khứ hoặc suy diễn theo lý thuyết. Phương pháp hiện tượng học cố gắng “làm sạch” sự nhận biết của cả nhà trị liệu lẫn thân chủ, theo cách thức giống như lau sạch bụi mờ trên một tấm gương. Việc hướng dẫn con người sử dụng các cảm nhận của chính mình để đạt đến khả năng nội thị khiến cho quan điểm hiện sinh về tiềm năng và trách nhiệm cá nhân trở thành hiện thực.

Vói cách thức đó, con người có thể có được những công cụ để hiểu biết về chính họ cũng như về người khác. Họ học được cách nhận diện và chấp nhận những nhu cầu, sở thích, ham muốn, động cơ và các giá trị của chính mình. Ngoài ra, bằng cách học được cách nhận biết các tiến trình nhận biết của chính mình, các thân chủ cũng sẽ học được cách điều hòa chính bản thân mình theo cách thức ít bóp méo ý thức của họ hơn.

Liệu pháp Gestalt là một phương pháp dựa trên hiện tượng học thực nghiệm. Thân chủ được hướng dẫn và khuyến khích thực hiện những hành vi mới với mục đích đạt đến sự hiểu biết bản thân tốt hơn. Bằng cách đề xuất những hành vi mới như những thực nghiệm hiện tượng học, nhà trị liệu có thể hướng dẫn thân chủ thay đổi hành vi thông qua sự nhận biết bản thân một cách tự nhiên chứ không thông qua những chương trình chỉnh sửa hành vi như trong liệu pháp hành vi.

LÝ THUYẾT VỀ NHÂN CÁCH

Trường Sinh thể - Môi trường

(organism-environment field)

Trường phái Gestalt xem xét con người và môi trường sống trong một tổng thể không tách biệt, dựa trên sự tương tác giữa con người và môi trường sống

(organism-environment field). Một con người không thể được xem xét tách rời khỏiTrường

mà người này sinh sống, đặc biệt là không thể xem xét người ấy tách rời khỏi các tương tác giữa người với người trong Trưòng ấy; và ngược lại cũng không thể xem xét môi trường sống mà không thông qua nhãn quan của một con người. Thậm chí nhu cầu cần được cô độc của một con người cũng có thể được định nghĩa trong mối quan hệ với những người khác.

Trường được giới hạn bởi những đường biên giới. Đường biên giới tiếp xúc

(contact boundary)

có một chức năng kép: vừa giúp một con người có thể kết nối được với người khác, vừa giữ được sự tách biệt, độc lập của người ấy. Sự tách biệt tạo nên và bảo tồn tính độc lập của một con người, đồng thời bảo vệ người ấy tránh xa các tác nhân gây hại. Nhưng chỉ khi đường biên giới ấy cho phép sự trao đổi tích cực xảy ra bên trong Trường thì mới có thể làm nên đời sống và sự tăng trưởng. Con người tăng trưởng khi họ tiếp xúc với những gì ban đầu là xa lạ, đặc biệt khi họ tiếp xúc và nhận biết về những người khác xung quanh. Các nhu cầu được giải quyết thông qua sự tiếp xúc.

Con người hình thành nên sự cảm nhận về cái “Tôi” của mình bằng những quá trình tiếp xúc theo kiểu “tôi-với-anh”

(I-though)

hoặc “tôi-và-nó”

(I-it), chứ một người không thể nhận biết cái “Tôi” của mình bằng cách xem xét một cái “Tôi” biệt lập. Bằng cách phân biệt giữa “ngã”

(self)

và “phi ngã”

(not-self), thông qua sự vận hành các tiến trình “làm cho giống”(identification)

và “làm cho khác”

(alienation), con người luôn luôn định hướng cho khoảng không gian sống của mình và kiến tạo nên “một cảm nhận về con-người-mà-mình-đang-là” (a sense of who they are).

“Tất cả những sự tiếp xúc đều là sự điều chỉnh đầy tính sáng tạo của sinh thể và môi trường sống” (F. Perls, 1952)

(All contact is creative adjustment of the organism and environment). Tất cả các sinh thể đều sống trong môi trường của mình và đều phải điều chỉnh tùy theo hoàn cảnh của Trường. Nhưng chỉ điều chỉnh thôi thì chưa đủ. Con người cũng cần phải “định dạng” lại môi trường sao cho nó có thể đáp ứng được các nhu cầu và giá trị của mình. Đây chính là khía cạnh “sáng tạo” đã được nêu ở trên.

Sự tiếp xúc có thể xảy ra mà con người có thể nhận biết được với nhiều mức độ khác nhau. Hầu hết các tương giao đều được thực hiện ở một mức độ rất quen thuộc khiến con người rất ít khi nhận biết được rằng tương giao ấy đang xảy ra. Chỉ khi tình huống sống có tính phức tạp, mới mẻ, khi có xung đột, hoặc khi các mô hình vận hành theo thói quen không có tác dụng thì mới cần đến việc người ấy phải nhận biết được hoạt động tiếp xúc của mình. Trong trường hợp người lành mạnh, khả năng nhận biết này có thể phát triển theo yêu cầu của tình huống sống.

“Sự tiếp xúc

(contact)

chỉ có thể xảy ra khi ít nhiều có được sự hỗ trợ

(support)

cho nó xảy ra... Sự

hỗ trợ

là bất cứ điều gì có tác dụng thúc đẩy sự đồng hóa

(assimilation)

và thống hợp

(integration)

các trải nghiệm trong một con người, trong một mối quan hệ hoặc trong một xã hội...” (Perls, 1992). Sự hỗ trợ có thể có được từ thể chất của chúng ta, từ ngôn ngữ, tập tục, khả năng học hỏi, trí tuệ, cũng như từ lòng trắc ẩn của chúng ta. Sự đồng nhất hóa của một con người với những trải nghiệm của chính mình có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của khả năng “tự hỗ trợ”

(self-support)

và là khía cạnh trung tâm trong học thuyết về sự thay đổi của liệu pháp Gestalt.

Một sự hỗ trợ đầy đủ là chức năng của toàn bộ Trường

(field)

và chức năng đó đòi hỏi phải có cả sự tự hỗ trợ của bản thân đương sự lẫn sự hỗ trợ từ môi trường. Khi một người cần có một môi trường an toàn để có thể nói ra được những cảm xúc đau khổ, người ấy ắt phải nhận ra được nhu cầu của mình, rồi sẽ tìm kiếm một hoàn cảnh có tính an toàn để nhu cầu ấy có thể được giải bày với người khác và cho phép những sự tương tác trở nên có hiệu quả.

Một sự tiếp xúc tốt phải là sự lưu tâm đến những hoàn cảnh thực tại đang xảy ra. Sự định hướng cũng như hành động xảy ra ngay trong những tình huống thực tế ở hiện tại và chỉ có thể có được sự hỗ trợ ở “tại đây và ngay lúc này”

(here and now). Khi một người nói về một chuyện xảy ra trong quá khứ thì sự nhớ lại và những cảm xúc có được về chuyện ấy vẫn là những điều xảy ra trong hiện tại. Tương tự, khi nói về tương lai, những cảm xúc và dự đoán của chúng ta cũng diễn ra ngay trong hiện tại (Perls, 1992).

Khi một người liên hệ đến quá khứ (những niềm tin đã được nhập tâm từ xa xưa hoặc các sự việc chưa được hoàn tất) hoặc liên hệ đến tương lai (bi thảm hóa) mà không nhận ra mình đang như thế, khả năng nhận biết và chức năng sống của người ấy có thể bị phương hại. Ví dụ, khả năng tiếp xúc của một con người có thể bị phương hại khi anh ta nhầm lẫn một người nào đó trong hiện tại với hình ảnh của một người khác mà anh ta biết trong quá khứ. Một khả năng tự hỗ trợ đã từng thành công trong việc hỗ trợ cho sự tăng trưởng trước đây thì nay có thể trở nên có tác dụng hỗ trợ về mặt cấu trúc cho sự trì trệ.

Gestalt

Gestalt là một từ tiếng Đức có nghĩa là khuôn mẫu

(pattern)

hoặc hình thể, cấu trúc

(configuration). Một gestalt được tạo nên bởi mối tương quan giữa Ảnh (figure) và Nền

(ground). Mỗi Ảnh tượng trưng cho một trải nghiệm, nó được điều tiết tùy theo nhu cầu của đương sự đồng thời tùy theo nhu cầu và bản chất của tình huống mà người đó đang sống. Nền là toàn bộ bối cảnh bao gồm những yếu tố tương thích về mặt hiện tượng học mà từ đó xuất hiện nên Ảnh. Một cách lý tưởng thì Ảnh vẫn sẽ hiện rõ nét chừng nào mà sự quan tâm về nó vẫn còn trội bật, và chỉ mờ dần đi sau đó khi sự quan tâm chuyển sang một Ảnh khác kế tiếp.

“Sự ý thức một cách tự nhiên về nhu cầu nào đang nổi trội và tổ chức được các chức năng của sự tiếp xúc chính là hình thức thể hiện về mặt tâm lý của khả năng tự-điều-hòa-của-sinh-thể

(organismic-self-regulation)” (Perls và cs., 1951). Việc tạo lập một gestalt là một tiến trình liên tục trong đó điều được quan tâm đến nhiều nhất sẽ được nhận biết để có thể xử lý công khai, năng lượng tâm trí được đầu tư để làm rõ Ảnh

(figure)

và thực hiện những hành động để làm thỏa mãn những nhu cầu được tượng trưng bởi hình ảnh đó. Khi sự đầu tư này thành công (thỏa mãn được nhu cầu của đương sự vào lúc ấy), sự chú ý của đương sự vào Ảnh sẽ giảm đi và năng lượng tâm trí được sử dụng để đầu tư cho một ảnh khác. Khi sự đầu tư không thành công, gestalt vẫn còn trong trạng thái không hoàn tất và vẫn đòi hỏi sự chú tâm của đương sự.

Ví dụ, một đứa trẻ tìm kiếm sự yêu thương nhưng không có được sự yêu thương thì sẽ trở nên hổ thẹn, oán hận hoặc cứ luôn khao khát chờ đợi. Gestalt chưa hoàn tất này có thể vẫn luôn vận hành ở nhiều tầng mức trong ý thức của đương sự. Khi không được bản thân nhận biết rõ, gestalt này vẫn trong trạng thái chưa hoàn tất và có thể ảnh hưởng đến lòng tự tôn, lên bản sắc cá nhân và lên các mối quan hệ liên cá nhân của đương sự trong nhiều năm. Nếu chức năng của đường biên giới là có tính uyển chuyển và không có sự nhiễu loạn, thì cá nhân đó vẫn có sự trao đổi và tăng trưởng. Nếu các đường biên giới quá cứng nhắc, một con người cũng sẽ trở nên cứng nhắc và kém linh hoạt, ví dụ như trường hợp những người có rối loạn nhân cách ám ảnh – cưỡng chế. Khi chức năng ở các đường biên giới có sự “dò rỉ”, đương sự sẽ mất đi sự rõ ràng về mặt bản sắc, rất hay giao động và cứ luôn phải điều chỉnh bản thân mình theo người khác.

Ý nghĩa của một gestalt nằm trong mối liên hệ giữa trải nghiệm (ảnh) và bối cảnh (nền). Ý nghĩa luôn luôn có liên quan đến bối cảnh, cả về mặt thòi gian, không gian, văn hóa va con người. Nếu không hiểu biết về bối cảnh (Nền) thì một trải nghiệm (Ảnh) sẽ không có ý nghĩa gì cả. Nếu không có sự trải nghiệm, cái bối cảnh kia cũng trở nên không được nhận biết rõ ràng và cũng chẳng có ý nghĩa gì cả.

Trong thực hành trị liệu, sự nhận biết rõ một gestalt được gọi là khả năng “nội thị”

(insight). “Nội thị là sự định khuôn cho trường nhận thức

(perceptual field)

theo một cách thức sao cho thực tại được hiển thị một cách rõ rệt; chính trong sự tạo lập một gestalt mà các yếu tố tương thích với cái toàn thể” (Heidbreder, 1993). Khái niệm nội thị trong liệu pháp gestalt chính là sự nhận biết rõ về cấu trúc của Trường Cá nhân – Môi trường bao gồm sự tiếp xúc với cái ngã trong toàn bộ Trường cuộc sống của một con người. Vào thời điểm một người cần đến khả năng nhận biết có tính nội thị

(insightful awareness)

mà khả năng ấy không phát triển được thì chính đó là lúc có chỉ định tiến hành tâm lý trị liệu.

Sự đồng hóa và tạo lập cái Ngã

(Assimilation and Self Formation)

Từ khi sinh ra cho đến lúc lìa đời, thông qua sự điều chỉnh một cách sáng tạo, con người đã phát triển nên một cảm nhận về cái Ngã

(sense of self)

nơi bản thân mình. Ngay từ khi vừa mới chào đời, cấu trúc sinh học của sinh thể đã bắt đầu tương tác với những điều xa lạ từ môi trường xung quanh, và dần dần tạo lập nên bản ngã – một thực thể sinh học-xã hội-tâm lý-tinh thần. Con người thống hợp tất cả các trải nghiệm trong cuộc sống, liên tục tương tác với Trường Sinh thể - Môi trường trong hiện tại, liên tục điều chỉnh bản thân cho phù hợp với môi trường và điều chỉnh môi trường cho phù hợp với bản thân. Mỗi người vào một thời điểm khi tương tác với một sự vật trong môi trường cũng đều có được một cảm nhận về cái Ngã của mình. Sự tương tác với một cái mới sẽ tạo nên một cảm nhận mới về cái Ngã.

Quá trình “chuyển hóa về mặt tâm thần”

(Mental metabolism)

là một thuật ngữ có tính ẩn dụ được sử dụng trong liệu pháp Gestalt để mô tả các tiến trình hoạt động của những đường biên giới qua đó con người vừa duy trì được bản thân mình vừa có thể tăng trưởng. Con người trở nên nhận biết được các nhu cầu của mình, hướng về môi trường để hiểu biết chắc chắn những nguồn lực nào có thể giúp thỏa mãn những nhu cầu ấy, rồi chọn lựa để thu nhập vào và biến cái xa lạ kia trở thành một thành phần của cái Ngã. Đồng hóa

(Assimilation)

là tiến trình thống hợp những cái mới lạ từ bên ngoài và biến nó trở thành một phần trong cái Ngã của một con người. Tiêu hóa thức ăn cũng là một sự đồng hóa dưới hình thức sinh học. Những gì bên ngoài được xem là không cần thiết hoặc có thể gây nguy hại thì sẽ bị từ chối; chỉ những gì “có giá trị nuôi dưỡng” và được mong đợi mới có thể được dung nạp vào.

Cái được đồng hóa sẽ trở thành một phần của cái Ngã; cái được du nhập vào mà không thông qua tiến trình đồng hóa thì vẫn sẽ còn là một “dị vật” và quá trình này được gọi là nhập tâm, hoặc nội phóng chiếu (introjection). Việc tự động không chấp nhận quan điểm của người khác thường xảy ra thông qua đối thoại hoặc đồng hóa. Việc tự động chấp nhận quan điểm của người khác mà không thông qua sự phân tích thường chỉ là sự “nhập tâm” nêu trên. Các ý tưởng du nhập vào bên trong tâm trí mà không thông qua sự xem xét (học tập, phân tích, suy nghĩ...) được gọi là những “sự vật hoặc đối tượng được nhập nội”

(introjects). Các lời răn “Nên” hoặc “Không Nên” là những giáo điều không thông qua sự đồng hóa, được tiếp nhận từ khi còn nhỏ, và ăn sâu vào phần bản ngã của một con người. Những introject ấy sẽ làm hạn chế khả năng của con người trong việc cảm nhận rõ rệt về cái Ngã, cản trở sự rộng mở để tiếp nhận những trải nghiệm mới, loại bỏ khả năng sống hòa hợp và sống động của một con người, làm cho người đó không sống hết khả năng của mình.

Những người có nhân cách lành mạnh có khả năng nhận biết rõ bản ngã, ít xảy ra những xung đột trong nội tâm, có khả năng tự thân cảm nhận những tính chất, cảm xúc và nhu cầu của bản thân. Cấu trúc nhân cách cùng với cảm nhận về bản ngã tất cả đều được tạo lập nên thông qua mối quan hệ tương tác giữa con người với môi trường sống. Trẻ em khi được đối xử với sự thương yêu và tôn trọng sẽ phát triển nên một cảm nhận về lòng tự tôn

(sense of self-esteem). Trẻ em có thể trở nên những con người có khả năng và hữu ích nếu khi còn nhỏ trẻ được khuyến khích làm những hành vi thử nghiệm, ứng phó, được phép sai lầm, được tạo cơ hội để có những lúc phải thất vọng và hụt hẫng, được học cách tương tác với thế giới xung quanh và được hướng dẫn cách xử lý các tình huống bất trắc bằng những cách thức phù hợp với khả năng và mức độ phát triển của trẻ.

Trong quá trình sống, có nhiều lúc con người rơi vào thế bế tắc

(impasse). Đó là những lúc không có được sự hỗ trợ từ bên ngoài, và đương sự không biết được liệu mình có thể tự lực để tồn tại được hay không nếu không có ai khác giúp đỡ. Lúc đó, đương sự có thể có một cảm nhận về tình huống vừa như một mối nguy, vừa như một cơ hội. Việc có ai đó đến cứu giúp sẽ khiến đương sự không nhận ra được là mình yếu kém về khả năng tự lực

(tự hỗ trợ:

self-support). Nếu không có sự cứu giúp từ người khác, tình thế bế tắc khi ấy có thể trở thành một cơ hội để đương sự thực hiện một điều mới mẻ và quan sát được điều gì sẽ xảy ra. Đây là một thực nghiệm và bằng cách thực nghiệm mà con người mới có thể học tập và tăng trưởng được.

BỆNH LÝ VÀ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG

Con người học tập được từ sự trải nghiệm. Rối loạn chức năng xảy ra khi khả năng nhận biết không phát triển theo yêu cầu và những kiểu mẫu hành vi thì lại hạn chế khả năng tăng trưởng, không cho phép cá nhân cảm thấy hài lòng, hoặc lập đi lập lại tình trạng gây hủy hoại về mặt xã hội. Cơ chế nhận biết nguyên thủy không phát triển sẽ gây gián đoạn cho việc tạo lập sự lưu tâm đến một Ảnh (figure) khiến cho nó không trở thành chủ đề được ý thức nhận biết. Tiến trình gián đoạn khả năng nhận biết tự nó cũng có thể được định vị trở thành một Ảnh và thông qua sự “nhận biết về khả năng nhận biết” mà tiến trình học tập có thể được bảo tồn. Khi tiến trình nhận biết không được bảo tồn, việc học tập sẽ không xảy ra và các hành vi lành mạnh không được hình thành; khi ấy việc trị liệu sẽ được chỉ định.

Các hành vi bị gián đoạn thường bắt đầu có từ tuổi thơ bé, khi mà đứa trẻ không được hỗ trợ đầy đủ hoặc khi mà đứa trẻ được bảo bọc quá mức, không có điều kiện để trải nghiệm và học tập được từ những hệ quả tự nhiên của những hành vi của chính mình.

Sự gián đoạn xảy ra cả trên bình diện tâm trí lẫn bình diện cơ thể. Ví dụ khi một người trở nên sợ hãi hoặc ngượng ngùng, người ấy sẽ tìm cách ngăn trở khả năng nhận biết những cảm xúc này bằng cách mỉa mai, châm biếm. Anh ta nghĩ rằng mình “đang đùa cợt”. Trên bình diện cơ thể, khả năng nhận biết cũng bị né tránh bằng cách làm gián đoạn những tiến trình hỗ trợ cho sự linh hoạt về mặt cảm xúc. Ví dụ, một người khi cố gắng ngăn trở sự nhận biết về cảm xúc buồn bã hoặc muốn kiềm giữ cho không khóc có thể sẽ cắn chặt hàm răng hoặc nhắm nghiền mắt lại. Cơ chế của những hành vi né tránh ấy lại có thể làm phát sinh thêm các khó khăn mới, ví dụ nó sẽ gây nên chứng đau đầu do căng thẳng (tension headaches).

Khi trong Trường hiện tại xảy ra sự gián đoạn khả năng nhận biết thì sự gián đoạn này thường có liên quan đến các “đối tượng được nội tâm hóa” (introjects), những ký ức và những “vụ việc chưa hoàn tất” (unfinished business) tức là những cảm xúc chưa được giải quyết hoặc những nhu cầu chưa được thỏa mãn. Điều này cũng giải thích được phần lớn những hiện tượng chuyển di (transference). Ví dụ một nữ thân chủ có thể nhận thấy nhà trị liệu của cô là một người nhiệt tình và rộng lượng, nhưng cô có thể không tin ông ta bởi vì trước đây người cha nghiện rượu của cô cũng thể hiện vẻ nhiệt tình và rộng lượng giống như vậy nhưng rồi có thể đột ngột công kích cô một cách vô cớ.

Rối loạn các đường biên giới

Khi chu trình tạo lập một Ảnh bị gián đoạn hoặc bị bóp méo, khi đó sẽ có sự rối loạn trong khả năng nhận biết và rối loạn tại đường biên giới tiếp xúc giữa người ấy với phần còn lại của Trường. Một số người có thể làm gián đoạn chu trình tạo lập một Ảnh bằng cách nhanh chóng chuyển sang chú tâm đến một Ảnh mới trước khi Ảnh cũ được đầu tư một cách đầy đủ. Ví dụ một cô gái nọ rất sôi nổi và thích gợi chuyện, gần như có mặt khắp nơi trong một gian phòng nhưng lại không ở lại với ai đủ lâu để có thể có được một cảm nhận đầy đủ về bản ngã của cô cũng như để có thể có được một sự kết nối với người khác. Cô gái ấy là ví dụ minh họa cho một trường hợp thay đổi quá nhanh trong sự đầu tư vào các Ảnh (figure). Trong một ví dụ khác, một thanh niên lại thể hiện tính chất đầu tư quá lâu vào một Ảnh: anh ta thường kéo dài giai đoạn làm rõ một Ảnh khiến cho Ảnh vẫn tiếp tục được làm rõ đến từng chi tiết mà chẳng bao giờ chuyển sang một hành động nào cả. Mọi người đều nhận thấy anh ta như một người có tính ám ảnh, quá nguyên tắc và dễ bị lạc lối trong các tiểu tiết.

Tiếp xúc, Hòa lẫn và Tách biệt (Contact, Confluence and Isolation)

Một sự tiếp xúc với Trường được xem là tốt nếu như các đường biên giới có đủ tính chất kép đã được bàn đến ở phần trên: vừa kết nối và vừa tách biệt.

Khi một người bị mất đi cái cảm nhận về sự kết nối với thế giới xung quanh, người đó đang sống cô lập. Một người cô lập không có những tương tác tốt với xung quanh và cũng không tương tác tốt với chính họ. Trái lại, nếu mất đi cảm nhận về sự tách biệt thì người đó đang hòa lẫn mình với người khác, phụ thuộc vào người khác.

Nhập t

âm

và phóng chiếu (introjection and projection)

Mặc dù quá trình nhập tâm (introjecting) là có tính lành mạnh trong việc học tập những tình huống mới và nó rất cần thiết trong thời thơ ấu, nhưng những đối tượng được nhập tâm (introjects) nào còn nằm ngoài tầm nhận biết thì lại là thành phần cốt yếu của cơ chế hình thành bệnh lý. Ví dụ, nếu một đứa trẻ nhập tâm ý tưởng rằng ‘‘Nếu không thể nói được điều gì hay ho thì tốt nhất là nên im lặng’’ thì điều này sẽ có ảnh hưởng đến tính quyết đoán của trẻ sau này khi cuộc sống cần đến khả năng ấy.

Phóng chiếu hay ngoại hiện thì trái ngược với nhập nội. Trong khi nhập tâm là quy những gì của người khác vào trong cái ngã; thì phóng chiếu là tiến trình quy những gì của mình cho người khác. Phóng chiếu ngăn trở một con người trải nghiệm được những nét tính cách của cái ngã bằng cách quy nó cho người khác. Có nhiều người đôi lúc tự ngăn trở việc nhận biết những cảm xúc ganh ghét của bản thân mình bằng cách suy nghĩ (phóng chiếu) rằng những người khác đã thể hiện thái độ thù địch với mình. Sự phóng chiếu có thể thay đổi theo nhiều mức độ khác nhau về tính chính xác, tuy nhiên nó luôn có chức năng làm trở ngại cho sự nhận biết bản thân.

Hồi hướng và Chuyển hướng (Retroflection and Deflection)

Hiện tượng hồi hướng và chuyển hướng có thể xảy ra về sau trong chu trình nhận biết. Nếu trong quá trình nhập tâm và phóng chiếu, sự nhận biết bị gián đoạn trước khi đương sự trải nghiệm được những cảm xúc và các xung năng như là của chính mình, thì trong hồi hướng và chuyển hướng, đương sự vẫn chấp nhận các xung năng là của chính mình nhưng thay đổi chiều hướng hoặc mức độ tác động của nó. Việc này có thể cho phép đương sự chấp nhận những ước muốn của chính mình và có thể điều chỉnh lại những đáp ứng sao cho thỏa mãn những nhu cầu của hoàn cảnh sống.

Trong quá trình hồi hướng, các xung năng và ước muốn được chuyển từ bình diện liên cá nhân (interpersonal) sang bình diện nội tâm (intrapsychic); nghĩa là một điều mà đương sự muốn mình làm cho người khác hoặc muốn người khác làm cho mình sẽ được chuyển hướng thành điều mà đương sự tự làm cho chính mình. Ví dụ trường hợp một người đang giận dữ vẫn cố kiềm giữ tình huống ở mức an toàn để không có những hành động bột phát, hoặc trường hợp một người muốn có những cảm giác dễ chịu sẽ làm những động tác tự kích thích bản thân.

Chuyển hướng là quá trình làm giảm đi tác động của sự tương tác hoặc theo hướng từ người khác đến bản thân hoặc theo hướng từ bản thân đến người khác. Mỉm cười để giảm nhẹ một thái độ chỉ trích hoặc giận dữ là một ví dụ. Phớt lờ hoặc xem nhẹ một sự giao tiếp là cách chuyển hướng đối với một tình huống giao tiếp đang xuất hiện. Chuyển hướng có thể là một khả năng quan trọng giúp bảo vệ cho cái ngã cũng như cho tình huống sống. Những người không chuyển hướng cho những thái độ gây hấn ra bên ngoài (outgoing aggression) có thể làm cuộc sống của những người khác thêm khó khăn; trong khi những người không chuyển hướng cho những thái độ gây hấn hướng vào bên trong (incoming aggression) có thể trở thành những người dễ bị tự ái.

Tiếp cận trị liệu các chứng lo âu theo kiểu gestalt

Với cơ sở triết lý được định hướng theo các tiến trình của trường phái Gestalt, chứng lo âu được tiếp cận dựa trên tiến trình hơn là dựa trên bối cảnh của lo âu.

Lo âu được xem là trải nghiệm về một sự phấn khích bị gián đoạn hoặc không được hỗ trợ (khi cuộc sống phải bị đè nén chứ không được nâng đỡ). Khi lo âu, một người sẽ mất đi cảm giác ‘‘tập trung vào hiện tại’’ và sẽ có khuynh hướng ‘‘tương lai hóa’’ (futurizing) các sự việc, từ đó tạo nên những tiên đoán có tính tiêu cực, diễn giải sai lầm và hình thành những niềm tin phi lý. Khi lo âu, người ấy tập trung vào một cái gì đó không có ngay trong hiện tại, vì thế anh ta sẽ không thể tập trung năng lượng đầy đủ để hỗ trợ cho việc thực hiện các hoạt động và hoàn tất được một gestalt (ảnh không liên quan đến nền, trải nghiệm không liên quan đến bối cảnh).

Sự bế tắc (impasse)

Khi những sự hỗ trợ thông thường bị mất đi mà những sự hỗ trợ mới chưa được khỏi động, người ta sẽ không biết mình liệu có đủ sự hỗ trợ cần thiết để có thể tiếp tục tồn tại hay không. Sự bế tắc xảy ra khi hình ảnh về bản thân (self-image) trở nên cứng nhắc, sai lầm và không còn vai trò trong việc tạo dựng một cuộc sống an toàn nữa. Khi một người không còn giữ được hình ảnh bản thân mình như trước đây lúc đó anh ta sẽ cảm thấy bế tắc.

Người bị bế tắc sẽ bị mắc mứu vào những tình thế mà anh ta xem là đáng sợ, không có khả năng quay lui và lo sợ mình sẽ không thể sống nổi nếu tiếp tục đi tới. Họ bị tê liệt, với những năng lượng tâm trí bị phân chia, dằn xé và chống đối nhau, giống như một tài xế giữ một chân đạp ga chân kia đạp thắng vậy! Tình trạng này thường được mô tả bằng những hình ảnh ẩn dụ như ‘‘trống vắng’’, ‘‘đen tối’’, ‘‘đứng bên bờ vực’’, ‘‘lọt vào xoáy nước’’ hoặc ‘‘bị nhấn chìm’’.

Người đang trải qua sự bế tắc sẽ tìm kiếm sự hỗ trợ để có thể tồn tại. Sự tồn tại đích thực là sự tồn tại với sự nhận thức chính xác, có khả năng đặt cái ngã thực sự của mình vào trong thế gian vào nhìn thấy người khác một cách đúng đắn. Nó được thể hiện thông qua sự sống động, những gestalt hoàn tất, hiểu biết và làm rõ những điều gì là quan trọng. Khi sự hỗ trợ không đầy đủ, khả năng hoàn tất những việc này sẽ thất bại.

Định đề nghịch lý về sự thay đổi

Có một nghịch lý là khi một người càng cố gắng để trở nên cái mà anh ta không thực sự là thì anh ta càng giữ nguyên trạng như cũ không thay đổi. Sự tăng trưởng thực sự không xảy ra khi một người ghét bỏ hoặc từ chối cái ngã của chính mình, mà nó chỉ xảy ra khi người đó nhận biết rõ cái thực tại mà họ đang là. Càng nhận biết rõ bản thân, nhận biết rõ hoàn cảnh và tính cách của mình thì một người mới có thể đi trên con đường tăng trưởng. Khi sống với toàn bộ bản ngã thật của mình, một người mới có thể thực hiện được những hành vi mới và học tập được từ những tiến trình.

Con người thường hạn chế khả năng tăng trưởng của mình bằng cách đồng hóa mình với những cái ngã ‘‘giả’’ (hoặc quá tự cao hoặc quá xấu hổ về hình ảnh bản thân). Cố gắng giữ lấy hình ảnh cái ngã giả tạo này sẽ ngăn trở người ấy tăng trưởng và không ở trong ‘‘cái toàn thể’’. Sự nhận biết cách thức tồn tại của chính mình sẽ bao gồm cả việc thấy được bản thân mình là một con người đáng được yêu thương và trân trọng ngay cả khi vẫn còn nhiều thiếu sót và vẫn phải học hỏi thêm nhiều điều. Những người biết tôn trọng bản thân có thể nhận ra được những hành vi nào là không hiệu quả hoặc gây tổn thương cho người khác mà vẫn không mất đi cái cảm nhận về giá trị của bản thân mình.

Trái lại, cảm xúc đi kèm theo sự cảm nhận rằng mình ‘‘không đạt’’ hoặc ‘‘không được’’ chính là sự hổ thẹn. Trước khi giúp một người có khuynh hướng hổ thẹn nhận biết được một cách đầy đủ về bản thân, điều cần thiết là phải thực hiện một số công việc đặc biệt để tác động vào tiến trình hổ thẹn của họ (Yontef, 1993).

THỰC HÀNH

Cấu trúc cơ bản của liệu pháp

Liệu pháp Gestalt có một khung lý thuyết có tính tổng hợp, được thiết kế để có thể dung nạp những ý tưởng, quan sát và kỹ thuật từ nhiều nguồn khác nhau và hợp thành một phương pháp với đặc điểm có cùng một triết lý chung nhưng đa dạng về mặt kỹ thuật. Nhà trị liệu Gestalt được yêu cầu phải hiểu biết về thân chủ và mối quan hệ, nắm vững phương pháp, có thể sáng tạo hoặc vay mượn bất cứ kỹ thuật trị liệu nào có thể giúp họ cảm nhận được những gì cần được khám phá và cho phép thân chủ tiếp tục đi tới trên con đường tăng trưởng.

Từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970, một số các kỹ thuật kịch theo kiểu Gestalt đã được công bố rộng rãi. Và trong thập niên cuối thế kỷ 20, liệu pháp Gestalt tiếp tục là loại liệu pháp ‘‘đa kỹ thuật’’ (multi-technical), sử dụng những ý tưởng, dữ liệu và các kỹ thuật can thiệp từ nhiều nguồn khác nhau. Gần đây hơn, việc thực hành liệu pháp Gestalt chuyển hướng sang các kỹ thuật liên quan nhiều hơn đến những trải nghiệm của thân chủ, ví dụ kỹ thuật phản ánh có tính thấu cảm (empathetic reflection) và chú trọng hơn đến việc tăng cường mối quan hệ trị liệu. Việc này làm cho diện mạo của liệu pháp Gestalt khác biệt đáng kể so với tính chất hoa mỹ và kịch tính của hơn 20 năm về trước.

Xu hướng có tính chiết trung này làm cho liệu pháp Gestalt không còn là một phương pháp thuần nhất nữa mà trở thành một nhóm các liệu pháp có cùng chung triết lý và phương pháp luận, nhưng lại áp dụng vô số những chiều kích kỹ thuật khác nhau, sự lựa chọn khuôn mẫu, mức độ và thể loại cấu trúc trị liệu khác nhau trong hầu hết các chủ đề lâm sàng. Do liệu pháp Gestalt đặt mục tiêu vượt ra bên ngoài việc giảm nhẹ triệu chứng, và hướng đến việc tăng trưởng, thậm chí phát triển về mặt tinh thần, cho nên thời gian trị liệu có thể là vô hạn định. Tuy nhiên, phương thức trị liệu ngắn hạn là một trong số những hình thức trị liệu tiêu chuẩn của trường phái này; có thể ở dạng ‘‘giải quyết khủng hoảng’’ (crisis model) hoặc ‘‘định hướng nội thị’’ (insight model). Thông thường, một liệu trình Gestalt không định trước thời điểm kết thúc (open-ended) có thể tự động kết thúc sau vài phiên trị liệu. Mặc dù tần số trung bình thường là mỗi tuần một lần, nhưng con số này cũng có thể thay đổi từ vài lần một tuần cho đến mỗi tuần (hoặc thưa hơn) một lần.

Hầu hết thân chủ bắt đầu bằng trị liệu cá nhân hoặc từng cặp (vợ chồng, tình nhân), còn trị liệu nhóm thì có thể thực hiện sau đó tùy trường hợp. Cá nhân: 45-50 phút mỗi phiên; cặp: 45-120 phút; nhóm: 90-120 phút. Workshop: 6-12 giờ mỗi ngày. Việc trị liệu có thể được phối hợp nhiều thể thức trên mỗi thân chủ: vừa trị liệu cá nhân, vừa trị liệu cặp, nhóm hoặc workshop. Nhà trị liệu và thân chủ thường ngồi đối diện và không ngăn cách nhau bởi những chiếc bàn.

Các phiên trị liệu được cấu trúc bởi sự tương tác giữa thân chủ và nhà trị liệu, và cả hai cùng tham gia vào việc thiết kế cấu trúc này. Khi thân chủ nghiêm túc xem xét những nguyện vọng, nhu cầu và những khả năng của mình rồi sau đó trình bày những điều này với nhà trị liệu, anh ta sẽ tham gia xác định cấu trúc của phiên trị liệu. Một số thân chủ cấu trúc các phiên trị liệu bằng cách kể câu chuyện của mình và định rõ những nhu cầu trọng tâm của mình. Nhà trị liệu giúp thân chủ làm rõ những nguyện vọng và nhu cầu của họ bằng cách chia sẻ các quan sát, phản ánh có tính thấu cảm, cung cấp thông tin, đề xuất những thực nghiệm (theo kiểu hiện tượng học) để làm rõ những ước muốn của thân chủ. Cấu trúc của việc trị liệu phải do sự tương tác giữa thân chủ và nhà trị liệu, bất kể mối quan hệ trị liệu đã được thiết lập vững chắc hay chưa.

Mục đích và các chiến lược

Mặc dù những nhà trị liệu Gestalt thường khá năng động, họ vẫn không thiết kế trước một trình tự thay đổi hành vi và định trước mục đích sau cùng của cuộc trị liệu. Công việc của nhà trị liệu thường tập trung vào việc khám phá bản thân của thân chủ hơn là trực tiếp làm thay đổi hành vi hoặc diễn giải những vấn đề trong vô thức. Liệu pháp gestalt mang lại sự nhận biết khi thân chủ bị bế tắc, mang lại sự nhận biết những tiến trình nhận biết, cung cấp sự hỗ trợ và hướng dẫn những phương thức mới trong việc đương đầu với stress.

Nét chủ yếu trong triết lý của liệu pháp Gestalt là sự tôn trọng những thực tại muôn hình, nhấn mạnh vào giá trị tích cực của sự khác biệt giữa những con người khác nhau (về các giá trị, sở nguyện và niềm tin...). Điều này cũng đúng khi xem xét sự khác biệt giữa thân chủ và nhà trị liệu. Những nhà trị liệu Gestalt thường thể hiện tính cách riêng tư của bản thân họ (thường hay bộc lộ bản thân), vì thế thân chủ cũng được dịp tiếp xúc hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp với những cảm xúc, ý nghĩ, kỹ năng, các giá trị và hành vi khác với mình. Thân chủ không được khuyến khích phải đồng nhất hóa với cách sống của nhà trị liệu, mà thay vào đó họ phải tìm kiếm cách thức riêng độc đáo của họ. Những khác biệt giữa nhà trị liệu và thân chủ trở thành trọng tâm trong đối thoại cũng như trong các thực nghiệm hiện tượng học.

Chính khi tiếp xúc với triết lý của liệu pháp Gestalt mà thân chủ mới học được cách thử nghiệm những gì là phù hợp và không phù hợp với họ thông qua sự nhận biết bản thân của chính họ. Điều đặc biệt quan trọng là một liệu pháp với một nhà trị liệu năng động cùng một phương pháp mạnh mẽ sẽ có thể trân trọng và bảo bọc cho khả năng đề kháng của thân chủ đối với quá trình nhập

tâm

(introjection) và trách nhiệm của nhà trị liệu là phải thận trọng trong trường hợp thân chủ vô tình điều ứng bản thân dưới ảnh hưởng của nhà trị liệu.

Mục đích trị liệu là giúp thân chủ đạt được sự tự chủ và tăng trưởng thông qua tự nhận biết về bản thân. Nhà trị liệu có vai trò hướng dẫn sự nhận biết này bằng cách hiện diện một cách tích cực với sự quan tâm, nhiệt tình, chân thực, sống động và đầy sáng tạo. Nhà trị liệu Gestalt chia sẻ với thân chủ những gì họ quan sát được và phản hồi lại những cảm nhận mà họ có được từ thân chủ. Nhà trị liệu Gestalt hiện diện như một con người thực sự, vì thế sự nhận biết bản thân có thể xảy ra trong bối cảnh có sự tương tác thực sự giữa người với người.

Các thực nghiệm hiện tượng học trong liệu pháp Gestalt được hướng dẫn ngay trong các phiên trị liệu cũng như được yêu cầu thực hiện giữa các phiên trị liệu như những ‘‘bài tập về nhà’’ (home assignments). Một nhà trị liệu giỏi sẽ phải có kiến thức tổng quan về liệu pháp và đưa ra những đề xuất để hướng dẫn thân chủ khám phá bản thân họ cả trong các phiên trị liệu và thời gian giữa các phiên trị liệu.

Các mục đích trị liệu và tiến trình thiết lập các mục đích này có sự thay đổi tùy theo giai đoạn trị liệu, vấn đề của thân chủ, cấu trúc nhân cách của thân chủ và môi trường làm việc của nhà trị liệu. Mặc dù vậy, khuôn khổ trị liệu căn bản của trường phái Gestalt về cách khám phá và đối thoại theo kiểu hiện tượng học (phenomenological exploration and dialogue) đã vận hành ngay từ thời điểm bắt đầu tiếp xúc giữa nhà trị liệu và thân chủ. Chính sự nhận biết và công việc tiếp xúc với thân chủ sẽ định hình cho tiến trình xây dựng và làm rõ mục đích trị liệu. Việc thiết lập mục đích trị liệu là một việc được thực hiện sớm trong đó khả năng tự lực (self-support) của thân chủ sẽ được tăng cường bởi hai khía cạnh chính của liệu pháp Gestalt sau đây: (1) Việc giải thích theo phương pháp hiện tượng học các kiểu mẫu ý thức và hành vi của thân chủ ; (2) Việc phát triển mối quan hệ trị liệu giữa thân chủ và nhà trị liệu.

Ví dụ, một thân chủ vào phiên trị liệu đầu tiên thể hiện thái độ không biết khởi đầu thế nào, chờ đợi nhà trị liệu cho ra những ý kiến dẫn dắt và không thể có trả lời khi được hỏi ‘‘Bạn muốn đạt được gì từ việc trị liệu?’’. Có điều gì đó từ thân chủ đã lay động nhà trị liệu và người này nói ‘‘Tôi muốn giúp bạn. Bạn cần tôi giúp bạn điều gì?’’. Người thân chủ ấy sau đó có thể đáp ứng lại bằng cách thức giao tiếp riêng tư công khai hơn.

Mức độ tự lực của thân chủ là yếu tố căn bản ban đầu phải xem xét để chọn lựa cách thức can thiệp. Những thực nghiệm và các hoạt động trị liệu khác được áp dụng với mức độ khó tăng dần và được diễn tập theo một trình tự nhằm xây dựng những kỹ năng ngay từ khi bắt đầu trị liệu để khả năng tự lực của thân chủ được tăng cường hơn và cũng không tạo nên gánh nặng quá lớn cho giai đoạn sau đó. Ví dụ, những thân chủ đã từng bị ngược đãi từ thuở nhỏ có thể tham gia trị liệu tốt hơn thông qua việc thể hiện sự giận dữ vào ban đầu khi họ học cách nhận diện và diễn đạt những cảm xúc của họ một cách an toàn, rồi sau đó học cách cố gắng tự trấn tĩnh và thư giãn khi cần thiết, kế đó phát triển một cảm nhận về lòng tin và sự an toàn khi làm việc với nhà trị liệu. Giai đoạn tiếp xúc lần đầu với một thân chủ mới đưọc xem là một bước có tính tế nhị nhằm thiết lập nên một ‘‘liên minh trị liệu’’ (therapeutic alliance). Tiếp theo sau đó là một loạt các thảo luận về các chủ đề liên quan đến cuộc sống của thân chủ mà thân chủ không nhận biết được mình thực sự mong muốn gì. Trọng tâm của việc trị liệu là làm sao để tăng cường khả năng của thân chủ trong việc nhận biết là họ muốn gì chứ không chú tâm nhiều đến nội dung của ‘‘những câu chuyện xảy ra trong tuần’’. Theo thời gian, thân chủ sẽ nhận ra được lâu nay anh ta đã làm như thế nào khiến gián đoạn khả năng nhận biết mình muốn gì; thân chủ cũng bắt đầu thích thú với cảm giác rằng mình đã biết được mình muốn gì. Thân chủ cũng bắt đầu thể hiện nhiều sáng kiến hơn trong các phiên trị liệu và nhận thấy mối quan hệ với nhà trị liệu trở nên quan trọng hơn đối với mình. Vào lúc đó, thân chủ đã có được sự tự lực đầy đủ để nhà trị liệu có thể thực hiện những quan sát và đưa ra những diễn giải nhằm bộc lộ những cảm xúc sâu đậm và giải quyết những vai trò của thân chủ trong các tương tác không lành mạnh.

Khi thực hành đúng đắn, nhà trị liệu Gestalt sẽ có những hướng dẫn theo trình tự sao cho những cuộc khám phá sâu sắc hơn, nhiều nguy cơ hơn, đau đớn hơn sẽ không vượt quá khả năng tự lực của thân chủ. Nếu thân chủ không được hướng dẫn theo cách này thì sẽ có nhiều nguy cơ nhận lấy những hậu quả tiêu cực từ việc trị liệu.

Mục đích của liệu pháp Gestalt là sự nhận biết về bản thân. Việc này bao gồm cả những nhận biết có tính vi mô (microawareness) về một nội dung cụ thể nào đó, và cả khả năng nhận biết về tiến trình nhận biết (awareness of the awareness process). Sự nhận biết tiến trình nhận biết càng làm mạnh thêm khả năng ‘‘mang những thói quen thường được thực hiện một cách tự động vào trong tầm nhận biết khi cần thiết’’, đồng thời sử dụng khả năng nhận biết có trọng điểm và các thực nghiệm hiện tượng học để tập trung, làm rõ và thử áp dụng những hành vi mới. Sự nhận biết này có nghĩa là hiểu biết được những gì mà một người đang lựa chọn để làm và vì thế người ấy có khả năng nhận trách nhiệm về việc làm đó. Tập trung (centering) là khả năng trở nên trầm tĩnh và có trật tự về thời gian, không gian, bối cảnh và nội tâm, sao cho đương sự được định hướng rõ ràng bên trong Trường (field), hài hòa với bản thân, hít thở nhẹ nhàng, biết rõ các sở nguyện và những giới hạn của bản thân.

Hầu hết các thân chủ lúc đầu đều chú ý đến việc giải quyết vấn đề và làm giảm nhẹ triệu chứng. Mặc dù các nhà trị liệu Gestalt hiểu giá trị của các mục đích này, nhưng họ quan tâm nhiều hơn đến tiến trình làm thế nào để thân chủ trở nên tự lực và cách thức để thân chủ tự tìm thấy cách thức riêng để giải quyết vấn đề cũng như giảm nhẹ triệu chứng. Mục đích trị liệu do vậy không phải là giải quyết vấn đề hoặc loại bỏ triệu chứng, mà là ‘‘giúp thân chủ có được những công cụ’’ để giải quyết vấn đề và tăng cường khả năng của họ trong việc tự tổ chức lại cuộc sống nói chung. Liệu pháp Gestalt giúp giải quyết vấn đề bằng cách gia tăng khả năng tự lực và tự điều chỉnh của thân chủ. Khi trị liệu tiếp diễn, trọng tâm sẽ được chuyển dần sang những chủ đề khái quát hơn liên quan đến nhân cách của thân chủ. Nhờ lĩnh hội được các kỹ năng trong giai đoạn đầu của việc trị liệu, thân chủ có thể thực hiện những khám phá sâu hơn về nhân cách của họ.

Tiến trình trị liệu 1: Tôi và Bạn, Ở đây và Ngay lúc này, Cái gì và Như thế nào

Liệu pháp Gestalt thuộc nhóm các liệu pháp kinh nghiệm (experiential therapy), vì thế nó thúc đẩy sự tăng trưởng của thân chủ bằng cách phát triển nên một mối quan hệ dựa trên sự tiếp xúc thông qua đối thoại và một phương pháp luận về tiến trình khám phá thông qua khả năng nhận biết liên tục của thân chủ. Các khẩu hiệu: ‘‘Tôi và Bạn’’ (I and Thou), ‘‘Ở đây và Ngay lúc này’’ (Here and Now), ‘‘Cái gì và Như thế nào’’ (What and How) thể hiện tinh thần của tiến trình này.

Tôi và Bạn

Liệu pháp Gestalt được tiến hành dựa trên cơ sở một sự tiếp xúc trực tiếp, sống động và đầy tính chất cảm xúc, trong đó nhà trị liệu vừa hiện diện cùng với thân chủ, vừa làm một điều gì đó cho thân chủ. Đây là xu hướng chung của liệu pháp Gestalt trong thập niên 1990; trong đó nhà trị liệu không chỉ sử dụng các phương pháp chú tâm và thực nghiệm hiện tượng học nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng tối đa cho thân chủ, mà còn ‘‘đi cùng’’ thân chủ theo cách thức tương tự như Martin Buber, Carl Rogers và các nhà tâm lý nhân văn khác đã thực hiện.

Các kỹ thuật phải tuân thủ những nguyên lý. Nguyên lý là quan trọng; còn từng kỹ thuật riêng biệt thì không quan trọng. Bất cứ kỹ thuật nào cũng có thể được sử dụng trong liệu pháp Gestalt, và không có một kỹ thuật nào có vị thế đặc biệt cả

. Các nguyên lý chính trong liệu pháp Gestalt là những nguyên lý đang chi phối những mối quan hệ của con người, đặc biệt là mối quan hệ trị liệu.

Các kỹ thuật của liệu pháp Gestalt thường có tính linh hoạt và là sự ứng dụng một cách sáng tạo các kiến thức của nhà trị liệu nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho việc thiết lập các tình huống học tập thông qua những thực nghiệm hiện tượng học và nhằm tạo nên các tương tác trị liệu với một thân chủ cụ thể vào một thời điểm cụ thể. Thái độ này dẫn đến việc nhà trị liệu Gestalt có thể ứng dụng và vay mượn nhiều loại kỹ thuật có hiệu quả từ những nhà trị liệu thuộc các trường phái khác nhau. Điều không may là trong các nghiên cứu, dù nhà trị liệu vay mượn các kỹ thuật từ những trường phái khác hay sử dụng các kỹ thuật và phương thức được gọi là ‘‘của trường phái Gestalt’’, các kỹ thuật vẫn được nhấn mạnh nhưng quá trình các kỹ thuật ấy được sáng tạo và áp dụng trong liệu pháp Gestalt thì lại không được nêu rõ. Trong lý thuyết của liệu pháp Gestalt, điều quan trọng là nhà trị liệu làm gì và việc ấy được tiến hành ra sao, chứ kỹ thuật được áp dụng có phải là kỹ thuật của liệu pháp Gestalt hay không thì không phải là điều quan trọng.

Tại đây và Ngay lúc này

Những gì thân chủ đang thể hiện không được xem là ‘‘định sẵn’’ từ quá khứ và cũng không phải là sự lập lại một cách vô thức những quan hệ đã có trước đó

(Thái độ này đối ngược lại với lý thuyết phân tâm – ND). Trong học thuyết về Trường, tất cả các yếu tố có ảnh hưởng qua lại đều cùng hiện diện ‘‘tại đây và ngay lúc này’’ trong Trường.

Kurt Lewin (1938) gọi đây là ‘‘Nguyên lý về Tính đồng thời’’ (Principle of Contemporaneity).

Con người có thể mang các trải nghiệm trong cuộc sống và sự nhận biết của mình hội tụ vào thời điểm hiện tại. Trong liệu pháp Gestalt, việc khảo sát các ảnh hưởng của những trải nghiệm trong quá khứ chủ yếu dựa trên các dữ liệu từ trải nghiệm của thân chủ chứ không dựa trên các diễn giải những biểu trưng của nhà trị liệu. Càng bám sát vào các trải nghiệm trực tiếp của thân chủ, nhà trị liệu càng ở gần những ‘‘sự thật’’ của thân chủ - điều này có giá trị cao hơn những ‘‘sự thật của các chuyên gia’’.

Tập trung vào những gì ‘‘tại đây và ngay lúc này’’ cho phép có sự bình đẳng giữa thân chủ và nhà trị liệu, vì trong Trường hiện tại, tất cả các đối tác đều có thể sử dụng những cảm nhận, sự trực giác và khả năng sáng tạo của mình để khám phá những ảnh hưởng phức tạp luôn đang vận hành. Liệu pháp Gestalt không áp dụng kỹ thuật diễn giải như các nhà trị liệu phân tâm. Thân chủ thường được xem là ‘‘chuyên gia’’ về khả năng nhận biết và về sự tồn tại của chính họ, còn nhà trị liệu không gì khác hơn là một cố vấn cho thân chủ.

Thân chủ sẽ có được khả năng tự lực tốt nhất nếu họ ‘‘tập trung vào hiện tại’’ (present-centered). Tập trung vào hiện tại có nghĩa là sự hiểu biết bằng tất cả con người của mình về điều gì mình đang làm và nhu cầu nào mình đang lưu tâm đến trong Trường sinh thể - môi trường ở thời điểm hiện tại

(Present-centeredness means knowing with one’s whole being what one is doing and what need is being addressed in the present organism-environment field). Phật giáo gọi việc này là "sự chuyên tâm" hay thường gọi là "chánh niệm" (mindfulness). Việc dấn thân một cách mạnh mẽ và nhận biết được điều gì là quan trọng nhất sẽ giúp chúng ta hoàn tất các gestalt (tức là đạt đến sự mãn nguyện) và làm xuất hiện các gestalt mới (tức là tăng trưởng).

Tất cả các hoạt động đều xảy ra một cách đồng thời, nhưng thường thì người ta không nhận biết rõ được mình đang làm gì và đang cần gì. Phật giáo gọi việc này là "sự lãng quên" (forgetfulness). Khi thân chủ đương đầu với những ký ức từ thời thơ ấu và sống lại chuyện ấy bằng những cảm xúc ngay trong hiện tại, những năng lượng tâm trí và hoạt động nhớ lại chuyện quá khứ kia thực sự là xảy ra trong hiện tại. Trái lại, nếu cái quá khứ đang được gợi nhớ kia chỉ là để tin rằng ‘‘chuyện trước kia gây ra chuyện hôm nay’’, hoặc như một sự lập lại theo thói quen, thì những gì đáng quan tâm trong hiện tại sẽ bị bỏ qua để thay vào đó là sự ‘‘lý trí hóa’’ các trải nghiệm.

Cũng tương tự như vậy, sự hoạch định cho tương lai cũng là một việc xảy ra trong hiện tại, trong đó con người trở nên có hệ thống hơn và chuyên tâm vào tương lai để có thể làm công việc chuẩn bị cho tương lai ấy. Suy nghĩ về tương lai mà không có sự chú tâm vào hiện tại chỉ dễ dẫn đến trạng thái lo âu mà thôi.

Cái gì và Như thế nào

Cả lý thuyết về tiến trình lẫn hiện tượng học đều thích sử dụng các phương pháp mô tả hơn là phương pháp dựa trên các lý giải. Các câu hỏi cơ bản nhất trong liệu pháp Gestalt không phải là ’’Tại sao?’’, mà là ‘‘Cái gì?’’.  Bạn đang trải nghiệm điều gì? Bạn đang làm gì? Bạn đang cần gì? Sự mô tả có thể ở gần hơn với các trải nghiệm, có thể quan sát và cảm nhận được từ bên trong, trong khi những lời giải thích thì chỉ có tính suy đoán và cách xa với các trải nghiệm.

Một câu hỏi khác đồng thời kèm theo đó là ‘‘Như thế nào?’’. Câu hỏi ‘‘Như thế nào’’ chính là trung tâm của việc định hướng vào tiến trình (process orientation) trong Học thuyết về Trường: Xem xét một cách chính xác bằng cách nào mà tiến trình này diễn ra trong đó có sự tham gia của thân chủ vào tiến trình.

Tiến trình trị liệu 2: Các thực nghiệm, kỹ thuật và các chiến lược

Liệu pháp Gestalt nhấn mạnh vào (1) Mối quan hệ trị liệu, được sâu đậm hơn nhờ sự hợp tác làm việc chung của hai phía, từ đó cho phép thực hiện các thực nghiệm (experimentations), và (2) Khả năng nội thị (insight) về nội dung và tiến trình diễn ra thông qua sự nhận biết và thực nghiệm tích cực và có trọng tâm. Cả hai điều này đã làm nên hầu hết sức mạnh hiệu quả của liệu pháp Gestalt.

Các kỹ thuật được áp dụng trong liệu pháp Gestalt bao gồm tất cả những hoạt động trị liệu thường thấy như việc lắng nghe có tính thấu cảm và kỹ thuật phản ánh; ngoài ra, nhà trị liệu Gestalt còn có thể vượt xa hơn bằng cách áp dụng bất cứ loại kỹ thuật trị liệu nào sẵn có cũng như sáng tạo những phương thức can thiệp ngay trong tình huống trị liệu. Những kỹ thuật ấy có thể kể đến: thực nghiệm giải tỏa cảm xúc (cathartic experimentation), hình dung (visualization), theo dõi các suy nghĩ (cognitive monitoring), thiền định (meditation) và thư giãn (relaxation) và các thực nghiệm bằng động tác cơ thể (experiments with movement).

Trọng tâm nhằm đạt đến khả năng nhận biết có thể thay đổi từ hình thức thảo luận về một vấn đề cụ thể, thông qua kỹ thuật phản ánh dựa trên chủ đề chung và việc huấn luyện các kỹ năng tâm lý, cho đến hình thức nội thị sâu sắc về các mô hình vận hành trong nhân cách cũng như các trải nghiệm về mặt phát triển, và sau cùng là thống hợp lại (integration) và đồng hóa (assimilation). Ngay cả khi làm việc với thân chủ trên bình diện nội dung, nhà trị liệu vẫn rất chú tâm đến các tiến trình, nhất là các tiến trình xảy ra việc thân chủ tham gia vào hoặc làm gián đoạn việc nhận biết về bản thân và tiếp xúc với người khác. Có lúc nhà trị liệu tập trung quan sát tiến trình nhưng vẫn giữ nội dung bàn luận ở vị trí nổi bật; có lúc nhà trị liệu sử dụng nội dung bàn luận như một tiêu điểm cụ thể để cho tiến trình có thể diễn ra. Giai đoạn trị liệu sau đó tiêu điểm được tập trung mạnh nhất có lẽ sẽ thuần túy là khả năng nhận biết về các tiến trình (process awareness).

Những can thiệp trị liệu là những hành vi thực nghiệm cụ thể được đề xuất từ sự hợp tác làm việc giữa thân chủ và nhà trị liệu. Những việc này luôn luôn nhắm tới việc ‘‘khám phá một điều gì đó’’ chứ không trực tiếp nhắm đến việc thay đổi hành vi. Những thực nghiệm là những việc được đề xuất để tập trung vào khả năng nhận biết bản thân mà thân chủ có thể sử dụng để làm gia tăng sức mạnh, sự linh hoạt và sự sáng tạo của những trải nghiệm mà họ có được từ trị liệu. Ngay cả những bài tập luyện về sự chú tâm đơn giản như thư giãn và kiểm soát hơi thở cũng được tiến hành với cùng một thái độ có tính thực nghiệm như vậy: ‘‘Hãy từ từ hít vào, nhẹ nhàng thở ra, rồi xem thử điều gì xảy ra với bạn’’.

Liệu pháp Gestalt khuyến khích nhà trị liệu cần phải sáng tạo (Zinker, 1977). Những quyển ‘‘cẩm nang’’ cho nhà trị liệu là điều không phù hợp với tinh thần của liệu pháp Gestalt. Kiến thức, kinh nghiệm và định hướng huấn luyện của nhà trị liệu sẽ phần nào xác định việc nội dung được khám phá là điều gì và việc ấy được thực hiện theo trình tự như thế nào trong khi trị liệu. Còn tiến trình khám phá diễn ra như thế nào thì phần nhiều mang tính nghệ thuật. Tính xác thực, sáng tạo và trực giác là những thứ thiết yếu cho sự tiếp xúc và nhận biết phong phú giúp phân biệt liệu pháp Gestalt với các phương pháp tiếp cận trị liệu rập khuôn và cứng nhắc.

Trong liệu pháp kinh nghiệm, nhà trị liệu bắt đầu bằng những gì đang được trải nghiệm. Nhà trị liệu Gestalt thực hiện một quan sát đầy đủ trên hàng loạt các dữ liệu và cho phép tạo lập nên một Ảnh rõ rệt nhất. Từ cuộc tiếp xúc ban đầu, nhà trị liệu sẽ tự động quan sát và lưu ý cách thức mà thân chủ đã ảnh hưởng đến mình một cách chủ quan. Dĩ nhiên, nhà trị liệu cần phải phân biệt rõ điều gì là những ‘‘vụ việc chưa hoàn tất’’ của chính mình và điều đó đang được ‘‘kích hoạt’’ bởi vấn đề của thân chủ (tức là hiện tượng ‘‘chuyển di ngược’’) và các hệ quả tập trung vào hiện tại.

Các thực nghiệm trong liệu pháp Gestalt, dù có vẻ như nhắm vào một hành vi cụ thể nào đó, nhưng chúng vẫn thực sự là những thực nghiệm: ‘‘Hãy làm thử điều ấy và học tập từ đó’’. Với ý nghĩa đó, thân chủ và nhà trị liệu cùng nhau thực nghiệm trong mối quan hệ được thiết lập giữa họ với nhau.

Câu hỏi cơ bản hay được nhà trị liệu đặt ra là ‘‘Bạn đang trải nghiệm điều gì ngay lúc này?’’ Việc này thường được mở rộng thành các thực nghiệm, qua đó thân chủ liên tục báo cáo lại những gì mà họ trải nghiệm được (một liên thể của sự nhận biết: awareness continuum). Điều này đẫn đến nhiều hệ quả. Khi thân chủ nêu ra những cảm xúc của họ về một ai đó hiện không có mặt trong phòng trị liệu, việc ấy sẽ dẫn đến việc thực hiện một thực nghiệm trong đó thân chủ tưởng tượng người đó đang ngồi trong phòng trên một chiếc ghế trống. Rồi sau đó thân chủ sẽ báo cáo lại một lần nữa về những gì mà họ đã trải nghiệm. Điều nối tiếp theo sau đó có thể là cảm xúc nhiều hơn, rõ rệt hơn, hoặc một ý muốn trốn chạy, hổ thẹn, hoặc có thể là sự giảm nhẹ các khó chịu vv... Sự biểu lộ cảm xúc một cách trực tiếp thường mang lại một tiêu điểm tập trung sắc nét hơn, sự trải nghiệm sống động hơn, rõ rệt hơn và thực sự là một giải pháp hơn là việc chỉ ‘‘nói về’’ đối tượng như một ngôi thứ ba. Chính vì lý do ấy mà thực nghiệm ‘‘chiếc ghế trống’’ thường được áp dụng.

Các thực nghiệm hiện tượng học và sự tiếp xúc qua đối thoại có thể được áp dụng cho trị liệu cá nhân, gia đình, nhóm, cặp và cả cho các thiết chế (institutions). Về mức độ, các thực nghiệm có thể thực hiện trên cả bình diện nội tâm lẫn bình diện liên cá nhân, và từ mức độ ‘‘nhập môn’’ cho đến cả mức độ rất sâu. Các thực nghiệm đôi khi có tính chất đi sâu vào lĩnh vực tinh thần, mặc dù nhà trị liệu Gestalt vẫn thường sử dụng những ngôn từ rất ‘‘đời thường’’.

Các thực nghiệm có thể có những mục đích sau:

1.

    

Làm rõ hơn những gì mà thân chủ đã nhận biết và tạo nên những liên kết mới giữa những nội dung đã được nhận biết

2.

    

Đưa vào tiêu điểm nhận biết những nội dung mà ban đầu chỉ ở vùng ‘‘ngoại vi’’ của sự nhận biết

3.

    

Đưa những nội dung quan trọng vào trong tầm nhận biết mà thân chủ lúc ban đầu đã cố gắng một cách có hệ thống giữ chúng ở bên ngoài sự nhận biết

4.

    

Đưa cả những cố gắng ngăn trở sự nhận biết có hệ thống này vào trong tầm nhận biết, đặc biệt là những cơ chế ngăn trở các suy nghĩ và cảm xúc khiến thân chủ ban đầu không nhận biết được chúng

5.

    

Thực nghiệm những kiểu thức mới trong suy nghĩ, ứng xử và nhận biết, bao gồm cả những phương thức có tính tự lực như thiền định, thư giãn và luyện thở. Các thực nghiệm thường được áp dụng hiệu quả là những cách thức mới trong việc khám phá hoặc tái định dạng những trải nghiệm cũ. Việc trị liệu thường làm cho những thực nghiệm có tính hành động dễ thực hiện hơn, ví dụ: mở rộng các quan hệ xã hội sau khi đã khơi thông nỗi sợ hãi những tình cảm mật thiết. Nhiều thân chủ từng bị lạm dụng đã tìm thấy sự bình phục sau khi thể hiện hung tính của họ chống lại kẻ đã làm hại họ thông qua hoạt động ‘‘sắm vai’’ (role-playing) hoặc các thực nghiệm giải tỏa cảm xúc (cathartic experiments).

Trọng tâm của các thực nghiệm là nhằm để thân chủ khám phá (discovery) chứ không phải là để giải tỏa cảm xúc (catharsis). Thông thường, những thứ cần được khám phá đó là những nỗi sợ hãi sự hiểu biết, sợ hãi sự bộc lộ, sợ hãi việc giải bày cảm xúc. Bất cứ điều được khám phá là gì, chúng đều trở thành Nền để dẫn đến việc tạo lập những Ảnh mới.

Quan điểm nhà trị liệu

Liệu pháp Gestalt giúp thân chủ tăng trưởng thông qua sự nhận biết bản thân. Liệu pháp Gestalt được được tiến hành thông qua mối quan hệ đối thoại hai ngôi ‘‘Tôi-và-Bạn’’ (I-thou attitude). Trong tâm lý trị liệu, yếu tố quan trọng nhất giúp cho sự bình phục đó chính là bản chất và chất lượng của mối quan hệ giữa thân chủ và nhà trị liệu. Trong liệu pháp Gestalt, mối quan hệ này là ngang bằng, nghĩa là không ai trong hai phía cố gắng kiểm soát người kia, hoặc cố gắng định trước kết quả, và nhà trị liệu cũng không phải là ‘‘người nắm giữ sự thật’’. Kết quả của việc trị liệu luôn là do sự làm việc chung của cả hai phía.

Đối thoại là sự gặp gỡ để trao đổi với một người, như thể người đó là đích điểm của đối thoại (tôi-và-bạn), chứ không phải người ấy là ‘‘phương tiện’’ để đạt đến một cái đích khác (tôi-và-nó). Liên hệ với một người để đạt đến một mục đích chính là một hoạt động theo kiểu “tôi-và-nó” (nghĩa là nói về một điều gì khác ở ngôi thứ ba). Người ta không thể vừa ở trong cuộc đối thoại vừa nhắm đến một “kết quả”. Mục đích của đối thoại chính là để gặp một người khác, chứ không phải để “tự hiện thực hóa” hoặc để “chữa lành”.

Có ba tính chất đặc trưng cho một mối quan hệ thông qua đối thoại:

1.

    

Sự nhập cuộc (Inclusion):

Là tiến trình nhà trị liệu ngoại hiện bản thân một cách đầy đủ vào trong những trải nghiệm và tính chủ quan của thân chủ, đồng thời vẫn giữ được sự nhận biết về bản thân mình như một con người tách biệt. Khái niệm này hơi giống với ‘‘sự thấu cảm’’. Bằng cách nói ra các trải nghiệm của thân chủ, ‘‘hình dung ra sự thật’’, nhà trị liệu xác nhận sự tồn tại và các trải nghiệm của thân chủ.

2.

    

Hiện diện như chính con người thật của mình (Presence):

Nhà trị liệu không có gắng ‘‘ra vẻ’’ hoặc trở thành một con người khác với chính con người thật của mình. Dĩ nhiên, để làm được việc này, nhà trị liệu cần phải có sự hình dung khá rõ ràng về hình ảnh bản thân của mình và có một phong cách hài hòa trong khi thực hành tâm lý trị liệu. Nhà trị liệu không cố thể hiện mình như một con người lý tưởng, hoặc như một ‘‘bức màn trắng tinh’’ để thân chủ thực hiện sự phóng chiếu. Việc nhà trị liệu tự bộc lộ bản thân (self-disclosure) chỉ khi nào điều đó thực sự là cần thiết và phải cân nhắc để có lợi cho thân chủ. Những trường hợp nhà trị liệu mắc mứu vào cuộc trị liệu (excessive self-reference), hoặc trở nên quá tách biệt về mặt cảm xúc (excessive emotional isolation), lúc đó có chỉ định tiến hành trị liệu hoặc giám sát cho nhà trị liệu.

3.

    

Dấn thân vào cuộc đối thoại (Commitment to dialogue):

Cả thân chủ và nhà trị liệu đều sẵn lòng tham gia vào tiến trình đối thoại, tương tác, không kiểm soát hoặc định trước những gì nêu ra trong chủ đề đối thoại. Mỗi bên đều phải chấp nhận việc mối quan hệ tương tác với phía bên kia sẽ có thể có tác động lên trên hình ảnh tự thân (self-picture) và tính chủ quan của chính mình. Đối thoại cũng là một loại thực nghiệm hiện tượng học. Con người khi đối thoại thì đồng thời cũng đang tương tác, kết quả không hề được định trước; khi đó khả năng học tập và tăng trưởng sẽ được phát huy. Liệu pháp Gestalt có tính công khai về bản chất hiện tượng học của nó và các đối thoại cũng có tính thực nghiệm. Trong khi tiến hành liệu pháp Gestalt, chúng ta làm thăng tiến khả năng học tập và tăng trưởng bằng cách cho phép cả nhà trị liệu lẫn thân chủ trở nên sáng tạo trong khi tiến hành các hoạt động trị liệu. Triết lý của liệu pháp không được nói ra cho thân chủ nhưng thân chủ được mời gọi đi vào thực nghiệm với triết lý ấy.

YẾU TỐ BÌNH PHỤC

Con người tự duy trì bản thân mình và sự tăng trưởng bằng cách tiếp xúc với môi trường xung quanh. Khi có khả năng nhận biết đầy đủ, họ sẽ có thể học tập được từ những trải nghiệm có được nhờ sự tiếp xúc ấy. Khi con người không nhận ra được những trải nghiệm của chính mình, họ sẽ tự ngăn trở sự tăng trưởng của chính mình.

Học thuyết về sự thay đổi của liệu pháp Gestalt được gọi là Học thuyết nghịch lý về sự thay đổi (paradoxical theory of change):

T

hay đổi chỉ xảy ra khi một người thể hiện con người mà anh ta thực sự là chứ không phải khi anh ta cố gắng trở thành con người mà anh ta chưa là

.

Sự thay đổi không xảy ra khi có một sự cố gắng ép buộc của bản thân đương sự (hoặc bởi người khác) nhằm thay đổi bản thân mình; thay đổi chỉ xảy ra khi một con người dành thòi gian và công sức của mình để

trở thành con người mà mình đang là

– tức là đương sự phải đầu tư đầy đủ vào vị thế hiện tại của mình.

Nói cách khác, thay đổi có thể xảy ra khi thân chủ bỏ qua, ít nhất là ngay trong lúc này, những gì mà anh ta muốn trở thành và cố gắng sống đúng với con người thật của mình – giống như một người phải đứng vững tại một chỗ thì mới có được những bước vững chắc để đi tới phía trước.

Những cách thức như thuyết phục, diễn giải hoặc điều chỉnh hành vi không phải là những cách thức chủ yếu để giúp một người thay đổi. Bình phục có nghĩa là “tạo nên cái tổng thể”, mang những khía cạnh đang xung đột với nhau vào trong một tổng thể hài hòa và có ý nghĩa. Do vậy, cần mang những khía cạnh đang xung đột vào trong tầng nhận biết, chấp nhận những điều còn đang mâu thuẫn trong nội tâm, thống hợp chúng lại trong một cái ngã toàn vẹn có tính nhập cuộc.

Các yếu tố khác giúp cho sự bình phục:

-         

Mối quan hệ và sự thay đổi có tính trị liệu:

Trong liệu pháp Gestalt, con người không thể được xem xét một cách đầy đủ nếu tách rời người đó ra khỏi bối cảnh các tương tác liên cá nhân. Sự phát triển của con người, cả bình thường lẫn bệnh lý, đều là những tiến trình có tính xã hội. Sự lành mạnh hoặc bệnh lý đều được duy trì bởi môi trường tương tác. Tâm lý trị liệu cũng là một tiến trình tương tác. Thay đổi thực sự diễn ra khi nhà trị liệu có thái độ đối thoại, trình bày rõ sự hiểu biết của mình đối với những trải nghiệm chủ quan của thân chủ, có khả năng tự bộc lộ, nhiệt tình và chấp nhận thân chủ.

-         

Xây dựng khả năng tự lực (self-support):

Tiến trình thay đổi đi từ những bước thay đổi nhỏ cho đến những bước thay đổi lớn hơn. Buổi đầu trị liệu có thể hướng đến những khả năng nhận biết nho nhỏ, lĩnh hội kỹ năng, xây dựng các tiếp xúc... Nhưng đây vẫn chưa phải là những thay đổi trong cái toàn thể. Những thành quả cụ thể trong bước đầu có thể trở thành nền tảng cho những thay đổi sâu xa hơn có thể diễn ra khi trị liệu tiến triển lâu hơn. Cũng khá thường xảy ra việc thân chủ tạm ngưng trị liệu, như thể để ‘‘thụ hưởng những quả ngọt’’ từ việc trị liệu, ‘‘tiêu hóa’’ chúng, rồi sau đó trở lại để bước sang những mức độ trị liệu sâu hơn.

-         

Khả năng nội thị (insight):

Từng hành vi riêng biệt (những khía cạnh riêng lẻ của nhân cách) có thể được thay đổi bằng nhiều cách như: tự thay đổi theo thời gian, nhờ khơi thông cảm xúc, bằng cách cháp nhận một mối quan hệ, hoặc nhờ thay đổi tác nhân củng cố, nhờ dùng thuốc, vv... Tuy nhiên, để thay đổi cấu trúc tự tổ chức của một con người, để có được những thay đổi và tăng trưởng liên tục sau khi trị liệu, và cũng để phát huy tối đa khả năng thích nghi đầy sáng tạo với cuộc sống, thân chủ cần phải có được khả năng nội thị - một điều thường không thể đạt được nếu không có sự làm việc một cách hệ thống và có hướng dẫn bên trong mối quan hệ ngày càng phát triển giữa thân chủ và nhà trị liệu.

Nội thị là một trải nghiệm được cảm nhận từ nhiều sự kiện căn bản trong đời sống của thân chủ và được định dạng thành một gestalt có ý nghĩa

.

Liệu pháp Gestalt nhấn mạnh đến việc bảo tồn hoặc thiết lập một tiến trình nhận biết từ đó dẫn đến khả năng nội thị, bao gồm cả sự nhận biết về những vấn đề có liên hệ từ trong quá khứ. Phương pháp trị liệu chủ yếu tập trung vào các tương tác hiện tại, nhưng sự nhận biết của thân chủ có thể bao gồm cả những cách thức xem xét trong hiện tại đối với những việc đã xảy ra trong quá khứ. Khi những sự việc có ảnh hưởng trở nên mạnh mẽ và vượt khỏi tầm nhận biết, hoặc bị mắc mứu dưới dạng thức cứng nhắc khó thay đổi theo nhu cầu của hoàn cảnh sống, thì việc khám phá các ‘‘yếu tố thuộc về lịch sử’’ để đạt đến khả năng nội thị sẽ trở nên một việc làm tuyệt đối cần thiết nhằm phá vỡ những gestalt bị ‘‘đóng cứng’’ hoặc không đáp ứng với những nhu cầu trong hiện tại. Nếu chỉ làm việc trên những sự kiện quan sát được trong hiện tại mà không xem xét đến những yếu tố nền tảng như thế, hoặc chỉ làm việc đơn thuần bằng sự ‘‘nội thị có tính lịch sử’’ (historical insight) đều sẽ làm giới hạn hiệu quả của việc trị liệu.

Liệu pháp Gestalt nói chung đã được áp dụng cho nhiều loại thân chủ khác nhau, vói nguyên tắc chung là phải điều chỉnh cho phù hợp với từng tình huống lâm sàng cụ thể (Yontef, 1993). Có thể áp dụng cho nhiều loại chẩn đoán khác nhau và dưới nhiều hình thức khác nhau: cá nhân, cặp, nhóm, gia đình, và đồng thời cũng có thể áp dụng cho nhiều lứa tuổi khác nhau, kể cả trẻ em. Tuy nhiên, nhà trị liệu cần phải xác định rõ khuôn khổ của việc trị liệu, các ranh giới nghề nghiệp và phải là người nhạy cảm với các trải nghiệm của thân chủ - Nói chung đó là một người cần được đào tạo tốt và có kinh nghiệm lâm sàng.

PHÂN TÍCH TƯƠNG GIAO

BS. NGUYỄN MINH TIẾN

Phân tích Tương giao (T.A. - Transactional Analysis) vẫn thường được xếp lọai thuộc vào nhóm các trường phái phân tâm kiểu mới (neo-analytic), ngay cả khi Eric Berne, người đã bắt đầu xây dựng học thuyết T.A. vào năm 1954, đã phủ nhận sự liên hệ giữa T.A. với học thuyết Freud chính thống. Mặc dù T.A. có sự khác biệt về nhiều mặt với quan điểm phân tâm cổ điển, nhưng cũng có chút vấn đề là một số khái niệm trong T.A. đã xuất phát từ tư tưởng của Freud. Ví dụ Harry Stack Sullivan, một nhà phân tâm kiểu mới, đã có những ý tưởng cơ bản về các tương tác liên cá nhân, và những ý tưởng này đã được chấp nhận rộng rãi trong trường phái T.A.

T.A., trong phần lớn trường hợp, là một phương thức làm việc với những cá nhân bên trong bối cảnh làm việc theo nhóm. Nhà trị liệu vì thế nên có một số kiến thức về phương pháp làm việc theo nhóm (group work) trước khi cố gắng áp dụng các phương pháp của T.A. vào trị liệu tâm lý. Những nguyên lý cơ bản trong học thuyết về nhân cách của T.A. có thể giúp ta hiểu được những yếu tố động lực học (dynamics) của các thân chủ, và các kiến thức đó cũng có thể hữu ích trong thực hành tâm lý trị liệu cá nhân.

T.A. là phương pháp trị liệu thoát thai từ quá trình thực hành của Eric Berne. Berne tin rằng mỗi cá nhân là một phức hợp của nhiều thực thể riêng biệt, mà mỗi thực thể ấy lại có những khuôn mẫu riêng về hành vi, lời nói và vận động khác nhau. Mỗi một trong số những thực thể ấy sẽ phụ trách kiểm soát con người vào những thời điểm khác nhau. Berne gọi những thực thể này là những “trạng thái cái Tôi” (ego states), và đây chính là khái niệm cốt lõi trong học thuyết T.A.

HỌC THUYẾT VỀ NHÂN CÁCH

Cấu trúc của nhân cách

Berne (1966) khẳng định trong mỗi con người có sự hiện diện của ba trạng thái cái Tôi, mà ông gọi tên là “cái Tôi Cha Mẹ” (P – Parent), “cái Tôi Người Lớn” (A – Adult) và “cái Tôi Trẻ Em” (C – Child). Mỗi trạng thái cái Tôi P, A và C đều có những khuôn mẫu riêng về điệu bộ, thể thức và lời nói. Mỗi trạng thái cái Tôi có khả năng đảm trách việc chi phối tâm trí con người ở từng thời khỏang nhất định. Trạng thái cái Tôi nào đang ở vị thế kiểm sóat thì cá nhân con người đó sẽ thể hiện những hành vi và lời nói liên quan đến tính chất của trạng thái cái Tôi ấy. Trường phái T.A. khẳng định rằng mặc dù có một số liên hệ giữa các khái niệm của Freud về cái Ấy, cái Tôi và cái Siêu Tôi với khái niệm ba trạng thái cái Tôi C, A và P của T.A., nhưng thực ra chúng có ý nghĩa hòan tòan khác hẳn. Đúng là khi so sánh ta có thể thấy cái Ấy và cái Tôi C đều có liên quan đến sự hưởng lạc; cái Tôi (theo Freud) và cái Tôi A đều liên quan đến khả năng kiểm định thực tại; cái Siêu Tôi và cái Tôi P về mặt nào đó đều đóng vai trò kiểm sóat các thành phần khác của nhân cách. Tuy nhiên, cái trạng thái cái Tôi P, A và C trong học thuyết T.A. đều thể hiện dưới hình thức những hành vi thực tế có thể quan sát được, chứ không phải là sự ngụ ý chỉ những cấu trúc về tâm lý như ba “ngôi” trong nhân cách theo quan điểm của Freud.

Theo Berne, “Cái Siêu Tôi, cái Tôi và cái Ấy đều là những khái niệm dựa trên sự suy luận; trong khi các trạng thái cái Tôi thì là những thực tại có tính xã hội và có thể trải nghiệm được” (Berne, 1966). Tóm lại, khi một người đang trong trạng thái cái Tôi A, những người khác sẽ quan sát thấy người này thể hiện những tính chất của một người trưởng thành. Một khác biệt trong các khái niệm của Freud và Berne là ở chỗ: trọng tâm của tư duy theo kiểu phân tâm học là ở tầng vô thức, còn trường phái T.A. thì chú trọng đến những hành vi có ý thức và có thể quan sát được.

Cái Tôi Trẻ Em (Child ego state)

“Trạng thái cái Tôi Trẻ Em là một hệ thống các khuôn mẫu về cảm xúc, thái độ và hành vi hiện diện như những vết tích của thời thơ ấu của một con người” (Berne, 1976). Cái Tôi C của mỗi người lại bao gồm ba thành phần: đứa trẻ tự nhiên (Natural Child), đứa trẻ thích nghi (Adapted Child) và vị “giáo sư nhỏ” (Little Professor).

Đứa trẻ tự nhiên là thành phần chứa đựng những tính chất trẻ con, xung động, chưa được thuần dưỡng và dễ có khuynh hướng giải bày theo cảm xúc. Đứa trẻ thích nghi là thành phần được tạo lập khi đứa trẻ tương tác với bố mẹ và có tính kiểm soát tốt hơn. “Giáo sư nhỏ” chính là tiền thân của tính cách lập luận, lý lẽ theo kiểu người lớn.

Cái Tôi C là thành phần có tính bắt buộc trong sự phát triển bình thường, vì đây chính là nền tảng mà từ đó mỗi cá nhân sẽ xây dựng nên ý niệm về bản ngã của chính mình. “Điều quan trọng là mỗi người phải hiểu biết về cái Tôi trẻ em của chính mình, không chỉ vì nó sẽ đi cùng với bản thân mình suốt cả cuộc đời, mà còn vì đó là thành phần có giá trị nhất trong nhân cách của chúng ta” (Berne, 1972). Ở một người trưởng thành, cái Tôi C của người ấy sẽ đại diện cho mức độ phát triển của một đứa trẻ ở khoảng 7 tuổi. Đây là một thành phần quan trọng ở những người lớn trưởng thành, vì nhờ đó mà một con người có thể thực sự trải nghiệm được những niềm vui thú trong cuộc sống.

Tính tự nhiên, sự sáng tạo, vẻ quyến rũ và vui tươi là những đặc trưng của trạng thái cái Tôi Trẻ Em. Một người khi đang vận hành cái Tôi C sẽ có khuynh hướng sử dụng những ngôn từ kiểu trẻ em như “Ồ”, “Ái chà”… và những hành vi của người ấy sẽ có tính náo nhiệt, họat bát và khó dự đóan. Xã hội thường có những tác động hạn chế sự thể hiện cái Tôi C ở người lớn, do vậy những người trưởng thành thường phải tìm kiếm và tạo ra những tình huống để họ có thể bộc lộ ra được những hành vi như thế. Hoạt động thể thao và tiệc tùng, vui chơi là hai loại tình huống cho phép những hành vi thuộc loại này có thể được biểu lộ, và đó cũng là lý do chính yếu cho sự tồn tại của chúng.

Bởi vì cái Tôi C được hình thành sớm hơn cả, trước khi có sự hình thành đầy đủ vốn từ vựng, cho nên phần lớn những gì chứa đựng trong cái Tôi C là những cảm xúc. Phần nhiều trong số đó là những cảm xúc tươi vui, phấn khởi, xuất phát từ những trải nghiệm thuở thơ bé như khi tập chơi tung ném banh hoặc khi lần đầu tiên nhìn thấy một con bướm… Đây là những cảm xúc và trải nghiệm của “đứa trẻ tự nhiên”.

Mặt khác, đứa trẻ mà ban đầu đã phải sống lệ thuộc và bất lực, cũng có thể bị mắc kẹt giữa một bên là nhu cầu cá nhân muốn khám phá, muốn trải nghiệm những vui thú, muốn hành động, muốn hiểu biết và một bên là những đòi hỏi và giới hạn của môi trường bên ngòai, chủ yếu là của bố mẹ. Đó chính là những thời điểm của sự hụt hẫng, khi mà một đứa trẻ phải từ bỏ một số hành vi mang lại niềm vui cho nó để làm điều khác mà bố mẹ hài lòng. Tiến trình dưỡng dục gây nhiều hụt hẫng đã tạo nên một sản phẩm phụ nổi trội ở trẻ, đó chính là những cảm xúc tiêu cực. Và những con người nhỏ bé kia đã sớm có kết luận về bản thân mình: “I’m not OK” (Harris, 1969). Đây chính là quá trình hình thành nên “đứa trẻ thích nghi”.

Thành phần thứ ba của cái Tôi C tức là vị “Giáo sư nhỏ” là kết quả từ những cố gắng của đứa trẻ khi tìm cách tự mình lý giải các sự việc xảy ra trong đời sống. Và nó trở thành một bộ phận của cái Tôi C với những tính chất có giá trị, trực giác và sáng tạo.

Cái Tôi Cha Mẹ (Parent ego state)

Cái Tôi P chủ yếu được hình thành vào khỏang thời gian đứa trẻ vào học lớp Một, tuy nhiên, không giống như cái Tôi C, cái Tôi P vẫn tiếp tục được điều chỉnh để thích ứng trong suốt cả đời sống khi con người tương tác với những người có quyền uy hơn mình. Tiến trình này là cực kỳ quan trọng vì những thông tin chứa đựng trong cái Tôi P phải được điều chỉnh để phù hợp với hoàn cảnh sống hiện tại của cá nhân mỗi người. Tiến trình cập nhật này chỉ có thể xảy ra nếu cái Tôi P vận hành linh hoạt và có tính xây dựng, đồng thời cái Tôi A của người đó cũng ở tình trạng vận hành đầy đủ.

Các hành vi của cái Tôi P thường có tính chất đặc trưng là quyết đoán và không cần lý lẽ. Hành vi và suy nghĩ đều dựa trên cơ sở là những mệnh lệnh được đặt ra cho cá nhân mỗi người hồi còn thơ bé, mà những mệnh lệnh ấy đã dần dần được hợp nhất vào trong cái Tôi P của người đó. Hầu hết những mệnh lệnh và đòi hỏi ấy đều chứa đựng những từ như “không bao giờ”, “luôn luôn” hoặc “đừng quên rằng” (Harris, 1969). Một người khi đang vận hành ở trạng thái cái Tôi P sẽ không đánh giá dựa trên những thông tin từ tình huống hiện tại, mà lại để cho những mệnh lệnh trong quá khứ hướng dẫn hành vi hiện tại. Khi vận hành cái Tôi P, người ấy sẽ cảm thấy, sẽ nói và hành động theo cách thức mà bản thân mình từ hồi bé đã nhận thấy bố mẹ hành xử.

Cái Tôi P là sản phẩm của những tư liệu được đứa trẻ ghi nhận lại từ bố mẹ thực tế của mình. Đây không đơn thuần là một sự chuyển giao theo kiểu tuyến tính, bởi vì, thông thường có đến hai người là bố và mẹ, và mỗi người lại có ba trạng thái cái Tôi P, A và C của chính họ mà từ đó xuất phát ra các cách thức ứng xử của họ. Vì thế một đứa trẻ sẽ ghi nhận các tư liệu từ cả thảy 6 trạng thái cái Tôi của cả bố lẫn mẹ. Những luật lệ và mệnh lệnh chẳng hạn như “Đừng bao giờ nói dối” hoặc “Đừng tin vào những hạng người đó” đã được ghi nhận từ những trạng thái cái Tôi P của bố mẹ; còn những hành vi như trẻ con lại có thể được ghi nhận khi bố mẹ đang vận hành cái Tôi C của họ. Bởi vì thường có rất nhiều những tư liệu trong số này là không phù hợp, cho nên cái Tôi P dễ bị vận hành sai chức năng trong đời sống sau này khi cá nhân người ấy đến tuổi trưởng thành.

Mặc dù cái Tôi P có vẻ như là một thành phần “gây nguy hại”, do bởi nó có những tính chất không phù hợp và sự vận hành của nó thường có xu hướng thiên về quá khứ, nhưng thực ra sự tồn tại của cái Tôi P lại rất cần thiết. Cái Tôi P có chức năng như một thành phần chuyển giao các tập tục và giá trị văn hóa, và nó có tác dụng “bảo tồn năng lượng và hạn chế sự lo âu bằng cách có thể thực hiện ngay những quyết định một cách tự động và tương đối khó lay chuyển” (Berne, 1976).

Cái Tôi Người Lớn (Adult ego state)

Trong quá trình khám phá thế giới, đứa trẻ cũng dần dần tích lũy những tư liệu từ những trải nghiệm sống. Việc đứa trẻ có thể lượng giá những trải nghiệm này đánh dấu sự xuất hiện của một trạng thái cái Tôi Người Lớn trong tương lai. Trong giai đọan đầu, cái Tôi A ở đứa trẻ vẫn còn rất mong manh và rất dễ bị bỏ qua bởi cả những mệnh lệnh của bố mẹ lẫn những cảm xúc của đứa trẻ. Sự biểu lộ cái Tôi A được thấy khi trẻ được yêu cầu không làm một việc gì đó vì nó có thể gây tổn thương cho trẻ, nhưng trẻ vẫn cứ làm để kiểm định lại lời khuyên này. Để làm được việc đó, trẻ phải sử dụng đến những kỹ năng đánh giá, và sự đánh giá là một loại hành vi của cái Tôi Người Lớn.

“Trạng thái cái Tôi Người Lớn được đặc trưng bởi các khuôn mẫu cảm xúc, thái độ và hành vi có tính tự động được điều chỉnh để thích ứng với thực tế hiện tại” (Berne, 1976). Nó tác động như một công cụ thu nhận và lượng giá các thông tin. Nó không liên hệ với cảm xúc mà là với thực tế; nó đặt ra các câu hỏi “Cái gì?”, “Ở đâu?” và “Như thế nào?”. Trong cái Tôi A, phần lớn vắng bóng cảm xúc, mặc dù cái Tôi A có thể đánh giá được các cảm xúc. Như vậy, cái Tôi A tốt nhất có thể được xem như một cơ chế điều hòa, có thể đánh giá các nguồn thông tin đến từ môi trường bên ngoài cũng như các thông tin đến từ các trạng thái cái Tôi khác, xử lý các dữ liệu này, đánh giá những kết quả có thể xảy đến và quyết định những việc phải làm.

Ở một người vận hành đúng chức năng, trạng thái cái Tôi A thì luôn luôn thay đổi, khác với P và C thường tĩnh tại. Cái Tôi A có khả năng đánh giá các dữ liệu đến từ P và C, có thể hỗ trợ hoặc thay đổi những dữ liệu ấy. Cái Tôi không cố gắng “cầm quyền” trong cấu trúc nhân cách, nhưng nó vận hành để giữ cho những trạng thái cái Tôi P và C vẫn hiện diện, có tính thích đáng và giữ chúng trong tình trạng thăng bằng.

ĐỘNG CƠ (MOTIVATION)

Theo quan điểm T.A., mỗi cá nhân có hai loại nhu cầu chính yếu: nhu cầu sinh lý và nhu cầu tâm lý. Nhu cầu sinh lý bao gồm thực phẩm, nước, không khí… là những nhu cầu cần thiết cho sự tồn tại về thể chất. Các nhu cầu tâm lý theo cách sử dụng thuật ngữ của trường phái T.A. bao gồm:

-         

Stimulus Hunger & Strokes

-         

Structure Hunger

-         

Position Hunger

Các thuật ngữ này được sử dụng với tính đặc thù riêng cho trường phái T.A., không thể giữ nguyên nghĩa nếu dịch sang đúng những từ tương đương trong tiếng Việt. Ở đây tạm dịch là Nhu cầu tìm kiếm những tương tác kích thích, Nhu cầu cấu trúc thời gian sống và Nhu cầu về vị thế sống.

Nhu cầu tìm kiếm những tương tác kích thích

Berne tin rằng tất cả mọi người đều có nhu cầu cơ bản nhận được những kích thích từ những người xung quanh, hay nói cách khác là cần được người khác thừa nhận. Những kích thích (stimulation) hoặc thừa nhận (recognition) ấy có thể được biểu hiện dưới hình thức những sự lưu tâm về thể chất hoặc về tâm lý, và Berne gọi những hình thức tương tác như vậy là

stroke. “Stroke” là một từ trong tiếng Anh có nhiều nghĩa; theo nghĩa riêng được Berne nêu ra thì đó là:

Một hình thức thừa nhận được thực hiện bởi một người này đối với một người kia, thông qua sự lưu tâm đến nhau về mặt thể chất hoặc tâm lý

(trong bài này tạm dịch là “tương tác kích thích”). “Những công trình của René Spitz và H.F. Harlow cho thấy rằng, nếu không nhận được đầy đủ những tương tác như vậy, các lòai sinh vật, cả người lẫn khỉ, đều sẽ có biểu hiện chậm tăng trưởng về mọi lĩnh vực: thể chất, tình cảm và tâm thần” (Kambly, 1971). Lúc ban đầu, nhu cầu này được thỏa mãn qua các tương tác, kích thích về cơ thể (physical stroking). Khi con người trưởng thành, các tương tác kích thích về cơ thể sẽ được thay thế dần bằng các tương tác kích thích có tính biểu tượng (symbolic strokes), dưới hình thức lời nói, cử điệu và các giao tiếp phi ngôn ngữ khác.

Các tương tác kích thích có thể tích cực hoặc tiêu cực, có thể có điều kiện hoặc không có điều kiện. Các tương tác kích thích có điều kiện, dù tích cực hay tiêu cực, đều là để đáp ứng với các hành động (for doing). Ví dụ, bố mẹ khen thưởng con khi con làm việc tốt (tích cực) hoặc đánh con khi nó không vâng lời (tiêu cực). Cả hai trường hợp đều tùy thuộc vào việc đương sự đã

làm

một việc gì đó. Trong khi đó, các tương tác kích thích không điều kiện, thì lại có liên quan đến các trạng thái, tính chất (for being). Ví dụ, “Tôi yêu bạn vì bạn là bạn” (tích cực) hoặc “Tôi không thích bạn vì bạn là bạn” (tiêu cực). Thậm chí những tương tác kích thích tiêu cực có thể gây đau khổ cho đương sự, nhưng nếu trong môi trường sống hiện chỉ có duy nhất kiểu thừa nhận này thì nguời ta vẫn tìm kiếm chúng còn hơn là chẳng nhận được một tương tác kích thích nào cả.

Những tương tác kích thích cũng có thể pha trộn nhiều hình thức. Ví dụ trong câu nói sau “Này bạn, mọi thứ có vẻ tốt đấy. Tôi chỉ có điều là không thể tin nổi bạn đã làm việc này” cho thấy một lọai tương tác kích thích có phần công khai mang tính tích cực, nhưng vế thứ hai của câu thì lại ngầm chứa đựng một tương tác kích thích tiêu cực. Vì thế đây là lọai tương tác kích thích “hỗn hợp” hay còn gọi là tương tác kích thích “vặn vẹo”. Ý định thật sự của lọai tương tác kích thích này thường là tiêu cực.

Mỗi cá nhân đều học được cách thức tìm kiếm các lọai tương tác kích thích mà bản thân mình đã từng kỳ vọng khi còn bé. Một đứa trẻ chỉ nhận được những tương tác kích thích tiêu cực và có điều kiện, về sau khi lớn lên vẫn sẽ tìm kiếm các lọai tương tác kích thích này với lòng tin rằng chúng là những tương tác kích thích duy nhất sẵn có trên đời. Một người có những động cơ sống theo kiểu như vậy thường sẽ phát triển nên những hành vi mà người khác gọi là hành vi không thích nghi. Một đứa trẻ nhận được những tương tác kích thích tích cực và không điều kiện sẽ có cơ hội tốt hơn rất nhiều để trở thành một người trưởng thành với chức năng sống đầy đủ. Dù trong bất kỳ tình huống nào, sự tìm kiếm các tương tác kích thích (nghĩa là tìm kiếm những sự lưu tâm và thừa nhận từ người khác) vẫn là một động lực thúc đẩy quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người.

Nhu cầu cấu trúc thời gian sống

“Nhu cầu cấu trúc thời gian sống tạo ra tình thế lưỡng nan của một con người trong suốt cả cuộc đời – những gì phải làm trong 24 giờ mỗi này, 168 giờ mỗi tuần” (Holland, 1973). Nhu cầu cấu trúc thời gian sống chính là nhu cầu của một con người cần sử dụng thời gian sống để có thể nhận được tối đa các tương tác kích thích cần thiết. “Con người gần như sẵn lòng bằng mọi giá để thời gian sống của mình có thể được cấu trúc theo đúng nhu cầu, bởi vì ít có ai có thể tự động cấu trúc thời gian sống của mình trong một thời gian dài” (Berne, 1966). Cách thức con người cấu trúc thời gian sống của mình tùy thuộc vào mức độ thoải mái của những cảm xúc mà họ nhận được. Một người e ngại các mối quan hệ thân tình sẽ có mức đầu tư tối thiểu vào các quan hệ với người khác và sẽ chấp nhận việc ít có các tương tác kích thích (Kambly, 1971). Trong khi đó, một người không ngại có những mối quan hệ thân tình nói chung sẽ có thể nhận được một số lượng lớn những tương tác kích thích tích cực. Dù trong trường hợp nào, con người vẫn tìm cách cấu trúc thời gian của mình để có thể giảm thiểu mức độ nguy cơ và sao cho họ cảm thấy thoải mái nhất. Có tất cả 6 cách thức mà con người cấu trúc thời gian sống của họ. Chúng được liệt kê dưới đây theo trình tự từ mức độ “ít nguy cơ nhất” cho đến mức độ “nguy cơ cao nhất”:

1.

    

Rút lui, tự cô lập (withdrawal)

Những người không thể chấp nhận bất kỳ nguy cơ nào có thể sẽ rút lui về cuộc sống cô lập với chính bản thân mình. Họ có thể sống tách biệt như một ẩn sĩ, hoặc đơn giản chỉ rút lui về mặt tâm lý. Những người này chủ yếu nhận những tương tác kích thích thông qua huyễn tưởng (fantasy) hoặc “tự thọai” (self-talk). Sự tưởng thưởng (pay-off) là ở mức thấp nhất.

2.

    

Nghi thức (rituals)

Nghi thức là những cách thức ứng xử được cấu trúc chặt chẽ nhằm nhận được những tương tác kích thích. Nghi thức có thể biểu hiện dưới dạng những phép ứng xử lịch sự giữa người này và người khác, cho phép những người này nhận được những tương tác kích thích mà không cần có sự đầu tư thực sự nào cả. Ví dụ khi hai người gặp nhau chào hỏi xã giao, họ đều có thể nhận được những kích thích, nhưng chẳng ai trong số họ bị “mất năng lượng” để đầu tư vào việc này. Giá trị của các tương tác kích thích là không cao và các tương giao (transaction) ở mức độ này sẽ không xảy ra lâu.

3.

    

Tiêu khiển, tán gẫu (pastimes)

Cấu trúc thời gian sống theo kiểu tiêu khiển, tán gẫu có những nội dung rộng hơn những nghi thức. Chúng bao gồm những cuộc nói chuyện, tán gẫu không có mục đích. Các chủ đề như con cái, thể thao, xe cộ, làm vườn… là những chủ đề dành để tán gẫu. Việc sử dụng các chủ đề bên ngòai cho phép các cá nhân tương tác với nhau nhưng không nhận nhiều nguy cơ cho bản thân.

4.

    

Các họat động (activities)

Một họat động thường là một công việc hoặc một hành vi có mục đích. Khi thực hiện một họat động, con người dựng lên một tình huống sao cho việc hòan tất họat động ấy sẽ mang lại cho bản thân mình những tương tác kích thích mà họ cần đến. Thậm chí, có những người trở nên “nghiện làm việc” để nhận được những tương tác kích thích mà mình mong muốn.

5.

    

Trò chơi (games)

Cấu trúc thời gian sống theo kiểu “Trò chơi” là cách được viết ra nhiều nhất trong các tác phẩm của trường phái T.A.; đặc biệt là trong quyển

Games People Play

của Eric Berne – nói đến phần lớn các loại hoạt động xã hội của con người. Theo cách dùng thuật ngữ của T.A., “trò chơi” bao gồm một loạt những tương giao có trình tự giữa hai con người, mang lại những phần tưởng thưởng bên trong những tương tác kích thích được trao đổi qua lại giữa hai đối tác. “Phần thưởng của một trò chơi chính là một cảm xúc quen thuộc kéo dài, hoặc dưới dạng trầm uất, giận dữ, hụt hẫng, ganh ghét…, hoặc dưới dạng chinh phục, chiến thắng, chính nghĩa… mà con người mong muốn nhận được” (Kambly, 1971). Cái cảm xúc mà con người tìm kiếm được gọi là “cây vợt” của họ, hay là phong cách sống cơ bản của họ. Phần thưởng có được từ trò chơi thường được gọi theo cách ẩn dụ là “phiếu mua hàng” bởi vì những người chơi game cũng thâu thập chúng giống như người ta hay thâu thập những phiếu mua hàng. Những ai quen sử dụng “cây-vợt-ganh-ghét” sẽ tham gia vào những trò chơi nào mang lại phần thưởng là tạo cơ hội cho họ ganh ghét. Những trò chơi có khi chỉ có hai người tham dự, và cả hai đều có thể nhận được những phần thưởng mà họ mong muốn. Theo quan điểm T.A., trong trò chơi không có “người thua”.

6.

    

Quan hệ mật thiết (intimacy)

Cấu trúc thời gian sống theo kiểu quan hệ mật thiết là cách có khả năng mang lại sự tưởng thưởng cao nhất, nhưng đồng thời cũng hàm chứa những nguy cơ cao nhất. Nói theo Berne (1966) “Quan hệ mật thiết là một sự trao đổi những biểu lộ về mặt cảm xúc đã được lập trình bên trong mà không có tính chất của trò chơi” (Intimacy is a game-free exchange of internally-programmed affective expressions). Chỉ những ai có khả năng cởi mở và chân thành với nhau mới có thể bước vào những mối quan hệ mật thiết.

Mặc dù hầu hết mọi người, ở một chừng mực nào đó, đều sử dụng đến cả 6 lọai phương thức cấu trúc thời gian sống nêu trên, vấn đề rắc rối có thể xảy đến khi họ sử dụng quá mức một phương thức nào đó mà bỏ qua không thực hiện những cách thức khác.

Nhu cầu về vị thế sống

Động cơ thúc đẩy thứ ba về mặt tâm lý là nhu cầu của mỗi cá nhân trong việc lựa chọn và xác lập cho mình một vị thế sống (life position). Nhu cầu này có liên quan đến “cây vợt” của mỗi người (tức là phong cách sống cơ bản của người ấy), kịch bản sống (life script) và kịch bản đối lập (counter-script) của người ấy. Các tương tác kích thích (stroke) nhận được từ thuở ấu thời sẽ ảnh hưởng đến vị thế sống, kịch bản sống, kịch bản đối lập, phong cách sống cơ bản và các trò chơi mà người ấy chấp nhận ở tuổi trưởng thành.

Nhu cầu về vị thế sống là nhu cầu để ứng xử sao cho có thể liên tục tái xác nhận những lựa chọn này

. Để hiểu được nhu cầu về vị thế sống như một loại động cơ của con người, chúng ta phải xem xét đến sự tạo lập của vị thế sống, kịch bản sống và kịch bản đối lập.

Vị thế sống

Cách thức mà con người cảm nhận về chính mình và về người khác được phản ảnh trong vị thế sống mà họ chọn lựa. Berne cho rằng con người đã có những quyết định chọn lựa này từ rất sớm trong đời, dựa trên những nhận thức của người ấy về thế giới xung quanh. “Số phận một con người được quyết định bởi những gì diễn ra bên trong trí não khi người ấy đương đầu với những gì xảy ra ở môi trường bên ngoài” (Berne, 1972). Mỗi cá nhân sẽ lựa chọn cho mình một trong bốn loại vị thế sống sau đây:

1.

    

I’m OK – You’re OK

Đây là vị thế sống tối ưu và thường được gọi là vị thế sống ở mức phát triển cao (evolutionary position) (Kambly, 1971). Đây là vị thế sống cơ bản của lòng tin mà tất cả mọi người đều có được ngay từ buổi đầu của cuộc sống. Vì là vị thế sống tốt nhất cho một cuộc sống có ý nghĩa, đây chính là vị thế sống được mong muốn ở tất cả mọi người. Tuy vậy, đây chính là vị thế sống khó được duy trì ổn định nhất. Berne cho rằng, trừ khi vị thế này được chấp nhận ngay từ đầu đời, người ta sẽ rất khó để gìn giữ nó lâu hơn trong đời. Ông mô tả nó như là “vị thế của những hoàng tử, những anh hùng và những công nương” (Berne, 1972).

2.

    

I’m OK – You’re not OK

Đây là lọai vị thế “paranoid”, còn gọi là vị thế gây biến đổi (revolutionary position) (Kambly, 1971). Harris (1969) cho rằng vị thế này được phát sinh như một phản ứng quá mức đối với cảm nhận về bản thân đang ở vị thế “I’m not OK”. Rất khó cho những ai chấp nhận vị thế sống này mà có thể khách quan đối với bản thân mình và người khác. Harris (1969) cũng cho rằng những người ở vị thế sống này rất dễ trôi dạt vào những hành vi tội phạm và vây xung quanh mình bằng những người khác chỉ biết vâng dạ (yes-men) để nhận lấy những tương tác kích thích. Thậm chí những tương tác kích thích này cũng không đáng tin cậy, bởi vì những cá nhân này không thực sự tin rằng có ai đó là “OK”.

3.

    

I’m not OK – You’re OK

Kambly (1971) gọi đây là vị thế chuyển giao quyền lực (devolutionary position) và xem đây là vị thế được nhiều người lựa chọn nhất. Harris (1969) khẳng định rằng đây chính là vị thế sống thường được áp đặt lên trên trẻ em, và Berne (1972) đã mô tả nó như là sự tự hạ thấp của vị thế trầm cảm (depressive position). Bởi vì những người chấp nhận vị thế này thường xuyên thấy mình không có giá trị, họ phải thường xuyên đi tìm những tương tác kích thích. Điều này khiến họ phải sống chìu theo ý của mọi người. Nhu cầu thường xuyên phải làm vui lòng người khác thường dẫn đến một cuộc sống hữu ích, nhưng không hạnh phúc. Do bị áp lực thường xuyên, vị thế này thường đưa đến trầm cảm (James & Jongeward, 1971).

4.

    

I’m not OK – You’re not OK

Đây được xem là vị thế vô dụng hoặc vị thế “cuốn ngược” (obvolutionary position) (Kambly, 1971), và thường là vị thế sống được chấp nhận bởi những đứa trẻ bị bỏ rơi. Không nhận được những tương tác kích thích từ bố mẹ, những trẻ này đầu tiên cảm thấy chúng không “OK” và sau đó cũng chẳng thể tin được rằng có ai đó “OK” được cả, bởi vì chúng cũng không trao cho ai khác những tương tác kích thích. Những người ở vị thế này thường có cái nhìn vô vọng về cuộc đời, và chỉ sống trên cơ sở ngày qua ngày mà thôi. Họ dễ phát sinh những hành vi dạng phân liệt (schizoid behavior) (James & Jongeward, 1971).

Sự lựa chọn vị thế sống của mỗi người là sản phẩm của những mệnh lệnh và sự cho phép, chủ yếu là từ bố mẹ, ngay từ thuở nhỏ.

Các mệnh lệnh

Đó là những điều bố mẹ bắt con phải làm theo những cách thức đã được xác định rõ. Tác động lâu dài của những mệnh lệnh này tùy thuộc vào cả hình thức lẫn cách thức bắt buộc làm theo mệnh lệnh. Berne liệt kê ra 3 lọai mệnh lệnh:

1.

    

Mệnh lệnh cấp độ I

Còn gọi là mệnh lệnh trực tiếp (straight commands). Là những mệnh lệnh bắt buộc theo kiểu chấp nhận hoặc không chấp nhận. Đây là một phần trong những tương tác bình thường giữa bố mẹ và con cái và việc sử dụng những mệnh lệnh này không ngăn trở sự phát triển của vị thế sống và kịch bản sống nơi đứa trẻ.

2.

    

Mệnh lệnh cấp độ II

Là loại mệnh lệnh trong đó cha mẹ gửi đến đứa trẻ một thông điệp vừa có ý công khai vừa kèm theo ẩn ý. Những mệnh lệnh loại này thường được bắt buộc bởi sự hăm he, đe dọa, và do tính chất nhập nhằng của thông diệp, chúng có thể khiến cho trẻ nhầm lẫn, khó hiểu. Chúng có thể khiến trẻ dễ chấp nhận vị thế sống “I’m not OK”.

3.

    

Mệnh lệnh cấp độ III

Là những mệnh lệnh thường đi kèm theo sự trừng phạt nặng nề. Những mệnh lệnh này dễ khiến trẻ chấp nhận vị thế “I’m not OK”, nhưng còn gây tổn thương hơn cả loại mệnh lệnh cấp độ II vì chúng khiến trẻ cảm thấy mình như một kẻ thua thiệt thật sự.

Lọai mệnh lệnh cấp độ I không ngăn cản sự phát triển của một kịch bản sống tích cực; mệnh lệnh cấp độ II và III thì có tính ngăn trở sự phát triển này. Tất cả các mệnh lệnh đều có tính tiêu cực, và càng khắc khe thì chúng càng nhiều khả năng để đứa trẻ chấp nhận vị thế sống “I’m not OK”.

Sự cho phép (permission)

Khi bố mẹ tạo điều kiện cho trẻ tự do chọn quyết định của riêng mình thì họ đang thực hiện sự cho phép. Trẻ càng nhận được nhiều sự cho phép thì càng có nhiều khả năng trẻ chọn và chấp nhận vị thế sống và kịch bản sống tích cực. Sự cho phép cũng là một công cụ của nhà trị liệu.

Kịch bản sống (life script)

Với vị thế sống đã chọn, đứa trẻ bắt đầu áp dụng một kế hoạch sống, hoặc còn gọi là một kịch bản sống. Kịch bản này được thiết kế để thỏa mãn nhu cầu về vị thế sống. Kịch bản cho phép đứa trẻ liên tục khẳng định lại vị thế sống mà trẻ đã chọn, bất kể là vị thế đó đã chọn sai như thế nào. Kịch bản sống vạch ra một con đường mà qua đó mỗi cá nhân sẽ cấu trúc thời gian sống và các cách thức mà người đó có thể nhận được những tương tác kích thích cần thiết cho sự tồn tại. Bằng cách này, kịch bản sống đã can thiệp vào khả năng của trạng thái cái Tôi A (cái Tôi Người Lớn) của cá nhân đó trong việc đánh giá chính xác các dữ liệu từ cuộc sống thực tế hiện tại. Vì thế kịch bản sống là phương tiện để hợp lý hóa những hành vi phi lý và không thích đáng.

Kịch bản đối lập (counter-script)

Ngoài việc xây dựng một kịch bản sống, mỗi cá nhân còn có thể phát triển thêm cho mình một kịch bản đối lập lại như một cách thức để đôi lúc có thể quên đi một kịch bản sống không vui và chiếu cố đến một kịch bản khác tốt hơn, để rồi sau đó quay trở lại với kịch bản cũ vốn có. Steiner (1973) mô tả một kịch bản đối lập của một bệnh nhân nghiện rượu dưới hình thức là người ấy đã có lúc trở nên điềm đạm trong những khoảng thời gian ngắn; hoặc đối với một người có kế họach thực hiện việc tự sát nhưng vẫn dành ra một thời gian ngắn để hạnh phúc trong mối quan hệ với người yêu của mình. Trong tất cả các trường hợp đều có một mô hình có tính chu kỳ: đương sự dành phần lớn thời gian để thực hiện kịch bản sống chính, nhưng xen vào đó là những thời gian ngắn vận dụng kịch bản đối lập, chỉ để rồi quay trở lại với kịch bản cũ.

Tìm hiểu những động cơ chủ yếu của con người là một việc thiết yếu để có thể phân tích được các tương giao. Trong hầu hết trường hợp, việc hiểu biết này có được từ sự phân tích kịch bản sống của một con người. Kịch bản sống để lộ ra phương thức mà một con người cấu trúc thời gian sống của mình, lựa chọn vị thế sống và các phương thức giúp duy trì vị thế sống đó. Những phương tiện mà con người dùng để tìm kiếm sự thỏa mãn các nhu cầu cơ bản được gọi là các “tương giao” (transactions).

TƯƠNG GIAO

Tương giao, những cách thức mà con người thực hiện để thỏa mãn những nhu cầu sống còn của mình, chính là các hình thức giao tiếp giữa người với người. Chúng có thể xảy ra giữa bất kỳ một trạng thái cái Tôi nào đó – A, P hoặc C – của người này với một trạng thái cái Tôi nào đó của một người khác. Chính nhờ các tương giao giữa cha mẹ và đứa trẻ mà những nền tảng cơ bản của nhân cách đứa trẻ được hình thành. Các tương giao cũng là phương tiện mà thông qua đó con người có thể tìm cách nhận được những tương tác kích thích mà họ cần cho sự tồn tại của mình.

Có ba lọai tương giao giữa người với người:

Tương giao bổ sung (complementary)

Tương giao

I

Laura                        Emily 

Laura: “Sẵn sàng chưa?”

Emily: “Rồi”                                                                                                                  

Tương giao II

Mẹ                                Con

Con: “Con ăn kẹo được không?”

Mẹ: “Được chứ”

Nếu sự giao tiếp giữa hai con người có thể được tiếp tục thì nó phải có tính bổ sung. Một tương giao có tính bổ sung là tương giao trong đó các vector giao tiếp không bắt chéo nhau. Tương giao I (giữa Laura và Emily) minh họa một tương giao bổ sung giữa hai cái Tôi A giữa Laura và Emily; trường hợp II cũng là một tương giao bổ sung giữa cái Tôi P của mẹ và cái Tôi C của con. Trong cả hai trường hợp, tương giao đều có tính bổ sung, vì trạng thái cái Tôi được gọi đến cũng chính là trạng thái cái Tôi phát sinh ra đáp ứng phản hồi.

Tương giao bắt chéo (crossed)

Khi một trạng thái cái Tôi không được gọi đến lại phát sinh đáp ứng phản hồi thì sẽ tạo nên một tương giao bắt chéo

Tương giao III

Mẹ                            Con gái

Mẹ: “Con xong chưa?”

Con gái: “Đừng làm phiền con nữa?”

Tương giao IV

Fran                            Roth

Fran: “Bạn đang béo lên đấy!”

Roth: “Đừng có làm tớ bực mình vì chuyện đấy nữa”

Trong cả hai tương giao III và IV, cái Tôi A của người này muốn gọi tên cái Tôi A của người kia nhưng thay vào đó cái Tôi C của người kia lại lên tiếng. Những kiểu tương giao như thế sẽ làm ngưng lại một giao tiếp có ý nghĩa.

Tương giao ngầm (ulterior)

Trong tương giao ngầm, có một điều được nói ra ở bình diện công khai, nhưng đồng thời lại có một thông điệp khác được ngấm ngầm gửi đi. Nói chung, trong những trường hợp như thế, thông điệp công khai thường chứa đựng nội dung dễ được xã hội chấp nhận, trong khi thông điệp ngầm lại là thông điệp có ý nghĩa tâm lý cơ bản hơn.

Tương giao V

Công khai: (A-A)

Dick: “Bạn có muốn ghé qua chỗ tớ uống tí gì không?”

Jane: “Dĩ nhiên là được”

Ngấm ngầm: (C-C)

Dick: “Chơi không?”

Jane: “Chơi chứ!”

Dick                          Jane

Tương giao VI

Người bán                     Người mua

Công khai:

Người bán (A-A): “Đây là hàng tốt nhất của chúng tôi, nhưng có lẽ bạn muốn xem thứ rẻ hơn”

Người mua (C-A): “Tôi muốn loại này”

Ngấm ngầm:

Người bán (A-C): “Bạn không thể mua nổi thứ này đâu”

Tương giao giữa Dick và Jane có 4 trạng thái cái Tôi dự phần vào, với thành phần tương giao quan trọng chính là cái được giao tiếp ở bình diện tâm lý. Trong tương giao VI, người bán gửi một thông điệp đến cái Tôi A của người mua, nhưng lại “móc” vào cái Tôi C của người mua bằng một thông điệp ngầm. Đây dĩ nhiên là một kỹ thuật bán hàng đặc hiệu. Do bỏi sự truyền đi những “thông điệp kép” nên kiểu tương giao ngầm này thường gây ra những sự hụt hẫng giữa các đối tác, đặc biệt là trường hợp giữa cha mẹ và con cái.

Vì các tương giao là những cách thức mà con người tìm cách thỏa mãn những nhu cầu của mình, nên chúng là nền tảng cho sự phát triển và định hình nhân cách. Giờ ta sẽ quay trở lại xem xét làm thế nào mà những yếu tố này tương tác với nhau trong quá trình phát triển.

TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

Trường phái T.A. cho rằng bên trong mỗi con người đều có một tiềm năng về cơ bản là có tính tích cực, và tiềm năng ấy sẽ trở thành hiện thực, miễn là nó được nuôi dưỡng đúng cách (Dusay & Steiner, 1971). Mặc dù các yếu tố về sinh học, tâm lý và kinh tế xã hội có ảnh hưởng đến mọi con người, nhưng chúng chỉ xác định nên những giới hạn chung để mỗi người có thể phát triển.

Các lý thuyết gia T.A. tin rằng sự phát triển về nhân cách đã bắt đầu trước khi sinh ra: những yếu tố như số người có trong gia đình, đứa trẻ sinh ra có được mong đợi hay không, bố mẹ muốn con trai hay con gái, vv… sẽ xác định nên một môi trường mà từ đó đứa trẻ được sinh ra. Các yếu tố này sẽ ảnh hưởng lên trên loại tương tác kích thích mà đứa trẻ có thể nhận được khi nó được sinh ra, và từ đó có thể ảnh hưởng lên việc chọn lựa vị thế sống của đứa trẻ. Trong một số trường hợp, các yếu tố trước sinh có ảnh hưởng tích cực; trong trường hợp khác, chúng lại có tác dụng gây nguy hại cho đứa bé.

Vị thế sống ban đầu của đứa bé sơ sinh là vị thế sống với lòng tin một cách tự nhiên “I’m OK – You’re OK”. Nếu muốn vị thế sống đó được duy trì, bố mẹ phải cung cấp cho đứa bé những tương tác kích thích có tính tích cực và vô điều kiện. Cùng với việc chăm sóc những nhu cầu sinh lý cơ bản của đứa trẻ, những tương tác kích thích này là tất cả những gì cần có để duy trì sự phát triển tích cực trong thời gian nửa năm đầu tiên của cuộc sống. Khi trẻ bắt đầu vận động và khám phá bản thân nó, việc giúp trẻ duy trì vị thế “I’m OK” sẽ trở nên khó khăn hơn. Falzett và Maxwell (1974) đã mô tả các lọai hành vi mà bố mẹ có thể thúc đẩy họac gây cản trở cho quá trình phát triển lành mạnh của một đứa trẻ từ 6 tháng tuổi đến 12 tuổi như sau:

Bảng trình tự phát triển của Falzett và Maxwell

Chăm sóc tốt

Chăm sóc không tốt

6-18th 

Cha mẹ giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh; bảo vệ để trẻ có thể khám phá và nhận lấy những tương tác kích thích tích cực và vô điều kiện. Kỷ luật hợp lý và thích đáng. Giao tiếp chủ yếu giữa cái Tôi C của bố mẹ với cái Tôi C của trẻ.

Cha mẹ từ chối bảo vệ trẻ và không cho phép trẻ khám phá thế giới xung quanh; giới hạn các vận động của trẻ và nghiêm khắc khi tập cho trẻ đi vệ sinh.

18th-3 tuổi

Cha mẹ giúp trẻ phát triển khả năng kiểm soát bản thân và xem xét đến những cảm xúc và nhu cầu của người khác. Một số khả năng lý lẽ của trẻ được khuyến khích bằng cách đôi khi cha mẹ sử dụng hình thức giao tiếp giữa hai cái Tôi A và A với trẻ, mặc dù phần lớn các tương giao nói chung vẫn còn trên bình diện C và C. Đây là lúc thích hợp tập cho trẻ đi vệ sinh và áp dụng một số hình thức kỷ luật.

Cha mẹ không áp dụng kỷ luật gì mà cũng không kỳ vọng gì nơi trẻ cả; hoặc các kỳ vọng được đặt ra quá cao và chịu áp lực nghiêm khắc. Trẻ không được khuyến khích suy nghĩ để giải quyết vấn thông qua các tương giao giữa hai cái Tôi A-A.

3-6 tuổi

Cha mẹ tiếp tục khuyến khích trẻ thực hiện các hành vi giải quyết khó khăn, giúp trẻ hiểu được cảm xúc của chính mình và khám phá những cách thức tìm kiếm các tương tác kích thích. Cha mẹ khuyến khích trẻ thực hiện những hành vi được xã hội chấp nhận và không khuyến khích trẻ tìm kiếm các tương tác kích thích thông qua những “trò chơi”.

Cha mẹ trêu ghẹo hoặc phản bác những ý kiến của trẻ. Trẻ thường bị bỏ mặc một mình hoặc không được khuyến khích để giải quyết các khó khăn.

6-12 tuổi

Các tương giao được nhấn mạnh trên bình diện cái Tôi A-A. Cha mẹ lắng nghe các ý kiến của trẻ và tôn trọng quyền của trẻ tin theo những gì trẻ tin. Trẻ được tạo điều kiện để có nhiều trải nghiệm và phát triển những kỹ năng của cá nhân.

Cha mẹ áp dụng những luật lệ và các giá trị rất nghiêm khắc, hoặc không có luật lệ gì cả. Không tôn trọng những ý kiến hoặc khả năng lý lẽ của trẻ.

Trong bảng hướng dẫn tổng quát của Falzett và Maxwell chứa đựng một giả định cơ bản là cha mẹ nên tôn trọng đứa con của mình, khuyến khích khả năng phát triển và tự kiểm soát bản thân của trẻ. Nếu được dưỡng dục tốt, trẻ có thể duy trì vị thế tự nhiên ban đầu “I’m OK”; còn ngược lại trẻ sẽ dễ chấp nhận vị thế “I’m not OK”. Giáo dục tốt cũng giúp trẻ phát triển những phương thức tìm kiếm các tương tác kích thích không dựa trên các “trò chơi” hoặc các nghi thức, tạo lập những trạng thái cái Tôi vận hành đúng chức năng và không bị “ô nhiễm”.

Mỗi một trong số ba trạng thái cái Tôi – P, A và C – có thể được phân chia nhỏ thêm tùy theo dữ liệu được đến từ đâu trong quá trình phát triển từ trạng thái cái Tôi ấy. Nếu phát triển bình thường, mỗi trạng thái cái Tôi đều có tiềm năng kiểm sóat được hành vi của con người, kể cả về mặt thể chất lẫn tâm lý. Mỗi lúc chỉ có một trạng thái cái Tôi đảm nhận trách nhiệm. Theo thuật ngữ T.A., vào mỗi thời điểm, chỉ có một trạng thái cái Tôi được “đầu tư năng lượng” (cathected), “nghĩa là được nạp đầy năng lượng cần thiết để hoạt hóa hệ thống cơ bắp liên quan đến việc thực hiện hành vi” (Dusay & Steiner, 1971). Tuy nhiên, sự thật là một trạng thái cái Tôi có thể được đầu tư năng lượng, trong khi các trạng thái cái Tôi khác vẫn có đủ năng lượng để nhận biết rõ những gì mà trạng thái cái Tôi này đang vận hành.

Một đứa trẻ nhận được môi trường dưỡng dục lành mạnh sẽ có thể đầu tư năng lượng cho từng trạng thái cái Tôi và giúp nó vận hành vào những hoàn cảnh thích hợp. Nói theo cách của T.A., là có một sự mềm dẻo, linh hoạt giữa các trạng thái cái Tôi. Cái Tôi P của mỗi người thường được vận dụng tốt nhất trong những tình huống cần phải thực hiện việc kiểm soát trẻ em hoặc những người dưới quyền; cái Tôi A cần được vận dụng khi hoàn cảnh cần đến những quyết định hợp lý; và cái Tôi C là phù hợp nhất khi ta cần bày tỏ cảm xúc hoặc thể hiện tính sáng tạo (Dusay & Steiner, 1971).

Sự phát triển nhân cách bình thường, khi đó, là sản phẩm của quá trình dưỡng dục lành mạnh. Nó được đặc trưng bởi sự duy trì vị thế sống “I’m OK”, bởi việc chấp nhận một kịch bản sống tích cực không cần nhiều đến những “trò chơi” để có thể nhận được những tương tác kích thích, và bởi đặc tính trao đổi uyển chuyển giữa các trạng thái cái Tôi mà con người sử dụng một cách tương thích với hoàn cảnh thực tế.

SỰ PHÁT TRIỂN BẤT THƯỜNG

Một người thường xuyên nhận những điều kiện dưỡng dục không lành mạnh sẽ có khả năng lựa chọn vị thế sống “I’m not OK” và một kịch bản sống để duy trì vị thế ấy. Đương sự khi ấy sẽ không thể vận hành đầy đủ các trạng thái cái Tôi của mình. Mức độ nghiêm trọng của hành vi không thích nghi tùy thuộc vào vị thế sống được chọn và tùy thuộc vào việc quá trình phát triển các trạng thái cái Tôi bị tổn thương ở mức độ nào.

Nếu đương sự rời bỏ vị thế “I’m OK – You’re OK” để chuyển sang vị thế thường gặp “I’m not OK – You’re OK”, thì cuộc sống của người ấy có lẽ sẽ khá là bình thường và hữu dụng, nhưng nó khó có thể mang lại niềm vui và hạnh phúc thật sự.

Những người chấp nhận vị thế sống “I’m not OK – You’re not OK” sẽ có một cuộc sống vô vọng và đầy hụt hẫng. Đương sự thường không gây khó khăn cho bất kỳ ai, nhưng cũng thấy rằng bản thân mình và cuộc sống cũng không có gì hạnh phúc.

Ngoài việc có ảnh hưởng lên vị thế sống mà từ đó dẫn đến những phong cách sống không đúng đắn, việc dưỡng dục không lành mạnh còn có thể dẫn đến hai vấn đề khác trong sự phát triển các trạng thái cái Tôi, đó là sự “ô nhiễm” (contamination) và sự “lọai bỏ” (exclusion).

Sự ô nhiễm

Khi một trạng thái cái Tôi bị ảnh hưởng bởi những dữ liệu đến từ một trạng thái cái Tôi khác, khi đó có sự ô nhiễm xảy ra. Thông thường nhất là cái Tôi A bị ô nhiễm bởi những dữ liệu đến từ cái Tôi P hoặc cái Tôi C. “Ô nhiễm xảy ra khi những niềm tin không có căn cứ từ cái Tôi P hoặc những ý tưởng đến từ cái Tôi C ảnh hưởng lên cái Tôi A. Cái Tôi A khi ấy xem những thông tin trên là có thật, rồi lý giải và phán xét chúng” (James & Jongeward, 1971). Hậu quả của việc này là cái Tôi A bị ngăn trở không thể xử lý được các dữ liệu một cách chính xác. Thường xảy ra nhiều nhất là cái Tôi A bị ô nhiễm do phải chấp nhận những niềm tin phi lý từ cái Tôi P. Một trong những hình thức thể hiện sự ô nhiễm này là sự hiện diện của những thành kiến đã được chuyển giao từ cái Tôi C của cha mẹ đến cái Tôi P của đứa con. Hoang tưởng có thể xảy ra khi mức độ ô nhiễm nghiêm trọng, nhưng thường thì chỉ đủ ở mức độ gây bóp méo khả năng nhận thức về thực tại của đương sự và từ đó gây ra những hành vi không thích nghi.

Sự loại bỏ

Trong những tình huống sống thông thường, mỗi cá nhân sẽ phát triển khả năng chuyển sự đầu tư từ trạng thái cái Tôi này sang trạng thái cái Tôi khác sao cho phù họp với hòan cảnh. Tuy nhiên, khi sự phát triển các trạng thái cái Tôi diễn ra bất thường, những đường biên giới giữa các trạng thái cái Tôi có thể trở nên lỏng lẻo hoặc quá cứng nhắc.

Khi những đường biên giới giữa các trạng thái cái Tôi quá lỏng lẻo, thì chỉ cần một kích thích nhỏ từ môi trường bên ngoài, đương sự cũng sẽ dễ dàng chuyển đổi từ trạng thái cái Tôi này sang trạng thái cái Tôi khác. Một người như thế sẽ thiếu một bản sắc riêng khi thể hiện bản thân và kém khả năng đối mặt với cuộc sống một cách có ý nghĩa. Một người như thế sẽ không thể nói được rằng sắp tới anh ta sẽ làm gì.

Ở một cực đối lập lại, là tình trạng đường biên giới giữa những trạng thái cái Tôi quá cứng nhắc, và điều này khiến ngăn trở các “dòng chảy” của những năng lượng tâm trí vận chuyển giữa các trạng thái cái Tôi. Nói chung, do đường biên giới cứng nhắc nên hầu hết năng lượng tâm trí chủ yếu tập trung bên trong một trạng thái cái Tôi nào đó và gây cản trở sự vận hành của những trạng thái cái Tôi khác. Hậu quả là, người có đường biên giới cứng nhắc giữa các trạng thái cái Tôi hầu như chỉ sử dụng một trạng thái cái Tôi để đáp ứng lại với tất cả những hoàn cảnh kích thích đến từ bên ngoài; trạng thái cái Tôi được dùng để đáp ứng có thể luôn luôn là cái Tôi P, luôn luôn là cái Tôi C hoặc luôn luôn là cái Tôi A. Một người đang tham dự một bữa tiệc nhưng không thể thực sự thưởng thức những niềm vui của bữa tiệc ấy có thể là một người đang “lọai bỏ” sự hiện diện của trạng thái cái Tôi C. Kết quả của sự loại bỏ này là đương sự sẽ không thể sử dụng được những trạng thái cái Tôi một cách phù hợp để đáp ứng với ngoại cảnh.

Những vị thế sống không phù hợp, sự “ô nhiễm” và sự “loại bỏ” nêu trên, tất cả đều là sản phẩm của quá trình dưỡng dục lúc nhỏ, khi ấy, cha mẹ của đương sự đã tạo nên những tương tác kích thích (stroke) lên đứa con theo kiểu có điều kiện để đứa con có những hành vi ứng xử mà họ mong muốn. Đương sự lúc còn nhỏ hiếm khi được cho phép để khám phá hoặc để phát triển. Thay vào đó, cha mẹ của đương sự đã dựa trên các mệnh lệnh, không bao giờ cho phép con phát triển những trạng thái cái Tôi vận hành đúng chức năng hoặc tự do lựa chọn vị thế “I’m OK – You’re OK”. Trái lại, hành vi thích nghi và sự phát triển bình thường là những sản phẩm của sự dưỡng dục đúng đắn và là kết quả của việc lúc xưa cha mẹ đã dành cho con những tương tác kích thích theo kiểu tích cực và vô điều kiện.

Tóm lại, trường phái phân tích tương giao (T.A.) xem quá trình phát triển nhân cách (cả bình thường lẫn bất thường) chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi những tương giao giữa những trạng thái cái Tôi của bố mẹ và những trạng thái cái Tôi của đứa con. Sự lựa chọn vị thế sống của một người là sản phẩm của những tương giao này, và một khi đã lựa chọn, người ấy sẽ định hình cuộc sống của mình theo một cách thức sao cho có thể duy trì vị thế này và biến những tương tác kích thích mà trước đây mình đã “học được” thành nhu cầu để tìm kiếm trong tương lai. Trong nhiều trường hợp, sự lựa chọn vị thế sống và kế đó là lựa chọn kịch bản sống có thể dẫn đến những khuôn mẫu hành vi không thích đáng và vì thế mà đương sự có nhu cầu cần đến tâm lý trị liệu.

VẬN DỤNG PHÂN TÍCH TƯƠNG GIAO TRONG THAM VẤN VÀ TÂM LÝ TRỊ LIỆU

Phân tích tương giao chủ yếu là một hệ thống làm việc có thỏa thuận nhằm trị liệu tâm lý cho các cá nhân nhưng trong bối cảnh làm việc theo nhóm. Mục đích chung của phân tích tương giao “…là sự kiểm sóat về mặt xã hội, sao cho trạng thái cái Tôi A duy trì sự chủ đạo trong khi tương tác với người khác” (Berne, 1976). Những thân chủ tìm đến trị liệu là những người mà vì lý do này khác đã bị mất đi khả năng kiểm sóat ấy. Để làm việc với những thân chủ như thế, Berne (1966) đã thiết lập 4 mục tiêu chung như sau:

1.

    

Giúp thân chủ “khử” đi sự ô nhiễm ở một trạng thái cái Tôi nào đó.

2.

    

Giúp thân chủ có khả năng sử dụng tất cả các trạng thái cái Tôi phù hợp vói hoàn cảnh, bao gồm cả việc xử lý các tình trạng “loại bỏ” hoặc quá lỏng lẻo giữa các trạng thái cái Tôi.

3.

    

Giúp thân chủ sử dụng một cách đầy đủ cái Tôi A để dẫn đến việc hình thành một con người có khả năng tư duy hợp lý và có thể tự mình quản lý được cuộc sống.

4.

    

Mục đích sau cùng là giúp thân chủ thay thế vị thế sống và kịch bản sống không thích hợp để chuyển sang lựa chọn vị thế sống “I’m OK” và một kịch bản sống hữu ích hơn.

Ngoài ra, từng thân chủ cũng cần được thiết lập những mục tiêu riêng dựa trên cơ sở thỏa thuận. Hợp đồng thỏa thuận giữa nhà trị liệu và thân chủ phải vạch rõ những mục tiêu đặc hiệu mà thân chủ đang tìm kiếm thông qua tiến trình trị liệu. Dusay và Steiner (1971) đề xuất rằng hợp đồng phải thỏa mãn những điều kiện sau:

1.

    

Cả nhà trị liệu lẫn thân chủ, thông qua những tương giao giữa hai cái Tôi A và A, phải đồng ý với nhau về các mục tiêu này.

2.

    

Hợp đồng cần phải xem xét một số điều kiện như: về phía nhà trị liệu là những kỹ năng chuyên môn và thời gian; về phía thân chủ là tiền chi trả, thời gian và sự cố gắng.

3.

    

Hợp đồng phải xác định sự trưởng thành của cả hai phía đối tác. Một mặt nó xác định nhà trị liệu có khả năng giúp giải quyết vấn đề này; mặt khác nó khẳng định thân chủ có tuổi đời và trạng thái tâm trí phù hợp để tham gia hợp đồng.

4.

    

Sau cùng, các mục tiêu của hợp đồng phải là những điều hợp pháp, và trong khuôn khổ đạo đức nghề nghiệp của nhà trị liệu.

Tâm lý trị liệu theo trường phái T.A. đều phải bao gồm 4 mục tiêu chung và các mục tiêu chuyên biệt ở từng thân chủ được nêu rõ trong hợp đồng thỏa thuận.

Tiến trình trị liệu

Phân tích tương giao được thực hiện tập trung trên từng cá nhân, nhưng trong bối cảnh làm việc theo nhóm. Nhà trị liệu xem tiến trình hoạt động nhóm như một phương tiện để phân tích và cung cấp những phản hồi lại cho các thành viên về loại tương giao mà họ tham gia vào. Nhóm trị liệu được xem như một mô hình thu nhỏ của thế giới thực tế, sự khác biệt cơ bản là ở chỗ mỗi thành viên đều có mặt ở đó để làm việc theo những mục tiêu đặc hiệu và nhà trị liệu có mặt ở đó như người lãnh đạo của nhóm.

Berne (1966) cho rằng điều quan trọng thiết yếu là phải chuẩn bị thật kỹ các thành viên tham gia vào tiến trình nhóm. Tuy nhiên, phân tích tương giao có thể có hiệu quả tốt với tất cả các loại thân chủ và tất cả các loại vấn đề, và rất hiếm trường hợp vì lý do nào đó mà một thành viên bị loại khỏi nhóm.

Berne (1966) nêu rõ trong tác phẩm của mình rằng tiến trình trị liệu theo trường phái T.A. là một tiến trình “lấy người lãnh đạo nhóm làm trung tâm” (leader-centered). Mặc dù các tương giao giữa những thành viên trong nhóm với nhau là quan trọng, tuy nhiên chính tương giao giữa nhà trị liệu với từng thành viên mới là nội dung quan trọng nhất của tiến trình làm việc nhóm. Như vậy, yếu tố có vai trò góp phần vào sự thành công nằm ở hành vi của nhà trị liệu hơn là do yếu tố động lực học của nhóm (group dynamics).

Berne (1966) xem tiến trình trị liệu trải qua 4 bước. Ông cho rằng một người tìm đến trị liệu là để tái cấu trúc lại toàn bộ cuộc sống của mình, và việc này cần phải được thực hiện thông qua cả 4 giai đọan. Cách làm này có thể thật sự đúng khi áp dụng tâm lý trị liệu dài hạn, tuy nhiên, trong bối cảnh làm tham vấn, việc đặt ra những mục tiêu có thể được giới hạn lại. Nói chung, có thể hình dung tham vấn là công việc có liên quan đến hai giai đọan đầu, còn tâm lý trị liệu (dài hạn) thì liên quan đến cả hai giai đọan sau, ngay cả khi một sự phân định rõ ràng như thế cũng chẳng bao giờ được hoàn tất cả.

Bước 1: Phân tích cấu trúc (Structural Analysis)

Phân tích cấu trúc là một phần của tiến trình trị liệu; nó được thiết kế để giúp thân chủ hiểu được cấu trúc của các trạng thái cái Tôi của họ. Mục đích của phân tích cấu trúc là giúp thân chủ phát triển các trạng thái cái Tôi của họ sao cho chúng có thể vận hành đầy đủ chức năng mà không có các tình trạng ô nhiễm hoặc loại bỏ một trạng thái cái Tôi nào đó (Berne, (1966). Một khi thân chủ đã chấp nhận những trạng thái cái Tôi lành mạnh, mục đích sau cùng của giai đoạn phân tích cấu trúc là thân chủ phải đặt trạng thái cái Tôi A (Người Lớn) vào vị trí có trách nhiệm đối với đời sống của bản thân.

Bước 2: Phân tích tương giao (Transactional Analysis)

Giai đọan 2 của tiến trình trị liệu tập trung vào việc hiểu biết các loại tương giao mà bình thường thân chủ vẫn thực hiện. Một sự phân tích như thế có thể giúp thân chủ cải thiện kỹ năng giao tiếp với người khác. Việc hiểu biết các loại tương giao cũng sẽ là tiền đề để thân chủ bước sang giai đoạn 3.

Bước 3: Phân tích trò chơi (Games Analysis)

Ở giai đoạn này, tiến trình trị liệu đòi hỏi nhà trị liệu phải xác định rõ thân chủ thường nhận được phần tưởng thưởng (pay-off) là gì khi tham dự một “trò chơi” nhất định nào đó, diễn giải trò chơi cho thân chủ và khi cần có thể thách thức (confront) thân chủ về điều đó. Một khi thực hiện được việc này, nhà trị liệu có thể tạo điều kiện cho thân chủ từ bỏ trò chơi ấy.

Bước 4: Phân tích kịch bản (Script Analysis)

Thông thường nhà trị liệu

không

đi vào phân tích kịch bản, vì đến giai đọan này, tiến trình trị liệu gần như đã giúp thân chủ thấy được sự sai lầm của toàn bộ kịch bản sống mà họ đã chọn. Một sự phát hiện như thế nếu đi kèm với trạng thái trầm cảm có thể sẽ trở nên rất nguy hiểm, và chỉ có những nhà trị liệu T.A. có kinh nghiệm mới đi sâu vào giai đoạn này.

Những đặc trưng của một nhà trị liệu T.A.

Một nhà trị liệu theo trường phái T.A. được xem là một người hướng dẫn của tiến trình làm việc nhóm. Nhà trị liệu phải được huấn luyện các kỹ năng như phân tích các trạng thái cái Tôi, các tương giao, các trò chơi và các kịch bản sống. Nhà trị liệu phải có khả năng tương tác với các thân chủ với một tác phong cởi mở, nhiệt tình, chân thành, biết lắng nghe và quan sát. Berne cho rằng “kỹ năng thực sự nằm ở chỗ biết thâu thập và phân tích dữ liệu”.

Berne (1966) đề xuất thêm hai yêu cầu cho các nhà trị liệu: (1) Bất cứ vào thời điểm nào, họ cũng phải có khả năng xác định được trạng thái cái Tôi nào đang được thân chủ vận hành; (2) Họ phải biểu thị sự tận tâm, chân thành và lòng tin đối với thân chủ trong việc khắc phục những khó khăn. Tóm lại, nhà trị liệu T.A. được xem như những chuyên gia về lòng nhiệt tình và sự thấu cảm, là người được xem như có trách nhiệm ít nhất là bằng, thậm chí là nhiều hơn so với thân chủ, trong việc đạt đến kết quả trị liệu.

Kỹ thuật trị liệu

Có 4 loại kỹ thuật được đề xuất thực hiện bởi các nhà trị liệu T.A. Ba loại kỹ thuật “cho phép” (permission), “bảo vệ” (protection) và “sử dụng uy lực của nhà trị liệu” (potency) có liên quan đến việc thiết lập một bầu không khí cần thiết cho việc trị liệu; còn kỹ thuật thứ tư: “tác động” (operations) là những hành vi có tính chuyên biệt của nhà trị liệu.

Cho phép

Hầu hết những thân chủ tìm đến trị liệu vẫn còn ứng xử dựa trên những “mệnh lệnh của bố mẹ”. Một trong những việc đầu tiên mà nhà trị liệu phải làm là cho phép thân chủ làm những gì mà cha mẹ họ đã bảo họ không được làm (Steiner, 1973). Dusay và Steiner (1971) đã liệt kê ba lĩnh vực khác có thể cho phép, đó là:

1.

    

Cho phép thân chủ sử dụng thời gian của họ cùng với nhau một cách hiệu quả, nhưng không để thân chủ thực hiện những loại cấu trúc thời gian vô ích như “nghi thức” và “rút lui”.

2.

    

Cho phép thân chủ trải nghiệm qua tất cả những trạng thái cái Tôi, thường là bằng cách khuyến khích thân chủ sử dụng cái Tôi A để lý lẽ và dùng cái Tôi C để hưởng thụ đời sống. Việc này thường được thực hiện thông qua sắm vai, trong đó thân chủ được yêu cầu hãy thể hiện bằng hành động những tính cách của cái Tôi A và C.

3.

    

Nhà trị liệu

cho phép không cần

phải cấu trúc thời gian theo kiểu “trò chơi” bằng cách không để cho thân chủ thực hiện loại cấu trúc thời gian đó. Thân chủ sẽ không nhận được những tương tác kích thích mà họ cần đến, do vậy sẽ từ bỏ kiểu cấu trúc “trò chơi”.

Bảo vệ

Khi thân chủ được phép từ bỏ những mệnh lệnh từ bố mẹ và bắt đầu vận dụng cái Tôi A và cái Tôi C của chính mình, khi đó họ có thể trở nên lo sợ (Steiner, 1973). Đó là lý do vì sao thân chủ cần sự bảo vệ. Khi thân chủ chuẩn bị từ bỏ một phần kịch bản sống cũ, nhà trị liệu sẽ phải thuyết phục thân chủ rằng môi trường trị liệu là có tính an toàn để làm việc đó. Sự bảo vệ có thể dưới hình thức những câu nói như “Đừng sợ hãi…” hoặc “Đừng lo, bạn sẽ không bị tổn thương đâu”. Cái Tôi P của nhà trị liệu sẽ nói với cái Tôi C của thân chủ rằng mọi chuyện sẽ được giải quyết ổn thỏa.

Uy lực của nhà trị liệu

“Nhà trị liệu (hoặc chuyên viên tham vấn) không phải là những nhà ảo thuật; họ chi biết được rằng những điều gì cần phải làm và khi nào làm những điều ấy”. Đây chính là “uy lực” (potency) của nhà trị liệu: Đó là khả năng của một nhà trị liệu trong việc sử dụng những kỹ năng của mình vào những thời điểm tốt nhất, sao cho những kỹ năng ấy đạt được hiệu quả tối ưu. Dusay và Steiner (1971) cho rằng uy lực của nhà trị liệu được kiểm định tốt nhất là dựa vào việc sau cùng thân chủ có thể rời bỏ ảnh hưởng của những mệnh lệnh xa xưa từ bố mẹ họ hay không.

Các tác động

Berne (1966) đã liệt kê 8 kỹ thuật mà ông thấy có tác dụng trong việc trị liệu. Danh sách này không có tính phổ quát, nhưng nó cung cấp cho nhà trị liệu một số hướng dẫn cần thiết:

1.

    

Đặt câu hỏi

(interrogation) Nhiều thân chủ gặp khó khăn trong việc sử dụng cái Tôi A của họ. Khi gặp kiểu ứng xử này, nhà trị liệu phải đặt ra những câu hỏi và thân chủ sau cùng sẽ sử dụng cái Tôi A để đáp ứng lại. Bởi vì đây là một kỹ thuật gây nhiều áp lực nên nó cần được áp dụng thận trọng.

2.

    

Chuyên biệt hóa

(specification) Sự chuyên biệt hóa xảy ra khi cái Tôi A của nhà trị liệu và cái Tôi A của thân chủ cùng đồng ý với nhau về việc xác định hành vi của thân chủ đã xuất phát từ đâu. Ví dụ, cả hai người có thể đồng ý xác định rằng một hành vi nào đó của thân chủ đã xuất phát từ trạng thái cái Tôi P. Sự chuyên biệt hóa là rất quan trọng để có thể hiểu được hoàn toàn các trạng thái cái Tôi của thân chủ.

3.

    

Thách thức/Đối đầu

(confrontation) Trong kỹ thuật thách thức, nhà trị liệu sẽ chỉ ra cho thân chủ thấy những bất cập và không phù hợp trong hành vi hoặc lời nói của thân chủ.

4.

    

Giải thích

(explanation) Giải thích là một hành vi có tính chỉ dẫn của nhà trị liệu, là một kiểu tương giao giữa hai cái Tôi A và A, trong đó nhà trị liệu giải thích tại sao thân chủ lại đang ứng xử theo một cách thức nào đó.

5.

    

Minh họa

(illustration) Minh họa là một phương thức vừa để phá vỡ sự căng thẳng, vừa có tính hướng dẫn. Tính vui tươi của những hình thức minh họa có thể làm vui lòng cái Tôi C của thân chủ trong khi nội dung của thông điệp thì lại được gửi đến cái Tôi A.

6.

    

Xác nhận/Khẳng định

(confirmation) Kỹ thuật này dùng để chỉ cho thân chủ thấy sự xuất hiện trở lại của một hành vi, mà trước đó hành vi ấy đã ngưng thể hiện sau khi nhà trị liệu làm kỹ thuật thách thức. Bằng cách này, nhà trị liệu cố gắng cho thân chủ thấy rằng họ chưa thực sự từ bỏ hành vi này và do vậy cần phải cố gắng nhiều hơn nữa.

7.

    

Diễn giải

(interpretation) Thông qua kỹ thuật diễn giải, nhà trị liệu cố gắng giúp thân chủ nhìn thấy được những lý do phía sau của một hành vi cụ thể. Trong ý nghĩa này, nó rất giống với kỹ thuật diễn giải trong liệu pháp phân tâm cổ điển.

8.

    

Kết tinh

(crystallization) Nhà trị liệu bảo với thân chủ rằng giờ đây thân chủ đã sẵn sang rời bỏ “trò chơi” (game) mà họ đã từng tham gia để nhận lấy những tương tác kích thích (stroke). Để có hiệu quả, nhà trị liệu có thể nói “Giờ đây, bạn đã có được một cách thức tốt hơn để nhận lấy những tương tác mà bạn cần”.

Ngoài các kỹ thuật trên, còn có thêm hai phương pháp tương đối mới, được phát triển bởi các đồ đệ của Berne. Những công cụ mới này cũng hữu hiệu trong việc giúp cho thân chủ hiểu được những trạng thái cái Tôi của họ, cũng như có thể hiểu được những “trò chơi” mà họ đang tham gia vào.

·

        

Biểu đồ các trạng thái cái Tôi (Ego-grams)

Theo Dusay (1977), người đã phát triển kỹ thuật Ego-gram, mỗi cá nhân luôn luôn có một số lượng năng lượng cố định. Vì thế, khi một người sử dụng một số lớn năng lượng để đầu tư cho cái Tôi C thì chỉ còn một ít năng lượng được dành đầu tư cho các cái Tôi A và P. “Biểu đồ các trạng thái cái Tôi được thiết lập nhằm tượng trưng cho số lượng năng lượng mà mỗi con người đầu tư cho mỗi trạng thái cái Tôi của người ấy vào một thời điểm nhất định. Một người sau khi xem xét biểu đồ các trạng thái cái Tôi của bản thân mình, sẽ biết rõ được những trạng thái cái Tôi nào của họ cần phải thay đổi, phải nâng cao, phải hạ thấp hoặc phải phát triển thêm” (Dusay, 1977).

Dưới đây là một ego-gram làm mẫu. Người được thể hiện qua biểu đồ này đang sử dụng phần lớn năng lượng tâm trí đầu tư vào cái Tôi Cha-Mẹ-Kiểm-Sóat (Controlling Parent) và cái Tôi Đứa-Trẻ-Thích-Nghi (Adapted Child). Điều này cho thấy đây là một người có tác phong khá “kềm chế”. Để hưởng thụ cuộc sống nhiều hơn, người này cần phải chuyển bớt năng lượng đầu tư sang cái Tôi Đứa-Trẻ-Tự-Do (Free Child). Bằng cách sử dụng biểu đồ các trạng thái cái Tôi, nhà trị liệu có thể giúp thân chủ thấy được họ phải đi đến đâu để đạt được mục đích của mình.

Chú thích (trái sang phải):

·

        

P Controlling: Cái Tôi Cha Mẹ (Kiểm soát)

·

        

P Nurturing: Cái Tôi Cha Mẹ (Bảo dưỡng)

·

        

A: Cái Tôi Người Lớn

·

        

C Free: Cái Tôi Trẻ Em (Tự do)

·

        

C Adapted: Cái Tôi Trẻ Em (Thích nghi)

·

        

Tam giác Karpman

Tam giác Karpman được phát triển để giúp con người có thể hiểu được những “trò chơi” nào đang chiếm ưu thế trong cuộc sống của họ. Việc này được dựa trên giả định rằng những “người chơi” có thể sẽ đảm nhận một trong ba vai trò sau: “kẻ gây hại” (P: persecutor), “người cứu hộ” (R: rescuer) và “nạn nhân” (V: victim).

Tam giác Karpman được thể hiện như sau:

P

  

V

R

Nói chung, mỗi người đều có một vai trò mà mình ưa thích, mặc dù ở những thời điểm khác nhau, một người vẫn có thể đảm nhận bất kỳ vai trò nào đó trong số 3 vai trò này (Wollams, Brown & Huige, 1977). Người nào cảm thấy mình trội hơn người khác thường đảm nhận vai trò “kẻ gây hại”; người cảm thấy mình có nhiều hiểu biết thường đảm vai “người cứu hộ”; còn vai trò “nạn nhân” thường được chấp nhận bởi những người thích cảm thấy mình bất lực.

Cũng như biểu đồ các trạng thái cái Tôi, Tam giác Karman có thể giúp cả thân chủ lẫn nhà trị liệu hiểu được những “trò chơi” mà thân chủ đang tham gia để nhận được những tương tác kích thích cần thiết cho sự tồn tại của họ.

Để có thể sử dụng Biểu đồ các trạng thái cái Tôi và Tam giác Karpman, nhà trị liệu cần có những hiểu biết sâu về phân tích tương giao. Một sự hiểu biết nông cạn có thể dẫn đến những sai lầm và gây phương hại cho thân chủ.

TÓM LẠI

Bài viết này trình bày một tổng quan về phương pháp phân tích tương giao, liên quan đến sự phát triển nhân cách và áp dụng vào trị liệu. Cần đọc thêm các tác phẩm và bài viết của các tác giả trong trường phái này, đặc biệt là của Eric Berne.

Vì phương pháp phân tích tương giao về cơ bản tập trung vào cá nhân nhưng trong khuôn khổ làm việc nhóm, cho nên nhà trị liệu nào quan tâm đến việc áp dụng phương pháp này cần có một nền tảng hiểu biết chắc chắn về động lực học của nhóm (group dynamics) và sau đó cần được đào tạo về các nguyên lý của T.A.

TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

- HÀNH VI

BS. NGUYỄN VĂN KHUÊ & BS. NGUYỄN MINH TIẾN

DẪN NHẬP

Trị liệu nhận thức đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà chuyên môn sức khỏe tâm thần ở khắp thế giới trong những năm gần đây. Cuộc “cách mạng nhận thức” (Mahoney, 1977, 1991) được báo hiệu bởi cuộc hội thảo về chủ đề xử lý thông tin được tổ chức ở viện kỹ thuật Massachusetts (MIT) và việc xuất bản các công trình của hội thảo bởi các tác giả Bruner, Goodnow, Austin (1956), Chomsky (1956, 1957), Kelly (1955), Newell và Simon (1956) đã chín muồi, nhờ vậy các phương pháp trị liệu đặt nền tảng trên bình diện nhận thức đã trở thành mối quan tâm ưu tiên của các nhà chuyên môn (Smith 1982). Phương pháp trị liệu nhận thức đã trở thành chỗ đứng chung của các nhà trị liệu, của các phương pháp lý thuyết và triết lý khác nhau, từ trường phái phân tâm đến trường phái hành vi. Nhà trị liệu phân tâm tìm thấy trong trị liệu nhận thức một cốt lõi lý thuyết tâm động (dynamic) để tham dự vào việc thay đổi các niềm tin tiềm ẩn và các sơ đồ tương tác cá nhân. Nhà trị liệu hành vi tìm thấy trong trị liệu nhận thức một mô hình tâm lý trị liệu ngắn gọn, tích cực, có hướng dẫn, có tính cộng tác, có tính giáo dục, một mô hình tâm lý trị liệu dựa trên cơ sở kinh nghiệm và có định hướng nhắm đến việc thay đổi hành vi trực tiếp. Sự hợp nhất giữa trị liệu nhận thức và trị liệu hành vi đã trở thành quy luật hơn là ngoại lệ. Các hiệp hội trị liệu hành vi trên thế giới đã thêm từ nhận thức vào tên gọi của họ và tờ báo uy tín “Trị Liệu Hành Vi” giờ đây đã trở thành tờ báo quốc tế ứng dụng các khoa học nhận thức và hành vi trong các vấn đề lâm sàng.

Các tư liệu về trị liệu nhận thức đã phát triển theo cấp số nhân trong những thập kỷ qua. Có gốc rễ từ công trình của Aaron Beck trong việc trị liệu trầm cảm (Beck, 1972, 1976), phương pháp trị liệu nhận thức hiện đại đã trở thành mô hình được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý trị liệu và tâm bệnh học và đã được áp dụng trong nhiều vấn đề, các nhóm thân chủ và các hoàn cảnh trị liệu khác nhau. Hiện nay có nhiều trung tâm trị liệu nhận thức ở nhiều nơi trên thế giới như Buenos Aires, Stockholm và Thượng Hải. Mô hình cơ bản đã được thích ứng ở nhiều nền văn hóa một cách dễ dàng. Các nhà trị liệu ở Thụy Điển cũng như ở Trung Quốc xác định có những quan tâm và phát triển trị liệu nhận thức như là một mô hình thích hợp với các đặc trưng của các quốc gia này. Đây là một thực tế khá lý thú, vì đây là hai nước có nền văn hoá rất khác nhau. Các cách tiếp cận nhận thức dường như được ứng dụng xuyên văn hoá vì chúng tập trung vào diễn tiến và đặt nền tảng trên hiện tượng học (phenomenologically based). Việc giúp đỡ các cá nhân phát triển khả năng xem xét những niềm tin của mình (dù các niềm tin ấy có thể ở hình thức nào) dường như có tính hữu dụng một cách xuyên văn hóa hơn là chỉ tập trung vào những nội dung đặc thù nào đó. Mô hình này tôn trọng thực tế cho

rằng những niềm tin tiềm tàng đặc thù, có thể được chia sẻ bởi những người thuộc những nền văn hoá riêng biệt và có sự khác biệt xuyên văn hoá đáng kể về những niềm tin này. Ví dụ, xã hội Tây Phương tiêu biểu nhấn mạnh sự tự lập và thành đạt cá nhân, trong khi xã hội Á Châu dường như tương đối nhấn mạnh sự kết hợp xã hội và trách nhiệm cá nhân đối với gia đình và cộng đồng.

Trên đây là tóm tắt tổng quát các nền tảng lý thuyết và lịch sử của trị liệu nhận thức và sau đây sẽ thảo luận các vấn đề khái niệm và kỹ thuật đặc thù dẫn đến các chiến lược trị liệu khác nhau.

BỐI CẢNH CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Trị liệu nhận thức bắt đầu từ truyền thống trí tuệ của các triết gia khắc kỷ như Epictetus ở thế kỷ thứ I: “Những điều gì làm cho người ta rối loạn không phải là do chính những điều này… mà là do sự phán xét của chúng ta về những điều ấy. Do vậy, khi chúng ta bị phản đối, rối loạn hay đau khổ, chúng ta đừng bao giờ lên án người khác, mà đúng hơn là nên xem xét chính bản thân chúng ta, nghĩa là chính sự phán xét của chúng ta.”

Phương pháp tâm lý trị liệu nhận thức hiện đại được thành lập trên khái niệm về “Tính kiến tạo về tâm lý” (psychological constructivism). Michael Mahoney (1991) đã định nghĩa phương pháp trị liệu nhận thức như là một tập hợp các lý thuyết về tâm trí và hoạt động tâm lý, trong đó có những tính chất sau”:

1. Nhấn mạnh bản chất tích cực và tiên phong của tri giác, học tập và kiến thức

2. Xác nhận tính ưu việt về cả cơ cấu lẫn chức năng của những tiến trình trừu tượng và cụ thể trong tất cả kinh nghiệm thuộc tri giác cũng như lý trí.

3. Xem việc học tập, hiểu biết và trí nhớ là những hiện tượng phản ánh các cố gắng liên tục của cơ thể và tâm trí nhằm tổ chức và tái tổ chức những khuôn mẫu hành động và trải nghiệm của cá thể. Những khuôn mẫu ấy, dĩ nhiên, có liên quan đến khả năng dự phần một cách linh hoạt và thích nghi cao của con người vào thế giới xung quanh.

Mô hình “nhận thức có tính kiến tạo” (cognitive – constructivist model) của hành vi con người đã xuất hiện trong 10 năm gần đây rất khác xa với các lý thuyết phân tâm truyền thống khi cho rằng hành vi không được coi là quyết định bởi các kinh nghiệm trong những năm đầu tiên hoặc bị chi phối bởi các động lực vô thức.

Mô hình trị liệu nhận thức cũng khác với các mô hình hành vi điều kiện hóa ở chỗ xem các phản ứng cảm xúc và hành vi của chúng ta không đơn thuần là sản phẩm của các “tác nhân củng cố” hoặc các yếu tố ảnh hưởng hiện nay từ môi trường; mà đúng hơn là hành vi của chúng ta được xem là có mục đích, tích cực và thích ứng với môi trường. Lý thuyết về tính kiến tạo (constructivism) khẳng định rằng con người không chỉ đơn thuần phản ứng lại với các sự việc, mà đúng hơn con người rất chủ động phát triển các hệ thống ý nghĩa của cá nhân và tổ chức những tương tác giữa bản thân mình với thế giới bên ngoài. Các nhà lý thuyết nhận thức cho rằng kiến thức (cá nhân hoặc khoa học) là có tính tương đối vì nó căn cứ trên các tiền đề cá nhân và văn hoá chứ không thể dựa vào những “thực tế khách quan” có thể nhận biết được (Mahoney 1991). Nói một cách cụ thể hơn, nhà lý thuyết nhận thức cho rằng có vô số cách diễn giải hoặc cách nhìn được rút ra từ bất cứ một sự việc nào đó.

Phương pháp tâm lý trị liêu nhận thức hiện đại phản ảnh sự kết hợp nhiều trường phái tư tưởng và là sự phát triển các công trình trước đây của Adler (1927, 1968), Arieti (1980), Bowlby (1985), Frankl (1985), Freud (1892), Horney (1936), Sullivan (1953) và Tolman (1949). Ảnh hưởng của lý thuyết phân tâm học trên sự tiến hóa của tâm lý trị liệu nhận thức có lẽ rõ ràng nhất trong mô hình nhân cách và tâm bệnh lý mà trường phái phân tâm chia sẻ trong khi Freud phân chia tâm lý của con người làm 3 lãnh vực: ý thức, tiền ý thức và vô thức. Hành vi con người chủ yếu được thúc đẩy bởi động lực vô thức hoặc các động cơ thuộc về bản năng. Nhà trị liệu nhận thức phân chia tâm trí con người thành các “tư duy tự động” (automatic thought), các giả định (consumption) và sơ đồ (schemata).

Giống như các nhà tâm lý trị liệu phân tâm, nhà trị liệu nhận thức xác nhận sự quan trọng của những đối thoại bên trong và những động cơ từ bên trong (internal dialogues and motivations). Nhà trị liệu nhận thức làm việc để giúp thân chủ nói ra những điều chưa được nói, dù rằng họ vẫn cố gắng tránh dùng các ẩn dụ về sự đè nén các bản năng và quan niệm về việc hành vi chịu sự chi phối bởi các xung năng gây lo âu bị đè nén. Họ cũng cố gắng phát hiện và thay đổi các niềm tin cùng các thái độ tạo nên sự đau khổ mà thân chủ không tự nhận biết được. Vai trò của các yếu tố nhận thức bao gồm: những ý định, kỳ vọng, ký ức, những mục đích và sự lệch lạc nhận thức trong việc tạo ra các rối loạn trong nhận thức, cũng được chấp nhận bởi Freud (1892). Freud cho rằng các suy nghĩ và ý tưởng có thể có một cảm xúc gắn liền với chúng, và các phản ứng cảm xúc đối với các sự kiện tùy thuộc vào những mục đích cá nhân, sức mạnh và sự chắc chắn của niềm tin cùng với sự hiện diện của các suy nghĩ tự động tiêu cực, mà ông qui cho là những ý tưởng mâu thuẫn và gây đau khổ.

Ảnh hưởng của trường phái tâm lý hành vi được phản ảnh trong mục tiêu của trị liệu nhận thức là nhắm vào sự thay đổi hành vi, sự chấp nhận tính quyết định của các yếu tố xã hội và môi trường trên hành vi và sự sử dụng nghiên cứu thực nghiệm như là một phương tiện để tinh lọc cả lý thuyết và kỹ thuật lâm sàng. Thái độ thực nghiệm được khuyến khích đối với nhà trị liệu và thân chủ, và các can thiệp hành vi được sử dụng như một thành phần trong toàn bộ tiến trình trị liệu. Sự nhấn mạnh được đặt trên những vấn đề có thể xác định cụ thể mà sự cải thiện của chúng có thể được đánh giá một cách khách quan.

Nhiều tác giả cho rằng trị liệu nhận thức là một biến thể hoặc con đẻ của sự thay đổi hành vi. Điều này phản ánh trong việc sử dụng rộng rãi danh xưng “trị liệu nhận thức-hành vi”. Tuy nhiên, điều này rõ ràng là không công bằng đối với sự phong phú khái niệm trong mô hình này. Ngoài ra, khuynh hướng này không nhận ra các đóng góp quan trọng của các trường phái lý thuyết khác trong sự phát triển trị liệu nhận thức.

Trong lịch sử, liệu pháp nhận thức đã được đồng nhất hóa với một số kỹ thuật đặc thù và được coi là mô hình mà tầm mức chỉ giới hạn trong việc trị liệu các rối loạn cảm xúc đặc thù. Quan điểm này, dù dễ hiểu, nhưng lại biểu hiện sự đơn giản hóa lý thuyết nhận thức hiện đại. Đó là do trong lịch sử liệu pháp nhận thức chủ yếu được giới hạn trong việc thực hành trị liệu những trường hợp trầm cảm ở người lớn. Mô hình trị liệu được giới hạn về tầm mức áp dụng và các tác giả không có ý định phát triển nó thành một học thuyết về nhân cách hoặc tâm bệnh học. Mặc dầu các nghiên cứu ban đầu cho thấy những kết quả tích cực, nhưng phải đợi đến đầu thập niên 1980, các mô hình trị liệu nhận thức dành cho các rối loạn khác mới được phát triển và nguồn gốc của các hệ thống niềm tin phi lý mới trở thành tiêu điểm của sự chú ý. Vì vậy, trị liệu nhận thức phản ánh một mô hình tiến hóa của tâm lý trị liệu, tâm bệnh học và sự phát triển mà tầm áp dụng của nó ngày một bành trướng. Sự phát triển của trị liệu nhận thức bao gồm các công trình đầu tiên của Bandura (1973, 1977a, 1977b, 1985), Beck (1970, 1972, 1976), Ellis (1962, 1973, 1979), Kelly (1955), Lazarus (1976, 1981), Mahoney (1974), Maultsby (1984), Meichenbaum (1977), Seligman (1974, 1975). Các tác giả trên là những người đầu tiên hợp nhất các cơ cấu được điều hòa bởi nhận thức với lý thuyết hành vi. Họ tập trung vào vai trò của các tiến trình học tập xã hội trong sự phát triển các vấn đề cảm xúc và việc sử dụng kỹ thuật tái cấu trúc nhận thức (cognitive reconstructuring), sự phát triển các khả năng giải quyết vấn đề xã hội và sự lĩnh hội các kỹ năng hành vi trong việc giải quyết chúng. Mặc dầu các mô hình nhận thức về tâm bệnh học và tâm lý trị liệu đã được cải tiến và điều chỉnh từ thời kỳ trên, các kỹ thuật được mô tả trong các công trình đầu tiên này tiếp tục được sử dụng như nền tảng của việc thực hành lâm sàng và do vậy đáng được xem xét. Nhà tâm lý lâm sàng theo trường phái nhận thức đầu tiên là George Kelly (1955), người đề ra “học thuyết về các kiến tạo cá nhân” (personal construct theory) của các rối loạn cảm xúc, đã xác nhận rõ tầm quan trọng của các tri giác chủ quan đối với hành vi con người. Ông cho rằng cá nhân tích cực tri giác hoặc “xây dựng” hành vi của mình và tạo ra một biểu tượng về bản thân mình, về thế giới xung quanh và về tương lai. “Các kiến tạo” (constructs) của một cá nhân, như vậy, rất là đặc thù hoặc riêng biệt cho cá nhân ấy và tiêu biểu cho cách thức trong đó họ liệt kê một cách hệ thống các trải nghiệm của mình. Bù lại, các kiến tạo này xác định bằng cách nào cá nhân ấy đáp ứng với các sự kiện. Từ góc nhìn này, mục tiêu của trị liệu là nhằm hiểu biết được sự giải thích chủ quan hoặc phán đoán của thân chủ về những trải nghiệm của họ và giúp đỡ thân chủ xây dựng chúng theo cách thức thích nghi hơn. Các kỹ thuật trị liệu của Kelly, mặc dầu không được sử dụng rộng rãi vào ngày nay, vẫn được coi là phương thức có tính tiên phong và quan trọng của trường phái trị liệu nhận thức hiện đại (Guidano & Liotti, 1983, 1985; Guidano, 1987, 1991).

Sự phát triển của trị liệu nhận thức như là một mô hình xử lý thông tin trong các rối loạn lâm sàng đã được phát triển trong những năm 1970, vì những kỹ thuật trị liệu đặt nền tảng trên các mô hình được điều hòa bởi nhận thức được đề nghị và vì các kết quả nghiên cứu trị liệu chứng minh tính hiệu năng của các kỹ thuật đã được công bố. Ví dụ như công trình của Meichenbaum (1977) mô tả vai trò của “lời nói được nhập tâm” (internalized speech) trong việc phát triển các rối loạn cảm xúc. Căn cứ trên các công trình lý thuyết sớm hơn của Luria (1961) và học trò của mình, Vygotsky (1962), các kỹ thuật của Meichenbaum về “huấn luyện khả năng tự hướng dẫn” (self-instructional training) thông qua sự nhẩm lại “những lời tự bạch” (rehearsal of self-statements), làm mẫu (modeling) và tự củng cố (self-reinforcement) đã chứng tỏ là đặc biệt hữu ích trong việc trị liệu trầm cảm.

Bandura (1969, 1977a, 1977b) là tác giả được biết đến nhiều nhất trong việc phát triển mô hình học tập xã hội của chứng lo âu và tính gay hấn, và ông đã phát hiện ra tầm quan trọng trung tâm của sự nhận biết về “hiệu năng của bản thân” (self-efficacy) hoặc năng lực cá nhân trong việc hướng dẫn hành vi con người. Trong việc tái công thức hóa học thuyết hành vi cổ điển, một số tác giả cho rằng hành vi con người không chỉ được dàn xếp bởi các yếu tố môi trường và yếu tố ngẫu nhiên mà do các yếu tố niềm tin và tri giác của cá nhân đó. Mô hình ABC rất thông dụng hiện nay để miêu tả sự quan hệ giữa “sự kiện đi trước” (Antecedent events), “niềm tin” (Beliefs), “hành vi” (Behavior) và “hậu quả” (Consequenses) ở mỗi cá nhân được đề nghị bởi Albert Ellis (1962, 1979, 1985) đã gợi ý rằng những hành vi kém thích nghi hoặc các chứng nhiễu tâm là có liên quan trực tiếp đến những niềm tin phi lý của một con người đối với những biến cố trong cuộc sống của họ. Ellis đã phát triển một hệ thống các kiểu thức lệch lạc hoặc sai lầm thường thấy về mặt nhận thức đồng thời phát triển một số kỹ thuật trị liệu có hướng dẫn để thay đổi chúng. Mô hình của ông cho rằng bằng cách phát hiện và thay đổi các niềm tin phi lý hoặc không thực tế có thể dẫn đến sự thay đổi các phản ứng cảm xúc và hành vi trước các sự kiện. Bởi vì những niềm tin phi lý thường khá kiên định và có tính chất lâu đời, vì vậy cần thiết có những can thiệp được tập trung cao độ và diễn tả một cách mạnh mẽ mới có thể thay đổi được. Kỹ thuật tiếp cận của ông rất tích cực và thực tiễn. Mặc dầu các nguyên lý cơ bản của liệu pháp cảm xúc hợp lý (RET: rational-emotive therapy) chưa được nghiên cứu thực nghiệm một cách rộng rãi, các kỹ thuật lâm sàng của phương pháp này ngày nay đã được sử dụng rộng rãi trong việc “công kích” vào các niềm tin phi lý. Seligman (1974, 1975) cho rằng cá nhân bị trầm cảm khi họ tin rằng họ không thể kiểm soát các kết quả quan trọng trong đời sống của họ (bao gồm cả các sự kiện tích cực lẫn các sự kiện tiêu cực hay trừng phạt). Mô hình trầm cảm “học được sự tuyệt vọng” (learned-helplessness), sau khi được cải biên bởi các tác giả Abramson, Seligman và Teasdale (1978), đã tạo nên sự quan tâm nghiên cứu thực nghiệm và gợi ý rằng sự qui lỗi bởi các thân chủ trầm cảm về nguyên nhân các sự cố trên có thể là mục tiêu quan trọng của việc trị liệu .

Rehn (1977) đã đề nghị một mô hình nhận thức - hành vi về trầm cảm tập trung vào các thiếu sót trong việc “điều hòa bản thân” (self-regulation). Đặc biệt, tác giả cho rằng các thân chủ trầm cảm biểu hiện sự kém cỏi trong việc tự quản lý bản thân mình (họ tham dự một cách chọn lọc vào các sự kiện tiêu cực và muốn có các hiệu quả tức thì thay vì chờ đợi những kết quả lâu dài từ các hành vi của mình) và họ cũng yếu kém trong khả năng tự đánh giá bản thân (họ thường chỉ trích bản thân quá đáng và có khuynh hướng đổ lỗi một cách không thích đáng về trách nhiệm của họ đối với các sự kiện tiêu cực) cũng như yếu kém trong khả năng tự củng cố bản thân (self-reinforcement) (họ không có khuynh hướng khen thưởng cho các thành công của mình và trừng phạt mình quá lố khi không đạt được các mục tiêu). Mô hình của Rehn là sự phát triển các mô hình ban đầu về điều hòa hành vi bản thân (Kanfer, 1971) và có ích lợi lâm sàng với các vấn đề hành vi nhận thức đặc thù được trải nghiệm bởi các thân chủ trầm cảm (Fuchs & Rehn, 1977).

BẰNG CHỨNG VỀ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Trị liệu nhận thức có kết quả không ? Những công trình nghiên cứu về kết quả của trị liệu nhận thức cho thấy các phương pháp này là có hiệu quả và hứa hẹn (Simon & Fleming, 1985).

Một số nghiên cứu có đối chứng được công bố trong những năm gần đây đã chứng tỏ lợi ích của trị liệu nhận thức đối với chứng trầm cảm ở người lớn (Hollon và Najavits, 1988).

Một cuộc tổng phân tích 28 nghiên cứu được thực hiện bởi tác giả Robson (1989) đã chứng minh sự thay đổi nhiều hơn nơi thân chủ được trị liệu nhận thức so với những nhóm thân chủ đối chứng không áp dụng trị liệu nhận thức, vd. nhóm được trị liệu bằng thuốc, nhóm trị liệu bằng phương pháp hành vi, hoặc các liệu pháp tâm lý khác. Ngoài ra, kết quả của các công trình khác cũng chứng minh rằng tỷ lệ tái phát bệnh khi được áp dụng liệu pháp nhận thức ít hơn phương pháp dùng thuốc (Evans, Hollon,1992; Hollon, 1990; Hollon, Shelton & Loosen, 1991, Murphy, Simons, Wetzel & Lustman, 1984), trị liệu nhận thức có tác dụng phòng ngừa sự tái phát trầm cảm sau khi kết thúc quá trình trị liệu (tác giả Beck, Hollon, Young, Bedrosian & Budenz, 1985, Blackburn, Eunson & Bishop, 1986, Kovacs, Rush, Beck & Hollon, 1881). Phải thừa nhận là các công trình nghiên cứu về kết quả của tâm lý trị liệu rất là khó khăn. Có nhiều vấn đề đặt ra như sau: phương pháp luận, khái niệm hóa và thống kê đã giới hạn sự tin tưởng của chúng ta về kết quả nghiên cứu các bảng tổng phân tích (Crits_Christoph, 1992; Garfield & Bergin, 1968).

Tuy nhiên các khám phá gần đây về hiệu quả của trị liệu nhận thức và các phương thức tâm lý trị liệu cá nhân khác là đáng khích lệ. Các báo cáo lâm sàng cho thấy trị liệu nhận thức có thể kết hợp với trị liệu thuốc (Wright, 1987, 1992; Wright & Schrodt, 1989). Điều ngạc nhiên là trị liệu nhận thức tác động tốt đến các triệu chứng nội sinh (endogenous) hoặc ”sinh học” của bệnh trầm cảm (ví dụ mất ngủ, ăn không ngon và giảm libido), ngoài ra trị liệu nhận thức có kết quả tốt với các thân chủ có thương số trí tuệ thấp và khả năng kinh tế giới hạn (Blackburn, Bishop, Glen 1981, Williams & Moorey 1989).

Trị liệu nhận thức dường như có tác dụng tốt đối với rối loạn hoảng sợ (panic disorder) (Beck, Sokol, Clark 1992) và rối loạn lo âu lan tỏa (Butler, Fennell, 1991) .

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Giống như các mô hình tâm lý học hành vi, tâm động học và quan điểm hệ thống, trị liệu nhận thức được miêu tả tốt nhất như một “trường phái tư tưởng” hơn là một lý thuyết đơn độc. Trường phái trị liệu nhận thức có thể biến thiên từ chủ nghĩa duy lý định hướng hành vi (behaviorally oriented rationalism) cho đến học thuyết kiến tạo triệt để (radical constructivism). Mặc dù những khuynh hướng tiếp cận này có đôi chút khác biệt về mặt khái niệm nhưng chúng cùng chia sẻ một số những đặc tính chung nhất.

Trị liệu nhận thức có một số những giả định cơ bản sau đây:

1. Cách thức mà mỗi cá nhân nhận định hoặc cắt nghĩa các biến cố và tình huống sẽ có vai trò điều tiết cách thức mà cá nhân ấy cảm nhận và hành xử. Nhận thức của mỗi cá nhân tồn tại trong mối quan hệ tương tác giữa cảm xúc và hành vi cùng những hậu quả của chúng trên các sự kiện xảy ra trong môi trường sống của người ấy. Như vậy, sự vận hành của con người là kết quả của sự tương tác liên tục giữa các biến số đặc hiệu của ngưòi ấy (niềm tin, các tiến trình nhận thức, cảm xúc và hành vi) và các biến số môi trường. Những biến số này có ảnh hưởng hỗ tương theo diễn tiến thời gian. Tuy nhiên, không được coi yếu tố nào là chủ yếu hoặc như là nguyên nhân đầu tiên, mà phải coi là yếu tố cá nhân và môi trường vừa là yếu tố khởi phát vừa là kết quả của tiến trình tương giao.

2. Việc diễn giải ý nghĩa của các sự kiện là có tính cách tích cực và liên tục. Việc phân tích các sự kiện giúp cho cá nhân rút ra một số ý nghĩa từ các kinh nghiệm của mình và giúp cho cá nhân hiểu được các sự việc với mục đích thiết lập nên một “môi trường sống riêng của cá nhân mình” (personal environment) cũng như cách đáp ứng của người ấy đối với các sự kiện. Kết quả là, các chức năng về cảm xúc và hành vi được xem là có mục đích và có tính thích ứng. Con người được xem là những người tìm kiếm, nhà sáng tạo và sử dụng thông tin một cách tích cực (Turk & Salovey,1985).

3. Mỗi con người có thể phát triển nên những hệ thống niềm tin đặc thù của mình từ đó hướng dẫn cho các hành vi của người ấy. Niềm tin và giả thuyết ảnh hưởng trên tri giác và trí nhớ cá nhân, từ đó hướng dẫn trí nhớ được kích hoạt khi có các kích thích hoặc có các sự kiện đặc hiệu. Mỗi cá nhân trở nên nhạy cảm với các tác nhân đặc hiệu gồm có các biến cố bên ngoài và các kinh nghiệm cảm xúc bên trong. Niềm tin và các giả định góp phần vào khuynh hướng khiến cho đương sự tham gia một cách chọn lọc và tiếp nhận thông tin nào phù hợp với hệ thống niềm tin vốn có, và “bỏ qua” những thông tin nào không phù hợp với những niềm tin ấy .

4. Các yếu tố gây stress do vậy sẽ góp phần vào sự tổn hại hoạt động nhận thức cá nhân đồng thời hoạt hoá các đáp ứng cũ kỹ và kém thích ứng của người ấy. Ví dụ: một người tin rằng lái xe trên xa lộ rất là nguy hiểm và do đó lái xe rất chậm nên anh ta bị tai nạn xe cộ, sự kiện này sẽ tăng cường niềm tin sai lệch của anh ta là lái xe trên xa lộ rất là nguy hiểm.

5. Giả thuyết về “tính chuyên biệt của hoạt động nhận thức” (cognitive specificity hypothesis) cho rằng các hội chứng lâm sàng và các trạng thái cảm xúc có thể phân biệt đuợc dựa vào nội dung của các hệ thống niềm tin và các tiến trình nhận thức đã được kích hoạt.

Nền tảng của trị liệu nhận thức dựa vào các hệ thống niềm tin và ý nghĩa. Nền tảng kiến thức cung cấp cho chúng ta những lăng kính mà thông qua đó chúng ta diễn giải ý nghĩa của những trải nghiệm và những kỳ vọng đã hướng dẫn chúng ta trong việc đề ra những kế hoạch và mục đích sống. Những niềm tin của chúng ta có thể đã có sẵn trong phần ý thức (như trường hợp những “ý nghĩ tự động”: automatic thoughts) hoặc có thể ở dạng tiềm ẩn, chưa được nhận rõ (như những “sơ đồ”: schemata). Việc sử dụng thuật ngữ “hệ thống những ý nghĩa” (meaning system) cho thấy những nền tảng kiến thức và cách thức xử lý thông tin của chúng ta là có tính tổ chức và có bố cục mạch lạc. Từ quan điểm này, hành vi của con người được xem là vừa có định hướng mục đích vừa có tính sáng tạo. Hành vi dựa trên những luật lệ và niềm tin ngầm ẩn được hình thành và củng cố qua suốt thời gian sống trong cuộc đời của mỗi người. Giống như những đáp ứng cảm xúc và những kỹ năng hành vi, các tiến trình nhận thức cũng có tính thích nghi. Các tiến trình nhận thức được xem là có vai trò trung tâm trong việc tổ chức các đáp ứng của chúng ta đối với cả những sự kiện thường ngày lẫn những thách thức lâu dài trong cuộc sống. Các tiến trình nhận thức không vận hành độc lập với cảm xúc và hành vi. Thay vì thế, chúng cùng hợp thành một hệ thống thích nghi thống nhất (integrated adaptive system) (Leventhal, 1984; R. Lazarus, 1991). Cũng giống như cảm xúc và hành vi, các tiến trình nhận thức không thể tách rời khỏi các chức năng về sinh học và xã hội. Hoạt động nhận thức của con người vừa phụ thuộc vào, vừa có ảnh hưởng đối với các chức năng của não bộ, và nhận thức cũng được hình thành trong bối cảnh xã hội. Để hiểu về hoạt động nhận thức, chúng ta phải hiểu các tác động và sự vận dụng của trí hiểu biết. Để hiểu được cảm xúc, chúng ta phải hiểu được nhận thức và cái cấu trúc kiến tạo mà hệ thống các ý nghĩa áp đặt lên trên đó.

Khi nói đến “nhận thức”, chúng ta không tự giới hạn mình ở chỗ chỉ nói về những “ý nghĩ tự động” – tức là những ý nghĩ và niềm tin bao gồm trong dòng ý thức liên tục của một con người; nhận thức còn bao gồm các tri giác, ký ức, kỳ vọng, những chuẩn mực, hình tượng, những quy kết, kế hoạch, mục đích và các niềm tin ẩn ngầm. Những biến số trong hoạt động nhận thức, do vậy, bao gồm những suy nghĩ trong tầng ý thức nhận biết được cũng như những kiến tạo và tiến trình nhận thức được suy diễn ra (Kihlstrom, 1987, 1988; Meichenbaum & Gilmore, 1984; Safran, Vallis, Segal & Shaw, 1986).

MÔ HÌNH CƠ BẢN CỦA TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Mô hình trị liệu nhận thức cho rằng ba biến số đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành và duy trì các rối loạn tâm lý gồm có:

• Bộ ba nhận thức (cognitive triad)

• Các sơ đồ (schemata)

• Nhận thức sai lệch (bóp méo)

Bộ ba nhận thức (Cognitive Triad)

Aaron Beck là tác giả đầu tiên đưa ra khái niệm về “Bộ ba nhận thức” (cognitive triad) như là một phương tiện mô tả các tư tưởng và các giấc mộng tiêu cực của những thân chủ trầm cảm nằm viện nội trú (Beck, 1963). Ông đã nhận thấy tư tưởng của người trầm cảm bao gồm các suy nghĩ rất tiêu cực về bản thân mình, về thế giới bên ngoài và về tương lai. Ngược lại, các thân chủ lo âu suy nghĩ khác với thân chủ trầm cảm trên ba lãnh vực trên. Họ có khuynh hướng xem thế giới xung quanh và những người khác là rất đáng sợ và luôn duy trì một thái độ thận trọng, cảnh giác đối với cuộc sống tương lai. Khái niệm về bộ ba nhận thức đóng vai trò nhưng một khuôn khổ hữu dụng để xem xét những ý nghĩ tự động và các niềm tin ẩn giấu sau những gì người bệnh đang mô tả. Thật vậy, các vấn đề tâm lý của thân chủ đều có thể liên quan đến những niềm tin không thích nghi và kém chức năng ở một trong số ba lãnh vực trên. Do vậy, khi bắt đầu việc trị liệu, điều cần thiết là nên hỏi bệnh nhân nói ra những ý nghĩ của họ về bản thân mình, về thế giới bên ngoài và về tương lai. Do những niềm tin và thái độ sống luôn có tính đặc thù cá nhân, chúng ta nên tiên liệu rằng sẽ có sự khác biệt đặc hiệu về nội dung của những ý nghĩ về bản thân, về thế giới xung quanh và về tương lai giữa những bệnh nhân khác nhau. Bằng cách đánh giá mức độ can dự của những ý nghĩ vào từng lĩnh vực khiến người bệnh cảm thấy đau khổ mà nhà trị liệu có thể có khái niệm về những mối bận tâm của họ.

Sơ đồ (schemata)

Khái niệm sơ đồ đóng một vai trò quan trọng trong mô hình nhận thức của các vấn đề rối loạn cảm xúc và hành vi. Khái niệm này, được Kant khởi xướng đầu tiên, và gần đây hơn nó được sử dụng bởi những nhà tâm lý theo trường phái của Piaget, để chỉ những cấu trúc nhận thức tiềm ẩn nhưng có tổ chức, mà theo Segal (1988) nó “tổng hợp các thành tố từ những phản ứng và trải nghiệm trong quá khứ để tạo nên một cấu trúc tri thức tương đối bền vững và hằng định có khả năng hướng dẫn tri giác và sự nhận định của đương sự”. Được tồn trữ trong ký ức như những quá trình khái quát hóa các trải nghiệm đặc thù và những khuôn mẫu cho các hoàn cảnh đặc thù, sơ đồ sẽ cung cấp tiêu điểm và ý nghĩa cho việc tiếp nhận các thông tin.

Mặc dù không nằm trong tầng ý thức của chúng ta, các sơ đồ vẫn điều khiển sự chú tâm của chúng ta hướng đến các yếu tố trải nghiệm hằng ngày nào có tầm quan trọng nhất trong sự tồn tại và thích ứng chúng ta. Do vậy, các sơ đồ được xem là có ảnh hưởng đến các tiến trình nhận thức như sự chú ý, sự giải mã (encoding), sự hồi tưởng (retrieval) và sự suy luận (inference). Cá nhân có xu hướng tiếp thu (assimilate) các trải nghiệm vào trong các sơ đồ có sẵn hơn là điều ứng (accommodate) để thay đổi sơ đồ theo các sự kiện không mong đợi hoặc nghịch ý (Fiske & Taylor, 1984; Kovacs & Beck, 1978; Meichenbaum & Gilmone, 1984). Nghĩa là chúng ta có khuynh hướng tiếp nhận các trải nghiệm mới dựa trên những gì mà chúng ta đã tin tưởng, thay vì thay đổi các quan điểm có sẵn trước đây của chúng ta. Trong bài hát “Võ sư quyền Anh” của mình, Paul Simon đã quan sát “một người đàn ông nghe những gì ông ta muốn nghe và bỏ qua các phần khác còn lại.

Ngoài những biểu trưng và khuôn mẫu cho các sự kiện, sơ đồ còn thống hợp các “giá trị cảm xúc” (affective valences) liên quan đến các sự kiện. Từ quan điểm này, sẽ là lầm lẫn nếu cố phân định sự khác biệt giữa những phương pháp tâm lý trị liệu “lạnh lùng” về nhận thức với những cách tiếp cận “nồng ấm” theo kiểu tập trung vào cảm xúc. Hơn nữa, hai bình diện cảm xúc và nhận thức cũng là những thành phần có tương tác qua lại bên trong một hệ thống thích nghi thống nhất (integrated adaptive system) (Leventhal, 1984).

Các sự kiện xảy ra trong đời sống sẽ hoạt hóa cả nội dung của tư tưởng lẫn các cảm xúc kèm theo. Sơ đồ nhận thức có thể mô tả một cách chính xác hơn như là một cơ cấu nhận thức - cảm xúc (cognitive-emotional structure). Theo GS. Flavell (1963), các phản ứng nhận thức và cảm xúc vận hành một cách phụ thuộc lẫn nhau giống như hai mặt của đồng tiền. Quan điểm này rất hữu dụng về mặt thực hành lâm sàng, ở chỗ nó hướng dẫn chúng ta có thể khám phá được những ý nghĩ của một thân chủ khi người này đang giãi bày những cảm xúc rất mạnh mẽ, cũng như có thể suy luận ra được những cảm xúc của thân chủ khi người này đang tự mô tả về một niềm tin kiên định và kém thích nghi.

Các sơ đồ được hình thành ở những cá nhân như là những biểu trưng về các sự kiện. Chúng phát sinh, duy trì và được củng cố thông qua các tiến trình đồng hóa (assimilation) và điều ứng (accommodation) đối với những trải ngiệm xa lạ (Rosen, 1985, 1989). Những tiến trình thích nghi này tiềm ẩn bên dưới hiệu quả của những can thiệp về mặt hành vi. Việc trình bày và huấn luyện về hành vi giúp cho thân chủ có được những trải nghiệm và chứng cứ không phù hợp với những niềm tin mà họ vốn có. Những thay đổi về cảm xúc cũng như hành vi không được xem là bắt nguồn từ việc học tập và từ các tác nhân củng cố; thay vì thế, những thay đổi xảy ra là do có sự điều chỉnh những niềm tin mà thân chủ đang có và có sự tạo lập những niềm tin mới để thay thế. Nói chung, để thay đổi những cảm xúc của một con người, ta phải thay đổi những suy nghĩ và niềm tin nơi người đó. Như Kegan (1982) nhận thấy: sự thay đổi về hành vi và cảm xúc hàm chứa một “một tiến trình về mặt ý nghĩa” (an evolution of meaning).

Ngoài những niềm tin về thế giới bên ngoài và các mối quan hệ xã hội, chúng ta cũng hình thành nên những niềm tin tương đối bền vững (dù không mô tả ra) về chính chúng ta. Các sơ đồ về bản thân (self-schemata) này bao gồm những tiến trình khái quát hoá nhận thức, được sử dụng như một khuôn mẫu từ đó mỗi cá nhân có thể tri giác và ghi nhận những thông tin về chính mình (Turk & Salovey,1985). Giống như những sơ đồ khác, sơ đồ bản thân định hướng cho những hoạt động tri giác, ghi nhận, phục hồi và sử dụng thông tin theo một cách thức phù hợp với sơ đồ. Sơ đồ về bản thân thường được hình thành rất công phu và kết hợp với các cảm xúc mạnh mẽ, vì thế rất khó có thể bị thay đổi

Ví dụ những người bị trầm cảm nặng thường duy trì sơ đồ về bản thân như sau: “tôi có nhiều khuyết điểm” (bản thân) và “những người xung quanh tôi không thể tin cậy được” (xã hội). Ngược lại những cá nhân đầy giận dữ, có thể không tin rằng mình có khuyết điểm (bản thân), tuy nhiên, họ có khuynh hướng tin rằng thế giới là nguy hiểm (xã hội) và con người thì có tính ma mãnh (xã hội). Mặc dầu những niềm tin này không thể là thành phần của những suy nghĩ hằng ngày, những niềm tin này có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi và các phản ứng của họ đối với người khác.

Như đã nhận xét, sơ đồ được củng cố và phát triển suốt thời gian còn bé đến tuổi thiếu niên. Tuy nhiên các sơ đồ kém thích ứng ít khi do các trải nghiệm gây sang chấn đơn lẻ, chúng có các giá trị thích ứng và có thể đại diện cho sự “nhập nội” liên tục những hành vi của cha mẹ. Những bậc cha mẹ có tính không nâng đỡ, hay trừng phạt, hoặc có những hành xử khó dự đoán trước đối với con cái của mình, thì sau này về già cũng cư xử như vậy. Niềm tin non nớt của true “Những nhu cầu của mình không sẽ không được ai đáp ứng cả”, “Mình xấu, không giỏi dang” hoặc “Mình phải phục tùng chịu sự kiểm soát của người khác để khỏi chịu sự trừng phạt”, ban đầu được âm thầm thể hiện như sự ghi nhận chủ quan về các trải nghiệm trong quá trình tương tác, kế đó sẽ được phát triển và củng cố bởi các sự kiện sau này.

Những niềm tin và các kiểu xử lý thông tin này sau đó được hoạt hóa bởi các sự kiện tương tự như các trải nghiệm trong quá trình phát triển đầu đời (Infram, 1989). Khi sự hoạt hóa của trí nhớ lan tỏa xuyên suốt các mối liên kết bên trong mạng lưới sơ đồ, những ký ức, kỳ vọng và cảm xúc liên quan đến sự kiện sẽ được hoạt hóa. Nếu sơ đồ được hình thành rất chi li, đương sự sẽ trở nên gắn chặt với sự kiện. Khi những suy nghĩ về sự yếu đuối cá nhân, sự tuyệt vọng, sự bất mãn trở nên chế ngự, đương sự sẽ trở nên ít hoạt động, ít tham gia xã hội và tính tình trở nên trầm cảm và tuyệt vọng. Các quan sát của đương sự về chính mình trong trạng thái này chỉ cung cấp nhiều chứng cớ về sự bất lực và góp phần làm tồi tệ thêm các vấn đề trong quan hệ xã hội của họ. Cả hành vi lẫn cảm xúc, theo cách nhìn trên là có tính cách thích ứng. Các cá nhân hành động theo chiều hướng những kết quả mà họ mong ước và những kỳ vọng mà họ duy trì. Hành vi bị ảnh hưởng bởi những ý định và mục tiêu được định đặt trước, bởi những kế hoạch tiếp theo sau và chỉ huy nó, cùng những tiêu chí đặt ra để thành công trong việc tranh chấp với những gì ngược lại với nó. Vì vậy, hành vi của chúng ta là đáp ứng lại với những phản hồi từ môi trường sống, trong đó nó được so sánh với một mục tiêu hoặc một trạng thái mong đợi trên một nền tảng liên tục và được thích ứng để bù trừ lại với sự tương phản. Từ quan điểm trên, hành vi con người là được cơ cấu và có tổ chức. Nó được hướng dẫn bởi các quy luật ngầm hay các cơ cấu nhận thức .

Sơ đồ đóng một vai trò trung tâm trong việc diễn tả các rối loạn lâm sàng, giải thích được sự bền vững của hành vi theo thời gian và sự liên tục trong cảm nhận về bản ngã trong cuộc đời của một con người. Các quy luật ngầm, những giả định và niềm tin đóng vai trò như nguồn gốc của những nhận thức sai lệch nơi thân chủ. Các sơ đồ thường được lưu giữ mạnh mẽ và được xem là cần thiết cho sự an toàn, hạnh phúc, hoặc hiện hữu của mỗi cá nhân. Các sơ đồ được gia cố rất sớm lúc còn bé, được củng cố mạnh mẽ bởi cha mẹ và thường được đánh giá cao trên kiểu nhân cách của cá nhân. Sơ đồ, giống như những niềm tin, ít khi vận hành riêng lẻ. Giống như các sai lệch nhận thức, mà ta sắp bàn, các sơ đồ xảy ra trong những kết hợp, chuyển biến phức tạp .

Nhận thức sai lệch

Có vô số những thông tin tác động trên đời sống hằng ngày của chúng ta, do đó ta phải chọn lựa những sự việc nào hay kích thích nào là quan trọng nhất cho sự thích ứng và sống còn của chúng ta. Một số sự việc sẽ được xem xét, được nhớ lai, và được nghĩ đến; một số sự việc khác sẽ bị bỏ qua, không biết đến và quên đi vì không đáng quan tâm hay không quan trọng .

Khi các khả năng chú ý và phân tích thông tin của chúng ta bị giới hạn, có thể xảy ra một số sai lệch trong các trải nghiệm sống của chúng ta. Tri giác, ký ức và suy nghĩ của một người có thể méo mó theo một số cách thức thích ứng hay không thích ứng. Ví dụ một số cá nhân có thể nhìn đời sống một cách tích cực nhưng không thực tế và họ cho rằng họ có thể ảnh hưởng hoặc kiểm soát được đời sống mà thực ra họ không thể làm được. Họ có thể nắm bắt những cơ hội mà hầu hết những người khác đều tránh, ví dụ như khởi sự một doanh nghiệp mới hay mạo hiểm đầu tư vào thị trường chứng khoán mới.

Tuy nhiên, sự lệch lạc như thế có thể tạo thành vấn đề khiến một người tìm cách nắm bắt các cơ hội mà rốt cuộc có thể chuốc lấy những nguy hiểm. Ví dụ: họ có thể cảm thấy đau ngực dữ dội mà không khám bác sĩ mà cho rằng “không có điều gì xảy ra cho tôi vì tôi còn quá trẻ và khỏe mạnh nên khó bị cơn đau tim”. Chính sự nhận thức sai lệch, kém thích nghi và tiêu cực là mục tiêu của trị liệu nhận thức.

Một công việc của trị liệu là làm cho sự lệch lạc nhận thức ấy được nêu rõ và giúp thân chủ nhận ra tác động của những nhận thức lệch lạc ấy đối với cuộc sống của mình. Như vậy, lệch lạc nhận thức biểu hiện cách xử lý thông tin kém thích ứng và có thể trở thành biểu tượng của các kiểu hành vi đặc biệt hay của một hội chứng lâm sàng nào đó.

Sau đây là một số kiểu mẫu lệch lạc về nhận thức và những kiểu bệnh nhân tiêu biểu. Đây chưa phải là một danh sách toàn diện mà chỉ dùng để minh họa nhiều hơn.

1. Tư duy lưỡng phân (dichotomous thinking)

“Các sự vật này trắng hoặc đen”; “Bạn hoặc là theo tôi hoặc là chống lại tôi”. Ở một mức độ cực đoan, khuynh hướng suy nghĩ tất cả hoặc không có gì hết, thường gặp trong nhân cách ranh giới (borderline personality) và ám ảnh xung động

2. Đọc được suy nghĩ (mind reading)

“Họ có thể suy nghĩ rằng tôi là người bất tài”; “Tôi biết rằng, họ sẽ không chấp nhận”. Kiểu suy nghĩ này thường gặp trong rối loạn nhân cách tránh né và hoang tưởng.

3. Lý luận có tính cảm xúc (emotional reasoning)

“Bởi vì tôi thấy mình yếu kém cho nên tôi yếu kém”; “Bởi vì tôi cảm thấy không thoải mái, nên thế giới này là nguy hiểm”; “Vì tôi cảm thấy bực bội, nên chắc hẳn là có điều gì đó không đúng”. Các suy nghĩ lệch lạc này thường xảy ra nơi các thân chủ bị lo âu và hoảng sợ.

4. Cá nhân hóa (personalization)

“Lời bình luận đó không phải là tình cờ, tôi biết nó đang hướng về tôi”; “Các vấn đề luôn luôn xuất hiện khi tôi vội vã”. Ở mức độ cực đoan, các suy nghĩ này hay xảy ra các thân chủ rối loạn nhân cách tránh né và hoang tưởng.

5. Tổng quát hóa quá mức (overgeneralization)

“Mọi việc tôi làm trở nên sai lầm”; “Bất cứ vấn đề gì tôi chọn lựa, chúng luôn thất bại”. Ở mức độ cực đoan, các suy nghĩ này hay xảy ra ở những cá nhân bị trầm cảm.

6. Bi thảm hóa (catastrophizing)

“Nếu tôi đến dự tiệc, sẽ có nhiều hậu quả khủng khiếp”; “Tốt hơn là tôi không nên thử bởi vì tôi có thể thất bại và điều đó rất là kinh khủng”; “Tim tôi đập nhanh hơn, sẽ xảy ra cơn đau tim”. Ở mức độ cực đoan, sự lệch lạc này là đặc điểm của rối loạn lo âu, đặc biệt là ám ảnh sợ xã hội và hoảng loạn (panic).

7. Các mệnh đề “nên” (“should”statements)

“Tôi nên thăm gia đình tôi mỗi khi họ muốn như thế”; “Họ nên làm điều tôi nói bởi vì điều đó đúng”. Ở mức độ cực đoan các suy nghĩ này hay xảy ra ở các cá nhân bị ám ảnh cưỡng chế và ở những người cảm thấy nhiều tội lỗi.

8. Sự trừu tượng chọn lọc (selective abstractions)

“Phần thông tin còn lại là hiển nhiên, không có gì đáng bàn”; “Tôi đã tập trung vào những chi tiết tiêu cực, những điều tích cực xảy ra không đáng kể”. Các suy nghĩ này thường hay xảy ra ở những người trầm cảm.

Các lệch lạc nhận thức thông thường khác bao gồm: “không thấy mặt tích cực”, “ tuyệt đối hóa” và “phô diễn giá trị bản thân”. Sự giả tạo và sự lệch lạc niềm tin thường tập trung vào mong ước kiểm soát các sự kiện, giá trị của sự tự phê, buồn rầu , bỏ qua những vấn đề và niềm tin về sự công bằng và tính ổn định trong các mối quan hệ.

THỰC HÀNH TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Một yếu tố chung cho các mô hình trị liệu nhận thức - hành vi là nhấn mạnh việc giúp đỡ thân chủ xem xét cách thức mà họ tạo dựng hay hiểu biết về bản thân và thế giới của họ (nhận thức) và thực nghiệm các cách thức mới mẻ để đáp ứng (hành vi).

Bằng cách tìm hiểu cách thức riêng mà thân chủ có được những nhận định về chính mình, thế giới xung quanh và triển vọng tương lai, nhà trị liệu có thể giúp thân chủ có thể thay đổi các cảm xúc tiêu cực và hành động một cách thích ứng .

Trong thực tế, trị liệu nhận thức bao gồm những tính chất sau:

• Được cấu trúc tốt, chủ động và định hướng theo vấn đề (problem oriented)

• Thời gian giới hạn và có chiến lược

• Sử dụng mối quan hệ trị liệu có tính hợp tác.

• Sử dụng các kỹ thuật tâm lý giáo dục (psychoeducational techniques)

• Trợ giúp việc học tập kỹ năng.

• Sử dụng các câu hỏi theo phương pháp Socrate (Socratic questioning)

• Đặt nền tảng trên các mô hình xây dựng tư duy và hành vi.

• Sử dụng mô hình ứng phó (coping) và làm chủ (mastery)

Có lẽ điểm mạnh nhất của trị liệu nhận thức là tính cấu trúc tốt, tính tập trung và định hướng vấn đề. Trị liệu nhận thức cố gắng phát hiện mục tiêu đặc thù, đo lường được và di chuyển nhanh chóng trực tiếp vào những lãnh vực đã tạo nên những khó khăn lớn nhất cho thân chủ. Cách tiếp cận này tương tự với liệu pháp tâm động học (psychodynamic) và liệu pháp tương tác liên cá nhân ngắn hạn và tạm thời (Crits_Chistoph & Barber, 1991).

Ngoài ra trị liệu nhận thức còn có tính chiến lược (strategic) và thường có hạn định thời gian (time-limited). Trị liệu nhận thức chia việc trị liệu làm 3 giai đoạn: khởi đầu, diễn tiến và kết thúc. Mỗi một giai đoạn trị liệu có một mục tiêu riêng biệt (Beck & cs, 1975) luôn giữ mục tiêu này trong tâm trí để có thể tác động lean các vấn đề của thân chủ một cách hệ thống. Giống như các hình thức tâm lý trị liệu khác, trị liệu nhận thức cố gắng cải thiện các tiến trình xảy ra ẩn ngầm đã tạo nên sự khó chịu cho thân chủ. Tuy nhiên, khác với phương pháp phân tâm, nó có thể sử dụng các kỹ năng tâm lý giáo dục và tìm cách cung cấp cho thân chủ những kỹ năng để đối phó với các cảm giác lo âu, trầm cảm, giận giữ, hay cảm giác tội lỗi khi chúng xuất hiện. Nó không giả định bảo vệ cá nhân khỏi những khó chịu trong tương lai. Lo âu, trầm cảm và tội lỗi có thể đóng một vai trò cần thiết và thích ứng trong đời sống con người. Tri liệu nhận thức tìm cách trang bị cho thân chủ những kỹ năng để hiểu biết và quản lý chúng. Trị liệu nhận thức bao gồm các mô hình làm chủ và ứng phó.

Một lý do mà cá nhân có thể trải nghiệm sự khó khăn khi ứng phó với các kích thích bên trong và bên ngoài đó là sự thiếu các kỹ năng cơ bản. Các kỹ năng nhận thức và hành vi để điều hoà cảm xúc sẽ phát triền theo suốt quá trình phát triển của cá nhân thông qua sự tương tác được cấu trúc tốt với những người chăm sóc hỗ trợ cho thân chủ. Những kỹ năng này bao gồm khả năng đáp ứng với các tư tưởng gây trầm cảm, lo âu, những kỹ năng quan hệ liên cá nhân giúp thân chủ ứng phó trong các tình huống xã hội, khả năng điều hành và duy trì sự chú ý, cùng với khả năng phát hiện các cảm xúc tiêu cực khi chúng mới bắt đầu trỗi dậy nhờ vậy mà đương sự có thể tiếp cận chúng ngay lúc ấy và có những hành động thích ứng đối với chúng. Một nhân tố quan trọng của trị liệu nhận thức là thúc đẩy các kỹ năng và ý thức về năng lực bản thân của thân chủ để họ có thể thực hiện các yêu cầu cuộc sống hiệu quả hơn, từ đó có được một ý thức tốt hơn về khả năng kiểm soát cuộc sống và hiệu năng của bản thân. Huấn luyện các kỹ năng xã hội, huấn luyện thư giãn và các bài tập kiểm soát sự giận dữ là những ví dụ.

Mối quan hệ trị liệu trong liệu pháp nhận thức

Theo Truax and Carkhulf (1964), một nhà trị liệu có thái độ nhiệt thành, “không chiếm hữu”, thấu cảm và trung thực sẽ đạt nhiều kết quả hơn những nhà trị liệu thiếu các thái độ ấy. Trị liệu nhận thức xác nhận sự quan trọng hàng đầu của các biến số quan hệ không đặc thù trên, trong sự giúp thay đổi thân chủ, nhưng đó chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ trong việc cải thiện kết quả trị liệu. Nghĩa là việc phát triển một quan hệ nồng nhiệt, đồng cảm và chân thành, theo quan điểm trị liệu nhận thức, không nhất thiết tạo ra sự thay đổi hành vi và cảm xúc. Mối quan hệ trị liệu nên có tính cách hợp tác. Danh từ cộng tác trị liệu (therapeutic collaboration) được sử dụng thường xuyên trong trị liệu nhận thức và liên quan đến một hình thức đặc biệt của mối quan hệ thân chủ – nhà trị liệu. Nhà trị liệu được coi là người cùng khảo sát (co-investigator), làm việc với thân chủ để giúp đỡ họ cảm nhận được những trải nghiệm và cảm xúc của mình bằng cách thăm dò những suy nghĩ, hình ảnh và cảm xúc của thân chủ.

Các câu hỏi theo cách của Socrate (socratic questioning) thường được sử dụng như những phương tiện để giúp cho thân chủ hiểu biết được những suy nghĩ của mình và cách thức mà những niềm tin của họ có ảnh hưởng đến cảm xúc và hành động. Beck và cs. (1989) đã phát biểu “Mối quan hệ trị liệu được sử dụng không chỉ là một dụng cụ để làm giảm bớt sự đau khổ mà còn được coi như một phương tiện để thúc đẩy những nỗ lực chung trong việc thực hiện các mục tiêu đặc thù.

Mối quan hệ trị liệu trong trị liệu nhận thức rất khác mối quan hệ trị liệu theo mô hình tâm động học. Nhà trị liệu nhận thức không sử dụng mình như một “tấm màn trắng tinh” (blank screen) để những xung động và ước muốn của thân chủ phóng chiếu qua mối quan hệ chuyển di. Tương tự, nhà trị liệu nhận thức không chấp nhận tính khách quan trong các quan điểm và tầm nhìn của thân chủ một cách không truy xét. Trong khi đang phát hiện các sai lệch về nhận thức và tri giác của thân chủ, nhà trị liệu nhận thức khuyến khích thân chủ xem xét suy nghĩ của mình như là một đối tượng khách quan và lượng giá các giá trị và tính thích ứng của chúng một cách hợp lý. Những suy nghĩ kém thích ứng và sai lệch được xem là “giả thuyết” (hypothesis) cần phải trắc nghiệm lại.

