17

Hai tuần ở chùa trôi qua như một giấc mộng lửng lơ. Mợ Hai có những đêm giật mình bật dậy gọi tên Đình, rồi có những buổi sáng ngồi bần thần nhìn mái lá rụng xuống, tay lật lật một chiếc khăn rách tưởng chừng chẳng có gì, rồi bật khóc vì "nó giống cái khăn em ấy hay quàng cổ hồi xưa...".

Mỗi ký ức trở lại, mợ đều mừng – rồi mợ lại đau. Mợ tự giận mình sao lại quên. Mợ đập tay vào ngực mà khóc:

– Sao tui nỡ quên một đứa em gái như em...

Đình ngồi cạnh, chỉ nhẹ đặt tay lên bàn tay run rẩy của mợ, nói khẽ:

– Em còn nhớ là được. Nhớ thay mợ cũng được.

Sau đúng hai tuần, khi ánh mắt mợ đã đỡ mờ mịt hơn, khi bước chân đã chắc hơn trên sân chùa, Đình mới nhẹ nhàng dắt mợ trở về nhà cũ. Về để đóng lại những cánh cửa chưa khép.

Trưa hôm đó, ông Hai xuất hiện.

Vẫn là dáng vẻ dẻo miệng và gian xảo, ông mang theo một giỏ quà và gương mặt đầy "hối lỗi".

– Tui tới đón mình về. Dù gì, cũng là vợ chồng mà sống với nhau... Mình thấy đó, thời này đâu phải ai muốn là cưới lại lần nữa được...

Mợ Hai ngồi thẳng dậy, nhìn thẳng vào mắt ông, giọng không cao nhưng sắc như lưỡi dao:

– Tui đã sống lại một lần rồi, ông Hai à. Đâu có ai sống lại mà ngu dại lần hai.

Ông Hai định mở miệng cãi, nhưng Đình đã đứng chắn trước mợ, ánh mắt lạnh băng.

– Đi cho. Căn nhà này không có cửa cho người như ông bước vô nữa.

Ông Hai hậm hực, bỏ đi, còn quay đầu rủa với lại:

– Đồ đàn bà hư thân, ở với người ở dơ bẩn tay chân lắm bùn mà còn hơn sống với chồng!

Nhưng mợ không động lòng. Bàn tay nắm lấy tay Đình siết chặt.

Chỉ hai ngày sau đó, tiếng máy bay o o rền trời. Tin chiến sự áp sát, dân làng bắt đầu gói ghém đồ đạc, bỏ chạy theo từng tốp.

Cả làng xôn xao. Ông Tuấn dặn người ở lại giữ nhà, còn mình đưa má về quê xa. Nhưng trong đêm ấy, Đình nghe tiếng lính đập cửa từng nhà. Có người trong làng báo rằng "nhà cũ của Hội đồng Sính có người từng dính líu đến Việt Minh".

Đình kéo tay mợ:

– Mợ, mình đi. Giờ, ngay giờ này.

Không kịp thu dọn gì, họ trốn qua lối bờ rào sau vườn chuối, chạy băng qua bãi ruộng ngập nước, chân dính bùn nhưng không dám dừng lại.

Giữa buổi trưa nắng gắt, khi họ trốn trong bụi rậm ngoài biên làng, pháo bỗng nổ ầm ầm, đất dưới chân rung bần bật. Một quả pháo rơi gần đó, mợ đẩy Đình xuống và che lên người em, nhưng một mảnh đạn nhỏ sượt qua vai mợ.

Đình gào lên:

– Mợ! Mợ đừng ngủ! Mợ nhìn em đi!

– Em... đừng khóc... đừng để tui... làm em sợ nữa...

Mợ ngất đi. Vân tưởng như thế giới của mình cũng vừa đổ sập.

Bỗng có tiếng người gọi:

– Có người bị thương! Mau đưa lên cáng!

Một đội lính y tế đi qua, dẫn đầu là một chú lính trẻ tên Nỗ, chỉ chừng mười chín, hai mươi. Anh nhẹ nhàng bế mợ lên, nói:

– Đừng lo. Tụi tui sẽ đưa chị ấy về trạm gác bên kia rừng.

Đình nắm tay mợ, vừa chạy theo vừa lí nhí:

– Cảm ơn anh... cảm ơn anh...

Đế Nỗ quay lại, ánh mắt hiền mà ấm.

– Đừng khóc. Có tui ở đây rồi.

Tối hôm đó, khi mợ được băng bó và nghỉ ngơi tạm trong một lán nhỏ gần khu vực yểm trợ, Nỗ mang tới cho Đình một bát cháo nóng. Anh không nói nhiều, chỉ ngồi bên cạnh canh lửa, lén đưa mắt nhìn cô gái áo nâu đã ướt đẫm nước mắt suốt ngày hôm nay.

Đình chẳng để ý. Trong đầu cô, chỉ có hình ảnh mợ Hai – người vì cô mà không ngại cả bom đạn.

Còn trong đầu chàng lính trẻ kia, đã bắt đầu in một cái bóng dịu dàng, kiên cường như sương sớm – tên là Mẫn Đình.

"Có người thương em đến độ, từng ôm em né pháo.
Cũng có người thương em âm thầm... chỉ mong được một lần gánh thay em một giấc ngủ bình yên."
– Trích nhật ký Lý Đế Nỗ -

Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip