A - Anxiety
Trước khi kể chuyện cho mọi người nghe, tôi phải nói thật cho mọi người biết rằng: gia đình tôi chỉ đủ ăn chứ không giàu có gì. Bố mẹ tôi là kiểu người không bao giờ đánh con, nhưng sẽ chửi tôi te tua nếu tôi mở mồm ra đòi mua một đôi sneakers trên năm trăm nghìn. Tôi cũng nói luôn, tôi không phải kiểu thiếu nữ mà mắt bồ câu, môi trái tim, mũi dọc dừa, chân mày lá liễu vân vân mây mây. Vâng, tôi biết là nhân vật chính trong truyện giải trí viết cho thanh thiếu niên thì tiêu chuẩn cao lắm, và tôi thì thật nhạt nhẽo biết bao! Nhưng biết làm sao được: tôi không thích nói dối, không thích tô vẽ. Mặc dù đứng trên cương vị của một người viết truyện, tôi có thể chém gió mà không sợ trời đánh rằng trong mạch máu của tôi có dòng giống hoàng tộc bên châu Âu, là người thừa kế duy nhất của chủ tịch tập đoàn đá quý lớn nhất địa cầu, là bang chủ xã hội đen tinh thông mọi loại quyền thuật, là nữ phù thủy có sức mạnh vô song, là chân nhân bất lộ tướng, và hầm bà lằng những thứ mà các tác giả khác dùng để tự sướng trong lúc viết truyện. Tôi không làm thế, vì tôi không thích làm những chuyện mà ngẫm ra chẳng đem lại tí lợi ích thiết thực nào.
Như tôi vừa nói, thì tôi là người hoàn toàn bình thường. Tôi không có gì nổi bật giữa đám đông.
Tôi là Nguyễn Thu Hương. Thấy không? Giữa cái thành phố một mét vuông bốn người họ Nguyễn, tôi là một người họ Nguyễn. Ngay cả cái tên tôi cũng quá là phổ biến. Thậm chí hồi tôi học lớp Sáu, lớp tôi có tới ba đứa tên là Nguyễn Thu Hương, được đánh thứ tự Nguyễn Thu Hương A, Nguyễn Thu Hương B, Nguyễn Thu Hương C. Và tôi, tôi là Nguyễn Thu Hương B – một vị trí không có gì đặc biệt.
Tôi luôn nghĩ rằng cả cuộc đời mình sẽ không có gì quá mức đặc sắc cả. Ngay cả khi tôi bị cận và phải đeo kính. Ban đầu thì bố mẹ tôi còn kêu trời kêu đất, như thể tôi sắp bị mù đến nơi và phải cầm cái đĩa với mấy đồng tiền ra cổng chợ hoặc sân chùa để xem bói. Sau đấy thì họ cũng quen đi, vì trẻ con càng ngày cận thị càng nhiều. Suy cho cùng thì con gái họ cũng chỉ là người, chứ chưa mọc ra thêm hai cái tai hay ba con mắt.
Rồi đến lúc bố mẹ tôi ly hôn, tôi cũng cho rằng ừ thì đời mình nó phải như thế. Bố mẹ mình không yêu nhau nữa không có nghĩa là họ không yêu mình nữa. Không phải đứa nào có bố mẹ ly hôn cũng gia nhập đội ngũ bán kẹo cao su, bông ngoáy tai và bấm móng tay ở bến xe hay bờ hồ. Đó là một chuyện không vui vẻ gì, một thay đổi lớn trong sinh hoạt cũng như trong suy nghĩ của tôi, nhưng suy cho cùng người có bố mẹ ly hôn vẫn rất nhiều. Tôi không có việc gì phải lo. Nếu có gì khiến tôi lo, thì chắc là cái chết. Nhưng tôi cũng chưa phải lo tới chuyện chết, vì từ trước đến nay chẳng có chuyện gì khiến tôi chết cả. Người xung quanh tôi chết rất nhiều, cơ mà họ chết theo đúng quy luật tư nhiên: sinh – lão – bệnh – tử.
Trừ một người.
Năm đó tôi còn đang học mẫu giáo.