Sự hướng dẫn của nhà trị liệu có thể thích ứng trong tiến trình trị liệu tùy thuộc vào nhu cầu của thân chủ. Với thân chủ trầm cảm nặng bị tê liệt bởi sự trì trệ tâm vận động và cảm giác tuyệt vọng, nhà trị liệu có thể sử dụng một vị thế có tính khẳng định hơn và hướng dẫn nhiều hơn. Có thể sử dụng các can thiệp hành vi để “kích hoạt” thân chủ. Ngược lại, nếu làm việc với những thân chủ rất thụ động và lệ thuộc thì sử dụng một tư thế ít có tính hướng dẫn hơn. Một thân chủ khi nói “Thưa bác sĩ, hãy bảo tôi phải làm gì” hẳn là người cảm thấy mình không thể đương đầu với những vấn đề thường ngày, và vì thế đang tìm kiếm sự nâng đỡ và hướng dẫn của người khác. Ở trường hợp này, nhà trị liệu có thể chuyển cho anh ta một phần trách nhiệm trong việc phát hiện ra các vấn đề riêng của mình, phát hiện và lượng giá các tư tưởng tự động và phát triển các bài tập làm ở nhà. Nên tìm cách để khuyến khích anh ta nhận trách nhiệm điều khiển việc trị liệu và thảo luận với anh ta về sự thụ động của anh ta đối với nhà trị liệu và đối với những người khác trong cuộc đời của mình .

Mối quan hệ chuyển di (transference relationship) cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc trị liệu nhận thức (Safran & Segal, 1990). Hành vi của thân chủ đối với nhà trị liệu có thể phản ánh sự hoạt hóa của các sơ đồ (cũng như nhà trị liệu cũng có những đáp ứng về hành vi và cảm xúc đối với thân chủ). Những trải nghiệm của thân chủ trong các phiên trị liệu có thể dùng như chứng cứ để tranh luận về các niềm tin.

Hơn nữa, sơ đồ hoạt hóa trong mối quan hệ trị liệu, bằng nhiều cách, có thể tương tự như những sơ đồ được hoạt hóa trong mối quan hệ của thân chủ với người khác. Nhà trị liệu làm việc, bằng cách sử dụng các câu hỏi theo kiểu Socrate để giúp thân chủ ý thức nhiều hơn về những suy nghĩ, cảm xúc, tri giác của họ, bao gồm cả những suy nghĩ, cảm xúc, tri giác về mối quan hệ trị liệu. Những cách thức tương tác của thân chủ đối với người khác có thể được thể hiện cô đọng bên trong mối quan hệ của họ với nhà trị liệu. Những tình trạng hỗ loạn, giận dữ, nhẫm lẫn, lo âu, tránh né, ganh tỵ, tuyệt vọng, sợ hãi, giận hờn và sự thu hút mà người bệnh phô diễn với nhà trị liệu không nhất thiết là phản ứng lại với các hành vi đặc thù của nhà trị liệu. Theo ý nghĩa trên, cơ cấu nhận thức của “sự hoạt hóa các sơ đồ” tương tự với khái niệm “chuyển di” của trường phái phân tâm. Tuy nhiên, lý thuyết nhận thức không cho rằng việc diễn giải sự chuyển đi là cơ chế của sự thay đổi trong trị liệu, hoặc các tương tác trong mối quan hệ trị liệu biểu thị của sự tóm tắt của mối tương tác của mẹ và con lúc còn bé giống như trường phái phân tâm.

Mặc dầu có sự tương đồng cơ bản giữa các tiến trình thay đổi trong tâm lý trị liệu với các tiến trình phát triển, trị liệu nhận thức không cho rằng sự thay đổi trị liệu đặt nền tảng trên sự tái cấu trúc những trải nghiệm phát triển trong bối cảnh quan hệ trị liệu nâng đỡ .

ĐÁNH GIÁ VÀ LÊN KẾ HOẠCH TRỊ LIỆU

Điều kiện kiên quyết cho phép diễn ra sự thay đổi do trị liệu là cần phải thiết lập được sự hợp tác trị liệu đáng tin cậy. Mục tiêu đầu tiên trong trị liệu nhận thức là thiết lập mối quan hệ, thông qua sự lắng nghe tích cực và thấu cảm. Thân chủ cần cảm thấy là họ được lắng nghe và các quan tâm của họ được hiểu biết và chấp nhận bởi nhà trị liệu. Nhà trị liệu nhận thức khuyến khích và làm cho thân chủ có thể phát biểu dễ dàng, xúc tiến sự trải nghiệm cảm xúc trong phiên trị liệu, phát hiện kiểu cách lập lại nhiều lần trong hành vi và suy nghĩ của thân chủ, chỉ ra sự sử dụng các chiến lược đối phó sai lệch hoặc các lệch lạc và lôi kéo thân chủ chú ý đến các cảm giác và suy nghĩ mà họ cảm thấy xáo trộn. Tuy nhiên, trước khi thực hiện các can thiệp đặc thù, cần kiểm tra lại lịch sử phát triển gia đình, xã hội, nghề nghiệp, giáo dục và tình trạng sức khỏe tâm thần của thân chủ một cách thận trọng. Những dữ liệu này cần thiết trong việc giúp đỡ việc chuyển đổi những than phiền hiện tại của thân chủ thành bản liệt kê các vấn đề để làm việc và hình thành một khái niệm về trị liệu (Persons, 1989). Việc thiết lập bảng liệt kê từng vấn đề riêng lẻ sẽ giúp cho cả thân chủ và nhà trị liệu có được ý niệm về sự trị liệu đang đi đến đâu, một khung thời gian tổng quát và là một phương tiện đánh giá sự tiến bộ trị liệu. Sau khi đã nhất trí về bảng liệt kê các vấn đề và một tiêu đích cho việc trị liệu, một chương trình sẽ được đề ra cho từng phiên trị liệu.

Sự xem xét lại các cảm xúc và trải nghiệm của thân chủ trong các phiên trị liệu lần trước sẽ liên tục tạo thành một dòng dữ liệu để từ đó phát triển nên một chương trình trị liệu. Sự nhận dạng vấn đề ở một khâu nào đó trong chương trình trị liệu sẽ trực tiếp dẫn đến việc cần thiết phải xem xét các cảm xúc và suy nghĩ của thân chủ trong những tình huống sống mới xảy ra gần thời điểm đó. Việc cấu trúc tốt các phiên trị liệu thông qua sự thiết lập một chương trình trị liệu có thể giúp duy trì các trọng tâm chiến lược của việc trị liệu. Những vấn đề đặc thù có thể được phát hiện, nhờ vậy nhà trị liệu và thân chủ có thể sử dụng hiệu quả nhất thời gian của họ. Thiết lập một chương trình từ lúc bắt đầu trị liệu giúp cho thân chủ và nhà trị liệu mang ra bàn bạc các vấn đề được quan tâm. Ngoài ra, nó cho phép có sự liên tục giữa các phiên trị liệu, nhờ vậy các phiên trị liệu không còn là những sự kiện rời rạc, riêng lẻ nữa mà sẽ trở thành một tiến trình tổng thể chặt chẽ. Sau đây là một chương trình tiêu biểu của trị liệu.

1. Thảo luận các sự việc trong tuần qua và cảm giác về vấn đề trị liệu trước đây.

2. Ôn lại thang điểm tự báo cáo (self-report scales) được thân chủ điền vào các chi tiết trước mỗi phiên trị liệu.

3. Ôn lại các tiết mục của chương trình còn lại của phiên trị liệu trước đây.

4. Ôn lại bài tập ở nhà của thân chủ. Thảo luận về những thành công hoặc những vấn đề của thân chủ khi thực hiện các bài tập ở nhà, cũng như kết quả của chúng.

5. Các vấn đề hiện tại cũng được đưa vào chương trình. Điều này có thể bao gồm sự phát triển các kỹ năng đặc thù (ví dụ, các kỹ năng xã hội, huấn luyện thư giãn, kỹ năng tự quyết) hoặc khám phá các tư duy sai lệch.

6. Ôn tập điều gì đã làm được trong phiên trị liệu hiện nay. Điều này khiến cho nhà trị liệu có cơ hội để giúp thân chủ làm sáng tỏ các mục tiêu và những kết quả được hoàn thành từ phiên trị liệu. Triển khai bài tập về nhà cho phiên trị liệu kế tiếp và chấm dứt phiên trị liệu. Sau cùng, có thể yêu cầu thân chủ về việc đáp ứng của họ đối với phiên trị liệu.

Các kỹ thuật đánh giá (assessment techniques)

Việc nhận diện những vấn đề đặc hiệu cùng việc đánh giá một cách khách quan hiệu quả của những can thiệp trị liệu là một phần rất quan trọng của trị liệu nhận thức. Những công cụ hữu dụng trong đánh giá bao gồm: các bảng câu hỏi tự báo cáo (self-report questionaires), các thang điểm đánh giá hành vi (behavior rating scales) và các thang điểm của nhà trị liệu lâm sàng (clinician rating scales).

Đánh giá các yếu tố mẫn cảm (assessment of vulnerability factors)

Đây là những trường hợp, những tình thế hoặc những khiếm khuyết có tác dụng làm giảm khả năng của thân chủ trong việc ứng phó hiệu quả với các yếu tố gây stress cho đời sống, mất đi các cơ hội lựa chọn hoặc bị thất bại trong việc tìm ra các giải pháp hiện có. Những yếu tố trên làm giảm ngưỡng dung nạp của thân chủ đối với các tình huống gây stress trong đời sống. Từng yếu tố riêng lẻ hoặc nhiều yếu tố kết hợp lại có thể sẽ làm tăng khả năng thân chủ có những ý nghĩ hoặc hành vi tự sát, hạ thấp ngưỡng kích thích gây lo âu, hoăc tăng thêm tính mẫn cảm của thân chủ đối với các suy nghĩ và tình huống gây nên trầm cảm (Freeman & Siomon, 1989). Các yếu tố mẫn cảm điểm gồm :

1. Bệnh cấp tính

2. Bệnh mạn tính

3. Sa sút sức khỏe

4. Đói

5. Giận dữ

6. Mệt mỏi

7. Cô đơn

8. Stress quan trọng trong đời sống hoặc mất đi một nguồn hỗ trợ quan trọng

9. Khả năng giải quyết vấn đề yếu kém

10. Nghiện rượu, nghiện ma túy, hoặc các kỹ năng ứng phó kém thích nghi

11. Đau nhức kinh niên

12. Thay đổi hoàn cảnh sống mới

Đánh giá các yếu tố này cho phép hiểu biết toàn diện hơn về các trải nghiệm đã làm tăng thêm sự khó chịu của thân chủ và giúp phát triển một kế hoạch trị liệu đặc thù hơn. Các can thiệp có thể hướng về sự tăng cường hỗ trợ, giảm nhẹ các tác nhân gây stress đặc thù và tăng cường các kỹ năng ứng phó.

Chẩn đoán và lập kế hoạch trị liệu

Bước đầu tiên trong việc phát triển một kế hoạch trị liệu là phải có khái niệm rõ ràng về các vấn đề cần được giải quyết của thân chủ. Việc khái niệm hóa này phải dựa trên lịch sử phát triển cá nhân và gia đình của thân chủ, các dữ liệu trắc nghiệm, tài liệu phỏng vấn và các báo cáo của các nhà trị liệu và các nhà chuyên môn trước đây.

Sự khái niệm hóa phải thỏa một số tiêu chí sau:

1. Hữu ích

2. Kỹ lưỡng

3. Chặt chẽ về lý thuyết

4. Giải thích được các hành vi quá khứ

5. Có được ý nghĩa của hành vi hiện tại

6. Có thể tiên liệu được hành vi tương lai

Quá trình khái niệm hóa bắt đầu bằng việc biên soạn một bảng liệt kê vấn đề đặc thù đặt nền tảng trên hành vi, sau đó đặt ưu tiên cho từng vấn đề.

Một vấn đề đặc biệt có thể trở thành mục tiêu trọng tâm của việc trị liệu nếu như nó gây hậu quả nặng nề trên thân chủ. Trong trường hợp khác người ta có thể tập trung vào một vấn đề đơn giản trước, rồi sau đó tạo cho thân chủ sự tin cậy trong việc trị liệu, và thực hành giải quyết vấn đề chính yếu. Trường hợp thứ ba, trọng tâm ban đầu có thể đặt vào vấn đề “then chốt” (“keystone” problem), tức là một vấn đề mà nếu giải quyết được, nó sẽ tạo nên một “hiệu ứng lan truyền” (ripple effect) giúp giải quyết các vấn đề khác. Sau khi đưa ra các mục tiêu trị liệu với thân chủ. Nhà trị liệu có thể bắt đầu phát triển các chiến lược và các biện pháp can thiệp để tạo cơ hội cho việc thực thi các mục tiêu. Trị liệu nhận thức tìm cách tiên đoán các vấn đề có thể xảy ra và cung cấp cho thân chủ các kỹ năng để đương đầu với chúng, như vậy nhà trị liệu phải phát triển các giả thuỵết về những nhân tố nào đã củng cố và duy trì những suy nghĩ và hành vi kém chức năng. Như đã nêu trên, niềm tin được duy trì với nhiều mức độ mạnh khác nhau. Khi phát triển khái niệm về một vấn đề đặc thù nào đó, sẽ rất hữu ích nếu nhà trị liệu cùng bàn luận với thân chủ về mức độ mạnh của những ý nghĩ tự động và các giả định chính yếu mà thân chủ đang tin tưởng. Các suy nghĩ tự động có bao gồm kiểu nói “Tôi là…”, “Tôi thì…” có thể sẽ rất khó thay đổi vì chúng thường được coi là một phần của bản ngã của thân chủ. Chẳng hạn một phụ nữ trẻ – người vì thường xuyên hay than phiền và la hét đã khiến bản thân phải nghỉ việc và đánh mất vai trò lãnh đạo trong cơ quan của mình - đã nói như sau “Tôi biết tôi làm cho mọi người phải đề phòng… nhưng tôi chỉ là tôi và mọi người phải chấp nhận tôi như vậy… Tôi chỉ đang phát hiện ra các vấn đề mà tôi thấy ở những người có quyền chức, vì vậy họ phải thay đổi chính họ… tôi không thể thay đổi tôi là ai, ngay cả tôi biết rằng tôi tự hại mình về điều này… Ngay từ hồi trung học tôi đã được bầu là người hay than phiền nhất”.

Các khuôn mẫu hành vi và cảm xúc kinh diễn thường được các thân chủ xem là “một phần của bản thân tôi” (part of me). Giống như người phụ nữ đã mô tả trên đây, họ sẵn sàng phát biểu “Đây là tôi và đây là cách mà tôi đã luôn luôn làm như vậy”. Những thách thức đặt ra cho các niềm tin cốt yếu trên đây, thường khiến thân chủ lo âu, giận dữ và tránh né. Do vậy, sự thách thức các niềm tin này nên được bắt đầu bằng sự khám phá cẩn thận, đặt nền tảng trên sự hợp tác hơn là sự đối đầu hoặc tranh luận trực tiếp.

CÁC CAN THIỆP ĐẶC HIỆU

Một số lớn những kỹ thuật nhận thức và hành vi có thể được dùng để phát hiện và sau đó đặt câu hỏi về lệch lạc trong nhận thức và các sơ đồ ẩn bên dưới . Những kỹ thuật này được dạy cho thân chủ để giúp họ đáp ứng một cách lành mạnh hơn. Sự phối hợp đúng đắn các kỹ thuật nhận thức và hành vi sẽ tuỳ thuộc vào khả năng của thân chủ, kỹ năng của nhà trị liệu, mức độ bệnh lý và các mục tiêu trị liệu đặc hiệu. Ví dụ: khi làm việc với các thân chủ liệt giường, những mục tiêu ban đầu của trị liệu có thể tập trung giúp đỡ thân chủ thực hiện các công việc tự chăm sóc và việc phân tích công việc cần huấn luyện thành những bước nhỏ với độ khó tăng dần có thể đạt thành công tốt hơn. Bắt đầu với các công việc ít khó khăn nhất, sau đó tiến dần từng bước sang các công việc khó khăn hơn sẽ giúp cho thân chủ ý thức được sự thành công của mình nhiều hơn.

Trị liệu bằng thuốc có thể là một phần trợ lực quan trọng trong chương trình trị liệu. Ngược với các điều tin tưởng thông thường, trị liệu nhận thức và trị liệu bằng hóa dược không loại trừ lẫn nhau, mà có thể phối hợp với nhau trong một chương trình trị liệu (Wright & Schrodt, 1989; Wright, 1987, 1992). Ngoài giá trị thay đổi các suy nghĩ không lành mạnh và hành vi kém thích ứng, đã tạo cho thân chủ cảm giác buồn rầu, lo âu, giận dữ, trị liệu nhận thức còn có thể sử dụng để phát triển và thay đổi các niềm tin không tốt đẹp về thuốc men. Các suy nghĩ như “Điều này chỉ chứng tỏ rằng tôi điên” và “Điều này nghĩa là có điều gì đó trong não bộ của tôi bị trục trặc” sẽ gây khó chịu và tạo nên sự không tuân thủ với việc trị liệu bằng thuốc. Nếu chỉ trị liệu bằng thuốc men, thì không tác động đến suy nghĩ này. Các thuốc chống trầm cảm phải mất hai tuần mới phát huy tác dụng. Cho nên, việc trị liệu nhận thức có thể giúp đỡ trong thời gian ngắn và như vậy có thể giúp thân chủ trầm cảm nặng hoặc lo âu giảm bớt mức độ trước khi thuốc men có hiệu quả. Ngoài ra, như tác giả Wright (1992) nhận xét, trị liệu nhận thức có thể trang bị cho thân chủ các kỹ thuật giải quyết vấn đề, giúp phát triển sự hoạt động tâm lý xã hội tốt hơn và có thể giảm nguy cơ không lệ thuộc vào chương trình trị liệu thuốc men lâu dài.

Kinh nghiệm lâm sàng cho thấy rằng trị liệu bằng thuốc có thể ích lợi trong việc giảm bớt các triệu chứng sinh học của trầm cảm, như mất ngủ, mệt nhọc và kém tập trung và như vậy có thể giúp các thân chủ trầm cảm nặng tham gia tích cực hơn trong quá trình trị liệu. Tuy nhiên, cơ chế dẫn đến sự thay đổi do trị liệu bằng thuốc men vẫn chưa được hiểu hết. Trong một nghiên cứu gần đây kết hợp trị liệu thuốc men và trị liệu nhận thức, Simons, Garfield và Murphy (1984) nhận thấy có sự cải thiện sau khi dùng thuốc chống thấm trầm cảm ba vòng, biểu hiện bằng sự thay đổi các suy nghĩ không lành mạnh. Đối với các thân chủ hưng trầm cảm và loạn thần, thường phải sử dụng kết hợp thuốc men và tâm lý trị liệu nếu thân chủ không đáp ứng với các can thiệp hành vi hoặc bằng lời nói.

CÁC KỸ THUẬT TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Trong thực hành, trị liệu nhận thức có thể định nghĩa như một tập hợp các kỹ thuật giảm nhẹ những khó chịu về xúc cảm bằng cách thay đổi trực tiếp những nhận thức sai lệch. Như vậy, bất cứ sự can thiệp hay kỹ thuật nào thay đổi tri giác hoặc niềm tin các thân chủ đều được coi là phương pháp trị liệu nhận thức. Như vậy, số kỹ thuật dùng trong trị liệu nhận thức là vô số kể. Một nhà trị liệu nhận thức hiệu quả là người có thể cung cấp cho thân chủ các trải nghiệm sáng tạo, linh hoạt và thay đổi được các niềm tin sai lệch.

Có một số ít kỹ thuật được tìm thấy hữu ích cho một số ít vấn đề. Giống như các mô hình tâm lý trị liệu khác, nhà trị liệu nhận thức cần phải biết rõ những biện pháp can thiệp hiện có và có thể sử dụng các kỹ thuật khác nhau một cách điêu luyện.

Sau đây là tóm tắt một số kỹ thuật trị liệu nhận thức:

Ý nghĩa đặc thù của thân chủ (idiosynratic meaning)

Cần phải khám phá những ý nghĩa có liên quan đến lời nói và suy nghĩ của thân chủ, ví dụ: một thân chủ tin tưởng rằng đời mình bị “tan nát” bởi sự việc vợ bỏ ra đi, có thể được hỏi nhẹ nhàng rằng sự “tan nát” ấy có ý nghĩa gì. Có thể yêu cầu anh ta phản ánh chính xác cách thức anh ta bị “tan nát” như thế nào và sau đó, bằng cách nào anh ta có thể tránh được sự tan nát. Tất cả từ ngữ được nói ra đều mang những ý nghĩa đặc thù của riêng thân chủ. Để có thể thăm dò các ý nghĩa ấy, nhà trị liệu cần có kỹ năng lắng nghe tích cực, khả năng giao tiếp tốt và có khả năng xem xét các giả định của mình.

Yêu cầu bằng chứng (questioning the evidence)

Có thể làm việc với thân chủ bằng cách hỏi về những bằng chứng mà họ đang dùng để duy trì và tăng cường niềm tin của họ. Việc này bao gồm sự xem xét một cách hệ thống các bằng chứng nào đã củng cố niềm tin của họ, có thể xem xét độ tin cậy của các nguồn thông tin và đương sự có thể nhận ra rằng họ đã bỏ qua những dữ liệu quan trọng nhưng không phù hợp với các quan điểm sai lệch của cá nhân mình.

Quy kết lại (reattribution}

Thân chủ thường nhận trách nghiệm về các sự kiện và tình thế mà rất ít có khả năng là thuộc trách nhiệm của họ. Nhà trị liệu có thể giúp thân chủ “phân phối lại” những trách nhiệm cho tất cả các đối tác có liên quan.

Đáp ứng hợp lý (rational responding)

Một trong những kỹ thuật mạnh mẽ nhất trong trị liệu nhận thức là việc giúp thân chủ thách thức các suy nghĩ sai lệch. Bản ghi chép hằng ngày các suy nghĩ sai lệch là một cách thức lý tưởng để trắc nghiệm những suy nghĩ sai lệch. Thân chủ thường cảm thấy khó khăn khi bắt đầu việc nhận diện ra các suy nghĩ, cảm xúc hoặc các tình huống sống. Nếu thân chủ trình bày một vấn đề cảm xúc (ví dụ: tôi rất buồn) nhà trị liệu cần thăm dò xem hoàn cảnh nào tạo nên cảm xúc ấy và các suy nghĩ kèm theo. Nếu thân chủ đưa ra suy nghĩ (ví dụ: tôi là người thất bại), nhà trị liệu cần xác định các cảm xúc và tình huống lúc ấy như thế nào. Sau cùng nếu thân chủ nói về một tình huống (ví dụ: chồng tôi bỏ tôi), nhà trị liệu nên tìm cách xác định các suy nghĩ và cảm xúc xảy ra trước, trong và sau sự kiện đó. Các phát biểu như “tôi cảm thấy mình là người thua cuộc” cần được tái định dạng (reframe) như các suy nghĩ và cảm xúc kèm theo với suy nghĩ ấy. Sau khi xác định được những suy nghĩ tự động sai lệch, nhà trị liệu có thể phát triển nên một đáp ứng hợp lý, gồm bốn giai đoạn sau:

a. Xem xét một cách hệ thống những bằng chứng đã hỗ trợ hoặc bác bỏ niềm tin của thân chủ

b. Phát triển những cách giải thích hoặc niềm tin thay thế có tính thích nghi hơn

c. Làm mất đi tính chất bi thảm hóa của những niềm tin

d. Xác định những bước can thiệp về hành vi đặc iệu để giải quyết vấn đề

Xem xét các giải pháp và phương pháp thay thế

Cần làm việc với thân chủ để đưa ra những giải pháp khác. Ví dụ: những thân chủ tự sát thường tin rằng có các giải pháp và phương pháp thay thế và cái chết là một giải pháp hợp lý. Nhà trị liệu có thể giúp thân chủ phát triển và lượng giá các giải pháp thay thế.

Giải trừ sự bi thảm hóa (decastrophizing)

Kỹ thuật này giúp cho thân chủ đánh giá lại xem liệu họ có quá làm cho tình hình trầm trọng thêm hay không. Nhà trị liệu có thể giúp đỡ thân chủ nhận thấy những hậu quả từ hành động sống của họ không hẳn là theo kiểu “tất cả hoặc không có gì” và vì thế giúp họ cảm thấy ít bi thảm hóa vấn đề hơn. Điều quan trọng là phải sử dụng kỹ thuật này một cách nhẹ nhàng và ân cần để làm cho thân chủ không cảm thấy bị chế giễu bởi nhà trị liệu. Những câu hỏi đặt ra với thân chủ gồm có: “Điều tệ hại nhất xảy ra cho anh là điều gì và nếu điều tệ hại nhất xảy ra thì chuyện khủng khiếp gì sẽ đến?”

Các hệ quả huyễn tưởng hóa (fantasized consequences)

Yêu cầu thân chủ mô tả những huyễn tưởng về một tình thế gây sợ hãi, về những hình ảnh mà họ có về huyễn tưởng ấy cùng những mối bận tâm kèm theo. Khi mô tả được các huyễn tưởng, thân chủ có thể thấy sự phi lý của những ý tưởng của họ. Nếu những hậu quả của huyễn tưởng là có thực, nhà trị liệu cần làm việc với thân chủ đánh giá mức độ nguy hiểm và phát triển các chiến lược ứng phó.

Những thuận lợi và bất lợi

Bằng cách hỏi thân chủ xem xét cả hai mặt thuận lợi và bất lợi của vấn đề, có thể giúp họ có được một tầm nhìn rộng hơn. Kỹ thuật giải quyết vấn đề cơ bản này rất có ích trong việc giúp thân chủ đạt được một tầm nhìn và tổ chức quá trình hành động hợp lý

“Biến nguy thành an” (turning adversity to advantage)

Có khi một hiểm họa tiềm tàng có thể được sử dụng như một điều kiện thuận lợi. Trường hợp bị mất việc làm có thể là điểm mở đầu cho một công việc mới hay một nghề nghiệp mới. Việc đặt ra một “thời hạn chót” có thể tạo ra một áp lực bất công, nhưng lại có thể được vận dụng để tạo động lực cho đương sự hành động. Sẽ có được sự quân bình giúp đặt những trải nghiệm của đương sự dưới một tầm nhìn mới.

Liên tưởng hoặc khám phá có hướng dẫn (guided association/discovery)

Trái ngược với kỹ thuật liên tưởng tự do của phân tâm, việc liên tưởng hoặc khám phá có hướng dẫn bao gồm việc nhà trị liệu làm việc với thân chủ để kết nối các ý nghĩ và các hình ảnh bằng cách dùng các câu hỏi theo kiểu Socrate (Socratic questioning). Ngoài ra, có thể sử dụng các kỹ thuật “chiều dọc” (“vertical” or “downward arrow” techniques): nhà trị liệu cung cấp sự kết nối giữa những lời nói của thân chủ và khuyến khích thân chủ phát hiện một loạt các suy nghĩ tự động của họ. Việc sử dụng các câu hỏi như “Rồi điều gì tiếp theo?” hoặc “Vậy điều đó có ý nghĩa gì?” vv… sẽ cho phép nhà trị liệu hướng dẫn thân chủ hiểu đuợc các chủ đề (themes) trong dòng chảy của những tư tưởng tự động và các sơ đồ.

Sử dụng kỹ thuật cường điệu hoặc nghịch lý (exaggeration or pardox)

Dường như có một không gian giữa hai thái độ cực đoan cho một vị trí duy nhất, khi đẩy một ý tưởng đến cực đoan nhà tri liệu có thể giúp “di chuyển” thân chủ đến một vị thế quân bình và thích ứng hơn đối với một niềm tin đặc biệt nào đó. Tuy nhiên để tạo ra sự nhạy cảm với sự quân bình, một số thân chủ có thể có các kinh nghiệm các can thiệp nghịch lý giúp cho sự sáng tỏ vấn đề của thân chủ. Như vậy, nhà trị liệu khi sử dụng các kỹ thuật cường điệu hoặc nghịch lý phải có các điều kiện sau đây:

a) Mối quan hệ làm việc mạnh mẽ với thân chủ

b) Thời gian tốt đẹp

c) Ý thức tốt, sáng suốt để biết khi nào thì rút dần các kỹ thuật trên. Sự sử dụng kỹ thuật trong trị liệu nhận thức được mô tả chi tiết bởi Mc Mullin (1986)

Thang điểm hóa (scaling)

Đối với thân chủ xem xét sự vật như là tất cả hoặc không có gì, kỹ thuật scaling (cho điểm) có thể rất hữu ích ví dụ như kỹ thuật chia tỷ lệ các cảm xúc, có thể giúp bệnh nhân thu hoạch sự ý thức về khoảng cách và có một tầm nhìn, ví dụ một thân chủ trầm cảm, tin rằng mình là người kém cỏi, trước tiên có thể được phỏng vấn để đánh giá sức mạnh niềm tin trên một thang 100 điểm. Có thể hỏi là niềm tin của anh ta ở mức độ nào giữa người kém cỏi nhất trên thế giới (0 điểm) và người có khả năng giỏi nhất trên thế giới (điểm 100). Khi hỏi anh ta phải đánh giá trên thang điểm năng lực mà anh đã phát triển, anh ta sẽ nhận thấy rằng mình không phải là người kém nhất cũng không phải là người giỏi nhất, mà là người giống như bao nhiêu người khác, cũng có những điểm mạnh và điểm yếu và ít ra cũng có một khả năng nào đó.

Phát biểu các tiếng nói bên trong suy nghĩ

Moi người khi được yêu cầu phản hồi những suy nghĩ của họ, đều có thể “nghe tiếng nói của tư tưởng họ trong đầu”; khi yêu cầu thân chủ nói ra những tư tưởng này, họ sẽ có một tư thế tốt hơn để làm việc với những “tiếng nói” và những tư tưởng này. Khi nhà trị liệu “lấy đi” những tiếng nói sai lệch, thân chủ có thể trải nghiệm được việc đáp ứng thích hợp. Ví dụ: nhà trị liệu có thể bắt đầu bằng cách tạo ra những khuôn mẫu đáp ứng hợp lý với những lời mà thân chủ nói ra các tư tưởng sai lệch của ho; sau đó nhà trị liệu có thể từng bước giúp thân chủ thực hành để nhận ra tính chất rối loạn tư duy của mình và có thể đáp ứng tốt hơn để giải quyết các rối loạn tư duy của mình.

Tự hướng dẫn (self-instruction)

Meichenbaum (1977) và Rehm (1987) đã phát triển một loạt rộng rãi các kỹ thuật tự học hữu ích để làm việc với các thân chủ trầm cảm hoặc xung động. Ví dụ: thân chủ có thể được hướng dẫn cách lập chương trình tự học, trực tiếp xây dựng những hành vi thích ứng hơn, đồng thời áp dụng các phương pháp đối phó với các hành vi lệch lạc.

Ngừng suy nghĩ (thought stopping)

Vì giữa tư tưởng và cảm xúc có sự liên hệ với nhau, các suy nghĩ tự động có tính kém thích nghi có thể có hiệu ứng “hòn tuyết lăn” (snow ball): ngay khi các cảm xúc nhẹ nhàng buồn rầu hay lo âu có thể làm sai lệch các tiến trình nhận thức dẫn đến việc cá nhân cảm thấy liên tục rối trí; bắt đầu là một vấn đề nhỏ cũng có thể dễ dàng trở thành một chuyện nặng nề, trầm trọng. Kỹ thuật ngừng suy nghĩ được sử dụng tốt nhất khi trạng thái cảm xúc tiêu cực mới xuất hiện và sẽ kém hiệu quả hơn khi diễn biến của suy nghĩ đã tiến triển.

Ví dụ: có thể hướng dẫn cho một thân chủ đang lo âu vẽ ra một dấu hiệu của ngừng suy nghĩ hoặc (nghe một tiếng chuông) lúc khởi đầu một cơn lo âu. Việc tạo ra một thời gian ngừng nghĩ giây lát trong quá trình này có thể giúp cho thân chủ suy nghĩ về nguồn gốc của lo âu và giới thiệu nhiều kỹ thuật nhận thức mạnh mẽ hơn trước khi sự lo âu gia tăng (ví dụ kỹ thuật đáp ứng hợp lý).

Gây xao lãng (distraction)

Kỹ thuật này đặc biệt hữu ích cho thân chủ có vấn đề lo âu, bởi vì cùng một lúc không thể duy trì hai suy nghĩ, các suy nghĩ gây lo âu thường loại trừ suy nghĩ thích ứng hơn. Ngược lại, một suy nghĩ khác khi được tập trung vào thì sẽ có tác dụng loại trừ suy nghĩ gây lo âu.

Bằng cách hướng dẫn thân chủ làm các bài toán cộng, trừ phức tạp sẽ giúp thân chủ dễ dàng tránh bớt suy nghĩ. Nhiều thân chủ đếm ngược từ 200 đến 13, có thể rất hiệu quả, hoặc đọc ngược một trang sách từ dưới lên trên. Khi ở ngoài trời, đếm xe chạy trên đường phố, hoặc đếm những người mặc áo đỏ, hoặc bất cứ công việc nào mà không cần suy nghĩ cũng có kết quả. Kỹ thuật làm cho thân chủ xao lãng hoặc tái tập trung chú ý có thể thực hiện bằng cách tập trung một số khía cạnh môi trường, tham gia các hoạt động tinh thần, hình dung (imaging) hoặc khởi đầu một hoạt động. Kỹ thuật gây xao lãng là một kỹ thuật ngắn, có thể giúp thân chủ tức thời kiểm soát được các suy nghĩ của họ. Sau đó có thể dùng những kỹ thuật nhận thức khác.

Tranh Luận Trực Tiếp

Đôi khi tranh luận trực tiếp cũng hữu ích. Khi thân chủ có những nguy cơ tiềm tàng như trong trường hợp có ý tự tử, có thể xem xét kỹ thuật tranh luận trực tiếp. Kỹ thuật này có thể tạo nên tình trạng bất hợp tác và nhà trị liệu dễ trở nên bị mắc mứu vào sự đối đầu hoặc tranh luận với thân chủ. Thật ra, tranh luận về các niềm tin cơ bản có thể tạo ra sự kháng cự thụ động hoặc một đáp ứng thụ động. Kỹ thuật tranh luận, có thể sử dụng kỹ lưỡng, đúng đắn và được thực hiện bởi một nhà trị liệu có kỹ năng.

Gọi tên các lệch lạc nhận thức (labeling of distortions)

Sợ điều chưa biết và sợ sự sợ hãi có thể là sự bận tâm quan trọng của thân chủ lo âu (Young,1984). Làm điều gì đó để phát hiện bản chất và nội dung các suy nghĩ lệch lạc và giúp đặt tên các lệch lạc mà thân chủ sử dụng, khi đó thân chủ sẽ trở nên ít sợ hãi hơn.

Phát triển các hình ảnh thay thế (developing replacement therapy)

Thân chủ lo âu thường trải nhiệm những hình ảnh kỳ ảo trong thời gian tress. Khi sự lo âu có thể hoạt hóa bởi các hình ảnh này, có thể giúp cho thân chủ phát triển những hình ảnh đối ứng. Ví dụ thay vì suy tưởng về sự thất bại, bối rối, nhà trị liệu giúp thân chủ phát triển một hình ảnh đối ứng ngược lại có hiệu quả mới mẻ hơn. Một khi thực hành tốt, thân chủ có thể thay thế những hình ảnh này bên ngoài thời gian trị liệu.

Đọc sách liệu pháp (Bibliotherapy)

Một số sách hay có thể dùng để đọc ở nhà, coi như một bài thực tập ở nhà. Những sách này có thể sử dụng để giáo dục thân chủ về mô hình trị liệu nhận thức cơ bản, nhấn mạnh các điểm đặc biệt trong khóa trị liệu, giới thiệu các ý tưởng mới để thảo luận trong các phiên trị liệu sắp tới, hoặc đề nghị cách thức suy nghĩ thay thế về các mối bận tâm của thân chủ. Giới thiệu một số sách hữu ích như: “Tình yêu không bao giờ đầy đủ” (Beck, 1989), hoặc “Cảm thấy tốt đẹp” (Burn, 1980).

Các kỷ luật hành vi

Những mục tiêu của việc sử dụng các kỹ thuật hành vi trong bối cảnh trị liệu nhận thức là rất đa dạng. Mục tiêu đầu tiên là sử dụng các chiến lược hành vi trực tiếp và kỹ thuật dễ trắc nghiệm để suy nghĩ và giả định mất khả năng bằng cách cho thân chủ thử các hành vi bị sợ hải và tránh né,các ý nghĩa xưa củ có thể bị phản kháng trực tiếp. Việc sử dụng sau đó các kỹ thuật hành vi là thực hành các hành vi mới, thích ứng hơn các chiến lược đối phó. Các hành vi đặc thù có thể được giới thiệu ở văn phòng , và sau đó đựơc thực hành ở nhà.với các công tác làm bài tập ở nhà về nhận thức, nhà trị liệu muốn ôn lại các suy nghĩ và cảm xúc đựơc kinh nghiệm bởi thân chủ khi họ cố gắng thực hiện các bài tập hành vi trên chính họ. Các can thiệp hành vi thường được sử dụng gồm có .

1. Lên Chương Trình Hoạt Động

Cùng với đáp ứng hợp lý, việc lên chương trình hoạt động, có lẽ là kỹ thuật luôn luôn hiện diện trong hành trang của nhà trị liệu. Đối với thân chủ cảm thấy luôn luôn bị tràn ngập công việc, lên chương trình hoạt động có thể giúp sử dụng thời gian hiệu quả hơn. Chương trình hoạt động vừa là một dụng cụ phản hồi để đánh giá sự sử dụng thời gian trong quá khứ và đồng thời là dụng cụ tiên liệu để giúp việc kế hoạch sử dụng thời gian tốt hơn.

2. Sự Thành Công Và Các Cấp Độ Sung Sướng

Lên chương trình hoạt động cũng có thể được sử dụng để đánh giá và kế hoạch hoạt động, giúp cho thân chủ cảm nhận sự thành công và sung sướng. Sự thành công và sung sướng càng lớn bao nhiêu, thì sự lo âu trầm cảm sẽ giảm đi càng nhiều. Bằng cách phát hiện những hoạt động nào tạo ra sự lo âu thấp hoặc lo âu cao, các kế hoạch có thể phát triển để tăng cường sự lo âu thấp và giảm đi sự lo âu cao.

3. Huấn Luyện Các Kỹ Năng Xã Hội Hoặc Tính Quyết đoán

Nếu thân chủ thiếu các kỹ năng xã hội đặc thù, nhà trị liệu vẫn có trách nhiệm giúp họ đạt được các kỹ năng hoặc giới thiệu họ đến một khóa huấn luyện kỹ năng. Việc lĩnh hội các kỹ năng có thể liên quan đến tất cả mọi việc từ việc dạy thân chủ bắt tay một cách thích hợp đến việc thực hành kỹ năng nói chuyện.

4. Phân Chia Các Công Việc Thành Các Bước Nhỏ

Kỹ thuật này giúp cho thân chủ chia công việc thành từng bước rất nhỏ để đi đến mục tiêu mong muốn. Bằng cách sắp xếp công việc các bước cần thiết và thực hiện theo từng thứ cấp, thân chủ có thể được giúp đỡ để đạt các tiến bộ hợp lý với mức độ stress tối thiểu. Khi thân chủ thực hiện từng bước, nhà trị liệu có thể ở bên cạnh để nâng đỡ và hướng dẫn.

5. Thực Tập Hành Vi – Sắm vai

Phiên trị liệu là nơi lý tưởng để thực tập nhiều hành vi. Nhà trị liệu có thể đóng vai trò như người thầy giáo hướng dẫn đưa ra phản hồi trực tiếp trên các thực hành của thân chủ. Nhà trị liệu có thể giám sát các thực hiện của thân chủ, đưa ra các gợi ý để cải thiện hành vi, và làm mẫu cho các hành vi mới. Ngoài ra, nhà trị liệu phải tiên liệu các trở ngại và giải quyết chúng ngay trong phiên trị liệu. Thân chủ cần tập luyện tích cực trước khi có thể thực hiện những hành vi mới trên thực tế.

6. Tiếp Xúc Với Thực Tế (invivo exposure)

Có đôi khi cuộc trị liệu diễn ra bên ngoài văn phòng trị liệu. Phương pháp này tốn thời gian, nhưng việc trị liệu trong thực tế có thể có tác dụng rất mạnh mẽ. Ví dụ, nhà trị liệu có thể tháp tùng thân chủ đến một vị trí mà thân chủ sợ hãi, như siêu thị hoặc trung tâm mua sắm đông đúc. Như đã nêu trên, mục tiêu của sự tiếp xúc thực tế không chỉ cho phép thân chủ làm quen với bối cảnh gây sợ hãi, mà còn cung cấp cho họ bằng chứng xác thực trái với những niềm tin sai lệch của thân chủ. Ví dụ: một sinh viên 29 tuổi không thể hoàn thành việc tốt nghiệp của mình, vì cô sợ gặp vị giáo sư để thảo luận một đề tài chưa hoàn thành xong mà cô đã nhận. Cô hoàn toàn tin rằng vị giáo sư sẽ la lối với cô và cô đã không thể làm được một “bài tập về nhà” là gọi điện cho người thư ký của vị giáo sư kia để thu xếp một cuộc gặp gỡ. Sau đó cô được khuyến khích sẽ gọi cho vị giáo sư từ văn phòng của nhà trị liệu. Những suy nghĩ và cảm giác của cô đã được xem xét kỹ lưỡng trước khi, trong khi và sau khi gọi. Như mong đợi, vị giáo sư rất sung sướng được nghe cô sinh viên của mình và vui lòng chấp nhận học vị sau cùng của cô. Nguồn gốc của những niềm tin của cô về việc người khác cảm thấy về cô như thế nào lúc đó được ôn lại và cô có thể thấy rằng những tin tưởng này có thể sai lầm và kém thích ứng.

7. Huấn Luyện Thư Giãn

Những thân chủ lo âu thường hưởng được lợi ích từ việc huấn luyện thư giãn vì các phản ứng lo âu và thư giãn thường có tính triệt tiêu lẫn nhau.

Việc huấn luyện thư giãn có thể thực hiện trong phòng và sau đó thân chủ thực hiện ở nhà. Mặc dầu các băng ghi hình có thể mua được ở nhiều nhà xuất bản, nhà trị liệu có thể lựa chọn những băng ghi hình thích hợp cho thân chủ, giúp cho thân chủ cảm thấy rất thư giãn và tập trung vào những triệu chứng làm cho thân chủ đau khổ.

Bài tập về nhà

Không có một trị liệu nào chỉ xảy ra trong bối cảnh của phòng tham vấn. Sự thấu hiểu và các kỹ năng lĩnh hội được từ môi trường trị liệu sẽ được củng cố và sử dụng trong cuộc sống hằng ngày của thân chủ.

Tiến trình củng cố này, được giữ kín trong các mô hình tâm lý trị liệu khác, nhưng được nói đến và khai thác trong trị liệu nhận thức. Điều quan trọng cho thân chủ để hiểu biết rằng việc phát triển này tạo ra một trọng tâm trị liệu lớn hơn và nhiều thành quả nhanh chóng hơn như các tác giả Burns và Auerbach (1992) đã nhận xét trong khi kiểm điểm lại các yếu tố liên kết với sự cải thiện trong trị liệu, “Những khác biệt trong việc thực hành bài tập ở nhà có liên quan đáng kể với sự phục hồi từ bệnh trầm cảm”.

Bài tập về nhà có thể là nhận thức - hành vi. Chúng có thể liên quan đến việc giúp thân chủ hoàn thành một chương trình hoạt động (một bài tập xuất sắc trong phiên trị liệu đầu tiên), hoàn tất một số bản ghi chép các suy nghĩ hằng ngày hoặc cố gắng thực hiện một số hành vi mới. Các bài thực tập ở nhà, khi được giao thích hợp, có nội dung trực tiếp đến các vấn đề trong phiên trị liệu. Đó là sự phát triển thêm những phiên trị liệu vào đời sống thường ngày của thân chủ.

Bài tập về nhà càng có ý nghĩa và có tính hợp tác thì càng có nhiều khả năng thân chủ sẽ tuân thủ chương trình trị liệu. Nếu các bài tập ở nhà đã hoàn thành không được ôn tập kiểm tra thường xuyên và coi như một phần trong phiên trị liệu, thân chủ sẽ nhanh chóng tin tưởng rằng chúng không quan trọng và không tiếp tục làm các bài tập ở nhà. Ngay cả khi việc thực tập bị thất bại, điều này cũng vẫn có ích. Một thân chủ lo âu khi tiếp xúc với bên ngoài, có thể tiên đoán anh ta sẽ bị từ chối nếu anh ta nói chuyện với người không quen biết. Một công việc hợp lý có thể giao cho anh ta là nói chuyện với người bán hàng khi mua cà phê mỗi buổi sáng, và ghi chú các phản ứng của những người bán hàng. Nếu người bán hàng phản ứng một cách tích cực với anh ta (như chúng ta mong muốn các các người bán hàng như thế) anh ta sẽ có một kinh nghiệm mới khác với niềm tin trước đây và sẽ phát triển một kỹ năng xã hội mới. Tuy nhiên, hãy tưởng tượng anh ta không thể nói chuyện với người bán hàng, bỏ chạy khỏi cửa hàng và la hét như thể cà phê nóng hổi đã đổ lên áo sơ mi của anh ta. Không hẳn như thế là mọi việc đều hỏng cả! Bằng cách đếm số lần xảy ra những trình trạng ấy trong phiên trị liệu, chúng ta sẽ đạt đến một thông tin quan trọng nhất là: các suy nghĩ tự động đã xảy ra trong khi anh ta bị lo lắng. Và bù lại, kết quả này sẽ được đưa ra xem xét để phản bác một cách hợp lý và sẽ trở nên có lợi cho công việc trị liệu.

CÁC LỖI LẦM THƯỜNG HAY XẢY RA TRONG TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

Theo Francis Bacon, có thể dễ dàng để nhận biết một cái bánh dở hơn là làm một cái bánh ngon. Cũng như vậy đối với tâm lý trị liệu. Thật dễ phát hiện những khuyết điểm hoặc khó khăn trong cuộc trị liệu hơn là tránh các khuyết điểm. Tuy nhiên, vẫn có một số sai lầm thường xảy ra khi thực hiện trị liệu như:

- Sự xã hội hóa chưa đầy đủ của thân chủ đối với khuôn mẫu trị liệu

- Thất bại trong việc phát triển bảng liệt kê các vấn đề đặc hiệu

- Các bài tâp về nhà chưa phù hợp (và không theo dõi các bài tập về nhà đã làm)

- Nhấn mạnh quá sớm đến việc nhận ra các sơ đồ

- Nhà trị liệu thiếu kiên nhẫn, hướng dẫn quá mức để cố gắng giải quyết lập tức các triệu chứng của thân chủ

- Giới thiệu quá sớm các kỹ thuật hợp lý trước khi hoàn thành sự khái niệm hóa đầy đủ

- Thiếu chú trọng việc phát triển mối quan hệ cộng tác và chú ý không đầy đủ các yếu tố không đặc thù trong mối quan hệ trị liệu.

- Không tính đến các phản ứng cảm xúc riêng, các suy nghĩ tự động và các sơ đồ của nhà trị liệu – phản ứng chuyển di.

KẾT THÚC TRỊ LIỆU (TERMINATION)

Việc kết thúc trị liệu nhận thức đã bắt đầu từ lần trị liệu đầu tiên vì mục đích của trị liệu nhận thức không phải là sự chữa trị, mà là giúp thân chủ có được khả năng ứng phó hiệu quả. Nhà trị liệu nhận thức không có kế hoạch trị liệu vô hạn; đây là một mô hình tâm lý trị liệu nhắm đến việc lĩnh hội các kỹ năng. Mục tiêu của nhà trị liệu là giúp thân chủ đạt được khả năng giải quyết với các tác nhân gây stress bên trong và bên ngoài vốn là một phần của cuộc sống. Khi các thang đánh giá khách quan, báo cáo của thân chủ, quan sát của nhà trị liệu và các phản hồi từ những người thân nhất trong gia đình xác nhận có sự sự cải thiện và nâng cao mức độ thích ứng của thân chủ thì việc trị liệu có thể kết thúc.

Mặc dầu nghiên cứu cho thấy trị liệu nhận thức đạt hiệu quả cao nhất qua 12 đến 15 phiên trị liệu, song vẫn chưa có một thời gian tiêu biểu nào cho việc trị liệu. Khi giúp đỡ các thân chủ có các khó khăn lâu dài trầm trọng (như rối loạn nhân cách ranh giới chẳng hạn) chúng ta cũng có thể đạt được nhiều lợi ích đáng kể khi thực hiện trị liệu trong nhiều tuần vì thân chủ có thể học được các kỹ thuật đương đầu với những cảm giác trầm cảm, lo âu và giận dữ. Trị liệu nhận thức cũng có thể có lợi khi được tiếp hành từ 2 đến 3 năm vì các giả định và sơ đồ phải được xem xét và tác động đến. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây không tìm ra mối liên hệ giữa thời gian trị liệu và hiệu năng của trị liệu (Berman, Miller and Massman 1985, Sharpiro 1982). Các cuộc nghiên cứu cho rằng lợi ích của việc tiếp tục trị liệu sau 12 đến 15 phiên trị liệu là khiêm tốn, cần bàn bạc với thân chủ từ lúc khởi đầu về mục tiêu và thời điểm kết thúc. Điều này khuyến khích nhà trị liệu và thân chủ duy trì sự tập trung vào tính cấp bách của quá trình trị liệu.

Việc kết thúc trị liệu nhận thức được thực hiện từ từ để có đủ thời gian cho việc thay đổi và sắp xếp các phiên trị liệu giảm dần từ một lần mỗi tuần đến mỗi lần hai tuần. Sau đó, các phiên trị liệu có thể thực hiện một tháng một lần, với các phiên trị liệu theo dõi mỗi 3 đến 6 tháng cho đến khi tiến trình trị liệu kết thúc. Dĩ nhiên thân chủ có thể gọi và hẹn gặp gỡ trong trường hợp khẩn cấp. Đôi khi, thân chủ cũng có thể gọi điện chỉ để nhận một thông tin hay việc tăng cường một hành vi nào đó, hoặc để báo cáo một sự thành công với nhà trị liệu. Sự tiếp xúc với nhà trị liệu nhận thức, trong vai trò của một cố vấn hoặc một cộng tác viên, vẫn thích hợp và có tác dụng quan trọng. Khi việc trị liệu gần đến kết thúc, những suy nghĩ và cảm xúc của thân chủ về việc kết thúc cần được thăm dò cẩn thận vì chúng phản ánh các sơ đồ và giả định của họ liên quan sự chia ly (separation). Việc kết thúc trị liệu có thể có ý nghĩa quan trọng cho thân chủ và có thể hoạt hóa các kỷ niệm và sơ đồ về việc chia ly với những người khác trong quá khứ của thân chủ (Mann, 1973; Sofran and Segal, 1990). Sự kết thúc có thể cung cấp cho nhà trị liệu một cơ hội thăm dò các suy nghĩ và cảm xúc của thân chủ cùng những cách thức đặc biệt mà thân chủ đương đầu với sự chia ly. Điều này, đặc biệt quan trọng khi làm việc với các thân chủ mà lịch sử gợi ý họ đã đáp ứng với sự chia ly và mất mát một cách không thích ứng. Những phản ứng như thế không phải là hiếm xảy ra nơi những thân chủ bị rối loạn nhân cách.

Như đã nêu trên, nhà trị liệu cần phải theo dõi các phản ứng cảm xúc và suy nghĩ riêng của họ trong suốt quá trình trị liệu. Điều này càng quan trọng trong giai đoạn kết thúc trị liệu. Ngoài những cảm giác và niềm tin của nhà trị liệu về sự chia ly, một trong những khó khăn thường gặp phải trong khi làm trị liệu nhận thức là áp lực thực hiện những cải thiện đáng kể một cách nhanh chóng. Trị liệu nhận thức, với trọng tâm đặt vào các thành quả có thể quan sát được, và có tính chiến lược, có thể giúp thân chủ rời khỏi nhà trị liệu với niềm tin rằng họ chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm mục tiêu trị liệu đạt được. Có nhiều trường hợp trong cuộc đời của chúng ta, những mong đợi và mục tiêu của chúng ta không đạt được một cách đầy đủ và công việc quan trọng có thể dành lại cho thân chủ giải quyết sau khi kết thúc trị liệu. Trị liệu nhận thức xem cơ chế thay đổi thông qua tâm lý trị liệu cũng tương tự như cơ chế của sự phát triển trong toàn bộ cuộc sống của chúng ta. Những kỹ năng nhận thức và hành vi cùng những cách thức hiểu biết mới về đời sống được lĩnh hội thông qua trị liệu có thể gieo hạt giống cho sự phát triển sau này khi thân chủ chấm dứt trị liệu. Như Safran và Segal đã quan sát, những suy nghĩ và cảm xúc xuất hiện khi trị liệu kết thúc, có ý nghĩa cho mô hình làm việc bên trong của thân chủ và cho mối quan hệ của thân chủ với nhà trị liệu. Vì thế, chúng phải được xem xét kỹ lưỡng và sử dụng như một phần quan trọng của tiến trình trị liệu.

Không tuân thủ trị liệu (non-compliance)

Không tuân thủ, đôi khi còn được gọi là ‘kháng cự’ (resistance), thường ngụ ý chỉ trường hợp thân chủ không muốn thay đổi hoặc không muốn ‘trở nên tốt hơn’, với những lý do vô thức hay hữu thức. Sự kháng cự này có thể biểu hiện một cách trực tiếp (ví dụ: đến trễ hoặc quên cuộc hẹn trị liệu), hoặc cũng có thể kín đáo thông qua việc bỏ qua không báo cáo lại một điều gì đó trong phiên trị liệu. Về mặt lâm sàng, chúng ta có thể xác định một số nguyên do dẫn đến tình trạng không tuân thủ được trình bày dưới đây, các nguyên do đó có thể riêng lẻ, phối hợp, hoán đổi, hoặc thay đổi mức độ tùy theo các hoàn cảnh sống của thân chủ, tùy theo những diễn biến trong tiến trình trị liệu và tùy vào mối quan hệ giữa thân chủ và nhà trị liệu.

1. Thân chủ thiếu kỹ năng thay đổi hành vi của mình

2. Nhà trị liệu thiếu kỹ năng giúp thân chủ thay đổi

3. Các yếu tố gây stress trong môi trường và trong gia đình ngăn trở sự thay đổi

4. Cách thân chủ nhận thức về khả năng xảy ra thất bại

5. Cách thân chủ nhận thức về kết quả của việc họ thay đổi ảnh hưởng đối với người khác như thế nào

6. Thân chủ và nhà trị liệu có cùng những lệch lạc nhận thức

7. Khả năng xã hội hóa kém đối với mô hình trị liệu nhận thức

8. Lợi ích có được từ việc duy trì hành vi kém chức năng

9. Mối quan hệ trị liệu thiếu tính cộng tác

10. Thiếu việc định thời hạn cho các can thiệp trị liệu

11. Thân chủ sợ thay đổi

ÁP DỤNG TRỊ LIỆU NHẬN THỨC

1. Giả thuyết về tính chuyên biệt của nhận thức

Sự quan trọng đặc biệt cho nhà lâm sàng là giả thuyết chuyên biệt nhận thức - định đề cho rằng các trạng thái cảm xúc (và, có lẽ, các rối loạn lâm sàng) có thể được phân biệt dựa vào những nội dung và tiến trình nhận thức riêng của chúng. Ví dụ bệnh trầm cảm được tiêu biểu bởi ‘bộ ba nhận thức’ (Beck 1976) – một tập hợp các khuynh hướng nhận thức và tri giác tiêu cực về bản thân mình, thế giới xung quanh và tương lai. Các thân chủ trầm cảm có xu hướng xem bản thân mình bị khiếm khuyết một cách đáng kể và thiếu khả năng cần thiết để đạt được những mục tiêu quan trọng. Họ thấy tương lai ảm đạm và cho rằng những người xung quanh không quan tâm hoặc từ bỏ họ. Các quan điểm của họ về chính mình và thế giới xung quanh được lọc qua một lăng kính đen tối và tiêu cực. Sơ đồ của những người trầm cảm bao gồm những liên tưởng với các chủ đề về sự bất toàn, sự mất mát, sự tước đoạt của cá nhân họ (Guidano & Liotti, 1983; Kovacs & Beck, 1987). Trái lại, các rối loạn lo âu đặt nền tảng trên sự tri giác tổng quát về một mối đe dọa và nguy hiểm sắp xảy ra mà đương sự không thể đương đầu nổi.

Ngoài ra, mỗi rối loạn lo âu đặc biệt sau đây (rối loạn ám ảnh – cưỡng chế, rối loạn hoảng sợ, sự sợ hãi đơn thuần, rối loạn lo âu lan tỏa, ám ảnh sợ xã hội) có thể được phân biệt bởi sự tập trung đặc thù của mối đe dọa. Một mô hình tổng quát các rối loạn lo âu (Freeman 1990) sẽ được trình bày sau đây.

Mô hình này cho thấy bằng cách nào mà một số yếu tố đã có tác động trên quá trình hình thành các rối loạn lo âu cũng như tiến trình trị liệu các rối loạn ấy. Khi các cá nhân đương đầu với một tình trạng nào đó (ví dụ: một kỳ thi sắp tới). Các tri giác về sự kiện đó bị ảnh hưởng bởi những niềm tin, các ký ức, sơ đồ và giả thuyết hiện hữu của họ. Khi lượng giá tình hình, họ có hai phán đoán: một là sự đánh giá mức độ nguy cơ hay đe dọa và hai là sự đánh giá khả năng của họ để đương đầu với nguy cơ. Ví dụ: khi họ tin rằng mình có khả năng và được chuẩn bị tốt và việc thi cử có rất ít tác động đến điểm tối hậu của họ, họ sẽ không xem việc thi cử là một sự đe dọa, mà là một sự thách thức. Tuy nhiên, nếu họ tin rằng việc thi cử là rất quan trọng và họ không được chuẩn bị tốt thì họ sẽ xem xét tình hình là có tính đe dọa và trở nên lo lắng. Lo âu có thể được xem như là một đáp ứng có tính thích nghi đối với mối đe dọa mà đương sự cảm nhận được. Nếu đương sự ứng phó một cách thành công với mối đe dọa ấy (bằng cách học tập cật lực và đậu kỳ thi) thì trải nghiệm này sẽ xúc tiến ý thức về bản ngã của đương sự và tạo nên niềm tin trong khả năng của đương sự trong việc đương đầu với các kỳ thi trong tương lai. Tuy nhiên, nếu thân chủ thất bại trong cuộc thi, hoặc tránh né sự đe dọa (bằng cách bỏ học) thì sự tri giác về hiệu năng của cá nhân sẽ bị giảm sút và niềm tin rằng tình hình này là một sự đe dọa thật sự sẽ tăng lên. Do vậy đương sự sẽ trở nên cảnh giác hơn hoặc kỹ lưỡng hơn khi gặp những hoàn cảnh tương tự trong tương lai và sẽ trở nên tránh né các tình huống gây đe dọa khác. Trị liệu các rối loạn lo âu, bao gồm các việc xem xét, các niềm tin, giả thuyết và sơ đồ, phát triển các khả năng ứng phó một cách thích nghi: thúc đẩy các tri giác về tính hiệu năng của bản thân, làm cho sự đe dọa mất đi tính chất thảm họa, không khuyến khích sự tránh né hoặc rút lui. Các cảm xúc khác (bao gồm giận dữ, tội lỗi, xoa dịu, bất mãn, thất vọng, hy vọng, phẫn uất, ganh tỵ, niềm vui, thương hại và kiêu hãnh) và các rối loạn lâm sàng (bao gồm cả các rối loạn nhân cách) có thể được phân biệt thông qua các diễn tiến và nội dung nhận thức đặc thù (Beck và cs., 1990; Collin, 1988). Giả thuyết về tính chuyên biệt nhận thức có một tầm quan trọng trung tâm trong việc thực hành lâm sàng trị liệu nhận thức, vì nó hướng sự chú ý của chúng ta vào các niềm tin đặc thù và các kiểu cách xử lý thông tin thường được tìm thấy nơi những thân chủ có các rối loạn đặc hiệu. Nó cho phép chúng ta cung cấp cho thân chủ một sơ đồ để hiểu biết các kinh nghiệm cảm xúc mà có thể được họ xem là rất bí mật và nặng nề không chịu nổi, đồng thời cho phép chúng ta tác động bằng các can thiệp nhận thức hành vi nhằm thay đổi những niềm tin đặc thù tạo ra sự khó chịu trong tâm trí của thân chủ.

2. Sự lo âu

Những than phiền về sự lo âu, căng thẳng, bức xúc... là những vấn đề thường xảy ra nhất đối với nhà chuyên môn sức khỏe tâm thần. Triệu chứng lo âu thường đi theo một số rối loạn tâm thần sinh lý khác như trầm cảm, hoặc rối loạn tâm thể, mà các rối loạn này thường che giấu trạng thái lo âu. Còn trong một số trường hợp khác, triệu chứng có thể biểu hiện dưới hình thức sinh lý (có thể có hoặc không liên quan đến lo âu). Vì thế, tỉ lệ và tần suất của chứng lo âu thường được đánh giá rất thấp trong thực hành y khoa.

Các thân chủ lo âu thường chia sẻ một số niềm tin (Deffenbacher, Zwemer, Whisman, Hill & Sloan, 1986; Mizes, Landolf-Fritsche, 1987). Nghiên cứu cho thấy rằng những thân chủ lo âu có khuynh hướng tin tưởng rằng nếu có một nguy cơ hiện hữu, sự lo phiền về nó là một điều tốt (sự bận tâm quá có tính lo âu), rằng họ cần phải có khả năng thuần thục để có thể kiểm soát tình thế (khả năng kiểm soát cá nhân và sự hoàn hảo) và rằng cách thích ứng là nên tránh các vấn đề có tính thách thức (né tránh vấn đề). Như đã nêu trên, những đề tài chung chia sẻ bởi các rối loạn lo âu là sự tri giác về mối đe dọa và niềm tin rằng mối đe dọa không thể quản lý được hoặc tránh né được. Các mối đe dọa có thể hiện thực hay tưởng tượng và thường hướng về bản thân dương sự. Phải chăng tất cả mối đe dọa lo âu là đến từ bên ngoài? Chắc chắn là không. Trong lúc vẫn có các mối đe dọa thực sự từ bên ngoài có thể tạo nên các cảm giác lo âu, như mất việc làm, mất vợ hoặc chồng, thi rớt... thực tế cũng có các mối đe dọa đến từ bên trong, như những cảm giác cơ thể và các cảm xúc (xảy ra trong cơn hoảng loạn), các ý nghĩ (như trong rối loạn ám ảnh – cưỡng chế), cũng như các hình ảnh, xung động và các huyễn tưởng. Tuy nhiên tất cả những hình thức trên đều giống nhau và được coi là gây nguy hiểm cho sự lành mạnh về thể chất, tâm lý, cảm xúc và xã hội.

Sự đe dọa có thể gây nên các triệu chứng tâm lý và cơ thể, tất cả được đặt tên là ‘lo âu’. Có lẽ tính chất nổi bật nhất và có ý nghĩa lâm sàng trong chẩn đoán lo âu đó là thời gian kéo dài của triệu chứng lo âu. Các triệu chứng như căng thẳng cơ bắp, tăng hoạt động thần kinh thực vật, sự trông đợi xảy ra cảm giác sợ hãi, cảnh giác và dò xét phải kéo dài và hiện hữu ít nhất 6 tháng. Sự lo âu bình thường và lo âu bệnh lý có thể khác nhau một cách biến thiên tùy theo mức độ nghiêm trọng, nhưng đánh giá sau cùng phải dựa trên mức độ rối loạn chức năng và sự mất khả năng của cá nhân. Lo âu có thể ảnh hưởng đến các hệ thống đáp ứng hô hấp, cơ bắp, tuần hoàn, da, tiêu hóa một cách riêng lẻ hay kết hợp. Các biểu hiện của lo âu nặng thường bao gồm các đáp ứng hành vi hoặc theo kiểu mệnh lệnh (ví dụ: chống cự hoặc bỏ chạy) hoặc bằng sự bỏ sót (ví dụ: hành vi tránh né). Có những cảm giác sinh lý báo hiệu sự hiện diện của lo âu, trải nghiệm cảm xúc liên quan đến lo âu, cùng các sự kiện và tiến trình nhận thức có tác dụng kích thích và duy trì sự lo âu. Tất cả những điều trên có thể làm cho người bệnh mất khả năng hoạt động cá nhân, nghề nghiệp và xã hội.

Mô hình nhận thức lo âu (Barlow 1988, Beck, Emery & Greenberg, 1985; Freeman & Ludgate, 1988) liên quan đến nhiều yếu tố. Lo âu, là hoạt động thích ứng với hoàn cảnh, bắt đầu bằng sự tri giác về mối đe dọa trong một tình huống đặc hiệu. Ý nghĩa mà cá nhân liên kết với hoàn cảnh được xác định bởi sơ đồ và những ký ức mà họ đã có được từ những hoàn cảnh tương tự trong quá khứ. Lúc đó cá nhân đánh giá sự trầm trọng của mối đe dọa và lượng giá hiệu năng bản thân của mình hoặc những tiềm năng của mình để ứng phó với mối đe dọa ấy. Nếu tình hình được xem là rất nguy hiểm, thì tiếp sau đó sẽ là ý thức về sự nguy hiểm. Nếu tiếp nhận mối nguy một cách nhẹ nhàng, đương sự sẽ đáp ứng với nó như là một sự thách thức, đồng thời cảm thấy phấn khích và nhiệt tình. Các tiến trình nhận thức và tri giác có thể ảnh hưởng bởi trạng thái cảm xúc hiện tại của cá nhân (Bower 1981). Trong trường hợp này, khi một người cảm thấy lo âu, anh ta có thể trở nên cảnh giác với mối đe dọa và bắt đầu hồi tưởng những tình huống kinh khủng, có tính đe dọa trong quá khứ, do đó đương sự có thể nhận ra được về một mối đe dọa mà có thể đã không hiện hữu trước đó.

Quá trình trị liệu nhận thức cho rối loạn lo âu cũng theo nguyên tắc chung đã bàn ở trên: khi khái niệm hóa sự lo âu của một người nào đó, chúng ta bắt đầu bằng việc đánh giá “ngưỡng lo âu” hoặc khả năng chịu đựng sự lo âu của đương sự. Mỗi người có một ngưỡng lo âu chung cũng như khả năng chịu đựng lo âu trong những tình huống chuyên biệt. Những ngưỡng lo âu này có thể chuyển đổi để đáp ứng với các tác nhân gây stress trong đời sống hằng ngày của đương sự và tùy thuộc vào những nguồn lực hỗ trợ sẵn có của đương sự. Nhà trị liệu sẽ bắt đầu bằng việc hỏi về những sự kiện đặc hiẹu nào, tình huống đặc hiệu nào và các tương tác nào có tác dụng khởi hoạt nỗi lo âu nơi đương sự.

Kế tiếp, nhà trị liệu sẽ thực hiện một sự đánh giá về những suy nghĩ tự động đi kèm theo các cảm giác lo âu. Mặc dầu những suy nghĩ của bản thân người bị lo âu thường tập trung xung quanh các chủ đề về sự đe dọa và tính mẫn cảm của họ, nội dung riêng biệt của nỗi lo âu nơi mỗi người có thể hoàn toàn mang tính riêng tư hoặc rất cá biệt, và có thể liên quan đến một hội chứng có tính rất chuyên biệt.

Như giả thuyết về tính chuyên biệt nhận thức, mỗi rối loạn lo âu có thể được phân biệt dựa trên nền tảng của các nội dung và diễn tiến nhận thức kèm theo chúng. Ví dụ rối loạn hoảng sợ (panic disorder) được tiêu biểu bởi sự nhạy cảm hoặc sự cảnh giác với các cảm giác cơ thể và một khuynh hướng diễn nghĩa các cảm giác cơ thể này theo kiểu bi thảm hóa vấn đề. Ví dụ, những cảm giác chóng mặt tạm thời có thể được diễn giải là do có một bướu máu trên não, hoặc u trên não. Ám ảnh sợ khoảng rộng (agoraphobia), một cách đặc hiệu, có thể bao gồm một nỗi sợ rằng bản thân không thể nhanh chóng đi đến được một “khu vực an toàn”, chẳng hạn như nhà của mình, khiến cho đương sự hầu như phải tránh né đi xe hơi, máy bay hoặc các phòng đông người – những nơi mà việc ‘trốn chạy’ này bị ngăn trở. Ngược lại, ám ảnh sợ chuyên biệt (specific phobia) thường liên quan một đối tượng chuyên biệt (như sợ một con chó lớn) hay một tình huống chuyên biệt (sợ nói trước đám đông). Rối loạn ám ảnh – cưỡng chế tiêu biểu bởi sợ những suy nghĩ hoặc hành vi đặc thù nào đó. Trong khi rối loạn lo âu lan tỏa (G.A.D – General Anxiety Disorder) liên quan đến một cảm nhận mơ hồ về tính mẫn cảm dễ bị thương tổn và một nỗi lo sợ các mối nguy hiểm về cơ thể hoặc về tâm lý của đương sự. Như đã nêu, khi cá nhân giáp mặt với tình thế, họ sẽ có nhiều sự lượng giá. Điều đầu tiên là “nguy cơ nào có thể xảy đến cho tôi trong tình huống này”. Kế tiếp là sự đánh giá các nguồn tiềm năng của bản thân hoặc của môi trường có thể sẵn có đối với đương sự. Nếu đương sự nhận thấy mình có thể đương đầu với nguy cơ, họ sẽ không lo âu. Các can thiệp nhận thức hướng về việc giảm đi tri giác đe dọa và làm tăng cường niềm tin của cá nhân trong khả năng đương đầu với tình thế. Tuy nhiên trước khi can thiệp, điều quan trọng là phải đánh giá được rằng mối đe dọa kia là ‘có thật’ hay không, cá nhân đương sự có thật sự thiếu khả năng đương đầu với tình thế hay không, và sự tri giác của thân chủ về việc thiếu nguồn lực hỗ trợ là có chính xác hay không.