Những năm đầu của thế kỷ hai mốt, khi nhắc đến ma túy, người ta chỉ nghĩ tới heroin, đến hút hít, đến tiêm chích. Trong suy nghĩ của phần lớn người dân thời đó, nghiện là chết. Ngày nay, người nghiện ma túy được coi là người bệnh và việc cai nghiện không còn là việc bắt buộc. Thời đó thì khác. Nghiện là phải đi cai. Nghiện là sẽ bị nhiễm HIV. Chính những người sợ hãi HIV/AIDS cũng không hiểu HIV/AIDS là như thế nào. Panel, affiche, báo chí và hầm bà lằng những thông tin khác khiến người ta sợ HIV/AIDS như sợ tà. Tôi vẫn còn nhớ mỗi khi nhìn thấy một cái panel vẽ hình người nghiện ma túy gầy đến độ lộ ra đủ hai trăm linh sáu cái xương, xung quanh ngổn ngang giấy bạc và kim tiêm thì toàn thân nổi đầy gai ốc. Ôi! Cái thời mà mẹ tôi vứt đi một cái bấm móng tay vì chú Thanh – một người bạn của bố tôi qua chơi và hồn nhiên dùng nó để sửa sang lại bộ vuốt đen thui thùi lùi những đất cát của chú. Nguyên nhân: chú Thanh từng nghiện ma túy, và mẹ tôi tin rằng “dùng chung bấm móng tay với thằng nghiện sẽ bị siđa”.
Trường mẫu giáo của tôi nằm trong một cái ngõ. Thú thực, đến bây giờ tôi cũng chẳng nhớ cái ngõ đấy nằm ở chỗ nào, mà tôi cũng chẳng muốn nhớ vì tôi thấy phát khiếp lên được cái trò dán băng dính vào mồm trẻ con rồi nhốt chúng nó vào nhà kho cả buổi trưa. Nếu có gì đáng sợ hơn các cô giáo như mẹ ghẻ, thì chắc là đống kim tiêm nằm ở hai bên đường.
Tôi chẳng nhớ nổi những lời mẹ dặn, trừ câu “Cẩn thận không dẫm vào kim tiêm”. Chắc bởi vì mẹ tôi dặn cái đó còn nhiều hơn cả dặn không được đi theo người lạ kẻo sẽ bị bán qua biên giới. Dù chưa nhận thức được việc dẫm vào kim tiêm và nhiễm HIV/AIDS có liên quan gì với nhau, tôi vẫn nghe lời mẹ răm rắp.
Tuy nhiên không có đứa trẻ nào giống đứa trẻ nào. Có một đứa đã bất cẩn dẫm phải kim tiêm.
Tôi chẳng nhớ tên nó là gì. Tôi chỉ biết nó là thằng Cò – một cái biệt danh hết sức phổ biến. Trẻ con nếu không phải Cò thì sẽ là Cún, nếu không phải Cún thì sẽ là Bống, là Bi, là Chíp, là Tít Mít Tí Tèo. Tất cả mọi người đều gọi nó là thằng Cò, kể cả các cô giáo ở lớp cũng gọi nó là Cò.
Mặc dù không biết tên thật của nó, nhưng tôi rất ấn tượng với thằng Cò vì nó là đứa bẩn nhất trong số những đứa trẻ trong lớp. Mũi dãi thằng Cò lúc nào cũng thò lò, chảy ròng ròng xuống cái khăn xô buộc ở cổ mà hình như không bao giờ đem giặt, bởi hôm nào tôi cũng thấy nó dùng cái khăn đó. Nước mũi của thằng Cò thường xuyên chảy vào trong bát cháo, bát cơm, bát súp, tạo thành một đốm xanh lá cây khiến những đứa khác ngồi ăn cùng sợ màu xanh lá đến suốt đời. Chưa hết. Thằng Cò sẽ lấy thìa khuấy khuấy theo cái cách mụ phù thủy khuấy cái vạc chế thuốc độc và hấp! Đứa nào không nhanh tay giấu cái bát đi sẽ bị Cò xúc một thìa đổ vào bát mình.
Thằng Cò là một đứa có thể coi là xấu tính, nếu xấu tính được định nghĩa là “âm mưu cho các bạn ăn nước mũi của mình”. Tuy nó xấu tính, nhưng chẳng đời nào tôi muốn nó chết. Vì muốn người khác chết không phải là xấu tính mà là độc ác.
Một ngày nọ tôi không thấy thằng Cò đến lớp. Đối với năm đứa khác ngồi ăn cùng với nó, trong đó có tôi, thì sự vắng mặt của Cò trong bữa trưa là một điều may mắn. Chúng tôi có thể trải qua bữa trưa trong yên bình, không phải lo giấu bát cơm ra sau lưng để tránh sự đổ vấy nước mũi.