Ví dụ: Một nữ sinh viên 18 tuổi đang làm một luận án tiến sĩ triết học than phiền là không có khả năng học môn ngoại ngữ cho kỳ thi sắp đến. Cô run rẩy vì lo lắng lúc bắt đầu thi cử và bật khóc khi miêu tả sự sợ hãi không vượt qua kỳ thi. Cô cảm thấy cuộc thi đã chứng tỏ rằng cô không thể hoàn thành bằng tiến sĩ và cô là một người vợ, người mẹ không xứng đáng. Những tư tưởng có tính bi thảm hóa xảy ra trong niềm tin là cô muốn ra sống ngoài đường phố và tùy thuộc vào người khác, nhưng không có ai ở ngoài đường cả. Khi được hỏi, có khi nào bị lo âu như thế trong quá khứ không, cô trả lời đã có trước khi đi thi. Khi được hỏi có khi nào bị thi hỏng không, cô cười và cô trả lời “Dĩ nhiên không, tôi chưa bao giờ đạt điểm B trong các kỳ thi, mà luôn luôn đạt điểm A”. Mặc dầu chúng ta không thể tiên đoán khả năng đậu kỳ thi của cô một cách chắc chắn, kinh nghiệm cuộc sống của cô cho thấy rằng sự tri giác về thiếu khả năng đương đầu của cô ta là ảo tưởng hơn là thực tế. Tuy nhiên, nếu có sự thiếu sót kỹ năng, các can thiệp hành vi sẽ là thích hợp và nên cố gắng phát triển năng lực và xúc tiến các nguồn lực nâng đỡ của xã hội. Các nét nhân cách tự lập hoặc lệ thuộc, thường ảnh hưởng đến cách thức mà mỗi cá nhân đương đầu với các tình huống gây lo âu. Các cá nhân có nhân cách độc lập thường phát triển tư thế hướng về mục đích và thích hành động trong khi các cá nhân có nhân cách lệ thuộc thường tìm kiếm sự nâng đỡ, an ủi và sự bảo vệ của người khác. Các đáp ứng bình thường với stress là chiến đấu, chạy trốn hoặc “đóng băng lại”. Những cá nhân có nhân cách độc lập thường tìm cách chính mình giải quyết vấn đề, họ ít khi tìm kiếm sự giúp đỡ một cách tự phát và không tìm đến sự trị liệu ngay. Họ thường miêu tả sự lo âu bằng các triệu chứng sinh lý mơ hồ và có thể cảm thấy “sập bẫy” và bị lấn quyền trong những phiên trị liệu. Nếu nhà trị liệu cố tạo ra một mối quan hệ gần gũi, nồng nhiệt với thân chủ tự lập, hoặc đưa ra các lời khuyên trực tiếp hay các bài tập làm ở nhà, điều này sẽ dễ khiến cho thân chủ lo lắng hơn và có thể bỏ cuộc trị liệu. Ngược lại, các thân chủ có nhân cách lệ thuộc sẵn sàng tới trị liệu nhiều lần. Họ cảm thấy sự lo âu làm cho họ bị tê liệt và tích cực tìm kiếm sự hướng dẫn và nâng đỡ của người khác. Họ có thể tìm đến sự trị liệu nhiều lần và có thể bận tâm về việc nếu họ không nói với nhà trị liệu mọi việc, khả năng giúp đỡ của nhà trị liệu sẽ bị tổn hại. Khi bị stress, những cá nhân lệ thuộc dễ có cảm giác trở nên yếu đuối vì cảm giác bị bỏ rơi. Họ thường theo lời khuyên của nhà trị liệu và cần làm mẫu trước khi áp dụng các bài tập ở nhà. Tuy nhiên, khuynh hướng chiếu theo quyền người khác của họ và tìm sự trấn an hay hướng dẫn của người khác có thể sẽ giới hạn khả năng ứng phó của họ với những vấn đề trong đời sống một cách độc lập. Vì thế, mục tiêu trị liệu cần phải khuyến khích họ nhận nhiều trách nhiệm hơn trong việc phát hiện các vấn đề và đưa ra những giải pháp khác. Không phải tất cả các phản ứng lo âu là giống nhau. Đúng hơn, các khuôn mẫu triệu chứng biến đổi tùy theo từng người. Cá nhân này có thể trải nghiệm các triệu chứng về cơ thể nhiều hơn như tim đập nhanh, khó thở, chóng mặt, ăn khó tiêu, do dự hoặc các triệu chứng bốc hỏa. Trong những trường hợp này cần ‘cá thể hóa’ sự trị liệu. Tuy nhiên, sự lo âu của một cá nhân khác có thể đặc trưng bởi nỗi lo sợ về ‘điều tệ hại nhất sẽ xảy ra’ và những suy nghĩ mất sự kiểm soát. Chương trình trị liệu của họ sẽ có phần nào khác nhau. Khi trị liệu những rối loạn lo âu, thật ích lợi nếu giữ trong đầu tính biến thiên này và tiếp cận mỗi triệu chứng một cách riêng biệt. Các rối loạn lo âu thường có tính hay phát triển bên trong gia đình. Các rối loạn hoảng sợ, ám ảnh – cưỡng chế, ám ảnh sợ và rối loạn lo âu lan tỏa là khá phổ biến trong số những anh chị em ruột hơn là trong số những bà con xa. Mặc dầu các nghiên cứu nhấn mạnh rằng các yếu tố di truyền có thể tham gia vào việc phát sinh các rối loạn này, song vai trò của các yếu tố môi trường và học tập xã hội cũng được chứng minh rõ ràng. Việc lượng giá lịch sử gia đình của thân chủ bị lo âu cũng có thể hữu ích vì nó có thể cung cấp cho chúng ta những thông tin, các kinh nghiệm đầu đời của thân chủ đã góp phần vào sự hình thành những niềm tin gây lo âu. Ngoài ra, nó có thể soi sáng các thách thức mà các thành viên khác trong gia đình đương đầu với các cảm giác lo âu, những đáp ứng đương đầu mà thân chủ đã học tập theo. Mục tiêu là nhằm đạt được sự hiểu biết về nguồn gốc của những niềm tin ẩn ngầm bên dưới của thân chủ và cách thức mà thân chủ đã học tập để quản lý các cảm giác này.

Cũng như các vấn đề quan trọng khác về mặt lâm sàng, việc trị liệu chứng lo âu bắt đầu bằng cách khái niệm hóa trường hợp một cách chi tiết và mạch lạc. Bằng một nhãn quan theo kiểu hiện tượng học, chúng ta tìm cách hiểu biết các suy nghĩ, cảm xúc và đáp ứng hành vi của các thân chủ khi họ đương đầu với các tình thế gây lo âu. Các câu hỏi được đặt ra như sau:

·

                      

Thân chủ có trong tình trạng nguy hiểm thật sự, hay là sự đáp ứng của thân chủ đã trở nên quá mức với sự đe dọa? Nếu thân chủ đối đầu với một đe dọa thực sự, sự tái qui lỗi sẽ là một biện pháp không phù hợp.

·

                      

Thân chủ đã dùng sự qui lỗi nào để gán cho nguyên nhân lo âu?

·

                      

Thân chủ có đánh giá đúng khả năng của mình hay không, hay là nhà trị liệu có những quan điểm sai lệch về tính hiệu năng và sự thuần thục của cá nhân mình.

·

                      

Thân chủ mong đợi gì về hành vi của mình và hành vi của người khác? Các mong đợi cho mình và (nhà trị liệu) có hợp lý không?

·

                      

Các suy nghĩ tự động và sai lệch nhận thức đi theo sự lo âu là gì?

·

                      

Các sơ đồ và giả thuyết duy trì sự lo âu của thân chủ là gì ?

·

                      

Các kỹ năng hành vi nào cần thiết để ứng phó hiệu quả hơn? Thân chủ có thực hiện những hành vi kém thích ứng (ví dụ như tránh né, sử dụng ma tuý, tìm kiếm thái quá sự an ủi) có thể làm tăng cảm giác yếu đuối của mình hay không?

Việc xem xét các câu hỏi trên đây sẽ giúp nhà trị liệu hướng đến một chương trình trị liệu hiệu quả và có hệ thống hơn.

3. Các rối loạn nhân cách

Các rối loạn nhân cách ám chỉ tới các khuôn mẫu suy nghĩ, tri giác và các quan hệ tương tác cá nhân có tính chất kéo dài, không linh hoạt và kém thích ứng. Chúng có khuynh hướng xảy ra trong một loạt những tình huống và thường kèm theo nhiều phiền lụy sau đó. Thông thường, chúng gây tổn hại rất lớn trên các chức năng nghề nghiệp và xã hội. Rối loạn nhân cách khác với các vấn đề lâm sàng quan trọng khác như (trầm cảm hoặc rối loạn lo âu) ở chỗ chúng không thay đổi tho thời gian và không đặc trưng bởi các giai đoạn phiền muộn từng đợt.

Giống như những vấn đề đã được bàn luận, mỗi rối loạn nhân cách được mô tả như một hợp thành các nội dung và tiến trình nhận thức (Layden 1993). Sơ đồ của một thân chủ có nhân cách lệ thuộc được tiêu biểu bởi sơ đồ có hình thức “tôi là một người có tì vết hoặc không có khả năng” (bản thân) hoặc “thế giới là một chỗ nguy hiểm” (thế giới) hoặc gia đình “nếu tôi có thể duy trì quan hệ thân thiết với một người nâng đỡ, tôi có thể cảm thấy an tâm”. Do đó một người rối loạn nhân cách lệ thuộc luôn luôn tìm mối quan hệ với người khác, sợ mất mối quan hệ và cảm thấy thất vọng và lo âu khi mất sự ủng hộ của người khác.

Ngược lại, một thân chủ rối loạn nhân cách phân liệt, cũng cho rằng “thế giới là một chỗ nguy hiểm” (thế giới) nhưng đồng thời cho rằng “những người khác cũng nguy hiểm hay ác độc” và giả định “nếu tôi có thể tránh được các quan hệ thân thiết với người khác, tôi cảm thấy an toàn hơn”. Do đó, các đáp ứng cảm xúc và hành vi hoàn toàn khác biệt. Họ có khuynh hướng thờ ơ với sự khen ngợi hoặc chỉ trích của người khác, ít có bạn bè thân thiết và có cảm xúc xa vời với người khác. Như một thân chủ đã phát biểu “giấc mơ của tôi là học xong trường luật, như thế tôi có thể kiếm được nhiều tiền… rồi tôi sẽ mua một hòn đảo mà tôi sẽ không bao giờ bàn bạc với ai. Đó là lý tưởng của tôi”.

Những rối loạn nhân cách phản ảnh hoạt động của những sơ đồ và giả định kém thích ứng (Beck và cs., 1990; Freeman, 1999). Mặc dầu các sơ đồ này đã thích ứng trong hoàn cảnh mà từ đó nó đã được phát triển, từ lâu nó đã mất đi các giá trị chức năng. Vì những niềm tin nằm bên dưới rối loạn nhân cách là ngấm ngầm nên thường không được đem ra mổ xẻ. Do đó, các thân chủ có khuynh hướng không xem các tri kiến, suy nghĩ, hành vi của mình là có vấn đề, ít ra là trong lúc đầu. Các khó khăn của họ có tính cách ‘đẳng trương với cái ngã’ (ego-syntonic).

Họ cho rằng vấn đề là nằm ở người khác. Như trường họp người phụ nữ vừa nêu trên đã nói: ‘Tôi chỉ đang phát hiện ra vấn đề,

ho

phải thay đổi chúng’. Bà tin rằng hành vi của mình là thích ứng và hợp lý và rằng bà đang mang đến sự giúp đỡ cho người khác bằng cách nêu ra các khuyết điểm của họ. Bởi vì các khó khăn của họ là đẳng trương với cái ngã. Các thân chủ rối loạn nhân cách thường tìm đến nhà trị liệu là vì lý do trầm cảm, lo âu, giận dữ hoặc khó khăn trong công việc hay quan hệ. Điều quan trọng nên nhớ rằng các mục tiêu trị liệu thân chủ không được chia sẻ với người khác (gồm nhà trị liệu) nếu thân chủ không muốn làm nêu rõ các vấn đề cốt lõi của mình, việc trị liệu vẫn có hữu ích bằng cách cung cấp cho thân chủ các kỹ thuật để kiểm soát các cảm xúc trầm cảm hoặc lo âu và giúp cho thân chủ phát triển các quan hệ tin cậy. Mặc dầu tốn nhiều thời gian, phương pháp cởi mở dần dần những sơ đồ (schemata) thông qua sự khám phá có hướng dẫn và sự chứng minh rằng các sơ đồ là kém thích ứng, có thể dẫn đến kết quả hơn là sự đối đầu trực tiếp.

Trị liệu nhận thức đối với các rối loạn nhân cách khác với tâm lý trị liệu nhận thức ngắn hạn (short-term cognitive psychotherapy) vì nó cần thăm dò toàn diện hơn về nguồn gốc phát triển của các sơ đồ (phân tích phát triển) và khám xét các cách thức trong đó sơ đồ được thể hiện trong các quan hệ trị liệu. Tuy nhiên không giống như trị liệu tâm động học, nhà trị liệu nhận thức không cho phép phát triển quan hệ chuyển di tiêu cực (negative transference) như là một phương tiện, cho phép giải thích các xung năng thúc đẩy bên dưới hoặc diễn giải chức năng của cái Tôi. Sự phát triển mối quan hệ trầm cảm và giận dữ với nhà trị liệu sẽ làm tổn hại sự cọng tác trị liệu. Tốt hơn là nên tấn công vào các tri kiến, các trông đợi và những cách qui lỗi tiêu cực một cách trực tiếp. Mối quan hệ trị liệu được sử dụng như một bằng cớ rằng niềm tin nằm ẩn ngầm bên dưới là không có thật.

Ví dụ: một phụ nữ 39 tuổi tìm kiếm sự trị liệu vì luôn luôn cảm giác trầm cảm, lo âu và cảm giác trống rỗng. Trước đây bà đã lập gia đình nhiều lần và mối quan hệ hiện tại (với một người nghiện ma túy và nghiện rượu) vừa không thỏa mãn vừa bất ổn. Sau một cuộc trị liệu mạnh mẽ, bà đã mang một món quà quý báu đến cho nhà trị liệu. Khi được hỏi tại sao, bà đã nhận xét ‘bất cứ khi nào một người đàn ông làm một điều gì cho tôi, tôi cảm thấy tôi phải đáp lại nếu không ông ta sẽ rời bỏ tôi’. Bà kể rằng mình đã suy nghĩ nhiều về nhà trị liệu, sẽ nghĩ rằng mình đã được trị liệu xong, và phải đến hồi kết thúc. Trong tuần lễ trước đó, bà hay nằm mơ là người bạn tình sẽ rời bỏ mình. Khi nhà trị liệu hỏi bà cảm thấy thế nào nếu ông ta từ chối nhận quà. Bà bắt đầu bức xúc và khóc lóc. Lúc đó nhà trị liệu hỏi có điều gì ông đã nói hay làm để gợi ý rằng ông sẽ từ bỏ bà và chấm dứt việc trị liệu, bà đã xác nhận là không có. Nhà trị liệu nói như vậy là suy nghĩ từ đâu? Bà trả lời: không phải từ ông, mà từ khi tôi mới lớn lên. Cuộc trị liệu tiếp tục với sự thảo luận làm thế nào bà ta có thể nhận ra và đương đầu các phản ứng cảm xúc đặt nền tảng trên những sơ đồ tiềm ẩn của bà.

Mối quan hệ trị liệu đóng một vai trò quan trọng trong việc trị liệu các rối loạn nhân cách. Mối quan hệ trị liệu được sử dụng như một tiểu vũ trụ của các đáp ứng mà thân chủ thực hiện với người khác. Tính chất nhạy bén của mối quan hệ có ý nghĩa rằng nhà trị liệu phải rất thận trọng. Đối với thân chủ rối loạn nhân cách lệ thuộc chỉ cần trễ 2 phút chờ đợi cũng làm cho họ sợ bị bỏ rơi. Cần phải thảo luận trước về khung thời gian để trị liệu với các thân chủ ngay từ khi khởi sự trị liệu. Ví dụ, nhiều thân chủ có thể đã đọc về trị liệu nhận thức và mong đợi họ sẽ được trị liệu từ 10 đến 20 lần. Tuy nhiên, vì tính kinh niên và trầm trọng của khó khăn của họ cần phải có một thời gian lâu dài hơn. Mặc dầu thân chủ có thể mong đợi sự cải thiện một số triệu chứng trong thời gian ngắn hơn. Cần ít nhất một năm đến 20 tháng để nhận ra và thay đổi các niềm tin nằm bên dưới. Trị liệu nhận thức các rối loạn nhân cách là một lãnh vực phát triển rất nhanh cho nghiên cứu và lý thuyết lâm sàng. Mặc dầu ít công trình nghiên cứu thực nghiệm đã hoàn tất, kinh nghiệm lâm sàng của chúng ta gợi ý rằng mô hình trị liệu nhận thức cung cấp một phương tiện tinh tế để hiểu biết các kiểu cách suy nghĩ, cảm xúc và hành vi dai dẳng và làm thất bại bản thân. Giá trị tiềm tàng của trị liệu nhận thức để trị liệu các thân chủ đầy thách thức này là rất lớn lao, mặc dầu chưa được nhận biết được hết.

MỘT TRƯỜNG HỢP MINH HỌA

Những vấn đề đạt ra

LV 20 tuổi, đang sống chung với cha mẹ, trong thời gian được đưa đến để trị liệu nhận thức, Anh ta đang làm việc bán thời gian tại một nhà kho địa phương và vừa nghĩ học ở một trường đại học nổi tiếng.

LV hơi béo phì mức độ nhẹ, ăn mặc chỉnh tề, nhưng đầu tóc bù xù, dường như nhiều ngày không tắm, anh ta đi đứng nặng nề, nói năng rất khó nghe. Tránh tiếp xúc bằng mắt, nói dài dòng và lạc đề. Chẩn đóan lúc đưa đến trị liệu là rối loạn lưỡng cực - trầm cảm và rối loạn nhân cách tránh né.

Những vấn đề quan tâm hiện tại gồm có: Bệnh sử trầm cảm nặng, tự tử, cảm giác không có giá trị, lo âu xã hội, các đợt hưng cảm (giảm giấc ngủ, kích động, nói chuyện liên tục, tiêu tiền không hợp lý, hoang tưởng tự cao, hoạt động quá mức), kỹ năng xã hội nghèo nàn. Anh ta đã trị liêu phân tâm 4 lần mỗi tuần, trong nhiều năm và đã sử dụng một số thuốc. Mặc dầu những cơn hưng cảm được kiểm soát rất tốt bằng lithium (uống hằng ngày đều đặn) cảm giác trầm cảm vẫn tiếp tục xấu đi. LV đã được nhập viện 2 lần vì ý tưởng tự sát và bác sĩ tâm thần đã đề nghị đưa anh vào trị liệu nội trú do tình trạng đang xấu đi. Cha mẹ của anh muốn tham khảo thêm ý kiến thứ hai trước khi đưa con vào trị liệu nội trú lâu dài và họ cảm thấy rằng trị liệu nhận thức là “hy vọng cuối cùng”của họ.

Đánh Giá Đầu Tiên

Bệnh sử y khoa, xã hội, phát triển được ghi nhận đầy đủ và một loạt các trắc nghiệm khách quan được thực hiện để có một ý tưởng rõ ràng hơn về những vấn đề của anh ta. Số điểm của LV khi thực hiện BDI (Beck depresion inventory), BAI (Beck anxienty invenstory), HS (hopelessness inventory scale) lần lượt là 28, 51, 19.

Các điểm trên chứng tỏ thân chủ bị trầm cảm nặng, lo âu và bi quan. Các đáp ứng của thân chủ trên M.M.P.I (Bảng trắc nghiệm nhân cách đa pha Minnesota) mang lại kết quả trên profile 2- 8-7, tăng kèm theo các thang 3, 4, 10. Như vậy, các đáp ứng của thân chủ với các trắc nghiệm MMPI là tương tự với một người rất lo âu, trầm cảm, kích động, căng thẳng. LV có tính cách lệ thuộc và không khẳng định trong các quan hệ với người khác và không thể đáp ứng các thách đố của đời sống hằng ngày. Các đáp ứng của anh trên một số câu hỏi về những suy nghĩ tự động đã tiết lộ anh rất quan tâm về việc những người khác thích anh và anh cảm thấy khó khăn khi cô đơn một mình và không thể tránh né về việc suy nghĩ các lỗi lầm quá khứ của mình”.

Lịch Sử Của Thân chủ

LV là con trai thứ hai và lớn lên ở một vùng ngọai ô giàu có và đã theo học các lớp học đặc biệt. Mặc dầu đầu LV đã học rất tốt ở trường tiểu học nhưng các hoạt động xã hội và cảm xúc của anh ta rất tồi tệ. Anh cảm thấy bị đày đọa bởi cảm giác nghi ngờ chính mình, cảm giác vô giá trị và luôn luôn chỉ trích bản thân mình khi so sánh với những người khác mà anh tin đó là những “siêu sao”, còn mình thì rất ‘ngu ngốc và gian trá’. Khi được yêu cầu giải thích kỹ lưỡng, LV nhận xét rằng anh đã tốt nghiệp trung học với số điểm rất cao và cha của anh đã giúp viết nhiều bài thu hoạch cho anh. Trong khi lên đại học, anh ta bắt đầu thu hút. Anh ít khi tham dự lớp và trong một buổi thực tập chữa cháy, anh ở lại trong phòng của mình “hy vọng được chết trong đám cháy”. Sau nhiều tuần tuyệt vọng gọi điện cho cha mẹ và có những ý tưởng tự sát tăng dần, LV đã trở về nhà. Cha của anh ta lo lắng về ảnh hưởng của việc bỏ học ở đại học của con, đã soạn thảo một câu chuyện rất tỉ mỉ rằng LV cần về nhà thăm cha mẹ vì mẹ của anh đang có một cuộc giải phẫu não bộ. Khi anh ta trở về nhà, cha mẹ của anh rất bất mãn và không thể kể cho bất cứ ai trong gia đình và ngoài cộng đồng về việc này. Để bảo vệ điều bí mật này, bất cứ khi nào họ rời khỏi nhà, LV được yêu cầu nằm trên sàn của xe hơi, bao phủ bởi một tấm chăn.

Mặc dầu LV đã học hành rất tốt và cố gắng trở thành một “đứa con hoàn hảo”, anh ta phải đầu hàng bên trong với các cảm giác giận dữ, trầm cảm và kém năng lực. Anh ta báo cáo có lần anh trải nghiệm về những huyễn tưởng bạo dâm, tấn công trẻ con láng giềng và gợi lại việc anh đã gọi những cú điện thọai khiêu dâm cho một đứa trẻ 8 tuổi khi anh còn học ở trường trung học.

Khái niệm hóa nhận thức

Chứng trầm cảm và lo âu của LV được chồng chất trên một kiểu nhân cách cầu toàn và tự phê bình bản thân mình. Anh cảm thấy mình ở tiêu chuẩn thậm chí cao cả, vĩ đại của những việc làm của mình (ví dụ tin rằng mình cần đạt được giải Nobel văn chương) và báo trước rằng sẽ từ chối bất cứ ai muốn đến để tìm hiểu anh ta. Các niềm tin và hành động của anh đều tiêu biểu cho một người trầm cảm và rất đúng với mô hình nhận thức của trầm cảm. Các quan điểm tiêu cực về bản thân, thế giới xung quanh, và tương lai là rất rõ ràng trong tư tưởng của LV. Các kỹ năng xã hội của LV rất nghèo nàn và anh có khuynh hướng cư xử theo cách thức làm cho người khác xa lánh anh ta. Khả năng giải quyết vấn đề của LV phát triển rất nghèo nàn và anh rất ít tham gia các hoạt động có thể mang lại sự thành đạt và niềm vui. Khi làm được một việc gì, anh ta muốn giảm thiểu ý nghĩa sự thành đạt của mình và muốn kể lại các thất bại trong quá khứ. Anh ta có xu hướng đáp ứng với các cảm giác trầm cảm và lo âu thông qua sự ‘nhai lại’ và thu rút hơn là sự đương đầu một cách thích hợp. Tiếp theo các thông tin trên, người ta có thể khái niệm hóa các khó khăn của LV như sau đây:

Các chiến lược đương đầu (hành vi)

Tránh né hay thối lui

Tìm kiếm sự trấn an của người khác

Các lệch lạc của nhận thức

Tư tưởng nhị nguyên: Nếu tôi không đúng, Tôi phải sai lầm… Tôi không thể suy nghĩ đúng đắn.

Sự trừu tượng hóa chọn lọc:

Vd. tôi không cảm thấy thoải mái trong lớp học ngày đầu tiên, tôi không cảm thấy đúng… tôi biết điều đó, hãy chỉ nói với bạn tôi không bao giờ làm điều đó trong trường đại học.

Cá nhân hóa

Vd. mọi người đều ngồi ở các bàn khác trong quán ăn… điều này chứng tỏ không người nào thích tôi.

Các mệnh đề “nên”

Vd. Tôi nên thông minh hơn và làm nhiều hơn… Tôi phải...

Phóng đại hoặc làm giảm nhẹ

Vd. Tôi biết hắn đã gửi cho tôi một bức thư về việc rất thích lớp học của tôi, nhưng điều đó không có ý nghĩa… không đáng kể.

Bi thảm hóa

Vd. Tôi yếu kém trong cuộc sống, so sánh phê bình bản thân… Tôi không có khả năng.

Các suy nghĩ tự động

Vd. Mọi người tốt hơn tôi vì tôi không thể làm được ngay cả thổi một cái bong bóng.

“Tôi rất ngu ngốc… Tôi là một gã ngớ ngẩn”

“Mọi người sẽ khám phá ra tôi là một gã giả mạo”

“Tôi sẽ không bao giờ thành công”

“Đời tôi vô nghĩa… Tôi không thể chia sẻ với ai”

“Tôi thật sự rất phiền nhiễu… Đầu óc tôi trống không”

Các giả định

“Nếu tôi có thể tránh né những người khác tôi sẽ cảm thấy an toàn hơn”

“Nếu tôi thành công, tôi có thể cảm thấy tốt về mình”

Sơ đồ (Schemata)

“Về cơ bản tôi rất thiếu sót” (bản thân)

“Thế giới này là một nơi nguy hiểm” (thế giới)

“Mọi người là không đáng tin cậy và không giúp gì được tôi”(mối quan hệ xã hội)

Tiến trình trị liệu

Mục tiêu đầu tiên trong việc trị liệu, là thiết lập sự tin cậy và quan hệ, viết ra bảng liệt kê các vấn đề và giáo dục LV về diễn tiến của trị liệu nhận thức. Trong những phiên trị liệu đầu tiên, LV luôn luôn tỏ ra buồn bã và lo âu. Anh có vẻ rất bi quan và liên tục tìm kiếm sự trấn an của nhà trị liệu rằng anh ta ‘ổn’. LV bày tỏ sự giận dữ rất nhiều về kết quả giới hạn của việc trị liệu phân tâm và sự bi quan về trị liệu nhận thức. Sau đó chúng tôi bắt đầu thảo luận về cảm tưởng của anh ta với nhà trị liệu, anh đã học gì trong trị liệu phân tâm và những mục đích của anh cho tương lai. Anh thừa nhận rằng mình đã phát triển được một số thấu hiểu những điều bí ẩn quan trọng trong việc trị liệu phân tâm và anh ta không biết nhiều về trị liệu nhận thức. LV nhận xét rằng anh ta chỉ muốn mình là một người bình thường trong trường đại học. Một mục tiêu thích hợp và hợp lý và đồng ý đọc một cuốn sách ngắn về trị liệu nhận thức trước khi vào phiên trị liệu lần tới. Bài tập làm ở nhà chính thức đầu tiên của anh ta là viết ra những tư tưởng của mình khi nào anh ta cảm thấy bức xúc trong tuần lễ. Bước đầu tiên là hoàn thành việc ghi chép những suy nghĩ không tốt lành ra trên giấy (Beck và cs., 1979). Những cảm giác buồn rầu lo âu và trở nên trầm trọng hơn khi anh ta thành thạo trong việc phát hiện các suy nghĩ tự động của mình. Điều này vẫn thường xảy ra và dường như phản ảnh sự nhạy cảm tăng dần của thân chủ đối với các suy nghĩ mà anh ta cố gắng tránh né. Kỹ thuật đáp ứng hợp lý được giới thiệu (Mullin, 1986) để giảm các cảm giác này. LV được yêu cầu viết ra những suy nghĩ khi anh cảm thấy đặc biệt trầm cảm hay lo âu. Sau đó anh sẽ xem xét một cách hệ thống những chứng cớ ủng hộ hoặc chống lại các suy nghĩ làm khó chịu (tranh luận hợp lý), liệt kê các cách suy nghĩ thay thế khác để quy kết lại (reattribution) và phát triển những cách thức ứng phó một cách thích ứng hơn đối với những bận tâm của mình (giải bi thảm hóa và tìm các giải pháp thay thế). Ví dụ, như đã nói trên LV cảm thấy mình là “một gã ngớ ngẩn, ngu dốt”. Kiểm tra ngắn gọn về lịch sử gần đây của LV cho thấy, mặc dầu đã chuyển đổi nhiều trường học, anh ta đã tốt nghiệp với điểm rất cao ở trung học, đạt số điểm 1.580 (trên 1.600 điểm) và anh cũng đã được nhận vào trường đại học Ivy league với chương trình danh dự. Tóm lại, các chứng cớ đều cho thấy anh ta không đần độn, ngược lại rất là thông minh. Một giải thích hợp lý và tỉ mỉ các trải nghiệm của LV cho thấy rằng anh ta thiếu tự tin vào khả năng của bản thân mặc dù có kết quả tốt trong thời gian ở trung học và anh đã không được chuẩn bị để đương đầu với nỗi lo lắng phải rời xa gia đình và cha mẹ của mình. Một mục tiêu của trị liệu là phát triển các kỹ năng để hoàn thành mục tiêu này.

Căn cứ vào sự thiếu động cơ và tình trạng cách ly xã hội, LV sau đó đã bắt đầu được khuyến khích phải hoàn thành những “chương trình hoạt động hằng ngày” (Beck và cs., 1979). Anh viết ra những hoạt động của mình mỗi giờ một lần và đánh giá các hoạt động này theo mức độ làm chủ hoặc cảm nhận về sự hoàn tất công việc cũng như mức độ vui sướng mà LV có được. Như có thể mong đợi, LV tham gia một số ít các hoạt đông đã cung cấp anh ta sự ý thức về giá trị, sự thành đạt, sự thưởng thức. Các thân chủ trầm cảm như LV thường tránh các công việc có tính thách thức và thường trải nghiệm sự khó khăn trong khi hoàn thành các công việc mà họ vốn có thể hoàn tất một cách dễ dàng trước khi bị trầm cảm. Những suy nghĩ như “Tôi không thể làm được điều đó và “mục đích để làm gì” ức chế họ tham gia các hoạt động mà từ đó có thể giúp họ có được cảm nhận về sự thành thạo và vui sướng. Hơn nữa, sự tránh né công việc cũng như khả năng thực thi bị giảm sút cũng sẽ tạo nên chứng cớ cho việc “có điều gì đó không ổn với tôi… Tôi không thể làm được điều đó”. Việc thiết lập chương trình hoạt động có thể trực tiếp đảo ngược các tiến trình tiêu cực trên. LV và nhà trị liệu đã phát triển một số bảng liệt kê các hoạt động đơn giản mà anh sẽ tìm cách thực hiện mỗi ngày. Ví dụ, động viên LV thức dậy lúc 10 giờ sáng và tắm nhanh (thay vì ngủ nướng trên giường đến chiều); gọi điện thoại cho một người bạn, chấp nhận lời mời của người bạn chơi bài và đi bơi ở một hồ bơi địa phương. Khi LV bắt đầu thực hành các hoạt động trên, cảm giác lo âu và buồn rầu bắt đầu giảm dần. Những thành quả đạt được phản ánh qua sự cải thiện số điểm trên các bảng lượng giá, chẳng hạn như trên bảng thang điểm trầm cảm số điểm từ 28 đã tuột xuống 9 điểm vào tuần trị liệu thứ 23. Số điểm trong lượng giá lo âu từ 51 giảm xuống còn 3 (lo âu không đáng kể) cùng thời gian trị liệu.

Nói theo kiểu Frend, những mục tiêu quan trọng của đời sống là “yêu thương và làm việc”. Với quan điểm này, chúng ta không chỉ hài lòng về các kết quả trên, mà còn mong tác động đến các vấn đề lớn hơn trong đời sống của LV như sự bất lực trong việc phát triển các quan hệ thân tình với người khác và khả năng sống độc lập với cha mẹ.

Các can thiệp hành vi (ví dụ trình bày cách tiếp xúc bằng mắt thích hợp và đóng vai các kỹ năng đàm thoại cơ bản) đã được giới thiệu để phát triển các kỹ năng xã hội của LV và cần thiết lập một hệ thống theo thứ bậc các hoạt động xã hội (bắt đầu bằng chơi bài với bạn bè và quyết định có một ‘cuộc hẹn’ với một phụ nữ). LV có thể tiến bộ thông qua một hệ thống thứ bậc các bài tập thực hiện trong nhiều tháng, nhưng có thể trải qua nhiều nỗi lo âu vào mỗi lần chuyển sang một giai đoạn mới. Các bài tập thư giãn, đáp ứng hợp lý, tưởng tượng có hướng dẫn, sắm vai trong các hoạt động đã có tác dụng hữu ích trong việc giúp đỡ LV phát triển các kỹ năng. Đồng thời, LV được khuyến khích xem xét các cách thức trở lại đại học. Vì anh ta rất lo âu về việc phải rời khỏi nhà (hai lần cố gắng sống độc lập vừa qua của anh ta đã kết thúc bằng việc nhập bệnh viện tâm thần), LV bắt đầu học lớp ban đêm ở đại học địa phương và anh ta rất thành công. Những khuynh hướng giảm thiểu các thành đạt của mình được bàn đến một cách trực tiếp trong quá trình trị liệu, cũng như hiệu quả các thành đạt này trên tính khí và lòng tự trọng của LV. Sau khoảng 6 tháng, LV bắt đầu bàn đến khả năng đăng ký học đại học trở lại. Sự sợ hãi của anh ta về một sự sụp đổ khác, cũng như sự không chắc chắn của anh ta về chuyên ngành và nghề nghiệp tương lai cũng trở thành mục tiêu của trị liệu. Một lần nữa, anh ta bắt đầu tìm kiếm sự trấn an từ nhà trị liệu rằng anh ta “ổn” (Ok). Điều này tạo nên một cơ hội xem xét các trải nghiệm đã góp phần hình thành và củng cố các sơ đồ nhận thức của LV và cách thức mà chúng thể hiện trong mối quan hệ trị liệu. Ví dụ, anh ta thường tìm sự trấn an và giúp đỡ của mẹ trong thời niên thiếu và những cố gắng của cha anh giúp anh làm các bài tập ở nhà thời trung học đã duy trì niềm tin của LV rằng anh thiếu khả năng và không thông minh. LV xác nhận sự trấn an (từ nhà trị liệu hay cha mẹ) giúp rất ít trong việc giảm nhẹ các cảm giác này và rằng việc tìm kiếm sự nâng đỡ đã loại trừ khả năng anh ta có thể tự mình giải quyết vấn đề. Các trải nghiệm trong thời niên thiếu của LV không tương ứng với những niềm tin được xem xét và LV được khuyến khích để trắc nghiệm lại giá trị hiện tại của những niềm tin bằng cách hoàn thành các công việc mà không tìm kiếm sự nâng đỡ hoặc sự trấn an.

Sau đó, LV được nhận vào học ở một trường đại học lớn cách nhà vài trăm dặm. Tuy nhiên, trước khi rời nhà để đi học, chúng tôi cảm thấy hữu ích cho anh nếu có được một trải nghiệm nhằm giúp anh tự tin rằng anh có thể sống một mình. Thay vì tiếp tục công việc ở nhà kho, anh đã đăng ký công việc làm một công nhân tăng cường ở một làng nhỏ. Trong 6 tuần lễ xa nhà, LV đã đương đầu với nhiều thách đố mà trước đây anh hẳn sẽ cảm thấy không thể vượt qua. Sau đó, anh về nhà với mái tóc mới dài hơn, đeo bông tai và có một ý thức mình là một cá nhân có thể giúp đỡ được người khác.

LV rời gia đình đi học đại học vài tuần sau đó. Sau một năm đầu tiên khó khăn, anh đã trở thành một chuyên viên tư vấn ở ký túc xá và các điểm số của anh bắt đầu ổn định. Các cuộc trị liệu tăng cường thêm một lần mỗi tháng. Việc trị liệu được kết thúc sau gần 3 năm. LV tốt nghiệp đại học, bắt đầu dạy trẻ em trong các thành phố ở một tiểu bang khác và được tốt nghiệp đại học. Mặc dầu anh vẫn còn cảm thấy lo lắng và tự chỉ trích, anh có thể hành xử một cách độc lập. Những thành quả đạt được qua việc trị liệu không chỉ phản ánh trên số điểm cải thiện trên thang điểm đánh giá khách quan mà còn trên chất lượng của cuộc sống. Các mục tiêu trị liệu không chỉ giới hạn trong việc giảm trầm cảm và lo âu mà còn đặt trọng tâm tác động lên trên những niềm tin tiềm ẩn và sự thiết lập cá tính của một người trưởng thành. Sự chia tay với cha mẹ để trở thành một cá thể độc lập, việc đi học trở lại, phát triển các mục tiêu nghề nghiệp, cùng với lĩnh hội các kỹ năng xã hội là những mục tiêu quan trọng.

Trường hợp này mô tả các can thiệp chiến lược được sử dụng để trị liệu các nan đề tâm lý trầm trọng và lâu dài. Việc trị liệu cá nhân này có nhiều mặt và bao gồm các tiếp cận nhận thức và hành vi theo truyền thống, cũng như các can thiệp tương tác cá nhân tập trung vào cách thức trong đó những niềm tin ẩn ngầm và các sơ đồ được thể hiện trong mối quan hệ trị liệu. Việc phát triển những kỹ năng giải quyết các vấn đề xã hội, đáp ứng hợp lý, tái huấn luyện khả năng quy kết (attributional retraining), phát triển các kỹ năng hành vi, cùng với việc phân tích sự phát triển các sơ đồ và giả định tiềm ẩn đều có vai trò quan trọng. Ngoại trừ ba phiên trị liệu với gia đình, cha mẹ của LV không nằm trong chương trình trị liệu. Điều này được bàn bạc rõ ràng với LV và mục tiêu của trị liệu là khuyến khích anh ta chấp nhận trách nhiệm trong việc trị liệu và hành xử một cách độc lập hơn.

KẾT LUẬN

Lợi ích của liệu pháp nhận thức trong trị liệu trầm cảm và lo âu đã được xác định rõ ràng. Nhiều thể lâm sàng của rối loạn trầm cảm và lo âu đã được đề nghị và tạo được nhiều quan tâm trong thực hành. Tuy nhiên, các nghiên cứu có đối chứng về hiệu năng của trị liệu nhận thức trong các vấn đề lâm sàng quan trọng khác cần phải tiếp tục thực hiện. Ngoài ra, các tiến trình tạo động lực cho sự thay đổi trong quá trình trị liệu vẫn chưa được hiểu thấu đáo. Ví dụ các kỹ thuật nhận thức và hành vi đặc thù nào có liên quan gần gũi nhất với sự cải thiện về mặt lâm sàng. Các biến thể (variants) về tính hợp lý và tính kiến tạo của trị liệu nhận thức có khác biệt về hiệu năng trong trị liệu các rối loạn đặc hiệu hay không? Điều gì làm nên sự thay đổi của thân chủ trong tiến trình trị liệu? Các mô hình nhận thức của tâm bệnh lý đề xuất rằng những thay đổi nên được làm rõ trong khi xuất hiện các suy nghĩ tự động kém hiệu quả và sự lệch lạc nhận thức kém thích nghi; đồng thời những thay đổi trong sơ đồ nhận thức cũng nên có được khả năng tiên liệu việc giảm thiểu nguy cơ tái phát. Những thay đổi này có được chứng minh không? Cảm xúc và diễn xuất hành vi có vai trò gì trong sự cải thiện kết quả trị liệu? Đây là những câu hỏi thúc bách và nếu có lời giải đáp thì chúng sẽ được sử dụng như là một động lực để tinh luyện thêm mô hình trị liệu nhận thức. Trị liệu nhận thức được xem là một tiếp cận phức tạp và tinh vi của tâm lý trị liệu đặt nền tảng trên một sự thật đơn giản là hành vi và cảm xúc bắt nguồn từ những cách thức suy nghĩ kém thích ứng. Khi nhìn lại 30 năm phát triển lý thuyết và thực hành trị liệu nhận thức, Beck (1991) nhận định “trị liệu nhận thức không còn non kém nữa mà đã chứng tỏ khả năng bay cao bay xa bởi năng lực của chính mình, nhưng bay được bao xa thì còn phải chờ xem”.

Tham khảo: Essential Psychotherapies – 1995.

TRÀO LƯU NHÂN VĂN – HIỆN SINH TRONG TÂM LÝ TRỊ LIỆU

BS. NGUYỄN MINH TIẾN

Nói một cách khái quát, trào lưu nhân văn – hiện sinh (existential-humanistic approach) có cơ sở từ trong tất cả những tư tưởng của con người về sự nhiệm mầu của ý thức và của cuộc sống. Nói tỉ mỉ hơn, chúng ta có thể phát hiện những cội nguồn của trào lưu này ngay từ thời có những quan điểm muốn “khách thể hóa” (objectify) những trải nghiệm của con người của những nhà tư tưởng như Aristotle, Newton, Descartes; cho đến những khuynh hướng hiện đại hơn muốn đặt nặng tầm quan trọng vào “tính chất chủ quan” của con người (human subjectivity) của các học giả trong thế kỷ 20 như Husserl, Heidegger, Sartre và Merleau-Ponty.

Những tác giả theo chủ nghĩa hiện sinh (existentialists), cùng với những nhà tâm lý nổi tiếng như Freud, Gordon Allport, Buber, William James, và các triết gia như Ortega y Gasset và Pascal, đã phát biểu về ý nghĩa cốt yếu của các trải nghiệm (experience) trong nội tâm của con người. Trong khi đó, quan điểm nhân văn (humanistic perspective) trong tâm lý học, tiêu biểu bởi các tác giả như Anderson, Bugental, Arthur Deikman, Erich Fromm, George Kelly, Sidney Jourard, Abraham Maslow, Carl Rogers, lại phát triển mạnh trong khoảng bốn thập niên cuối thế kỷ 20 và trở nên đồng điệu với trào lưu tư tưởng hiện sinh. Tất cả những trào lưu tư tưởng này có ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ trên sự phát triển của ngành tâm lý trị liệu trong khoảng thời gian này. Sự kết hợp hai dòng tư tưởng hiện sinh và nhân văn đã đưa sự chú tâm của những nhà chuyên môn trở về với những chủ đề đậm chất con người như: tình yêu, sự ganh ghét, tính trung thực, sự phản bội, lòng can đảm, sự giận dữ, đức hy sinh, sự toàn mỹ, tính sáng tạo, sự độc ác, cùng với những chiều kích khác rất phong phú nhưng cũng đầy mâu thuẫn trong cuộc sống nội tâm của tất cả chúng ta.

Trong thập niên 1960, những thách thức đối với các mô hình tâm lý trị liệu theo truyền thống phần nào đã thúc đẩy sự phá vỡ các mô hình trị liệu kém hiệu lực của phương pháp phân tâm cổ điển và đồng thời cũng phá vỡ những tầm nhìn còn nhiều hạn chế của các nhà trị liệu không phải phân tâm. Và như câu châm ngôn của Alexander Pope: “Việc nghiên cứu đúng đắn về

con người

chính là

loài người” (The proper study of humans is humankind). Việc này đặt nặng vai trò trung tâm của đời sống chủ quan của con người bao gồm sự nhận biết, chú tâm, xúc cảm, nhận thức, cùng tất cả những chiều kích muôn màu muôn vẻ trong cuộc sống. Mỗi tác giả theo khuynh hướng nhân văn – hiện sinh đều có cách riêng độc đáo của mình, tuy nhiên tất cả họ đều chia sẻ lòng tin vào sự thánh thiện và tiềm năng của đời sống con người, đặc biệt là đời sống nội tâm. Sự phát triển khuynh hướng nhân văn – hiện sinh cũng hòa nhịp cùng với trào lưu “hiện tượng học” trong ngành tâm lý học (phenomenological psychology).

Do vậy có một “dòng sông” được tạo nên bởi ba nhánh phụ bao gồm: (1) Tâm lý học hiện sinh và triết học hiện sinh; (2) Tâm lý học nhân văn và (3) Phương pháp nghiên cứu và quan điểm hiện tượng học. Tất cả những trào lưu này cùng tương tác và có ảnh hưởng lên quan điểm của trường phái nhân văn – hiện sinh trong tâm lý học nói chung và tâm lý trị liệu nói riêng ở các nước phương Tây.

Lịch sử văn hóa phương Tây (cũng như toàn thế giới) đã chứng kiến rất nhiều những mối công kích tràn lan lên những nguồn lực mang lại ý nghĩa cho đời sống của con người. Trong một châu Âu đang hồi phục từ những sang chấn hàng loạt sau chiến tranh thế giới thứ hai, tất cả những nhà tư tưởng đều phải đối mặt với một thực tại về sự hủy diệt của con người. Một số người có tư duy mang nặng tính hình thái cơ học (mechanomorphs), xem con người chỉ như là những cỗ máy được chi phối bởi những tác nhân có ảnh hưởng từ bên ngoài. Một số trở nên bi quan nhìn đời đen tối, xem toàn bộ thế gian này là một sự phi lý. Một số người khác lại cố tìm cách cứu vớt những hy vọng còn sót lại sau những hủy hoại do chiến tranh và thất bại kinh tế.

Nhiều nhà chuyên môn như các bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý và các cán bộ xã hội nhận thấy rằng những phương thức trị liệu tâm lý theo truyền thống lúc ấy (chủ yếu dựa trên nền tảng phân tâm và các tư vấn khuyên bảo) là không đầy đủ và hiệu quả nữa. Ngoài ra, cũng có ảnh hưởng từ những thay đổi trong thái độ của công chúng nói chung về việc thế nào là “được trị liệu” và những kỳ vọng thông thường về những gì mà tâm lý trị liệu có thể mang lại. Thay vì chỉ trông đợi được trị liệu tâm lý khi mắc phải những tâm bệnh quan trọng, những thân chủ mới của thời kỳ ấy có thể tìm kiếm sự trợ giúp khi họ gặp phải những vấn đề rất đời thường nhưng có tính cấp bách của cuộc sống như ly hôn, trầm cảm, thất tình, bất đắc chí, cô đơn, ghen tuông, những tình trạng xâm hại, lạm dụng, những nỗi lo sợ thường xuyên và các chủ đề thông thường khác trong đời sống (tức là những vấn đề có ảnh hưởng lên trên sự “tồn tại” hay “hiện sinh”), và họ đã đưa các chủ đề ấy vào trong các phòng tư vấn.

Chuyên ngành sức khỏe tâm thần có sẵn lúc ấy đã chậm trễ không nhận ra những thay đổi này, không nhận ra những gì mà các thân chủ yêu cầu nơi họ cũng như những gì mà người trong ngành cần phải dạy và học. Hậu quả là nhiều chuyên gia không phải ngành y khoa như các nhà giáo, nhân viên xã hội, những người thiện nguyện... đôi khi chỉ có học vị

master

trong các lĩnh vực chuyên môn của mình đã đứng ra đảm trách việc đáp ứng cho các nhu cầu đang lên ấy và đã nhanh chóng nắm bắt ngành nghề mới mẻ này (Tình hình này rất giống với sự hình thành ngành Tư vấn Tâm lý tại Việt Nam vào những năm sau chiến tranh

-

Người dịch).

Cả một pho tư liệu bao gồm nhiều công trình nghiên cứu đã xuất hiện và góp phần đáng kể vào việc hình thành phương pháp trị liệu theo hướng nhân văn – hiện sinh, một phương pháp có gốc rễ bắt nguồn từ rất nhiều khuynh hướng trị liệu trước đó. Ở đây ta có thể kể đến một số nội dung có ảnh hưởng quan trọng nhất như:

-         

Các luận thuyết của Freud về sự phản kháng, chuyển di và chuyển di ngược (resistance,

transference,countertransference), cùng với sức mạnh và sự phong phú của vô thức.

-         

Lòng tin của Carl Rogers về tiềm năng tự bình phục của thân chủ và vai trò trung tâm của bản ngã (self).

-         

Sự khẳng định của Husserl về vai trò trung tâm của chủ thể và sự mở rộng các trải nghiệm của con người theo cách thức làm mới liên tục thông qua bối cảnh của cuộc sống thường ngày từ lúc này sang lúc khác.

-         

Từ việc Rollo May mang quan điểm hiện sinh vào trong tâm lý trị liệu, với sự nhấn mạnh vào hiện tại, sự thách thức đối đầu với thực tế cuộc sống (confrontation), và vai trò quan trọng của sự chủ tâm có dự định của con người. May cũng mang đến những nghiên cứu về những trải nghiệm cơ bản trong cuộc sống con người như về sự lo âu, tình yêu, ý chí, sức mạnh, sự vô tội...)

-         

Allen Wheelis nhiều lần đòi hỏi con người phải đối mặt với những bi kịch, với sự méo mó và trống trải vốn là một phần trong cuộc sống.

-         

Irvin Yalom thận trọng kết hợp những ý nghĩa trong việc thực hành tâm lý trị liệu với những giả định cơ bản trong cuộc sống.

-         

Peter Koestenbaum dùng những tư duy có tính triết lý để mô tả các đề tài của cuộc sống và đã nghiên cứu về “sự sống động của cái chết” (vitality of death).

Việc thực hành tâm lý trị liệu theo quan điểm nhân văn – hiện sinh do vậy cũng đa dạng và phong phú như chính sự phát triển của trào lưu tư tưởng này. Đối với nhiều người, quan điểm này đã góp phần chủ yếu vào việc mở rộng phạm vi thích ứng với các phương pháp và khái niệm từ nhiều học thuyết nền tảng khác nhau. Vì thế, ngày nay, phạm vi ứng dụng của quan điểm này đã mở rộng từ những nhà trị liệu phân tâm theo kiểu truyền thống cho đến những tác giả ủng hộ việc trị liệu theo xu hướng ngắn hạn, tập trung trị liệu triệu chứng (symptom-focused) và cả những nhà trị liệu thực hành các liệu pháp dài hạn hướng đến những thay đổi lâu dài trong cuộc sống. Những tác giả của bài viết này chủ yếu thực hiện công việc mô tả quan điểm nhân văn – hiện sinh như những báo cáo viên có tính trung dung, nêu lên những lập trường có tính quan điểm và những áp dụng của chúng trên lĩnh vực lâm sàng.

Có hai sự chuyển biến trong tư duy của ngành tâm lý học đã tạo nên nền tảng cho quan điểm nhân văn – hiện sinh: (1) Chuyển từ việc “khách thể hóa” các hiện tượng tâm lý sang việc nhận ra tầm quan trọng của “tính chủ quan”; (2) Chuyển đổi lĩnh vực tâm lý trị liệu từ chỗ chủ yếu nghiên cứu về các trạng thái tâm bệnh kinh điển (như loạn tâm hoặc nhiễu tâm) trở thành một ngành ứng dụng rộng rãi vào các chủ đề rộng hơn, bao gồm cả những chủ đề gây phiền muộn thông thường trong cuộc sống.

Nói thẳng ra, phần lớn các trường phái tâm lý trị liệu đều xem thân chủ như những “khách thể” (object), có thể là đối tượng để nghiên cứu, để hiểu biết, có thể “tác động” vào để làm cho thay đổi...; thân chủ cũng có thể được xem như những “vấn đề” từ đó có thể được phân tích, xem xét và “giải quyết”; hoặc họ cũng có thể được xem như những người bệnh cần được “chữa trị”... Theo quan điểm nhân văn – hiện sinh, thân chủ về căn bản được xem như những “chủ thể” (subject) tham gia vào tiến trình trị liệu, còn nhà trị liệu được xem như một người hỗ trợ, một cố vấn hoặc như một người đồng hành trong lúc thân chủ đang cố gắng làm cho đời sống của mình trở nên dễ chịu hơn, toại ý hơn. Những chủ đề mà quan điểm nhân văn – hiện sinh lưu tâm đến cũng rất đa dạng và điều này cũng liên quan mật thiết đến sự phát triển, bởi chừng nào mà lĩnh vực tâm lý vẫn còn là một lĩnh vực chú tâm đến những rối loạn tâm trí nghiêm trọng và rõ ràng thì cái nhìn của nhà trị liệu đối với thân chủ cũng vẫn nhắm đến việc “khách thể hóa”, tìm cách “xử lý” các triệu chứng và tạo nên mối quan hệ xa cách giữa một bên là “nhà chuyên môn” và bên kia là “bệnh nhân”.

Các thủ tục chẩn đoán theo thông lệ đòi hỏi nhà lâm sàng phải giữ khoảng cách “từ xa” để có thể xác định được những tình trạng của thân chủ bằng cách xem xét các biểu hiện hành vi của họ. Đây là cách thức làm việc dựa trên lập trường “phi nhân tính” và “khách thể hóa” (impersonal and objectifying). Trái lại, tính “chủ quan” (subjectivity) chủ yếu dựa vào sự lưu ý đến những trải nghiệm bên trong nội tâm của cả thân chủ lẫn nhà trị liệu, chú ý đến những cảm nhận, ý nghĩa và cảm xúc ở từng con người từ lúc này sang lúc khác, cùng sự thể hiện của những trải nghiệm đó trong mối quan hệ sống động giữa nhà trị liệu và thân chủ lúc đang diễn ra cuộc gặp gỡ giữa họ với nhau. Đây là một lập trường có tính cá nhân, dựa trên mối quan hệ giữa người với người và có xem xét đến nội tâm con người (personal, interpersonal and intrapsychic).

Cả sự chú trọng đến tính chủ quan lẫn việc mở rộng chủ đề phục vụ sang nhiều lĩnh vực thông thường trong đời sống cũng góp phần vào việc “định nghĩa lại” thế nào là “làm người” và thế nào là “những nỗi khổ của con người”, và đương nhiên cũng giúp xác định lại cách thức để loại bỏ những nỗi khổ đó. Bằng cách thức này, những nỗi khổ của con người, với một mức độ khá quan trọng, được xem như là những điều được nhận biết một cách chủ quan, thay vì xem chúng như những “sự trừng phạt về mặt đạo đức”, một “căn bệnh” mà người bệnh mắc phải, một thất bại về mặt tính cách, hoặc như một rối loạn về mặt hóa học hoặc thực thể.

Những sự chuyển biến trong lập trường và quan điểm này đưa chúng ta đến việc nhận thức được rằng những nỗi khổ là có tính chủ quan, và do vậy tiến trình làm vơi đi những nỗi khổ ấy ít nhất cũng phần nào tương tự như vậy. Điều này trái ngược với những tác giả chủ trương sử dụng các phương thức điều trị hóa dược hoặc thay đổi hành vi; những người này thường cho rằng tính chủ quan không phải là yếu tố quan trọng cả trong việc hình thành những phiền nhiễu nơi thân chủ lẫn trong phương thức để “chữa lành” chúng. Đối lập với những tác giả này là những nhà trị liệu theo khuynh hướng nhân văn – hiện sinh, những người có lòng tin rằng sức mạnh luôn tồn tại bên trong con người, và rằng chính cái sức mạnh đã gây ra nỗi đau khổ kia cũng có thể được “chuyển hướng” để đưa đến sự bình phục.

KHÁI NIỆM VỀ NHÂN CÁCH

Thuật ngữ “nhân cách” không được xem là cách dùng từ hữu ích. Nhân cách là một khái niệm trừu tượng, không chính xác, cả trong ngôn ngữ khoa học lẫn phổ thông. Nhân cách là khái niệm trừu tượng chứ không “có tính hiện tượng” (phenomenological). Do vậy, thay vì cố gắng trình bày khái niệm nhân cách với một ý nghĩa đặc biệt nào đó, các tác giả theo xu hướng nhân văn – hiện sinh chỉ nêu ra một số khái niệm có liên quan với nhau, mỗi khái niệm thể hiện một khía cạnh có tính tiến trình quan trọng của con người.

Từ khóa (key word) ở đây là “tiến trình”. Thay vì mô tả những cấu trúc có tính cố định, các tác giả nhận thấy sẽ hữu ích hơn nếu công nhận cơ chế động năng liên tục (continual dynamism) của đời sống con người – một “dòng chảy” không ngừng của đời sống về tất cả một phương diện. Chính Gordon Allport (1964) cũng có lần nêu rõ “Cấu trúc là sản phẩm được thải xuất ra từ các tiến trình” (Structure is the secretion of process).

Tính chủ quan (subjectivity)

Như đã nêu trên, quan điểm về tính chủ quan là nền tảng của nhãn quan nhân văn – hiện sinh (còn gọi là nhãn quan “hiện tượng học” – phenomenological - trong văn phong nghi thức hơn). Khái niệm này có ý nói về những trải nghiệm bên trong của cả nhà trị liệu lẫn thân chủ như những “cảnh quang” chính trong quá trình chúng ta cố gắng chú tâm và làm việc. Lập trường này rất khác biệt với phần đông những trường phái khác trong tâm lý học cũng như tâm lý trị liệu hiện nay đang cố “tranh đua” với các ngành khoa học tự nhiên về tính “khách quan”, chính xác.

Tập trung vào tính chủ quan tức là chú tâm vào những gì con người cảm nhận được, vào cảm xúc trong hiện tại, vào những dự định và toàn bộ những trải nghiệm ẩn sâu trong mỗi con người (thân chủ). Điều này có lúc bị hiểu sai là sự chú tâm vào những tình cảm (emotions), và tuy đôi khi đúng là như thế nhưng quả là một sự bóp méo nếu người ta xem việc nhấn mạnh vào tính chủ quan như là cách thức xem cảm xúc (feelings) có ý nghĩa quan trọng hơn các lĩnh vực tư duy và các suy nghĩ có chủ ý (cognitive and intentional spheres).

Liên chủ thể (intersubjectivity)

Khi hai con người tham gia sâu vào một công việc chung, ví dụ như mối quan hệ trong tâm lý trị liệu, sẽ tạo nên một hiện tượng (phenomenon) với những thuộc tính  lớn hơn tổng số hai thành phần hợp lại. Sản phẩm mới tạo lập này được gọi là “liên chủ thể” (intersubjectve) (Levenson, 1983, 1991; Stolorow, Brandtchaft & Atwood, 1987).  Đó là sản phẩm của tiến trình nhận biết cả có ý thức lẫn dưới ngưỡng ý thức, về cả những gì được nói lẫn chưa được nói, cả những tín hiệu từ lời nói lẫn từ cơ thể, cả trong ký ức hiện tại lẫn dự báo cho tương lai, và phần nhiều những sự nhận biết này khó có thể nói hết thành lời.

Bằng thuật ngữ hiện sinh quen thuộc hơn, các tác giả hay nói về tình trạng căn bản này của con người như là một tình trạng vừa tách rời khỏi người khác vừa vẫn như là một phần của người khác. Điều này cũng có ngụ ý khi nói về những cam kết trong việc trị liệu, cũng như sự phân tích các quá trình xảy ra trong trị liệu như phản kháng (resistance), chuyển di (transference) và chuyển di ngược (counter-transference) (Bugental, 1987).

Sự hiện hữu (presence)

Để có thể thực sự hiện hữu người ta phải nhận biết và tham gia đầy đủ vào thực tế sống ngay trong hiện tại, không sống tách biệt, đảm nhận các vai trò và khách thể hóa bản ngã của mình (self-objectification). Mức độ hiện hữu của chúng ta trong từng hoàn cảnh sống cụ thể luôn luôn thay đổi, bởi vì những trạng thái tình cảm, các dự định, các mối quan hệ với người xung quanh và nhiều chiều kích khác trong cuộc sống của chúng ta cũng liên tục thay đổi. Khi xem xét sự hiện hữu bên trong tình huống tâm lý trị liệu, chúng ta có thể thấy rằng cả hai con người, nhà trị liệu và thân chủ, đều cần phải hiện hữu một cách đầy đủ; nhưng đồng thời chúng ta cũng nhận thấy rằng đây không phải là một trạng thái mà một khi đã hình thành thì đương nhiên sẽ được duy trì sau đó. Sự hiện hữu ấy rất quan trọng trong tâm lý trị liệu; đó là một mục đích luôn phải được tìm kiếm liên tục nhưng thường lại hay bị bỏ quên.

Những nhà trị liệu thông thái sẽ học cách quán sát sự hiện hữu của chính bản thân mình cũng như sự hiện hữu của thân chủ và nhận biết được những cách thức đặc trưng mà con người sử dụng để né tránh hiện hữu. Những cách thức né tránh này (sẽ mô tả trong phần sau) góp phần hình thành nên sự phản kháng (resistance) và luôn là một chủ đề quan trọng trong tâm lý trị liệu.

Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới (Self-and-World Construct System)

Ngay từ những giờ phút đầu tiên trong đời, chúng ta đã thực sự dấn thân vào một quá trình vừa khám phá, vừa tạo tác nên một thế giới trong đó chúng ta sống và lập nên một bản sắc để bản thân mình có được một “chỗ đứng” trong thế gian này. Tất nhiên, phần nhiều những công việc sống động này là có tính tiềm ẩn, không diễn đạt được bằng lời và xảy ra bên ngoài tầm nhận biết. Tuy nhiên, cuộc sống sinh động của chúng ta tùy thuộc vào cách thức mà ta thực hiện quá trình này.

Để sống trong thế gian, chúng ta phải hiểu rõ những gì là “tốt” và những gì là “nguy hiểm”; những gì có thể cho chúng ta sức mạnh, sự nâng đỡ và bảo vệ; những gì chúng ta phải làm để đạt đến sự hài lòng và tránh được những khổ đau. Trong khi hình thành những quan điểm này, chúng ta vẫn liên tục phát triển, duyệt xét lại và thể hiện quan niệm sống của chính mình – về những gì là sức mạnh và điểm yếu của chúng ta; về cách thức mà chúng ta xử lý các tình huống sống và về những gì mà chúng ta cố gắng tìm kiếm sâu xa nhất. Tất nhiên, phần lớn cái hệ thống Ngã-và-Thế-giới này tồn tại một cách tiềm ẩn và không thể diễn đạt thành lời.

Khi xem xét từ bên ngoài, Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới tạo nên điều mà chúng ta vẫn thường hình dung như là “nhân cách” hoặc “cá tính” của một con người. Khi xem xét từ bên trong, hệ thống này dường như “chỉ là cách thức mà qua đó các sự vật và bản thân ta đang tồn tại” (just the way things are and the way I am). Hệ thống ấy tự nó rất trong suốt và có chức năng như một lăng kính sàng lọc một số điều này và tập trung vào một số điều khác. Chính lăng kính ấy cũng có thể bóp méo nhận thức của chúng ta.

Những thực tại hiện hữu (existential “givens”)

Sẽ hữu ích khi chúng ta nhận thấy rằng cuộc sống mang đến cho tất cả chúng ta những điều kiện nhất định để tồn tại và để đáp ứng, mặc dù chúng ta có thể “rộng đường” thay đổi những cách thức đáp ứng này. Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới là một mô hình vận hành thường xuyên những đáp ứng này. Hoặc, khi nhìn từ một góc độ khác, đó là cách thức chính yếu để chúng ta đương đầu với những lo âu, theo đuổi những lợi ích và thiết lập những giới hạn cho chính sự tồn tại của mình.

Các tác giả theo xu hướng hiện sinh đã trình bày nhiều khía cạnh cơ bản trong cuộc sống của chúng ta, ở đây chúng ta chỉ xem xét đến 6 “yếu tố thực tại” của việc “làm người” (six “givens” of being human):

Sự nhận biết (awareness)

Khả năng cơ bản nhất trong tất cả các khả năng trong cuộc sống của chúng ta đó là khả năng chú ý đến cả những gì “ngoài kia” (out there) và những gì “trong này” (in here). Từ chõ nhận biết này mà phát sinh nên ý thức của chúng ta, khả năng nhận biết được ta đang nhận biết (awareness of being aware), mà điều này khiến cho cuọc sống con người có sự khác biệt về chất lượng (trong chừng mực những gì chúng ta biết được) so với các chủng loại khác trên hành tinh này. Do bởi ta nhận biết được ta đang tồn tại, do bởi ta nhìn thấy được những tác động của ta lên những gì ở xung quanh ta, do bởi ta có thể phản ánh được những gì ta đã trải nghiệm, cho nên cuộc sống của con người được tách biệt ra khỏi những trạng thái hiện hữu “phi ý thức” của những đồ vật, cây cỏ và muôn thú. Chúng ta thật sự không thể sống một cách vô tư vì chúng ta luôn luôn phải để lại những dấu ấn trong đời.

(Nguyên văn: “We can never be truly innocent; we leave spoor wherever we pass” nghĩa là “Chúng ta không bao giờ thực sự là vô can; chúng ta để lại mùi bất cứ nơi nào mình đi qua”)

Sự hiện thân (embodiedness)

Thân thể hữu hình của chúng ta luôn chú tâm cả ngày lẫn đêm, tạo điều kiện và thiết lập giới hạn, nhắc nhở và điều khiển chúng ta. Những lập luận từ các học thuyết Nhị nguyên, Nhất nguyên hoặc Thuyết Tương tác... đều rất lý thú, nhưng tất cả đều không phản bác được sự hiện thân sống động liên tục của sự tồn tại.

Thân thể của chúng ta dạy cho chúng ta rằng chúng ta là những “tiến trình” (processes) chứ không phải là những “cấu trúc” kiên định (fixed structures). Sự thay đổi liên tục của thân thể chúng ta là một ẩn dụ, một ví dụ và là một sự thật mà chúng ta có lẽ đã cố làm ngơ hoặc chối bỏ, nhưng sau cùng đó vẫn là thực tại của chúng ta. Sung sướng hay đau khổ cũng đều là những “giọng nói” của thân xác chúng ta; chúng là những giới hạn ở hai cực của một chuỗi vô số những trạng thái cảm xúc của chúng ta.

Tính hữu hạn (Finitude)

Trong bất cứu lĩnh vực nào chúng ta cũng chỉ có thể có một hiểu biết giới hạn, mặc dù chúng ta hiếm khi thực sự cảm nhận rõ điều này trong trải nghiệm chủ quan của chúng ta. Mặc dù sự thật rõ ràng là tất cả chúng ta đều phải chết, rằng chúng ta không thể làm được bất cứ điều gì mà mình đã lựa chọn, rằng có cả một đại dương mênh mông của những kiến thức vây quanh cái hòn đảo hiểu biết nhỏ bé của chúng ta... nhưng những xung lực bên trong vẫn thúc đẩy chúng ta đạt đến sự toàn hảo, để có được tất cả, biết được tất cả... và đó cũng là một thuộc tính cố hữu của chúng ta khi chúng ta đáp ứng lại với khả năng giới hạn của chúng ta. Vì bởi khả năng chúng ta hữu hạn, nên ta lại chuyển điều đó trở thành một tác nhân kích thích chúng ta tăng trưởng, triển nở, phát minh và sáng tạo.

Khả năng hành động (Actonable)

Chúng ta là những diễn viên trong “vở kịch cuộc đời” (drama of being), chứ không đơn giản chỉ là những khán giả. Chúng ta có thể làm hoặc tránh không làm; và quan trọng là ở chỗ chúng ta làm điều gì và không làm điều gì. Chính vì thế mà chúng ta có trách nhiệm. Từ mỗi hành động (kể cả những khi không hành động) tạo nên những đợt sóng hệ quả có thể lan rộng ra xa. Do khả năng hữu hạn, chúng ta không thể dự kiến được tất cả những gì có thể xảy ra, nhưng chúng ta vẫn phải “đánh cược” (we must place our bets). Và những gì chúng ta đang đặt cược vào chính là cuộc sống của chúng ta.

Tính tự chủ (Autonomy)

Để đương đầu với sự trống trải của cuộc sống, chúng ta hay đòi hỏi những dấu hiệu, những chỉ báo, hoặc những manh mối để biết được cách thức đảm nhận những việc mình có thể thực hiện sao cho có thể đạt khả năng thành công cao nhất, hoặc chí ít cũng có thể hạn chế đến mức thấp nhất những thất bại và phiền nhiễu. Có nhiều yếu tố được liệt kê ở đây như những thứ mà con người có thể lựa chọn để đáp ứng cho nhu cầu này: những con người, đức tin, các hóa chất, những nghi thức, những triết lý, những thương nhân, người diễn trò, những tổ chức thương mại... tất cả đều cuốn hút sự chú tâm của chúng ta.

Nhưng chẳng có thứ nào trên đây thỏa nhu cầu trong mọi trường hợp; và vì thế chúng ta vẫn tiếp tục phải “đánh cược” mà chẳng bao giờ có thể chắc chắn được kết quả sau cùng của những nỗi khao khát.

Tất cả nằm ở chỗ sự tự do của chúng ta. Trong hoàn cảnh bấp bênh, chắc chắn sẽ có những nỗi lo âu, nhưng cũng chính từ đó mà hình thành nên tính tự lập, tính sáng tạo, bản sắc cá nhân và đời sống cảm xúc của tất cả chúng ta. Đó chính là nguồn lực trong mỗi đời người để giúp người ấy sau cùng làm nên sự hiện hữu.

Tách biệt nhưng vẫn liên hệ (separate but related)

Mỗi người trong chúng ta đều ngụ cư trong cái thế giới riêng tư chủ quan của chính mình. Khi cố gắng làm những điều mình muốn, con người có thể không biết được điều gì xảy ra bên trong nội tâm của một người khác. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng có khả năng thiết lập các mối quan hệ với những người khác, gắn bó và nối kết với họ. Những trải nghiệm phong phú nhất trong cuộc đời của hầu hết mọi người chính là khi ta chia sẻ những trải nghiệm của mình với những người khác. Người yêu, vợ chồng, gia đình, bè bạn, người đồng hành, các đối tác, đồng chí... là vô số những con người mà ta có thể thực hiện được những kết nối. Có thể nói rằng một con người chỉ có thể hiểu biết được về bản thân mình khi đang cố gắng làm tròn một việc gì đó, thông qua sự gắn kết sâu đậm với ít nhất là một người khác.

Phản kháng và phòng vệ (Resistance and Defenses)

Hệ thống kiến tạo Ngã-và-Thế giới của một con người chính là cuộc sống của người ấy – hoặc ít nhất là kế hoạch hoặc khuôn mẫu cho cuộc sống của người ấy. Nếu theo thời gian, hệ thống đó mang lại cho người ấy sự hài lòng và ít có điều phiền muộn, thì chắc chắn nó sẽ có khuynh hướng được duy trì và được bảo vệ chống lại bất cứ cố gắng nào làm thay đổi nó.

Có một điều ít được thấy rõ đó là ngay cả khi hệ thống ấy không còn hoạt động hiệu quả, thì đương sự vẫn có thể cứ duy trì và bảo vệ nó. Vì thế nhiệm vụ của tâm lý trị liệu chiều sâu (depth psychotherapy) là phải tìm cách giúp cho thân chủ tạo nên những thay đổi lâu dài cho cuộc sống. Điều quan trọng cũng nằm ở chỗ những nhà tâm lý trị liệu có thiện chí cũng có thể không hoàn toàn hiểu thấu được khiến cho, bằng cách không chủ ý, họ tự làm cho công việc của họ thêm phần khó khăn hơn.

Để có thể thay đổi cách thức sống và quan điểm sống của chính mình, con người phải xem xét và duyệt lại cái mảnh đất đặc thù nơi mình đang đứng. Không hề có một không gian trung dung (neutral space) nào để chúng ta có thể lui về rồi vô tư xem xét những gì là tốt và những gì là xấu trong cuộc đời mình, tìm xem những gì đang tác động lên cuộc sống chúng ta, hoặc để xem xét lại cách thức mà chúng ta đã đánh giá về những ưu, khuyết điểm của mình. Tất cả những cố gắng ấy đòi hỏi một điều rằng chủ thể đang được khảo sát ấy phải đồng thời vừa là khung tham chiếu vừa là nội dung của cuộc khảo sát; nó cũng tương tự như (tuy không đơn giản như thế) việc một người dùng bàn tay phải điều chỉnh chiếc máy chụp X quang đê ghi hình cho bàn tay trái của mình.

Hai thuật ngữ rất thông dụng trong tâm lý trị liệu, “phản kháng” và “phòng vệ”, vì thế được xem như hai mặt của một tiến trình: sự duy trì hệ thống Ngã-và-Thế giới, một cơ cấu độc đáo trong cuộc sống mà thân chủ cảm thấy là rất thiết yếu cho sự hiện hữu của bản thân mình. Trước tiên, không có cách nào để cho thân chủ có thể có được một nhãn quan mới dựa trên hệ thống Ngã-và-Thế giới của chính anh ta.

Những nhà trị liệu nào nhầm lẫn về sự phản kháng khi khảo sát cách thức sống của thân chủ với một vị trí đối nghịch với họ thì sẽ có thể làm xáo trộn tiến trình trị liệu và có thể sẽ kết thúc trị liệu như là một “đối thủ” của thân chủ thay vì như là một “đồng minh” của họ.

Tìm kiếm (Searching)

Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn công việc trị liệu nếu giờ đây chúng ta quay trở lại bàn luận về những khả năng của con người, những khả năng mà thường vẫn ít được thừa nhận và đánh giá cao nhưng lại rất thiết yếu đối với cuộc sống và là trung tâm của các liệu pháp tâm lý theo xu hướng nhân văn – hiện sinh.

Con người có hai chương trình thiết yếu cho cuộc sống đã được “cài đặt sẵn” như sau: Đó là Tìm kiếm (searching) và Học tập (learning). Nói một cách đơn giản thì học tập là khả năng mà chúng ta huy động đến khi phải đối đầu với những tình huống mà chúng ta phải thực hành những phương thức đáp ứng. Tìm kiếm là một tiến trình có tính bổ trợ; đó chính là điều chúng ta làm khi không có sẵn những con đường đã định để đương đầu với những tình huống quan trọng đối với chúng ta.

Việc tìm kiếm liên quan đến sự mở lòng chấp nhận những rủi ro đối với những gì chưa được hiểu rõ, khám phá những khả năng, thử nghiệm những gì xem ra là có thể, sử dụng những cách thức thay thế khi hoàn cảnh bị bế tắc và sau cùng là giải quyết được tình huống.

Khả năng tìm kiếm không phải là một sự phát minh hoặc khám phá trong định hướng trị liệu hiện tại. Nó đã được áp dụng qua suốt tiến trình lịch sử loài người, nhưng chính là khi xuất hiện tâm lý trị liệu, nó trở thành lĩnh vực tự nhận biết bản thân, được gọi tên và được chú ý đến nhiều hơn. Tìm kiếm (searching) là một thuật ngữ được sử dụng trong tâm lý học Mỹ và cũng có phần tương tự với những phương thức khác có tác dụng dẫn đường vào nguồn sức mạnh tương tự ở con người như liên tưởng tự do (free association) trong phân tâm học, sự “bộc lộ” (unfolding) của Buber (được công nhận bởi Welwood, 1982) và “tập trung tiêu điểm” (focusing) của Gendlin (1978).

Vấn đề chẩn đoán và các thể loại nhân cách

Từ những gì đã được mô tả từ đầu cho đến giờ, quan điểm nhân văn – hiện sinh rõ ràng là ít có những nhu cầu về chẩn đoán theo như thông lệ, ví dụ như xem xét các tiêu chí chẩn đoán của DSM-IV hoặc chẩn đoán các thể loại nhân cách. Phần nhiều các ứng dụng chẩn đoán trong tâm lý học và tâm thần học đã xem nhân cách và các tiêu chí chẩn đoán như thể chúng là những cấu trúc. Trong khi đó, xu hướng nhân văn – hiện sinh xem con người như những tiến trình diễn tiến liên tục. Các tác giả của xu hướng này không phủ nhận việc những khuôn mẫu hành vi, cảm xúc và quan hệ vẫn có thể được quan sát thấy. Tuy nhiên, các thể loại được sử dụng để xác định các khuôn mẫu này thì quá chung chung và mơ hồ khiến chúng thường làm cho việc hiểu biết một con người cụ thể càng thêm khó khăn chứ không được rõ ràng. Cách phân chia con người thành những thể loại có thể sử dụng ngắn gọn trong việc qản lý, nhưng thường làm cho việc hiểu biết tình trạng hiện hữu của từng cá nhân trở nên mơ hồ và vì thế làm trở ngại cho công việc thực hiện tâm lý trị liệu chiều sâu.

Quan điểm nhân văn – hiện sinh không làm việc dựa trên sự “dán nhãn” hoặc “cho một mã số” lên trên một thân chủ. Mỗi thân chủ được xem như một trường hợp độc đáo; mỗi người phải được tiếp cận bằng một thái độ rộng mở để được khám phá.

YẾU TỐ BÌNH PHỤC

Marcel Proust đã viết: “Cuộc hành trình khám phá thực sự không chỉ bao gồm việc nhìn thấy những lãnh địa mới mà còn phải có những tầm nhìn mới”. Sự thay đổi cơ bản nhất trong tất cả các trải nghiệm của con người đó là sự thay đổi về mặt nhận thức. Khi xem xét những tình huống sống quen thuộc bằng cái nhìn mới mẻ, chúng ta có thể nhìn thấy những khả năng mà trước đó có thể không nhìn thấy được. Nhiệm vụ trung tâm của tâm lý trị liệu là giúp cho thân chủ khám phá được những cách thức mà lâu nay họ đã sử dụng để tự hạn chế tầm nhìn của mình đối với các lĩnh vực quan trọng trong cuộc sống. Khi đã đạt đến sự nhận biết này, sự thay đổi được xem là đã xảy ra. Đây chính là một thực tại đáng ngạc nhiên: Tiến trình nhận ra được cách thức mà chúng ta tự gây trở ngại cho sự nhận biết của bản thân mình đồng thời cũng chính là tiến trình khởi đầu cho việc làm giảm những trở ngại.

Để có được kết quả này, tức là để giải phóng năng lực nhận biết của thân chủ, thân chủ cần phải được giúp đỡ để có thể trở nên hiện hữu đầy đủ trong việc trị liệu. Hiện hữu nghĩa là tính chất của một con người có thể tiếp cận được và thể hiện được một cách cởi mở trong từng khoảnh khắc ở hiện tại. Đó là một chiều kích của sự trải nghiệm mà không hề có một điểm dừng sau cùng. Chúng ta luôn luôn ở một mức độ thể hiện ít hơn sự hiện hữu đầy đủ. Những cách thức mà chúng ta hạn chế sự hiện hữu của mình chính là cách thức mà chúng ta dùng để hạn chế khả năng nhận biết của chính mình, nhưng (điều này cũng là điểm tối quan trọng) chúng cũng chính là những cách thức mà chúng ta tạo nên cuộc sống và ý nghĩa cuộc sống.

Vì thế, khi nhà trị liệu làm việc với thân chủ để giúp thân chủ giảm bớt những sự giới hạn khả năng của mình (những “phản kháng”) thì công việc đó có thể được thân chủ trải nghiệm như là một mối đe dọa đối với cuộc sống của mình. Điều này được trải nghiệm “đúng” ở chỗ cách thức sống của thân chủ trong thế gian này phải được thay đổi, nhưng “không đúng” ở chỗ thân chủ cảm nhận có thể gặp nguy hiểm vì bản thân mình có thể bị hủy hoại.

Cũng giống như một loại khả năng “nội thị” (insight), nó có thể trở thành yếu tố then chốt giúp tạo nên sự thay đổi có tính trị liệu. Nhưng đây không phải là loại “nội thị” được cung cấp bởi sự diễn giải của một nhà trị liệu phân tâm hoặc do thân chủ giải bày qua vài lời nói có tính vắn tắt (Ý nói về “liên tưởng tự do” – Người dịch).

“Cái nhìn từ bên trong” (inner vision) là một thuật ngữ chỉ sự thấu hiểu các tiến trình chủ quan bên trong con người, trên nhiều bình diện, nhiều ý nghĩa, về nhận thức cũng như cảm xúc, cả trên sự nhận biết trước khi dùng lời và ngoài việc dùng lời. Cái nhìn từ bên trong thường có tính chất man mác, lan tỏa, chỉ có thể nắm bắt và diễn tả bằng lời một phần nào đó. Tuy nhiên, nếu được trải nghiệm một cách thục sự, con người đó có thể ít nhiều được thay đổi sau đó.

Dĩ nhiên, việc xuất hiện của một cái nhìn bên trong như thế không phải là điểm dừng sau cùng, cũng không phải là sự “lành bệnh” mà thân chủ ban đầu đã tìm kiếm; nó cũng không đủ để tạo nên sự thay đổi có tính lâu dài. Chính tiến trình “khơi thông” (working-through) trong đó thân chủ nhận ra được những cách thức tự hạn chế sự nhận biết của mình mới có vai trò thiết yếu cho những thay đổi lâu dài.

Nhà trị liệu nhân văn – hiện sinh không cố gắng thực hiện việc diễn giải để trực tiếp tạo nên cái nhìn từ bên trong này. Tuy nhiên, nhà trị liệu thường “thách thức” (confront) thân chủ đối diện với thực tế rằng họ đã hạn chế khả năng nhận biết của mình, đối diện với những nhu cầu của bản thân thân chủ muốn tự hạn chế mình và những gì mà họ phải “trả giá” khi duy trì tình trạng gới hạn này.

Việc trị liệu tập trung quanh việc thân chủ hiện hữu như thế nào trong cuộc sống. Điều này có nghĩa là xem xét thái độ của thân chủ đối với thực tế cuộc sống của họ, đối với hướng đi của cuộc đời họ, đối với mức độ mà thân chủ cảm thấy có thể mang lại sự thay đổi cho cuộc sống của mình, đối với những mối quan hệ và các hoạt động xảy ra trong cuộc sống của mình và đối với nhãn quan của thân chủ về cuộc sống, cả về những ý nghĩa chung nhất lẫn những ý nghĩa tức thời. Nói đến việc thân chủ hiện hữu “như thế nào” trong cuộc sống tức là nói về khả năng của người ấy có thể rộng mở, biết chấp nhận và trân trọng những gì đang còn tiềm ẩn chưa được nhận biết bên trong bản thân con người của mình.

Điều chủ yếu cần được quan sát có liên quan đến chủ đề trung tâm này chính là sự hiện hữu của thân chủ trong tiến trình trị liệu và việc thân chủ có sử dụng những cơ hội có tính trị liệu của họ hay không. Sự hiện hữu là một trạng thái thuộc về trải nghiệm mà mọi người có thể nhận biết được, ít nhất là ở mức độ tiềm ẩn, tuy nhiên nó lại thường bị bỏ qua. Để dễ hiểu hơn có lẽ ta sẽ nhận diện được sự hiện hữu bằng cách nêu ra những gì

không

phải là hiện hữu. Hiện hữu

không phải

là nói chuyện về vấn đề của thân chủ, bàn luận về những suy nghĩ và hành vi của thân chủ. Hiện hữu

không phải

là thiết lập mối quan hệ phù hợp hoặc bàn luận và đáp ứng với những chủ đề quan trọng trong đời sống của thân chủ. Hiện hữu

một thái độ chú tâm, dấn thân và sẵn lòng đối mặt với các nguy cơ. Khi cả thân chủ và nhà trị liệu cùng hiện hữu đối với sự trải nghiệm chủ quan của thân chủ, lúc đó một năng lượng mạnh mẽ sẽ được phóng thích ra từ đó có thể dẫn đến việc gia tăng khả năng nhận biết sự tồn tại (“aware being”) của bản thân thân chủ.

Trong phần trên, chúng ta đã nhấn mạnh vào sự hiện hữu của cả thân chủ và nhà trị liệu. Tâm lý trị liệu, được nói đến ở đây, không phải là “một điều gì đó được làm cho thân chủ”; mà nó chính là “một thành quả của sự hợp sức từ hai đối tác cùng tham gia vào” (an achievement of the partnership of the two so engaged).

Ý nghĩa rõ rệt của điều này là ở chỗ: trạng thái lành mạnh về tâm thần và cảm xúc của nhà trị liệu là một biến số (variable) có tính thiết yếu trong quá trình trị liệu. Điều này không có ý nói rằng nhà trị liệu phải “làm sạch” hoặc hoàn toàn tự do không lệ thuộc vào các vấn đề cảm xúc. Nó cũng không có nghĩa là khi nhà trị liệu đạt đến mức độ thực sự hiện hữu trong việc tham gia vào mối quan hệ với thân chủ thì những cố gắng của ông ta sẽ đạt được đến mức tối ưu.

Có một số phương pháp trị liệu đả thể hiện tính chất đặc trưng như sau: “chẳng làm gì cả, ngoài việc hiện diện cùng với thân chủ” (nothing, but just being with the client). Đây là một sự đơn giản hóa rất ngờ nghệch và có thể gây nguy hiểm. Để có thể hiện diện một cách hài hòa với một người khác thì phải vận dụng tối đa cả sự nỗ lực của từng cá nhân lẫn sự nỗ lực hợp sức của hai con người. Như đã mô tả ở phần trên, một số người có thể hình dung về sự hiện hữu “đơn giản chỉ là ở cùng với” thân chủ. Khi thái độ có tính qua loa này chiếm ưu thế, lúc đó nhà trị liệu thường sẽ quan tâm nhiều hơn đến yếu tố kỹ thuật thay vì là chú tâm đến sự hiện hữu. Kết quả là công việc trị liệu sẽ bị hạn chế mà điều này không được nhà trị liệu nhận biết. Nói cách khác, việc nhà trị liệu bận tâm nhiều đến các kỹ thuật có thể là cách nhà trị liệu kháng cự lại với việc hiện hữu một cách trung thực với thân chủ của mình.

Sự thành công trong tâm lý trị liệu phụ thuộc vào “độ hội tụ” (convergence) của sự hiện hữu từ cả thân chủ lẫn nhà trị liệu. Để việc này có thể xảy ra, những mối bận tâm về cuộc sống của thân chủ phải được “huy động”. Thật hữu ích khi ta suy nghĩ về những nỗi bận tâm của thân chủ theo bốn khía cạnh sau: (1) Những đau khổ, stress, lo âu và một số dạng thức phiền muộn khác; (2) Hy vọng, khao khát tìm kiếm một trải nghiệm sống khác; (3) Sẵn sàng dấn thân một cách đầy đủ - về thời gian, tiền bạc, tình cảm và sự nỗ lực; và (4) Chấp nhận nhu cầu cần phải chú ý đến nội tâm bên trong để mang lại những đổi thay mong muốn.

Trong một mối liên minh trị liệu hiệu quả (effective therapeutic alliance), những bận tâm của thân chủ sẽ được đáp ứng và được hỗ trợ bởi mối bận tâm tương ứng của nhà trị liệu – mối bận tâm này cũng được thể hiện trên bốn phương diện như sau: (1) Công việc trị liệu phải tương ứng với

nhu cầu

thể hiện tính hài hòa (genuine need) của nhà trị liệu; (2) Nhà trị liệu đạt đến một

tầm nhìn

(vision) để thấy được sự lành mạnh tiềm ẩn bên trong thân chủ; (3) Nhà trị liệu được chuẩn bị để sẵn sàng

hiện hữu

ngay cả trước khi thân chủ đạt được trạng thái này; và (4) Nhà trị liệu cần phải học cách tin tưởng, bảo vệ và sử dụng tính

nhạy cảm

sâu sắc của mình (deep sensitivity).

Sự “hội tụ” những mối bận tâm từ thân chủ và nhà trị liệu (tuy không bao giờ toàn hảo, nhưng thường vẫn mỗi lúc một phát triển thêm) có thể ung đúc nên một sức mạnh to lớn đủ để có thể vượt qua được những trở lực nặng nề của những năm tháng thân chủ sống với cái ngã xưa cũ gò bó, cứng nhắc, và cũng rất thường hay xảy ra là những trở lực từ những người khác xung quanh giữ thân chủ lại không cho người này thay đổi.

Khi mối liên minh trị liệu mang lại nguồn năng lượng mạnh mẽ này, có thể nói tâm lý trị liệu đã sử dụng đến một trong số những sức mạnh to lớn nhất trên thế gian này. Nếu cách trình bày này nghe có vẻ cực đoan, thì cũng xin nhắc lại rằng: tất cả mọi hình thái năng lượng khác như điện năng, lực hấp dẫn, lực cơ học, vv... đều được khai thác và điều khiển bởi những chủ tâm của con người.

TRỊ LIỆU TÂM LÝ TRẺ EM VÀ THIẾU NIÊN

BS. NGUYỄN MINH TIẾN

PHẦN 1 : TRỊ LIỆU CÁ NHÂN

LỊCH SỬ

Việc thực hành trị liệu tâm lý cho trẻ em bắt nguồn từ nhiều lý thuyết khác nhau. Cho đến đầu thập niên 1970, các lý thuyết phân tâm học (psychoanalysis) và tâm động học (psychodynamic) vẫn là nền tảng cho việc trị liệu tâm lý trẻ em ở các bệnh viện và phòng khám. Liệu pháp Roger lấy đứa trẻ làm trọng tâm (child-centered therapy) được áp dụng chủ yếu bởi các nhà tâm lý học đường (school psychologist). Việc tham vấn và trị liệu tâm lý cho trẻ em chịu ảnh hưởng bởi các trường phái phân tâm học, với sự tham gia của “bộ ba” gồm bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý và nhân viên xã hội, nhấn mạnh vào trò chơi trị liệu (play therapy), làm việc với phụ huynh và tham vấn giáo dục trong thời gian lâu dài, và các liệu pháp dành cho người lớn thường được cải biên rất ít khi áp dụng cho trẻ em.

Hiện nay, nhiều lý thuyết và kỹ thuật trị liệu sẵn có cho phép điều trị được một số lượng lớn các trường hợp tâm bệnh ở trẻ em. Do ảnh hưởng của tâm thần học cộng đồng (community psychiatry) nên có sự nhấn mạnh vào việc chăm sóc đứa trẻ bị rối nhiễu trên cơ sở ngoại trú, thời gian trị liệu ngắn hơn, cùng những biện pháp can thiệp định hướng theo vấn đề (problem-oriented intervention), quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố gây

stress

từ môi trường sống, quan hệ gia đình và các xung đột hữu thức (conscous conflict), nhấn mạnh hơn đến mối quan hệ giữa đứa trẻ và nhà trị liệu.

KHÁC BIỆT GIỮA TRỊ LIỆU TÂM LÝ Ở TRẺ EM VÀ NGƯỜI LỚN

Có những nguyên tắc chung cho trị liệu tâm lý ở trẻ em và người lớn, nhưng biện pháp cần được cải biên cho phù hợp với việc áp dụng ở trẻ em.

Trước tiên, đứa trẻ hiếm khi trực tiếp đòi hỏi việc trị liệu, mà thường là do cha mẹ đưa trẻ đến nhà trị liệu. Việc trị liệu vừa phải giải quyết những yêu cầu của phụ huynh, vừa phải thiết lập mối quan hệ trị liệu với đứa trẻ.

Kế đến, phụ huynh của trẻ cũng phải tham gia vào quá trình trị liệu. Phụ huynh phải bảo đảm việc thay đổi môi trường sống của đứa trẻ để tạo điều kiện tốt cho sự thay đổi hành vi nơi đứa trẻ. Dù rằng trẻ được xem là “người bệnh” nhưng nhà trị liệu phải xem cả đứa trẻ và phụ huynh của trẻ như những đối tượng cần được trị liệu.

Sau cùng, nhà trị liệu tâm lý cho trẻ em cần phải năng động hơn. Nhà trị liệu cần gắn bó trực tiếp hơn với đứa trẻ, cần bắt đầu bằng những chủ đề “bên ngoài” mối quan hệ giữa đứa trẻ và nhà trị liệu, cả hai cùng nói chuyện và chọn lựa trò chơi, và trong vài trường hợp, có thể hạn chế những hành vi không thích đáng.

NHỮNG MỤC ĐÍCH CỦA TRỊ LIỆU TÂM LÝ Ở TRẺ EM

Mục đích của trị liệu tâm lý phụ thuộc vào mô hình trị liệu, nhà trị liệu, bản thân đứa trẻ và gia đình của trẻ. Một mục đích cơ bản của hầu hết mô hình trị liệu là nhằm làm giảm sự đau khổ của trẻ và tạo điều kiện cho sự hồi phục; nói chung là làm giảm các triệu chứng của rối nhiễu tâm lý ở trẻ. Những mục đích khác gồm: tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách bình thường, giúp trẻ học được những kỹ năng thích nghi và đương đầu với các vấn đề cảm xúc và các vấn đề trong giao tiếp với người khác, củng cố những thành quả trị liệu và duy trì chúng sau khi trị liệu.

Những mục đích lâu dài và những mục tiêu ngắn hạn phải được cụ thể hóa trong từng trường hợp, xem xét phạm vi và mức độ nghiêm trọng của từng vấn đề, cùng khả năng của đứa trẻ, gia đình, cộng đồng và của nhà trị liệu.

Để đạt đến sự thay đổi hành vi tối ưu cần kết hợp nhiều phương pháp trị liệu khác nhau. Nhà trị liệu càng có nhiều kỹ năng, kinh nghiệm và linh động trong làm việc với trẻ, thì kết quả trị liệu càng cao.

CHƠI

Chơi là một thành phần không thể thiếu trong hầu hết các liệu pháp tâm lý ở trẻ em. Chơi giúp tạo nên một môi trường tự nhiên mà qua đó những suy nghĩ, cảm giác, những mối mâu thuẫn và nỗi sợ hãi bị dồn nén của đứa trẻ có thể được giải bày.

Nhà trị liệu có thể dùng môi trường vui chơi của trẻ để áp dụng các chủ đề của việc trị liệu, biết được những tình huống gây ra sự rối nhiễu của đứa trẻ, hiểu được cách thức suy nghĩ, cảm giác và ứng xử của đứa trẻ trong những tình huống đó.

Chơi cũng giúp bản thân đứa trẻ hiểu được những suy nghĩ, cảm giác và hành vi ứng xử của chính mình trong từng tình huống nhất định. Qua chơi, trẻ cũng sẽ phát triển được các kỹ năng ứng xử trong những tình huống đó.

CÁC PHƯƠNG TIỆN CẦN THIẾT

Trị liệu tâm lý cho người lớn đơn giản chỉ cần một văn phòng làm việc với bàn, ghế, chiếc ghế dài (sofa), cùng sự bảo đảm bí mật cho thân chủ. Trong trị liệu tâm lý cho trẻ em đòi hỏi phương tiện trang bị nhiều hơn.

Một phòng trò chơi trị liệu điển hình phải có đủ những đồ chơi, trò chơi, con rối, cùng các vật liệu để trẻ có thể thao tác bằng tay như đất sét, bột nặn, bút chì, giấy vẽ, bút màu, và đặc biệt

là những “ngôi nhà búp bê” (doll house). Cũng cần có những hộp đựng cát, vật dụng để chơi với nước như thau, chậu, bình, lọ... và màu vẽ mà trẻ có thể dùng các ngón tay nhúng vào để vẽ tự do.

Nhà trị liệu áp dụng phương pháp không hướng dẫn (nondirective approach), hạn chế hoặc tránh việc “diễn giải” trò chơi cho đứa trẻ và thường đưa ra rất nhiều loại đồ chơi khác nhau. Điều cần nhớ là chơi quan trọng hơn công việc trị liệu; hay nói cách khác:

Chơi là phương pháp trị liệu cho trẻ em.

Một số trường hợp trị liệu theo kiểu phân tâm học cũng bố trí phòng chơi sao cho đứa trẻ có thể giải bày những huyễn tưởng (fantasy). Một số đồ chơi khác có thể thêm vào như những búp bê có hình những giống dân khác nhau, vai trò khác nhau (cảnh sát, bác sĩ, người lính...), những con thú, con rối...

Phòng chơi cần tạo cho trẻ có cảm giác riêng tư, an toàn, và trẻ được tự do sáng tạo trong việc sử dụng những vật liệu chơi để giao tiếp với nhà trị liệu.

QUAN HỆ VỚI NHÀ TRỊ LIỆU

Hiện tượng

chuyển di

(transference) và vai trò của nó trong trị liệu tâm lý trẻ em khác biệt rất nhiều so với người lớn. Đây là một khái niệm trong phân tâm học và liệu pháp tâm động học (dynamic psychotherapy), hiện vẫn được xem xét đến trong tất cả các liệu pháp tâm lý cho trẻ em.

Theo lý thuyết học tập (learning theory), cách thức đáp ứng và kỳ vọng của một đứa trẻ có thể được đoán biết từ những lời nói và hành vi ứng xử của trẻ đối với cha mẹ của trẻ. Các phản ứng chuyển di ở trẻ em không mạnh như ở người lớn do sự hiện diện thường xuyên của cha mẹ trẻ.

NHỮNG ĐÒI HỎI Ở NHÀ TRỊ LIỆU

Nhà trị liệu cần phải năng động để xử lý vô số yếu tố và giả thuyết trong khi tiến hành các buổi trị liệu. Trong trị liệu tâm lý trẻ em, nhà trị liệu cần phải hết sức nhẫn nại, chịu đựng, vì trẻ em thường xuyên không ở yên một chỗ, mà hay di chuyển và hoạt động. Không cần thiết giữ “khoảng cách” giữa nhà trị liệu và trẻ. Trẻ cũng thường biểu hiện những hành vi bất chợt và không tự chủ để giải tỏa những nỗi lo âu và sợ hãi không nói thành lời. Những tình huống như vậy đòi hỏi nhà trị liệu phải hết sức trầm tĩnh và tỉnh táo. Ngoài ra, nhà trị liệu tâm lý cũng phải thường xuyên duy trì mối giao tiếp với phụ huynh, trường học của trẻ và các cơ quan chăm sóc trẻ em khác để cùng phối hợp trị liệu.

CÁC MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN

Trẻ em có tiềm năng phát triển theo những chiều hướng khác nhau, với những khả năng và nhu cầu tùy theo giai đoạn phát triển của lứa tuổi. Mức độ phát triển của đứa trẻ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xác định những nhu cầu của việc trị liệu. Trẻ em thường có

khuynh hướng phóng chiếu ra bên ngoài những xung đột nội tâm và thường tìm kiếm những giải pháp đơn giản để giải quyết các vấn đề của bản thân. Trẻ thường bị hạn chế khả năng “tự quan sát” chính mình. Vì thế, kỹ thuật trị liệu cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn phát triển về nhận thức, cảm xúc, tâm lý-xã hội của từng đứa trẻ.

MỤC ĐÍCH TRỊ LIỆU

Trị liệu tâm lý cá nhân ở trẻ em chủ yếu nhằm “tập luyện” (habilitation) hơn là để “phục hồi” (rehabilitation). Việc trị liệu nhằm tạo điều kiện giúp trẻ phát triển bình thường, đặc biệt là phát triển tính tò mò về bản thân mình và thế giới xung quanh; giúp trẻ phát triển những hành vi thích nghi, và tạo môi trường tốt cho sự trưởng thành của trẻ.

TRỊ LIỆU

Việc hoạch định kế hoạch trị liệu bắt đầu ngay từ khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ, cha mẹ hoặc người thân của trẻ. Kế hoạch trị liệu bao gồm một sự đánh giá về đứa trẻ để xác định đâu là “vấn đề”, những chẩn đoán phân biệt, những ưu điểm và nhược điểm, các triệu chứng chính, và xác định các giai đoạn của việc trị liệu.

Việc tham vấn hoặc trị liệu tâm lý cá nhân cần xem xét các yếu tố sau:  

1.

Nội tâm

, tức là cách thức mà đứa trẻ suy nghĩ, cảm giác, cùng những quan tâm và sự tham gia của đứa trẻ vào thế giới xung quanh;

2.

Hành vi

, tức là cách thức và thái độ của đứa trẻ trong việc đáp ứng với những tình huống nhất định, kể cả những tình huống đã gây ra vấn đề cho trẻ lẫn tình huống kích thích các đáp ứng tích cực và sự thỏa mãn nơi đứa trẻ;

3.

Trí tuệ - nhận thức

, những ưu điểm và nhược điểm của trí khôn của trẻ, mà nhờ đó trẻ có thể thích nghi được với những nhu cầu của đời sống hằng ngày;

4.

Gia đình và cộng đồng

, những nguồn lực hỗ trợ từ xã hội hoặc những nguy hiểm có thể gặp phải;

5.

Tình trạng thể chất

, tức những vấn đề sức khỏe có thể hạn chế hoặc tạo điều kiện tốt cho trị liệu tâm lý.

PHỎNG VẤN PHỤ HUYNH

Nhà trị liệu tâm lý cho trẻ em phải làm việc với đứa trẻ và gia đình của trẻ để xác định những vấn đề của trẻ là gì, tại sao có, xảy ra cách nào và theo một trình tự ra sao. Qua phỏng vấn phụ huynh, mối quan hệ trị liệu sẽ được thiết lập.

Phỏng vấn phụ huynh là gặp gỡ phụ huynh, có hoặc không có sự hiện diện của đứa trẻ, xem xét và đánh giá những vấn dề mà phụ huynh nêu ra trong việc nuôi dạy trẻ, những diễn tiến trước kia và tình hình hiện tại. Phỏng vấn phụ huynh cũng xem xét những kết quả trắc nghiệm và đánh giá trước đó (nếu có), đồng thời đánh giá tình trạng của đứa trẻ, gia đình và cộng đồng nơi trẻ sống. Việc phỏng vấn cũng chuẩn bị cho phụ huynh tiếp nhận những khuyến cáo trị liệu sau đó.

TRỊ LIỆU BẰNG THUỐC

Nhà trị liệu thường phối hợp nhiều phương pháp trị liệu khác nhau, do vậy có lúc việc trị liệu bằng thuốc cũng được xem xét đến khi cần thiết (Do Bác sĩ tâm thần đảm trách). Thái độ của trẻ, người chăm sóc trẻ và giáo viên của trẻ trong việc tiếp nhận trị liệu bằng thuốc có ảnh hưởng đến đáp ứng của trẻ với điều trị, cả trị liệu tâm lý và trị liệu bằng thuốc. Nhiều nhà trị liệu cho rằng việc dùng thuốc có tác dụng tích cực trên quá trình trị liệu, rút ngắn thời gian trị liệu, và làm giảm khả năng bỏ trị. Chỉ định dùng thuốc là do thầy thuốc quyết định.

CÁC MÔ HÌNH TRỊ LIỆU TÂM LÝ Ở TRẺ EM

TRỊ LIỆU PHÂN TÂM

Kỹ thuật phân tâm được xem là sự kết hợp giữa khoa học và nghệ thuật. Mỗi trường hợp phân tâm là một hiện tượng độc đáo, có một không hai. Tâm bệnh được hiểu là những xung đột hướng vào thế giới nội tâm của trẻ. Nền tảng cơ bản là lý thuyết của Freud. Tình trạng rối nhiễu tâm lý và hành vi của trẻ được xem là kết quả của những tương tác giữa trẻ với môi trường sống dẫn đến sự mất cân bằng và biến đổi trong quá trình phát triển.

Đối với Melanie Klein, chơi trong tình huống phân tâm sẽ thể hiện biểu tượng của những huyễn tưởng hung tính và huyễn tưởng tính dục, đồng thời góp phần tạo nên tình trạng chuyển di giữa đứa trẻ và nhà phân tâm. Sự can thiệp bằng phương pháp phân tâm giúp tháo bỏ những hàng rào ngăn cản sự phát triển bình thường của cái Tôi của đứa trẻ.

Chỉ định chính

của trị liệu phân tâm ở trẻ em là tình trạng nhiễu tâm cắm chốt (fixed neurosis) gây cản trở cho sự phát triển của trẻ. Trẻ cần có một trí thông minh nhất định, khả năng dung nạp với sự hụt hẫng và khả năng kiểm soát các xung động. Phân tâm không được chỉ định ở những trẻ có các triệu chứng thoái lùi (regressive symptom) do rối nhiễu phát triển tạm thời. Trẻ chậm khôn cũng không có chỉ định.

Cha mẹ cần nhận biết được những nỗi khổ của trẻ, mong muốn trẻ được trị liệu thành công và hợp tác tốt với nhà trị liệu trong việc nêu vấn đề và cung cấp thông tin. Phụ huynh cũng phải có khả năng “nới lỏng” những gắn bó với trẻ và đương đầu với những thay đổi dược dự kiến.

Chống chỉ định

đối với trị liệu phân tâm trẻ em tùy thuộc vào quan điểm của nhà trị liệu. Những người theo trường phái Freud cho rằng trẻ không nói được và những trẻ có cha mẹ không hợp tác là những trường hợp khó áp dụng trị liệu phân tâm. Các nhiễu tâm và loạn tâm giáp ranh (bordeline) cũng được xem là chống chỉ định. Những tác giả khác lại xem những trẻ thiếu một cái Tôi mạnh mẽ để có thể biểu lộ các xung đột hoặc bộc lộ thế giới nội tâm thông qua lời nói hoặc trò chơi, những trẻ thiếu khả năng tự kiểm soát và tự quan sát, là những đối tượng khó áp dụng trị liệu phân tâm.

Thực hiện

Kiến thức, kỹ năng, tình cảm của nhà phân tâm là những công cụ chính của trị liệu phân tâm. Mỗi giai đoạn phát triển của đứa trẻ được tiếp cận theo những cách thức khác nhau.

Diễn giải

Việc diễn giải được xem là kỹ thuật cơ bản của phân tâm học trẻ em. Nhà phân tâm diễn giải những ý nghĩa của lời nói, hành vi và trò chơi của đứa trẻ. Sự thấu cảm của nhà trị liệu cũng là một công cụ quan trọng. Đứa trẻ được tạo điều kiện để phóng chiếu cái thế giới nội tâm của trẻ thông qua trò chơi và những đồ chơi. Nhà trị liệu chú trọng đến các vấn đề nội tâm của đứa trẻ và sẽ thực hiện những thay đổi cần thiết.

Ở trẻ lớn, nhà trị liệu sẽ giúp trẻ dùng lời nói để diễn đạt, nhưng không dùng những diễn giải quá phức tạp đối với trẻ. Công việc của nhà trị liệu là phải hiểu và sử dụng tình cảm, trò chơi, lời nói để thay thế cho kỹ thuật liên tưởng tự do dùng ở thiếu niên và người lớn.

Quan hệ giữa nhà trị liệu và gia đình của đứa trẻ

Sự cộng tác trị liệu phải được thiết lập giữa đứa trẻ, cha mẹ trẻ và nhà trị liệu. Mối quan hệ này giúp duy trì sự thăng bằng giữa cảm giác thỏa mãn và hụt hẫng ở đứa trẻ. Trong khi trẻ chơi, nhà trị liệu đóng vai trò người quan sát chứ không phải người cùng chơi với trẻ.

Kỹ thuật

Chơi ở trẻ em đóng vai trò như liên tưởng tự do trong trị liệu phân tâm ở người lớn. Trong phòng trị liệu, đứa trẻ được tự do hoạt động, chơi và nói. Giấc mơ được xem là con đường trực tiếp nhất để đi đến cõi vô thức của trẻ. Trẻ nhỏ thường hành động như thể giấc mơ là thật, và nhà trị liệu phải đáp ứng với trẻ theo cùng một mức độ như thế. Muốn diễn giải, nhà trị liệu cần phải dựa vào những tư liệu từ lời nói và các biểu lộ tích cực từ đứa trẻ vì trẻ không có khả năng liên tưởng tự do.

Nhà trị liệu cần phải đối chất các tư liệu được ghi nhận qua trò chơi, hành vi hoặc lời nói của trẻ. Điều này giúp hiểu và diễn giải được các cơ chế phòng vệ của đứa trẻ. Bằng nhiều cách, nhà trị liệu

Những nguyên lý cơ bản của trị liệu theo hướng tâm động học

Quan sát đứa trẻ và nghiên cứu môi trường xã hội của đứa trẻ có vai trò quan trọng trong trị liệu phân tâm trẻ em, nhằm giúp trẻ đạt được sự thăng bằng giữa đời sống nội tâm và môi trường sống.

Phưong pháp cổ điển nhắm vào những quá trình nội tâm hơn là những tác nhân gây stress từ môi trường hoặc từ những mối quan hệ giữa trẻ với người khác. Nhiều tác giả khác lại tin rằng gia đình là một yếu tố quan trọng góp phần vào quá trình tâm bệnh của trẻ và sự cộng tác của gia đình là yếu tố bắt buộc cần thiết cho thành công của trị liệu. Mục đích của trị liệu phân tâm nhắm vào việc đánh giá lại các thái độ hơn là thay đổi các cấu trúc gia đình. Cho trẻ chơi và nói chuyện sẽ cung cấp tư liệu cho nhà trị liệu thực hiện sự diễn giải, với trọng tâm là “tháo gỡ” những xung đột nội tâm thông qua chơi và nói chuyện.

Có bốn nguyên lý cơ bản của trị liệu theo hướng tâm động học:  

1. Chức năng tâm trí vô thức là khái niệm trung tâm;

2. Hành vi là biểu hiện của các xung đột nội tâm;

3. Những triệu chứng có một ý nghĩa đối với đứa trẻ;

4. Sự chuyển di giúp hiểu được quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu, dựa vào những kinh nghiệm trước đó của trẻ với cha mẹ và những người khác.

Các triệu chứng bệnh được xem là biểu tượng của những nhu cầu và ước muốn nội tâm.

Yêu cầu của việc trị liệu

Mô hình trị liệu này đòi hỏi những buổi trị liệu thường xuyên trong nhiều năm, tập trung nhắm vào những gì xảy ra trong các buổi trị liệu; với khoảng 2 buổi trị liệu mỗi tuần. Sự bố trí thời gian như thế cho phép đứa trẻ hiểu được mối quan hệ giữa những cảm xúc với những sự kiện xảy ra trong đời sống của trẻ.

Trọng tâm trị liệu nhắm vào: (1) nội tâm của đứa trẻ, giúp phát triển sự nhận thức của trẻ, và (2) liên hệ giữa trẻ với người khác, giúp thiết lập những quan hệ thân tình, không gây cho trẻ sự sợ hãi, xoa dịu và giải tỏa những mâu thuẫn nội tâm.

Gia đình có vai trò rất quan trọng trong sự hình thành những cảm xúc, xung đột và những huyễn tưởng của đứa trẻ. Xác định vai trò này là một trong những việc quan trọng của nhà trị liệu. Và trị liệu cho trẻ cần kèm theo trị liệu cho cả gia đình của trẻ.

Nhà trị liệu cần giúp trẻ giải tỏa những dồn nén, làm tăng sự tự trọng (self-esteem) của trẻ, diễn giải những động cơ vô thức của trẻ vào đúng lúc mà trẻ có thể chấp nhận được một sự bộc lộ hiển nhiên như thế.

Việc kết thúc trị liệu phải được hoạch định trước. Trị liệu chỉ chấm dứt khi nào gia đình và đứa trẻ hiểu được những mối xung đột và cơ chế phòng vệ đã góp phần làm nên những vấn đề của trẻ, khi nhà trị liệu nhận thấy trẻ và gia đình có thể tự họ giải quyết được vấn đề hoặc khi đứa trẻ cảm thấy mình có khả năng tự đương đầu được với những vấn đề của chính mình trong hiện

tại và trong tương lai. Trong thực tế, trị liệu thường bị chấm dứt bởi đứa trẻ hoặc gia đình khi vấn đề được giải quyết, nhưng các kiểu hành vi thích nghi chưa được hình thành. Do vậy, việc chấm dứt trị liệu cũng cần phải được thảo luận trước với đứa trẻ và gia đình ngay từ lúc bắt đầu trị liệu.

LIỆU PHÁP QUAN HỆ TƯƠNG HỖ

(SUPPORTIVE RELATIONSHIP PSYCHOTHERAPY)

Lịch sử

Liệu pháp quan hệ tương hỗ bắt nguồn từ trường phái trị liệu không hướng dẫn (non-directive) của Roger. Được áp dụng rộng rãi bởi các nhà tham vấn học đường. Bản thân Roger cũng chịu ảnh hưởng của Freud, Rank, và Frederick Allen.

Nền tảng của liệu pháp

Liệu pháp là dựa trên lý thuyết cơ bản về tiềm năng tự hiện thực hóa (self-actualisation) ở tất cả mọi người. Kết quả trị liệu phải nhằm đạt được khả năng tự hiện thực hóa và sự tự trọng nơi đứa trẻ.

Các nguyên tắc cơ bản:  

1. Phát triển một mối quan hệ thân thiện và nồng ấm với đứa trẻ.

2. Chấp nhận hiện trạng của đứa trẻ như nó đang thật sự biểu hiện.

3. Thiết lập một cảm giác lạc quan, cho phép trẻ tự do giải bày cảm xúc.

4. Nhận diện và đáp ứng lại với những cảm xúc của trẻ theo một cách thức sao cho đứa trẻ tự hiểu được ý nghĩa của những hành vi của nó.

5. Trông đợi ở trẻ một khả năng tự giải quyết vấn đề và có trách nhiệm trong việc lựa chọn quyết định cũng như thực hiện quyết định đó.

6. Tránh việc hướng dẫn hành vi và lời nói của trẻ; nhà trị liệu cần phải “đi theo” sự hướng dẫn của đứa trẻ.

7. Trị liệu là một quá trình từ từ, không có gì phải vội vã.

8. Đặt ra một ít giới hạn cần thiết cho việc trị liệu và giúp trẻ có trách nhiệm trong trị liệu.

Liệu pháp kinh nghiệm (experiential psychotherapy) cho rằng nhận thức đi theo sau cảm xúc, và những thay đổi về cảm xúc sẽ dẫn đến sự thay đổi trong ý nghĩ. Khả năng nội thị (insight) được coi là kết quả của những thay đổi trong trị liệu. Những thay đổi về hành vi và suy nghĩ sẽ theo sau sự thay đổi về cảm xúc.

Việc trị liệu phải trải qua các giai đoạn: thiết lập mối thân tình, biểu hiện những cảm xúc trước đó, và sự phát triển của trẻ phải tương đồng với mức độ tăng trưởng thể chất (vd. trẻ diễn đạt cảm xúc qua lời nói tốt hơn). Trọng tâm của trị liệu luôn là mối quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu nhằm tái cấu trúc nhân cách của đứa trẻ. Nhiệm vụ thực hiện sự thay đổi là của đứa trẻ.

Chỉ định

Liệu pháp quan hệ tương hỗ có thể áp dụng ở hầu hết trẻ em có vấn đề về cảm xúc và hành vi, kể cả những trẻ nhỏ 2-4 tuổi. Để có kết quả, trẻ cần có được những kỹ năng cơ bản trong việc liên hệ và giao tiếp với người khác. Không có chỉ định hoặc chống chỉ định đặc biệt nào đối với liệu pháp này.

Kỹ thuật

Điều cơ bản để đưa đứa trẻ vào trị liệu là giúp trẻ giải bày những cảm xúc và phát triển khả năng nội thị thông qua sự tự diễn đạt ngay trong buổi trị liệu đầu tiên. Nhà trị liệu cố gắng tập trung vào những cảm xúc hơn là vào những nội dung. Kỹ thuật phản hồi (reflection) như đặt ra những câu hỏi cảm thông như: “Cháu cảm thấy như thế phải không?” hoặc “Nghĩ như thế này... đúng không?”. Nhà trị liệu phải giúp trẻ có trách nhiệm bằng cách không đặt ra những hoạt động hoặc chủ đề cho cuộc thảo luận, cũng không tìm cách đánh giá, khuyên răn hoặc diễn giải những hành vi và suy nghĩ của trẻ. Nhà trị liệu cần thể hiện sự cảm thông, am hiểu và chân thật. Thời gian trị liệu thường kéo dài 6-18 tháng.

Bản chất của vấn đề, tuổi của đứa trẻ và giai đoạn quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu là những yếu tố quan trọng cần được xem xét. Vd. một đứa trẻ nhỏ được trị liệu trong một căn phòng có quá ít đồ chơi và vật dụng sẽ trở nên xao lãng với nhà trị liệu. Môi trường và vật liệu chơi phải được chọn lựa để tạo thuận lợi cho quan hệ trị liệu. Chơi phải được xem là một hoạt động trị liệu.

Những buổi đầu tiên thường được dành cho việc giải thích về mối quan hệ, những gì sẽ xảy ra trong quá trình trị liệu và về những kỳ vọng khi kết thúc trị liệu. Người thân trong gia đình trẻ cũng cần được thông tin về những điều này. Mức độ sẵn sàng tham gia vào công việc của trẻ phải được đánh giá. Trị liệu được kết thúc khi đã đạt mục đích hoặc khi không thể đạt thêm sự tiến bộ nào khác.

LIỆU PHÁP HÀNH VI CÁ NHÂN

(INDIVIDUAL BEHAVIOR THERAPY)

Lịch sử

Liệu pháp hành vi ở trẻ em bắt nguồn từ tâm lý học thực nghiệm, cho rằng hành vi ở trẻ em chịu ảnh hưởng lớn bởi môi trường sống. Dựa trên những nguyên lý về học tập (learning) để giải thích bằng cách nào mà hành vi ở trẻ em được củng cố (cả ở trẻ bình thường và bất thường).

Từ thập niên 1970, trị liệu hành vi đã được áp dụng rộng rãi ở trẻ em, cả trong các rối loạn tâm thể, loạn tâm, tự bế (autism), đái dầm, bỏ học, trầm cảm, rút lui khỏi xã hội...

Nền tảng của liệu pháp

Các hành vi, cả bình thường lẫn lệch lạc, của trẻ em đều được “học tập” thông qua quá trình điều kiện hóa (conditioning). Và các quá trình học tập hay điều kiện hóa với cùng cơ chế như vậy cũng có thể được dùng để làm thay đổi hành vi của trẻ theo như mong muốn.

Điều kiện hóa cổ điển (classical conditioning)

Điều kiện hóa cổ điển hoặc việc học tập theo kiểu đáp ứng (respondent learning) có liên quan đến đáp ứng của cơ thể đối với một sự kiện từ môi trường, một kích thích từ bên ngoài. Điều cần thiết để làm xuất hiện các hành vi (cả thích nghi lẫn không thích nghi) là có sự hiện diện của các tác nhân gây củng cố (reinforcer).

Điều kiện hóa có tác động (operant conditioning)

Trong tình trạng điều kiện hóa có tác động, hệ thần kinh tự động sẽ chọn lựa một trong số những hành vi có thể đáp ứng với một kích thích trước đó từ môi trường. Một hành vi không mong muốn có thể làm giảm hoặc mất đi bằng cách loại trừ (extinction) và điều kiện hóa ngược (counterconditioning). Những hành vi mong muốn sẽ được gia tăng nhờ sự khen thưởng (reward) hoặc củng cố tích cực (positive reinforcement). Hành vi có được là kết quả của một hoạt động có trình tự. Tâm bệnh được xem là kết quả của sự củng cố không đúng đắn và không đầy đủ khiến dẫn đến những hành vi đáp ứng không thích nghi. Các đáp ứng lệch lạc này, đến lượt chúng, lại ngăn trở việc “tiếp thu” những hành vi bình thường và thích nghi. Nói chung, các nhà trị liệu hành vi ít chú ý đến nguyên nhân của các hành vi lệch lạc, mà tập trung vào việc thay đổi các hành vi đó. Nhà trị liệu lập một danh sách các hành vi, đánh giá ý nghĩa các hành vi nơi một đứa trẻ, rồi xác định các hành vi “trọng điểm” để có hướng tác động trị liệu. Việc đánh giá các hành vi tập trung xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến hành vi của trẻ và tạo điều kiện cho sự thay đổi các hành vi lệch lạc.

Werry và Wollersheim định ra 7 giai đoạn của trị liệu hành vi như sau;

1. Xác định vấn đề.

2. Phân tích vấn đề.

3. Vạch ra kế hoạch trị liệu.

4. Khuyến khích bệnh nhân vào trị liệu.

5. Định hình hành vi.

6. Khái quát hóa hành vi (Generalization of behavior).

7. Cố định hành vi.

Chỉ định

Các nhà trị liệu hành vi áp dụng một mô hình “định hướng triệu chứng” (symptom-oriented). Hầu hết các rối loạn tâm thần có triệu chứng phức tạp đều đáp ứng với trị liệu sửa đổi hành vi, mục đích là làm giảm triệu chứng, chứ không nhằm vào khả năng nội thị. Nhiều tác giả theo khynh hướng tâm động học cũng cho rằng trị liệu hành vi nên được xem xét khi đứa trẻ không thể áp dụng được liệu pháp nội thị sử dụng lời nói. Các rối nhiễu trong ăn uống ở trẻ nhũ nhi,

tự bế (autistic disorder), cuồng ăn (overeating), đái dầm, rối nhiễu hành vi, lo âu, sợ hãi... được xem là có đáp ứng tốt với trị liệu hành vi. Hầu hết trường hợp đều đòi hỏi sự hợp tác giữa phụ huynh và nhà trị liệu.

Chống chỉ định

Hiếm khi trị liệu hành vi gây ra tác hại cho tình trạng rối nhiễu. Tuy nhiên, khi phụ huynh chỉ đòi hỏi kiểm soát được những hành vi gây phiền nhiễu và mong có một sự ổn định nhanh chóng, hoặc khi họ đòi hỏi đứa bé phát triển khả năng nội thị và thừa nhận bản thân trẻ là sai, lúc ấy trị liệu sửa đổi hành vi nên được xem xét lại.

Kỹ thuật

Nhiều kỹ thuật như giải cảm ứng hệ thống (systemic desensitization), giảm nhẹ và phá vỡ kích thích (stimulus attenuation and implosion), làm mẫu (modeling)... được áp dụng. Điều kiện hóa có tác động gồm 4 giai đoạn: xác định vấn đề và những hành vi có thể quan sát thấy; ghi nhận tốc độ diễn ra những hành vi “trọng điểm”; áp dụng các biện pháp can thiệp; ghi nhận sự xuất hiện các hành vi mong muốn và đánh giá.

Những kỹ thuật được sử dụng trong hầu hết các liệu pháp hành vi dùng ở trẻ em và người lớn là: huấn luyện các kỹ năng xã hội, giải cảm ứng hệ thống bằng tập luyện thư giãn, điều chỉnh, làm mẫu có củng cố, phản hồi sinh học (biofeedback)... Các kỹ thuật áp dụng cho phụ huynh, giáo viên hoặc nhân viên các cơ sở nội trú là những biện pháp khen thưởng và trừng phạt, cùng những kỹ thuật định hướng môi trường khác.

LIỆU PHÁP NHẬN THỨC - HÀNH VI

(COGNITIVE BEHAVIOR THERAPY)

Lịch sử

Đây là một kết hợp giữa trị liệu hành vi và tâm lý học nhận thức (cognitive psychology). Nhà tiên phong trong lĩnh vực này là Alfred Adler. Liệu pháp nhận thức hành vi được phát triển từ thập niên 1960, có nguồn gốc từ tâm lý học của Liên Xô, lý thuyết về nhân cách, nghiên cứu về các yếu tố nhận thức trong quá trình điều kiện hóa, các công trình về sự khuấy động sinh lý và cảm xúc liên quan đến nhận thức, và công trình nghiên cứu về nhận thức như một yếu tố cơ bản ban đầu của quá trình học tập.

Nền tảng của liệu pháp

Mô hình trị liệu nhận thức - hành vi xem xét đến sự tương tác giữa các yếu tố nhận thức, xã hội, cảm xúc, phát triển và hành vi trong bệnh sinh và trị liệu tình trạng tâm bệnh ở trẻ em. Mối quan tâm được đặt ra là hành vi có liên quan đến các lệch lạc hoặc khiếm khuyết về nhận thức; do đó việc chữa trị phải theo một phương pháp kết hợp nhiều mô hình. Kendall liệt kê các nguyên lý cơ bản của một hệ thống nhận thức hành vi như sau:

1. Con người đáp ứng chủ yếu với các biểu trưng và kinh nghiệm về nhận thức trong môi trường của mình, hơn là đáp ứng với chính môi trường và các kinh nghiệm.

2. Hầu hết quá trình học tập của con người đều thông qua quá trình nhận thức.

3. Các suy nghĩ, cảm xúc và hành vi đều có tương quan nhân quả với nhau.

4. Các sự kiện, quá trình, sản phẩm và cấu trúc của nhận thức (như tự nói chuyện, kỳ vọng, qui kết, giản lược) có vai trò quan trọng trong việc hiểu và tiên đoán các hành vi tâm bệnh và hiệu quả của việc trị liệu.

5. Các sự kiện, quá trình, sản phẩm và cấu trúc của nhận thức có thể được công thức hóa để trắc nghiệm và lồng ghép vào các mô hình hành vi, từ đó đòi hỏi nhiều chiến lược trị liệu phối hợp.

6. Công việc của nhà trị liệu hành vi là chẩn đoán, giáo dục và tham vấn; đánh giá các lệch lạc và khiếm khuyết về nhận thức, các kiểu hành vi sai lạc; làm việc với thân chủ để thiết lập những kinh nghiệm học tập nhằm sửa chữa những kiểu nhận thức, hành vi và cảm xúc sai lạc ấy.

Trọng tâm của trị liệu đặt nặng vào việc học tập, ảnh hưởng của những yếu tố trong môi trường, hiểu biết về tâm bệnh lý và nhu cầu trị liệu tâm lý. Các yếu tố khác như thần kinh, sinh học, di truyền, gia đình, xã hội và các quá trình cảm xúc... cũng được xem xét và đưa vào chẩn đoán, điều trị khi chúng có liên quan đến những tình huống rối loạn đặc hiệu. Các yếu tố về phát triển cũng quan trọng trong việc hiểu căn nguyên của sự rối nhiễu. Việc xem xét quá trình nhận thức trước, trong và sau khi xảy ra một sự kiện được xem là điều chủ yếu trong quá trình trị liệu này.

Đứa trẻ là người tham gia tích cực

Đứa trẻ phải tham gia tích cực vào các biến đổi trên lâm sàng, vừa là người diễn giải, vừa là người ghi nhận các kinh nghiệm. Việc trị liệu có hai mức độ: một cho những trẻ bị thiếu khả năng giải quyết vấn đề; và một cho những trẻ có khả năng ấy nhưng không tự thực hiện được.

Việc trị liệu bao gồm sự lĩnh hội khả năng nhận thức về các vấn đề hiện tại và tương lai, cũng như về các tình huống gây stress. Nó cho phép đứa trẻ suy nghĩ và hành động một cách thông minh hơn và phát triển một phương thức giải quyết vấn đề thông qua việc tạo lập quan hệ trị liệu tốt, giúp đứa trẻ hiểu được thực tế cuộc sống thay vì phản ứng lại bằng những cách thức kém thích nghi.

Chỉ định

Liệu pháp nhận thức-hành vi và liệu pháp lý lẽ-cảm xúc thích hợp cho những trẻ có biểu hiện gây hấn về thể chất và về xã hội, những người trẻ tuổi gặp khó khăn trong quan hệ với người cùng trang lứa, những trường hợp bị cách ly với xã hội, kém tập trung, bốc đồng, hiếu động. Các liệu pháp này được áp dụng thành công ở những trẻ kém chú ý, khó khăn về vận động và hành vi xã hội, những trẻ kém kỹ năng tự giác, làm giảm stress do việc trị bệnh hoặc nhổ răng gây ra, và trị liệu cho những tội phạm. Chúng cũng được áp dụng cho trẻ chậm khôn nhẹ và trung bình, trẻ học kém...

Chống chỉ định

Các chương trình huấn luyện khả năng tự lực không thích hợp với những trẻ có rối loạn nặng về phát triển, đặc biệt là các khiếm khuyết về quan niệm-nhận thức, cảm xúc-động cơ, và nhân cách-xã hội. Các chứng loạn tâm cũng chống chỉ định.

Kỹ thuật

Mô hình trị liệu tùy thuộc vào mức độ phát triển, mức độ nhận thức của trẻ và loại vấn đề được biểu hiện. Một số kỹ thuật được định hướng vào việc hạn chế hành động (như kỹ thuật tự hướng dẫn đối với những người trẻ tuổi bốc đồng, hiếu động). Các kỹ thuật này không thích hợp với những người bị trầm uất và bị các rối nhiễu nội tâm sâu sắc hơn. Vì sự đo lường trực tiếp khả năng nhận thức là rất khó khăn, nên các hành vi đích (target behavior) thường nhắm vào sự thay đổi các điểm số có thể đo đạt được bằng các công cụ trắc nghiệm tâm lý. Quá trình phải được đánh giá qua trao đổi riêng tư, qua các công việc làm bộc lộ sự nhận thức và cung cách đáp ứng, hoặc qua việc đương sự tự báo cáo.

Trong trị liệu tâm bệnh lý trẻ em, không có liệu pháp nào được áp dụng một cách đơn độc. Việc kết hợp các liệu pháp hành vi như làm mẫu, củng cố tích cực, huấn luyện phụ huynh, cùng với các biện pháp tiếp cận nhận thức có thể phát huy lợi ích của việc trị liệu khi làm việc với những trẻ có rối nhiễu về hành vi. Các phương thức tự hướng dẫn bằng lời là một phần của chiến lược trị liệu. Nó giúp tăng cường khả năng tự chủ và cải thiện kỹ năng suy nghĩ cho phép đứa trẻ phát huy khả năng giải quyết vấn đề. Nó cũng giúp định hướng giải quyết vấn đề: nhận biết và phát hiện vấn đề, đưa ra các giải pháp, lựa chọn và thực thi giải pháp thích hợp nhất. Các kỹ thuật đặc hiệu là tự hướng dẫn bằng lời, làm mẫu theo nhà trị liệu, huấn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề nói chung và huấn luyện các khả năng đặc hiệu.

Huấn luyện kỹ năng tự quản cũng là một phần khác của liệu pháp hành vi-nhận thức, việc này rất phù hợp với những trẻ chậm khôn. Tự theo dõi các hành vi của bản thân và tự lập ra các mục tiêu cho sự thay đổi hành vi là phần đầu của việc huấn luyện kỹ năng tự quản. Phần thứ hai là huấn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, giúp trẻ tạo nên một số các đáp ứng hiệu quả với vấn đề và phát triển các phương thức tự giác để củng cố các đáp ứng đó. Phần thứ ba là huấn luyện nhận thức, dạy cho đứa trẻ nhận biết những quá trình suy nghĩ của chính nó, đối với trẻ chậm khôn: vừa tạo điều kiện phát triển nhận thức, vừa bù trừ những khiếm khuyết hiện có. Huấn luyện hành vi phù hợp là phần sau cùng, giúp trẻ chậm khôn kết hợp việc kiểm soát những hành vi phi ngôn ngữ thông qua hành vi dùng lời nói. Cách tiếp cận này cũng được áp dụng với trẻ tự bế. Việc giải quyết vấn đề được khoác cho một ý nghĩa và việc xem xét đánh giá các khía cạnh của vấn đề là điều bắt buộc trong quá trình trị liệu. Các phương thức thường qui được áp dụng bao gồm: tự hướng dẫn (self-instruction), tự theo dõi (self-monitoring), tự lượng giá (self-evaluation), tự định ra các tiêu chí để thực hiện (self-determining criteria for performance), tự củng cố (self-reinforcement), tự trừng phạt (self-punishment), thư giãn (relaxation) và giải trí tiêu khiển (distraction).

Trong trị liệu cho cá nhân đứa trẻ, trọng tâm của trị liệu tùy thuộc vào những kỹ năng của bản thân trẻ. Khi trẻ có được những kỹ năng cần thiết, trọng tâm sẽ là việc trẻ tự quản lý. Nếu trẻ chưa có những kỹ năng ấy, cần phải huấn luyện trước rồi tự quản sau, hoặc vừa huấn luyện kỹ năng vừa tập cho trẻ tự quản.

Trẻ cần được huấn luyện kỹ năng “phối cảnh” trong giao tiếp, tức là phải tham gia “sắm” các vai khác nhau. Ellis và Bernard đưa ra phương pháp huấn luyện khả năng chống stress cho trẻ bao gồm kết hợp huấn luyện khả năng tự quản và tập luyện thư giãn. Trong giai đoạn huấn luyện, đứa trẻ cần phải hiểu được những những phản ứng cảm xúc của chính mình, và phải thiết lập quan hệ giao tiếp bằng nói chuyện với nhà trị liệu cũng như tham gia tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định kế hoạch trị liệu. Có thể ghi diễn tiến trị liệu vào một nhật ký làm cơ sở cho việc theo dõi và đánh giá sau này. Trong giai đoạn hai, trẻ sẽ được ôn tập, lĩnh hội kỹ năng và thực tập các kỹ năng đặc hiệu như kỹ năng tự hướng dẫn để làm giảm stress.

Hầu hết các nhà trị liệu sử dụng các kỹ thuật trị liệu lý lẽ-cảm xúc (rational emotive therapy: RET): nhấn mạnh vào kỳ vọng của đứa trẻ đối với việc trị liệu và phát triển sự hỗ trợ cho trẻ bằng cách giải thích nhà trị liệu là ai và trẻ sẽ được giúp đỡ như thế nào. Mối quan hệ trị liệu được phát triển thông qua việc giao tiếp trực tiếp, nhắm vào những mục đích của trẻ, và tạo điều kiện củng cố những hành vi mong muốn ở đứa trẻ. Điều này làm chuyển đổi trách nhiệm của trẻ khi đứng trước vấn đề một cách có tính xây dựng hơn.

Một phương pháp tiếp cận khác là bằng sự tranh luận: những tin tưởng phi lý của trẻ sẽ được thử thách và được thay thế dần bởi những chọn lựa hợp lý hơn. Trong giai đoạn đầu của trị liệu, cần phải đánh giá tình cảm của đứa trẻ và chứng minh sự góp phần của nó vào những hậu quả tiêu cực đang xảy ra. Bước đầu tiên là tập trung vào cách thức thích nghi hiện tại của đứa trẻ. Trước khi xác định và tranh luận về những tin tưởng phi lý, nhà trị liệu và trẻ cần phải xác định rõ những mục đích của trị liệu. Vốn cảm xúc của đứa trẻ phải được mở rộng để cho mục đích trị liệu có thể được thiết lập bên trong phạm vi tham chiếu của trẻ. Điều này được thực hiện thông qua việc làm mẫu, tưởng tượng, các chuyện kể, chuyện ngụ ngôn vv... Qua trị liệu lý lẽ-cảm xúc, ngôn ngữ của trẻ được sử dụng và được mở rộng. Các khái niệm như sự công bằng sẽ được phân tích bằng những cách thức đã nêu. Điều cần thiết là phải phân biệt giữa sự phạm lỗi và sự “quá quắt”. Điều trị phần lớn phải dựa vào việc áp dụng sự tự bày tỏ lý lẽ (rational self-statement) đối với những tình huống sống mới, củng cố và khuyến khích sự tự củng cố bằng cách tự nói chuyện, trong đời sống thực tế và trong các buổi trị liệu. Ở trẻ dưới 7 tuổi, không nên phân tích và bàn luận về những khái niệm phi lý; thay vào đó là sử dụng các chất liệu cụ thể hơn như chuyện kể, tranh ảnh. Trẻ được tập luyện cách tự nói chuyện theo lý lẽ (rational self-talk) trong tình huống gây stress và cần phải suy nghĩ những gì. Các tình huống, vấn đề được khái quát hóa, và đứa trẻ được yêu cầu phải biết cách tự hướng dẫn. Trẻ lớn được huấn luyện những khái niệm tương tự, nhưng với những nội dung phức tạp hơn (những tình huống xảy ra trong gia đình, nhà trường và cộng đồng).

LIỆU PHÁP TÂM LÝ NGẮN HẠN

(BRIEF PSYCHOTHERAPY)

Lịch sử

Trị liệu ngắn hạn là hình thức chăm chữa được áp dụng phổ biến nhất trong nhiều trung tâm sức khỏe tâm thần. Nó bắt nguồn chủ yếu từ những đòi hỏi của việc chăm sóc sức khỏe tâm thần trong cộng đồng, thiếu hụt thầy thuốc lâm sàng và khả năng tài chính hạn hẹp. Nó có nguồn gốc từ nhiều mô hình lý thuyết như phân tâm học, lý thuyết học tập, lý thuyết quan hệ xã hội (interpersonal theory), lý thuyết về khủng hoảng (crisis theory) và động lực học gia đình (family dynamics). Các dịch vụ trị liệu tâm lý ngắn hạn cho trẻ em đã bắt đầu từ năm 1956. Các tiến bộ trong tâm lý học, liệu pháp hành vi và can thiệp khủng hoảng đã có ảnh hưởng lớn.

Nền tảng của liệu pháp

Cơ sở của trị liệu ngắn hạn là niềm tin vào khả năng tự hồi phục của đứa trẻ và gia đình, cũng như dựa vào động cơ muốn thay đổi của gia đình đứa trẻ.

Trẻ và gia đình được khuyến khích áp dụng các cơ chế đối phó và nhận lấy trách nhiệm giải quyết các vấn đề. Quá trình trị liệu là có hướng dẫn (directive) và định hướng vào các sự việc xảy ra trước mắt (here-and-now orientation). Trọng tâm nhắm vào giải quyết cơn khủng hoảng hiện tại, hỗ trợ và củng cố các chức năng còn nguyên vẹn, nhằm giúp hồi phục chức năng tâm lý của trẻ trở về mức độ như trước hoặc giúp trẻ có đủ khả năng để đương đầu với vấn đề. Phương pháp này cho rằng đứa trẻ chưa đủ phát triển để sẵn sàng hiểu và tự xem xét những gì xảy ra cho bản thân, và việc trị liệu ngắn hạn có thể giúp mang lại kết quả tốt hơn.

Trị liệu ngắn hạn không phải là “biến thể” được rút ngắn của trị liệu dài hạn; nó được hoạch định ngắn hạn; tập trung vào các vấn đề hiện tại; sử dụng những nhà trị liệu năng động; thời gian từ 1 đến 20 buổi trị liệu.