Hôm đó, tôi về nhà và được mẹ dặn là không được sang nhà thằng Cò chơi. Chẳng cần mẹ dặn tôi cũng không bao giờ mò qua nhà đứa nào chứ đừng nói là nhà thằng Cò. Muốn chơi thì đứng ở ngoài cửa, réo tên nhau ầm ĩ bất kể ngày đêm sáng tối cho đến khi cái đứa được gọi thò đầu ra thì thôi. Bọn trẻ con trong xóm cũng được dặn y như thế: đừng có sang nhà thằng Cò, đừng có chơi với thằng Cò. “Thằng Cò” trở thành từ khóa cấm kỵ trong xóm. Mặc dù bà nội nó cứ bảo là nó bị ốm xoàng thôi, nhưng tin đồn cứ lan mãi ra. Sau một ngày, mọi người đều biết thằng Cò bị ngã trước cổng trường và một cái kim tiêm đã đâm vào cổ nó. Sáng hôm đó, bố mẹ thằng Cò tức tốc đem con đi bệnh viện, không kịp xin nghỉ học.
Thằng Cò không đi học trong nhiều ngày. Nó ở lì trong nhà. Và nhà nó, lạ làm sao, không hề phát ra tiếng động nào. Tôi nghĩ là nó ốm đến độ không tài nào phá phách được như mọi ngày. Có thể Cò đã bị cái bệnh mà mẹ tôi gọi là bệnh siđa. Có thể Cò đã ốm đến mức gầy trơ xương ra giống như cái người trên panel “Hãy tránh xa ma túy”. Có thể căn bệnh đáng sợ kia khiến Cò nằm chết bẹp như con gián trong nhà như cái lần tôi bị sốt virus. Có thể, có thể và có thể. Lũ trẻ con chúng tôi không biết HIV/AIDS là bệnh như thế nào. Tôi – đứa duy nhất biết đọc trong đám, lại không được phép đọc báo của bố mẹ. Thế là chúng tôi hóa thành lũ mù thông tin.
Bọn trẻ con chúng tôi gần như quên đi sự hiện diện của thằng Cò cho đến ngày một chiếc xe cấp cứu dừng ở đầu ngõ. Thằng Cò được đưa đi, mẹ nó chạy đằng sau, tay cầm cái chăn của con. Tôi không hề nhìn thấy thằng Cò, chỉ thấy người ta dùng cáng khiêng nó đi, bên trên phủ một lớp vải trắng nhìn không khác gì khiêng một xác chết.
Thật ra cũng không phải màu trắng. Chỗ mà tôi đoán là cái đầu của thằng Cò dính đầy máu. Chỉ có đồ ngu đần mới không biết thứ chất lỏng màu đỏ loang lổ đó là máu. Ngay cả cái chăn mà mẹ thằng Cò cầm, vốn dĩ có màu vàng cũng chuyển thành màu đỏ. Máu dính trên chăn nhiều đến mức tôi đoán rằng thằng Cò đã bị lột sạch da và bị bọc trong cái chăn ấy như cái cách người ta làm bánh cuốn nhân thịt. Bỗng một cánh tay của thằng Cò buông thõng, chuồi ra ngoài. Khó có thể tưởng tượng được đó là tay người, vì nó có màu xanh lá cây, kiểu màu xanh thối rữa bệnh tật với vô số lỗ như thể bị một thứ côn trùng khổng lồ làm tổ bên trong. Chợt cánh tay thằng Cò rơi bộp xuống đất. Cái tay đó, và có khi là thằng Cò nữa, đã chết. Xanh lè, lở loét và nằm ngay đơ.
Đó là lần cuối cùng tôi thấy thằng Cò.
Mãi cho tới sau này tôi mới biết thứ mà thằng Cò mắc không phải là HIV/AIDS. Có trời mới biết nó bị bệnh gì. Tôi đã thử tra cứu nhiều nguồn: sách vở, báo chí, các nghiên cứu mà vẫn không tìm ra câu trả lời. Nhưng tôi tin rằng có người biết. Bởi vì họ biết, nên ngôi nhà của thằng Cò đã bốc cháy sau khi nó được đem đến bệnh viện một ngày.
Thời gian trôi qua, chôn vùi những ký ức về một người bạn và cũng xóa mờ dần những thành kiến sai lầm về HIV/AIDS. Dù y học đã tiến bộ đến mức người có H ngày nay, nếu uống thuốc đều đặn, sẽ có thể sống cuộc sống chẳng khác gì một người khỏe mạnh, nỗi kinh sợ căn bệnh thế kỷ vẫn thường trực. Tôi cũng sợ. Vì tôi cũng chỉ là một con người tham sống sợ chết như bao người khác. Chỉ có điều, mỗi khi nhớ lại cái ngày nhà thằng Cò bốc cháy, nghe những tiếng người la hét trước khi họ im bặt vì ngạt khói mà chết, tôi hiểu rằng HIV/AIDS không phải là thứ đáng sợ nhất trên thế giới này.
Bạn đang đọc truyện trên: TruyenTop.Vip