Điều bắt buộc là sự thay đổi về cảm xúc và thái độ sẽ được tiếp theo sau là sự thay đổi về hành vi. Hành vi lệch lạc của trẻ là phương tiện để xác định những đặc điểm trong đời sống của trẻ. Bản chất ngắn hạn và tập trung của việc trị liệu bảo đảm một môi trường trị liệu có tính dứt khoát hơn, một sự tương hợp hơn về kỳ vọng và động cơ của cả đứa trẻ lẫn cha mẹ của trẻ. Đây là biện pháp làm giảm tỷ lệ bỏ trị nửa chừng trong các trung tâm sức khỏe tâm thần cộng đồng.

Chỉ định

Trị liệu tâm lý ngắn hạn thích hợp với hầu hết trẻ em được chăm chữa ngoại trú. Phương pháp tiếp cận tâm động học (psychodynamic approach) có lẽ có hiệu quả nhất ở những trẻ năng động, có khả năng diễn đạt bằng lời nói, và bị phiền muộn nội tâm (internal distress). Trị liệu ngắn hạn được chỉ định trong những trường hợp: vấn đề mới xảy ra, gia đình có động cơ tích cực và mức độ tâm bệnh không nghiêm trọng. Trẻ phải được khích lệ và phải tham gia vào quá trình trị liệu. Nhiều phụ huynh cũng ưa thích việc trị liệu ngắn hạn và ít tốn kém.

Chống chỉ định tương đối bao gồm các tình huống trong đó vấn đề của trẻ kèm theo những khó khăn phức tạp và dai dẳng trong gia đình, tình trạng thù địch hoặc thái độ chống đối với việc trị liệu, các rối loạn tính tình nặng, và các hành vi dạng tâm bệnh (psychosis-like) khiến không thể nhanh chóng thiết lập mối quan hệ trị liệu tốt; hoặc khi đứa trẻ bị trầm cảm nghiêm trọng, rối nhiễu dạng phân liệt (schizoid). Phương pháp cũng không được áp dụng với những nhà trị liệu thiếu kinh nghiệm, không phù hợp với liệu pháp. Trẻ bị “tước đoạt” (deprived child) được coi là kết quả của một sự mất mát đáng kể và không có lợi khi áp dụng trị liệu ngắn hạn.

Kỹ thuật

Liệu pháp tập trung vào vấn đề hiện tại và ấn định rõ thời điểm kết thúc trị liệu. Vấn đề được đánh giá nhanh chóng và mục đích trị liệu cũng được xác định. Nói chung, mục đích là giải quyết vấn đề và, hiếm hơn, là giải quyết các mâu thuẫn nội tâm không liên quan. Phương pháp được dựa vào tâm động học của Mann, một vấn đề đặc hiệu trọng tâm được xác định sau khi đánh giá. Đứa trẻ và cha mẹ của trẻ được xem xét trên cơ sở từng cá nhân. Trẻ 12 tuổi trở xuống được để chơi và diễn giải trò chơi của trẻ là việc làm đầu tiên. Nhà trị liệu phải tái cấu trúc trò chơi và những diễn đạt bằng lời của trẻ; nhận ra cả nội dung lẫn những cảm xúc, nhận thức và những ẩn dụ kèm theo. Kế đó, trẻ được tập cách liên hệ những đau khổ hiện tại với những xung đột vô thức. Giao ước giúp trẻ giải quyết các vấn đề, làm cho trọng tâm trị liệu trở nên cụ thể, làm rõ nhu cầu tập trung vào chủ đề trung tâm. Chủ đề cần được nêu rõ lúc bắt đầu cũng như lúc kết thúc mỗi buổi trị liệu. Thêm vào đó, có thể trình bày cô đúc những xung đột kinh nghiệm được qua quá trình phát triển; mô tả các triệu chứng nhằm cố gắng loại bỏ những xung đột trung tâm; chứng minh sự thất bại của các giải pháp không thích nghi; và đòi hòi việc tìm kiếm những giải pháp ít gây xung đột hơn.

Các thành viên của gia đình, kể cả đứa trẻ đều có liên quan đến sự hình thành và duy trì vấn đề. Nhà trị liệu cần phải năng động, có tính hướng dẫn, và tạo nên sự hỗ trợ, cung cấp lời khuyên, diễn giải và phương thức đương đầu với vấn đề. Trẻ và các thành viên khác trong gia đình cũng cần được yêu cầu làm một số công việc tại nhà. Sự hướng dẫn các phương pháp trị liệu đều dựa trên sự phát triển bình thường của trẻ em, với những khuyến cáo trực tiếp cho cả nhóm gia đình hoặc từng thành viên trong gia đình. Hầu hết việc giáo dục trẻ đều thông qua yêu cầu thực hiện các công việc có tính cách tập luyện hành vi. Các buổi trị liệu sau cùng sẽ củng cố những gì đã đạt được bằng cách ôn lại nội dung trị liệu, các thay đổi về hành vi và thay đổi môi trường sống, cùng những tiến bộ đã thực hiện được. Nói chung việc thâu thập dữ liệu và đánh giá vấn đề nhanh chóng sẽ được tiếp theo bởi sự can thiệp trị liệu mạnh mẽ, có trọng điểm; việc này phải được thông báo cho đứa trẻ và gia đình.

PHẦN 2 : TRỊ LIỆU TÂM LÝ THEO NHÓM Ở TRẺ EM VÀ THANH THIẾU NIÊN

PHẦN GIỚI THIỆU

Trị liệu nhóm đầu tiên được báo cáo bởi Joseph Pratt qua làm việc với những bệnh lao người lớn trong những năm 1960, ba thập kỷ trước khi Samuel Slavson phát triển trị liệu nhóm cho trẻ em lứa tuổi đi học.

Trị liệu nhóm nói chung được xem là có tính hỗn độn, phân bố ngẫu nhiên về mặt thực hiện hành vi; nhưng chỉ khi thông qua sự am hiểu của nhà trị liệu, nhóm mới được tổ chức lại và trở thành điều kiện thuận lợi cho việc trị liệu. Mối tương quan tự do cho phép các cá nhân gắn bó chặt chẽ với nhóm và với nhà trị liệu. Ngoài ra, sự thoải mái sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thể hiện các xung đột, phòng vệ, các cảm xúc và các cơ chế đối phó giữa người với người.

Berta (1951) cho rằng phương pháp liên tưởng tự do bằng lời nói có tính gây sợ hãi cho trẻ ở tuổi đi học. Foulkes và Anthony (1957) thực hiện một phương pháp sinh hoạt nhóm trong đó mỗi buổi trị liệu được chia thành hai giai đoạn: lúc đầu là hoạt động, sau là bàn luận; qua đó những hành vi sau đó sẽ được diễn dịch thành lời. Nhằm kết hợp các mô hình giao tiếp, Haim Ginott (1961) đã phát triển nhóm trò chơi trị liệu, sử dụng cả trò chơi và lời nói làm mô hình diễn đạt các biểu tượng. Mỗi đứa trẻ có thể sử dụng mô hình thích hợp nhất với nhu cầu của mình. Nhóm chơi sẽ kích thích sự thăng hoa (sublimation), phát triển kỹ năng thích nghi xã hội, và phát triển mối quan hệ với các bạn cùng tuổi.

Năm 1970, Saul Scheidlinger phát triển một kỹ thuật chơi theo nhóm dành cho trẻ chậm khôn mức độ nặng, và năm 1984, mô tả kỹ thuật chơi theo nhóm ngắn hạn. Trẻ được hỗ trợ khi gắn bó với nhà trị liệu và phát triển khả năng tự kiểm soát.

Các nhóm bệnh nhân có thể được phân chia theo tuổi, phái tính, theo triệu chứng và chẩn đoán, hoặc tùy theo yếu tố gây stress, tình trạng y khoa, điều kiện gia đình, xã hội, anh em, gia đình...

Trong trị liệu nhóm, cũng như trị liệu cá nhân, phương pháp và kỹ thuật cũng được xác định bởi mục đích trị liệu. Các nhà giáo dục cố gắng huấn luyện cho trẻ những kỹ năng đối phó với các vấn đề. Mục đích của các nhóm hỗ trợ bao gồm việc tăng cường khả năng phòng vệ, tạo sự tiếp xúc với người khác, cung cấp những đề nghị và lời khuyên. Các nhóm khích lệ sự tăng trưởng đặt ra những mục đích liên quan đến việc tái cấu trúc hoặc làm trưởng thành nhân cách, thường thông qua quá trình học tập hoặc những kinh nghiệm cảm xúc đúng đắn. Trẻ được học cách đối phó, hỗ trợ và làm gương thông qua nhóm. Các phương pháp định hướng theo kiểu

nội thị khuyến khích trách nhiệm cá nhân, nâng cao sự nhận biết của trẻ về các xung đột nội tâm và cải thiện các lệch lạc. Một số nhà lâm sàng cũng thấy có khả năng hoàn tất việc lượng giá ban đầu thông qua nhóm.

CÁC XEM XÉT VỀ MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN

Phương pháp và kỹ thuật trị liệu thay đổi tùy theo tuổi và giai đoạn phát triển của trẻ. Khi một trẻ chưa đến tuổi đi học gặp khăn lúc trình bày các huyễn tưởng bằng lời nói, môi trường tốt nhất để giúp trẻ giao tiếp là thông qua chơi. Chơi thường được xem là tương tự như liên tưởng tự do ở người lớn, nhưng việc chơi có thể không hoàn toàn là tự do. Sự diễn đạt bằng lời giúp trẻ có được cảm giác tự chủ, tự do và khuyến khích sự độc lập thông qua những bước trưởng thành. Chơi phản ánh nhận thức nội tâm của trẻ thông qua sự phóng chiếu và diễn đạt bằng hành vi. Nó là một ảo tưởng, một hiện tượng chuyển tiếp giữa huyễn tưởng và thực tế.

Trong khi trẻ chưa đi học hoặc mới đi học có khả năng hạn chế về sử dụng những khái niệm trừu tượng, thì trẻ ở lứa tuổi tiềm ẩn (latency) cho thấy trước sự tiến bộ rõ rệt của cái Tôi cả về tính trừu tượng lẫn khả năng tự quan sát. Khi mối quan hệ trị liệu được phát triển, đứa trẻ sẽ phát triển khả năng nội thị. Cấu trúc cái Tôi của tuổi này cho phép phát triển các huyễn tưởng mang tính thích nghi, hình thành các giải pháp giải quyết xung đột và làm giảm sự lo âu. Việc sử dụng các biểu tượng và chuyển di làm bộc lộ các tranh chấp bị ẩn giấu với những xung năng tính dục và xung năng hung tính nhưng ít tạo ra lo âu. Đứa trẻ lứa tuổi đi học giảm bớt mối liên hệ với các đối tượng ban đầu khi các mối quan hệ với bạn cùng tuổi và người khác đạt đến mức quan trọng trong đời sống hằng ngày. Khi các quan hệ mới với bạn cùng tuổi được phát triển, chúng cũng đe dọa cấu trúc cái Tôi và cảm giác tương đồng mong manh của đứa trẻ. Khuynh hướng bắt chước và “nội tâm hóa” của trẻ sẽ tạo thuận lợi cho việc trị liệu và các thay đổi cấu trúc dưới một hình thức dễ chịu hơn. Sự giới hạn khả năng suy nghĩ bằng biểu tượng, trừu tượng hóa và diễn đạt bằng lời khiến đứa trẻ chuyển cuộc sống nội tâm của mình sang nhà trị liệu một cách mạnh mẽ hơn, thông qua hành vi và trò chơi hơn là bằng lời nói.

Tuổi thiếu niên thường được chia thành một số giai đoạn sau: tiền thiếu niên (pre-adolescence), thiếu niên “sớm” (early adolescence), thiếu niên “thật” (adolescence proper) và thiếu niên “trễ” (late adolescence). Tiền thiếu niên (10-12 tuổi) được đặc trưng bởi sự gia tăng hỗn động các ham muốn (drive) ở mọi mức độ. Các thay đổi về thể chất đi kèm theo những sự biến đổi về nội tâm phản ánh qua việc những người trẻ tuổi này trở nên quan tâm nhiều đến ngoại hình của bản thân. Tuổi thơ và các thói quen cũ bị từ bỏ. Thiếu niên phát triển một cảm giác mới về sự tự nhận thức, và cùng với nó là khả năng tự quan sát nội tâm. Trẻ khám phá sự tương đồng thông qua quá trình đánh giá nghiêm túc thế giới, đạo đức, các giá trị, tín ngưỡng và khoa học.

Thiếu niên “sớm” (12-14 tuổi) được dẫn dắt bởi tính dục, với khuynh hướng từ bỏ giá trị của những đối tượng yêu thương ban đầu và thiết lập những mối quan hệ với các bạn cùng tuổi sâu đậm hơn, bền vững hơn. Sự thành hình cái Tôi lý tưởng xảy ra khi trẻ tìm thấy một đối tượng mà mình ngưỡng mộ và chấp nhận như một phần tự hào của nhân cách (hoặc làm hoàn thiện nhân cách) của bản thân.

Trong giai đoạn thiếu niên “thật” (14-17 tuổi), việc tìm kiếm các đối tượng khác phái trở nên mạnh mẽ hơn khi thiếu niên tách rời về mặt cảm xúc với gia đình của mình. Năng lực sẽ chỉ được hướng sang nơi khác. Khả năng kết thân của thiếu niên càng tăng khi trẻ càng bị tách biệt. Chính trong giai đoạn thiếu niên “thật” này mà nhiều trẻ đã thể hiện sự giận dữ cố gắng được độc lập, một cơ chế phòng vệ chống lại những ước muốn lệ thuộc sâu xa. Thiếu niên “trễ” được đặc trưng bởi một sự tách biệt hẳn khỏi gia đình, sự đi sâu vào các quan hệ yêu thương tinh tế và thân mật, sự củng cố tính tương đồng và thiết lập các vai trò.

Mặc dù thiếu niên (ở mọi giai đoạn) đều có khả năng diễn đạt bằng lời nói tốt hơn trẻ nhỏ, hành vi và đôi khi trò chơi cũng hữu ích trong việc trị liệu

KHÍA CẠNH LÝ THUYẾT TRONG TRỊ LIỆU NHÓM

Tài liệu về trị liệu nhóm có rất nhiều và gồm nhiều loại khác nhau, và một số lớn tài liệu dành cho người lớn được áp dụng rộng rãi cho thanh thiếu niên. Đặc biệt, phương pháp nhóm ở thiếu niên cũng mang nhiều đặc điểm tương tự như trị liệu nhóm cho người lớn. Bởi vì các nhóm trẻ trước tuổi đến trường và nhóm trẻ trong giai đoạn tiềm ẩn (latency period) rõ ràng là khác biệt, nên các nhóm này phải được giải quyết sâu sắc hơn.

Không một cơ cấu độc nhất nào có thể hoàn toàn lý giải cho động lực học (dynamics) của nhóm hoặc hậu thuẫn cho một kỹ thuật đơn thuần nào đó. Các yếu tố giúp ích cho trị liệu nhóm ở người lớn cũng được nêu ra ở đây gồm: sự truyền đạt niềm hy vọng, tính phổ quát (universality), phổ biến thông tin, lòng vị tha (altruism), tái thỏa thuận điều chỉnh (corrective recapitulation) trong nhóm gia đình cơ bản (primary family group), phát triển các kỹ năng xã hội hóa, hành vi bắt chước (imitative behavior), học tập lẫn nhau, sự đoàn kết trong nhóm và các yếu tố có tính sống còn.

Nhóm được định hướng tâm động học sẽ tạo điều kiện và cho phép khảo sát các đáp ứng chuyển di giữa các thành viên lẫn nhau hoặc giữa thành viên của nhóm với nhà trị liệu. Khi nhà trị liệu kích thích việc khám phá các thành phần khác nhau của những phản ứng chuyển di mà một thành viên của nhóm trải qua, các thành viên khác của nhóm sẽ thông cảm và đồng nhất hóa với bản thân người đó. Khi một thành viên vượt qua được nhiều tầng lớp của sự phòng vệ (layers of defense), bộc lộ ra được những ước muốn mạnh mẽ, những nỗi sợ hãi, xung đột và huyễn tưởng, các thành viên khác cũng sẽ làm như thế. Đáp ứng của họ với những tư liệu ấy sau đó sẽ được khám phá, và thông qua sự chia sẻ những tư liệu mẫn cảm này, sự đoàn kết và tin tưởng lẫn nhau trong nhóm sẽ được thiết lập.

Các nghiên cứu về động lực học của nhóm cho thấy rằng quá trình diễn ra trong nhóm phản ánh một trạng thái tâm lý động học của một thành viên khi nó được hiểu trong bối cảnh một “trường xã hội” (social field). Cá nhân ảnh hưởng đến nhóm, và nhóm cũng ảnh hưởng lên cá nhân. Các giá trị, mục đích, kỳ vọng và tiêu chuẩn của nhóm sẽ phát triển theo thời gian và có thể được sử dụng để làm rõ trạng thái động học của tâm lý từng cá nhân.

Bion đưa ra ba điều mặc định cơ bản:

-

Tính phụ thuộc

tồn tại khi các thành viên của nhóm tìm kiếm một người lãnh đạo để họ có thể dựa vào để tìm sự trợ giúp và bảo vệ.

-

Tính ghép cặp

(pairing) xảy ra khi các thành viên trong nhóm nhận ra vị lãnh đạo hằng mong đợi chỉ là một huyễn tưởng được lý tưởng hóa và họ phải tự tìm nguồn hỗ trợ từ trong chính họ.

-

Tính “chống-hoặc-chạy”

(fight-flight) phát triển khi khi các thành viên của nhóm chấp nhận rằng không ai trong nhóm phụ trách trọn vẹn vai trò này. Đứng trước sự hụt hẫng này, họ có thể hoặc bỏ cuộc, hoặc vẫn đứng vững và đấu tranh với những người khác trong nhóm và với người lãnh đạo mà họ đã tìm kiếm.

NHÓM Ở TUỔI ĐẾN TRƯỜNG (PRESCHOOL) VÀ NHÓM GIAI ĐOẠN TIỀM ẨN (LATENCY GROUP)

Một số nhà lâm sàng khuyến cáo trị liệu nhóm như một phương thức trị liệu duy nhất, hoặc ít ra là cơ bản, cho các tình trạng lo âu, rối nhiễu hành vi hoặc rối nhiễu tính khí (character), rối loạn khí sắc (mood), và là phương thức trị liệu phụ đối với các rối loạn khác, trong đó trị liệu cá nhân hoặc các phương pháp khác chiếm vai trò trung tâm. Trị liệu nhóm là cách can thiệp hiệu quả trong việc chuẩn bị một số trẻ trước khi bước vào trị liệu tâm lý cá nhân và có thể hữu ích cho một số trẻ trước khi chấm dứt trị liệu. Các nhóm trị liệu ở lứa tuổi tiềm ẩn theo đúng thể thức bao gồm: nhóm hoạt động (activity group), nhóm thẩm vấn-hoạt động (activity-interview group), và nhóm chơi (play group). Nhóm chơi được áp dụng đặc biệt cho trẻ nhỏ.

TRỊ LIỆU NHÓM HOẠT ĐỘNG

Trị liệu nhóm hoạt động làm giảm thiểu các diễn đạt bằng lời nói và tập trung vào việc giao tiếp thông qua hành vi. Một bầu không khí vui vẻ, cởi mở tạo điều kiện cho sự dồn nén, tái trải nghiệm và giải quyết các xung đột bên trong hệ thống nhóm hỗ trợ. Sự diễn giải bằng lời nói không quan trọng bằng các tương tác về hành vi. Cơ sở tham chiếu và định hướng của nhà trị liệu - tâm động học, phân tâm học, thuyết quan hệ xã hội hoặc thuyết học tập - sẽ “nhuốm màu” cho phương pháp và kỹ thuật trị liệu được áp dụng. Nhà trị liệu phải nhạy cảm và cố gắng làm rõ các tư liệu thuộc về cá nhân hoặc nhóm với nhiều mức phức tạp về ý nghĩa. Tư liệu chuyển di nói chung không phải là trọng tâm và sự diễn giải trực tiếp bị hạn chế. Trong nhóm, trẻ sẽ quan hệ với những trẻ khác cùng tuổi và với nhà trị liệu, thể hiện phong cách quan hệ đặc trưng của mình. Các đáp ứng này cũng làm tái diễn lại các kinh nghiệm trong gia đình đã được đứa trẻ “nội tâm hóa”. Nhóm hoạt động sẽ vừa tạo những tình huống qua đó trẻ sẽ được trải nghiệm những tổn thương và đe dọa mà trẻ phải đối diện hằng ngày, và đồng thời cũng mang lại cho trẻ một cảm giác an toàn. Nhà trị liệu bày tỏ sự quan tâm tích cực với từng thành viên của nhóm, tránh những công kích, và mang đến một kinh nghiệm đúng đắn về cảm xúc. Bố trí phòng ốc vật dụng cũng phải an toàn cho thể chất của trẻ, tránh những vật liệu gây nguy hiểm... Các vật liệu để chơi cũng phải phù hợp theo lứa tuổi và giới tính của trẻ. Đồ chơi phải thuận lợi cho các hoạt động có mục đích, giúp phóng chiếu các huyễn tưởng hơn là tạo nên huyễn tưởng, nhằm cố gắng tiếp cận đến các tư liệu vô thức. Các vật liệu cơ bản gồm dụng cụ thủ công, các trò chơi và đất sét. Cuối buổi trị liệu trẻ thường được cho nghỉ ngơi.

Trẻ được tự do tham gia vào các hoạt động mà chúng có thể chọn, và cũng như vậy, khi vào các bữa ăn. Điều then chốt trong hoạt động nhóm là sự thoải mái và sẵn lòng vô điều kiện của nhà trị liệu. Trong mô hình này, có sự cân bằng giữa giao tiếp bằng hành vi với sự diễn đạt bằng lời nói, và giữa chơi tự do với liên tưởng tự do. Kinh nghiệm của hầu hết các nhà lâm sàng cho thấy rằng việc này cần phải là một nguyên tắc mang tính hướng dẫn hơn là một luật lệ mang tính kỹ thuật cứng nhắc. Nhiều đứa trẻ và hầu hết các nhóm trẻ, tùy theo thành phần tạo nên nhóm, có thể được quản lý hiệu quả theo cách này, nhưng khi trẻ có thể tự gây nguy hiểm cho chính mình hoặc người khác, nhà trị liệu cần phải can thiệp. Người ta khuyên rằng nhà trị liệu trong nhóm hoạt động phải lựa chọn thành phần của nhóm, tạo nên một hệ thống và vị trí trị liệu sao cho những cơ hội can thiệp của nhà trị liệu phải được giảm thiểu.

Các vật liệu chơi phải được cung cấp nhằm giúp trẻ hoàn tất một phóng chiếu trong mỗi một buổi trị liệu. Nhà trị liệu thường làm cho các phóng chiếu đã hoàn tất ấy trở thành “vật sở hữu” của đứa trẻ và trẻ có thể “mang nó về nhà”. Một căn phòng sạch sẽ, tươm tất vào lúc bắt đầu mỗi buổi trị liệu cho thấy rằng nó phải được giữ gìn theo cách như thế. Khi nhà trị liệu bắt đầu làm công việc dọn dẹp trước khi kết thúc buổi trị liệu là ông “làm mẫu” cho một tinh thần trách nhiệm. Một số trẻ sẽ tham gia vào công việc. Một số nhà trị liệu áp dụng những kinh nghiệm đặc biệt bên ngoài phòng trị liệu của nhóm, như ăn trưa ngoài trời, chơi dã ngoại, thăm một nhà bảo tàng, hoặc các hoạt động vui chơi khác; một số khác lại xem việc trị liệu hiệu quả hơn khi được giới hạn trong phạm vi một căn phòng đặc biệt.

Các nhóm trị liệu có thể chuyển đổi giữa các giai đoạn cân bằng (equilibrium) và không cân bằng (disequilibrium). Việc trị liệu diễn ra theo chu kỳ từ trạng thái tăng hoạt động và hỗn độn (mất cân bằng) sang trạng thái yên lặng (cân bằng). Sự chuyển đội này xảy ra thông qua việc hiểu biết, tranh luận, thỏa thuận và tự kềm chế lẫn nhau. Đôi khi trong nhóm có thể phát sinh các hành vi thiếu kiểm soát như đe dọa, đánh nhau, “cởi mở” về tính dục, hoặc những điều tương tự.

Việc quản lý hành vi của nhóm là một thế “lưỡng nan” (dilemma) đối với nhà trị liệu, trong khi mong muốn bày tỏ sự tôn trọng và chấp nhận trẻ mà không thể tha thứ cho các hành vi lệch lạc. Sự “thoải mái” của nhà trị liệu làm cho những đứa trẻ tin rằng chúng có thể tự làm mọi việc với nhau, ngay cả khi chống nhau kịch liệt, mà vẫn không có sự can thiệp của nhà trị liệu. Điều bắt buộc đối với việc này là phải hiểu rõ các thành phần của mối quan hệ trị liệu, bao gồm: sự cộng tác, sự chuyển di và quan hệ thực sự. Sự cộng tác trị liệu được hình thành thông qua việc phân tích cái Tôi của nhà trị liệu và sự quan sát cái Tôi của đứa trẻ. Giúp trẻ khám phá được những hành vi lệch lạc của nó đã ảnh hưởng thế nào với chính nó và với người khác, hành vi bắt nguồn từ đâu, và làm thế nào để thích nghi tốt hơn là tất cả trọng tâm của công việc trị liệu.

TRỊ LIỆU NHÓM HOẠT ĐỘNG-THẨM VẤN

Trị liệu tâm lý nhóm theo kiểu hoạt động-thẩm vấn là một biến thể của trị liệu nhóm hoạt động. Nhóm hoạt động-thẩm vấn sử dụng kỹ thuật trò chơi trị liệu có tính kinh điển hơn trong bối cảnh một nhóm trẻ cùng tuổi, kèm theo một thời gian được dành cho thảo luận nhóm. Các vật liệu chơi tạo điều kiện cho sự hình thành các huyễn tưởng, và việc khám phá bằng lời nói trở thành một phần của mỗi buổi trị liệu. Kỹ thuật này tương tự như trò chơi trị liệu cá nhân theo định hướng tâm động học có sử dụng những diễn giải về sự chuyển di.

Các thay đổi được thực hiện thông qua bắt chước, làm mẫu, xã hội hóa, trải nghiệm cảm xúc đúng đắn và giải quyết các lệch lạc. Phương pháp nhóm hoạt động-thẩm vấn khám phá các tư liệu chuyển di để tạo nên khả năng nội thị và sự thay đổi, mặc dù trẻ ở lứa tuổi tiềm ẩn có khả năng hạn chế trong việc bước ra ngoài một kinh nghiệm và phương pháp này cũng hữu ích trong việc quan sát cái Tôi. Nhà trị liệu sẽ giúp cá nhân trẻ hiểu được những tư liệu lời nói và hành vi vì nó phản ánh cái cách thức mà trẻ giải quyết những tình thế lưỡng nan của con người như: sự gắn bó và sự tự lập, sức mạnh và tính dễ tổn thương, tính dục và sự kiểm soát các xung năng. Quá trình trị liệu nhóm đồng tuổi sẽ xem xét các vấn đề này, tạo nên sự hỗ trợ và giải quyết vấn đề, “soi rọi” bản chất các mối quan hệ của từng trẻ với các trẻ khác.

Những buổi thẩm vấn trong buổi trị liệu sẽ khuyến khích trẻ tự quan sát và hiểu về bản thân. Các tương tác được những đứa trẻ trải nghiệm trước đó sẽ được diễn đạt thành lời và được đánh giá. Nhà trị liệu bắt đầu cuộc thẩm vấn khi không có vật liệu chơi bên cạnh, thường tại một vị trí đặc hiệu trong căn phòng (vd. mọi người ngồi xung quanh một cái bàn). Các buổi thẩm vấn này cho trẻ biết rằng những tương tác xảy ra trong buổi trị liệu phản ánh những điều quan trọng về cuộc sống nội tâm của trẻ, về nhân cách của trẻ, và việc hiểu biết này có liên quan đến đời sống thường ngày của trẻ bên ngoài nhóm trị liệu. Hành vi trong các buổi trị liệu được quan sát và liên hệ với biểu hiện những triệu chứng, với trách nhiệm đối với các thành viên trong gia đình, trường học và với các bạn cùng tuổi. Sự phấn chấn cho phép trẻ gắn bó với nhóm, tạo nên những cảm giác dễ chấp nhận và thúc đẩy sự tự trọng ở trẻ.

TRÒ CHƠI TRỊ LIỆU NHÓM

Trò chơi trị liệu nhóm (play group therapy) nhấn mạnh vào khía cạnh giao tiếp trong khi chơi trong việc hiểu đứa trẻ về mặt nội tâm và quan hệ xã hội. Vật liệu chơi thường dùng làm những “kênh” cơ bản để giao tiếp. Trẻ ở tuổi chưa đi học thường dễ tham gia vào trò chơi trị liệu, và đây cũng là một kỹ thuật hiệu quả cho trẻ lứa tuổi tiềm ẩn.

Chơi là cách thức diễn đạt và giao tiếp đối với mọi lứa tuổi. Ở trẻ đi học, nó là cách giao tiếp phong phú hơn và hiệu quả hơn cách dùng lời nói. Chơi giúp bày tỏ những tình huống gây lo âu, những nỗi sợ hãi và huyễn tưởng bị ẩn giấu, những xung đột được phòng vệ (defensed conflict), cùng những ước mơ và khao khát thầm kín. Tư liệu huyễn tưởng được bộc lộ qua chơi có thể gắn liền với những lo âu được gây ra bởi các xung đột nội tâm gây stress hoặc bởi cuộc sống thực tế bên ngoài. Chơi có tính biểu tượng (symbolic play) thường là cách duy nhất để trẻ nhỏ bày tỏ những quan tâm về cảm xúc chính yếu mà trẻ không thể diễn tả bằng lời. Trẻ có thể phóng chiếu lên những con búp bê, những nhà chơi (playhouse), dĩa đồ chơi, dụng cụ nấu bếp đồ chơi, hoặc có thể biểu hiện những quan tâm trong khi chơi thông qua những tương tác với các thành viên khác của nhóm. Trái với trị liệu nhóm hoạt động, các vật liệu chơi được chuẩn bị sẵn cho sự phóng chiếu các huyễn tưởng và gồm những đồ chơi mang tính tượng trưng như búp bê, con rối, và các dụng cụ để phóng chiếu như bút màu, bút chì, sơn vẽ, giấy, bảng viết, những cảnh sát, xe cứu hỏa, xe lửa, xe tải đồ chơi, đất sét...

Vật liệu chơi của trẻ, cũng giống như liên tưởng tự do bằng lời nói ở người lớn, phải được theo đuổi về nội dung, sự liên tưởng và tính chất “vụn vặt” của chúng. Đứa trẻ chơi để thực hiện hoặc thực tập những vấn đề trong đời sống thực tế mà trẻ cần phải tìm kiếm một giải pháp để giải quyết. Thông qua sự cộng tác với nhà trị liệu, đứa trẻ sẽ quan sát thấy những ý nghĩa mới trong hành vi và trò chơi của mình, và khi trẻ cảm thấy mình được thông hiểu và được chấp nhận thì mối quan hệ cộng tác này trở nên được củng cố. Chơi cũng khuyến khích tính xã hội hóa và thiết lập những mối quan hệ làm mẫu cho những quan hệ khác với những trẻ cùng tuổi bên ngoài những trải nghiệm trong nhóm trị liệu. Một kết cấu hợp lý cho trò chơi trị liệu nhóm sẽ tạo khung cảnh thuận lợi cho tính năng động và cho những trò chơi nhóm, ngăn chận những hành vi quá phấn kích, bồng bột và ngông cuồng.

Trò chơi trị liệu nhóm cần mối quan tâm của nhà trị liệu nhiều hơn trị liệu nhóm hoạt động hoặc trị liệu nhóm hoạt động-thẩm vấn. Nhà trị liệu trong trò chơi nhóm phải đương đầu với một hàng rào thực sự của các tư liệu đòi hỏi phải thực hiện nhanh chóng sự am hiểu và các quyết định can thiệp cả bằng lời nói lẫn bằng hành vi. Trong hoàn cảnh nào - trò chơi huyễn tưởng, trò chơi mang tính tranh đua, sự phản ánh qua lời nói, hoặc trong các trò chơi kết cấu giới hạn - nhà trị liệu sẽ hoạt động hiệu quả? Nhà trị liệu vừa là người tham dự, vừa là người quan sát, nên đòi hỏi phải thường xuyên xem xét và lưu ý đến từng cá nhân đứa trẻ, quan hệ của trẻ với nhau và giữa trẻ với nhà trị liệu, cũng như các quá trình xảy ra bên trong nhóm. Nhà trị liệu có thể là đối tượng để trẻ diễn tả những huyễn tưởng, các xung đột nội tâm hoặc các trạng thái cảm xúc; nhà trị liệu cũng có thể tham gia vào một trò chơi tranh đua, hoặc là đối tượng để trẻ bày tỏ hung tính. Một trẻ đang sợ hãi có thể đến gần nhà trị liệu và giữ sự gần gũi về thể chất trong thời gian lâu. Nếu trẻ cứ lập đi lập lại việc yêu cầu nhà trị liệu tham gia vào hoạt động, đó là dấu hiệu cho thấy trẻ đang lệ thuộc vào nhà trị liệu hoặc bị sợ hãi vì mối quan hệ với các bạn cùng tuổi.

Đáp ứng của nhà trị liệu phải ít gây nhiễu cho bản chất phóng chiếu tự do trong các mối quan hệ của trẻ. Các nhóm chơi thường huy động một số lớn hành vi hung tính và hỗn loạn, và điều này có thể gây nguy hiểm. Đáp ứng của nhà trị liệu đối với những hành vi này thay đổi từ việc nhấn mạnh tính hiệu quả của thành viên này cho các thành viên khác, sang việc đến ngồi gần đứa trẻ có hoạt động ngoài kiểm soát, yêu cầu đứa trẻ kềm chế hành vi ấy, cho đến việc ngăn cản đứa trẻ thực hiện hành vi ấy. Khi đã thành công trong việc đối phó và diễn giải ý nghĩa của các hành vi hung tính, nhà trị liệu phải chuẩn bị cho đứa bé đáp ứng với hàng loạt những mối lo âu ngày càng tăng. Sau cùng, một chút giải lao ngắn và một cuộc thẩm vấn có thể hữu ích trong việc làm giảm sự leo thang của hành vi hung tính, nhưng nhà trị liệu luôn phải sẵn sàng để “can thiệp’ khi cần thiết.

Nhóm chơi cho trẻ chưa đi học hoặc cho trẻ chậm khôn mức độ nặng đều dòi hỏi nhà trị liệu phải dung nạp một số lớn hành vi hung tính, tuy vậy có khả năng thiết lập những giới hạn phù hợp vừa không có tính trừng phạt vừa không gây sợ hãi. Vật liệu chơi luôn phải phù hợp với trẻ. Trẻ nhỏ và trẻ bị rối nhiễu cái Tôi phải cảm thấy an toàn để tự do thể hiện những ước muốn sâu kín nhất của chúng cùng lúc đó phải có cảm giác về sự can ngăn từ nhóm và nhà trị liệu. Nhà trị liệu, diễn đạt bằng lời nói những gì mà đứa trẻ bày tỏ và trải nghiệm, mang đến sự hỗ trợ cho cái Tôi của trẻ, sự bảo đảm và giúp kiểm soát các xung năng của cái Tôi. Sự tham gia đồng thời của một nhà trị liệu khác sẽ tạo thêm khả năng quan sát, giới hạn hoặc hỗ trợ hoạt động của nhóm.

NHÓM TRỊ LIỆU CHO THIẾU NIÊN

Một số nhóm trị liệu dành cho thiếu niên có thể tương tự như nhóm trị liệu ở người lớn, phản ánh quan niệm và kỹ thuật của nhà trị liệu.

Thiếu niên là một giai đoạn phát triển không đồng nhất. Ở đầu tuổi thiếu niên, trẻ thường dung nạp các yêu cầu lệ thuộc dễ dàng hơn những năm sau đó, và thường vẫn còn chấp nhận sự giúp đỡ của người lớn. Trẻ tìm kiếm những hình ảnh để lý tưởng hóa, và tiếp cận những mối quan hệ khác phái với sự e thẹn và sợ hãi.

Các thiếu niên tuổi trung bình thì trở nên lo sợ những ước muốn lệ thuộc và có khuynh hướng lùi lại trước sự giúp đỡ của người lớn. Sự mất giá trị của người lớn hỗ trợ cho việc tranh đấu giành “quyền tự chủ” (autonomy) và trẻ sẽ có nhiều mối quan hệ xã hội và quan hệ với người khác phái nhiều hơn. Một vẻ bề ngoài coi thường cho thấy sự lý tưởng hóa sâu xa của những thiếu niên này đối với những đặc tính quan trọng của người lớn. Khi thiếu niên trở nên lớn tuổi hơn (thiếu niên “trễ”), các cấu trúc tính nết phản ánh sự tự trọng và tự tin ngày càng tăng, cùng mối quan hệ với bạn khác phái thoải mái hơn. Ước muốn lệ thuộc (dependency longing) được bày tỏ một cách ít giận dữ hơn. Trong khi những thiếu niên 15-16 tuổi có khuynh hướng phản kháng nhà trị liệu với sự giễu cợt, châm biếm, các thiếu niên 17-19 tuổi lại có thể chấp nhận sự giúp đỡ, cho dù không được thoải mái lắm.

CÁC THỬ THÁCH ĐỐI VỚI NHÀ TRỊ LIỆU

Tạo quan hệ cộng tác trị liệu với thiếu niên là một quá trình khó khăn. Thiếu niên thường được đưa đến với áp lực của cha mẹ. Trẻ thường không tin vào động cơ của nhà trị liệu, và sợ đối đầu với các bạn cùng tuổi. Sự “ngoại hiện” (externalization) và phóng chiếu (projection) la những cơ chế phòng vệ phổ biến ở thiếu niên, và chính nhà trị liệu sẽ giúp thiếu niên nhận thức được rằng những khó khăn của trẻ là từ “bên trong” (internal) và giúp trẻ chấp nhận trách nhiệm cá nhân của mình.

Nhà trị liệu cần tiến hành một số buổi trị liệu cá nhân để đánh giá sự tương thích của trẻ với nhóm, và làm một số việc để tạo mối quan hệ cộng tác trị liệu. Nhà trị liệu cho các thành viên trong nhóm thấy trách nhiệm cá nhân của mình, khả năng tự cải thiện đời sống chình mình, tự cảm thấy tốt hơn về mình, và hoạt động trong xã hội hiệu quả hơn, có giáo dục hơn. Nhà trị liệu sẽ làm tốt việc này với sự tự tin và khiêm tốn.

Các nhóm trị liệu cho thiếu niên đòi hỏi nhà trị liệu phải năng động và đôi khi phải thường xuyên giải quyết các vấn đề. Liên tưởng tự do có thể được khuyến khích, nhưng thiếu niên có thể cảm thấy bị tổn thương, ngượng ngùng thái quá.

Quá trình trị liệu nhóm phát triển khi từng thành viên trong nhóm trở nên cởi mở trước các đáp ứng kịp thời và đầy thấu cảm của nhà trị liệu. Khi quan hệ cộng tác nẩy nở quanh mục đích chung được lập ra để giúp sự thay đổi ở từng thành viên, việc chuyển di mới có thể được thực hiện.

Sự chuyển di, sự tái hiện mối quan hệ trước kia, trong quan hệ hiện tại với phạm vi thích hợp hơn sẽ xảy ra với nhà trị liệu và với các bạn đồng tuổi. Các bạn cùng tuổi sẽ giúp trẻ phân biệt các khái niệm thực tế với các khái niệm “tưởng tượng” (chuyển di) khi trẻ phóng chiếu lên nhà trị liệu. Đối đầu với bạn cùng tuổi là rất hữu ích trong việc đi vào những cơ chế phòng vệ của thiếu niên, và trị liệu có tác dụng “đòn bẩy” đối với những thiếu niên mà trị liệu tâm lý cá nhân ít có hiệu quả.

TIẾP CẬN GIA ĐÌNH

Làm việc với phụ huynh và gia đình của trẻ là điều bắt buộc trong mọi hình thức trị liệu tâm lý ở trẻ em. Hình thành quan hệ cộng tác với cha mẹ sẽ giúp tạo nên sự hợp tác trong trị liệu, thành lập các nhóm phụ huynh song song, và sự tiếp xúc thường xuyên với nhà trị liệu nhóm của đứa trẻ. Điều quan trọng là cần xem xét sự tin tưởng, đánh giá khả năng thay đổi của cha mẹ trong việc làm giảm bớt trạng thái tâm bệnh của trẻ, mức độ hy vọng của cha mẹ đối với sự thay đổi, và đặc biệt là khả năng phụ huynh phải thấy vấn đề cảm xúc của trẻ là trách nhiệm và là một phần của đời sống gia đình thay vì xem đó như một vấn đề nội tâm của riêng trẻ. Trị liệu nhiều gia đình có thể hiệu quả và có thể được bắt đầu song song với trị liệu nhóm cho trẻ. Chẳng may, sự cộng tác của gia đình thường bị hạn chế, quan hệ cộng tác kém và thường dẫn đến bỏ trị nửa chừng hoặc thậm chí là đối kháng.

KẾT CẤU TRỊ LIỆU

Trị liệu nhóm có thể được thực hiện ngoại trú, nội trú tại cơ sở trị liệu, tại nhà, hoặc tại trường. Thông thường, trị liệu nhóm cho trẻ và thiếu niên được thực hiện trên cơ sở ngoại trú, mỗi tuần một lần. Thiếu niên gặp nhau mỗi tuần hai lần dễ tạo quan hệ trị liệu tốt hơn.

Số thành viên trung bình từ 6 đến 10, có thể cùng hoặc khác nơi sinh sống, cùng hoặc khác giới. Những nhóm đặc biệt nên thiết lập trên cơ sở nội trú, dưới hình thức từ giáo dục đến định hướng nội thị, nhắm vào những đối tượng có vấn đề đặc biệt như trẻ bị hen suyễn, thiếu kỹ năng giao tiếp xã hội hoặc trẻ có rối loạn về ăn uống.

Việc trị liệu luôn đòi hỏi các thành viên của nhóm mang các tư liệu từ đời sống vào các buổi trị liệu. Trẻ trị liệu trên cơ sở nội trú, tại nhà, hoặc tại trường sẽ có những những buổi tiếp xúc xã hội thường xuyên và được yêu cầu khám phá những trải nghiệm này trong các buổi trị liệu của nhóm.

TRÒ CHƠI TRỊ LIỆU

Tài liệu của Trung tâm NT

Moustakas - Psychotherapy With Children.

Những điều kiện thiết yếu trong tâm lý trị liệu trẻ em

Quan hệ trị liệu là một lọai trải nghiệm độc đáo, có tính chất trưởng thành, được tạo nên khi một người cần đến và tìm kiếm sự giúp đỡ, đồng thời có một người khác đảm nhận trách nhiệm thực hiện sự giúp đỡ ấy. Trong đời sống hằng ngày, những sự giúp đỡ ấy vẫn thường xảy ra khi con người trưởng thành và cùng sống với nhau. Việc trị liệu tâm lý – một thứ trải nghiệm trưởng thành có tính khẩn cấp và là một sự kiến tạo có ý thức – cũng diễn ra theo cùng một nguyên tắc và cũng không khác biệt mấy so với những trải nghiệm sống khác trong đó hai con người cùng tham gia vào một cách chí tình và gắn bó.

Ý niệm về mối quan hệ giữa một người với một người khác là một sự đòi hỏi thiết yếu cho sự trưởng thành cá nhân. Trong mối quan hệ ấy, cá nhân phải được xem là một con người với đầy đủ những nguồn lực phát triển bản ngã của bản thân, chứ không phải như một nạn nhân bất lực mắc các chứng rối nhiễu tâm lý cần đến sự chữa lành thông qua một mối quan hệ phụ thuộc. Tiến trình tăng trưởng bản ngã đôi khi có liên quan đến sự đấu tranh nội tại giữa những nhu cầu muốn phụ thuộc và những nỗ lực muốn tự lập, nhưng rồi sau đó cá nhân con người có thể cảm thấy tự do hơn để trực diện với chính mình, nếu người ấy có được một mối quan hệ mà thông qua đó những khả năng của anh ta được thừa nhận, trân trọng; còn bản thân anh ta thì được chấp nhận và được thương yêu. Khi đó, anh ta sẽ có khả năng phát triển một định hướng riêng trong cuộc sống ngày một cá biệt hóa hơn, tự quyết hơn.

Jessie Taft, thông qua một nghiên cứu thăm dò, đã trình bày chi tiết các cách thức và diễn tiến thực hiện một mối quan hệ trị liệu với trẻ em. Bà giải thích ý nghĩa của sự trị liệu như sau: “Từ ‘trị liệu’  trong tiếng Anh không có động từ; tôi cho thế là may. Nó chẳng có thể làm gì cho ai, do đó... nó biểu thị cho một tiến trình đang diễn biến, có thể được quan sát, được trợ giúp, nhưng không bị áp đặt. Trị liệu (therapy) xuất phát từ một danh từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là người phục vụ. Động từ là phục vụ”

Nhà trị liệu giúp cho đứa trẻ ổn thỏa với chính nó, nói lên những khó khăn, tìm ra những cách thức mới để quan hệ và để sống. Nhà trị liệu giúp cho đứa trẻ vui lòng đối mặt với chính mình, theo đúng với bản chất cá nhân của trẻ. Sự hỗ trợ là một nguồn sức mạnh tích cực, một sự ủy thác lòng tin được nhà trị liệu sinh động biểu lộ. Phương pháp trị liệu này tương phản hoàn toàn với cách thức của phân tâm học, trong đó nhà trị liệu đóng vai một người đầy uy lực, ràng buộc đứa trẻ vào một mối quan hệ phụ thuộc. Trong quan hệ trị liệu, phải có sự tôn trọng bản chất độc đáo của từng đứa trẻ. Trẻ không được xem như một đối tượng để khảo sát, không được nói đến như một ngôi thứ ba, mà như một con người với sự trọn vẹn cá nhân của trẻ. Nhà trị liệu không nhìn đứa trẻ một cách trừu tượng hoặc dựa trên những phán xét bên ngoài. Ông quan hệ với đứa trẻ qua những trải nghiệm phát triển sống động. Chính các trải nghiệm được “đẩy lên cao” và “đào sâu xuống” mới là trọng tâm của liệu pháp tâm lý trẻ em.

Trái với liệu pháp phân tâm, trong đó có sự xem xét không ngừng về quá khứ của đứa trẻ, trong liệu pháp quan hệ, trọng tâm bao giờ cũng là thời điểm hiện tại, ở những trải nghiệm sống mà trẻ đang có. Nhà trị liệu bắt đầu từ chỗ “đứa-trẻ-như-là-chính-nó”, làm việc trực tiếp và ngay tức thời với những cảm xúc mà trẻ đang có hơn là làm việc với những vấn đề, những triệu chứng và những nguyên nhân đã gây nên chúng. Việc làm này khiến tiến trình trị liệu có ngay sức mạnh và ý nghĩa. Taft xác định: “Đứa trẻ không muốn thấy một người cha hay người mẹ. Thực tình trẻ muốn thấy một người nào đó để sau cùng cho phép trẻ tìm ra được chính mình, biệt lập với những đồng hóa từ cha mẹ, mà không có sự can thiệp hay chế ngự từ bên ngòai; một người nào đó không có sự lừa dối, một người nào đó đủ mạnh nhưng không trả đũa đứa trẻ”.

Trẻ có thể bị thóai triển trước khi có thể đạt tới khả năng sử dụng một cách sáng tạo cái nhân cách chín chắn của mình, nhưng nhà trị liệu có thể giúp cho sự tăng trưởng này bằng cách nhắm thẳng vào những giá trị tạo nên sự phát triển của những trải nghiệm tức thì. Trẻ đến để nhìn thấy nhà trị liệu như một biểu tượng của một thực thể mới trong thế giới hiện tại. Thông qua mối quan hệ này, trẻ có thể phục hồi dần những năng lực của bản thân trẻ và làm kiên định cái bản ngã thật của trẻ.

Nếu nhà trị liệu xoáy sâu vào quá khứ, ông có thể làm rối cái ảnh hưởng độc đáo mà ông có thể biểu lộ cho đứa trẻ khi nó đang cố gắng dùng mối quan hệ này để thóat ra khỏi quá khứ. Như Allen giải thích “Trị liệu là một tiến trình đánh thức, nhưng nếu sự thức tỉnh ấy lại không xảy ra ngay trong thế giới hiện tại với những con người và sự kiện ở đây và ngay lúc này, thì đó không thực sự là sự bừng tỉnh, mà là một sự trung gian mới để tiếp tục cuộc sống trong mơ”.

Trong phương pháp trị liệu đang được nói đến ở đây, nhà trị liệu sẽ lắng nghe để hiểu và nhấn mạnh những biểu lộ về mặt cảm xúc của đứa trẻ. Không giống những nhà trị liệu phân tâm, ông không nhìn thấy những biểu tượng dục tính trong trò chơi của trẻ và cũng không tìm cách giải thích ý nghĩa của những cấu trúc chơi hay nội dung chơi của trẻ. Nhà trị liệu luôn xem mỗi tình huống chơi như một trải nghiệm sống độc đáo, chứa đựng những đòi hỏi riêng của nó. Điều duy nhất mà nhà trị liệu có thể làm cho đứa trẻ là giúp trẻ dần dần được là chính mình, để trẻ có thể sử dụng một cách sáng tạo và có trách nhiệm những khả năng và tài năng của trẻ. Mặc dù sự diễn giải đôi khi được sử dụng trong trị liệu, nhưng chính cái trải nghiệm mới mẻ mà trẻ đang cảm nhận về chính bản thân mình, cùng với một người đang chấp nhận trẻ “như nó là nó”, mới là những yếu tố tạo nên giá trị cho phương pháp trị liệu này. Sự tự do phát biểu bằng lời nói của trẻ được nhà trị liệu khuyến khích, nhưng giá trị của lời nói không tùy thuộc nhiều vào nội dung trẻ nói, mà tùy thuộc vào sự tự do khi đứa trẻ nói. Khi trẻ tự do để nói nghĩa là trẻ đã có sự tự do chia sẻ chính mình.

Đứa trẻ

Cội rễ của sự khó khăn nơi đứa trẻ là sự phục tùng và sự chối bỏ bản ngã của mình. Ở một vị trí nào đó trên con đường tăng trưởng và phát triển của mình, trẻ đã nhượng bộ mất cái phần cốt yếu nhất của con người trẻ cùng những nếp sống độc đáo tạo nên bản sắc riêng biệt của trẻ. Sự tăng trưởng bản ngã bị thương tổn vì việc chối bỏ những mối quan hệ với con người của trẻ. Trẻ cũng đã bị người khác chối bỏ một cách nghiêm trọng và đi đến sự chối bỏ chính mình. Trẻ bị cắt đứt khỏi những nguồn nuôi dưỡng bản ngã, mà những nguồn này lẽ ra đã giúp trẻ phát triển theo những biệt tài của trẻ.

Trong mọi khía cạnh của việc trị liệu, trẻ được khuyến khích để được giáp mặt với chính mình, để trẻ có thể kết nối lại với những cảm xúc thật của chính mình. Việc trẻ tự do nói, tự do biểu lộ, tự do quyết định, không ngừng nhận ra bản ngã của chính mình và tiến trình liên hệ với những trải nghiệm này sẽ giúp trẻ có thể khôi phục lại sự tự quý chuộng bản thân mình (self-esteem) và khôi phục lại sức mạnh của mình như một cá nhân độc đáo.

Trẻ sẽ chống lại bất kỳ mưu toan nào trực tiếp nhằm thay đổi nó, bởi vì một cố gắng như vậy là một sự từ chối đứa trẻ “như là chính nó”. Trẻ sẽ chống lại những người đang cố gắng lấy đi hoặc đánh giá thấp cái thế giới của riêng nó, những người nói với trẻ rằng tình cảm của nó là hư ảo, không thích hợp hay méo mó. Dù cách thức ứng xử của trẻ có tính gây hủy hoại hay không, chỉ khi trẻ được chấp nhận như là chính nó và được quý mến như một con người khả ái, toàn vẹn, chỉ khi trẻ được tự do làm điều mà nó cảm thấy nó phải làm, mối quan hệ trị liệu mới có thể có ý nghĩa và đủ khả năng giúp trẻ đi đến chỗ được gọi là một bản ngã thật. Điều nghe qua có thể thấy mâu thuẫn rằng nếu ta cho đứa trẻ bộc lộ sự đố kỵ của nó, nó sẽ có thể an ổn hơn; nếu trẻ có thể nói ra những sợ hãi của nó, nó sẽ có thể trở nên an toàn và không cảm thấy sợ hãi nữa; nếu trẻ nói về sự yếu kém và bất tài của nó, nó sẽ có thể có được sự tự tin và can đảm hơn; nếu trẻ được tự do tấn công và phá hoại, nó cũng có thể trở nên tự do yêu mến, thân thiết và quí trọng người khác. Trẻ sẽ đi đến chỗ nhận ra rằng trẻ được tự do lựa chọn và những ý nghĩa có giá trị có thể đạt được qua việc trẻ nhận thức được cái gì là thật đối với nó.

Thông qua mối quan hệ, trẻ cảm thấy ý thức được về bản ngã và những giá trị của bản ngã của mình. Trẻ cảm nhận được những trải nghiệm ấm áp và đầy nhân tính từ một người lớn mà trẻ đang quan hệ (nhà trị liệu), trẻ biết rằng người ấy đang rất tín nhiệm và coi trọng nó. Trẻ sẽ đi tới chỗ coi mình là một con người quan trọng và coi trọng những biểu lộ của bản ngã của trẻ vì chúng là của trẻ, vì chúng phù hợp với người khác và với cuộc đời của trẻ.

Trong trị liệu, trẻ cảm thấy mình được chú tâm một cách trọn vẹn từ một người lớn. Trẻ cảm nhận được sự quan tâm, thái độ chăm lo, dịu dàng từ nhà trị liệu. Trẻ biết rằng dù những tình cảm của nó có kỳ quái tới đâu, trẻ cũng không bị xem thường hoặc bị chỉ trích. Trẻ biết rằng ngay cả những nỗi lo sợ khủng khiếp nhất của nó cũng không làm cho nhà trị liệu hoảng sợ mà trái lại còn làm cho mối quan hệ này có thể tiếp tục.

Khi trẻ tự thấy mình có giá trị, khi trẻ đánh giá cao những đóng góp của mình cho người khác, thì trẻ đang đi trên con đường khôi phục lại cái bản ngã có khả năng nắm quyền kiểm sóat, cái bản ngã đang tăng trưởng, và trẻ không còn thái độ chỉ chăm chú đến việc tự vệ hoặc tự bảo tồn nữa.

Thông qua sự khích lệ và hiệu năng của mối quan hệ trị liệu, trẻ đạt đến sự trân trọng những cách thức biểu lộ riêng của mình, trân trọng lối sống riêng, sở thích và những gì đặc thù riêng của mình. Trong trị liệu, trẻ sẽ nói ra những điều có tính xác thực và nói ra những ý nghĩ mà trẻ cảm thấy thực sự gắn liền với nhân cách của chính trẻ, những sự diễn đạt khiến trẻ trở thành một con người độc đáo, phân biệt rõ trẻ với những người khác. Trẻ không còn tự nghi ngờ nữa, không sợ bị chỉ trích, kết án hoặc từ bỏ nếu trẻ bày tỏ những tình cảm và niềm tin thực của mình nữa. Trẻ đối mặt với chính mình, trưởng thành từ bên trong và hành động phù hợp với con người mà trẻ “thực sự đang là”. Trẻ biết mình thực sự muốn gì và muốn làm gì. Trẻ sẽ có khả năng dự báo và chuẩn bị để cho các sự việc được đạt đến một kết quả nào đó. Những ước muốn, suy nghĩ, tình cảm của trẻ là những biểu hiện lành mạnh chứ không phải là sản phẩm của những bốc đồng hay hoang tưởng, cũng không phải là sự phản ứng lại những tấn công có thật hay tưởng tượng. Giá trị nằm bên trong chính con người của trẻ và trẻ có thể sử dụng chính những giá trị này để tác động lên sự tăng trưởng của bản thân mình. Thông qua một tiến trình thăm dò và biểu lộ bản ngã trong một mối quan hệ có ý nghĩa, thông qua sự hiện thực hóa các giá trị nội tâm, trẻ có thể trở thành một cá nhân tích cực, tự xác định bản ngã và tự thực hiện bản ngã.

Nhà trị liệu

Nhà trị liệu bắt đầu từ chỗ đứa trẻ là chính nó, tập trung xử lý trực tiếp và tức thời trên những cảm xúc của đứa trẻ hơn là trên những triệu chứng và các vấn đề của trẻ. Nhà trị liệu thể hiện một sự chấp nhận không điều kiện, một sự tin tưởng và tôn trọng đối với bản thân đứa trẻ và những tiềm năng của trẻ. Ông truyền thái độ này đến đứa trẻ bằng nhiều cách: ông khuyến khích trẻ có những quyết định riêng, chấp nhận và tôn trọng mọi điều mà trẻ làm; ông lắng nghe chăm chú toàn vẹn những lời trẻ nói ra; ông khích lệ trẻ thăm dò những ý nghĩ và tình cảm của bản thân sâu hơn nữa; ông tập trung vào những điều trẻ nói và đáp ứng lại bằng tất cả con người của ông; ông để cho đứa trẻ dẫn đường; ông tham dự vào những kế họach của trẻ, đôi khi bằng cách cùng chơi với trẻ, nhưng nhiều hơn là bằng cách theo dõi những “manh mối” (cues) từ sự phát biểu và hành động của trẻ; ông lắng nghe với sự từ tốn và quan tâm, hoặc theo dõi bằng sự khát khao tìm hiểu; ông nỗ lực xem đứa trẻ như là chính nó và tôn trọng tất cả những gì ông thấy. Thực vậy, ông truyền đến trẻ thông điệp: “Đây là những tình cảm của em. Đây là cách thức của em. Em có quyền nâng niu chúng vì chúng là của em. Tôi quý mến và tôn trọng những tính cách của em, những yêu ghét của em, những thói quen và tập quán riêng của em. Và tôi cũng quý mến, tôn trọng tất cả các khía cạnh bản ngã của em”. Nhà trị liệu coi trọng tất cả những cách thức và giá trị của trẻ vì những điều đó là của trẻ. Những điều đó có giá trị độc đáo vào lúc mà trẻ biểu lộ. Thông qua mọi tương tác trong tiến trình quan hệ này, trẻ được đối xử như một con người luôn tồn tại mãi khả năng tự khẳng định được bản ngã của mình. Trẻ luôn được xem như một con người có thể thoát khỏi những khó khăn của nó, có thể tự quyết định xem những gì sẽ giúp khai phóng bản ngã và sẽ tìm ra được cái gì là tốt nhất cho thực tại riêng tư của chính mình. Trẻ được khuyến khích bày tỏ tình cảm của mình một cách đầy đủ, thăm dò sở thích, ý nghĩ và các trải nghiệm của mình, rồi đi tới chỗ nhận mình là một con người biết yêu, có thể được yêu, và như một người quan sát, một người tham dự vào sự tăng trưởng và phát triển của chính bản thân mình.

Từng bước, từng bước một, nhà trị liệu và trẻ cùng nhau chia sẻ những trải nghiệm có ý nghĩa; mỗi người theo đường lối riêng của mình đi đến những cái nhìn thấu suốt, mới mẻ về bản ngã.

Như vậy, trong liệu pháp này, điểm trọng tâm là làm nổi bật lên một mối quan hệ có ý nghĩa, trong đó có một người lớn rất mực quan tâm đến sự tăng trưởng bản ngã của đứa trẻ, chú ý đặc biệt đến cá tính của trẻ, và phải được huấn luyện để có khả năng thấy, cảm và hiểu được đứa trẻ, để có thể thăm dò và đánh giá những trải nghiệm mà trẻ đang có.

Bối cảnh

Bối cảnh cho mối quan hệ trị liệu diễn ra thường là một phòng đồ chơi. Những đồ chơi và các chất liệu tạo nên một phần của bối cảnh này và ở một mức độ nào đó có ảnh hưởng lên trên bản chất và nội dung chơi của trẻ. Nhiều lọai chất liệu dùng để chơi có thể được sử dụng. Cát, nước, sơn vẽ và đất sét là những chất liệu thường được dùng đến nhiều nhất. Bản chất vô định hình của những chất liệu này khiến trẻ có thể dùng chúng theo những cách thức có thể giúp trẻ biểu lộ và “xả bớt” những cảm xúc đang căng thẳng chồng chất trong tâm trí. Theo Buhler, những chất liệu vô định hình có thể bị làm mất hình dạng, đắp đống lên, đổ chảy tràn lan, đóng khuôn, đúc kết lại, xé rời ra, nắn lại thành những hình tượng hoặc bị phá hủy đi. Trẻ cũng có thể sắp xếp những chất liệu ấy theo một cách thức sao cho trẻ có thể tái hiện lại những mối quan hệ có ý nghĩa giữa người và người. Những chất liệu vô định hình đặc biệt có giá trị ở giai đoạn đầu của tiến trình trị liệu vì chúng cho phép trẻ biểu lộ những thái độ của trẻ theo cách thức gián tiếp và tản mạn khi trẻ chưa sẵn sàng đối diện với những tình cảm của mình một cách công khai.

Những món đồ chơi có cấu trúc như súng, dao, kiếm, phi tiêu... được trẻ dùng để biểu lộ sự thù hận. Trẻ thấy những đồ vật này là thích hợp vì trẻ có thể dùng chúng để biểu lộ hung tính mạnh mẽ theo những cách thức được xã hội chấp nhận. Trẻ có những vấn đề phá rối, nhất là các bé trai, dần dần sẽ đi đến lúc biểu lộ những cảm xúc nặng nề thông qua những trò chơi mạnh bạo bằng các loại đồ chơi này.

Những ngôi nhà búp bê, búp bê, những vật có biểu thị hình người là rất cần thiết vì chúng cung cấp cơ sở để trẻ có thể trực tiếp bộc lộ cảm xúc. Trẻ thường dùng những đồ vật này để diễn tả những khủng hoảng và mâu thuẫn trong gia đình một cách trực tiếp. Những cảm xúc lo hãi, giận dỗi, ganh tỵ với anh chị em và những tình cảm khác có thể được trẻ biểu lộ trực tiếp thông qua những màn kịch được diễn bằng các lọai đồ chơi nêu trên. Thông qua chơi trẻ làm xuất hiện ra những con người có ý nghĩa trong cuộc đời của trẻ. Solomon còn đề xuất rằng những chuyển biến trong việc trị liệu có thể xảy ra khi nhà trị liệu chủ động đưa thêm vào cảnh chơi của trẻ một con búp bê tượng trưng cho chính nhà trị liệu.

Những đồ chơi như xe hơi, xe tải, máy kéo, bàn cờ vua, giấy, bút chì và thuyền cũng rất cần bởi vì trẻ có thể dùng những thứ này để chơi và tạo nên những sinh họat “không dính dáng gì đến mình” cho tới khi trẻ sẵn sàng biểu lộ những tình cảm riêng; trẻ có thể chơi một cách tản mạn bằng những đồ vật không liên quan đến con người hoặc có thể chơi gián tiếp thông qua những hình tượng biểu trưng cho những con người có thật trong cuộc sống của trẻ.

Bối cảnh chơi không hoàn toàn do các đồ chơi và chất liệu chơi tạo nên. Khung cảnh và bầu không khí tình cảm tóat ra từ sự phối hợp tất cả các yếu tố bao gồm cả thái độ của nhà trị liệu và những ảnh hưởng hỗ tương riêng tư giữa nhà trị liệu và đứa trẻ. Bầu không khí tình cảm của phòng chơi có một ý nghĩa hệ trọng đối với trẻ. Phòng chơi trở thành một nơi chốn “của đứa trẻ”, bởi vì đó là chỗ của trẻ, và đó là nơi mà trẻ thuộc về.

Những vật liệu trong phòng chơi và thái độ của nhà trị liệu là những yếu tố bền vững và ổn định của tiến trình trị liệu. Các món đồ chơi luôn được sắp xếp theo cùng một cách thức khi trẻ bước vào phòng chơi. Nhà trị liệu là nguồn sức mạnh và là nguồn hỗ trợ kiên định cho đứa trẻ. Bên ngòai phòng chơi, trẻ sống trong một thế giới thay đổi, những người làm ra sự thay đổi ấy là những người khác; nhưng trong phòng chơi, nhà trị liệu là người chịu trách nhiệm; nếu có những thay đổi, phải là chính ông ta thay đổi.

Trong phòng chơi, trẻ sẽ dần dần cảm thấy cái ý thức thân thuộc và hòa hợp trong tất cả những gì trẻ nhìn thấy. Trẻ cảm thấy hòa đồng với môi trường, cảm thấy những khía cạnh thuần khiết của bối cảnh, không có những tiêu chuẩn định trước, không có những trông đợi, những áp lực, không có tiên kiến hoặc định kiến. Theo chiều hướng tích cực, trẻ cảm nhận được sự dịu dàng và bền vững của các cảm xúc, cảm thấy mình được tôn trọng sâu sắc bởi nhà trị liệu. Trẻ cảm nhận được cái ý niệm về sự êm đềm, mặc dù trẻ có thể bị rối loạn và giao động, rồi một bầu không khí bình an và tĩnh mịch bao quanh trẻ, dần dần thấm vào thế giới nhận thức riêng tư của trẻ. Bên ngòai phòng chơi vẫn là một thế giới bận rộn, chuyển động và đuổi theo các mục tiêu, nhưng trong phòng chơi có một ý niệm liên tục về sự bình an. Ngay cả khi trẻ tích cực chơi và tự biểu lộ qua các họat động chơi náo nhiệt, trẻ vẫn nhận ra bầu không khí êm đềm ấy.

Bầu không khí hài hòa, êm đềm và thân thiết với con người khiến cho phòng chơi trở thành một nơi chốn quí giá đối với trẻ, khiến trẻ có được ý niệm về sự tương hợp và “có nơi có chốn”. Đối với trẻ, phòng chơi có một giá trị thuần khiết, nên trẻ đòi hỏi phải biết tôn trọng nơi chốn đó. Những đặc trưng êm đềm, hài hòa và tôn trọng này cũng vẫn thường được trẻ nói ra. Và trẻ có thể xem phòng chơi như ngôi nhà thứ hai của mình vậy...

Trẻ bước vào vòng quan hệ với những đồ chơi, một mối quan hệ ấm áp, thỏai mái và được bảo bọc mà trẻ có thể cảm thấy giống như khi đang nằm ngủ với chiếc mền quen thuộc hoặc khi nắm giữ một đồ vật quí giá. Không người nào có thể cho trẻ những điều mà trẻ trải nghiệm được trong khi quan hệ với một món đồ chơi hoặc với các chất liệu để chơi. Chính sự ấm áp và sự an toàn bên trong một mối quan hệ không dứt ra được khiến trẻ muốn có được món đồ ấy.

Misako Miyamoto, một nhà tâm lý từ Nhật Bản, dành ra nhiều tháng quan sát, theo dõi những trẻ em được trị liệu trò chơi ở trường Merrill-Palmer đã viết trong một lá thư riêng như sau:

“Qua việc quan sát những buổi trị liệu, tôi không ngờ cảm thấy có cùng một bầu không khí giống nhau giữa nghi thức Trà đạo Nhật Bản và phòng trò chơi trị liệu. Điều này khiến tôi hết sức xúc động. Khi bầu không khí phòng chơi đạt đến mức, nhà trị liệu và trẻ giao tiếp nhau trong sự ăn ý, tôn trọng, tinh khiết và ôn hòa. Có một cảm giác liên tục về sự gắn bó và liên kết với nhau trong suốt tiến trình. Phòng chơi trở thành nơi ẩn náu tránh những xáo trộn của thế giới bên ngoài. Bầu không khí này không chỉ có giữa nhà trị liệu và đứa trẻ, mà còn bao trùm cả phòng chơi và hết tất cả mọi vật xung quanh. Trong một trạng thái như vậy, trẻ sử dụng đồ chơi một cách kính cẩn. Trẻ biết cái ý nghĩa thực sự và mục đích của một đồ vật, và trẻ gắn bó với món đồ ấy một cách tích cực. Món đồ không còn là vật chất nữa, mà còn là một vật có thể giao tiếp với trẻ.”

Trẻ ve vuốt nó và tiếp xúc với nó. Trẻ có thể sử dụng một con búp bê với ý nghĩa riêng được gán cho con búp bê ấy, ý nghĩa của búp bê khi đó sẽ trở nên sống động trong tâm trí của trẻ, và sự “tôn trọng” là có thực giữa trẻ và búp bê. Nếu trẻ không chịu nhận món đồ, trẻ sẽ không sử dụng nó với một ý nghĩa thực sự. Trong trường hợp này, trẻ có thể không tôn trọng món vật ấy, ví dụ một đứa trẻ có thể phá hủy một con búp bê như thể thực sự ý nghĩa của con búp bê ấy không đáng được tôn trọng.

Do phòng chơi trở thành một thế giới khác, thế giới của sự bình an, bền vững và hài hòa, thóat khỏi ảnh hưởng của những yếu tố tác động từ bên ngòai, trong đó trẻ được tôn trọng như một con người đáng quí, nên trẻ sẽ trân trọng những trải nghiệm của mình, tự biểu lộ và phát triển những khả năng và tài năng của mình như một con người.

Thiết lập khuôn khổ cho mối quan hệ trị liệu

Thiết lập khuôn khổ là một bước quan trọng trong giai đọan đầu của tiến trình trị liệu. Trẻ được dẫn vào phòng chơi và phải tiếp nhận sự khoan nhượng đối với tình huống trị liệu. Nhà trị liệu sử dụng lời nói để thiết lập khuôn khổ, giúp trẻ có được sự hiểu biết về mối quan hệ trị liệu, cùng sự tự do và những trách nhiệm mà trẻ cần thể hiện.

Nhà trị liệu có thể dùng những câu nói như “Ở đây em được tự do làm những điều em thích”, “Phòng chơi này, vào lúc này, là của em”, “Những điều em nói ra ở đây lúc này là chuyện giữa tôi và em – không phải chuyện của ai khác”, “Tôi không quyết định giùm em, điều quan trọng là em quyết định như thế nào”, “Em muốn tôi làm điều đó cho em, nhưng ở đây em phải tự làm điều đó”, “Đây là việc mà em đã dự định, tôi không thể điều khiển ý muốn của em”, “Em sẽ phải theo đuổi việc này tới cùng”, “Tôi hiểu việc này không dễ làm, có thể tôi sẽ giúp em lúc đầu, sau đó em sẽ tiếp tục”, vv... Nhà trị liệu có thể chỉ dẫn, hoặc chỉ cho trẻ thấy những điều có thể làm được mà trẻ chưa nhận ra, và cũng có thể giúp đỡ khi tuyệt đối cần thiết, nhưng ông cần giữ thái độ kiên định là trẻ vẫn có thể sử dụng tài năng của chính mình, có trách nhiệm hoàn toàn về những hành động và quyết định của mình. Những lời nói thiết lập khuôn khổ giúp trẻ lưu ý đến chính mình, giúp trẻ trực diện với những mâu thuẫn nội tâm, trong việc “vật lộn” với những thái độ khốn khổ và tiêu cực về bản ngã của mình. Những lời nói ấy thừa nhận bản ngã của trẻ và giúp trẻ thỏa hiệp được với chính mình. Từ đó trẻ có thể biểu lộ những tình cảm, những ý nghĩ, những lựa chọn và những ước nguyện thật sự của chính mình.

Xác định những giới hạn

Một trong những điều quan trọng nhất của mối quan hệ trị liệu là xác định những giới hạn. Không có giới hạn thì không thể trị liệu được.

Các giới hạn qui định ranh giới cho mối quan hệ và giữ mối quan hệ đó ở lại trong thực tại. Chúng nhắc nhở trẻ về những trách nhiệm mà trẻ phải thực hiện đối với chính nó, với người trị liệu và với phòng chơi. Chúng bảo đảm sự an toàn, đồng thời cho phép trẻ được sinh hoạt tự do và an toàn trong phòng chơi của trẻ. Chúng giúp cho những trải nghiệm trong phòng chơi trở thành một thực tại sinh động.

Sự giới hạn về thời gian của các buổi trị liệu là một điểm quan trọng trong trị liệu trẻ em. Nhà trị liệu cần xác định giới hạn này một cách ngắn gọn vào cuối mỗi buổi trị liệu. Ông nói cho trẻ biết khi trẻ chỉ còn lại ít phút nữa để chơi. Và đến đúng giờ, ông nói “Buổi hôm nay như vậy là đủ rồi. Chúng ta phải ngưng lại ở đây”.

Cũng có những giới hạn về sử dụng đồ chơi. Ví dụ, đồ chơi chỉ được sử dụng trong phòng chơi mà thôi. “Tôi biết em rất muốn mang đồ chơi này về nhà, nhưng em chỉ được sử dụng nó ở đây thôi” là cách để xác định giới hạn đồng thời cũng là để công nhận những cảm xúc của trẻ. Một số đồ vật chơi có thể được qui định là không được phép phá hủy.

Nói chung, trẻ không được phép xâm phạm đến thân thể hoặc áo quần của nhà trị liệu. “Tôi biết em thực tình muốn quết sơn lên người tôi, nhưng đó là việc em không được phép làm ở đây”.

Nếu trẻ quyết định rời khỏi phòng trước khi hết buổi thì thường là trẻ sẽ không được trở lại phòng chơi trong buổi đó nữa. “Nếu muốn thì bây giờ em có thể đi ra, đó là tùy em. Nhưng nếu em ra, thì tôi không thể để em trở lại phòng chơi trong buổi hôm nay nữa”.

Cũng có một vài giới hạn về sức khỏe và sự an toàn. Trẻ không được phép ném các đồ vật như chai lọ vào tường, không được ném cát vào mặt, không ném các vật cứng vào gương, không ném đồ vật ra khỏi phòng chơi...

Giới hạn có thể được quan niệm như là một sự đòi hỏi cố hữu trong thực tế của phòng trị liệu. Không có những giới hạn, trẻ sẽ bị buộc phải họat động trong một khu vực đầy tính đe dọa và không quen thuộc, có thể gây nên sự kích động lo lắng và gây nên tâm trạng có tội. Nhà trị liệu sẽ cảm thấy không thoải mái và lo âu một cách không cần thiết. Những cảm xúc ấy có thể trở thành vật chướng ngại và đe dọa đến mối quan hệ trị liệu.

Phần đông trẻ chấp nhận những giới hạn này. Nhưng đôi khi có những trẻ cố tình vi phạm. Lúc đó nhà trị liệu phải quyết định làm gì để tăng cường thêm sự giới hạn. Ông có thể đặt một món đồ chơi hoặc một khu vực nào đó trong phòng chơi ra ngòai ranh giới của sự giới hạn, hoặc đứng cạnh trẻ để nhắc lại các giới hạn, hoặc giữ trẻ lại trong ít phút. Dù làm cách gì chăng nữa, nhà trị liệu cũng phải tiếp tục giúp trẻ cảm thấy là trẻ được chấp nhận, mặc dù trẻ không được phép làm một số điều gì đó.

Những quá trình thiết lập khuôn khổ và xác định giới hạn phần nào đã làm cho sự trị liệu không còn là những định đề lý thuyết. Nó trở thành một thứ trải nghiệm ấm áp, hữu dụng, sống động để trẻ có thể sống tự do, trọn vẹn, và khiến mối quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu ngày càng sâu đậm và phát triển.

Ý nghĩa của sự giới hạn trong mối quan hệ trị liệu

Sự giới hạn luôn luôn có trong mọi mối quan hệ. Cơ chế tâm lý của con người tự do tăng trưởng và phát triển trong giới hạn của những tiềm năng, tài năng và cấu trúc của riêng nó. Trong tâm lý trị liệu phải có sự hợp nhất giữa tự do và trật tự để các cá nhân tham gia trong mối quan hệ có thể hiện thực hóa những tiềm năng của họ.

Sự giới hạn là một khía cạnh của một trải nghiệm sống động, khía cạnh này giúp định ra sự cá thể hóa và khuôn khổ của mối quan hệ trị liệu. Giới hạn là hình thức hay là cái “khung” của một mối quan hệ trong tức thời. Nó không chỉ là một hình thức qui định, mà còn có tính chất qui về sự phát triển, phương hướng sống và triển vọng về sức sống. Vì một mối quan hệ có ý nghĩa trong trị liệu luôn liên hệ mật thiết đến sự phát triển, trong khi những trải nghiệm mới xảy ra, những khuôn mẫu mới xuất hiện lại đòi hỏi những giới hạn được xác định rõ. Thiết lập giới hạn không có ý nghĩa đơn thuần là biểu thị cho những hạn chế, mà nó giúp cho mối quan hệ hiện có trở nên đặc biệt khác với những quan hệ khác. Một mối quan hệ chỉ có thể là cái được hình thành thông qua sự trải nghiệm. Lấy ẩn dụ từ một con sứa biến hình, nó vẫn có một hình thù hạn chế đặc biệt để ta vẫn có thể nhận ra nó là con sứa dù nó biến hình. Con sứa vẫn phát triển trong hình thù giới hạn của một con sứa và chỉ có thể sử dụng khả năng của nó trong giới hạn cấu trúc đã được xác định riêng của nó.

Trong một mối quan hệ trị liệu, sự giới hạn sẽ cung cấp các ranh giới hoặc cấu trúc để bên trong đó diễn ra sự phát triển. Nhà trị liệu không biết truớc những giới hạn nào phải được xác định. Mỗi trải nghiệm đều là duy nhất. Mỗi đứa trẻ đều là duy nhất. Mỗi nhà trị trị liệu cũng duy nhất. Mỗi lần nhà trị liệu gặp trẻ cũng duy nhất. Nhà trị liệu, dù là một người rất chuẩn mực và mạnh mẽ, cũng là một con người đang trên đà phát triển. Mỗi mối quan hệ trị liệu và khuôn khổ của nó cũng có tính duy nhất. Những giới hạn đặt ra cho một đứa trẻ này có thể không cần đặt ra cho một đứa trẻ khác. Mỗi giới hạn đặt ra sẽ tùy thuộc vào bản chất sẵn có giữa hai cá nhân đang quan hệ. Sự giới hạn được đặt ra trong mối quan hệ trị liệu thì có tính hỗ trợ cho phát triển. Trong khi đó, những gò bó, ràng buộc do những cá nhân bên ngòai tình huống trị liệu, những tiêu chuẩn hay kỳ vọng định sẵn, những mục tiêu hay qui định bên ngòai... tất cả đều không phải là những giới hạn của trị liệu mà là những hạn chế, những trở ngại cho sự phát triển. Những hạn chế ấy không phát xuất từ những trải nghiệm sống thực, mà chỉ là những ý nghĩ trừu tượng, cách nhìn và cách nghĩ thuần lý.

Một cá nhân sẽ nghĩ “Tôi chỉ có thể tự do sống như một người đang phát triển, nếu tôi có thể thừa nhận con người tôi bên trong cái hình thức đã được giới hạn, cái hình thức xác định tôi là một con người độc nhất, và là nền tảng của sự trưởng thành và phát triển của riêng tôi”. Trong tâm lý trị liệu trẻ em, nhà trị liệu nên hạn chế đứa trẻ khi nó cố sức tấn công hoặc “trừng trị” ông ta về mặt thể xác. Lý do không chỉ bởi vì đứa trẻ thường cảm thấy khổ sở trong nội tâm khi nó đánh một người khác, bởi vì trẻ tấn công nhà trị liệu khi trẻ sỡ phải yêu thương ông ta, mà còn là vì nhà trị liệu phải là “một con người” vào chính thời điểm ấy. Nhà trị liệu không thể tiếp tục tồn tại, nếu ông ta không biểu hiện đau khi bị tấn công, nếu ông không chịu nỗi sự bực bội mà vẫn không nổi cáu. Nếu nhà trị liệu nhận ra việc giới hạn đứa trẻ tấn công ông như những sự kiện bình thường của một con người, lúc ấy ông vẫn tiếp tục quan hệ với đứa trẻ “như một con người”.

Giới hạn bị phá vỡ

Việc thiết lập những giới hạn có thể gây nên sự tranh chấp và bất hòa giữa trẻ và nhà trị liệu. Nhà trị liệu khi ấy vẫn phải ở đó, cùng chia sẻ trải nghiệm với trẻ. Có lẽ ông ta cũng đau khổ như trẻ và đồng thời phải biểu lộ sự trân trọng và yêu thương cơ bản với trẻ. Ngay cả khi trẻ muốn hủy diệt ông, ông vẫn phải đứng bên trẻ với cùng một mức độ tôn trọng trẻ, với cùng một quyết tâm giúp đỡ trẻ phát triển theo chiều hướng tích cực. Có khi nhà trị liệu phải đối diện đứa trẻ với tất cả tính phá họai của trẻ, phải trực tiếp với sự cuồng nộ chồng chất và những xung động gây hủy họai của trẻ, với sự hiểu biết để hỗ trợ và nâng đỡ trẻ trong khi vẫn giữ vững những đòi hỏi đã được đặt ra cho trẻ. Đuổi trẻ ra ngòai hoặc nhượng bộ nó thì dễ hơn là đâm đầu vào một cuộc hành trình không biết ra sao. Đáp ứng lại bằng những khuôn mẫu cũ thì “an toàn” hơn là thăm dò những tình cảm bất trắc hoặc đáp ứng bằng một thái độ theo chiều hướng nhân bản nhưng diễn biến thì lại kéo dài và khó kiểm nghiệm được. Tuy nhiên, có như thế thì mới có thể giúp đứa trẻ nhận thấy được từ bên trong nó có những tiềm năng là của chính nó, có những triển vọng cho một mối quan hệ tích cực, cho lòng yêu thương và sự dịu hiền, cho việc tự cứu xét và phát triển bản ngã của trẻ.

Thông qua những trải nghiệm sống được chia sẻ (dù những trải nghiệm này có mãnh liệt thế nào đi chăng nữa), những gốc rễ sâu xa nhất của một mối quan hệ sẽ được tạo lập; cả trẻ và nhà trị liệu sẽ phát triển nên các cấu trúc và phẩm chất cho bản ngã của họ. Nói một cách khác, sự chối từ của trẻ không chịu nhận một sự giới hạn trong mối quan hệ trị liệu là một điểm tối hậu trong trải nghiệm của nó, từ đó con đường chỉ còn một chiều để đi: trẻ chỉ còn một cách là tiến lên phía trước mà thôi.

Khi nhà trị liệu đặt ra giới hạn trong tâm lý trị liệu, thì đó là cách thể hiện một khía cạnh nào đó trong con người của ông, biểu hiện ông là ai vào thời khắc ấy. Đó là giới hạn do ông đặt ra, cái ranh giới của ông. Khi trẻ chấp nhận giới hạn này thì bắt đầu có sự ràng buộc được hình thành giữa họ với nhau. Khi đó, giới hạn này tạo thành cái khung (khuôn khổ) hay là cái ranh giới cho mối quan hệ giữa hai người. Đó là một thực tại nằm trong mối quan hệ, không phải là sự biểu hiện lạc lõng của nhân cách riêng của nhà trị liệu hay là của trẻ. Trẻ chuẩn nhận nhà trị liệu và cả hai người cùng nhau chấp nhận một cấu trúc qua đó mối quan hệ giữa hai bên có thể phát triển.

Khi trẻ chối bỏ hoặc phá bỏ ranh giới này thì đó không còn là thực tại của mối quan hệ nữa. Đó chỉ còn là cái giới hạn mà nhà trị liệu giữ lại một mình, nó không còn ý nghĩa sống động trong một mối quan hệ đặc biệt nữa. Đó là cái mẫu mực mà nhà trị liệu đã dựng lên nhưng không được chấp nhận, không được bổ khuyết, không tạo nên được một sự ràng buộc nào, không dựng nên được một cấu trúc nào. Nói cho đúng thì nhà trị liệu không còn biết mình là ai trong mối quan hệ ấy. Ông có thể rút lui, không tiếp sức nữa và từ chối không tham dự tiếp vào trong tiến trình quan hệ này nữa. Hoặc ông cũng có thể xem tình trạng này như là một cơ hội để đối diện lại với trẻ và tham gia vào sự trải nghiệm theo một tầm vóc mới.

Khi nhà trị liệu quyết định chấm dứt sự gặp mặt vì một giới hạn đã bị phá vỡ, ông ta sẽ không thấy được thế nào là sống với một đứa trẻ “từ chối không chịu bị chối bỏ”; ông sẽ không biết thế nào là nhập cuộc một cách trọn vẹn như là một con người vào một cuộc tranh chấp tình cảm và làm thế nào để đạt được một giải pháp tích cực.

Nhà trị liệu chấm dứt gặp mặt và “sa thải” đứa trẻ sẽ mất đi một dịp để ông có thể đối diện với một khía cạnh tối hệ trọng trong con người của chính ông: chối bỏ chính khả năng có thể học tập và phát triển. Ông không đủ khả năng để tiếp tục trực diện với đứa trẻ, sống với trẻ trong cái lúc khổ đau ghê gớm ấy. Ông xua đuổi nó, và như vậy là làm mất nó vào lúc nó cần được giúp đỡ nhất, khi mà lòng yêu thương, sự nâng đỡ và hiểu biết đứa trẻ là những gì đáng kể nhất mà ông cần phải có. Ông không có khả năng đưa sự khó khăn và tranh chấp này đi đến một giải pháp sáng tạo. Ông chối từ đứa trẻ và chờ mong trẻ trở lại trực diện với ông. Ông đòi hỏi trẻ phải đi bước đầu trong việc khôi phục mối quan hệ.

Có một cách khác: Giới hạn tuy đã bị phá vỡ nhưng đứa trẻ vẫn còn ở lại. Nhà trị liệu có thể thiết lập lại một giới hạn mới, và rồi thêm một giới hạn mới khác nữa nếu cần, cho đến khi thiết lập được một giới hạn tối thiểu cần thiết cho sự phát triển của một mối quan hệ tích cực.

Những tình huống này tạo nên một sự trải nghiệm đầy đủ, trọn vẹn và hệ trọng cho cả đôi bên, liên quan nhiều đến sự đấu tranh, chịu đựng và cả đau khổ, nhưng là một lọai trải nghiệm phát triển rõ rệt. Giới hạn không những là cần thiết vì chúng cung ứng các cấu trúc và hình thái mà trong đó bản ngã của các bên có thể được thăm dò, trẻ và nhà trị liệu có thể giáp mặt nhau như những con người toàn diện và cũng trải qua một cuộc tranh chấp đầy ý nghĩa, tạo nên những mối liên kết sâu xa với nhau và hình thành nên những cội rễ cho một mối quan hệ lành mạnh. 

Tiến trình trị liệu

Trong tình huống trị liệu, trẻ em dù là “rối lọan” hay “thích nghi” đều có khuynh hướng biểu hiện những thái độ tiêu cực cùng thể lọai trong trò chơi. Những thái độ đó phản ánh sự sợ hãi và tức giận đối với cha mẹ, anh chị em và những người có ý nghĩa trong đời sống của trẻ. Đôi khi trẻ biểu lộ những lo lắng về các lĩnh vực giữ vệ sinh, ngăn nắp, hoặc qua sự thóai triển về khả năng nói, suy nghĩ, ăn uống, giữ sạch sẽ và các tác phong vận động.

Trẻ “thích nghi” và trẻ “rối lọan” có khác biệt về mức độ thể hiện những thái độ tiêu cực. Ở trẻ thích nghi tốt, những thái độ tiêu cực được biểu lộ thưa hơn, cường độ nhẹ hơn và có trọng tâm, có chiều hướng rõ ràng hơn. Ở những trẻ rối loạn, những thái độ tiêu cực thường xảy ra hơn, cường độ mạnh mẽ hơn, ít có trọng tâm và chiều hướng rõ ràng. Khi những tình cảm được biểu lộ một cách gián tiếp và tản mạn, thì sẽ ít có sự giải tỏa, ít có sự mãn nguyện và những cảm xúc vẫn sẽ tiếp tục lớn lên bên trong con người của trẻ.

Trẻ rối loạn thường bị suy yếu về khả năng tăng trưởng của bản ngã. Ở một điểm nào đó trên con đường phát triển, trẻ bắt đầu trở nên nghi ngờ về năng lực phát triển bản ngã của mình. Lòng tin tưởng vào bản thân và khả năng dựa vào chính mình đã bị sói mòn. Trẻ không còn tin ở mình và ở người khác nữa. Trẻ cũng không còn khả năng có thể lớn lên cùng các trải nghiệm.

Trẻ rối lọan thường bị kích động bởi những cảm xúc giận dữ và sợ hãi không thể phân biệt được và cũng không có trọng điểm. Tác phong của trẻ cũng có thể biểu hiện những tình cảm thù địch đối với tất cả mọi người và với tất cả mọi việc. Hoặc sự biểu lộ chính của trẻ có thể là một thái độ giận dữ đã được “phổ quát hóa”. Nếu sự thù địch được bộc lộ công khai trong tác phong của trẻ, thì nhiều khả năng là có một nỗi lo âu đang rất mạnh mẽ ở bên trong và từ đó ảnh hưởng đáng kể lên trên tác phong của trẻ. Còn khi lo âu là sự bộc lộ chính yếu và công khai ra bên ngòai, thì sự thù địch thường là điều đang nằm ẩn bên dưới và ảnh hưởng đến tác phong của trẻ.

Trẻ rối loạn chỉ có thể tự vệ bằng cái vẻ bề ngoài và thiếu khả năng phát triển những tiềm năng bên trong. Trẻ không tìm thấy cách thức nào để mình có thể phát triển, dù rằng ở bên trong vẫn luôn hiện diện những động lực phát triển và có thể tìm được cách biểu lộ thông qua những mối quan hệ tích cực với con người. Trẻ rối lọan thường mất đi con đường dẫn đến bản ngã thật của trẻ. Trẻ không biết mình là ai và có thể làm được gì. Chính sự đánh mất bản ngã này là niềm đau khổ căn bản của trẻ.

Qua việc thăm dò những tình cảm và thái độ của trẻ trong mối quan hệ riêng tư sâu sắc của tình huống trị liệu, trẻ rối loạn có thể dần dần nhận thấy được cái ý niệm về sự đáng giá của mình. Khi cảm xúc của trẻ được chấp nhận, trẻ sẽ được giải thoát khỏi những tác động tai hại của sự thù địch và lo âu của chính mình, rồi dần dần khôi phục bản thân mình như một cá nhân độc nhất.

Trong mối quan hệ trị liệu, nhà trị liệu truyền cho trẻ một lòng tin sâu xa của ông vào đứa trẻ như một con người và tin vào tiềm năng lớn mạnh của trẻ. Ông tôn trọng những giá trị, những cung cách, những đặc thù và những biểu tượng của trẻ, đồng thời ông cũng cho trẻ biết rằng tất cả những điều này đều có giá trị bởi vì chúng là những thành phần của đứa trẻ. Mối quan hệ trị liệu giúp trẻ có thể thăm dò những mức độ, ảnh hưởng và ý nghĩa của các cảm xúc tiêu cực đã bị phổ quát hóa của trẻ. Những thái độ này ban đầu trẻ đã “học” được từ những trải nghiệm sống khi còn nhỏ sống với bố mẹ và những người lớn có ảnh hưởng khác. Những thái độ ấy giờ đây có thể được biến cải trong một thể lọai quan hệ rất khác biệt, trong đó trẻ tìm lại được sức mạnh riêng của mình, trải nghiệm được cái ý nghĩa của bản ngã và có khá năng phát huy những năng lực của bản thân.

Trong phòng chơi, trẻ rối loạn được để đối diện với chính mình, trong ý nghĩa là trẻ phải lưu tâm với những tình cảm thật của chính mình. Trẻ thường bộc lộ những nỗi sợ hãi, hờn giận hoặc sự ấu trĩ của trẻ mà không hướng rõ rệt những tình cảm này vào một người hay một hòan cảnh cụ thể nào cả. Trẻ có thể sợ hãi toàn diện hoặc giận dữ đến nỗi nó muốn hủy diệt tất cả mọi người. Trẻ có thể thích được bỏ mặc một mình hoặc có thể muốn lùi về những mức độ phát triển đơn giản hơn, ít thách thức hơn. Trẻ có thể biểu lộ tình cảm bằng những cuộc tấn công trực tiếp vào những đồ chơi, bằng việc đập phá, nghiền giã, đập vỡ, xé nát, dí nát một món đồ, và bằng nhiều cách khác nữa...

Khi mối quan hệ giữa trẻ và nhà trị liệu đã tiến triển, những tình cảm sâu xa hơn dần dần được thể hiện sắc nét hơn, rõ rệt hơn. Sự giận dữ được  biểu lộ trực tiếp hơn, và thường qui về một người hoặc một trải nghiệm cụ thể hơn. Hành vi có tính hủy họai có thể vẫn còn biểu lộ. Những người thân trong gia đình có thể bị trẻ tấn công trực tiếp hoặc trẻ thực hiện việc đó gián tiếp qua những hình tượng đồ chơi, hoặc trẻ cũng có thể trực tiếp nói ra điều này. Bất kỳ ai, kể cả nhà trị liệu, cũng có thể bị tấn công, đe dọa hoặc hủy họai trong nội dung chơi và thông qua đồ chơi của trẻ. Khi trẻ biểu lộ mạnh mẽ những tình cảm theo cách như thế, trẻ vẫn được nhà trị liệu chấp nhận. Dần dần những tình cảm giảm bớt về cường độ và trở nên ít ảnh hưởng hơn đến các trải nghiệm sống của trẻ. Rồi trẻ bắt đầu cảm nhận về mình là một con người xứng đáng.

Một giai đoạn mới đã bắt đầu trong tiến trình trị liệu. Trẻ không hoàn toàn chỉ biểu lộ thái độ tiêu cực nữa. Trẻ có thể biểu lộ sự mâu thuẫn với những người nào đó trong cuộc đời mình. Sự giận hờn đối với một đứa em trai hoặc em gái có thể sẽ thay đổi. Trong khi chơi, trẻ có thể xen lẫn việc cho ăn và chăm sóc em bé với việc thỉnh thoảng vẫn đánh đập hay ngược đãi em bé theo những cách thức khác. Những phản ứng mâu thuẫn này có thể có cường độ mạnh lúc đầu, nhưng sẽ dịu dần đi khi được biểu lộ lập đi lập lại nhiều lần trong tiến trình trị liệu.

Vào giai đoạn sau cùng của tiến trình, những tình cảm tích cực bắt đầu nổi lên. Lúc này, trẻ tự thấy mình và những mối quan hệ của mình với người khác trở nên rõ ràng và xác thực hơn. Có thể vẫn còn những lúc trẻ cảm thấy ghét cay ghét đắng đứa em nhỏ của mình, nhưng không còn lúc nào cũng một mực ghét em chỉ bởi vì nó là một đứa bé. Một bé gái bốn tuổi nói vào giai đoạn cuối của tiến trình trị liệu: “Cháu sẽ mở một bữa tiệc lớn và mời hết mọi người, mời luôn cả thằng em trai của cháu nữa”...

Những thay đổi tương tự trong sự biểu hiện lo âu cũng diễn ra. Khi bắt đầu trị liệu, sự lo âu có thể tản mạn. Trẻ thường biểu lộ sự lén lút, khiếp sợ, căng thẳng hoặc nói nhiều, hoặc rất bối rối khi phải giữ gìn vệ sinh, gọn gàng, ngăn nắp... Thái độ lo âu có thể lấn át đến nỗi trẻ bị “bất động hóa” và mất khả để có thể khởi sự hoặc hoàn tất một công việc nào đó, thậm chí mất cả khả năng suy nghĩ sáng suốt và giải quyết tình huống trong khi chơi. Trẻ dường như không biết làm thế nào để bắt đầu làm điều mà trẻ thực sự muốn. Sự lo âu có thể biểu lộ dưới dạng lo sợ về đêm, hoặc lo sợ quá mức đối với những con vật hoặc đồ vật nào đó. Ở giai đoạn đầu của tiến trình trị liệu, sự lo âu dường như choán át tác phong của trẻ. Ở mức độ kế tiếp nó sẽ có những đường nét đặc biệt hơn. Sự sợ hãi về một người cha, người mẹ hay một người cụ thể nào khác có thể biểu lộ mãi. Rồi sau đó nó xuất hiện với thái độ thù địch tản mạn. Rồi sự lo âu được thay thế dần bởi những tình cảm tích cực hơn, liên quan đến sự tin tưởng và lòng can đảm, mặc dù trẻ vẫn còn những chao đảo giữa lòng tin và sự ngờ vực. Sau cùng những sự sợ hãi được tách biệt ra đối với những con người cụ thể và những tình huống đúng thực tại hơn. Sắc thái tình cảm chuyển từ tiêu cực sang trạng thái ôn tồn, hòa dịu hơn.

Những vấn đề và triệu chứng của trẻ là sự phản ánh những thái độ cảm xúc của trẻ, vì khi những thái độ này thay đổi, các vấn đề và triệu chứng của trẻ sẽ biến mất. Tiến trình trị liệu không diễn ra một cách tự động trong một tình huống chơi. Nó chỉ có thể có được trong một mối quan hệ trị liệu mà qua đó nhà trị liệu đáp ứng bằng sự rung động không ngừng trước những tình cảm của đứa trẻ, chấp nhận những thái độ của trẻ và truyền sang cho trẻ một lòng tin tưởng chân thành, bền vững và một lòng tôn trọng đối với đứa trẻ.

Thông qua mối quan hệ có ý nghĩa trong tiến trình tâm lý trị liệu, trẻ bị rối loạn sẽ trải qua một tiến trình phát triển về cảm xúc. Đi từ việc biểu lộ những tình cảm tiêu cực đã bị tổng quát hóa và tản mạn, cản trở trẻ không phát huy được những tiềm năng như một con người, cho đến việc biểu lộ ra những thái độ tình cảm tích cực và tiêu cực được phân định rõ rệt, khiến trẻ cảm thấy mình có giá trị, xứng đáng đúng theo tài năng và khả năng thật của trẻ. Với năng lực bản ngã sẵn có và sự quý trọng bản ngã đã được hồi phục, trẻ sẽ tiến vào những trải nghiệm mới, tìm thấy được những ý nghĩa mới và những giá trị mới trong các mối quan hệ giữa trẻ với những người khác.

TỔNG QUAN VỀ GIA ĐÌNH VÀ TRỊ LIỆU HỆ THỐNG

BS NGUYỄN MINH TIẾN 

Cử nhân tâm lý PHẠM THỊ THANH NHÀN  

MỘT CÁI NHÌN VỀ GIA ĐÌNH NHƯ MỘT HỆ THỐNG

Khái niệm về gia đình.

Khái niệm về gia đình có rất nhiều định nghĩa khác nhau, sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một số định nghĩa chính.

+ Theo từ điển Việt Nam (Đào Văn Tập): Gia đình chỉ mọi người quen thuộc trong gia đình.

+ Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê: Gia đình là tập hợp những người cùng chung sống thành đơn vị nhỏ nhất trong xã hội. Họ gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân cùng dòng máu, thường là gồm vợ chồng cha mẹ và con cái.

+ Theo từ điển Tâm lý của BS.Nguyễn Khắc Viện: Gia đình gồm bố mẹ con và có hay không một số người khác cùng chung sống trong một nhà.

+Theo Littré: Gia đình là một tập hợp người có cùng huyết thống, sống chung trong một nhà và chủ yếu là gồm cha mẹ và con cái.

+ Theo ý kiến của nhà sử học – nhân chủng học, Louis Henry Morgan (1818 – 1881). Gia đình là một cơ cấu năng động, nó không bao giờ đứng yên một chỗ mà chuyển từ hình thức thấp lên hình thức cao, khi xã hội phát triển từ một giai đoạn thấp sang một giai đoạn cao hơn.

Tuy nhiên, trong bài viết này thì khái niệm về gia đình được định nghĩa như sau: Theo truyền thống, gia đình được định nghĩa như là một nhóm người, có cùng quan hệ dòng máu hoặc cùng huyết thống và cùng cư trú. Định nghĩa này được mở rộng bao gồm những người có cùng cảm nhận về một gia đình tương lai, hoà hợp bởi hôn nhân, dòng máu, cư trú và người làm con nuôi.

Nói chung, sự kết hợp các thành viên trong một gia đình có thể do hai yếu tố chính:

(1) Những người cùng huyết thống (cha mẹ–con cái, ông bà–cháu, anh chị em ruột …).

(2) Yếu tố luật định (kết hôn, nuôi con…). Một số gia đình được tạo lập không tuân theo cách thức truyền thống hoặc không được luật pháp hoặc đạo đức xã hội thừa nhận (ví dụ sống chung không hôn thú, hôn nhân giữa những người đồng tính…).

Khái niệm về hệ thống.

Học thuyết hệ thống được bắt nguồn và vận dụng trong nhiều lĩnh vực, cơ khí hay tin học, sinh học hay kinh tế xã hội. Một hệ thống được định nghĩa là một tổng thể phức hợp gồm nhiều yếu tố liên quan với nhau.Và mỗi biến động trong một yếu tố nào đó đều tác động lên những yếu tố khác và cũng có thể tác động lên toàn bộ hệ thống. Một hệ thống gồm nhiều tiểu hệ thống, đồng thời lại là một bộ phận của một hệ thống khác lớn hơn. Có những hệ thống khép kín, không trao đổi với xung quanh và cũng có những hệ thống mở. Hệ thống khép kín chỉ gặp trong ngành vật lý, còn các hệ thống sinh học hay xã hội đa phần là hệ thống mở.

Một hệ thống không chỉ là một tập hợp gồm nhiều bộ phận khác nhau, mà là một tổng thể có những đặc tính không hoàn toàn do những đặc trưng của các bộ phận khác cộng lại

.

Mối liên quan ở đây không phải đơn tuyến một chiều, mà các yếu tố tác động lẫn nhau theo những mối liên quan chằng chịt đặc biệt là mối liên hệ tác động qua lại theo mạch phản hồi (feedbackrétroaction). Sơ đồ nhân quả đơn tuyến (linear causality) theo đường thẳng A 

[

 B 

[

  C được thay thế bằng sơ đồ nhân quả xoay vòng (circular causality).

A

 

B  C

Những tác động qua lại giữa các bộ phận tạo ra một thế nhất định. Mỗi sự kiện gây ra một tác động đồng thời cũng gây ra những phản ứng ngược lại tạo ra xu thế lập lại trạng thái cân bằng nội tại (homeostasis). Tuy nhiên mọi hệ thống lành mạnh vẫn giữ được bản sắc trong lúc tạo ra những thay đổi cơ cấu để thích nghi với những biến động của môi trường.

Có những hệ thống linh hoạt có khả năng điều chỉnh những mối quan hệ bên trong và bên ngoài một cách dễ dàng để tồn tại lâu dài. Có những hệ thống cứng nhắc khi gặp biến động mạnh trong môi trường thì không giữ được cân bằng dễ bị tan rã.

Hệ thống nào cũng có một bờ rào, một đường biên giới phân cách với môi trường chung quanh, có qui định đầu vào và đầu ra, cụ thể hoá mối liên quan giữa hệ thống và môi trường, đồng thời được bố cục theo những cơ cấu và hoạt động theo cơ chế nhất định.

Những hệ thống khép kín sẽ mất dần năng lượng dẫn tới tiêu vong (entropie), còn những hệ thống mở có khả năng tiếp nhận năng lượng từ bên ngoài tồn tại lâu dài. Nhờ có sự liên quan với nhau mà những hệ thống tồn tại được nhưng cũng vì vậy gây ra rối loạn cho nó.

Theo phương pháp Decartes cần phân chia những sự vật phức tạp thành những yếu tố đơn giản. Còn trong quan điểm hệ thống lại cần nhìn thấy hết tính phức tạp của sự vật.

Khái niệm gia đình như một hệ thống

Gia đình như một hệ thống mở, gồm nhiều thành viên với những mối liên hệ qua lại chằng chịt. Những tác động qua lại này nhằm duy trì sự cân bằng của hệ thống gia đình. Trong nội bộ gia đình, những mối tình cảm, lòng ham, xung năng, và quan hệ uy quyền tạo ra những luồng thông tin truyền dẫn giữa những thành viên. Mỗi gia đình tạo ra một mối liên quan riêng tuỳ thuộc vào văn hóa xã hội, lịch sử và những tính chất riêng của gia đình đó.

Những mối liên quan này có thể linh hoạt hoặc cứng nhắc giữa các thành viên với nhau, giữa các tiểu hệ thống bên trong gia đình, và giữa gia đình với các hệ thống lớn hơn bên ngoài (làng xóm, phố phường…) mà ranh giới giữa gia đình và bên ngoài có thể bịt kín hay mở rộng.

Gia đình là một giao diện (interface) giữa cá nhân và xã hội, là một thể chế thiết yếu làm trung gian giữa mục tiêu sinh lý và văn hoá xã hội trong sự hình thành nhân cách. Ranh giới giữa các thành viên với nhau cũng như giữa gia đình và môi trường chung quanh là một vấn đề rất quan trọng. Bản thân cơ cấu gia đình không phức tạp lắm, nhưng mỗi thành viên là một tiểu hệ phức tạp, và phức tạp hơn nữa là một hệ thống lớn xã hội xung quanh.

Sự ảnh hưởng lẫn nhau trong gia đình đi theo một vòng cung phản hồi của mối quan hệ nhân quả mà trong đó những sự kiện đơn lẻ được quan niệm vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả, và có sự tác động hỗ tương giữa các sự kiện với nhau.

Gia đình bao gồm nhiều tiểu hệ thống phụ thuộc lẫn nhau, mỗi tiểu hệ thống thực hiện những chức năng đặc biệt để duy trì bản thân tiểu hệ thống và bảo vệ duy trì cả hệ thống như một tổng thể.

Mỗi cá nhân cũng là một tiểu hệ thống bên trong gia đình. Cá nhân có liên hệ về mặt chức năng và thứ bậc với các tiểu hệ thống và các cá nhân thành viên khác trong gia đình. Tiểu hệ thống có thể được thành lập dựa trên các thứ bậc (như vợ chồng, anh chị em…), hoặc theo chức năng (cha mẹ, ông bà, con cái...), hoặc theo phái tính (mẹ và các con gái…).

Đến luợt gia đình cũng là một tiểu hệ thống, khi mở rộng giao tiếp với thế giới bên ngoài.

Các tiểu hệ thống được phân chia bằng những đường biên giới. Đường biên giới bảo vệ tiểu hệ thống và cho phép tác động qua lại giữa những tiểu hệ thống.

Đường biên giới có thể lỏng lẻo hoặc cứng nhắc (mở rộng hoặc khép kín) và thích nghi với thay đổi cần thiết của hệ thống gia đình. Bệnh lý thích nghi xuất hiện nếu đường biên giới quá cứng nhắc không cho phép giao tiếp thích hợp giữa hai tiểu hệ hoặc đường biên giới quá lỏng lẻo khiến có sự dính chặt, hoà lẫn chức năng giữa các tiểu hệ thống.

Gia đình lành mạnh cần có những đường biên giới uyển chuyển giữa các cá nhân thành viên và các tiểu hệ, vừa không quá cứng nhắc để có thể duy trì chức năng trao đổi, gắn bó giữa các thành viên, vừa không quá lỏng lẻo để duy trì sự độc lập, trưởng thành của từng thành viên. Hệ thống gia đình có những qui luật, những nguyên tắc cho phép thực hiện những nhiệm vụ trong cuộc sống hằng ngày và duy trì cấu trúc của nó. Một vài qui luật được công khai và không giấu diếm nhưng trái lại những qui luật khác là không được bộc lộ công khai (qui luật ngấm ngầm).

Gia đình lành mạnh có những qui luật kiên định, được nêu rõ và có thể uyển chuyển thích nghi với sự thay đổi. Mỗi thành viên trong gia đình có một số vai trò, mà vai trò này liên kết các vị thế và chức năng của người ấy trong gia đình.

Vai trò có thể theo vị trí, thứ bậc trong gia đình như: bố mẹ, con cái, anh chị em … Vai trò có thể theo chức năng mà thành viên đảm nhận như nạn nhân (victim), người chịu tội thay (scapegoat), hoặc thánh tử đạo (martyr), v.v...

Theo quan điểm hệ thống tất cả những hành vi (ví dụ: vai trò, những triệu chứng và những hình thức giao tiếp) đều có một ý nghĩa. Ví dụ một người kém thích nghi có thể tác động để giữ gia đình được cân bằng. Đặc biệt một người ở tuổi vị thành niên rối loạn trong vấn đề ăn uống có thể ngày càng dẫn đến việc gia đình quan tâm những khó khăn mà thiếu niên đó đang gặp phải. Rối loạn ăn uống có thể là chỉ báo cho thấy quá trình cá biệt hoá kém.

Sự phát triển của gia đình (family development)

Sự phát triển gia đình liên quan đến sự trưởng thành của các thành viên trong gia đình, thay đổi cấu trúc nhiệm vụ và quá trình tác động qua lại của đơn vị gia đình với bên ngoài, hỗ trợ việc liên kết những tiểu hệ thống.

Chu trình đời sống gia đình trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một tính chất khác nhau. Các giai đoạn phát triển của gia đình có được vượt qua một cách thành công hay không là phụ thuộc vào hiệu lực phát triển gia đình thông qua việc điều chỉnh nhiệm vụ của các thành viên trong gia đình phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Các biến cố đột xuất và thời điểm chuyển tiếp giữa các giai đoạn phát triển có tính thách thức cao đối với khả năng thích nghi của gia đình.

Betty Carter và Monica Mc Goldrick (1988) đã mô tả sáu giai đoạn trong chu trình đời sống gia đình như sau:

Giai đoạn 1: Cá nhân trưởng thành, rời khỏi gia đình gốc

Nguyên lý cơ bản trong quá trình chuyển tiếp:

 Cá nhân đó dần dần có được các trách nhiệm đối với bản thân.

Các thay đổi:

+ Cá biệt hoá chủ thể từ gia đình gốc.

+ Phát triển mối quan hệ với người đồng trang lứa.

+ Trở nên độc lập về tài chính và quyết định công việc.

Giai đoạn 2: Lập gia đình

Nguyên lý chuyển tiếp:

 Tham gia tạo lập một hệ thống mới.

Các thay đổi:

+ Có gia đình riêng.

+ Sắp xếp mối quan hệ với hai họ và với người ngoài (có xem xét tương quan với người đồng hôn phối).

Giai đoạn 3: Gia đình có con nhỏ

Nguyên lý chuyển tiếp:

 Chấp nhận những thành viên mới xuất hiện trong hệ thống.

Các thay đổi:

+ Điều chỉnh hệ thống sao cho có “chỗ” dành cho sự chăm sóc con cái.

+ Đảm đương các công việc gia đình, kiếm tiền, nuôi con.

+ Sắp xếp lại các chức năng, vai trò đối với gia đình hai họ (bao gồm ông bà nội, ngoại).

Giai đoạn 4: Gia đình có con vị thành niên (thiếu niên)

Nguyên lý chuyển tiếp:

 Ranh giới gia đình cần uyển chuyển, chấp nhận dần tính độc lập của các con và thực trạng sức khoẻ yếu kém của ông bà.

Các thay đổi:

+ Cho phép đứa con vị thành niên độc lập hơn. Hệ thống gia đình cũng “mở” hơn ra thế giới bên ngoài khi đứa con vị thành niên “đi đi, về về”.

+ Vợ chồng có thể quan tâm trở lại đối vơi nhau và với công việc của mình.

+ Chia sẻ trách nhiệm chăm sóc sức khỏe ông bà nội ngoại.

Giai đoạn 5: Gia đình có con trưởng thành

Nguyên lý chuyển tiếp:

 Chấp nhận những thay đổi lớn trong cơ cấu gia đình, có những người rời đi và có những người mới tiếp nhận vào hệ thống.

Các thay đổi:

+ Tái sắp xếp lại đời sống vợ chồng khi các con đã lớn.

+ Đối xử với con cái như những người lớn với nhau.

+ Sắp xếp lại các mối quan hệ bao gồm cả việc trở thành thông gia, ông bà, v.v…

+ Đối đầu với sức khoẻ kém hoặc cái chết của ông bà nội, ngoại.

Giai đoạn 6: Gia đình lúc cuối đời (later life)

Nguyên lý chuyển tiếp:

 Chấp nhận sự chuyển đổi vai trò của các thế hệ.

Các thay đổi:

+ Sức khoẻ bản thân giảm sút.

+ Hỗ trợ cho thế hệ con trẻ.

+ Có vị trí trong hệ thống dành cho người cao tuổi, truyền lại hiểu biết và kinh nghiệm cho thế hệ sau ( mà không làm thay chức năng con cháu).

+ Đối diện với cái chết của bạn đời, bạn bè, chuẩn bị cho cái chết của chính mình.

+ Nghiệm lại chuyện đời …

Khái niệm về chức năng gia đình lành mạnh (normal family functioning)

Wamboldt và Reiss (1991) đã đặt câu hỏi: Khi một thành viên trong gia đình có triệu chứng thì gia đình đó có được miêu tả là gia đình lành mạnh hay không? Ngược lại, một cá nhân có thể đánh giá là lành mạnh nếu cô ấy hoặc anh ấy trưởng thành trong một gia đình bệnh lý không, trừ khi đó là bệnh lý về sự thích nghi?

Sự lành mạnh gia đình có thể được đánh giá dựa trên các yếu tố: không có triệu chứng rối loạn chức năng được vận hành tốt và gia đình thích ứng được với sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội.

Một vài tác giả khác (tiêu biểu như Satir và Baldwin, 1983) mô tả gia đình lành mạnh là bao gồm những cá nhân lành mạnh. Sự lành mạnh có thể thấy được qua các bình diện sức khoẻ thể chất, tinh thần, bối cảnh sống, dinh dưỡng, cảm xúc, trí năng và các mối quan hệ. Các thành tố chức năng ấy ở mỗi thành viên lại tạo nên cảm nhận về bản thân của riêng người ấy. Và tất cả những cảm nhận về bản thân của các thành viên sẻ góp phần tạo nên sự lành mạnh chung cho cả hệ thống gia đình.

Những gia đình tốt nhất thường là gia đình có sự gắn bó, rõ ràng và có cấu trúc linh hoạt (flexible). Đường biên giới các thế hệ và cá nhân là có sự trao đổi qua lại để hiểu nhau, thừa nhận một cảm giác gần gũi và chung sống với nhau lâu dài nhưng vẫn thể hiện được sự tôn trọng tính riêng tư của cá nhân và tiểu hệ thống.

Sự lành mạnh gia đình khuyến khích sự tự chủ cho tất cả những thành viên ở độ tuổi thích hợp. Gia đình lành mạnh thích nghi với cấu trúc bên trong của họ, vai trò mối quan hệ và những qui tắc phản ứng đối với tình huống, phát triển những yêu cầu và những thông tin mới từ môi trường.

Một khả năng thứ bậc rõ ràng tồn tại giữa tiểu hệ thống bố mẹ và con cái. Việc điều khiển uy quyền đến tất cả các thành viên trong gia đình một cách rõ ràng. Trong phạm vi truyền đạt, gia đình lành mạnh truyền đạt rõ ràng và có hiệu quả về cảm nghĩ của họ, thích hợp với điệu bộ tự nhiên và thái độ cảm xúc đang diễn đạt, không có các thông tin “nhập nhằng – nước đôi” (double-bind).

Khái niệm về gia đình bệnh lý (pathological or dysfunctional family)

Gia đình bệnh lý có tính chất không linh hoạt và không có khả năng thích nghi trước sự phản ứng của môi trường, hoặc tình huống yêu cầu sự thay đổi.

Những gia đình này có khuynh hướng không phân hoá, có đường biên giới không tốt, thất bại trong việc hỗ trợ phát triển sự lành mạnh cho mỗi cá nhân và thiết lập sự tin cậy trong mối quan hệ. Gia đình bệnh lý không linh hoạt, được định nghĩa là cấu trúc có khả năng không tốt, có sự giao tiếp yếu kém (tiêu biểu đó là sự giao tiếp không nhất quán), không có khả năng thương lượng và giải quyết vấn đề, cảm xúc được thể hiện bằng những cách thức tiêu cực, thiếu quan tâm và chăm sóc.

Theo Obson và những cộng sự (1983), khả năng thích nghi của gia đình có liên quan với chức năng hệ thống gia đình linh hoạt và có khả năng thay đổi. Nó còn có khả năng cấu trúc vai trò mối quan hệ và những qui tắc phản ứng trước tình huống và phát triển những yêu cầu. Ngược lại gia đình không lành mạnh thì bám vào các thông lệ cứng nhắc và không có khả năng thay đổi linh hoạt.

GIỚI THIỆU MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI TRỊ LIỆU HỆ THỐNG

Có rất nhiều trường phái trong quan điểm hệ thống, tuy nhiên trong khoá luận này chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh đến quan điểm của ba tác giả đó là: Salvador Minuchin, Murray Bowen và Ivan Boszormenyi – Nagy.

Liệu pháp Bối cảnh - Xuyên thế hệ (Intergenerational–Contextual Family Therapy)

Liệu pháp này gắn với tên tuổi của Ivan Boszormenyi – Nagy và các tác giả khác như Sperk, Grunebaum và Ulrich, là sự phát triển của trị liệu gia đình theo định hướng phân tâm học.

Liệu pháp này nhấn mạnh đến các cơ chế động năng cả trong nội tâm cá nhân lẫn trong mối quan hệ liên cá nhân, và trong khi đã nhấn mạnh đến những gì đã xảy ra trong quá khứ nó vẫn chú tâm xem xét những vấn đề trong hiện tại.

Liệu pháp này được vận dụng trong một khung đạo đức–hiện sinh (ethical–existential framework) và xem gia đình gốc là trung tâm.

Nagy và Geraldine Spark ( 1973), đưa ra các khái niệm như “di sản” (legacy), “lòng trung thành”(loyalty), sự “hàm ơn” hay “mắc nợ” (indebtness) của một người đối với gia đình gốc của mình.

Tính trung thành là tất cả những kỳ vọng được đặt ra để các thành viên trong gia đình phải cam kết làm theo. Về cơ bản, lòng trung thành là nhằm mục đích duy trì sự tồn tại của gia đình hơn là giúp cho sự cá biệt hoá chủ thể (self-diffrentiation).

Mỗi thành viên trong gia đình đều có một “quyển sổ ghi công và nợ” (ledger of merits and debts) - Đây là cách nói có tính ẩn dụ, trong đó “công” ám chỉ sự đầu tư vào các mối quan hệ, còn “nợ” có ý nói về những nghĩa vụ của thành viên đó. Nội dung của “cuốn sổ ghi” này thay đổi tuỳ theo người này đang đầu tư (anh ta có hỗ trợ, giúp đỡ ai khác không?) hay anh ta đang “rút tiền lời” ()1 (tức là đang khai thác lợi ích từ người khác). Khi có sự bất công xảy ra, sẽ xuất hiện việc “thanh toán công nợ về mặt tâm lý” (repayment of psychological debts). Ngoài ra mỗi thành viên còn lưu giữ sổ ghi công nợ của cả gia đình, một “hệ thống tài khoản xuyên thế hệ” (multi-generational accounting system) trong đó ghi rõ “ai vay mượn cái gì từ ai?”.

Các nghĩa vụ bắt nguồn từ các thế hệ trong quá khứ đang ngấm ngầm ảnh hưởng đến hành vi của các thành viên trong gia đình ở hiện tại (sự trung thành vô hình: invisible loyalty). Việc rối loạn chức năng gia đình xảy ra khi các cá nhân thành viên hoặc cả gia đình cảm thấy rằng lâu nay họ đã làm sai lệch cán cân công nợ mà việc sai lệch này đã không có cách giải quyết. Việc này làm giảm mức độ tin cậy lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, dẫn đến việc những thành viên nào thấy mình bị mất mát nhiều sẽ phản ứng như mình có quyền được phá hoại hoặc cảm thấy như mình mắc nợ quá nhiều, hoặc khi đó trong gia đình sẽ xuất hiện một thành viên bị nêu danh để chịu gán tội: “một bệnh nhân chỉ định” (identified patient ).

Vì thế muốn hiểu được căn nguyên, chức năng, và điều kiện duy trì triệu chứng của một cá nhân thành viên, chúng ta phải xem xét lịch sử diễn biến của vấn đề, “sổ ghi công nợ của gia đình” và những “ tài khoản cá nhân chưa được thanh toán”.

Cấu trúc cơ bản của liệu pháp.

Liệu pháp bối cảnh - xuyên thế hệ là loại liệu pháp được thực hiện tập trung và lâu dài cho các cá nhân và gia đình, bao gồm cả những phiên trị liệu đa thế hệ. Tốt nhất là được thực hiện bởi một nhóm những nhà trị liệu để tái lập lại một khuôn mẫu vận hành cân bằng trong gia đình, trong đó những cá nhân này hỗ trợ cho những cá nhân khác. Nhà trị liệu khuyến khích từng thành viên tự bộc lộ bản thân và củng cố giá trị của từng cá nhân.

Xác định mục tiêu

Các mục tiêu trị liệu của liệu pháp này có tính phổ quát, chứ không tuỳ thuộc vào những đặc trưng riêng biệt của từng gia đình. Nhà trị liệu nhắm đến việc nêu ra những qui luật về tính trung thành còn đang ẩn khuất, ngấm ngầm bên trong gia đình; phát hiện những “tài khoản cá nhân và gia đình chưa được thanh toán”, tái lập lại sự cân bằng về mặt nghĩa vụ trong thực tế (tiến trình tái kết nối: rejunction process) nhằm phục hồi lại những quan hệ bị gãy đổ, bị lệch lạc, phát triển những cách thức quan hệ có tính thích nghi hơn, và cân đối lại cán cân cho – nhận giữa các thành viên bên trong gia đình. Trị liệu cũng giúp xây dựng một kế hoạch dự phòng cho các vấn đề tương tự sẽ xảy ra ngay trong hiện tại cũng như trong các thế hệ tương lai. Mặc dù việc làm mất đi triệu chứng và giảm đi sự đau khổ vẫn là mục tiêu quan trọng tức thời của việc trị liệu, nhưng mục đích bao quát của liệu pháp vẫn là nhằm giúp các cá nhân trong gia đình có được sự phân định rõ rệt giữa “kỷ” và “tha” (self–object delineation) và tham gia có trách nhiệm hơn vào các mối quan hệ trong gia đình.

Liệu pháp Gia đình gốc (Family–of–Origin Family Therapy)

Liệu pháp còn có tên gọi là liệu pháp Đa thế hệ (multigenerational therapy) do Murray Bowen đề xướng; cũng là một nhánh phát triển từ liệu pháp gia đình theo định hướng phân tâm. Tương tự như Nagy, liệu pháp của Bowen cũng nhấn mạnh vào các yếu tố động lực học của nội tâm và quan hệ liên cá nhân (intrapsychic and interpersonal dynamics). Tuy nhiên, liệu pháp gia đình gốc chủ yếu tập trung vào động năng gia đình trong quá khứ. Gia đình gốc là đơn vị trung tâm của cách tiếp cận này.

Theo Bowen (1978), gia đình là một hệ thống các mối quan hệ về cảm xúc. Sự rối loạn chức năng phát sinh khi các cá nhân bị mắc mứu vào gia đình gốc của mình, khiến bản thân người này không thể khẳng định được cảm xúc và ý kiến của riêng mình và/ hoặc khiến anh ta không có khả năng đối phó hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề trong đời sống của mình.

Khái niệm then chốt trong học thuyết này là sự cá biệt hoá chủ thể (self-differentiation): Đó là khả năng của một cá nhân có thể biệt định hoá các chức năng cảm xúc và trí năng của mình. Nếu tiến trình cá biệt hoá tốt, cá nhân đó sẽ có chức năng cảm xúc và trí năng tương đối độc lập, một người như thế có khả năng hài lòng với các mối quan hệ xã hội và tự lựa chọn các mục đích sống của đời mình.

Những cá nhân lành mạnh không “đầu tư quá mức” đến nổi mắc mứu vào các mối quan hệ cảm xúc trong gia đình gốc và cũng không cắt đứt hoặc không phủ nhận tầm quan trọng của các mối quan hệ này.

Trái ngược lại, có những cá nhân “ cá biệt hoá” kém, họ bị lẫn lộn giữa các chức năng cảm xúc và trí năng hoặc có sự tạo lập một “khối những cái tôi cá biệt hoá kém trong gia đình” (undifferentiated family ego mass) làm cản trở tiến trình trưởng thành của các cá nhân.

Hệ thống quan hệ cảm xúc gia đình tạo nên một cơ cấu tương quan phụ thuộc về mặt cảm xúc giữa các thành viên tuân theo những nguyên tắc tổ chức của gia đình đó. Ở một gia đình hạt nhân, hệ thống cảm xúc được tạo lập bởi người bố và người mẹ (hai người đồng hôn phối) và tính chất của hệ thống đó đặc biệt tương thích với mức độ cá biệt hoá của bản thân hai người này, từ các gia đình gốc của họ. Khi hôn nhân được hình thành giữa hai người có mức độ cá biệt hoá tốt, họ thường sẽ tạo nên một đời sống lứa đôi ổn định.

Khi cả hai người đồng hôn phối có mức độ cá biệt hoá kém, họ dễ trải nghiệm những nỗi lo âu khi tạo lập gia đình riêng của mình. Để giải quyết các vấn đề, họ thường có những phản ứng như: hạn chế sự gần gũi về cảm xúc với người kia, hoặc sẽ có những xung đột trong hôn nhân; sẽ xuất hiện một trong hai người có triệu chứng rối nhiễu hoặc hai người sẽ lôi kéo một người thứ ba vào cuộc để tạo lập một “ quan hệ bộ ba” (triangulation), đó có thể là một đứa con, một người bạn, người tình, bố, mẹ, hoặc một nhà trị liệu tâm lý, nhằm ổn định các căng thẳng trong hôn nhân của họ. Khi “Bộ ba” bị thất bại trong việc giải quyết vấn đề, những nhân tố khác lại được tìm kiếm để hình thành những bộ ba mới…

Các quan hệ bộ ba có thể lập đi lập lại và trở nên rối loạn về chức năng (tức là không giải quyết được vấn đề khó khăn) khi cá nhân thành viên cứ thể hiện kiên định mãi những vai trò một cách rập khuôn (ví dụ: một người mẹ trầm cảm, một người con có hành vi bộc phát, hoặc một người con quá giỏi dang…). Một triệu chứng bệnh lý đôi khi cũng có vai trò như một tác nhân thứ ba trong quan hệ tam giác này. Ví dụ, một cá nhân có thể trở nên nghiện rượu để trốn tránh những đau khổ do đời sống hôn nhân có vấn đề chưa được giải quyết. Và sau đó, chứng nghiện rượu lại càng làm trầm trọng thêm các khó khăn trong hôn nhân.

Một loại quan hệ tay ba thường gặp nhất là giữa bộ ba: bố, mẹ và một đứa con. Đứa trẻ dễ bị tổn thương nhất trong số các con sẽ được lôi kéo vào bộ ba như một đáp ứng với sự rối loạn chức năng trong đời sống hôn nhân (đây gọi là “tiến trình phóng chiếu trong gia đình”: family projection process). Sự phóng chiếu ở đây có ngụ ý nói rằng bố mẹ đã “truyền” sang con mình sự yếu kém trong việc cá biệt hoá bản thân họ từ gia đình gốc của họ. Mức độ phóng chiếu tương ứng với mức độ cá biệt hoá kém của bố mẹ và mức độ khó khăn của các vấn đề bên trong gia đình. Tiến trình phóng chiếu này có thể dẫn đến sự tổn thương đứa trẻ và thậm chí lan sang cả những đứa con khác.

Ngoài ra, sự phát sinh tâm bệnh ở một cá nhân còn có thể liên quan đến “tiến trình truyền lan đa thế hệ” (multigenerational transmission process) trong đó có sự tái diễn của tiến trình phóng chiếu bên trong gia đình và lập đi lập lại các vấn đề xung đột xuyên qua nhiều thế hệ trong gia tộc. Các rối loạn tâm bệnh được coi như là một sản phẩm của lịch sử và phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Cấu trúc cơ bản của liệu pháp.

Liệu pháp kiểu Bowen được áp dụng trong trị liệu các cặp vợ chồng hoặc từng cá nhân người trưởng thành, bởi một nhà trị liệu, có thể tiến hành ngắn hạn hoặc dài hạn, với nhịp độ mỗi tuần một lần hoặc cách khoảng xa hơn. Cặp vợ chồng là trung tâm điểm cơ bản và nhà trị liệu sẽ chỉ rõ việc gia tăng khả năng cá biệt hoá của mỗi người sẽ giúp loại bỏ triệu chứng bệnh lý của một cá nhân thành viên bên trong gia đình. Kết cấu của liệu pháp tương đối chặt chẽ và nhà trị liệu giữ một vai trò tích cực đặt các câu hỏi cho từng người trong cặp vợ chồng, về bản thân họ và các đáp ứng của họ đối với những lời phê bình của người kia.

Xác định mục tiêu.

Mục đích trung tâm của liệu pháp Bowen là giúp thân chủ đạt được mức độ cá biệt hoá tốt từ bên trong gia đình gốc của mình. Mục đích lâu dài này thường được “ẩn giấu” bên trong hợp đồng trị liệu, mặc dù nó hiếm khi đưa ra thảo luận công khai giữa nhà trị liệu và các thành viên gia đình. Tất cả các can thiệp trị liệu đều được thiết kế sao cho đạt đến mục đích này.

Liệu pháp gia đình theo trường phái cấu trúc (Structural Family Therapy )

Trường phái cấu trúc được khởi xướng bởi Salvador Minuchin và các cộng sự Auerswald, Montalvo, Aponte, Haley, Hoffman và Rosman. Mô hình trị liệu được bắt đầu thiết lập từ lúc Minuchin làm việc tại Trung Tâm Hướng Dẫn Trẻ Em Philadelphia, Hoa Kỳ, trị liệu cho các đối tượng tội phạm vị thành niên và các gia đình thuộc giai tầng kinh tế – xã hội thấp, mà chủ yếu là người Mỹ gốc Phi Châu. Loại liệu pháp này được áp dụng trong khi tiếp cận những trẻ em, thiếu niên và gia đình của trẻ, và những trẻ này thường là “bệnh nhân chỉ định”. Nền tảng học thuyết của liệu pháp dựa trên các khái niệm của lý thuyết cấu trúc. Chức năng sống được gọi là “thích nghi” hay “không thích nghi” sẽ được mô tả tuỳ theo kiểu cách tương tác giữa các cá nhân với nhau, cá nhân với gia đình và với môi trường sống xung quanh. Trường phái cấu trúc nêu ra một số khái niệm căn bản liên quan đến cấu trúc gia đình, mô hình giao tiếp, cách thức biểu hiện cảm xúc và cách thức ứng phó, thích nghi khi gia đình trải qua thời điểm chuyển tiếp giữa các giai đoạn phát triển.

Cơ cấu tổ chức (structural organisation): là mô hình quan hệ gia đình, có tính chất đặc thù riêng cho mỗi gia đình, và được điều chỉnh bởi bối cảnh xã hội và các nhiệm vụ phát triển của gia đình.

Mô hình tương tác trong gia đình sẽ cho thấy một số thông tin thu về “các đường biên giới” (boundraies), “hệ thống thứ bậc” (hierarchy), “sự liên kết” (alignment) và “quyền lực” (power) bên trong gia đình.

Các đường biên giới giúp nhận định các tiểu hệ thống và tạo nên những luật lệ cho phép “ai được tham gia” và “tham gia như thế nào” vào các công việc và nhiệm vụ (Miuchin, 1974).

Gia đình là cơ cấu tổ chức có thứ bậc, với cha mẹ là tiểu hệ thống có quyền hành (executive subsystem) đặt vị trí phía trên các con của họ.

Sự liên kết (alignment) nói về khả năng hợp tác với nhau hoặc đối lập nhau giữa thành viên này với thành viên khác trong khi thực hiện một trách vụ (Aponte, 1976). Trong các khái niệm về khả năng liên kết, có các khái niệm về sự “liên minh” như sau:

Coalition

: có nghĩa là sự liên minh ngấm ngầm giữa hai thành viên trong gia đình để chống lại một thành viên thứ ba ( ví dụ: mẹ liên minh với con để chống lại bố …).

Alliance

: cũng có nghĩa là sự liên minh, nhưng là liên minh giữa hai người cùng chia sẻ một quyền lợi chung không chịu sự kiểm soát của người thứ ba.

Quyền lực (power) là tầm ảnh hưởng của một thành viên trong gia đình đối với kết quả của việc thực hiện một công việc (Aponte, 1976).

Các gia đình bị rối loạn chức năng sẽ biểu hiện bởi các trục trặc ở các đường biên giới, ở sự liên kết hoặc “cán cân quyền lực” khiến cho gia đình không có được khả năng đáp ứng thích nghi trước các áp lực và nhu cầu phát triển của đời sống. Gia đình thể hiện sự kém thích nghi khi các thành viên chỉ bám víu một cách kiên định và cứng nhắc vào những cách thức tương tác vốn dĩ quen thuộc. Cách xếp loại các rối loạn chức năng gia đình có thể dựa trên cơ cấu nào bị ảnh hưởng nhiều nhất: các đường biên giới, sự liên kết, hay cán cân quyền lực. Các thuật ngữ như “kết dính” hay “mắc mứu” (enmeshment) và “xa cách” hoặc “không gắn bó” (disengagement) cũng ngụ ý chỉ các cách thức ứng xử không thích nghi về các đường biên giới trong gia đình và phản ánh những thái độ cực đoan trong quan hệ gia đình.

Một mô hình tương tác khác có tính chỉ báo cho sự trục trặc các đường biên giới trong gia đình đó là “sự xâm phạm các đường biên giới chức năng” (violation of function boundraries).

Một ví dụ cổ điển về mô hình này là một thành viên trong gia đình có sự can thiệp quá đáng vào “lãnh địa hoạt động” của các thành viên khác, như một đứa con có vai trò thay thế bố mẹ (parental child) có thể nắm giữ những quyền hành và trách nhiệm lẽ ra là thuộc về bố mẹ.

Các rối loạn chức năng về sự liên kết trong gia đình thường gặp ở các hình thức sau và ít nhất có liên quan đến ba thành viên.

+ Liên minh ổn định (stable coalition) trong đó thường xuyên có hai người nhất trí với nhau chống lại một người thứ ba.

+ Liên minh đường vòng (liên minh nối tắc: detouring coalition). Một khối liên minh đường vòng là kiểu liên minh được tạo lập giữa hai người khi họ đồng ý xem một người thứ ba là nguồn gốc gây ra các vấn đề khó khăn giữa họ với nhau, ví dụ: hai vợ chồng xem đứa con hư hỏng của họ đã tạo ra những vấn đề cho đời sống hôn nhân của họ. Kiểu liên minh này giúp làm giảm bớt áp lực cho cặp vợ chồng và tạo ra sự ấn tượng về sự hoà hợp giữa họ với nhau.

+ Ghép bộ ba (triangulation) xảy ra khi một thành viên trong gia đình (thường là bố hoặc mẹ) đòi hỏi một người thứ ba (điển hình là một đứa trẻ) đứng về phía mình để chống lại người kia. Người thứ ba thường cảm thấy mình ở vào một liên minh bị chia cắt (split alliance), vì cần phải đứng về phía người này để chống lại người thứ ba. Tiến trình này sẽ dẫn đến sự tê liệt về cảm xúc của người thứ ba và có thể khiến người này biểu hiện hành vi rối nhiễu (xuất hiện triệu chứng).

Các rối loạn chức năng gia đình liên quan đến sự phân bố cán cân quyền lực được thể hiện khi một thành viên trong gia đình mất khả năng sử dụng quyền hành của mình để thực thi những vai trò đã được phân công. Ví dụ cổ điển cho trường hợp này là khi có sự suy yếu chức năng của tiểu hệ thống có chức năng “cầm quyền” (executive subsystem ) mà thường là bố mẹ, bị giảm quyền lực cần thiết để hướng dẫn, giáo dục con cái.

Các gia đình bị rối loạn chức năng trên cả ba phương diện (đường biên giới, mối liên kết và cán cân quyền lực) sẽ rơi vào tình trạng vô tổ chức, có khả năng ứng phó kém với đời sống và cứ bám vào cách thức ứng phó quen thuộc

một cách cứng nhắc dù rằng không hiệu quả. Trái lại, một gia đình lành mạnh thường có cấu trúc được phân định rõ ràng, sắp xếp chu đáo, uyển chuyển và đoàn kết. Gia đình lành mạnh cho phép điều chỉnh tốt các chức năng và vai trò của từng thành viên, của các tiểu hệ và của các gia đình.

Cấu trúc cơ bản của liệu pháp.

Trường phái cấu trúc có sự linh hoạt về cách can thiệp, số thành viên trong gia đình tham gia trị liệu, địa điểm, thời gian và nhịp độ tiến hành các phiên trị liệu.

Trong các buổi trị liệu, thay vì tập trung vào nội dung (nói cái gì?), nhà trị liệu thường lưu ý vào các cách thức giao tiếp bằng lời và không lời giữa các thành viên gia đình, vì cách thức này phản ánh cơ cấu của gia đình đó.

Liệu pháp cấu trúc thường được thực hiện bởi một nhà trị liệu. Kết hợp hai nhà trị liệu đồng thời sẽ khó khăn khi áp dụng các kỹ thuật của liệu pháp, gương một chiều (one way mirror) có thể sử dụng với mục đích tái cấu trúc lại gia đình (ví dụ: tách đứa trẻ ra sau gương để trẻ có thể từ bên ngoài quan sát các tương tác của bố mẹ).

Xác định mục đích.

Gia đình thường mong muốn giải quyết các vấn đề hiện tại của “bệnh nhân chỉ định” và thường không quan tâm đến cấu trúc hiện tại của gia đình. Tuy nhiên, nhà trị liệu cần phải khẳng định rằng mục đích trị liệu chỉ có thể đạt được bằng cách tái cấu trúc lại tổ chức đơn vị gia đình để các mô hình tương tác có thể diễn ra một cách thích nghi hơn (restructuring: tái cơ cấu lại tổ chức gia đình).

Một mục đích quan trọng khác là giúp thay đổi cách đánh giá thực tại của gia đình (Minuchin và Fishman, 1981): nhà trị liệu giúp gia đình có thể xem xét, đánh giá vấn đề theo một cách thức khác, sao cho họ có thể phát triển các mối tương giao lành mạnh hơn (reframing: tái định dạng nhận thức).

Tham khảo: Essential Psychotherapies, 1995.

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip

Tags: #tam#tri